Vợ chồng Lục Lập Đỉnh nghe gọi, từ trong nhà chạy ra, thấy hai đứa trẻ bị thương, lại thấy một phụ nữ trung niên từ chái nhà phía tây chạy ra, chắc là ngươi xin ngủ nhờ. Chỉ thấy người ấy bế Lục Vô Song vào trong sảnh, không lo cầm máu trước cho cậu bé, mà lại nắn chỗ xương gãy cho Lục Vô Song. Lục nhị nương lấy chiếc khăn tay băng trán cho cậu bé, rồi lại bên xem vết thương của con gái.
Người thiếu phụ kia điểm huyệt Bạnh Hải ở phía trong cái chân bị gãy và huyệt Ủy Trung ở sau đầu gối để giảm đau cho Lục Vô Song, hai tay thiếu phụ nắn nắn hai bên chỗ xương gãy để chuẩn bị bó kẹp lại. Lục Lập Đỉnh thấy động tác của bà ta lanh lẹ, điểm huyệt thành thạo, thì lòng đầy nghi vấn, hỏi:
- Đại nương là ai, quang lâm tệ trang có gì chỉ giáo chăng?
Người thiếu phụ ấy chỉ chăm chú tiếp cốt cho Lục Vô Song, ậm ậm ừ ừ, không trả lời.
Đúng lúc đó, trên mái nhà bỗng có tiếng cười ha hả, rồi một giọng nữ nói:
- Chỉ tính mấy mạng chín người trong Lục gia trang, những kẻ còn lại hãy mau mau rời khỏi đây.
Ngươi thiếu phụ đang nắn xương nghe tiếng nói trên mái nhà, giật mình, bất giác bóp hai tay một cái, “cạch” một tiếng nhẹ, Lục Vô Song đau quá kêu tướng lên, lại ngất đi.
Mấy người cùng ngẩng đầu, chỉ thấy cạnh mái hiên có một đạo cô trẻ, ánh trăng chiếu vào khuôn mặt, trông nàng ta trạc mười lăm mười sáu tuổi, sau lưng giắt thanh trường kiếm, kiếm luyện huyết hồng, phát tiếng kêu u u trong gió. Lục Lập Đỉnh nói to:
- Tại hạ Lục Lập Đỉnh, người có phải là môn hạ của Lý tiên cô?
Tiểu đạo cô nhếch mép, nói:
- Ngươi biết thế thì tốt! Ngươi hãy mau giết hết vợ con, nô bộc, rồi tự vẫn, để ta đỡ phí thêm chút sức lực.
Lời này nói ra nhơn nhơn thong thả, thật không còn coi đối phương ra gì.
Lục Lập Đỉnh nghe mấy câu đó thì sợ phát run, nói:
- Ngươi… ngươi…
Nhất thời chưa biết ứng phó thế nào, cũng định nhảy lên mái nhà liều mạng một phen, nhưng nghĩ đối phương còn nhỏ tuổi, lại là nữ giới, thật không tiện động thủ; chàng đang trù trừ, bỗng thấy có người vút qua bên cạnh, chính là thiếu phụ qua đường xin ngủ nhờ, tay cầm trường kiếm, phi thân lên mái nhà tỉ thí với tiểu đạo cô.
Thiếu phụ mặc bộ quần áo màu tro, tiểu đạo cô mặc bộ đạo bào màu hoàng hạnh, dưới ánh trăng chỉ thấy hai vệt màu xám màu vàng bay lượn kèm theo ba đạo hàn quang, đôi lúc phát ra tiếng binh khí chạm nhau. Lục Lập Đỉnh được huynh trưởng truyền dạy võ công, tuy chưa từng giao đấu với kẻ địch, nhưng nhãn quang của chàng cũng khá, có thể nhận biết rõ ràng kiếm chiêu của hai người. Thấy thanh trường kiếm trong tay tiểu đạo cô chợt thủ chợt công, đang công trở về thủ, kiếm pháp vô cùng lợi hại. Thiếu phụ thì ngưng thần đối phó, nhằm chỗ sơ hở của đối thủ mà xuất chiêu. Bỗng nghe “keng” một tiếng, hai kiếm chạm nhau, thanh trường kiếm của tiểu đạo cô văng lên trời, nàng ta vội lùi ra sau, nói:
- Ta phụng mệnh tới giết cả nhà họ Lục, ngươi là ai mà lại đến đây lo chuyện bao đồng?
Thiếu phụ cười khẩy nói:
- Sư phụ ngươi có giỏi thì phải sớm tìm Lục Triển Nguyên mà tính sổ, nay thừa biết Lục Triển Nguyên đã chết, lại đến tìm người khác để trút giận mà không biết ngượng hay sao?
Tiểu đạo cô vung tay phải, ba chiếc ngân châm bay đi, hai chiếc nhắm vào thiếu phụ, chiếc thứ ba phóng xuống Lục Lập Đỉnh đang đứng dưới sân. Không ai ngờ việc đó, thiếu phụ vung kiếm gạt, Lục Lập Đỉnh thì giơ hai ngón tay kẹp được chiếc ngân châm.
Tiểu đạo cô cười nhạt, nhảy xuống đất, chỉ nghe tiếng chân chạy như bay như biến. Thiếu phụ trở xuống thấy Lục Lập Đỉnh tay cầm chiếc ngân châm, vội nói:
- Mau ném đi!
Lục Lập Đỉnh y lời làm theo. Thiếu phụ dùng kiếm cắt một phần vạt áo của mình, buộc chặt cổ tay phải của Lục Lập Đỉnh.
Lục Lập Đỉnh giật mình, hỏi:
- Ngân châm tẩm độc ư?
Thiếu phụ đáp:
- Là chất cực độc đó!
Rồi lấy một viên thuốc đưa cho Lục Lập Đỉnh bảo nuốt ngay. Lục Lập Đỉnh cảm thấy hai ngón trỏ và giữa tê dại, sưng phù lên. Thiếu phụ bèn dùng mũi kiếm nhể vào đầu hai ngón tay ấy, máu đen nhỏ ra từng giọt từng giọt. Lục Lập Đỉnh cả sợ nghĩ thầm: “Ngón tay ta chưa bị sây sát, ta chỉ kẹp chiếc ngân châm mà còn nhiễm độc như thế, nếu để chiếc ngân châm đâm vào người thử hỏi còn gì mạng sống?” Bèn thi lễ với người thiếu phụ, nói:
- Tại hạ có mắt không thấy Thái Sơn, xin mạo muội thỉnh vấn quý tính đại danh.
Thiếu phụ nói:
- Quan nhân nhà tiểu phụ nhân họ Võ, là Võ Tam Thông.
Lục Lập Đỉnh giật mình, nói:
- Thì ra là Võ tam nương. Nghe kể Võ tiền bối là môn hạ của Nhất Đăng đại sư ở Vân Nam Đại Lý, có phải vậy chăng?
Võ tam nương đáp:
- Chính thế, Nhất Đăng đại sư là sư phụ của quan nhân nhà tiểu phụ nhân. Tiểu phụ nhân học được chút võ nghệ thô thiển, thật là múa rìu qua mắt thợ, làm trò cười cho Lục gia.
Lục Lập Đỉnh rối rít đa tạ ân đức. Chàng từng nghe huynh trưởng kể rằng bình sinh các cao thủ võ học phải kể trước hết môn đệ của Nhất Đăng đại sư. Nhất Đăng đại sư vốn là quốc quân của nước Đại Lý, sau khi rời ngôi đi tu, có bốn đại đệ tử “Ngư Tiều Canh Độc” theo hầu, trong đó nông phu(1.3) chính là Võ Tam Thông, là người có hiềm khích với huynh trưởng, nhưng còn việc kết oán thế nào, thì huynh trưởng không nói rõ. Nay Võ tam nương đã không coi chàng như kẻ địch, lại còn ra tay đánh đuổi đệ tử của “Xích Luyện tiên tử,” duyên do vì sao thật là khó hiểu. Mấy người trở vào sảnh đường. Lục Lập Đỉnh ôm nữ nhi vào lòng, thấy nó đã tỉnh lại, sắc mặt nhợt nhạt, nhưng cố nhịn đau không khóc, thì chàng bất giác thấy thương nó quá. Võ tam nương thở dài, nói:
- Đệ tử của nữ ma đầu kia chạy đi rồi, thì mụ ta sẽ thân chinh đến ngay. Lục gia, không phải là tiểu phụ nhân này coi thường Lục gia, nhưng hai vị dẫu có tiểu phụ nhân trợ giúp, cũng không tài nào địch nổi mụ ta. Song tiểu phụ nhân nghĩ rằng có bỏ chạy cũng vô ích, chi bằng đành phó mặc ý trời, chúng ta cứ chờ mụ ta đến vậy!
Lục nhị nương hỏi:
- Mụ ma đầu ấy rốt cuộc có thâm cừu đại oán gì với nhà chúng tôi vậy?
Võ tam nương nhìn Lục Lập Đỉnh một cái, nói:
- Không lẽ Lục gia chưa kể cho phu nhân biết hay sao?
Lục nhị nương đáp:
- Phu quân bảo chỉ biết việc này có liên quan đến huynh tẩu của chàng, còn chuyện mắc mứu tình ái thế nào, chàng cũng không rõ lắm!
Võ tam nương lại thở dài, nói:
- Thế cũng phải! Tiểu phụ nhân là người ngoài, có nói cũng không sao. Lệnh huynh Lục Triển Nguyên mười năm trước từng qua Đại Lý. Thời ấy “Xích Luyện tiên tử” Lý Mạc Sầu, người mà ngày nay võ lâm nghe nhắc tới đã kinh hồn táng đởm, còn là một thiếu nữ xinh đẹp dịu dàng, chưa hề xuất gia. Cũng là oan nghiệt từ kiếp trước, sau khi Lý Mạc Sầu gặp lệnh huynh, đôi bên nảy nở ái tình. Sau đó trải qua nhiều biến cố tranh chấp, lệnh huynh lại thành hôn với lệnh tẩu Hà Nguyên Quân. Nói đến lệnh tẩu không thể không nhắc tới chuyết phu.(1.4) Chuyện này kể ra thật ngượng, nhưng hôm nay tình thế quẫn bách, tiểu phụ nhân này đành nói ra vậy. Lệnh tẩu Hà Nguyên Quản vốn là nghĩa nữ của phu phụ tiểu phụ nhân.
Hai vợ chồng Lục Lập Đỉnh cùng ồ lên. Võ tam nương xoa nhẹ vai cậu bé bị thương nhìn ngọn nến, nói:
- Lệnh tẩu Hà Nguyên Quân cô khổ từ nhỏ, phu phụ tiểu phụ nhân đem về nhà nuôi dưỡng, nhận làm nghĩa nữ, vô cùng yêu thương. Sau Hà Nguyên Quân quen biết lệnh huynh, đôi bên tình đầu ý hợp, muốn kết thành phu phụ. Chuyết phu một là không muốn gả chồng xa, hai là tính tình cố chấp, bảo người Giang Nam gian trá giảo hoạt, hoàn toàn không đáng tin cậy, bởi vậy nhất quyết không cho phép. Hà Nguyên Quân bèn trốn nhà đi theo lệnh huynh. Đúng ngày thành hôn, chuyết phu và Lý Mạc Sầu cùng tới gây chuyện với cặp vợ chồng tân hôn. Tại tiệc cưới có một vị cao tăng chùa Thiên Long ở Đại Lý đã ra tay ngăn chặn, buộc hai người phải nể mặt, để cho đôi vợ chồng tân hôn được sống bình yên trong mười năm. Chuyết phu và Lý Mạc Sầu bấy giờ đành phải hứa nội trong mười năm không gây khó dễ với hai vợ chồng họ. Chuyết phu sau đó phẫn uất quá, hóa thành người điên điên khùng khùng, bất kể bạn hữu và tiểu phụ nhân này khuyên can thế nào, cũng không nguôi ngoai, cứ tính từng ngày. Hôm nay chính là hết hạn mười năm, ai ngờ lệnh huynh và lệnh tẩu đã… Ôi hạnh phúc mười năm cũng chưa được hưởng trọn. Nói đoạn cúi đầu, vẻ buồn bã.
Lục Lập Đỉnh nói:
- Như thế, kẻ đào mồ lấy di thể của huynh tẩu ta chính là tôn phu.
Võ tam nương cả thẹn, nói:
- Vừa rồi nghe hai tiểu thư trong phủ kể, thì đúng là chuyết phu rồi.
Lục Lập Đỉnh cao giọng:
- Hành động của tôn phu thật quá ư sai trái. Thù oán đâu có gì ghê gớm, huống hồ huynh tẩu của ta đã chết, dẫu có thâm cừu đại oán, kể như cũng xóa sạch, đằng này lại đi đào bới mộ phần, lấy mất di thể, như vậy đâu phải là anh hùng hảo hán?
Luận về vai vế, vợ chồng họ Võ là bề trên, nhưng Lục Lập Đỉnh trong lúc tức giận, nói năng bất chấp tôn ti. Võ tam nương thở dài:
- Lục gia trách cứ cũng phải, chuyết phu tâm trí thất thường, lời lẽ cử chỉ thường không có tình có lý gì cả. Hôm nay tiểu phụ nhân mang hai con nhỏ tới đây là để phòng chuyết phu ở đây quậy phá. Trên đời này, e rằng chuyết phu chỉ còn nể đôi chút một mình tiểu phụ nhân nữa thôi.
Đoạn quay sang bảo hai đứa con.
- Các ngươi hãy khấu đầu thay phụ thân các ngươi tạ tội với Lục gia và Lục nhị nương đi.
Hai cậu bé sụp xuống lạy.
Lục nhị nương vội đưa tay đỡ dậy, hỏi tên. Cậu bé bị thương vào trán tên là Võ Đôn Nhu, là anh, còn cậu em tên là Võ Tu Văn. Hai anh em hơn kém nhau một tuổi, đứa mười hai, đứa mười một. Hai người con của danh gia võ học lại đều mang cái tên văn chương nho nhã. Võ Tam nương nói, hai vợ chồng bà đứng tuổi mới có con, thấm thía sự hiểm ác trong võ lâm, cho nên chỉ mong các con bỏ võ theo văn, song hai đứa con trai của họ vẫn cứ thích võ, chẳng hợp với cái tên của chúng chút nào.
Võ tam nương kể xong, lại buồn bã thở dài, nghĩ thầm chuyện này chỉ nên dừng ở đây, phần tiếp theo chẳng nên kể cho người ngoài biết. Vốn khi Hà Nguyên Quân mười bảy mười tám tuổi, thì đẹp như tiên nữ, kiều mị khả ái, Võ Tam Thông đối với nàng tựa hồ không đơn thuần chỉ có tình nghĩa phụ nghĩa nữ. Do thân phận hào hiệp trong võ lâm, Võ Tam Thông không thể cho phép mình có cử chỉ lời lẽ vượt quá giới hạn, tâm sự cứ uất kết lại, đột nhiên thấy nàng phải lòng một chàng trai Giang Nam, thì không kìm được cơn cuồng nộ. Còn về câu nói “Dân Giang Nam gian trá giảo hoạt, hoàn toàn không đáng tin cậy” thì ngoài cái ý chê bai ý trung nhân của Hà Nguyên Quân ra, Võ Tam Thông còn từng bị Hoàng Dung đánh lừa, tuy sau đấy hòa giải với Hoàng Dung, Quách Tĩnh song cái ý nghĩ “Dân Giang Nam gian trá giảo hoạt” đã hằn sâu trong tâm trí Võ Tam Thông.
Võ tam nương nói:
- Nào ngờ chuyết phu không đến, “Xích Luyện tiên tử” đã tới phủ này tìm cách báo thù.
Vừa nói đến đây, bỗng nghe trên mái nhà có tiếng gọi:
- Nhu nhi, Văn nhi, ra đây ta bảo!
Tiếng gọi đột nhiên vang lên, trước đó không hề nghe thấy tiếng chân giẫm trên mái ngói, hai vợ chồng Lục Lập Đỉnh cùng giật mình, biết là Võ Tam Thông tới. Trình Anh và Lục Vô Song cũng nhận ra giọng nói của lão quái khách nhai gương sen.
Chỉ thấy một bóng người lướt qua. Võ Tam Thông từ trên mái nhà bay xuống, mỗi tay kẹp một đứa con lại phi thân lên mái nhà. Võ Tam nương kêu to:
- Này, này, tướng công hãy nói qua với Lục gia và Lục nhị nương, tướng công đã mang hai bộ di thể đi đâu thế? Hãy mau mang trả lại.
Võ Tam Thông chẳng buồn ngoái đầu, đã mất hút đằng xa.
Lão chạy loạn một hồi, chạy vào một cánh rừng, đột nhiên bỏ Võ Tu Văn xuống, chỉ cắp Đôn Nhu mà chạy đi mất tăm. Rốt cuộc lão bỏ một đứa con ở giữa rừng.
Võ Tu Văn gọi to:
- Cha ơi, cha ơi!
Cậu bé thấy phụ thân cắp ca ca chạy xa đã mấy chục trượng, chỉ nghe tiếng lão từ xa văng vẳng:
- Ngươi cứ đợi đó, ta sẽ trở lại ẵm ngươi.
Võ Tu Văn biết cha mình hành sự khi mê khi tỉnh, điên điên khùng khùng, nên cũng chẳng lấy làm lạ. Đêm tối một mình ở trong rừng kể cũng sợ, nhưng nghĩ cha sắp trở lại đón mình, nó bèn ngồi xuống một gốc cây chờ. Chờ lâu lắm rồi, vẫn không thấy cha quay lại, nó tự nhủ “Mình đi tìm mẹ thôi.” Thế là nó lần ngược lại đường tới đây.
Nhưng đường sá ở miền Giang Nam dọc ngang chằng chịt giữa ban ngày còn khó nhận biết, nữa là trong đêm tối. Cậu bé càng đi đường càng hẹp, đã mấy lần bước cả xuống ruộng, hai chân dính đầy bùn, cuối cùng lại tiến vào một cánh rừng, bước cao bước thấp, nhìn bốn phía toàn một màu đen mịt mùng. Nó lo sợ phát khóc, miệng gọi to:
- Cha ơi, cha! Mẹ ơi, mẹ!…
Đêm thanh vắng, nào có ai đáp lời? Chợt nghe có mấy tiếng kêu, ấy là tiếng cú rúc. Cậu bé từng nghe kể rằng loài cú rất thích đếm số lông mày của con người, ai mà bị nó đếm đúng lông mày có bao nhiêu sợi, người ấy sẽ chết liền. Nó bèn đưa đầu ngón tay vào miệng nhúng nước bọt, bôi lên lông mày cho dính vào nhau, để con cú không đếm được.Nhưng tiếng cú cứ kêu mãi, cậu bé bèn tựa vào thân cây, dùng các ngón tay bịt chặt hai hàng lông mày, không dám động đậy, trống ngực cứ đập dồn. Một lát sau thì nó díp mắt lại, ngủ thiếp đi. Ngủ đến sáng hôm sau đang mơ màng thì nghe có mấy tiếng kêu lanh lảnh. Võ Tu Văn mở mắt ra, ngẩng mặt nhìn lên, thấy có hai con chim ưng cực lớn dang rộng cánh bay lượn trên bầu trời. Sải cánh của chim phải tới mấy trượng. Từ nhỏ nó chưa từng thấy có con chim ưng nào lớn ngần này, nó chăm chú ngắm, vừa lạ vừa thích quên rằng nó chỉ có một mình, tưởng ca ca nó vẫn ở bên cạnh buột miệng gọi:
- Ca ca, mau đến xem chim ưng này!
Bỗng nghe phía sau lưng có hai tiếng hú rất trong, là tiếng của một cô bé. Hai con chim ưng lớn lượn vòng rồi từ từ sà xuống. Võ Tu Văn ngoảnh đầu nhìn lại, thấy một cô bé từ sau thân cây bước ra, giơ tay lên trời vẫy vẫy. Hai con chim ưng cụp cánh đậu xuống ngay bên cạnh. Cô bé nhìn Võ Tu Văn, hai tay vuốt lưng hai con chim ưng, nói:
- Điêu nhi giỏi, điêu nhi ngoan lắm!
Võ Tu Văn nghĩ thầm: “Thì ra hai con chim ưng này là Điêu nhi đây,” chỉ thấy hai con chim ưng nghển cổ, đậu dưới đất mà còn cao hơn cô bé, trông rất hùng dũng.
Võ Tu Văn bước tới gần, nói:
- Hai con điêu nhi này nhà bé nuôi phải không?
Cô bé nhếch mép có vẻ xem thường nói:
- Đây không biết đằng ấy, không chơi với đằng ấy.
Võ Tu Văn cũng chẳng giận, giơ tay vuốt lưng con điêu nhi. Cô bé bỗng huýt một tiếng sáo, cánh bên trái của con điêu nhi đột nhiên hất mạnh ra, Võ Tu Văn không đề phòng, bị ngã sóng xoài.
Cậu lồm cồm bò dậy, nhìn cặp điêu nhi nói:
- Hai con chim này cừ thật, biết nghe lệnh của bé. Ta về nhà cũng phải bảo phụ thân ta bắt một cặp điêu nhi về nuôi chơi mới được.
Cô bé nói:
- Phụ thân đằng ấy mà đòi bắt được điêu nhi?
Võ Tu Văn bị giội liền ba gáo nước lạnh thì hơi ngượng, bây giờ mới nhìn kỹ thấy cô bé mặc áo lụa xanh nhạt, cổ đeo một chuỗi ngọc, mặt trắng mịn như sữa, đôi mắt sinh động, lông mày dài thanh tú. Võ Tu Văn tuy còn nhỏ song cũng cảm nhận được sắc đẹp tuyệt vời của cô bé, bất giác muốn gần gũi, nhưng thấy thái độ lạnh nhạt của cô bé, nó cảm thấy sờ sợ.
Cô bé dùng tay phải vuốt ve lưng điêu nhi, đưa mắt nhìn Võ Tu Văn một lượt từ đầu xuống chân, hỏi:
- Tên đằng ấy là gì? Sao lại đi chơi một mình?
Võ Tu Văn đáp:
- Ta à? Ta tên là Võ Tu Văn, ta đang chờ phụ thân ta. Còn bé tên gì?
Cô bé dẩu môi hừ một tiếng, nói:
- Đây không chơi với trẻ đi hoang.
Đoạn quay người bỏ đi. Võ Tu Văn sững người, nói:
- Ta không phải là trẻ đi hoang.
Vừa nói cậu vừa đi theo cô bé.
Võ Tu Văn thấy cô bé kém mình hai, ba tuổi, người thấp chân ngắn, cậu chỉ cần rảo bước sẽ đuổi kịp; nào ngờ cậu vừa thi triển khinh công, thì cô bé bước nhanh hẳn lên, trong giây lát đã bỏ cậu rớt lại phía sau, xa đến mấy trượng. Cô bé chạy vài bước nữa, đứng lại, ngoảnh đầu hỏi:
- Này, đằng ấy có thể đuổi kịp đây không?
Võ Tu Văn nói:
- Dĩ nhiên là kịp.
Lập tức đuổi theo.
Cô bé vừa chạy vừa ngoái đầu lại, đột nhiên nấp vào sau thân một cây tùng. Võ Tu Văn đuổi tới gần, cô bé liền giơ chân trái ngáng chân Võ Tu Văn một cái. Võ Tu Văn đang chạy, không đề phòng, lập tức người ngã chúi về phía trước. Cậu vội sử chiêu “Thiết thụ trang” để giữ thăng bằng. Cô bé lại tung chân phải đá vào mông cậu thật mạnh. Võ Tu Văn tức thì ngã sấp mặt xuống, mũi đập vào một hòn đá nhọn máu cháy ròng ròng, loang lổ cả vạt áo.
Cô bé thấy máu thì hoảng sợ, vội bỏ chạy, bỗng đằng sau có tiếng quát:
- Phù nhi, điệt nhi lại bày trò khi dễ người khác phải không?
Cô bé không ngoảnh đầu, chối cãi:
- Ai bảo thế? Hắn ta tự vấp ngã đấy chứ, đâu liên quan gì tới cháu? Công công đừng có mách cha cháu đấy.
Võ Tu Văn xoa xoa mũi, kỳ thực cũng không đau mấy, chỉ là thấy máu tươi dính tay thì hơi hoảng. Cậu nghe cô bé nói, ngoảnh đầu nhìn thấy ông già thọt chống gậy sắt, râu tóc như sương, người gầy, hai mắt toàn lòng trắng, thì ra đã mù.
Chỉ nghe lão nhân lạnh lùng nói:
- Ngươi đừng tưởng ta không nhìn thấy. Ta đã nghe thấy hết. Ngươi còn nhỏ đã xấu tính thế này, lớn lên sẽ hỏng đấy.
Cô bé liền chạy tới đỡ một cánh tay lão nhân, giọng van vỉ:
- Đại công công ơi, đừng mách cha cháu nhé, được không nào? Cậu ta ngã chảy máu mũi, công công chữa cho cậu ta đi!
Lão nhân bước tới, tay trái nắm cánh tay phải của Võ Tu Văn, giơ ngón tay phải day day mấy cái cạnh huyệt Văn Hương. Máu mũi vốn đã sắp ngừng chảy, sau vài cái day liền ngưng hẳn. Võ Tu Văn cảm thấy năm ngón tay của lão nhân nắm cánh tay mình cứ như một cây kìm bằng sắt, vừa dài vừa cứng thì hơi sợ, thử giằng ra, nhưng không cựa quậy được. Cậu bèn sử chiêu tiểu cầm nã thủ mà mẹ cậu đã dạy để thoát ra. Lão nhân không ngờ cậu bé lại có thủ pháp khôn khéo như vậy, tuy bị tuột tay ra song lại chộp ngay được cổ tay cậu bé. Võ Tu Văn vận sức cố giằng ra, nhưng không được.
Lão nhân nói:
- Tiểu huynh đệ đừng sợ, cháu họ gì vậy?
Võ Tu Văn đáp:
- Điệt nhi họ Võ.
Lão nhân nói:
- Giọng nói của cháu không phải của người vùng này. Cháu từ đâu tới đây? Cha mẹ cháu đâu?
Nói rồi vị lão nhân buông cổ tay cậu bé ra. Võ Tu Văn nhớ lại từ đêm qua tới giờ chưa gặp cha mẹ không biết họ đang ở đâu, nước mắt lưng tròng, chỉ muốn khóc òa. Cô bé nhăn mặt trêu cậu:
- Ê xấu quá, mắt đỏ hoe sắp khóc nhè rồi kìa!
Võ Tu Văn hiên ngang nói:
- Không đời nào ta khóc!
Rồi cậu kể qua việc mẹ cậu ở Lục gia trang chờ địch, cha cậu xốc nách anh trai cậu chạy đi, còn cậu bị lạc trong rừng cả đêm qua. Cậu kể khá lộn xộn nhưng lão nhân cũng hiểu được bảy, tám phần. Lão nhân lại hỏi thêm, biết gia đình cậu bé từ nước Đại Lý tới, cha cậu tên là Võ Tam Thông, có môn võ công giỏi nhất là “Nhất dương chỉ.”
Lão nhân nói:
- Phụ thân cháu là môn đệ của Nhất Đăng đại sư phải không?
Võ Tu Văn mừng nói:
- Vâng, thế ra công công cũng quen biết hoàng tộc chúng cháu ư?
Nguyên trước kia ở nước Đại Lý, Võ Tam Thông làm Tổng quản Ngự lâm quân dưới quyền Quốc công cựu đế Đoàn Trí Hưng. Về sau Đoàn Trí Hưng xuất gia, lấy pháp danh Nhất Đăng. Nhưng mỗi lần kể chuyện cũ với hai đứa con, Võ Tam Thông vẫn cứ dùng câu “Hoàng tộc chúng ta thế này thế nọ,” nên Võ Tu Văn cũng quen miệng gọi cha là “hoàng tộc.”
Lão nhân nói:
- Ta chưa có cơ duyên bái kiến lão nhân gia, nhưng có nghe đại danh “Nam đế” từ lâu, nên rất khâm phục. Cha mẹ cô bé này từng chịu ân huệ rất lớn của lão nhân gia. Như thế, chúng ta không phải là người ngoài. Cháu có biết kẻ địch mà mẹ cháu đang chờ là ai không?
Võ Tu Văn nói:
- Cháu nghe mẹ cháu nói với Lục gia, thì kẻ địch tên là Xích Luyện Xà hay Xích Luyện Sầu gì ấy.
Lão nhân ngẩng đầu, lẩm bẩm:
- Xích Luyện Xà ư?
Đột nhiên dộng mạnh cây gậy sắt, nói to:
- Là Xích Luyện tiên tử Lý Mạc Sầu phải không?
Võ Tu Văn mừng đáp:
- Đúng, đúng rồi! Chính là Xích Luyện tiên tử!
Lão nhân lập tức tỏ vẻ nghiêm trang, nói:
- Hai cháu hãy ở đây chơi, chớ rời khỏi chỗ này nửa bước. Để ta đi xem sao.
Cô bé nói:
- Đại công công, cháu cũng đi.
Võ Tu Văn cũng nói:
- Cháu cũng đi.
Lão nhân vội ngăn:
- Ấy chớ, ấy chớ! Hai cháu không đi được! Mụ nữ ma đầu ấy hung ác lắm, ta không địch nổi mụ. Chẳng qua biết bằng hữu gặp nạn, không thể không đi. Hai cháu phải nghe lời ta.
Đoạn chống nạng, cầm gậy đi rất nhanh.
Võ Tu Văn thán phục nói:
- Lão công công vừa mù vừa thọt mà đi nhanh thật!
Cô bé dẩu môi, nói:
- Thế có gì lạ? Khinh công của cha mẹ ta đây, đằng ấy mà thấy mới giật mình kia.
Võ Tu Văn hỏi:
- Cha mẹ của bé cũng vừa mù vừa thọt à?
Cô bé cả giận, đốp lại:
- Hừ, có cha mẹ đằng ấy vừa mù vừa thọt thì có!
Lúc này trời đã sáng bạch, nông phu đã ra nương rẫy làm việc, nam nữ vừa làm vừa hát sơn ca. Lão nhân là người vùng này, tuy mù hai mắt, nhưng thuộc đường, cứ vừa đi vừa hỏi, không lâu đã tới cổng Lục gia trang. Từ xa đã nghe tiếng binh khí va nhau chan chát. Nhà Lục Triển Nguyên là quan thân thế gia trong vùng, lão nhân chỉ là thường dân, tuy cũng là người có tiếng am hiểu võ học ở Gia Hưng, nhưng không hề qua lại. Lão nhân thừa biết võ công mình thua xa Xích Luyện tiên tử, tới đây chẳng qua chỉ nộp thêm cái mạng già, nhưng nghĩ chuyện này liên quan đến đệ tử của Nhất Đăng đại sư, là người có ân tình lớn với gia đình lão nhân, nên không thể khoanh tay, bèn rảo bước xông tới. Chỉ nghe trên mái nhà có bốn người đang giao đấu. Lão nhân dỏng tai, qua tiếng binh khí chạm nhau, biết một bên có ba người, bên kia có một người nhưng ba không địch nổi một, đã hoàn toàn rơi vào thế hạ phong.
Đêm qua, khi Võ Tam Thông ôm hai đứa con chạy đi, vợ chồng Lục Lập Đỉnh quá đỗi kinh ngạc, không hiểu dụng ý của Võ Tam Thông. Võ tam nương thì có vẻ mừng, nói:
- Chuyết phu thường ngày điên điên khùng khùng, ít khi thông đạt sự lý như lần này.
Lục nhị nương hỏi lý do, Võ tam nương cười không giải thích, chỉ nói:
- Tiểu phụ nhân cũng không biết mình đoán có đúng hay không, nhưng chờ một lúc nữa sẽ rõ.
Đêm đã về khuya, Lục Vô Song nằm ngủ trong lòng người cha; Trình Anh cũng mơ màng díp mắt lại. Lục nhị nương định bế hai đứa trẻ vào buồng ngủ, thì Võ tam nương nói:
- Hãy chờ chút nữa.
Bỗng nghe trên mái có tiếng gọi:
- Tung lên đây.
Chính là giọng nói của Võ Tam Thông. Khinh công của lão ta thật cao siêu, lão đi tới trên mái ngói mà hai vợ chồng Lục Lập Đỉnh chẳng hay biết tí gì.
Võ tam nương đón bé Trình Anh, ẵm ra cửa sảnh mà tung lên. Võ Tam Thông ở trên đón lấy. Vợ chồng Lục Lập Đỉnh còn đang kinh dị thì Võ tam nương lại ẵm Lục Vô Song tung lên.
Lục Lập Đỉnh cả kinh hỏi giật giọng:
- Làm gì thế?
Chàng vọt lên mái nhưng tứ phía tối om, không còn thấy Võ Tam Thông và hai đứa trẻ đâu nữa. Chàng định co giò đuổi theo, thì Võ tam nương gọi:
- Lục gia đừng đuổi theo. Chuyết phu có hảo ý đó.
Lục Lập Đỉnh bán tín bán nghi, nhảy trở xuống, run giọng hỏi:
- Hảo ý thế nào?
Lúc này Lục nhị nương đã hiểu ra, nói:
- Võ Tam gia sợ nữ ma đầu sát hại bọn trẻ, cho nên mới mang chúng tới giấu một chỗ an toàn đó.
Lục Lập Đỉnh là người trong cuộc bị lú lẫn, nghe vợ nói thì tỉnh ngộ, nói:
- Phải rồi, phải rồi!
Nhưng nghĩ đến chuyện Võ Tam Thông mang di thể của huynh tẩu đi mất, thì chàng lại không yên tâm.
Võ tam nương nói:
- Chuyết phu từ ngày Hà Nguyên Quân thành hôn với lệnh huynh, hễ gặp con gái lại nổi giận, không hiểu vì sao, cuối cùng gặp hai vị tiểu thư quý phủ lại không giận nữa, thật là ngoài sở liệu. Lúc chuyết phu đến mang Nhu nhi, Văn nhi đi, tiểu phụ nhân thấy chuyết phu nhìn hai tiểu thư mấy lần, đầy vẻ quan hoài và ưu ái, hệt như đối với Hà Nguyên Quân ngày xưa! Quả nhiên chuyết phu trở lại mang hai tiểu thư đi. Ôi, ước gì từ nay chuyết phu đổi tính, không còn hồ đồ nữa!
Nói đoạn thở dài hai tiếng liền rồi tiếp:
- Hai vị cứ nghỉ một chút đi, mụ ma đầu kia không biết lúc nào đến, cứ ngồi canh cánh chờ mụ thì chỉ tổ mệt mà thôi.
Vợ chồng Lục lập Đỉnh ban đầu lo lắng cho tính mạng của nữ nhi và điệt nhi, nên trong lòng thảng thốt, cử chỉ lời lẽ đều thất thố; bây giờ đã an tâm hơn về chúng, nên chỉ tập trung vào việc chống địch, ý chí đại tăng. Họ mang sẵn binh khí, ám khí bên người; ngồi trong sảnh, nhắm mắt dưỡng thần. Hai vợ chồng sống với nhau mười mấy năm, thường ngày vì chuyện gia đình lắm khi cự nự cằn nhằn lẫn nhau; bây giờ nghĩ rằng cường địch có thể xộc tới bất cứ lúc nào, theo lời Lục Triển Nguyên và Võ tam nương, thì mụ ma đầu võ công cao cường, hành sự tàn bạo, chắc bảy phần là mình khó lòng thoát chết, vợ chồng còn được ở bên nhau không nhiều, bất giác họ tựa sát vào nhau, tay trong tay.
Rất lâu sau, giữa cảnh đêm khuya tịch mịch, bỗng nghe từ xa vẳng lại tiếng hát nhẹ nhàng êm dịu, khoảng cách rất xa, mà nghe rõ từng lời: “Vấn thế gian, tình thị hà vật. Trực giáo sinh tử tương hứa?” Mỗi tiếng lại đến gần hơn, người hát đi quá nhanh, nghe thấy chữ “hứa,” thì người hát đã tới ngoài cổng.
Ba người kinh hãi nhìn nhau, bỗng “rầm rầm, rắc rắc,” các then gỗ cài cổng ngoài cửa trong cùng gãy rời, hai cánh cổng mở toang ra, một đạo cô vô cùng xinh đẹp mỉm cười thong thả bước vào, mình mặc đạo bào màu hoàng hạnh, chính là Xích Luyện tiên tử Lý Mạc Sầu đã tới.
A Căn lúc ấy đang quét sân, bước ra quát hỏi:
- Ai đó?
Lục Lập Đỉnh vội gọi:
- A Căn lui vào ngay!
Nhưng không kịp nữa. Lý Mạc Sầu vung cây phất trần một cái, A Căn đã vỡ đầu, chết không kịp ngáp.
Lục Lập Đỉnh cầm đao xông ra, Lý Mạc Sầu hơi lách mình vọt qua chỗ chàng, vung cây phất trần đánh chết liền hai tì nữ, rồi cười hỏi:
- Hai đứa bé gái kia đâu?
Vợ chồng Lục Lập Đỉnh thấy mụ ta trong chớp mắt đã giết chết ba người, thừa biết đại họa lâm đầu, cùng nghiến răng vung đao kiếm từ hai bên đánh vào. Lý Mạc Sầu định vung cây phất trần đánh trả, thấy Võ tam nương cầm kiếm đứng một bên, bèn cười, nói:
- Có người ngoài nhúng tay vào, thì ta không tiện giết người ở trong nhà!
Giọng nói của đạo cô nhẹ nhàng uyển chuyển, thần thái kiều mị, cộng với đôi mắt sáng, hàm răng trắng, da dẻ nõn nà, quả là một mỹ nhân tuyệt sắc.
Cũng chẳng thấy đạo cô nhún chân thế nào, mà mụ ta đã nhẹ nhàng bay lên mái nhà. Vợ chồng Lục Lập Đỉnh và Võ tam nương cùng phi lên theo.
Lý Mạc Sầu vung cây phất trần gạt vũ khí của cả ba người ra, nhẹ nhàng nói:
- Lục nhị gia, ca ca của các hạ nếu còn sống, chỉ cần chàng ta lên tiếng cầu xin và đoạn tuyệt với con tiểu tặc Hà Nguyên Quân, thì ta sẽ tha chết cho cả gia đình các hạ. Nay thì ôi thôi, vận số của các người không may, các người có trách thì trách ca ca nhà các người, đừng có trách ta!
Lục Lập Đỉnh nói:
- Ai cần ngươi tha?
Chàng vung đao chém. Võ tam nương và Lục nhị nương xông vào giáp công. Lý Mạc Sầu thấy Lục Lập Đỉnh võ công vào loại trung bình, nhưng tư thế bước chân xuất đao, xoay mình phách chưởng thì hệt như ý trung nhân Lục Triển Nguyên ngày nào, trong lòng dịu lại muốn được xem lâu hơn một chút, chứ nếu ra đòn hạ sát ngay, thì trên đời chẳng bao giờ còn được ngắm “đao pháp Lục gia Giang Nam” nữa. Thế là đạo cô chỉ đánh đỡ lấy lệ, cứ mặc cho ba đối thủ xoay vòng xung quanh, trong lòng còn ngổn ngang bao tình ý.
Đột nhiên Lý Mạc Sầu hú lên một tiếng nhẹ, nhảy khỏi mái nhà, lao xuống chỗ một lão nhân thọt cầm cây thiết trượng đang đứng bên dòng mương. Chân chưa chạm đất, cây phất trần đã nhắm ngay chỗ yếu hại của đối phương mà đánh tới, hoàn toàn không thèm phòng bị, chỉ muốn sát hại đối phương ngay tức thì.
Lão nhân nghe rõ lai chiêu của kẻ địch, cây thiết trượng quét ngang thật lẹ, rồi chọc ngay vào cổ tay đạo cô. Cây thiết trượng là thứ vũ khí thô nặng, vốn chỉ dùng để quét ngang, nay lão nhân lại sử dụng khẩu quyết chữ “thích,” coi cây thiết trượng như thanh kiếm, xuất chiêu khinh linh phiêu dật. Lý Mạc Sầu khẽ rung cây phất trần, các sợi ngân ti quấn ngay lấy đầu cây thiết trượng, miệng quát:
- Rời tay!
Hàng ngàn sợi ngân ti mượn hết lực đâm của cây thiết trượng để giằng nó đi. Lão nhân thấy hai cánh tay bị chấn động mạnh, suýt nữa để văng mất cây thiết trượng; trong lúc nguy cấp thừa thế vọt lên, thân hình bay chéo trên không, mới hóa giải được xảo kình của cây phất trần, trong bụng nghĩ thầm: “Mụ ma đầu này quả nhiên danh bất hư truyền.” Chiêu “Thái công điếu ngư” vừa rồi của Lý Mạc Sầu, mượn ý của tích “Tự cắn câu, lấy sức của chính kẻ địch mà đoạt vũ khí của địch,” bao lâu nay hễ sử đều được, lần này không ngờ thất bại, mụ nghĩ thầm: “Lão già thọt này là ai vậy? Rốt cuộc có công phu gì đây?” Mụ nhảy sang bên, thấy hai mắt lão nhân đảo lên toàn lòng trắng, thì ra là người mù, chợt hiểu, nói:
- Các hạ là Kha Trấn Ác!
Lão nhân vừa mù vừa thọt chính là người đứng đầu “Giang Nam thất quái,” Phi Thiên Biển Bức Kha Trấn Ác.
* * *
Năm xưa Quách Tĩnh, Hoàng Dung sau khi tham gia cuộc luận kiếm trên đỉnh Hoa Sơn, được Hoàng Dược Sư chủ trì lễ thành hôn, tới Đào Hoa đảo qui ẩn.
Hoàng Dược Sư tính nết quái dị, không thích náo nhiệt, ở cùng con gái và con rể vài tháng đã chán, bèn để lại một bức thư, nói rằng muốn tìm một nơi thanh tịnh nhàn cư, rồi lẳng lặng bỏ đi. Hoàng Dung biết tính phụ thân, tuy không muốn xa phụ thân, nhưng cũng chẳng nghĩ ra được cách gì. Lúc đầu còn bảo chỉ vài tháng phụ thân sẽ có tin về, nào ngờ biền biệt cả năm trời vẫn không có tin tức gì. Hoàng Dung nhớ phụ thân và sư phụ Hồng Thất Công, bèn cùng Quách Tĩnh đi tìm. Hai vợ chồng hành tẩu giang hồ mấy tháng liền, chưa kết quả gì đành phải trở về Đào Hoa đảo, bởi lẽ Hoàng Dung đã có thai.
Hoàng Dung tính nết điêu ngoa tai quái, không lúc nào chịu yên, khi có thai làm gì cũng bất tiện, nên càng hay bực dọc, gắt gỏng với chồng. Người phải chịu đựng dĩ nhiên là Quách Tĩnh. Chàng biết tính ái thê, mỗi khi nàng cáu bẳn vô lý, chàng chỉ cười cười không chấp, nếu Hoàng Dung tức quá, thì chàng lựa lời an ủi hoặc trêu chọc cho nàng phì cười mới thôi.
Thấm thoắt mười tháng trôi qua, Hoàng Dung sinh một đứa con gái, đặt tên là Quách Phù. Khi có thai, nàng không thích có con; nhưng sau khi sinh con ra rồi, nàng lại hết mực cưng nựng nó. Thành thử con bé chưa đầy tuổi mà đã bướng bỉnh quá thể. Quách Tĩnh lắm khi thấy chướng mắt, quở trách con thì Hoàng Dung lại bênh nó chằm chặp; thành thử nó càng lớn càng ngang ngạnh khó bảo.
Khi Quách Phù lên năm, Hoàng Dung bắt đầu dạy võ cho con. Từ đây các thứ chim muông, thú vật, côn trùng trên đảo đều gặp tai ương, hoặc bị vặt trụi lông, hoặc bị cắt đuôi. Từ chỗ là nơi thanh tịnh để ẩn sĩ tu tâm dưỡng tính, Đào Hoa đảo cuối cùng hóa thành nơi gà bay chó chạy xáo xác. Quách Tĩnh một là quen chiều vợ, hai là cũng rất yêu đứa con gái ngang ngạnh, mỗi khi nó phạm lỗi, chàng định quở mắng, đánh đòn nó, thấy nó giả bộ nhăn nhó xin tha, chàng lại mềm lòng thở dài, cánh tay đã giơ lên lại từ từ buông xuống.
Mấy năm nay Hoàng Dược Sư và Hồng Thất Công biệt vô âm tín, vợ chồng Quách Tĩnh Hoàng Dung luôn nhớ hai vị lão niên. Quách Tĩnh mấy phen đi đón đại sư phụ Kha Trấn Ác, mời sư phụ tới Đào Hoa đảo an hưởng tuổi già. Nhưng Kha Trấn Ác thích bầu bạn với những người ở phố chợ, lấy trò uống rượu đánh bạc làm vui, không muốn cuộc sống thanh tịnh ở Đào Hoa đảo, lần nào cũng khước từ. Một lần Kha Trấn Ác không chờ Quách Tĩnh tới đón, tự mình đến đảo. Nguyên vì gần đây lão gặp vận xui, càng đánh bạc càng thua, mắc nợ quá nhiều, không có gì trả, đành lánh đến nhà đồ đệ để trốn nợ. Quách Tĩnh Hoàng Dung thấy sư phụ đến thì cả mừng, giữ rịt sư phụ ở đảo, nhất định không để đi đâu nữa. Hoàng Dung dần dần biết rõ nguyên do, ngầm sai người đi trả hết các món nợ bài bạc cho sư phụ. Kha Trấn Ác không hay biết, không dám trở về Gia Hưng, nhàn rỗi chẳng có việc gì, đành chơi đùa với Quách Phù vậy.
Thấm thoắt đã mấy năm, Quách Phù lên chín. Hoàng Dung nhớ phụ thân, muốn cùng Quách Tĩnh rời Đào Hoa đảo đi tìm kiếm. Kha Trấn Ác bảo cũng muốn đi. Quách Phù cũng đòi đi theo bằng được. Sau khi bốn người rời đảo, bàn đến hành trình, Kha Trấn Ác nói:
- Đi đâu cũng được, trừ vùng Gia Hưng.
Hoàng Dung cười, nói:
- Đại sư phụ, các món nợ của sư phụ con đã trả giùm sư phụ xong cả rồi.
Kha Trấn Ác cả mừng, nói:
- Thế thì hãy tới vùng Gia Hưng trước.
Đến Gia Hưng, bốn người trú ở khách điếm. Kha Trấn Ác dò la tin tức qua những người quen cũ, có người kể mấy hôm trước có thấy một lão nhân mặc áo bào xanh ngồi một mình uống rượu ở lầu Ân Vũ, hỏi diện mạo, thì rất giống Hoàng Dược Sư. Quách Tĩnh, Hoàng Dung cả mừng, bèn đi khắp vùng Gia Hưng tìm kiếm. Sáng nay Kha Trấn Ác dẫn Quách Phù mang theo đôi chim điêu vào rừng chơi, bất ngờ gặp Võ Tu Văn ở đó.
* * *
Kha Trấn Ác đấu với Lý Mạc Sầu vài hiệp, thì biết mình không phải là đối thủ của đạo cô, nghĩ thầm: “Nữ ma đầu này võ công cao thật, chẳng kém gì Mai Siêu Phong hồi trước.” Lão vội bảo vệ môn hộ thật kín. Lý Mạc Sầu thầm tán thưởng: “Mình từng nghe chàng Lục Triển Nguyên vô lương tâm kể rằng trong các nhân vật tiền bối của chàng ở Gia Hưng, có Giang Nam Thất Quái, võ công cao cường, thu nhận một đệ tử lừng danh là đại hiệp Quách Tĩnh. Lão già này đứng đầu Giang Nam Thất Quái, quả nhiên danh bất hư truyền. Lão già yếu, lại vừa mù vừa thọt, mà vẫn còn tiếp nổi hơn mười chiêu của ta.” Chỉ nghe vợ chồng họ Lục cùng Võ tam nương vừa quát tháo vừa đánh tới sau lưng, Lý Mạc Sầu chủ ý đã định: “Muốn hạ Kha Trấn Ác không khó, nhưng để vợ chồng Quách Tĩnh hỏi đến thì không ổn. Thôi hôm nay phải tha cho lão già vậy.” Bèn giơ cây phất trần chọc thẳng vào giữa ngực Kha Trấn Ác như một mũi thương. Các sợi ngân ti của phất trần tuy mềm, nhưng đã mượn xảo kình, lại nhắm vào đại huyệt yếu hại, thành thử cú đâm này rất lợi hại.
Kha Trấn Ác dộng cây thiết trượng xuống đất, mượn thế nhảy ra sau. Lý Mạc Sầu sấn tới một bước, tưởng là tiến chiêu truy kích, ai ngờ đột nhiên ngửa người cực nhanh ra phía sau, ưỡn lưng rất dẻo. Vai Lý Mạc Sầu còn cách Võ tam nương chưa đầy hai thước. Võ tam nương giật mình, vội vung tả chưởng vỗ xuống mặt Lý Mạc Sầu. Eo lưng của Lý Mạc Sầu nhẹ như một bông hoa cúc khẽ đung đưa trước gió, đã tránh từ sớm, nghe bộp một tiếng, Lục nhị nương liền bị trúng một chưởng vào bụng dưới.
Lục nhị nương trúng chưởng ngã ngửa ra. Lục Lập Đỉnh thấy vợ bị thương, bèn vung tay phải ném cây đơn đao về phía Lý Mạc Sầu rồi giang hai tay lao tới, định ôm chặt lấy mụ ta để cùng chết. Lý Mạc Sầu còn là xử nữ trinh bạch, vốn bị thất tình, rất ghét trò đụng chạm nam nữ, lúc này thấy Lục Lập Đỉnh nhào tới ôm thì nổi cơn lôi đình, dùng cán phất trần gạt rơi đơn đao, rồi thuận thế vung lên đánh chặn; nghe cộp một tiếng, trúng đỉnh đầu Lục Lập Đỉnh.
Việc hạ gục vợ chồng Lục Lập Đỉnh xảy ra trong chớp mắt, Kha Trấn Ác và Võ tam nương muốn cứu cũng chẳng kịp. Lý Mạc Sầu cười hỏi:
- Hai đứa bé gái đâu?
Không đợi Võ tam nương trả lời, Lý Mạc Sầu đã xộc vào gia trang, lục soát khắp nơi, nhưng không tìm thấy Trình Anh và Lục Vô Song. Lý Mạc Sầu lấy cây đuốc trong bếp, mang vào kho củi phóng hỏa, rồi nhảy ra ngoài, cười nói:
- Ta không có gì sai quấy với Đào Hoa đảo và Nhất Đăng đại sư, mong hai vị lui về cho.
Kha Trấn Ác và Võ tam nương thấy Lý Mạc Sầu quá ư hung tàn, thì cả giận, thiết trượng và kiếm thép cùng đánh tới. Lý Mạc Sầu nghiêng mình tránh thiết trượng, vung phất trần quấn lấy thanh kiếm của Võ tam nương. Hai luồng kình lực từ phất trần truyền ra, một kéo vào, một đẩy ra, nghe “cách” một tiếng; thanh kiếm gãy đôi, phần mũi kiếm đâm về phía Võ tam nương, phần chuôi kiếm thì văng về phía Kha Trấn Ác.
Võ tam nương bị mất kiếm, cả kinh, càng không ngờ mụ ma đầu có thể dùng phất trần làm gãy kiếm, lại dùng ngay hai đoạn kiếm gãy tấn công hai người. Phần mũi kiếm bay nhanh tới, Võ tam nương vội cúi đầu né tránh, chỉ cảm thấy lạnh cả đỉnh đầu, nửa thanh kiếm bay qua, hớt ngọt một mảng tóc. Kha Trấn Ác nghe tiếng rít của kim khí trong không trung, liền giơ trượng gạt văng được đoạn chuôi kiếm đi. Nghe tiếng gọi của Võ tam nương, vị lão nhân xoay tít cây trượng tiến công. Tay trái của lão tuy nắm ba mũi ám khí “Độc tật lê,” nhưng lão nghĩ: “Nghe đâu Lý Mạc Sầu có loại “Băng phách ngân châm” âm độc dị thường, mình mù lòa không nhìn thấy, chớ nên khích mụ ta sử dụng ám khí lợi hại làm gì;” vì vậy tuy tình thế nguy ngập, lão vẫn không dám phóng “Độc tật lê.” Lý Mạc Sầu trước sau đối với lão vẫn hạ thủ lưu tình, nghĩ thầm: “Nếu ta không giở thủ đoạn, chỉ e lão già mù này không biết là ta nhường nhịn,” liền vặn người dùng các sợi ngân ti phất trần cuốn lấy đầu cây trượng. Kha Trấn Ác chỉ cảm thấy có một sức mạnh ghê gớm tính đoạt lấy cây thiết trượng của lão; lão vội vận sức giằng lại. Nào ngờ sức vận ra tới đầu mút cây trượng, thì lực đoạt đột nhiên biến mất; trong chớp mắt, lão cảm thấy tứ chi bủn rủn không còn chút sức lực nào cả. Lý Mạc Sầu dùng tay trái hất cây trượng sang một bên, bàn tay đã áp nhẹ vào ngực Kha Trấn Ác, cười nói:
- Kha lão gia tử, “Xích Luyện Thần chưởng” đánh vào ngực lão rồi nè!
Kha Trấn Ác lúc này đã hết bề chống đỡ, giận dữ nói:
- Nữ ác tặc, ngươi cứ việc ra đòn, chớ lắm lời!
Võ tam nương thấy vậy, vội lao tới cứu. Lý Mạc Sầu nhún mình nhảy lên, giơ tay vuốt qua mặt Võ tam nương một cái, cười nói:
- Ngươi dám đánh đuổi đồ đệ của ta, lá gan cũng không nhỏ.
Rồi cười khanh khách, nhún nhẩy vài cái, đã mất hút đằng xa.
Võ tam nương chỉ cảm thấy bàn tay mềm mại của mụ ta vuốt qua mặt rất dễ chịu, rồi cái lưng của mụ ta đã khuất vào phía sau một cây liễu. Võ tam nương vừa rồi tiếp chiêu mụ ta tuy chỉ vài hiệp, nhưng chiêu nào cũng hiểm tử hoàn sinh, phải dốc toàn lực, nên bây giờ chân tay rã rời, không muốn động đậy nữa. Kha Trấn Ác thì vừa rồi tưởng như có tảng đá đè ngực, khó thở vô cùng, phải từ từ hít mấy hơi, mới điều hòa được hô hấp.
Lát sau, Võ tam nương gắng gượng đứng dậy, chỉ thấy khói đen bốc mù mịt, Lục gia trang đã chìm trong biển lửa. Lửa táp hơi nóng mỗi lúc một gần.
Kha Trấn Ác vội đỡ vợ chồng Lục Lập Đỉnh lên, nhưng thấy cả hai chỉ còn thở thoi thóp, thì nghĩ thầm: “Nếu di chuyển hai người này, chỉ e họ chóng tắt thở hơn, song cũng không thể bỏ mặc họ ở đây, phải làm sao bây giờ?”
Đang lưỡng lự, chợt nghe từ xa có tiếng gọi:
- Nương tử, nàng có sao không?
Chính là tiếng gọi của Võ Tam Thông.