- Tham gia
- 25/11/2012
- Bài viết
- 351
(kenhsinhvien.vn) Nhiều người tin rằng Chén Thánh là một chiếc ly đặc biệt duy nhất. Những người khác thì cho rằng truyền thuyết Chén Thánh được tạo ra ở châu Âu từ thế kỳ 12 đến 15 liệt kê hơn 10 loại Chén Thánh khác nhau. Nhóm thứ 3 lại đồng tình rằng Chén Thánh đã tồn tại khắp thế giới hàng ngàn năm. Thật ra, Chén Thánh có ở mọi nơi và mọi thời kỳ. Chúng có hình dạng của chiếc ly, mũi giáo, xương sọ, đĩa ăn, đá, gươm, vạc nấu và thậm chí là cả sách.
Điều khiến một vật trở thành Chén Thánh là nó sở hữu một sức mạnh đặc biệt mà những người đạo Cơ Đốc gọi là Thánh Linh, những nhà giả kim gọi là Giả Kim Lực và những Hindu Yogis gọi là Kundalini. Truyền thuyết kể rằng nếu ta uống hoặc ăn bằng Chén Thánh, hay thậm chí chỉ sờ vào nó, sức mạnh từ nó sẽ đi vào cơ thể ta và bắt đầu quá trình chuyển hoá giả kim thuật giúp chữa lành, khai sáng và có thể còn khiến ta bất tử.
Tranh minh hoạ về chén thánh.
Chén Thánh nổi tiếng nhất trong lịch sử là Chiếc ly của Christ hay Chiếc ly của Joseph thành Arimathea. Đó là chiếc ly mà Joseph thành Arimathea lấy máu và mồ hôi của thánh Messiah sau khi ngài bị hạ xuống khỏi Thập tự giá, và đó cũng là chiếc ly mà chúa Jesus đã chuyền tay giữa các môn đồ trong Bữa Tiệc Ly Cuối Cùng. Theo một truyền thuyết, Tổng lãnh thiên thần Gabriel đã hướng dẫn Joseph và 11 môn đồ khác mang chiếc ly ấy và hai chiếc bình, hay “lọ”, chứa máu và mồ hôi của Jesus đến Glastonbury. Khi đã yên vị ở quê nhà mới, Joseph và các đồng môn của mình đã xây nên Nhà nguyện Thánh Mary, nơi về sau trở thành quách tích chứa chiếc ly và Giáo hội Kito giáo đầu tiên ở châu Âu. Nhà nguyện cuối cùng bị phá huỷ và thay thế bằng một nhà nguyện lớn hơn, sát nhập với kiến trúc của Tu viện Glastonbury. Trước khi Joseph qua đời, người ta truyền rằng ông đã chôn Chiếc ly của Christ trên một gò đất lớn ở Glastonbury mà ngày nay là Đồi Ly. Hay một truyền thuyết khác kể rằng Joseph đã giấu Chén Thánh trong Giếng Ly, nơi dòng nước ngày nay có màu đỏ máu, tượng trưng cho máu của thánh Messiah vẫn tiếp tục chảy ra để nuôi dưỡng và chữa lành mọi thứ tắm trong nó hoặc uống được nó.
Tàn tích của Tu viện Glastonbury ở Somerset, Anh. Ảnh: irisphoto1/Adobe Stock.
Theo một truyền thuyết khác liên quan đến Chiếc ly của Christ, sau khi chiếc ly của Joseph được Thánh Peter đưa đến La Mã, nó trở thành chiếc ly được các giáo hoàng đời đầu sử dụng chính thức trong Tiệc Thánh. Sau đó khoảng năm 258 TCN, khi hoàng đế La Mã Valerianus cứ hay tra khảo các giám mục và những quan chức cấp cao trong Giáo hội Công giáo, một binh lính Vatican đã mang chiếc ly đến Tây Ban Nha. Cuối cùng chiếc ly đến được Nhà thờ Valencia và trở nên nổi tiếng với tên gọi Santo Caliz của Valencia. Theo Vatican, đây mới là chiếc ly thực sự của Christ. Santo Caliz nghĩa là “Thánh Ly”, là một chiếc ly làm từ đá mã não đỏ đặt trên bệ trang trí công phu đính 27 viên ngọc trai, 2 viên hồng ngọc và 2 viên ngọc lục bảo. Trong khi chiếc ly đá mã não có từ thời của Christ, thì bệ trang trí chỉ mới được thêm vào sau này.
Người ta truyền rằng chỉ chiếc ly phía trên mới thiêng liêng, còn phần đế thì được thêm vào sau này.
Dù Chiếc ly của Christ thật sự đặc biệt, nhưng nó chỉ là một trong nhiều Chén Thánh có từ thời Khổ Nạn. Được gọi chung là Arma Christi, có những món đồ của thời Khổ Nạn đã trở nên thấm đẫm sức mạnh thần thánh của Jesus khi chạm vào cơ thể ngài và/hoặc chứa dịch thể của ngài. Các Chén Thánh của Arma Christi bao gồm Thập Giá Đích Thực mà Jesus bị đóng đinh trong sự kiện Đóng Đinh Thập Giá, Vương Miệng Gai, Mạn Che Veronica (tấm vải che đầu Jesus), Vải Liệm Turin (tấm vải che thi thể Jesus) và Ngọn Giáo Longinus. Những Chén Thánh này đã bị phát tán khắp thế giới. Ngọn giáo Longinus cuối cùng được tìm thấy tại quê nhà bên trong một cột trụ của Vatican. Thập Giá Đích Thực bị tháo rời và các phần của nó về sau được chôn trong nhiều thánh đường và nhà thờ ở châu Âu và Hoa Kỳ. Những chiếc đinh của Thập Giá Đích Thực được nhổ ra và dùng để tạo nên Vương Miện Sắt Lombardy mà Napoleon đã tự sắc phong cho mình, cũng như Ngọn Giáo Thánh Maurice, còn gọi là “Ngọn Giáo Định Mệnh.” Đây là Ngọn Giáo Chén Thánh đắc giá của các thánh đế La Mã, và về sau là của Adolph Hitler.
Truyền thuyết kể rằng các Hiệp sĩ dòng Đền có lúc đã từng sở hữu tất cả những món đồ thời Khổ Nạn. Phần lớn trong số chúng được các tu sĩ chiến binh phát hiện trong Cuộc Thập Tự Chinh thứ tư khi họ bước chân vào một nhà nguyện nhỏ trong Cung điện Boukoleon ở Constantinople và khám phá ra nhiều món đồ thời Khổ Nạn cùng với thủ cấp của Jonh Tẩy Giả. Các hiệp sĩ sau đó tuyên bố rằng thủ cấp của John (gọi là Baphomet) cũng toả ra sức mạnh thần thánh tương tự như khi nó còn trên cơ thể vị Tẩy Giả, do đó khiến nó trở thành một Chén Thánh thực thụ. Vì John thời ấy được giới thân cận của dòng Đền gọi là “Đấng cứu thế và khai sinh Hội thánh” nên thủ cấp của ông ngay lập tức trở thành Chén Thánh được các hiệp sĩ mến mộ nhất.
Tranh minh hoạ thủ cấp của Thánh Jonh Tẩy Giả.
Các Chén Thánh khác trên thế giới
Trên thế giới, nhiều Chén Thánh đã nổi tiếng cả trước và sau sự kiện Khổ Nạn. Một Chén Thánh trước đó từ Thánh Địa là Chiếc ly của Solomon được làm từ một viên ngọc lục bảo lớn đã được phát hiện ở Địa Trung Hải. Viên đá quý ấy được trình lên vua Solomon. Vốn là một nhà giả kim nổi tiếng thế giới, về sau ngài đã khắc nó vào chiếc ly giả kim thuật. Dù Chiếc ly của Solomon không được biết đến nhiều, nhưng nhà thám hiểm và hoạ sĩ danh tiếng người Nga Nicholas Roerich khẳng định ông đã tìm thấy những truyền thuyết về nó trong Tu viện Solovetz của Nga. Sau khi nghiên cứu những truyền thuyết này, Roerich nhận xét: “Chiếc ly của Solomon tạo tác từ đá quý thật tuyệt vời. Trên chiếc ly khắc 3 câu thơ bằng ký tự Sumer mà không ai có thể giải nghĩa.”
Một Chén Thánh cổ khác có liên quan đến Sumer là Chén Sumer. Arthur Edward Waite cho biết ông nghiên cứu chén thánh này từ một đồng nghiệp là tiến sĩ Waddell. Có vẻ Waddell sở hữu một mảnh chén thánh. Waddell nói rằng những mảnh vỡ của Chén Sumer đã được khám phá tại phần móng nền của một toà tháp thuộc “Đền Mặt Trời cổ xưa nhất ở Lưỡng Hà.” Chiếc ly này được vua Udu xứ Kish, chắt của vua Dur, giấu ở đó từ xưa. Vị vua Sumer đầu tiên và người sở hữu ban đầu của chiếc ly dường như đã có được chiếc ly từ “những tín đồ thờ Serpent người Chaldean thổ dân” khi ông cải tục thờ rồng thành thờ Thần Mặt Trời. Vua Dur sau đó đã khắc lên chiếc ly “bản khắc lịch sử lâu đời nhất thế giới”, chứa cả một gia phả của những vị vua Sumer cổ xưa.
Đóng góp của Ba Tư vào danh sách Chén Thánh gồm có Jami-Jamshid, Chiếc ly của Jamshid, được vua Ba Tư Jamshid huyền thoại khám phá ra khi ông đang khai quật một thành cổ ở Trung Á.
Nhà thơ Ba Tư cổ Hafez đang quan sát Chiếc ly của Jamshid. Bản thảo tiếng Thổ Nhĩ Kỳ năm 1477, không rõ tác giả, từ Shîrâz, Iran.
Chiếc ly sáng bóng của Jamshid được làm từ ngọc lam tinh khiết có thể tiết lộ cả tương lai và biến một người bình thường thành thần thánh bất tử. Một Chén Thánh Ba Tư nổi tiếng khác được đặt tại cung điện vua Key-Khosrow. Được gọi là Nartmongue, “Chiếc ly của hiệp sĩ”, chiếc ly này được lưu truyền trong các hiệp sĩ Ba Tư ít nhất một ngàn năm trước khi các hiệp sĩ Arthur truy lùng Chén Thánh màu nhiệm của họ.
Các hiệp sĩ của vua Arthur tập trung tại Bàn Tròn quan sát hình ảnh của Chén Thánh.
Ở miền Viễn Đông, sự tồn tại của Chén Thánh cổ được gọi là Chiếc ly của Đức Phật đã được Nicholas Roerich phát hiện khi ông chu du khắp Trung Quốc và Mông Cổ những năm 1920. Các nhà sư Phật giáo cho Roerich biết nguồn gốc của chiếc ly nằm trong trong một Jataka – câu chuyện giai thoại trích từ cuộc đời của Đức Phật, nêu rằng:
Roerich thu thập thêm thông tin về Chiếc ly của Đức Phật khi ông ghé qua những thành phố trên Con Đường Tơ Lụa. Ông viết:
Phổ biến hơn Chiếc ly của Đức Phật là Vạc Hoàng gia Trung Hoa, một chiếc niêu vàng lớn từng mang đến sự trường sinh và hưng thịnh cho một số hoàng đế Trung Hoa trước đây. Vạc Hoàng gia nổi danh với đặc tính giả kim thuật và thần dược màu nhiệm trường sinh bất tử cho những bậc minh quân, như hoàng đế Hung-ti và Hán Vũ Đế nhân từ. Nhưng Vạc Vàng sẽ chỉ trợ giúp những vị minh quân.
Một vạc ba chân hay “ding” từ cuối thời nhà Thương, Trung Quốc.
Mặt khác, như trong trường hợp của hoàng đế tà ác Tần Thuỷ Hoàng của nhà Tần, Vạc Hoàng gia sẽ biến mất bí ẩn và ẩn mình cho đến khi có một người cầm quyền tài giỏi hơn lên ngôi.
Điều khiến một vật trở thành Chén Thánh là nó sở hữu một sức mạnh đặc biệt mà những người đạo Cơ Đốc gọi là Thánh Linh, những nhà giả kim gọi là Giả Kim Lực và những Hindu Yogis gọi là Kundalini. Truyền thuyết kể rằng nếu ta uống hoặc ăn bằng Chén Thánh, hay thậm chí chỉ sờ vào nó, sức mạnh từ nó sẽ đi vào cơ thể ta và bắt đầu quá trình chuyển hoá giả kim thuật giúp chữa lành, khai sáng và có thể còn khiến ta bất tử.

Tranh minh hoạ về chén thánh.
Chén Thánh nổi tiếng nhất trong lịch sử là Chiếc ly của Christ hay Chiếc ly của Joseph thành Arimathea. Đó là chiếc ly mà Joseph thành Arimathea lấy máu và mồ hôi của thánh Messiah sau khi ngài bị hạ xuống khỏi Thập tự giá, và đó cũng là chiếc ly mà chúa Jesus đã chuyền tay giữa các môn đồ trong Bữa Tiệc Ly Cuối Cùng. Theo một truyền thuyết, Tổng lãnh thiên thần Gabriel đã hướng dẫn Joseph và 11 môn đồ khác mang chiếc ly ấy và hai chiếc bình, hay “lọ”, chứa máu và mồ hôi của Jesus đến Glastonbury. Khi đã yên vị ở quê nhà mới, Joseph và các đồng môn của mình đã xây nên Nhà nguyện Thánh Mary, nơi về sau trở thành quách tích chứa chiếc ly và Giáo hội Kito giáo đầu tiên ở châu Âu. Nhà nguyện cuối cùng bị phá huỷ và thay thế bằng một nhà nguyện lớn hơn, sát nhập với kiến trúc của Tu viện Glastonbury. Trước khi Joseph qua đời, người ta truyền rằng ông đã chôn Chiếc ly của Christ trên một gò đất lớn ở Glastonbury mà ngày nay là Đồi Ly. Hay một truyền thuyết khác kể rằng Joseph đã giấu Chén Thánh trong Giếng Ly, nơi dòng nước ngày nay có màu đỏ máu, tượng trưng cho máu của thánh Messiah vẫn tiếp tục chảy ra để nuôi dưỡng và chữa lành mọi thứ tắm trong nó hoặc uống được nó.

Tàn tích của Tu viện Glastonbury ở Somerset, Anh. Ảnh: irisphoto1/Adobe Stock.
Theo một truyền thuyết khác liên quan đến Chiếc ly của Christ, sau khi chiếc ly của Joseph được Thánh Peter đưa đến La Mã, nó trở thành chiếc ly được các giáo hoàng đời đầu sử dụng chính thức trong Tiệc Thánh. Sau đó khoảng năm 258 TCN, khi hoàng đế La Mã Valerianus cứ hay tra khảo các giám mục và những quan chức cấp cao trong Giáo hội Công giáo, một binh lính Vatican đã mang chiếc ly đến Tây Ban Nha. Cuối cùng chiếc ly đến được Nhà thờ Valencia và trở nên nổi tiếng với tên gọi Santo Caliz của Valencia. Theo Vatican, đây mới là chiếc ly thực sự của Christ. Santo Caliz nghĩa là “Thánh Ly”, là một chiếc ly làm từ đá mã não đỏ đặt trên bệ trang trí công phu đính 27 viên ngọc trai, 2 viên hồng ngọc và 2 viên ngọc lục bảo. Trong khi chiếc ly đá mã não có từ thời của Christ, thì bệ trang trí chỉ mới được thêm vào sau này.

Người ta truyền rằng chỉ chiếc ly phía trên mới thiêng liêng, còn phần đế thì được thêm vào sau này.
Dù Chiếc ly của Christ thật sự đặc biệt, nhưng nó chỉ là một trong nhiều Chén Thánh có từ thời Khổ Nạn. Được gọi chung là Arma Christi, có những món đồ của thời Khổ Nạn đã trở nên thấm đẫm sức mạnh thần thánh của Jesus khi chạm vào cơ thể ngài và/hoặc chứa dịch thể của ngài. Các Chén Thánh của Arma Christi bao gồm Thập Giá Đích Thực mà Jesus bị đóng đinh trong sự kiện Đóng Đinh Thập Giá, Vương Miệng Gai, Mạn Che Veronica (tấm vải che đầu Jesus), Vải Liệm Turin (tấm vải che thi thể Jesus) và Ngọn Giáo Longinus. Những Chén Thánh này đã bị phát tán khắp thế giới. Ngọn giáo Longinus cuối cùng được tìm thấy tại quê nhà bên trong một cột trụ của Vatican. Thập Giá Đích Thực bị tháo rời và các phần của nó về sau được chôn trong nhiều thánh đường và nhà thờ ở châu Âu và Hoa Kỳ. Những chiếc đinh của Thập Giá Đích Thực được nhổ ra và dùng để tạo nên Vương Miện Sắt Lombardy mà Napoleon đã tự sắc phong cho mình, cũng như Ngọn Giáo Thánh Maurice, còn gọi là “Ngọn Giáo Định Mệnh.” Đây là Ngọn Giáo Chén Thánh đắc giá của các thánh đế La Mã, và về sau là của Adolph Hitler.
Truyền thuyết kể rằng các Hiệp sĩ dòng Đền có lúc đã từng sở hữu tất cả những món đồ thời Khổ Nạn. Phần lớn trong số chúng được các tu sĩ chiến binh phát hiện trong Cuộc Thập Tự Chinh thứ tư khi họ bước chân vào một nhà nguyện nhỏ trong Cung điện Boukoleon ở Constantinople và khám phá ra nhiều món đồ thời Khổ Nạn cùng với thủ cấp của Jonh Tẩy Giả. Các hiệp sĩ sau đó tuyên bố rằng thủ cấp của John (gọi là Baphomet) cũng toả ra sức mạnh thần thánh tương tự như khi nó còn trên cơ thể vị Tẩy Giả, do đó khiến nó trở thành một Chén Thánh thực thụ. Vì John thời ấy được giới thân cận của dòng Đền gọi là “Đấng cứu thế và khai sinh Hội thánh” nên thủ cấp của ông ngay lập tức trở thành Chén Thánh được các hiệp sĩ mến mộ nhất.

Tranh minh hoạ thủ cấp của Thánh Jonh Tẩy Giả.
Các Chén Thánh khác trên thế giới
Trên thế giới, nhiều Chén Thánh đã nổi tiếng cả trước và sau sự kiện Khổ Nạn. Một Chén Thánh trước đó từ Thánh Địa là Chiếc ly của Solomon được làm từ một viên ngọc lục bảo lớn đã được phát hiện ở Địa Trung Hải. Viên đá quý ấy được trình lên vua Solomon. Vốn là một nhà giả kim nổi tiếng thế giới, về sau ngài đã khắc nó vào chiếc ly giả kim thuật. Dù Chiếc ly của Solomon không được biết đến nhiều, nhưng nhà thám hiểm và hoạ sĩ danh tiếng người Nga Nicholas Roerich khẳng định ông đã tìm thấy những truyền thuyết về nó trong Tu viện Solovetz của Nga. Sau khi nghiên cứu những truyền thuyết này, Roerich nhận xét: “Chiếc ly của Solomon tạo tác từ đá quý thật tuyệt vời. Trên chiếc ly khắc 3 câu thơ bằng ký tự Sumer mà không ai có thể giải nghĩa.”
Một Chén Thánh cổ khác có liên quan đến Sumer là Chén Sumer. Arthur Edward Waite cho biết ông nghiên cứu chén thánh này từ một đồng nghiệp là tiến sĩ Waddell. Có vẻ Waddell sở hữu một mảnh chén thánh. Waddell nói rằng những mảnh vỡ của Chén Sumer đã được khám phá tại phần móng nền của một toà tháp thuộc “Đền Mặt Trời cổ xưa nhất ở Lưỡng Hà.” Chiếc ly này được vua Udu xứ Kish, chắt của vua Dur, giấu ở đó từ xưa. Vị vua Sumer đầu tiên và người sở hữu ban đầu của chiếc ly dường như đã có được chiếc ly từ “những tín đồ thờ Serpent người Chaldean thổ dân” khi ông cải tục thờ rồng thành thờ Thần Mặt Trời. Vua Dur sau đó đã khắc lên chiếc ly “bản khắc lịch sử lâu đời nhất thế giới”, chứa cả một gia phả của những vị vua Sumer cổ xưa.
Đóng góp của Ba Tư vào danh sách Chén Thánh gồm có Jami-Jamshid, Chiếc ly của Jamshid, được vua Ba Tư Jamshid huyền thoại khám phá ra khi ông đang khai quật một thành cổ ở Trung Á.

Nhà thơ Ba Tư cổ Hafez đang quan sát Chiếc ly của Jamshid. Bản thảo tiếng Thổ Nhĩ Kỳ năm 1477, không rõ tác giả, từ Shîrâz, Iran.
Chiếc ly sáng bóng của Jamshid được làm từ ngọc lam tinh khiết có thể tiết lộ cả tương lai và biến một người bình thường thành thần thánh bất tử. Một Chén Thánh Ba Tư nổi tiếng khác được đặt tại cung điện vua Key-Khosrow. Được gọi là Nartmongue, “Chiếc ly của hiệp sĩ”, chiếc ly này được lưu truyền trong các hiệp sĩ Ba Tư ít nhất một ngàn năm trước khi các hiệp sĩ Arthur truy lùng Chén Thánh màu nhiệm của họ.

Các hiệp sĩ của vua Arthur tập trung tại Bàn Tròn quan sát hình ảnh của Chén Thánh.
Ở miền Viễn Đông, sự tồn tại của Chén Thánh cổ được gọi là Chiếc ly của Đức Phật đã được Nicholas Roerich phát hiện khi ông chu du khắp Trung Quốc và Mông Cổ những năm 1920. Các nhà sư Phật giáo cho Roerich biết nguồn gốc của chiếc ly nằm trong trong một Jataka – câu chuyện giai thoại trích từ cuộc đời của Đức Phật, nêu rằng:
“…từ tứ địa linh, tứ đại vệ thần xuất hiện… họ mang đến bốn chiếc ly làm từ hắc thạch và [Đức Phật] với lòng trắc ẩn dành cho bốn bậc trí giả, đã nhận lấy bốn chiếc ly. Ngài xếp chồng những chiếc ly và niệm chú: “Hãy hoà làm một!” Và rồi cạnh ngoài của 4 chiếc ly biến thành những đường viền. Cả 4 chiếc ly đã hoà thành một. Đức Phật nhận thức ăn trong chiếc ly mới tạo sinh, thưởng thức và gửi lời cảm tạ.”
Roerich thu thập thêm thông tin về Chiếc ly của Đức Phật khi ông ghé qua những thành phố trên Con Đường Tơ Lụa. Ông viết:
“Karashahr là… nơi an nghỉ cuối cùng của Chiếc ly của Đức Phật, theo như các sử gia trích dẫn. Chiếc ly của Đức Thế Tôn được mang đến đây từ Peshwar và cũng đã biến mất tại đây. Người ta truyền rằng “Chiếc ly của Đức Phật sẽ lại được tìm thấy khi thời đại của Shambhala (Thời Hoàng Kim) đến gần.”
Phổ biến hơn Chiếc ly của Đức Phật là Vạc Hoàng gia Trung Hoa, một chiếc niêu vàng lớn từng mang đến sự trường sinh và hưng thịnh cho một số hoàng đế Trung Hoa trước đây. Vạc Hoàng gia nổi danh với đặc tính giả kim thuật và thần dược màu nhiệm trường sinh bất tử cho những bậc minh quân, như hoàng đế Hung-ti và Hán Vũ Đế nhân từ. Nhưng Vạc Vàng sẽ chỉ trợ giúp những vị minh quân.

Một vạc ba chân hay “ding” từ cuối thời nhà Thương, Trung Quốc.
Mặt khác, như trong trường hợp của hoàng đế tà ác Tần Thuỷ Hoàng của nhà Tần, Vạc Hoàng gia sẽ biến mất bí ẩn và ẩn mình cho đến khi có một người cầm quyền tài giỏi hơn lên ngôi.
Dịch bởi Kenhsinhvien.vn
(Theo Ancient Origins)
(Theo Ancient Origins)