- Không thể có chuyện ngẫu nhiên – Cuối cùng holmes kêu lên, từ chiếc ghế bành bật đứng dậy, lồng lộn như một con dã thú trong phòng – Đây không thể là một việc ngẫu nhiên được. Chính những viên thuốc mà tôi đã ngờ tham dự vào cái chết của Drebber, ta đã gặp lại chúng ở cái chết của Stanggerson. Vậy mà hiện giờ chúng lại không có tác dụng gì cả, thế là làm sao? Tôi đoán ra rồi!
Reo lên một tiếng mừng rỡ, holmes nhảy bổ về phía hộp thuốc, bẻ viên thuốc thứ hai làm đôi, lại thả một nửa vào cốc nước, cho thêm sữa rồi cho con chó uống. Lưỡi con chó chỉ vừa mới chạm vào chỗ nước ấy là toàn thân nó đã co giật dữ dội rồi nó nằm vật ra ngay đơ.
Holmes hít một hơi thở dài, quệt mồ hôi đọng trên trán:
- Trong hai viên thuốc vừa rồi, một viên chứa thuốc độc cực mạnh còn viên kia thì vô hại. Lẽ ra tôi phải hiểu điều đó ngay trước khi mở hộp.
Lời khẳng định này quá đỗi kỳ dị khiến tôi khó mà tin rằng bạn tôi còn đầy đủ lý trí. Tuy nhiên con chó chết nằm kia, nó chứng tỏ giả thiết của holmes là đúng. Tôi thấy hình như đám sương mù trong đầu tôi dần dần tan đi.
- Những điều này đối với các ông có vẻ lạ lùng – holmes nói tiếp - Ấy là vì ngay từ đầu cuộc điều tra, các ông đã không nắm được các dấu vết quan trọng ở trước mắt các ông. Tôi có cái may mắn là đã không để lọt cái dấu vết ấy, và tất cả những sự việc diễn ra sau đấy đều xác nhận giả thiết đầu của tôi. Việc khám phá vụ án này sẽ vô cùng khó khăn nếu như ta tìm thấy xác nạn nhân trên hè đường không kèm theo chi tiết nào trong số những chi tiết phụ lạ lùng và khác thường. Những chi tiết kỳ quái ấy, không làm cho vụ án khó khăn thêm mà…
Greson nghe bài diễn văn nhỏ của holmes với vẻ hết sức nôn nóng, cuối cùng không kìm được thêm nữa:
- Chúng tôi thừa nhận là ông có những phương pháp làm việc riêng rất độc đáo. Nhưng, giờ đây vấn đề là phải bắt được hung thủ. Bây giờ chúng tôi xin hỏi thẳng là ông đã biết hung thủ là ai chưa?
Lestrade phụ hoạ thêm:
- greson nói có lý, ông holmes ạ. Chúng tôi đã cố công gắng sức nhưng đều đã thất bại.
Tôi cũng thêm ý kiến:
- Mọi sự chậm trễ torng việc bắt giữ hung thủ có thể làm cho nó có thời gian gây thêm án mạng mới.
Bị mọi người dồn ép như vậy, holmes có vẻ lưỡng lự. Anh tiếp tục đi đi lại lại trong phòng, đầu gục xuống ngực, hai hàng lông mày nheo lại như thói thường ở anh trong những lúc mải mê suy nghĩ. Cuối cùng, holmes đột ngột dừng lại, nhìn thẳng vào mặt chúng tôi:
- Sẽ không xảy ra án mạng nào nữa. Các ông hỏi tôi có biết tên hung thủ không. Có, tôi biết. Tôi đã dự định bắt hắn từ lâu rồi, nhưng đây là một việc cần phải thận trọng, vì hắn là một kẻ lực lưỡng, khôn ngoan, liều lĩnh và được một kẻ không khéo giúp sức. Chừng nào hung thủ chưa biết chúng ta đã nắm trong tay mọi bằng chứng tố cáo hắn thì ta còn có cơ hội bắt hắn, nhưng nếu hắn có một chút nghi ngờ nào thì hắn sẽ thay tên đổi họ và tan biến vào bốn triệu dân của thành phố này. Tuy không muốn làm tổn thương đến tự ái của hai ông, nhưng thật sự tôi coi những người ấy mạnh hơn cảnh sát của Scotland Yard, bởi vậy tôi không yêu cầu các ông giúp đỡ. Nếu thất bại, một mình tôi chịu. Trong lúc này, khi nào tôi có thể thông báo với các ông mà không phương hại đến các sự bố trí của tôi thì tôi sẽ làm ngay.
Greson và lestrade, một người đỏ mặt đến tận chân tóc, một người mắt long lên vì tò mò ác cảm. Tuy nhiên, cả hai người chưa kịp nói lời nào thì đã có tiếng gõ cửa. thằng bé Uy-ghin ló đầu vào, giơ tay chào:
- Thưa ông, cháu đã gọi được một chiếc xe ạ.
- Giỏi lắm! – holmes nhẹ nhàng khen, rồi lôi trong ngăn kéo ra một vòng khoá tay bằng thép, nói tiếp: - Các ông ở Scotland Yard sao không dùng loại khoá tay này nhỉ. Các ông xem lò xo bật có lẹ không: vòng khoá bập vào trong nháy mắt.
Lestrade mỉa mai:
- Cái khoá kiểu cũ cũng khá tốt nếu như ta tìm được người để khoá.
- Được rồi, được rồi – holmes cười mỉm – Bác đánh xe sẽ giúp tôi một tay để buộc những chiếc va-li này. Uy-ghin bảo bác đánh xe lên đây.
Tôi ngạc nhiên thấy bạn tôi nói năng như thể sắp đi đâu xa mà chẳng nói trước gì với tôi cả. Trong phòng có một chiếc va-li nhỏ. Holmes cầm lấy chiếc va-li tìm cách xiết chặt cái dây đai. Anh đang mải làm thì người đánh xe vào:
- Bác đánh xe, giúp tôi một tay thắt mấy cái đai này lại – holmes nói, không quay đầu lại.
Anh đang quỳ gối xuống sàn, cúi người trên chiếc va-li. Người đánh xe bước lại, vẻ lầm lì và ngờ vực, ấn tay lên chiếc va-li. Ngay lúc ấy, có tiếng lò xo bật đánh tách một cái và holmes đứng thẳng người lên, con mắt sáng ngời:
- Thưa các vị, tôi xin giới thiệu đây là Hope, kẻ đã giết Drebber và Stanggerson.
Toàn bộ sự việc diễn ra trong nháy mắt, nhanh đến nỗi tôi không kịp nhận ra. Tôi còn nhớ như in giây phút đó, vẻ mặt đắc thắng và giọng nói vang vang của holmes, gương mặt bàng hoàng và dữ dội của người đánh xe khi anh ta nhìn cái khoá tay sáng loáng như có phép thần thông đang xiết chặt lấy hai cổ tay anh ta. Tất cả chúng tôi đứng ngây ra như phỗng dễ đến một hai phút. Gầm lên một tiếng, người đánh xe vùng ra khỏi tay holmes, lao mình qua cửa sổ. Các ô cửa mảnh khảnh gẫy tan cùng với các ô kính nhưng hắn chưa nhô hẳn được người ra ngoài thì cả greson, lestrade lẫn holmes đã chồm lên người hắn, lôi ngược hắn vào trong phòng. Gã đánh xe khỏe và hung dữ đến nỗi hắn đã nhiều lần vùng ra được khỏi tám bàn tay chúng tôi. Mặt và bàn tay hắn bị rách toạc nhiều chỗ khi hắn lao qua cửa kính, nhưng sự chống cự của hắn không hề giảm đi chút nào. Mãi đến khi lestrade thọc tay được vào sau cổ áo hắn, làm hắn suýt nghẹt thở, hắn mới im. Dù sao chúng tôi phải trói cả chân tay hắn lại mới cảm thấy yên tâm. Sau đó, chúng tôi đứng dậy, mệt nhoài.
- Ta có chiếc xe của hắn bên dưới kia. Ta dùng xe ấy giải hắn. Bây giờ, nào các ông – holmes tươi cười – Tấm màn bí ẩn đến đây đã được vén lên rồi. Các ông muốn hỏi tôi câu gì thì hỏi.
8. Bình nguyên chết.
Nằm ở phần giữa Bắc Mỹ là một dải đất hoang vu và cằn cỗi. Trong nhiều năm dài, nó như một cái hàng rào ngăn chặn bước tiến của nền văn minh. Suốt từ dãy núi Sierra Nevada đến bang Nébraska, từ con sông Yellowstone ở phía Bắc đến bang Colorado ở phía Nam là cả một vùng hoang vắng im lìm. Cảnh vật trên thay đổi tuỳ theo từng vùng. Nơi là những rặng núi hùng vĩ với những đỉnh cao đầy tuyết, nơi là những thung lũng tối đen, sầu thảm. Nơi lại là những con sông chảy xiết với dòng nước ào ào băng qua những hẻm núi và những cánh đồng bao la, mùa đông tuyết trắng, mùa hè xám xịt. Tuy nhiên, tất cả những cảnh vật rất khác nhau ấy đều có chung những đặc điểm là cằn cỗi, là hiểm ác, là đói khát.
Không ai sinh sống tại xứ sở vô vọng này. Hoạ hoằn mới có một toán người da đỏ vượt qua nó, đi tìm những vùng đất săn bắn mới, song họ cũng phải lánh xa những cánh đồng ấy và trở lại những đồng cỏ cũ của họ. Con sói náu mình trong bụi cây xơ xác, con chim ó đập cánh nặng nề trên không và con gấu xám vụng về kê chân trong những khe núi u tối. Đó là những dân cư hiếm hoi ở dải đất hoang vu này.
Trên khắp thế giới, không thể có cảnh tượng nào sầu thảm hơn cảnh tượng trải ra dưới mắt khi ta đứng ở triền phía bắc rặng núi Sierra Blanco nhìn xuống. Trải dài ra xa đến tận cùng của tầm mắt là một vùng đồng bằng mênh mông phẳng lì, nham nhở những khoanh đất và những bụi cây lùn tịt. Ở tận cùng chân trời nổi lên một dãy núi dài với sườn núi dựng đứng và đỉnh núi loang lổ tuyết. Trên cả vùng đất bao la, không có một dấu hiệu về sự sống, không có lấy một cánh chim trên bầu trời xanh biếc, không có lấy một vật di động trên mặt đất thê lương. Bao trùm lên tất cả sa mạc mênh mông này chỉ có sự im lặng, ghê rợn. Ở trên vừa mới nói là không có một thứ gì liên quan đến sự sống trên dải đất này. Điều đó không hoàn toàn đúng. Khi đứng trên rặng núi Sierra Blanco nhìn xuống dưới, ta nhận thấy có một con đường mòn nhỏ xíu, như một sợi chỉ ngoằn ngoèo uốn khúc qua sa mạc và chìm đi ở cuối tầm mắt. Những bánh xe đã in lằn xuống thành rãnh trên con đường này, bàn chân của nhiều kẻ phiêu lưu đã dẫm lên đó. Rải rác dọc con đường có rất nhiều vật gì trăng trắng, bóng lên dưới ánh nắng mặt trời và nổi lên trên lớp đất buồn thảm. Hãy lại gần, nhìn xem. Đó là những chiếc xương. Chiếc thì to và thô kệch, chiếc thì nhỏ hơn, xương to là xương bò, xương nhỏ là xương người. suốt con đường dài trên hai nghìn kilômet, rải rác hài cốt của những kẻ đã ngã xuống.
Ngày 4 tháng 5 năm 1847, có một người bộ hành cô đơn đứng ở đúng vị trí nói trên nhìn xuống cảnh ấy. Khó nói được tuổi ông ta khoảng bốn mươi hay sáu mươi. Khuôn mặt gầy và dữ tợn, xương trồi lên nhọn hoắt dưới lớp da đen sạm và nứt nẻ, tóc dài và đen, râu có nhiều sợi bạc, hai con mắt lõm sâu trong hai hốc mắt rực lên một ánh khác thường, và bàn tay xương xẩu nắm lấy khẩu súng trường. Ông ta đứng đó, dựa người vào khẩu súng, bộ mặt chỉ còn da bọc xương cũng như bộ quần áo rộng thùng thình trên đôi chân và đôi tay khẳng khiu chỉ rõ nguyên nhân của vẻ tàn tạ và già nua: người này sắp chết vì đói và khát.
Ông ta lần bước xuống khe núi rồi lại leo lên tận mỏm đồi thấp này để nhìn xem chỗ nào có dấu hiệu của nước. Ông ta lo lắng nhìn về phương Bắc, phương Đông rồi phương Tây và hiểu rằng những cuộc hành trình tứ xứ của mình sẽ kết thúc ở đây, trên tảng đá cằn cỗi này.
- Tại sao lại không phải là ở đây, sau hai mươi năm nữa? – Ông ta thì thào rồi ngồi xuống dưới bóng một tảng đá.
Trước khi ngồi, ông ta đặt khẩu súng và một túi đồ buộc trong chiếc khăn quàng. Tức thì cái túi ấy vọng ra một tiếng rên nho nhỏ và một gương mặt hiện ra.
- Bác làm cháu đau rồi đấy – Một giọng trẻ thơ khẽ trách.
- Thật ư, cháu? – Người đàn ông trả lời, ân hận – Bác lỡ tay mà.
Vừa nói ông ta vừa cởi tấm khăn xám, để lộ ra một bé gai khoảng năm tuổi. Đôi giày nhỏ nhắn với chiếc váy hồng đỏm dáng dưới chiếc tạp dề nhỏ nói lên sự chăm sóc của một người mẹ. đứa trẻ xanh xao và mệt mỏi, nhưng không bị suy sụp bằng người đồng hành của nó.
- Còn đau không, cháu? – Người đàn ông lo lắng hỏi, vì đứa bé vẫn xoa những búp tóc quăn vàng óng rối bù đằng sau gáy.
- Bác hôn vào đây chữa đền cháu đi – Đứa bé nói với vẻ nghiêm trang thật sự, tay chỉ vào chỗ đau – Mẹ cháu vẫn làm thế. Mẹ cháu đâu rồi?
- Mẹ cháu đi rồi. Tí nữa cháu sẽ gặp mẹ cháu.
- Đi rồi ạ? Lạ nhỉ, mẹ cháu đi mà không chào cháu. Bác ơi, khát quá! Không có nước sao? Bác không có gì để ăn sao?
- Không có, cháu ạ. Cháu cố chờ một chút rồi sẽ ổn. Cháu dựa đầu vào bác đây, như thế cháu sẽ cảm thấy dễ chịu hơn. Cháu có cái gì đấy?
- Cháu có cái này đẹp lắm – Đứa bé reo lên, giơ ra hai mẩu mi-ca óng ánh – Khi về đến nhà, cháu sẽ cho anh cháu.
- Rồi cháu sẽ thấy những thứ còn đẹp hơn thế. Chỉ cần cố nán chờ một lát. Cháu còn nhớ lúc chúng ta rời khỏi dòng sông không?
- Dạ có.
- Thế đấy! lúc ấy chúng ta tính sẽ gặp được một con sông khác. Nhưng chúng ta không gặp sông. Nước mỗi lúc một ít. Chỉ còn một hai giọt cho các cháu nhỏ, và…và…
- Và bác không rửa mặt được – Đứa bé xen ngang, giọng nghiêm trang, mắt nhìn chằm chằm vào bộ mặt nhem nhuốc của ông già.
- Đến nước uống còn không có, cháu ạ. Ông Ben-dơ là người đầu tiên ra đi, rồi đến anh da đỏ Pi-tơ, rồi bà Grê-go, rồi Giôn-ni, và sau cùng là mẹ cháu.
- Thế là mẹ cháu… Mẹ cháu cũng chết rồi! – Đứa bé kêu lên, lấy tạp dề che mặt và khóc nức nở.
- Phải, tất cả đã chết hết, chỉ còn lại có bác cháu ta. Lúc đó ta tưởng may ra có thể tìm thấy nước ở mạn này.
- Bác bảo là cháu và bác sẽ chết hết à? – Đứa bé thôi khóc, ngẩng bộ mặt đầm đìa nước mắt lên.
- Ta nghĩ chắc sẽ gần như vậy.
- Sao bác không nói ngay? – Đứa bé reo lên với một tiếng cười vui vẻ - Bác đã làm cháu sợ quá! Nếu bác và cháu chết thì sẽ được gặp mẹ cháu.
- Phải, cháu sẽ đến với mẹ cháu.
- Cả bác nữa. Cháu sẽ kể là bác tốt với cháu biết bao. Mẹ cháu sẽ ra đón bác ngay cổng Thiên đường, với một cái xô đầy nước và những chiếc bánh ngọt bằng lúa mạch thật nóng. Còn lâu nữa không bác?
- Không lâu lắm đâu.
Trên bầu trời xuất hiện ba cái chấm nhỏ đang tiến về phía họ, mỗi lúc một to hơn. Chẳng mấy chốc, ba cái chấm ấy trở thành ba con chim nâu to lớn, chúng bắt đầu lượn thành vòng tròn trên đầu hai kẻ lang thang, rồi đậu trên những tảng đá mọc chìa ra. Đó là những con ó của miền Tây, những con chim báo hiệu cái chết.
- Ô, gà, bác kìa! – Đứa bé kêu lên vui vẻ, chỉ về phía những con chim mang điềm gở, vỗ hai tay vào với nhau để xua chúng bay đi – Bác ơi, có phải là Chúa tạo ra vùng này không?
- Ừ.
- Chúa đã tạo ra vùng đất đằng kia, ở bang Illinois. Chúa đã tạo ra bang Missouri – Đứa trẻ nói tiếp.
- Chắc là một Chúa khác đã tạo ra đất này. Đất ở đây còn xa mới bằng được các nơi kia. Chúa đã quên làm cho ở đây có nước và cỏ cây.
- Này, bác cháu ta cầu kinh nhé? – Người đàn ông dè dặt hỏi.
- Đã đến tối đâu.
- Không cần đến tối.
- Thế bác, sao bác không cầu kinh? – Đứa bé hỏi, đôi mắt ngạc nhiên.
- Ta không thuộc. Ta đã không đọc kinh từ khi ta mới cao bằng nửa khẩu súng này. Cháu cầu kinh, bác đọc theo.
- Thế thì bác phải quỳ xuống – Đứa bé rải tấm khăn xuống đất để quỳ - Bác phải đặt bàn tay như thế này. Như thế là ngoan hơn.
Hai người quỳ gối bên cạnh nhau trên tấm khăn nhỏ. Gương mặt bầu bĩnh của đứa trẻ và bộ mặt gân guốc dữ tợn của người đàn ông cùng ngửa lên bầu trời. Cầu kinh xong, họ lại trở về ngồi bên bóng của tảng đá cho đến khi đứa trẻ ngủ thiếp đi. Đã ba ngày đêm liền, ông ta không cho phép mình dừng bước hoặc nghỉ ngơi. Từ từ mí mắt ông ta cụp xuống, đầu gục xuống mỗi lúc một thấp hơn cho đến khi bộ râu hoà vào những búp tóc vàng và cả hai đi vào một giấc ngủ sâu lắng, không mộng mị.
Nếu thức đêm nửa giờ nữa, ông ta sẽ được thấy một cảnh tượng kỳ lạ. Từ xa, từ rất xa, bốc lên một đám bụi nhỏ mờ mờ, rất nhỏ và rất nhẹ đến nỗi khó phân biệt nó với lớp sương mù. Những đám bụi ấy tiếp tục bốc lên, lớn lên cho đến khi tạo thành một đám mây bụi rõ rệt. rồi đám mây ấy cũng không ngừng lớn lên. Ở những mảnh đất phì nhiêu hơn, ai thấy cảnh ấy cũng sẽ cho rằng đây là đàn bò rừng đang tiến về phía mình. Nhưng ở vùng đất hoang vắng này, điều đó không thể có. Khi đám mây bụi đến hiện ra những mui vòm phủ bạt của những chiếc xe ngựa vượt sa mạc, và hình bóng thấp thoáng của những người cưỡi ngựa có vũ khí, cho thấy đây là một đoàn xe rất dài đang tiến về phía Tây. Đầu đoàn xe đã tới chân núi mà đuôi đoàn xe vẫn còn chìm khuất ở cuối đường chân trời. Phụ nữ bước đi khó nhọc dưới gánh nặng trên vai. Trẻ em chạy lon ton bên cạnh các cỗ xe hoặc tò mò nhìn vào những thứ dưới mui vải bạt. Từ khối người to lớn này vang lên một tiếng ì ầm hỗn độn, xen lẫn tiếng ngựa hí và tiếng bánh xe rầm rập. Tiếng ì ầm ấy lớn đến vậy song vẫn không đánh thức nổi hai ông cháu.
Đi đầu đoàn người di cư là một nhóm khoảng hai mươi người cưỡi ngựa. Đến chân tảng đá, họ dừng ngựa, quay lại với nhau, dường như để hội ý.
Một người không râu, tóc hoa râm, nét mặt độc ác nói:
- Giếng nước ở về phía bên phải, giáo hữu ạ.
Một người khác nói tiếp:
- Ở về phía bên phải rặng núi Sierra Blanco. Theo đường đó, chúng ta sẽ tới con sông Rio-Grande.
Người thứ ba nói lớn:
- Ta chớ sợ hãi trước sự xuất hiện của dòng nước.
- Đấng tối cao đã làm cho dòng nước tuôn ra từ đá, sẽ không từ bỏ đám dân mà Người đã tuyển chọn.
- A men! A men! – Cả nhóm người đáp lại.
Họ sắp sửa lại lên đường thì một người reo lên một tiếng kinh ngạc và chỉ tay về tảng đá ở phía trên đầu họ. Ở chỗ ấy có một mẩu vải màu hồng phấp phới bay. Nhìn thấy thế, họ ghìm ngựa lại, cầm súng lăm lăm trong khi những người khác phi ngựa đến tăng cường. Những tiếng “bọn da đỏ” được lan truyền trên cửa miệng mọi người.
- Ở đây không có bọn da đỏ - Một người đứng tuổi xem chừng là thủ lĩnh nói – Ta đã vượt núi.
- Giáo hữu Stanggerson, tôi xin đi trinh sát – Một người trong toán nói.
- Tôi nữa. Tôi nữa – Khoảng một chục giọng nói khác cùng vang lên.
Người tên là Stanggerson trả lời:
- Các bạn trẻ hãy để ngựa lại đây, chúng ta sẽ chờ.
Thoáng một cái, mấy người trai trẻ đã xuống ngựa, chạy bay lên sườn dốc đứng. Sau một thoáng, bóng của họ nổi bật trên nền trời. Người thanh niên đã báo động cho cả đoàn dẫn đầu, cả toán theo sau. Bỗng họ thấy gã giơ cả hai tay lên trời với động tác của một người quá đỗi ngạc nhiên. Khi họ đến chỗ gã, họ cũng không kém kinh ngạc.
Nằm dựa trên tảng đá là một người đàn ông và một bé gái. Đầu đứa bé đặt trên mảnh áo nhung trên ngực người đàn ông. Đôi môi hồng hé mở của đứa bé để lộ hàm răng trắng đều đặn. đôi chân bụ bẫm mang tất dài xỏ trong một đôi giày xinh xắn tương phản với đôi chân khẳng khiu, khô đét của người đàn ông. Đậu trên đỉnh tảng đá, nhìn xuống cặp lữ khách kỳ quặc này là ba con ó lớn. Thấy đám người mới đến, chúng kêu lên những tiếng thất vọng, rồi không chờ đợi nữa, nặng nề vỗ cánh bay đi.
Tiếng kêu của những con chim đã đánh thức hai người họ. Họ nhìn xung quanh với một vẻ cực kỳ sửng sốt. Người đàn ông lảo đảo đứng dậy, nhìn xuống bình nguyên, thấy một đám người chen chúc, ông ta đưa bàn tay xương xẩu lên dụi mắt, lẩm bẩm:
- Ta mê sảng chăng?
Đứa bé gái nắm lấy gấu tạp dề, im lặng nhìn khắp xung quanh.
Một người trong đám ấy đặt đứa bé lên vai mình, trong khi những người khác dìu người đàn ông về chỗ các xe ngựa. Người đàn ông nói:
- Tôi tên là John. Cả một đoàn người hai mươi mốt người chỉ còn lại có tôi và đứa trẻ này. Những người kia đã chết ở đằng kia, phía phương Nam.
- Có phải con gái ông đấy không?
- Bây giờ nó mới là con tôi. Kể từ hôm nay, nó mang tên là Lucy. Thế còn các ông là ai? – Ông ta tò mò nhìn những người đã cứu mình.
Một trong số những người trai trẻ kia đáp:
- Chúng tôi gần mười nghìn người. Chúng tôi là những đứa con bị ngược đãi của Chúa, những người dân được thiên thần Mérona tuyển chọn.
Người đàn ông đáp:
- Tôi chưa bao giờ được nghe nói. Vị thiên thần ấy đã tuyển chọn quá nhiều đấy.
- Không được giễu cợt những điều thiêng liêng – Giọng người kia nghiêm khắc – Chúng tôi là những tín đồ ở các Thánh kinh của thiên thần Mérona. Chúng tôi xuất phát từ Nauvoo bang Illinois, nơi chúng tôi đã dựng lên ngôi đền của đạo chúng tôi. Chúng tôi đi tìm một nơi ẩn náu xa bọn người bạo tàn vô Chúa, một nơi mà chúng tôi sẽ phải tìm ra ở trung tâm sa mạc.
Cái tên Nauvoo gợi lại một vài ký ức cho John. Ông nói:
- Tôi biết rồi. Các ông là người Mormons.
- Phải – Đám người kia đồng thanh trả lời.
- Các ông định đi đâu?
- Chúng tôi không biết. Bàn tay của Chúa dẫn dắt chúng tôi thông qua vị giáo chủ. Ông phải ra trình diện trước giáo chủ.
Lúc đó, họ đã xuống đến chân đồi. Nhiều tiếng kêu kinh ngạc và thương xót vang lên khi họ thấy hai người lạ mặt kiệt quệ. Đám người kia không dừng lại mà dẫn họ đi tiếp cho đến khi tới một chiếc xe khác biệt hẳn với các xe khác. Chiếc xe này có sáu ngựa kéo trong khi các xe khác chỉ hai hoặc bốn ngựa. Ngồi bên cạnh người đánh xe là một người đàn ông tuổi không quá ba mươi, nhưng cái đầu bề thế và nét mặt kiên nghị cho thấy là một kẻ biết điều khiển người khác. Khi đám người kéo tới, người ấy bỏ quyển sách xuống, chăm chú nghe kể lại. Sau đó, người ấy quay sang hai kẻ phiêu bạt:
- Nếu các người muốn được thu thập vào đoàn chúng tôi, ta chỉ có thể nhận các người như những tín đồ thuộc đạo giáo chúng ta. Thà để cho xương các người phơi trắng trên sa mạc hơn là để cho các người trở thành một vết hư trong chúng ta. Các người có muốn gia nhập đoàn chúng tôi với điều kiện ấy không?
- Tôi xin gia nhập với bất kỳ điều kiện nào.
- Giáo hữu Stanggerson, hãy mang đồ ăn và thức uống đến cho hắn, và cả đứa trẻ nữa. Giáo hữu còn có nhiệm vụ dạy cho hắn tín ngưỡng của chúng ta. Thôi. Ta đi thôi. Tiến lên! Tiến về Sion!
- Tiến lên! Tiến về Sion!
Đám người Mormons đồng thanh nhắc lại, và những tiếng đó truyền đi từ miệng người này sang miệng người khác dọc theo cả đoàn người dài dằng dặc cho đến khi chìm đi thành một âm thanh mơ hồ ở tít xa xa. Tiếng roi ngựa quất, tiếng xe kéo kẹt chuyển mình, cỗ xe lớn lăn bánh trước, rồi cả đoàn xe một lần nữa lại ra đi theo con đường mòn lượn khúc trên bình nguyên. Stanggerson đưa họ đến cỗ xe của mình, ở đó đã dọn sẵn một bữa cơm.
- Các người chớ quên rằng bây giờ và mãi mãi sau này các người là thành viên của đạo giáo chúng tôi.
9. Bông hoa Utah.
Từ bờ sông Mississipi đến triền phía tây của rặng núi đá, những người dân cư Mormons khôngnngừng đấu tranh với thú dữ, đói khát, bệnh tật, và những đoàn người thù địch… Tất cả đều đã vượt qua nhờ ở tính kiên trì và quả cảm của giống người Anglo-Saxon. Tuy vậy, cuộc hành trình dài cùng với những nỗi thống khổ đã làm lung lay cả những trái tim vững vàng nhất. Không ai không quỳ xuống, lầm rầm đọc một bản kinh cầu tạ ơn khi họ nhìn thấy thung lũng Utah rộng lớn và ngập nắng mà giáo chủ của họ bảo rằng sẽ vĩnh viễn thuộc về họ.
Young là một nhà cai trị khôn khéo và kiên quyết. Ông ta cho vẽ bản đồ, lập quy hoạch cho thành phố tương lai, phân chia đất đai tuỳ theo địa vị của từng người. Ai giỏi nghề nào tiếp tục làm nghề ấy. Họ ngả cây, đốn gỗ, san đất, cắm rào, đào mương, xẻ rãnh và mùa hè năm sau đất đai đã được phủ một màu vàng óng của lúa chín. Mọi sự trồng trọt và làm ăn đều phồn thịnh. Ngôi đền lớn dựng lên ở chính giữa thành phố mỗi ngày một cao hơn, rộng hơn. Từ bình minh cho đến hoàng hôn, tiếng búa, tiếng cưa không ngừng vang lên trong nhà thờ.
Cô bé Lucy được ngồi trên chiếc xe của tông đồ Stanggerson cùng với ba người vợ và đứa con trai mười hai tuổi của ông ta. Với sức bật của tuổi thơ, cô bé vượt qua được nỗi đau buồn mất mẹ và chẳng bao lâu, cô bé thích nghi với cuộc sống trong ngôi nhà đi động của mình và được các phụ nữ Mormons yêu quý. Sức khoẻ của John cũng đã được phục hồi, ông tỏ ra là một người dẫn đường hữu ích và một người đi săn không mệt mỏi.
Ông nhanh chóng được những người đồng hành quý trọng. Khi đến vùng đất hứa, họ nhất trí cấp cho ông một khoảnh đất to bằng phần đất của những kẻ được hưởng nhiều đặc quyền, chỉ kém có giáo chủ và bốn tông đồ: Stanggerson, Kim-bôn, Giôn-xtơn và Drebber.
Trên phần đất của mình, John dựng lên một ngôi nhà gỗ vững chãi, rồi xây thêm dần và chẳng bao lâu ngôi nhà ấy trở thành một biệt thự rộng lớn. Ông là một người khéo léo và nhanh nhẹn trong mọi công việc, làm việc suốt từ sáng đến tối. Sau ba năm, ông vượt hẳn những người láng giềng. Sau sáu năm, ông rất sung túc và sau chín năm, ông trở nên giàu có. Và sau mười hai năm kể từ ngày những người Mormons đến sinh cơ lập nghiệp tại đây, không có tới mười người có thể sánh kịp ông.
Ở ông, chỉ có một điều duy nhất khiến các người đồng giáo nghi ngờ: ông chưa để phụ nữ đến sống với ông theo phong tục đa thê. Ông không đưa ra một lý do gì, mà chỉ kiên quyết giữ vững ý định của mình. Người thì trách ông là không thiết tha với đạo giáo, người thì cho rằng ông muốn làm giàu nên mới sống độc thân. Có người lại nói đến một chuyện tình xưa, một cô gái tóc vàng đã chết bên bờ Đại Tây dương. Mặc ai muốn nói gì thì nói, ông dứt khoát sống với đứa con gái nuôi. Ngoài chuyện này ra, về tất cả mọi mặt khác, ông nổi tiếng là một tín đồ chính thống, công bằng chính trực.
Cô gái lớn lên trong ngôi nhà gỗ, giúp đỡ người bố nuôi trong mọi công việc. Nhờ không khí trong lành vùng núi và hương thơm của cây cỏ, Lucy ngày càng cao lớn, khoẻ mạnh, đôi má hồng hào, bước chân dẻo dai, uyển chuyển. như vậy đó, cái nụ hoa đã trở thành một bông hoa.
Một buổi sáng tháng sáu, trên con đường cái bụi mù có hàng đoàn la dài chở đầy hàng đi về hướng Tây vì cơn sốt vàng vừa mới bùng lên ở California. Con đường đến đó chạy qua thành phố Salt-lake. Trên đường còn có những đàn cừu và bê ăn cỏ ở những cánh đồng xa về và nhiều đoàn người di cư. Lucy cưỡi ngựa ra phố, hai má đỏ bừng bừng, mái tóc dài vàng óng bay phấp phới. Cô lách đường đi qua giữa đám người và vật đông đúc kia với tài nghệ của một người thành thạo. Như mọi lần, nàng cho ngựa phi như bay, chỉ nghĩ đến chuyện hoàn thành công việc cho bố. Người ta nhìn nàng với con mắt khâm phục và kinh ngạc, ngay cả những người da đỏ cũng xì xào về vẻ đẹp của nàng.
Khi ra tới rìa thành phố thì đường bị nghẽn vì có đàn bò lớn đi từ đồng cỏ về, nàng thúc ngựa theo một lối hở trong đàn bò. Nhưng vừa mới lọt vào trong đó thì đàn bò đã khép ngay lại và nàng bị vây vào giữa một biển di động những con bò sừng cong dài. Đã quen với việc chăn nuôi bò, ngựa, Lucy không hốt hoảng mà vẫn thúc ngựa tiến lên. Rủi thay, cặp sừng của một con bò húc mạnh vào sườn con ngựa. Nó hí vang, lồng lên, đứng thẳng trên hai vó sau, nếu nàng không giỏi tất đã bị hất ngã xuống rồi. Mà ngã xuống thì sẽ bị cả đàn bò giẫm nát ngay. Tình thế rất nguy hiểm. Con ngựa càng lồng, càng va đụng vào những chiếc sừng nhọn hoắc của bò, và nó càng điên lên. Cô gái cố giữ mình trên lưng ngựa, nhưng chẳng mấy chốc, ngột ngạt vì bụi cuốn lên mù mịt và hơi nước nồng nặc phả ra từ đàn bò, nàng choáng váng, đầu óc quay cuồng, tay cương lỏng đi. May thay, vừa vặn lúc ấy có một bàn tay rắn chắc nắm lấy hàm thiếc con vật hoảng loạn, vạch lối qua đàn bò, đưa nàng đến rìa thành phố.
- Cô có bị thương không?
Lucy ngước mắt lên nhìn gương mặt rám nắng, cương nghị rồi cười giòn giã:
- Ồ, không, may quá! Tôi bị một phen hú vía.
- Cũng may là cô còn ngồi vững trên yên – Người thanh niên kia có dáng dấp của người quen sống ở nơi hoang dã, vóc người cao lớn, cường tráng. Anh mặc bộ đồ đi săn dày, cưỡi con ngựa nâu cao khoẻ, vai đeo khẩu súng dài – Chắc cô là con gái ông John? Tôi đã thấy cô đi ngựa từ nhà ra. Nhờ cô về hỏi cụ nhà còn nhớ ông Hope ở Saint Louis không. Nếu đúng là ông John ấy thì cha tôi và cụ nhà là bạn thân với nhau.
- Sao anh không đến chơi, rồi hỏi thẳng cha tôi?
Anh thanh niên mừng rỡ trước lời mời gián tiếp:
- Tôi rất muốn đến, nhưng anh em chúng tôi vừa mới ở trên núi về, quần áo chưa được chỉnh tề, gia đình phải miễn thứ cho chúng tôi.
- Cha tôi phải cảm ơn anh nhiều, cả tôi nữa. Cha tôi rất quý tôi. Nếu tôi bị làm sao, chắc cha tôi sẽ buồn lắm.
- Cả tôi nữa.
- Cả anh nữa? Ô hay, anh đã quen biết gì tôi đâu? – Giọng cô gái vẫn mang vẻ nghịch ngợm, trêu chọc.
Nghe thấy vậy, gương mặt rám nắng của anh thanh niên tối sầm lại khiến Lucy bật cười:
- Ấy không, tôi không cố ý nói thế đâu. Anh đã là bạn của cả gia đình rồi. Anh phải đến chơi đấy nhé, còn bây giờ tôi phải đi đây. Tạm biệt!
- Tạm biệt!
Chàng trai tiếp tục đi theo mấy người bạn. họ mới thăm dò được một mỏ bạc trên vùng núi Nevada và giờ đây họ về Salt-lake tìm chỗ vay mượn tiền để khai thác. Hope say mê kinh doanh, nhưng đến hôm nay, cuộc gặp gỡ này làm đảo lộn nếp sống của anh. Hình ảnh cô gái tươi mát và lành mạnh như ngọn gió đã lay động trái tim rắn rỏi của anh. Khi nàng đi khuất, anh bỗng nhận ra một biến cố mới đã xảy ra trong đời anh, bây giờ tất cả mọi công việc đều không quan trọng bằng vấn đề mới mẻ vừa được đặt ra.
Chàng đến thăm ông John ngay tối hôm đó và nhiều buổi khác nữa. Bị giam chân ở thung lũng vì công việc, ông John háo hức muốn biết những tin tức bên ngoài trong mười hai năm qua. Những câu chuyện mà chàng kể làm say mê cô gái lẫn mgười cha. Anh đã từng làm đủ các nghề: hướng đạo, săn thú, tìm vàng, chăn bò. Ở đâu có những chuyện phiêu lưu mạo hiểm đòi hỏi sự gan dạ và lòng quả cảm là ở đó có mặt chàng.
Một buổi chiều hè, chàng ghìm con ngựa trước cổng trang trại của ông John. Lucy ra đón, chàng vắt dây cương lên hàng rào, rảo bước vào nhà. Nắm lấy hai bàn tay cô gái:
- Lucy, anh có việc buộc phải đi xa, em ạ. Anh chưa thể xin cha cho em đi cùng. Nhưng, hứa với anh đi, em sẽ đợi anh về nhé.
- Anh đi đâu, và bao giờ thì về? – Cô gái hỏi, lo lắng và thẹn thùng.
- Bọn anh bắt đầu đi khai thác những vùng mỏ mới ở Nevada, việc này chỉ mất độ hai tháng là xong.
Buổi chia tay diễn ra vội vàng, song nhiều bịn rịn. Chàng lên đường đã được ba tuần. Ông John thấy lòng se lại khi nghĩ đến ngày trở về của chàng rể và việc mình sẽ xa rời đứa con gái. Tuy vậy, gương mặt ngời sáng của nàng đã làm ông vui lòng với hôn ước này. Trong thâm tâm, ông vẫn không chịu để nàng lấy một người Mormons. Theo ông, một hôn nhân kiểu ấy là một điều ô nhục. Riêng về điểm này, không gì có thể lay chuyển được. Tuy nhiên, ông giữ kín quyết tâm ấy, nếu không, ông sẽ gặp nguy hiểm.
Đúng, một điều nguy hiểm. nguy hiểm đến nỗi ngay cả những người ngoan đạo nhất cũng chỉ dám thì thầm những ý kiến của mình về tín ngưỡng, tôn giáo. Cả toà án dị giáo thời trung cổ ở Tây Ban Nha, lẫn những hội kín ở Ý đều chưa biết lập một bộ máy nào ghê gớm bằng cái bộ máy đang phủ bóng đen lên toàn bộ vùng đất Utah. Nó như cái tai thắt ở khắp mọi nơi và có quyền lực vạn năng. Kẻ nào có ý tưởng thù nghịch với giáo phái sẽ bị mất tích một cách bí hiểm. Vợ con họ chờ họ ở nhà nhưng họ không bao giờ trở về để kể lại cho vợ con biết họ đã bị xét xử như thế nào.
Trước hết, cái thế lực mơ hồ và ghê gớm này giáng xuống những kẻ dao động, những kẻ đã quy theo đạo Mormons mà sau đó lại muốn sửa đổi hoặc từ bỏ đạo này. Nhưng chẳng bao lâu, cái thế lực ấy mở rộng phạm vi hoạt động của nó. Số phụ nữ trưởng thành trong cộng đồng giảm dần, nhưng nếu thiếu đàn bà con gái thì chế độ đa thê trở thành một giáo ghĩa vô giá trị. Đến khi ấy bắt đầu có những tin đồn lạ lùng có những người di cư bị giết hại, những khu trại bị cướp phá ở những nơi không bao giờ thấy bóng người da đỏ. Tại nhà các tông đồ thấy xuất hiện những người phụ nữ mới, nét mặt ủ ê, còn đượm rõ nỗi kinh hoàng…
Một buổi sáng, John sắp sửa đi thăm đồng bỗng nghe thấy chốt cổng ngoài hàng rào mở mạnh. Một người đàn ông mở cổng bước vào. Ông giật thót người, vì đấy chính là vị thủ lĩnh tối cao của người Mormons. Ông lo ngại, vội chạy ra cổng chào đón giáo chủ. Young lạnh lùng nhận lời chào của ông và theo ông vào phòng ăn, vẻ mặt nghiêm khắc.
Young ngồi xuống một chiếc ghế, nhìn chằm chằm vào John:
- Giáo hữu John, các tín đồ đã cư xử như những người bạn tốt với ông. Chúng ta đã cứu vớt ông lúc ông sắp chết, chúng ta đã chia sẻ cơm ăn áo mặc cho ông, chúng ta đã cấp cho ông một phần đất rộng lớn. Có đúng không?
- Thưa đúng.
- Để đổi lấy tất cả những ân huệ đó, chúng ta chỉ đặt ra có mỗi một điều kiện là ông hãy tuân theo mọi quy định của đạo giáo. Ông đã hứa tuân theo, nhưng cứ như những điều ta nghe được thì ông đã không tuân theo.
- Có điều gì mà tôi không tuân theo? Tôi đã chẳng đóng góp vào quỹ chung hay sao? Tôi đã chẳng siêng năng đi lễ hay sao?
- Vợ ông đâu? – Young hỏi, đưa mắt nhìn xung quanh – Ông hãy bảo những người vợ của ông ra đây để ta chào.
- Đúng là tôi chưa lấy vợ. Nhưng phụ nữ ở đây rất hiếm và có nhiều người khác được quyền ưu tiên hơn tôi. Vả lại đã có con gái tôi trông nom tôi rồi.
- Ta muốn nói với ông về đứa con gái này. Nó đã lớn, nó đã trở thành một bông hoa của Utah và nhiều người quyền cao chức trọng đã nhìn nó với con mắt ưa thích.
John thầm rên rỉ trong lòng.
- Người ta bảo rằng con gái ông đã được hứa hôn với một kẻ ngoại đạo. Có lẽ đó chỉ là những lời đồn đại nhảm nhí. Điều răn thứ mười ba của Joseph Smith dạy gì? “Con gái ngoan đạo phải lấy một trong những người con được Chúa tuyển chọn làm chồng, vì lấy kẻ ngoại đạo là một trọng tội”. Ông là tín đồ của Chúa, sao lại có thể để cho con gái vi phạm lời răn đó được?
John không trả lời, tay chỉ mân mê cái roi ngựa. Giáo chủ nói tiếp:
- Cô gái còn ít tuổi, chúng ta không muốn nó lấy một mái đầu bạc. Chúng ta cũng không muốn ngăn cản nó chọn lựa. Stanggerson có một con trai và Drebber cũng có một con trai. Nó hãy chọn một trong hai người ấy làm chồng. Họ đều giàu có, đều là những tín đồ chân chính. Ông có gì cần thưa lại với ta nữa không?
John im lặng một lát, vầng trán nhăn lại, cuối cùng ông nói:
- Xin giáo chủ hãy tha cho chuyện đó. Con gái tôi tuổi còn non.
Young đứng dậy:
- Nó được một tháng để chọn lựa. sau thời hạn ấy, nó phải quyết định.
Bước qua ngưỡng cửa, Young còn quay lại, nét mặt hầm hầm, giọng vang vang:
- John! Ông và con gái ông, các người thà cứ nằm phơi sương trên dải Sierra Blanco còn hơn là chống lại những mệnh lệnh của “Các vị Thánh ngày cuối”.
Sau một cử chỉ hăm doạ, Young quay đi và John nghe thấy tiếng chân nặng trình trịch trên lớp sỏi.
Ông vẫn còn ngồi đó, tỳ khuỷu tay lên đầu gối suy tính, thì một bàn tay dịu dàng khẽ đặt lên bàn tay ông. Ngước mắt lên, thấy gương mặt hoảng hốt của Lucy, ông hiểu là cô đã biết sự tình. Ông an ủi:
- Con đừng lo, cha sẽ thu xếp. Con không chịu khuất phục trước ý muốn của con người vừa rồi chứ?
Lucy chỉ đáp lại bằng tiếng sụt sịt và nắm tay siết mạnh.
- Tất nhiên rồi. Cha cũng không muốn con chịu khuất phục. Hope rất xứng đáng với con, nó hơn tất cả bọn con trai ở đây gộp lại. Ngày mai có một toán người đi Nevada, cha sẽ tìm cách nhắn tin. Nếu nó đúng là con người như ta đã biết, nó sẽ trở về nhanh hơn điện tín.
Lucy cười qua những giọt nước mắt trước sự so sánh của người cha già.
- Khi anh ấy về, anh ấy sẽ giúp được cha con mình. Nhưng con chỉ lo cho cha. Người ta kể những chuyện ghê sợ về những ai dám cưỡng lại mệnh lệnh của giáo chủ.
- Nhưng ta đã cưỡng lại đâu. Ta còn một tháng. Đến thời hạn ấy, chúng ta đã đi khỏi nơi đây rồi.
- Rời bỏ nơi đây?
- Chỉ còn cách đó.
- Còn trang trại thì sao?
- Cha sẽ chuyển thành tiền được càng nhiều càng tốt, còn thì bỏ lại hết con ạ. Cha không chịu cúi mình như những người ở đây.
- Họ không để cho mình đi đâu, cha ạ.
- Chờ Hope về, ta sẽ cùng thu xếp. Từ nay đến lúc đó, con không có gì lo sợ và cũng đừng khóc. Nếu không, khi gặp cha, nó sẽ trách cha đấy.
John nói với con bằng một giọng tin tưởng, tuy vậy, Lucy vẫn nhận thấy rằng tối hôm đó, ông cài cửa cẩn thận hơn mọi hôm, nạp đạn vào khẩu súng và treo trong phòng ngủ.
10. Chạy trốn
Sáng hôm sau, John ra thành phố nhắn tin cho Hope. Về đến nhà, ông ngạc nhiên thấy có hai con ngựa buộc ở hai cái cọc bên cổng. Ông càng ngạc nhiên hơn nữa khi thấy trong phòng ăn có hai người trẻ tuổi. Một người mặt tái mét, dài ngoẵng, ngồi lút trong chiếc ghế đu, chân gác lên bếp lò. Người kia cổ to như bò mộng, nét mặt phì nộn, đứng trước cửa sổ, tay đút túi, huýt sáo một bài hát. Cả hai nghiêng đầu chào khi John bước vào, và kẻ đang nằm dài trên chiếc ghế đu khơi chuyện:
- Có lẽ ông không biết chúng tôi. Đây là I-nốc Drebber, con trai Drebber, còn tôi là Giô-dép Stanggerson, con trai Stanggerson. Tôi đã đi cùng với ông khi Chúa chìa bàn tay ra và đưa ông trở lại bầy đàn chân chính.
- Nơi người sẽ dắt dẫn mọi dân tộc, vào giờ phút thích đáng – Gã con trai kia nói tiếp bằng giọng mũi.
John lạnh lùng gật đầu.
Stanggerson nói tiếp:
- Chúng tôi đến đây để xin con gái ông về làm vợ cho một trong hai người chúng tôi. Tôi mới có bốn vợ, và giáo hữu I-nốc Drebber bảy vợ. Như vậy tôi có lẽ được quyền ưu tiên hơn.
- Không! Không! – Gã kia vội kêu lên – Vấn đề không phải ở chỗ đã có bao nhiêu vợ, mà là có thể nuôi được bao nhiêu vợ. Cha tôi vừa mới cho tôi mấy nhà xay thóc, nên tôi là người giàu hơn.
- Nhưng triển vọng gia sản của tôi lại lớn hơn – Gã kia hung hăng đáp lại – Khi Chúa gọi cha tôi về hầu, tôi sẽ được thừa hưởng sản nghiệp thuộc da của cha tôi. Lúc đó tôi sẽ là tông đồ cấp cao hơn anh trong giáo hội.
- Cứ để cô gái quyết định – I-nốc Drebber nói, cười mỉm với hình ảnh của mình trong gương.
Trong lúc hai gã đối đáp nhau, John cố ghìm nén cơn giận để khỏi quất chiếc roi ngựa lên lưng họ.
- Này, các anh, khi nào con gái tôi gọi các anh đến thì các anh mới được đến. Nó chưa gọi thì đừng có vác mặt tới đây.
Hai gã trẻ tuổi nhìn nhau, ngơ ngác. Theo họ, đây là một vinh dự lớn cho người cha lẫn cô gái. John quát lên:
- Có hai lối ra khỏi phòng này, ra bằng cửa lớn và ra bằng cửa sổ. Các anh muốn ra bằng cửa nào?
Gương mặt và bàn tay John mang một vẻ hung tợn đến nỗi hai gã đứng bật dậy, vội vã bỏ về. John theo chân chúng đến tận cổng ngoài.
Stanggerson tức sùi bọt mép:
- Ông sẽ hối hận cho đến khi nhắm mắt.
- Bàn tay Chúa sẽ giáng xuống đầu ông. Chúa sẽ trừng trị ông – Drebber cũng hét lên trước khi hai gã phóng ngựa bỏ đi.
Ông già quay vào nhà, lấy tay chùi mồ hôi trên trán, nói với con:
- Bọn chó má! Cha thà thấy con nằm trong nấm mồ còn hơn làm vợ một trong hai đứa.
- Con cũng quyết thế - Cô gái trả lời với giọng rắn rỏi – Nhưng anh Hope chắc sắp về rồi.
- Ừ, chắc cũng không lâu, nhưng sớm ngày nào tốt ngày ấy.
Quả vậy, người trại chủ mạnh khoẻ cần có người giúp đỡ. Trong suốt lịch sử của cộng đồng này, chưa từng có trường hợp nào chống lại uy quyền của giáo chủ một cách ngang nhiên đến vậy. Những lỗi lầm nhỏ mọn mà còn bị trừng trị ghê gớm thì số phận của kẻ bất phục tùng này sẽ ra sao? John biết rằng tài sản và danh tiếng của ông chẳng giúp ông được gì. Đã có những người khác, giàu có và tiếng tăm như ông bị thủ tiêu và gia tài thì bị sung vào quỹ của giáo hội.
Sáng hôm sau, ông thấy một mẩu giấy gài trên tấm chăn ông đắp, đúng ngang ngực. Trên mẩu giấy có dòng chữ in đậm nét:
“Ngươi còn hai mươi chín ngày để sửa mình”.
Mẩu giấy ấy làm John lo sợ hơn bất kỳ lời đe doạ nào. Hai mươi chín ngày rõ ràng là thời hạn mà Young dành cho ông. Bàn tay đã gài mẩu giấy này rất có thể cắm mũi dao vào giữa tim ông.
Sáng hôm sau nữa, John còn hoảng hốt hơn. Hai cha con vừa ngồi vào bàn ăn buổi sáng thì Lucy kêu lên một tiếng kinh ngạc, giơ tay chỉ lên trần nhà. Ngay giữa trần có ai đã viết, có lẽ bằng một cái que cời lửa, con số “28”. Lucy chắc không thể hiểu ý nghĩa của con số đó, và John cũng không nói cho con hay. Duy có điều, đêm hôm ấy, ông cầm súng canh rất khuya. Ông không thấy bóng dáng một ai, không nghe thấy một tiếng động nào, thế mà sáng hôm sau trên mặt ngoài cánh cửa đã có một con số “27”.
Cứ như vậy, ngày tiếp ngày, ông nhận thấy các kẻ thù vô hình của ông đã tính sổ đều đặn và ghi số ngày trong thời hạn dành cho ông. Những con số đó được viết khi thì trên tường, khi thì trên sàn, thỉnh thoảng lại ghi trên những tấm bìa nhỏ đính ở cửa vườn hoặc ngoài hàng rào. Một cảm giác hãi hùng xâm chiếm lấy ông mỗi khi nhìn thấy những con số đó.
Con số 20 trở thành 15, rồi 10, vẫn không có tin tức gì về Hope. Mỗi lần có tiếng vó ngựa qua đường, người trại chủ già lại vội vã chạy ra hàng rào xem.
Nhưng đến khi ông thấy con số 5 bị thay thế bằng 4 rồi 4 bị thay thế bằng 3 thì ông hết hy vọng. Một thân một mình không thông thuộc đường đi trên các dãy núi bao quanh vùng, ông biết mình bất lực.
Một buổi tối, ông ngồi một mình suy nghĩ miên man, vô vọng. Sáng hôm ấy, con số 2 đã hiện trên tường và hôm sau sẽ là ngày của thời hạn đáng nguyền rủa. Trong bầu không khí im lặng buổi tối, ông bỗng nghe thấy tiếng gõ cửa rất nhẹ. John nhảy vọt đến cửa, rút chốt, mở toang cánh cửa.
Bên ngoài, cảnh vật rất yên tĩnh. Trong vườn, ngoài nhà, không thấy bóng một ai. Bỗng nhìn xuống chỗ gần chân mình, ông thấy một người nằm áp bụng xuống đất, vặn vẹo bò vào trong nhà, nhanh và lặng lẽ như một con rắn. Vào đến trong nhà, người ấy đứng bật dậy, đóng cửa lại và John nhận ra là Hope. Giọng anh khản đặc:
- Bác có gì ăn không? – Anh sà vào bàn, ăn hết chỗ thức ăn của bữa chiều còn lại, vừa ăn vừa hỏi chuyện – Lucy có khoẻ không bác?
- Nó khoẻ. Nhưng sao cháu lại đến đây bằng cách ấy?
- Nhà bác đã bị vây kín. Cháu phải bò từ xa đến đây. Chúng ghê lắm, nhưng vẫn không bắt nổi một thợ săn của vung rừng núi.
John phấn chấn xiết chặt bàn tay của người thanh niên:
- Chúng ta tính sao đây?
- Ngày mai là ngày cuối cùng, nếu ta không đi ngay đêm nay thì hỏng mất. Cháu có một con la và hai con ngựa buộc ở chỗ hẻm Đại Bàng. Bác hiện có bao nhiêu tiền?
- Bảy nghìn đô la.
- Thế là đủ. Cháu cũng có chừng ngần ấy. Ta phải đi về phía thành phố Crason qua đường núi. Bác đánh thức Lucy dậy đi.
Một lát sau, lợi dụng lúc một đám mây bay qua làm đêm tối thêm, ba người thận trọng mở cửa sổ, vượt qua vườn, rồi nín thở, khi thì gập người lại làm hai, khi thì dán bụng xuống đất, tiến dần đến hàng rào, nơi có một khe hở mở ra cánh đồng.
Bỗng chàng vội kéo hai người nấp vào một chỗ khuất. Kinh nghiệm của người thợ săn đã giúp cho chàng có đôi tai của mèo rừng. Ba người vừa nấp xong vào một chỗ tối đen, đã nghe thấy cách chỗ họ vài mét một tiếng hú buồn thảm của cú mèo. Một tiếng hú khác cũng ngay gần đấy đáp lại. Cùng lúc đó, một bóng người lờ mờ từ khe rào mà họ định tiến tới hiện ra, và tiếng hú ảo não kia lại nổi lên. Lúc ấy có một bóng người khác nhô ra từ trong tối. Chiếc bóng đầu tiên, có vẻ là một kẻ chỉ huy, nói:
- Ngày mai, vào lúc nửa đêm, khi chim kêu ba tiếng.
- Rõ. Có cần nói lại với giáo hữu Drebber không? – Bóng kia đáp lại.
- Báo cho Drebber biết mật hiệu và chuyển lại cho các giáo hữu khác. Chín còn bảy?
- Bảy còn năm – Bóng kia đáp lại rồi hai bóng người đi về hai hướng khác nhau.
Tiếng bước chân của chúng vừa mới chìm đi xa, cả ba người liền đứng dậy, vượt qua khe rào, chạy thật nhanh qua cánh đồng tới đường cái.
Ra tới đường cái, họ đi nhanh hơn. Trên đường, họ chỉ gặp có mỗi một người và kịp nấp tránh xuống bờ ruộng ven đường. Gần đến chỗ vào thành phố, người thợ săn rẽ sang một con đường đất gồ ghề nhỏ hẹp đi lên núi. Hiện ra lờ mờ trong bóng tối phía trên đầu họ là hai mỏm núi, giữa hai mỏm núi đó là hẻm Đại Bàng. Qua một lòng suối cạn nước, họ tới chỗ ẩn khuất đằng sau mấy tảng đá lớn, thấy ngựa và la vẫn còn. Cô gái ngồi trên lưng la, ông già với bọc tiền ngồi lên một con ngựa, còn người thợ săn dắt con ngựa kia.
Đường đi rất nguy hiểm, nhiều chỗ hẹp đến nỗi họ phải đi theo hàng một. Tới một chỗ hoang vắng và hiểm trở nhất của hẻm núi, bỗng Lucy khẽ kêu lên một tiếng, giơ tay chỉ lên mỏm núi. Một hình người đứng trên tảng đá mọc chìa ra bên trên con đường, nổi bật thành một bóng đen trên nền trời. Cùng lúc đó, người gác kia cũng nhìn thấy họ. Một tiếng “Ai?” lạnh sống lưng vang lên trong hẻm im lìm.
- Lữ khách đi Nevada – Hope đáp, tay đặt lên khẩu súng treo ở yên ngựa.
Họ thấy người gác lăm lăm khẩu súng, nhìn họ như chưa hài lòng với câu trả lời.
- Được phép ai chưa?
- Được phép của “Các vị Thánh ngày cuối” – John đáp. Những năm tháng sống với người Mormons đã dạy cho ông biết đấy là quyền lực cao nhất mà ông có thể viện ra.
- Chín còn bảy – Tên gác hỏi mật hiệu.
- Bảy còn năm – Hope đáp lại ngay, nhớ lại mật hiệu nghe được ở hàng rào bên vườn.
- Đi đi, và cầu Chúa phù hộ cho các người!
Sau khúc đó, con đường rộng dần ra, bằng phẳng hơn và họ có thể cho ngựa đi nước kiệu. Ngoái lại đằng sau, họ thấy bóng người gác chống súng xuống đất, họ biết là họ đã được tự do.
11. Báo oán
Những người chạy trốn đi suốt đêm, qua những đường đèo hiểm trở, dốc ngược và lởm chởm đá. Nhiều lần lạc đường, nhưng nhờ chàng trai thông thuộc vùng núi này nên họ lại tìm được phương hướng. Đến lúc trời rạng sáng, họ dừng lại bên một thác nước cho ngựa uống và để ăn vội bữa sáng. Lucy và ông John rất muốn nghỉ lâu hơn, nhưng người thợ săn nhắc nhở:
- Hiện giờ chúng đã bắt đầu đuổi theo. Thoát được hay không là tuỳ ở tốc độ của chúng ta. Tới được thành phố Carson là thoát.
Suốt ngày hôm ấy họ đi theo những con đường cheo leo, những hẻm núi nhỏ hẹp và đến chiều, họ tính đã ở cách xa kẻ thù khoảng ba mươi dặm. Đêm đến, chọn chỗ nghỉ ở chân một tảng đá mọc nhô ra để che bớt gió và nép người vào với nhau để có chút hơi ấm. Trước khi trời sáng, họ đã lên đường. Không thấy một dấu hiệu nào có người đuổi theo, Hope cho rằng họ đã thoát ra ngoài tầm tay của cái tổ chức khủng khiếp.
Đến khoảng trưa ngày thứ hai, chỗ lương thực ít ỏi mang theo bắt đầu cạn. Chàng trai không lo lắng. Chọn chỗ khuất, anh chất đống một ít cành cây khô, nhóm đống lửa lớn để ông John và Lucy sưởi, gió thổi mạnh và giá lạnh. Buộc ngựa xong, chàng khoác súng lên vai, đi kiếm thức ăn cho cả nhóm.
Chàng đi vài kilômet vào một hẻm núi, rồi đi tiếp sau một hẻm núi khác mà không gặp được một loại chim thú nào. Cuối cùng, sau hai giờ tìm kiếm, chàng nản chí, đã toan quay trở lại, bỗng nhìn thấy một con sơn dương, nó quay đầu về hướng khác, không thấy chàng. Chàng ngửa người, tì súng lên mép một tảng đá ngắm cẩn thận rồi mới bóp cò. Con vậy lảo đảo bên bờ vực rồi lăn xuống đáy thung lũng. Chàng xẻo lấy một phần thịt, rồi vội vã quay trở lại chỗ cũ. Nhưng đường về bây giờ tìm mới khó vì lúc mải mê, chàng đã đi quá những hẻm núi quen thuộc. Trên núi, đêm ập xuống nhanh và lúc trời tối mịt, chàng mới nhận ra đường về.
Về đến đầu đường đèo – nơi chàng đã để ông John và Lucy ngồi chờ bên đống lửa – chàng bắt tay lên miệng hô vang một tiếng “hôôôô”. Nhưng không có một tiếng hô nào đáp lại. hô tiếp một tiếng nữa. Vẫn không thấy có tiếng đáp, chàng cảm thấy một nỗi lo sợ mơ hồ khó tả, vội vứt bỏ tảng thịt, lao chạy về phía trước. Sau một chỗ ngoặt, chàng nhận ra rõ đây là nơi mình đã nhóm lửa. Dưới đất hãy còn một đống than cháy dở, nhưng xung quanh người và ngựa đã biến đi đâu mất!
Chàng khơi lại ngọn lửa và xem xét khu vực chung quanh. Nền đất có nhiều vết chân ngựa cho thấy một toán đông cưỡi ngựa đã đuổi kịp rồi sau đó đã lại rút đi. Cách đống lửa không xa có một mô đất mà lúc trưa không thấy có. Rõ ràng là một ngôi mộ vừa mới đắp. Bước lại gần, chàng thấy có một cái gậy cắm vào giữa ngôi mộ, trên đầu gậy gài một tờ giấy ghi vỏn vẹn:
John Ferrier
Trước ở thành phố Salt-lake
Chết ngày 4 tháng 8 năm 1860
Đau đớn, chàng hối hả tìm khắp xung quanh xem có ngôi mộ nào nữa không, nhưng không thấy, Lucy đã bị bắt đi rồi. Nàng sẽ là vợ của con trai một tông đồ Mormons nào đó. Khi hiểu ra số phận của vị hôn thê, chàng trai muốn lấy cái hẻm núi này làm nơi an nghỉ cuối cùng của mình. Nhưng bản tính kiên cường lại trỗi dậy. Nếu như đời chàng từ nay không còn ý nghĩa gì nữa, thì ít ra chàng vẫn có thể dùng nó để trả thù cho vợ. Cùng với bản tính kiên cường và nhẫn nại, chàng còn có một chí căm thù bền bỉ mà chàng đã học được ở những người da đỏ. Gương mặt tái nhợt và dữ tợn, chàng quay trở lại chỗ đã bỏ tảng thịt, nhóm lửa, chuẩn bị cho mình đủ thịt ăn trong vài ngày rồi đứng lên, lần đường tìm về thành phố Salt-lake.
Đến ngày thứ sáu, chàng về tới hẻm Đại Bàng. Tại đó, chàng có thể nhìn thấy nơi ở của Các vị Thánh ngày Tận thế. Chàng thấy có cờ bay phấp phới ở một vài đường phố chính và một vài dấu hiệu khác là có cuộc vui hay buổi lễ gì đó trong thành phố. Bỗng chàng nghe tiếng vó ngựa và thấy một người đi về phía mình. Chàng nhận ra đó là Cu-pơ, người mà mình đã có lần giúp một vài việc. Khi người đó tới gần, chàng bước lai:
- Anh còn nhớ tôi không? Tôi là Hope đây.
Người Mormons này không giấu nổi vẻ ngạc nhiên. Quả thực, khó mà nhận ra một kẻ lang thang, rách rưới, râu rậm tóc bù, mặt nhợt nhạt và dễ sợ này… Rồi vẻ ngạc nhiên mau lẹ chuyển thành vẻ lo ngại:
- Anh điên hay sao mà đến đây? Có lệnh bắt anh vì đã giúp hai cha con ông John chạy trốn.
- Tôi không sợ. Chỉ xin anh, vì tình bằng hữu cho tôi biết Lucy hiện nay ra sao?
- Hôm qua, người ta đã làm lễ cưới cho cô ấy. Kìa, can đảm lên chứ. Trông anh như người mất hồn.
- Anh khỏi phải bận tâm về tôi – Giọng Hope yếu ớt, đôi môi tái nhợt, ngồi bệt xuống một tảng đá – Anh bảo sao, lễ cưới ư?
- Lễ cưới được tổ chức hôm qua, vì vậy mới treo cờ. Con trai Drebber và con trai Stanggerson tranh nhau khá găng. Cả hai gã đều nằm trong nhóm người đã đuổi theo họ và Stanggerson là kẻ đã giết người, cha của cô gái. Vì vậy, Stanggerson có vẻ được ưu tiên, nhưng khi việc này được đưa ra Hội đồng thì phía nhà Drebber thắng và giáo chủ đã giao cô gái cho Drebber. Dầu vậy, chẳng ai giữ cô ấy được lâu đâu vì hôm qua tôi đã thấy màu chết trên sắc mặt cô ấy rồi. Thế nào, anh đi đấy à?
- Vâng, tôi đi đây – Hope đứng dậy, gương mặt đanh lại và đôi mắt ánh lên một vẻ điên dại.
- Anh đi đâu?
- Đi đâu cũng vậy thôi – Hope đáp, rồi vác súng lên vai, rảo bước về phía đường đèo, tiến sâu vào trong lòng núi.
Lời tiên đoán của Cu-pơ quả không sai: trong không đến một tháng, Lucy héo hon rồi chết. Drebber không tỏ ra đau buồn khi Lucy chết, vì hắn lấy Lucy chủ yếu vì của cải của ông bố. Nhưng những người vợ khác của y thương khóc cô, và theo phong tục của người Mormons, họ thức trông xác cô suốt đêm trước hôm mai táng. Đang ngồi xung quanh quan tài vào lúc trời chưa sáng, họ bỗng kinh ngạc và khiếp sợ khi thấy cửa bật mở và hiện ra một người đàn ông ăn mặc rách rưới, mặt sạm đen, con mắt điên dại, bước thẳng đến chỗ đặt thi hài, cúi đầu kính cẩn đặt đôi môi lên vầng trán giá lạnh rồi đỡ lấy bàn tay người chết, rút chiếc nhẫn cưới ra khỏi ngón tay và nói bằng một giọng giống tiếng gầm rít của loài thú nhiều hơn tiếng người:
- Không thể để cho người ta chôn cất nàng cùng với chiếc nhẫn này.
Trong lúc đám phụ nữ chưa biết nên làm gì thì người đó đã biến mất.
Trong nhiều tháng, người ta kể có một kẻ kỳ quặc thường hay lẩn quất ở những cánh đồng bên ngoài thành phố hoặc trong những hẻm núi hoang vắng. Một hôm, một viên đạn bắn qua cửa sổ nhà Stanggerson đập vào tường cách đầu y có một bộ. Lại một dịp khác, Drebber đang đi dưới chân một dốc núi thì một tảng đá lăn về phía y, y phải bổ nhào úp sấp mặt xuống đất mới thoát chết. Hai gã thanh niên ấy sớm phát hiện ra người tiến hành những vụ mưu sát này, và chúng dẫn người đi tìm Hope nhiều lần nhưng không bắt được chàng. Chúng phải cắt người canh gác nhà chúng, chúng không bao giờ ra khỏi nhà một mình hoặc khi trời tối. sau một thời gian, những biện pháp này được nới lỏng: người ta không còn thấy bóng dáng Hope đâu và chúng nghĩ rằng thời gian đã làm nguôi mối thù ở trong lòng người thợ săn trẻ tuổi ấy.
Nhưng chí báo thù đã chiếm lĩnh toàn bộ tâm hồn chàng trai, không còn chỗ cho một tình cảm nào khác len vào nữa. Nhưng cuộc sống phơi sương dãi nắng, chẳng mấy chốc làm hao mòn sức khoẻ của chàng. Nếu chàng chết trên núi như một con chó hoang thì ai sẽ báo thù cho? Mà nếu chàng cứ ở mãi trên núi thì không thể tránh khỏi kết cục đó. Vì vậy, chàng trở lại vùng mỏ Nevada để phục hồi sức khoẻ và thu nhặt một ít tiền để rồi có thể theo đuổi chuyện báo oán.
Chàng định vắng độ một năm là cùng, nhưng nhiều tình huống không lường trước không cho phép chàng rời khỏi khu mỏ trong năm năm. Tuy nhiên, sau thời gian ấy, ký ức về nỗi đau buồn và lòng khao khát báo thù vẫn mãnh liệt. Cải trang, chàng trở lại thành phố Salt-lake dưới một cái tên giả và được biết những tin trái ý. Trước đó vài tháng đã xảy ra một sự phân biệt trong đám người được Chúa tuyển chọn. Một vài thanh niên trẻ của giáo phái Mormons đã nổi dậy, chống lại quyền lực của các tông đồ và kết quả là một số đã ly khai bỏ Utah ra đi, trở thành những kẻ ngoại đạo. Trong số đó có Drebber và Stanggerson. Không ai biết chúng đi đâu. Người ta kể rằng Drebber đã khéo léo thu xếp, chuyển hầu hết tài sản của hắn ra thành tiền đem đi, còn Stanggerson thì không được sung túc bằng.
Nhiều người cho rằng dù lòng báo thù có cháy bỏng đến đâu, có lẽ cũng phải từ bỏ ý định của mình trước ngần ấy khó khăn, nhưng Hope thì không. Với số tiền ít ỏi đã có, chàng đi hết thành phố này đến thành phố khác trong khắp nước Mỹ tìm kiếm tung tích của kẻ thù, vừa đi vừa nhận làm những công việc lặt vặt để kiếm thêm tiền sinh sống. Thời gian trôi đi, mái tóc đen đã lốm đốm bạc nhưng ông vẫn cứ đi, không biết mệt mỏi, không hề nản chí, dò tìm dấu vết của kẻ thù như một con chó săn say mồi. Một hôm, ông thoáng nhìn thấy một nét mặt qua một khung cửa sổ, và biết đó là người mà ông lùng đuổi hiện đang ở tại thành phố Cleverland, bang Ohio. Ông trở về căn buồng, sắp đặt kế hoạch báo thù. Thế nhưng Drebber khi nhìn qua cửa sổ nhà hắn, cũng đã nhận ra kẻ lang thang ngoài phố kia và thấy ý định giết người trong ánh mắt người ấy. Hắn vội vã cùng với Stanggerson – khi ấy đã trở thành thư ký riêng của hắn – đến nhà một vị thẩm phán khai rằng hắn đang bị một kẻ tình địch cũ doạ giết.
Tối hôm ấy, Hope bị tống giam vì ông sống lang thang, không nhà cửa, không nghề nghiệp nhất định, ông bị giam mấy tuần. Đến khi được thả, ông thấy nhà Drebber bỏ trống và được biết hắn dã sang châu Âu cùng với tên thư ký riêng.
Một lần nữa, người báo oán thất vọng, nhưng cũng một lần nữa, mối thù dồn tụ qua năm tháng lại đẩy ông tiếp tục. Không đủ tiền đi xa, ông phải kiếm việc làm, dành dụm từng đô la một cho cuộc hành trình sang châu Âu. Sau cùng, khi có tạm một ít tiền để đủ sống, ông lên đường, đuổi theo các kẻ thù của mình từ thành phố này đến thành phố khác ở châu Âu, nhận làm bất cứ việc gì để sống. Thành phố Pétersbourg của Nga. Thủ đô Copenhague của Đan Mạch. Cuối cùng ông theo chúng tới thủ đô nước Anh, và hạ sát được chúng.
12.Phần tiếp trong nhật ký của bác sĩ Watson
Tuy chống cự kịch liệt nhưng người đánh xe tỏ ra không hằn thù gì chúng tôi. Ông ta nở một nụ cười thân thiện và tỏ ý mong rằng ông ta không gây thương tích gì cho chúng tôi trong lúc xô xát. Ông ta nói với sherlock holmes:
- Tôi chắc các ông sẽ dẫn tôi về Sở cảnh sát. Xe của tôi để dưới lòng đường. Nếu các ông vui lòng cởi trói chân cho tôi, tôi sẽ tự mình xuống.
Greson và lestrade nhìn nhau suy nghĩ. Nhưng sherlock holmes cởi ngay dây trói.
Holmes bảo hai nhà thám tử:
- Các ông nên đi cùng với tôi.
- Tôi đánh xe cho – lestrade nói.
- Tốt lắm. Ông greson ngồi trong xe cùng với tôi. Bác sĩ watson! Cả anh nữa.
Tất cả chúng tôi ra xe. Hope ngoan ngoãn bước lên xe. Tới Sở cảnh sát, viên thanh tra làm nhiệm vụ của mình một cách bình thản, buồn tẻ:
- Can phạm sẽ bị đưa ra xét xử ngay trong tuần. Trong khi chờ đợi, Hope, anh có muốn khai gì không?
Hope từ tốn nói:
- Lời khai của tôi khá dài. Tôi muốn được kể hết với các ông.
- Ông có thể để đến khi ra toà khai cũng được.
- Có lẽ tôi sẽ không phải ra toà đâu. Các ông chớ hoảng hốt. Tôi không có ý định tự tử. Ông có phải bác sĩ không? – Ông ta quay đôi mắt u tối và cháy bỏng sang phía tôi.
- Phải.
- Thế thì xin ông đặt tay vào đây – Với một nụ cười hé nở trên môi, ông ta đưa hai cổ tay bị khoá lên ngực. Làm theo yêu cầu của ông ta, tôi cảm thấy ngay những tiếng tim đập dữ dội. Lồng ngực ông ta rung lên bần bật như một toà nhà mảnh mai bên trong đang chạy một động cơ quá mạnh. Trong bầu không khí im lặng của gian phòng, tôi có thể nghe thấy tiếng thổi và tiếng rung cũng xuất phát từ đó.
- Ủa, ông bị bệnh phình động mạch chủ hả? – Tôi thốt lên.
- Đúng vậy – Hope bình thản đáp – Tuần trước tôi đã đi khám bệnh, bác sĩ bảo không bao lâu nữa nó sẽ vỡ tung. Bệnh đã nặng lên từ lâu trong những năm tôi phải sống ở ngoài trời, ăn không đủ no, ngủ không yên giấc. Tôi đã làm xong cái việc cần làm, dù có phải ra đi sớm cũng không có gì hệ trọng. Tuy nhiên, tôi muốn kể lại câu chuyện của tôi để người ta đừng nghĩ tôi là một tên sát nhân bỉ ổi.
Viên thanh tra và hai nhà thám tử hội ý chớp nhoáng với nhau, xem có nên cho can phạm được phép kể như ông ta yêu cầu không. Viên thanh tra hỏi tôi:
- Bác sĩ có cho rằng tính mạng can phạm có thể bị nguy không?
- Rất có thể.
- Trong trường hợp ấy, nhiệm vụ của chúng tôi là phải lấy lời khai của can phạm. Ông Hope, chúng tôi cho phép ông bắt đầu khai.
- Tôi xin phép được ngồi – Hope nói – Bệnh phình động mạch này làm tôi dễ mệt lắm, nhất là sau cuộc vật lộn hồi nãy. Tôi đang ở bên bờ cõi chết. Vì vậy, tất cả những lời tôi sẽ nói ra đây đều là hoàn toàn sự thật.
Tiếp đó, Hope bắt đầu kể câu chuyện của mình. Ông ta nói với một giọng bình thản, từ tốn:
- Hai kẻ ấy đã gây ra cái chết của hai cha con – một cô gái và người cha – và vì thế, chúng rất đáng tội chết. Tuy nhiên, từ ngày đó đến nay, tôi không có đủ bằng chứng để đưa ra trước bất kỳ một toà án nào. Vì vậy, tôi đã quyết định đảm nhiệm cả vai trò quan toà lẫn đao phủ.
Cô gái bị thiệt mạng mà tôi nói ở trên lẽ ra làm vợ tôi cách đây hai mươi năm. Nàng đã bị ép buộc phải lấy tên Drebber này. Khi rút chiếc nhẫn khỏi ngón tay vợ tôi, tôi thề rằng trước lúc chết, con mắt của Drebber sẽ phải nhìn chính chiếc nhẫn này. Tôi săn đuổi bọn chúng qua hai lục địa.
Khi tôi đến Luân Đôn, túi tôi hầu như không còn một xu nào, tôi cần tìm một nghề. Cưỡi ngựa, đánh xe đối với tôi tự nhiên như đi bộ. Tôi đến gặp một chủ xe, xin thuê một chiếc xe. Tiền kiếm được cũng đủ sống. Cái khó nhất là thuộc đường vì các phố ở thành phố này là cái mê cung rắc rối. Nhưng tôi kiếm được một cái bản đồ, và dần dần quen thuộc đường sá.
Tôi phải mất một thời gian mới tìm được địa chỉ của chúng. Chúng trọ tại một gia đình ở Camberwell. Phát hiện ra chỗ ở của chúng, tôi biết là đã nắm được chúng trong tay. Tôi để râu dài, và kiên trì theo dõi mà chúng không nhận ra tôi.
Bất kể chúng đi đâu, tôi đều theo sát gót, khi thì bằng xe ngựa, khi thì bằng chân. Theo bằng xe tốt hơn vì chúng không thể bỏ xa tôi được. Chúng rất gian ngoan. Có lẽ chúng nghi bị theo dõi nên không bao giờ ra khỏi nhà một mình và cũng không bao giờ ra khỏi nhà lúc đêm khuya. Trong hai tuần liền, ngày nào tôi cũng dùng xe theo chúng, nhưng không bao giờ tôi thấy có tên nọ mà không có tên kia. Drebber gần như lúc nào cũng say, nhưng Stanggerson thì luôn luôn tỉnh táo và cảnh giác. Theo dõi mãi, tôi vẫn chưa tìm thấy cơ hội nào.
Một hôm, vào lúc xế chiều, khi đang đi lại trên phố Torquay, nơi chúng trọ, tôi bỗng thấy một chiếc xe ngựa đến đỗ trước cửa nhà chúng. Một lúc sau, có người khiêng hành lý ở trong nhà ra xe, rồi Drebber và Stanggerson lên xe và chiếc xe lăn bánh. Tôi cho xe đuổi theo. Đến ga Euston, chúng xuống xe. Tôi nhờ một đứa trẻ trông ngựa cho tôi và theo chúng ra sân ga. Tôi nghe thấy chúng hỏi giờ tàu đi Liverpool. Nhân viên nhà ga báo cho chúng biết là tàu vừa mới chạy, và phải mất một tiếng đồng hồ nữa mới có chuyến sau. Stanggerson tỏ ra bực mình, Drebber trái lại có vẻ mừng rỡ. Tôi xán đến gần chỗ chúng. Drebber nói là y có một công việc nhỏ cần phải giải quyết và y bảo tên kia chờ, y sẽ quay trở lại ngay. Stanggerson trách móc, nhắc nhở là hai đứa đi đâu cũng phải có đôi. Drebber trả lời rằng đây là một việc tế nhị nên y phải đi một mình. Tôi không nghe Stanggerson đáp lại như thế nào mà chỉ thấy Drebber chửi rủa rồi nhắc nhở cho Stanggerson biết rằng y chỉ là một kẻ tôi tớ. Thấy vậy, Stanggerson không kèo nèo thêm nữa và hai đứa thoả thuận là nếu Drebber không kịp trở lại tàu thì y sẽ đến gặp Stanggerson tại khách sạn Holiday. Sau đó Drebber đi một mình ra khỏi nhà ga.