Sách: Tâm lý học tội phạm

Minhh Tâmm

Thành viên
Tham gia
22/6/2025
Bài viết
15
PHÁC HỌA CHÂN DUNG KẺ PHẠM TỘI

[separate]



Tên gốc


Updating

Tác giả


Diệp Hồng Vũ

Bản quyền


BeBooks,Nxb Thanh Niên

Thể loại


Sách tâm lý học

Tình trạng


Đã hoàn thành

Dịch

Đỗ Ái Nhi

[separate]


Review sách “TÂM LÝ HỌC TỘI PHẠM: PHÁC HỌA CHÂN DUNG KẺ PHẠM TỘI” (Hoàng Mai Yến)

/Có ai sợ ma mà lại mê dòng sách Tâm lý tội phạm không ạ?/


Mình lọt hố dòng trinh thám xong cua qua dòng tâm lý và bây giờ là tội phạm. Bạn mình nói mấy tên sát nhân rất thông minh, nhưng càng đọc thì thấy tâm thần và biến thái nhiều hơn.

Cuốn này không đi quá sâu vào chi tiết của từng vụ án mà đồng thời đẩy mạnh phân tích tâm lý tội phạm, thủ pháp và động cơ gây án. Nhiều kẻ phạm tội đơn thuần chỉ vì mong muốn trả thù hoặc kiểm soát đối phương nhưng cũng có nhiều kẻ sát nhân đã phải trải qua quá khứ không mấy tốt đẹp, có mối quan hệ độc hại với cha mẹ, là nạn nhân của bạo lực học đường dẫn đến rối loạn nhân cách.

Có tổng cộng 36 vụ án kinh điển nhất trong hồ sơ tội phạm của FBI, mỗi vụ án lại khiến mình sởn da gà không chỉ vì hành vi và phương thức gây án man rợ mà còn vì tâm lý bất ổn, rối loạn nhân cách, khát vọng được thao túng, kiểm soát sinh mệnh và đóng vai quan tòa của những kẻ sát nhân.

Một khi họ đã xác định mục tiêu thì cũng giống như đi tàu hỏa, bạn chỉ có thể xuống tàu khi đến trạm. Bất luận trong quá trình gây án xảy ra sự cố hoặc nạn nhân cầu xin như thế nào đi nữa, kẻ giết người cũng sẽ mặc kệ tất cả và chỉ tập trung vào thực hiện mục đích của mình.

Điển hình có thể nhắc tới kẻ ăn thịt người vùng Milwaukee – Jeffrey Dahmer với những bộ sưu tầm sọ và xương người, với hắn chỉ có giết và ăn thịt nạn nhân mới là cách duy nhất để giữ họ lại…. Nhiều vụ án đã dựng thành phim, mà đọc sách vẫn thấy cuốn.

Sách rất đáng đọc với những ai đam mê dòng này, với mình thì chỉ dám đọc khi có đông người, chứ một mình thì chịu.


[separate]


Lấy 36 vụ án kinh điển nhất trong hồ sơ tội phạm của FBI, Tâm lý học tội phạm-phác họa chân dung kẻ phạm tội mang đến cái nhìn toàn cảnh của các chuyên gia về chân dung tâm lý tội phạm, trả lời cho câu hỏi làm thế nào để phân tích được tâm lý và hành vi tội phạm, từ đó khôi phục sự thật thông qua các manh mối, từ hiện trường vụ án, nét chữu ,... để tìm ra kẻ sát nhân thật sự.
Phía sau máu và nước mắt là câu chuyện rợn tóc gáy về tội ác, góc khuất xã hội và những màn đấu trí đầy gay cấn giữa điều tra viên và kẻ phạm tội. Trong số đó có những con quỷ ăn thịt người; những cô gái xinh đẹp nhưng xảo quyệt; và cả cách trả thù đầy man rợ của các nhà khoa học,.. Một số đó đã sa vào lưới pháp luật ngay khi chúng vừa ra tay, nhưng cũng có những kẻ như vậy ngủ yêu hơn hai mươi năm



[separate]


Lời nói đầu - Sát nhân ác quỷ Henry Lee Lucas

Một người đàn ông đang tận hưởng chuyến đi dạo của mình tại núi Wopsononock ở Altoona thì bỗng vấp phải vật lạ. Cúi đầu nhìn kỹ, anh ta hoảng hốt phát hiện vật ngáng đường mình lại là một xác chết. Quá sợ hãi, người đàn ông này lập tức báo cảnh sát.

Cảnh sát địa phương nhanh chóng có mặt tại hiện trường, kết quả khảo sát sơ bộ cho thấy thi thể bị cắt xẻ nghiêm trọng. Phần thi thể bị nhân chứng va vào vẫn còn tương đối nguyên vẹn. Người chết có dấu hiệu bị đánh, hai mắt bầm tím, xương cằm dưới đứt lìa. Tình trạng khuôn mặt nạn nhân chỉ có thể miêu tả bằng hai từ “thê thảm”.

Không chần chừ, cảnh sát vùng Altoona bắt tay vào điều tra án mạng, nhưng không thể tìm ra manh mối khiến vụ án rơi vào bế tắc. Để có thể nhanh chóng bắt được kẻ thủ ác, họ đã cầu cứu FBI. Chuyên gia lập hồ sơ tội phạm của FBI, John Douglas đã tới trước để hỗ trợ.


Sau khi nghiên cứu tình tiết vụ án, ảnh chụp hiện trường và báo cáo pháp y, Douglas đã phác họa được hồ sơ tâm lý cơ bản của hung thủ bao gồm độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn và một số manh mối khác. Dựa theo những phán đoán của Douglas, cảnh sát địa phương đã tiến hành tìm kiếm và bắt giữ hai đối tượng tình nghi. Sau khi trải qua quá trình thẩm vấn nghiêm ngặt, quả thật một trong hai đối tượng chính là kẻ phạm tội.

Làm thế nào mà John Douglas có thể phân tích được tuổi tác và trình độ học vấn của hung thủ? Rốt cuộc thủ phạm là ai? Vì sao hắn lại xuống tay tàn nhẫn như vậy? Chắc hẳn đây là những thắc mắc mà ai cũng có. Thông qua cuốn sách này, chúng ta sẽ cùng đi tìm đáp án cho những câu hỏi trên.

Thực chất, phương pháp này của Douglas chính là phác họa hồ sơ tâm lý tội phạm, ngày nay được biết đến với cái tên “hồ sơ tội phạm” hoặc “nghiên cứu hành vi”. Tổ khoa học hành vi thuộc Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI) được thành lập vào năm 1972 là đơn vị đầu tiên áp dụng kỹ thuật phân tích tâm lý tội phạm này. Trong quá trình phá án, các điệp vụ của FBI đã tìm hiểu quy luật hành vi và quy luật tâm lý của tội phạm trong quá trình giao tiếp với hung thủ. Sau này, các mật vụ FBI đã đề xuất thành lập một dự án có tính chiến lược và hệ thống để nghiên cứu chủ đề tâm lý và hành vi tội phạm, qua đó có một cái nhìn sâu sắc hơn về bối cảnh trưởng thành, phân tích hiện trường vụ án và các đặc điểm của nạn nhân để nắm bắt được phần lớn nội tâm, hành động và quy luật sinh hoạt của kẻ phạm tội.



Trong quá trình nghiên cứu, FBI còn sử dụng nhiều dữ liệu từ các nhà chức trách, ví dụ như báo cáo điều tra của cảnh sát, biên bản thẩm vấn, lịch sử phạm tội,.. Những tài liệu này sẽ xác định phương hướng trinh sát, đồng thời thông qua hiện trường vụ án để phân tích hành vi, đoán biết đặc trưng tâm lý tội phạm. Tiếp theo đó, dựa vào những đặc điểm được suy đoán để xây dựng hình ảnh nghi phạm, bối cảnh gia đình và tính cách. Đây chính là “phác họa hồ sơ tâm lý tội phạm”. Về sau, kỹ thuật phác họa tâm lý dần dần được áp dụng vào nhiều vụ án khác nhau.

Phương pháp này được biết đến rộng rãi hơn nhờ phim điện ảnh nổi tiếng thế giới “Sự im lặng của bầy cừu”. Đoàn làm phim đã nhận được nhiều sự giúp đỡ từ FBI và được phép thực hiện một số cảnh phim tại chính trung tâm huấn luyện của Tổ khoa học hành vi. Ngoài ra, một số nhân viên của FBI cũng tham gia đóng những vai nhỏ trong phim. Sau thành công của “Sự im lặng của bầy cừu”, nhiều khán giả đã hiểu nhầm cũng như thần thánh hóa khả năng phác họa tâm lý và phân tích hành vi, cho rằng điều đó có thể giúp phá án tuyệt đối.

Trên thực tế, tuy trực giác và kinh nghiệm rất quan trọng, nhưng mấu chốt vẫn là thu thập và đối chiếu số liệu. Một trong những thành viên sáng lập của Tổ khoa học hành vi John Douglas từng chia sẻ, trong quá trình điều tra, cảnh sát cần thẩm vấn tất cả những người có liên quan, đồng thời đi sâu vào tìm hiểu từng người, bởi như vậy mới có thể thu thập được thông tin tâm lý có giá trị.


Tám chương của cuốn sách sẽ sử dụng những vụ án có thật để dẫn người đọc theo bước các chuyên gia lập hồ sơ tội phạm, trả lời cho câu hỏi làm thế nào để phân tích được tâm lý và hành vi tội phạm, giúp chính quyền bắt được hung thủ. Ngoài ra, cuốn sách cũng giới thiệu cho độc giả quá trình phát triển, các kỹ năng và kiến thức lập hồ sơ tội phạm. Nhờ đó, độc giả sẽ có cái nhìn sâu sắc, rõ ràng hơn về bộ môn tâm lý tội phạm và trở thành những cao thủ phá án đích thực.

Chương 1 - Sát thủ uống máu người Richard Trenton Chase
Ngày 23 tháng 1 năm 1978, tại một thị trấn nhỏ ở vùng Sacramento, California, tài xế xe tải David Walling kết thúc công việc sớm để trở về với người vợ đang có bầu của mình. Về đến nhà, David không thấy vợ chờ mình ở cửa như thường lệ, anh cất tiếng gọi nhưng không có ai trả lời. Nhất thời, một dự cảm không lành dâng lên trong lòng David.

Sau khi tắt máy, David vội vào nhà tìm vợ. Trong phòng ngủ, cảnh tượng đập vào mắt khiến anh kinh hoàng: Người vợ đang mang thai nằm giữa một vũng máu, phần bụng bị rạch toang ra một cách tàn nhẫn.


Quá sợ hãi, David chạy ra khỏi nhà và cầu cứu hàng xóm, gọi điện báo cảnh sát. Sau khi có mặt, cảnh sát ngay lập tức tiến hành điều tra sơ bộ. Họ phát hiện ra quần áo và đồ đạc trên người nạn nhân đều bị lột sạch nhưng lại không tìm thấy vật tùy thân ở hiện trường. Trên người nạn nhân có nhiều vết đâm, nội tạng bị móc ra, cắt nhỏ. Cạnh thi thể có một lọ sữa chua rỗng, bên trong vẫn dính máu của người bị hại. Vì vậy, cảnh sát kết luận rằng hung thủ là một kẻ vô cùng tàn ác, hắn ta đã đổ máu của người chết vào lọ sữa chua rồi uống. Thêm vào đó, cơ thể nạn nhân còn mất vài bộ phận. Ngoài những điều trên, cảnh sát không thu được manh mối nào khác.

Sau vài lần điều tra, cảnh sát không tìm được động cơ gây án của hung thủ. Ngoại trừ quần áo mặc trên người nạn nhân, đồ đạc có giá trị trong nhà vẫn nguyên vẹn. Cuối cùng, chính quyền địa phương đành phải nhờ đến sự giúp đỡ của FBI. Sau khi tiếp nhận vụ án, đặc vụ FBI Lars Volpagle đã liên hệ với Robert K. Ressler, chuyên gia lập hồ sơ tội phạm được đào tạo đặc biệt của FBI.


Sau khi nắm được thông tin về cách gây án, thời gian, địa điểm và đặc điểm của người bị hại, Ressler đã có những phác họa đầu tiên về hung thủ như sau: Nam giới, người da trắng, độ tuổi trong khoảng từ 25 đến 27, dáng người cao gầy, nơi ở bẩn thỉu, lộn xộn. Nhiều khả năng có thể tìm thấy tang chứng tại nơi ở của kẻ giết người. Ngoài ra, hắn cũng có tiền sử bệnh thần kinh, thậm chí là nghiện ma túy, tính cách quái gở, lầm lì, không giỏi giao tiếp. Người này thường một thân một mình, không có công ăn việc làm, sống dựa vào trợ cấp xã hội. Đồng thời, hắn cũng chưa từng nhập ngũ, bỏ học khi đang học cấp ba hoặc đại học, có một hoặc nhiều bệnh hoang tưởng.

Với kinh nghiệm phá án dày dạn, Ressler có thể đoán được chủng tộc và độ tuổi của hung thủ là vì vụ án có tính chất xâm hại t.ình d.ục. Trong những vụ án tương tự, hung thủ thường là nam giới, tuổi từ 20 đến 30. Ngoài ra, có rất ít các vụ án xâm hại t.ình d.ục đa sắc tộc, thông thường chỉ có người da trắng tấn công người da trắng, người da đen tấn công người da đen. Thêm vào đó, nạn nhân sống trong khu vực của người da trắng, sự xuất hiện của một người da đen sẽ gây chú ý. Chính vì vậy, Ressler phán đoán rằng đây là án mạng cùng sắc tộc.


Dựa vào các thành quả nghiên cứu về tội phạm, Ressler phân kẻ phạm tội thành hai loại: Kiểu thứ nhất gây án có logic, tuân theo những thủ pháp cố định. Kiểu thứ hai là những kẻ hành sự không có tính logic về mặt tâm lý và hành vi. Ảnh chụp hiện trường và báo cáo suy luận cho thấy hung thủ thuộc loại thứ hai. Kẻ giết người trong vụ án bà Walling không có quy tắc và cũng không dọn dẹp những dấu vết dễ để lộ thân phận. Từ đó có thể đoán ra hung thủ có bệnh thần kinh nghiêm trọng.

Ngoài ra, những hành vi tàn ác của kẻ sát nhân đối với người bị hại cho thấy hắn đã chịu ảnh hưởng của bệnh tâm lý từ rất sớm. Kiến thức tâm lý học giúp Ressler suy đoán rằng hắn có thể mắc chứng hoang tưởng ảo giác. Hầu hết những giai đoạn đầu của chứng hoang tưởng ảo giác sẽ phát tác vào năm 19 tuổi. Vì loại bệnh tâm thần này có thời gian ủ bệnh khoảng mười năm nên Ressler nói rõ hơn độ tuổi của kẻ sát nhân có lẽ là từ 20 đến 30 tuổi.

Những người mắc căn bệnh tâm thần này thường không ăn uống cẩn thận, dinh dưỡng kém, vì vậy có thể đoán được ngoại hình của thủ phạm khá gầy, dong dỏng. Đồng thời, trạng thái tâm lý cũng thường biểu hiện ra bên ngoài. Nhìn chung, người mắc bệnh không chú ý giữ gìn vệ sinh, bộ dạng nhếch nhác nên cũng không được người khác yêu quý, sống độc thân. Từ những điều này, Ressler kết luận rằng nơi ở của hung thủ chắc chắn sẽ rất bừa bộn, bẩn thỉu.


Với những đặc điểm trên, mẫu người này cũng sẽ không được quân đội tuyển chọn, nhờ vậy mà Ressler có thể nói rằng hắn chưa từng nhập ngũ. Người mắc chứng hoang tưởng ảo giác thường có khả năng hoàn thành trung học phổ thông nhưng không thi đậu đại học. Vì vậy, những người này nếu có việc làm thì cũng sẽ là những công việc vặt vãnh hoặc bán thời gian. Tuy nhiên, vì tính cách quái dị, khả năng cao là họ cũng không làm được việc, chỉ có thể sống nhờ vào trợ cấp xã hội.

Bên cạnh việc tiến hành phân tích sơ bộ tâm lý tội phạm, Ressler còn đưa ra phán đoán ở những phương diện khác. Ví dụ như nếu hung thủ lái xe khi hành động, chắc chắn đó sẽ là một chiếc xe lụp xụp. Tuy nhiên, do kẻ sát nhân có tiền sử bệnh tâm thần, trạng thái tinh thần hỗn loạn nên không thể lái xe đến rồi lại lái xe về sau khi gây án. Vì lý do này, Ressler cho rằng thủ phạm là một người sống gần nhà người bị hại, hắn đã đi bộ đến và đi sau khi sát hại nạn nhân. Đồng thời, ông còn đưa ra giả thiết rằng kẻ phạm tội là một bệnh nhân được thả ra khỏi viện tâm thần khoảng một năm trước đó.

Trong thời gian Ressler chuẩn bị tham gia tiếp nhận vụ án, hung thủ tái xuất. Ngày 26 tháng 1, tại một ngôi nhà cách hiện trường vụ án khoảng 1 km, ba người bị bắn chết bằng súng lục 22 ly. Nạn nhân lần lượt là Evelyn Milos 36 tuổi, con trai cô Jason 6 tuổi và người bạn Daniel J. Merris 32 tuổi.

Cả ba người đều bị sát hại thê thảm, đặc biệt là Milos. Không những bị bắn, thi thể nạn nhân còn có nhiều vết dao, các cơ quan nội tạng bị moi ra, cắt nát. Trong phòng, nước bồn tắm bị máu nhuộm đỏ. Sau khi điều tra, cảnh sát phát hiện hung thủ còn uống huyết dịch của nạn nhân.


Sau đó, một nạn nhân nữa xuất hiện khi cháu trai 22 tháng tuổi của Milos cũng biến mất, nhiều khả năng đã bị hung thủ dùng xe ô tô du lịch của Merris bắt đi. Vì vậy, cảnh sát xem xét kỹ lưỡng các khu vực lân cận và tìm thấy chiếc xe bị bỏ lại ở một nơi không xa. Lần theo vết máu dính ở hiện trường, có thể đoán rằng đứa bé lành ít dữ nhiều.

Báo cáo của cơ quan chức năng cho thấy nhà của người bị hại không mất đồ đạc. Nạn nhân Milos là bảo mẫu, tính tình hiền lành, thân thiện, không có kẻ thù. Khi nghe tin cô bị sát hại, hàng xóm láng giềng đều cảm thấy khó hiểu. Vì vậy, phía cảnh sát lại rơi vào bế tắc, không thể tìm ra động cơ gây án của thủ phạm.

Ressler nghe tin về vụ án bèn bổ sung thêm một số chi tiết trong hồ sơ phác thảo bao gồm sống một mình, nơi trú ẩn cách địa điểm vứt xe khoảng 800 – 1600m. Sau khi thảo luận cùng Lars Volpagle, Ressler cho rằng hung thủ còn có chứng ám ành cuồng tín, những thứ hắn lấy trộm không phải là đồ vật có giá trị mà là nữ trang. Trước khi phạm tội, hắn đã nhiều lần thực hiện hành vi trộm đồ nhằm thỏa mãn nỗi ám ảnh của mình, cội nguồn của căn bệnh này bắt nguồn từ trải nghiệm thời thơ ấu.

Dựa trên những manh mối về chân dung tội phạm do Ressler cung cấp, đặc vụ FBI Lars Volpagle đã phối hợp cùng cảnh sát địa phương lấy chiếc xe du lịch bị bỏ lại làm trung tâm, thu thập vết tích trong bán kính khoảng 800m. Trong quá trình tìm kiếm, một người dân địa phương đã cung cấp cho cảnh sát thông tin hết sức quan trọng: Vào ngày bà Walling bị sát hại, cô đã gặp lại bạn cùng trường cấp ba mười năm trước là Richard Trenton Chase. Nhưng khi trông thấy bộ dạng của Chase, cô đã trở nên sợ hãi vì ngoại hình gầy gò, hai mắt trũng sâu, đầu tóc rối bời và chiếc áo phông dính máu.

Lúc đó, cô đang ngồi trong xe hơi, Chase muốn trò chuyện nên đã nắm lấy cửa xe. Tuy nhiên, cô lập tức lái xe bỏ đi.

Thông tin mà người dân này cung cấp có nhiều điều trùng khớp với chân dung kẻ sát nhân của Resser, vì vậy đặc vụ FBI Lars Volpagel và cảnh sát địa phương quyết định tiến hành một cuộc điều tra sâu và theo dõi Richard Trenton Chase. Họ phát hiện ra rằng Chase sống cách khu vực chiếc xe bị bỏ lại chưa đầy một con phố. Thêm vào đó, cạnh nơi ở của anh ta có một chiếc ô tô cũ nát, chứa đầy báo cũ, chai rượu, chăn màn, v.v… Ngoài ra, họ cũng tìm thấy một con dao phay dài 30cm và một đội ủng dính máu trong xe.


Cảnh sát quyết định bắt giữ Richard Trenton Chase. Lường trước sát nhân là một kẻ độc ác, điên cuồng và sở hữu súng lục 22 ly, lực lượng chức năng dùng kế điệu hổ ly sơn để dụ hắn ra khỏi nơi trú ẩn. Một sĩ quan giả vờ làm người quản lý căn hộ để mượn điện thoại, trong khi đó, một người khác đi vòng qua cửa nhà Chase. Hắn ta nhanh chóng nhận ra điều bất thường, vội vàng cầm theo một chiếc vali, mở cửa và cố gắng tẩu thoát ra xe hơi của mình.

Ngay lập tức, cảnh sát ập tới khống chế Chase. Họ tìm thấy súng và chiếc ví của Merris trên người hắn ta. Ngoài ra, vali mà Chase mang theo cũng dính đầy máu.

Tại căn hộ của Chase, cảnh sát phát hiện phòng ở bừa bộn, quần áo vương vãi khắp nơi. Họ thu được manh mối gồm một số dây xích buộc động vật, ba máy xay lẫn máu và quần áo nhuốm máu. Tủ lạnh có lưu trữ bộ phận cơ thể người và nhiều bát đũa dính máu. Về sau, cảnh sát biết được rằng động cơ giết người của Chase là để uống máu người.

Sau khi Chase bị bắt, nhiều phương tiện truyền thông đã đi sâu vào tìm hiểu và đưa tin về đời tư của hắn. Lúc này, tuổi thơ bi thảm của kẻ giết người mới được làm rõ. Mẹ của Chase là bệnh nhân mắc chứng hoang tưởng điển hình, tính tình hung dữ, nóng nảy và thường xuyên cãi vã với chồng. Từ nhỏ, Chase đã mắc bệnh tâm thần, lớn lên không có bạn bè rồi dần dần sa ngã, hút cần sa và trở thành con nghiện. Hắn từng bị bắt vì tàng trữ cần sa. Sau khi sống một mình, Chase bắt đầu giết, cắt xác động vật và uống máu chúng. Hắn tin rằng đây là cách duy nhất có thể ngăn trái tim mình bị teo nhỏ.

Chase từng bị đưa vào viện tâm thần vì những hành vi kỳ lạ. Trong thời gian điều trị, hắn thường bắt chim trong rừng của bệnh viện và uống máu chúng, trên miệng luôn luôn có vết máu. Vì vậy, các bệnh nhân khác gọi hắn là ma cà rồng.
Một thời gian sau, Chase được phép xuất viện. Sau khi được thả tự do, bằng một cách nào đó hắn có được một khẩu súng lục và bắn chết vật nuôi nhà hàng xóm để uống máu. Dần dần, hắn trở nên tàn bạo hơn và bắt đầu giết người. May mắn thay, cảnh sát đã kịp thời ngăn chặn các vụ thảm sát đẫm máu của hắn.

Nhờ hồ sơ tâm lý tội phạm của chuyên gia tâm lý Robert K. Ressler đã phác họa chính xác hình ảnh về kẻ sát nhân, cảnh sát mới có thể tiến hành khám xét và bắt giữ nghi phạm. Ressler viết trong nhật ký rằng: “Chỉ phác họa thôi không thể tìm được hung thủ, chúng tôi vẫn phải dựa vào cảnh sát tuần tra để bắt kẻ thủ ác… Hồ sơ tâm lý tội phạm của tôi chỉ là một công cụ trong quá trình phá án. Trong trường hợp này, phác họa chân dung giúp thu hẹp phạm vi truy tìm kẻ sát nhân nguy hiểm.”

CHIA SẺ CỦA CHUYÊN GIA LẬP HỒ SƠ TỘI PHẠM

Trong quá trình điều tra, phác họa tâm lý tội phạm cần dựa vào những thông tin đã có về hành vi, đặc điểm tâm lý, động cơ gây án… của kẻ tình nghi để đi vào phân tích, từ đó dùng câu chữ để lột tả hình ảnh nhân vật, quy luật hành động của tội phạm. Điều này sẽ giúp cho việc phá án trở nên thuận lợi hơn.

Phác họa tâm lý tội phạm còn có các cách gọi khác như phác họa hiện trường phạm tội, phác họa hồ sơ tâm lý, phác họa hung thủ, phác họa hành vi… Bộ môn này có nguồn gốc từ FBI, trong những năm 70 của thế kỷ 20, FBI đã thành lập Tổ khoa học hành vi, xây dựng những kỹ năng lập hồ sơ tội phạm dựa trên việc phân tích hiện trường vụ án.

Lập hồ sơ tội phạm bao gồm bốn kỹ năng là điều tra hình sự, giám định pháp y, đánh giá tâm lý và nhân chủng học văn hóa. Thông thường, quy trình lập hồ sơ tội phạm bắt đầu từ việc bàn giao các thông tin về hiện trường vụ án, giám định pháp y, hành vi phạm tội và các chi tiết về người bị hại cho chuyên gia phác họa tâm lý. Sau đó, các chuyên gia sẽ tiến hành phân tích và gửi lại báo cáo về kẻ tình nghi.

Nhìn chung, phác họa tâm lý tội phạm được xây dựng trên nguyên tắc của tâm lý học tội phạm và nhiều kiến thức từ các ngành khoa học khác. Thông qua phân tích tâm lý và các dấu vết hoặc chi tiết mà tội phạm để lại tại hiện trường có thể tìm ra đặc điểm tâm lý của hung thủ. Sau đó, tiếp tục hình dung ra độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, học vấn và các thông tin khác như thói quen cá nhân, bối cảnh gia đình và các mối quan hệ.

Đặc điểm tâm lý gây án của kẻ thủ ác thường được hình thành dần dần từ những trải nghiệm xã hội và kinh nghiệm phạm tội trong thời gian dài. Ngoài ra, cũng không thể bỏ qua những mối liên hệ mật thiết như môi trường sống, trình độ học vấn, công việc. Những điều này được xây dựng và củng cố trong quá trình sống thực tế và hình thành phong cách hành vi nhất định. Khi gây án, các đặc điểm tâm lý cá nhân của hung thủ sẽ lộ rõ qua sự vật khách quan, lưu lại đầu mối tâm lý. Vì vậy, thông qua việc phân tích tang chứng tại hiện trường, có thể suy ra manh mối và khắc họa tâm lý của kẻ gây án. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả phá án.

Chương 2: Xác chết không nguyên vẹn

Betty Jean Shade là một cô gái 22 tuổi vui tươi và lạc quan. Cô làm bảo mẫu trong thời gian rảnh và rất có trách nhiệm với công việc. Vì vậy mà Shade luôn được các bậc phụ huynh yêu quý.

Một tối nọ, Shade kết thúc công việc và trở về nhà như thường lệ. Tuy nhiên, tới tận đêm muộn của ngày hôm đó, gia đình Shade vẫn không thấy cô về nhà. Quá lo lắng, gia đình Shade đã gọi điện cho chỗ làm và bạn bè thân thiết của cô nhưng không một ai biết tung tích của cô gái trẻ. Rơi vào khủng hoảng, người thân của Shade lập tức báo cảnh sát.


Bốn ngày sau vụ mất tích của Betty Jean Shade, một người đàn ông đã vấp phải một xác chết trong lúc đang tản bộ tại địa phận núi Wopsononock ở Altoona. Hoảng sợ tới mức hồn vía lên mây, người đàn ông này đã vội vã gọi điện cho cảnh sát.

Bác sĩ pháp y Charles Burkey và cảnh sát sở tại tức tốc tập trung tại hiện trường vụ án. Điều tra sơ bộ cho thấy xác chết đã bị cắt xẻ nghiêm trọng, phần cơ thể mà nhân chứng va phải ở tình trạng khá nguyên vẹn. Mái tóc vàng của nạn nhân bị cắt và treo lên một thân cây gần đó. Người chết không những bị đánh đập tàn bạo, hai mắt sưng trũng, xương cằm dưới đứt lìa mà còn bị cưỡng hiếp. Vết thương chí mạng nhất nằm ở phần đầu, ngoài ra hai bầu ngực của nạn nhân cũng bị cắt bỏ.


Tình trạng của thi thể khiến bác sĩ pháp y với kinh nghiệm dày dạn như Charles Burkey cũng phải thốt lên: “Thật khủng khiếp.” Sau khi điều tra, cảnh sát phát hiện ra người chết chính là Betty Jean Shade đang mất tích.

Tuy nhiên, khi Charles Burkey khám nghiệm tử thi đã phát hiện ra trong dạ dày của nạn nhân vẫn còn thức ăn chưa tiêu hóa hết. Điều này cho thấy Shade đã bị giết hại không lâu ngay sau khi mất tích. Ngoài ra, thi thể của người bị hại ở trong trạng thái tốt, không có vết côn trùng đốt hoặc động vật cắn, chứng tỏ xác chưa bị vứt quá bốn ngày.

Cảnh sát địa phương đi vào ngõ cụt nên đã tìm đến FBI để xin giúp đỡ, điệp vụ FBI Reid tiếp nhận vụ án. Sau khi tìm hiểu, để nhanh chóng bắt được kẻ thủ ác, Reid đã gửi hồ sơ vụ án cho Jonh Douglas – chuyên gia tâm lý tội phạm của FBI để được giúp đỡ. Đồng thời, Reid cũng đích thân gọi điện cho Douglas để trình bày chi tiết vụ việc.


Sau khi nói chuyện với Reid và cẩn thận nghiên cứu tình tiết vụ án, Douglas đã nhập các thông tin về đặc điểm hiện trường và người bị hại vào kho dữ liệu hồ sơ tội phạm để tiến hành phác họa chân dung tâm lý. Ông đã hình dung về hung thủ như sau: Nam giới, da trắng, độ tuổi trong khoảng từ 17 đến 25, dáng người gầy nhưng rắn chắc, tính tình quái dị, thích đọc hoặc xem ấn phẩm khiêu dâm. Ngoài ra, hung thủ xuất thân từ một gia đình tan vỡ, chịu nhiều ảnh hưởng của người mẹ, được mẹ bao bọc, yêu chiều quá mức. Nhiều khả năng, mẹ của hung thủ đã gieo rắc vào đầu hắn ý nghĩ rằng ngoại trừ bà ta, tất cả những người phụ nữ khác đều là người xấu. Chính điều này khiến kẻ giết người không thể có mối quan hệ bình thường với phái nữ. Từ các vết thương trên người nạn nhân có thể nhìn thấy xu hướng này, khi tấn công, hung thủ đã nhanh chóng đánh ngất nạn nhân.

Dựa vào các vết thương trên mặt và cơ thể, Douglas phỏng đoán, hung thủ rất quen thuộc với nạn nhân. Vì quá tức giận nên hắn đã tìm cách hủy hoại gương mặt và th.ân thể, cắt ngực và tóc của người bị hại. Tìm hiểu về nạn nhân, Douglas biết được rằng khi còn sống, Shade rất chú ý tới mái tóc của mình, hàng ngày cô luôn chải đầu cẩn thận. Vì vậy, hành động cắt tóc mang ý nghĩa hạ nhục Shade, thể hiện rằng kẻ giết người hiểu rõ nạn nhân mới có thể thực hiện hành vi xúc phạm này.

Thêm vào đó, từ hiện trường vứt xác, Douglas suy đoán rằng kẻ giết người không có công việc tử tế, có thể làm những công việc liên quan đến bùn đất, chất bẩn. Thời gian Shade bị bắt cóc là buổi tối, cộng thêm dấu vết cho thấy thi thể bị di chuyển đến nơi khác càng khẳng định thời gian hoạt động chủ yếu của hung thủ là ban đêm. Hắn có thể đã đến nghĩa địa hoặc tham gia tang lễ. Trong ảo tưởng của hung thủ, hắn và nạn nhân có một mối quan hệ bình thường và bản thân hắn rất mực tin vào điều này. Vì vậy, nếu bắt được kẻ tình nghi và sử dụng máy phát hiện nói dối để thẩm vấn thì sẽ không có tác dụng.


Từ vị trí gặp nạn của Shade có thể suy ra nơi ở của hung thủ ở giữa nhà và nơi làm việc của nạn nhân.


Sau khi được cung cấp manh mối về hồ sơ tội phạm do Douglas xây dựng, Reid và cảnh sát sở tại đã xác nhận được hai đối tượng tình nghi: Charles Soult, bạn trai sống cùng nhà, tự xưng là vị hôn phu của Shade; còn lại là người đã phát hiện ra thi thể, anh ta từng là thợ cơ khí đường sắt nhưng nghỉ việc do gặp chấn thương.

Reid và cảnh sát dồn sự nghi ngờ vào người thợ cơ khí bởi có nhân chứng khác đã nhìn thấy anh ta lảng vảng quanh hiện trường vụ án. Thêm vào đó, lời khai của anh ta thiếu nhất quán, quần áo mặc trên người cũng không phù hợp để đi dạo. Ngày báo án, trời mưa nhưng anh ta lại không bị ướt. Khi nói chuyện với giới chức năng, người này trông rất căng thẳng, thể hiện rằng bản thân vô cùng sợ hãi, lo lắng mình sẽ bị cuốn vào vụ án này. Reid cho rằng đây là cách hắn phân tán sự tình nghi từ phía cảnh sát.

Theo điều tra của cảnh sát, người đàn ông này nghiện rượu và thuốc lá. Ngoài ra, anh ta cũng từng có tiền sử chống đối xã hội. Nhưng cả anh ta và vợ đều khai báo rằng vào thời điểm xảy ra vụ án (tối ngày Shade mất tích) cả hai đều ở nhà xem ti vi. Đây không phải là bằng chứng ngoại phạm thuyết phục, vì vậy, chuyên gia tâm lý tội phạm Douglas cho rằng người này sẽ thuê luật sư riêng và tỏ thái độ thiếu hợp tác.

Kết quả đúng là như vậy, khi cảnh sát muốn điều tra sâu hơn, anh ta đã mời luật sư và từ chối sử dụng máy phát hiện nói dối.

Tuy nhiên, trái ngược với suy đoán của Douglas, người đàn ông này đã kết hôn, sống cùng vợ và hai con. Điều này mâu thuẫn với cách gây án của hung thủ. Nếu kẻ giết người là một người đàn ông có vợ, hắn ta sẽ có xu hướng kéo dài thời gian cưỡng bức và hành hạ nạn nhân trước khi giết chết, đồng thời làm nhiều hành vi nhục mạ chứ không cắt xẻ xác chết. Ngoài ra, độ tuổi của người này cũng không phù hợp với phác họa ban đầu của Douglas do đã quá 30 tuổi.

Douglas cho rằng Charles Soult đáng nghi hơn bởi hắn rất giống với phác họa chân dung tội phạm ban đầu. Bố mẹ của Soult ly hôn từ khi hắn còn rất nhỏ, họ can dự nhiều vào cuộc sống của con cái nên tới tận năm 26 tuổi hắn vẫn rất vụng về và ngờ nghệch trong chuyện tình cảm với phái nữ. Thông tin bổ sung cho biết, Soult rất yêu Shade, mặc dù hai người đã đính hôn nhưng anh ta vẫn đồng ý để Shade đi gặp gỡ, đi chơi với những người đàn ông khác. Trong tang lễ của Shade, anh ta khóc rất dữ dội, chỉ thiếu điều chui vào quan tài để cùng đồng quy vu tận với người yêu. Mỗi lần nói chuyện với cảnh sát, Soult luôn tỏ ra vô cùng đau đớn.


Vào lúc Douglas chuyển sự nghi ngờ sang Soult, cảnh sát đã điều tra và phát hiện ra anh ta có một người anh trai tên là Michael, cả hai đều làm công nhân vận chuyển tại bãi rác. Chi tiết này khiến Douglas càng thêm khẳng định rằng Soult chính là hung thủ bởi hắn có thể tự do ra vào bãi phế liệu và có dụng cụ để di chuyển xác chết.

Tuy nhiên, Douglas vẫn cảm thấy băn khoăn. Thứ nhất là Soult không cao hơn Shade là bao, anh ta dường như cũng không đủ sức khỏe để khiêng cái xác. Thứ hai, khám nghiệm tử thi cho thấy trong người nạn nhân có tinh dịch của nam giới, cho thấy Shade đã bị cưỡng hiếp. Nhưng Soult lại không có khả năng thực hiện hành vi này. Do bị mẹ ruột kiểm soát trong thời gian dài, chức năng sinh lý của anh ta rất kém.

Vì vậy, Douglas phỏng đoán, Betty Jean Shade đã gặp Soult trên đường đi làm về vào tối ngày bị hại. Hai người cãi nhau, Soult đánh Shade nhưng lực đánh quá mạnh khiến nạn nhân bất tỉnh. Sau đó, hắn chuyển Shade đến một nơi vắng vẻ và giáng đòn đánh chí mạng, cắt tóc, phân xác và cắt bỏ bộ ngực để giữ làm kỷ niệm. Song, giữa thời điểm bị tấn công và bị giết, nạn nhân đã bị một người khác không phải Soult cưỡng bức.

Sau khi phân tích, Douglas cho rằng Michael, anh trai của Soult là đồng phạm. Nguyên nhân là vì anh ta xuất thân từ cùng một gia đình với Soult, làm cùng một công việc, từng ở bệnh viện tâm thần một thời gian, có tiền án bạo lực và thiếu khả năng kiềm chế cơn tức giận.

Thông tin điều tra còn cho biết, vào tối ngày Betty Jean Shade mất tích, vợ của Michael đang chuyển dạ tại bệnh viện. Việc người vợ mang thai đã gây ra kích thích lớn cho Michael, đồng thời trong khoảng thời gian đó hắn cũng không có cơ hội để giải tỏa h.am m.uốn t.ình d.ục. Vì thế, Douglas nghĩ rằng sau khi tấn công Shade, Soult đã hoảng sợ và tìm đến anh trai của mình. Michael cưỡng hiếp Shade trong khi Soult đứng xem, sau đó giết hại Shade và cùng Michael phi tang xác.

Khi cảnh sát bắt giữ Soult và Michael, cả hai không chịu thừa nhận tội ác của mình. Mặc dù kết quả cuộc thẩm vấn bằng máy kiểm tra nói dối cho thấy Soult đang thành thật nhưng những phản ứng cảm xúc của hắn lại không bình thường. Douglas đề nghị lực lượng chức năng đổi đối tượng, tập trung thẩm vấn Michael và thuyết phục rằng anh ta chỉ quan hệ t.ình d.ục với Shade và hỗ trợ xử lý thi thể. Nếu từ chối nói ra sự thật, anh ta sẽ phải ngồi tù với Soult.

Cuối cùng, Michael đã nhận tội. Về cơ bản, mọi thứ giống như suy luận của Douglas: Soult luôn muốn quan hệ t.ình d.ục với Shade nhưng không thành công. Nỗi uất hận của anh ta tích tụ dần và rất dễ bộc phát. Đêm xảy ra vụ án, anh ta đã rất sợ hãi sau khi tấn công nạn nhân, vì vậy đã tìm đến Michael. Chứng kiến cảnh Michael cưỡng hiếp Shade, hắn càng cảm thấy bất lực và trở nên tức giận hơn. Hắn đã tiến hành phân xác người chết bốn ngày sau đó.

Ngoài ra, Michael khai nhận rằng hắn và Soult còn nhận được sự giúp đỡ từ một đồng phạm khác để hỗ trợ phi tang thi thể. Đó là Catherine Wiesinger, người chị em tốt của Betty Jean Shade.

Sau đó, cảnh sát tìm thấy bộ ngực bị cắt rời ở nơi trú ẩn của Soult. Hắn chịu tội giết người cấp độ một, Michael bị đưa vào bệnh viện tâm thần sau khi kết án.

Chính nhờ phác họa chân dung và manh mối do chuyên gia tâm lý tội phạm John Douglas cung cấp mà cảnh sát đã phá án suôn sẻ hơn, kẻ sát nhân bị bắt về quy án và xét xử trước vành móng ngựa.

CHIA SẺ CỦA CHUYÊN GIA TÂM LÝ TỘI PHẠM

Có ba phương pháp chính để lập hồ sơ tâm lý tội phạm:

Đầu tiên, phương pháp phân tích hiện trường vụ án. Kỹ thuật này được Cục Điều tra Liên bang Hoa Kỳ (FBI) đề xuất và xây dựng. Phương pháp này yêu cầu người điều tra tập trung chú ý vào các đặc điểm khác nhau của hiện trường vụ án, nhập các thông tin này và báo cáo về nạn nhân vào kho dữ liệu tội phạm để tiến hành phác thảo chân dung tội phạm. Năm 1979, Tổ khoa học hành vi của FBI đã thiết lập cơ sở cho kho dữ liệu dựa trên cuộc phỏng vấn với 36 kẻ phạm tội giết người và hiếp dâm.

Thứ hai, phương pháp điều tra tâm lý. Phương pháp này được Canter thành lập ở Vương quốc Anh, chủ yếu sử dụng các ý nghĩa tâm lý được phản ánh từ đặc điểm hành vi tại hiện trường vụ án để phác họa chân dung hung thủ. Chuyên gia tin rằng đặc điểm thủ pháp gây án của tội phạm sẽ được phản ánh trong hành động hàng ngày của họ. Vì vậy, họ đưa ra giả thiết về tính thống nhất của người phạm tội, cụ thể là tính nhất quán trong các mối quan hệ và không gian, áp dụng nó vào lĩnh vực tâm lý tội phạm.

Thứ ba, phương pháp phán đoán đánh giá. Cách này chủ yếu dựa trên kinh nghiệm thực tế.

Chương 3 - Sát thủ ăn thịt người án mạng cậu bé giao báo
Một buổi sáng đẹp trời tại thành phố Bellevue, Danny rời gi.ường như thường lệ để đạp xe vào thành phố. Cậu bé làm công việc giao báo để kiếm tiền tiêu vặt. Tính tình nghịch ngợm, Danny thường xuyên không chịu đi giày. Bỏ ngoài tai những lời nhắc nhở của bố mẹ, cậu đạp xe bằng chân trần.

Ở tuổi 13, Danny là một chú bé dễ thương với mái tóc vàng và đôi mắt xanh. Bố cậu là nhân viên bưu điện và cả Danny lẫn anh trai đều đi giao báo. Cậu bé vui vẻ đạp xe trên con đường đến cửa hàng nhận việc.


Thế nhưng, đến khoảng 7 giờ sáng, quản lý cửa hàng nhận được cuộc gọi phàn nàn của một số người dân vì báo vẫn chưa đến tay. Tất cả những hộ dân này đều thuộc phạm vi phụ trách của Danny nên người quản lý đã đi tìm cậu bé. Tuy nhiên, sau khi đã đi một vòng quanh khu vực mà vẫn không thấy tung tích của Danny, quản lý đành gọi cho bố cậu, ông Eberle.

Hay tin, ông Eberle vội đi tìm con trai nhưng cũng không có kết quả. Sau khi hỏi thăm, ông biết được rằng Danny đã giao báo cho ba nhà trước khi biến mất. Khi đi tới nhà thứ tư, ông phát hiện xe đạp của con trai dựng cạnh hàng rào, túi đựng báo vẫn còn treo trên xe. Quá lo lắng, ông Eberle lập tức báo cảnh sát.


Cảnh sát địa phương tức tốc liên lạc với đặc vụ FBI Johnny Evans tại chi nhánh Omaha gần với Bellevue. Đồng thời, chuyên gia lập hồ sơ tội phạm Robert K. Ressler của Tổ Khoa học hành vi FBI cũng nhận được thông báo nhờ giúp đỡ.

Evans và lực lượng chức năng nhanh chóng đến hiện trường vụ án. Ban đầu, cảnh sát cho rằng có thể Danny đã bị chú ruột của mình bắt đi vì công ty của người chú hiện đang thiếu nhân lực. Tuy nhiên, sau khi cảnh sát liên hệ được với chú của Danny, họ biết rằng anh ta không dính líu đến vụ việc.

Cảnh sát bắt đầu tiến hành khám xét từng nhà trong khu vực giao báo của Danny. Rất nhanh sau đó, thi thể của cậu bé được tìm thấy ở một bãi cỏ, tay chân trói cứng, miệng bị bịt kín. Nạn nhân chỉ mặc độc nội y, ngực và lưng có nhiều vết đâm. Dường như hung thủ đã coi nạn nhân như một món đồ chơi, rạch nát khuôn mặt tới mức máu thịt lẫn lộn, toàn thân chi chít vết thương. Ngoài ra, phần vai còn bị xẻo mất một miếng thịt.


Báo cáo pháp y cho thấy, trong miệng nạn nhân có sỏi đá, rất có thể cậu bé đã bị giết hại rồi mới bị vứt xác lộ thiên. Hơn nữa, thi thể có dấu hiệu bị di chuyển nhiều lần nên đây không phải là hiện trường vụ án đầu tiên. Danny vẫn còn mặc đồ lót và cũng không có dấu hiệu bị lạm dụng, điều tra viên kết luận rằng nạn nhân không bị tấn công t.ình d.ục.

Ressler nghiên cứu các bức ảnh hiện trường do cảnh sát gửi đến và đích thân khảo sát nơi tìm thấy thi thể nhưng không thu được manh mối nào đáng giá. Nhưng ông phát hiện cạnh nơi vứt xác có một con đường nhỏ, chính xác hơn là một ngõ cụt. Gần đó có một ngã tư, một trong bốn hướng dẫn ra bờ sông.

Điều này khiến Ressler thắc mắc: Tại sao kẻ sát nhân không ném xác xuống sông? Nếu thả xác chết trôi sông, cảnh sát sẽ khó điều tra hơn, thêm vào đó, nơi vứt xác có nhiều vỏ chai bia rỗng cho thấy đây là khu vực tụ tập quen thuộc của người dân. Tại sao hung thủ lại chọn địa điểm này? Tuy nơi này cỏ mọc um tùm nhưng đứng từ trên đường cao tốc nhìn xuống có thể dễ dàng phát hiện ra thi thể. Vì vậy, Ressler phỏng đoán rằng kẻ giết người có thể đã rất vội vã hoặc sợ hãi, sau khi vứt xác bèn lập tức bỏ trốn trong đêm.

Thông qua anh trai của Danny, cảnh sát biết thông tin về việc Danny thường xuyên bị theo dõi bởi một người đàn ông da trắng ngồi trong xe ô tô. Kết quả thẩm vấn các nhân chứng khác cũng tiết lộ họ nhiều lần nhìn thấy một người đàn ông da trắng lái xe chở một cậu bé khoảng hơn 10 tuổi đi hóng gió trên xe.


Dựa trên các đầu mối và tình tiết vụ án, Ressler đã xây dựng nên chân dung tâm lý của hung thủ như sau: Sát thủ là nam giới, da trắng, khoảng 20 tuổi, người địa phương, độc thân, học xong cấp ba, hiện đang làm việc vặt hoặc thất nghiệp, giết người không có kế hoạch, hai tay khá linh hoạt, không có kinh nghiệm t.ình d.ục, có vấn đề tâm lý, thích đọc và xem văn hóa phẩm khiêu dâm, ấu dâm.

Ressler có nhiều năm kinh nghiệm trong việc xử lý các vụ án giết người. Ông tin rằng hầu hết các vụ án t.ình d.ục đều xảy ra giữa người cùng chủng tộc và trường hợp này cũng vậy. Không chỉ vì lời khai của các nhân chứng đã xác nhận việc này mà còn vì nạn nhân biến mất trong khu vực của người da trắng. Sự xuất hiện của người da màu sẽ gây chú ý lớn.

Lập luận cho rằng hung thủ khoảng 20 tuổi là vì địa điểm vứt xác không hợp lý, đây có thể là lần ra tay đầu tiên của hung thủ, hầu hết các trường hợp này đều do thanh niên thực hiện. Thêm vào đó, nhân chứng từng nhìn thấy kẻ khả nghi lái xe, lúc vứt xác cũng có khả năng sử dụng xe ô tô. Vì vậy, khả năng là hung thủ có bằng lái xe, đồng nghĩa trên 16 tuổi.

Tại hiện trường không có dấu hiệu vật lộn, kháng cự nên Ressler cho rằng hung thủ có quen biết với nạn nhân. Nếu kẻ giết người có đồng phạm thì kịch bản là một người dụ dỗ Danny lên xe, người còn lại cưỡng chế, kiểm soát nạn nhân.


Xem xét thời gian gây án, kẻ sát nhân chắc chắn phải xuất phát từ khoảng 6 giờ sáng. Vì vậy có thể đoán rằng hắn sống một mình, thời gian sinh hoạt hỗn loạn. Gần nơi vứt xác có một khu rừng nhưng kẻ sát nhân lại không phi tang thi thể tại đó, chứng tỏ cơ thể hắn không thuộc loại quá khỏe mạnh, cường tráng.

Dây trói nạn nhân ở trong tình trạng tốt, thủ pháp cũng cho thấy hung thủ có một đôi tay nhanh nhẹn, linh hoạt. Đồng thời, báo cáo pháp y giúp Ressler xác định rằng Danny không bị trói trong thời gian dài. Nạn nhân không bị tra tấn trước khi chết.

Mặc dù pháp y không tìm thấy bằng chứng lạm dụng t.ình d.ục nhưng Ressler tin rằng không thể loại trừ khả năng này, có thể kẻ giết người đã không đạt được ý muốn và Danny bị giết khi cố vùng vẫy, chống cự. Do thi thể bị hủy hoại nghiêm trọng, rất khó để nhận biết nạn nhân có phản kháng lại hay không. Tuy nhiên, việc Danny không bị tấn công t.ình d.ục cũng có thể là vì kẻ giết người không có kinh nghiệm t.ình d.ục thực tế. Ở Mỹ, việc một người trưởng thành trong độ tuổi 20 không có kinh nghiệm tinh dục là rất hiểm, điều này cho thấy hắn có vấn đề tâm lý trong giai đoạn trưởng thành.

Ressler đã tiếp xúc với nhiều trường hợp tương tự, kẻ phạm tội cởi quần áo nạn nhân nhưng không quan hệ t.ình d.ục, ra tay rất tàn nhẫn. Chi tiết này không chỉ cho thấy tâm lý của hung thủ rất bất ổn mà còn thể hiện hắn có nhiều ảo giác, hoang tưởng kỳ quái. Ngoài ra, kẻ giết người sẽ thích đọc văn hóa phẩm đồi trụy hoặc mắc bệnh ấu dâm. Điều làm Ressler khó hiểu là lý do vì sao kẻ sát nhân lại xẻo mất một miếng thịt trên vai Danny. Liệu có phải là đang cố xóa đi một dấu vết mà hắn đã để lại?

Dựa trên phân tích hiện trường vụ án, Ressler cho rằng hung thủ có thể quay lại nơi ném xác hoặc giả vờ giúp đỡ cảnh sát và gia đình nạn nhân để tìm hiểu tiến triển vụ án. Vì vậy, Ressler chỉ điểm cảnh sát công bố phác họa hung thủ dựa trên manh mối do nhân chứng cung cấp cho người dân thông qua các phương tiện truyền thông. Một khi kẻ phạm tội xuất hiện, hắn sẽ thu hút sự chú ý của mọi người.


Ngoài ra, phân tích của các kỹ thuật viên cho thấy sợi dây dùng để trói Danny không thông dụng và cũng không có sẵn trên thị trường. Vì vậy, đặc vụ FBI Johnny Evans phán đoán rằng kẻ tình nghi là người sở hữu kiểu dây thừng đặc biệt, đồng thời quyết định sử dụng kỹ thuật thôi miên để tìm kiếm manh mối từ anh trai nạn nhân và các nhân chứng đã từng trông thấy thủ phạm với hy vọng họ có thể nhớ lại nhiều chi tiết hơn.

Cả Ressler và Evans đều cho rằng hung thủ sẽ tiếp tục gây án, tuy nhiên, một thời gian dài sau không xuất hiện thêm vụ án tương tự khiến cho việc điều tra gặp nhiều trì hoãn. Cuối cùng, ở Omaha gần đó xảy ra một vụ bắt cóc bé trai như sau:

Một buổi sáng, Christopher Paul Walden, con trai của một sĩ quan tại Căn cứ Không quân Offutt, biến mất trên đường đi bộ đến trường. Các nhân chứng khai báo đã nhìn thấy cậu bé lên xe với một người đàn ông da trắng. Ba ngày sau, một thợ săn tìm thấy xác đứa trẻ trong một khu rừng cách địa điểm mất tích 8 km.

Hay tin, Ressler và Evans hội ngộ. Ressler cho rằng vụ việc rất giống với án mạng của Danny, nạn nhân chỉ mặc quần lót, toàn thân đầy vết thương. Đặc biệt hơn, cổ họng của cậu bé gần như bị cắt đứt, điều này chứng tỏ kẻ sát nhân đã trở nên tàn bạo hơn.

Sau khi lực lượng chức năng có mặt ở hiện trường khoảng hai đến ba tiếng, một trận bão tuyết bất ngờ ập đến, vùi lấp mọi bằng chứng và đầu mối. May mắn thay, trước đó cảnh sát đã tìm ra manh mối vô cùng quan trọng là nhiều dấu chân tại hiện trường vụ án. Các dấu chân cho thấy có hai người bước vào nhưng chỉ có một người đi ra. Chi tiết này vừa cho thấy đây chính là hiện trường đầu tiên, vừa cho thấy hung thủ chỉ hành động một mình.

Dựa trên những dữ liệu này, Ressler đã tiến hành mô phỏng phương pháp gây án và tâm lý của kẻ gây án: Lần phạm tội đầu tiên, tên sát nhân sử dụng một loại dây thừng đặc thù, vì FBI đã nghiên cứu sợi dây này nên trong lần ra tay tiếp theo, hắn đã không dùng loại dây này nữa. Đối với trẻ em, không nhất thiết phải trói hoặc bịt miệng bằng băng dính mà chỉ cần đe dọa hoặc dụ dỗ. Vì vậy, trong tình huống này, hung thủ có thể dắt đứa trẻ đến một nơi kín đáo, ra lệnh cho nạn nhân tự cởi quần áo rồi tiến hành sát hại.


Kết thúc quá trình phỏng đoán, Ressler kết luận rằng kẻ sát nhân vào khoảng 20 tuổi. Cả hai nạn nhân đều không bị tấn công t.ình d.ục, vì vậy Ressler tin rằng hung thủ có vấn đề về sinh lý. Đối tượng hắn lựa chọn là những bé trai, điều này cho thấy hung thủ có thể đã từng bị người khác cười nhạo hoặc xem thường, tâm lý vô cùng mong manh, bất ổn.

Ressler đã nghiên cứu kỹ lưỡng hai trường hợp và tìm ra sự khác biệt. Trong vụ án đầu tiên, hung thủ đang thử nghiệm, vụ án thứ hai là khi hắn tái phạm để cảm nhận được khoái cảm từ hành vị sát hại, vì vậy mà thủ pháp cũng độc ác hơn. Nếu tiếp tục phạm tội, hắn sẽ càng ngày càng tàn nhẫn.

Tiếp đó, pháp y cung cấp những thông tin mới. Viên sỏi được tìm thấy trong miệng Danny không phải là chứng cứ của vụ án này, bác sĩ pháp y đã nhầm lẫn dữ liệu của hai vụ án khác nhau. Vì vậy, Ressler suy luận rằng trong vụ án Danny, hiện trường đầu tiên cách nơi vứt xác không xa.

Sau khi biết được điều này, Ressler thay đổi phác họa chân dung tội phạm: Nam giới trẻ tuổi, da trắng, hành động một mình, sống ở Bellevue hoặc gần căn cứ không quân, học vấn thấp, làm các công việc như bảo trì hoặc kỹ thuật viên, thích đọc tiểu thuyết hoặc tạp chí trinh thám, có khả năng điều tra ở mức độ nhất định, có thể làm việc bán thời gian với tư cách huấn luyện viên đội bóng chày nam. Ngoài ra, các vết thương bằng dao trên cơ thể nạn nhân có thể là cách hung thủ che giấu dấu vết của mình, ví dụ như dấu răng.

Ressler đoán rằng hung thủ sẽ tiếp tục gây án, thời điểm đó các trường học sắp nghỉ hè, kẻ thủ ác sẽ càng dễ hành động. Vì vậy, ông và điệp vụ FBI Evans cùng hợp tác với cảnh sát để đẩy nhanh quá trình điều tra, sớm ngày ngăn chặn tội ác. Cùng lúc, Ressler sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng để kêu gọi bố mẹ không để trẻ nhỏ ra đường một mình, phát lệnh cho tất cả các cơ quan thi hành luật pháp báo tin ngay cho FBI khi bắt gặp người hoặc phương tiện khả nghi.

Trong thời gian đó, cảnh sát tiến hành điều tra và thẩm vấn cẩn thận một lượt tất cả những người đã từng có tiền sử tội phạm t.ình d.ục trong khu vực. Một kẻ tình nghi lọt tầm ngắm, lực lượng chức năng cũng tìm thấy dây thừng và băng dính trong nhà của người này. Tuy nhiên, đối tượng vượt qua bài kiểm tra với máy phát hiện nói dối, xác nhận không phạm tội. Ngoài ra, khi nói chuyện với cảnh sát, anh ta rất thẳng thắn, rành mạch và cũng không che giấu việc mình là người đồng tính.

Lúc này, một nhân chứng cung cấp đầu mối mới: Trước khi Walden mất tích vài ngày, anh ta đã nhìn thấy Walden lên xe của một thanh niên. Để có thêm thông tin chính xác, cảnh sát đã thôi miên nhân chứng. Tin tức thu được thêm cho biết Walden đã lên xe của một người đàn ông và nhân chứng nhớ được vài con số trên biển số xe.

Cảnh sát tìm ra gần 1.000 chiếc xe tương tự với mô tả. Tuy nhiên, mẫu xe này ở Sabine County không nhiều, vì vậy cảnh sát địa phương đã tiến hành điều tra từng người một theo biển số. Trong lúc này, vụ án có bước đột phá mới:

Một giáo viên đã gọi điện báo cảnh sát vì trông thấy một chiếc ô tô khả nghi chạy quanh nhà thờ, tài xế là một người đàn ông gầy gò. Hắn dùng xe và muốn mượn điện thoại nhưng nhân chứng từ chối. Đáp lại, người đàn ông nổi giận và dọa giết cô.

Lời miêu tả của cô giáo này về đối tượng rất phù hợp với phác họa hung thủ của Ressler. Đồng thời, cô cũng cung cấp biển số xe của người đàn ông.

Cảnh sát đã tiến hành điều tra sâu dựa trên biển số xe và phát hiện chiếc xe này được thuê từ một công ty cho thuê phương tiện. Người thuê xe sống ở khu vực Căn cứ Không quân Offutt, sau khi thuê phương tiện, anh ta nói rằng xe của mình bị hỏng nên để xe ở công ty đó. Sau khi kiểm tra, cảnh sát thấy rằng chiếc xe để lại ở công ty vô cùng khớp với manh mối của nhân chứng. Trong cốp xe, họ tìm thấy một con dao, dây thừng và băng dính. Thêm vào đó, chiếc xe cũng nằm trong danh sách 1.000 chiếc xe đang bị khám xét.

Cảnh sát ngay lập tức cung cấp thông tin này cho FBI và Căn cứ Không quân, Evans và một số đặc vụ lập tức kiểm tra chiếc xe. Kết quả tìm ra chủ nhân chiếc xe là John Joseph Joubert, từng là kỹ thuật viên bảo dưỡng tại Căn cứ Không quân, 21 tuổi, vóc dáng gầy gò. Những đặc điểm này hoàn toàn trùng khớp với phác họa chân dung tội phạm của Ressler.

Xác định được đối tượng tình nghi, cảnh sát đã lục soát nhà ở của Joubert và phát hiện ra một con dao săn, loại dây thừng đặc biệt và nhiều cuốn tiểu thuyết trinh thám, một trong số đó đã bị đọc đến nhàu nát.

FBI thẩm vấn Joubert, ban đầu hắn không chịu nhận tội và cho rằng cảnh sát không có bằng chứng xác thực. Tuy nhiên, khi FBI đưa ra tang chứng, vật chứng xác đáng, hắn ta đã thừa nhận tội ác.

Ngay sau đó, Ressler đã tiến hành nghiên cứu sâu về hung thủ. Thì ra, ngay từ khi hắn mới 6,7 tuổi đã bắt đầu có ảo tưởng về việc giết người, muốn giết chết vú nuôi của mình để ăn thịt. Suốt quãng thời gian trưởng thành, hắn luôn đau đáu tâm niệm này.

Mẹ của Joubert là nhân viên khách sạn, bố là bồi bàn, quan hệ giữa hai người không hòa thuận. Năm hắn 10 tuổi, người bố bỏ đi, chỉ còn mình hắn sống cùng mẹ. Mẹ Joubert là người nóng nảy, thường xuyên nổi giận và đập phá đồ đạc. Mỗi lần mẹ hắn nổi cơn tam bành, Joubert chỉ biết sợ hãi, trốn trong phòng riêng. Thiếu thốn sự quan tâm từ người mẹ, hắn dần mắc chứng tự kỷ. Năm 12 tuổi, hắn bị mẹ bắt gặp khi đang thủ dâm, sau đó bị bà đánh đập và mắng nhiếc thậm tệ. Từ đó, hắn chuyển đối tượng từ những cô gái trẻ sang các bé trai.

Để có thể theo học trường Công giáo, Joubert đành đi giao báo kiếm thêm tiền. Mẹ hắn không đủ khả năng tài chính để cho hắn theo học trường chất lượng tốt. Sau khi nhập học, hắn bị bạn học chế giễu vì yêu người đồng giới. Sau khi tốt nghiệp cấp ba, hắn thi vào một trường quân sự. Độ tuổi uống rượu hợp pháp ở khu vực mà Joubert sinh sống khá thấp, vì vậy hắn bắt đầu chìm đắm trong rượu chè dẫn đến bỏ bê tập luyện và thường cả đêm không về nhà. Kết thúc năm học đầu tiên, hắn bỏ học và trở về nhà.

Không lâu sau đó, hắn gia nhập không quân và có mối quan hệ tốt với một đồng nghiệp trẻ. Cả hai cùng đến nhận nhiệm vụ tại Căn cứ Không quân Offutt và sống cùng một ký túc xá. Thời điểm này, Joubert bắt đầu trở nên ám ảnh với tiểu thuyết trinh thám. Sau đó, bạn của hắn nói rằng anh ta và người khác nảy sinh quan hệ tình cảm và người kia muốn anh ta giữ khoảng cách với Joubert. Nghe vậy, Joubert đã nổi giận và bỏ ra ngoài. Không lâu sau, người bạn cùng phòng chuyển đi, đây cũng chính là ngòi nổ kích thích Joubert thực hiện tội ác đầu tiên.

Nguyên nhân khiến hắn dùng dao rạch nát, cắt xẻo người nạn nhân là vì muốn xóa đi vết cắn của mình. Tâm lý này phù hợp với những hoang tưởng về việc ăn thịt người của hắn khi mới 6,7 tuổi. Sở thích đọc tiểu thuyết trinh thám là dấu hiệu cho thấy hung thủ muốn trải nghiệm cảm giác hồi hộp và khoái cảm giết người giống như trong truyện.

CHIA SẺ TỪ CHUYÊN GIA TÂM LÝ TỘI PHẠM

Nghiên cứu của chuyên gia tâm lý tội phạm cho thấy, trẻ em từ giai đoạn sơ sinh đến 6,7 tuổi là thời kỳ dễ chịu ảnh hưởng từ người mẹ nhất vì đây là thời điểm trẻ nhỏ học cách thể hiện tình cảm. Các chuyên gia đã khảo sát nhiều tội phạm và thấy rằng họ thường bị mẹ ruột thờ ơ, bỏ mặc trong thời thơ ấu. Nhìn chung, mối quan hệ giữa phụ huynh và con cái trong các trường hợp này rất xấu, có xu hướng thù ghét, bài trừ lẫn nhau. Do ít nhận được sự quan tâm, chăm sóc và an ủi tinh thần nên họ không biết cách trân trọng đồng loại như những người bình thường. Ngoài ra, họ cũng không có khả năng bày tỏ nhu cầu được yêu thương và quý trọng. Điều này không chỉ khiến cuộc đời họ phải trả giá đắt mà còn là quả bom cho xã hội, cướp đi sinh mạng của nhiều người vô tội, khiến nhiều gia đình rơi vào cảnh thê lương.

Không chỉ người mẹ mà người bố cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình trưởng thành của trẻ. Robert K. Ressler, chuyên gia về chân dung tâm lý tội phạm chia sẻ về một tình huống, bố của kẻ phạm tội thường xuyên bận rộn, thỉnh thoảng mới trở về nhà. Khi trở về, ông ta thường xuyên đánh đập mẹ và đứa con mỗi khi không hài lòng. Vì vậy, kẻ phạm tội lúc nào cũng sợ hãi bố mình. Thêm vào đó, người bố còn có hành vi lạm dụng t.ình d.ục đối với anh ta. Cuộc khảo sát cho thấy 40% tội phạm bị bố mẹ bạo hành hoặc quấy rối t.ình d.ục khi còn nhỏ, 70% người phạm tội đã từng chứng kiến cảnh bạo lực từ khi còn nhỏ và nhìn nhận mình với tư cách người bị hại.

Chính vì nguyên nhân này, hầu hết tội phạm đều có vấn đề tâm lý khi còn nhỏ. Theo thời gian, các vấn đề tinh thần này sẽ có nhiều chuyển biến bất thường như rối loạn chức năng t.ình d.ục, mối quan hệ giữa người với người kém. Từ đó, họ dễ dàng đi vào con đường phạm tội.

Chương 4 - Thợ săn nữ sinh Edmund Emil Kemper

Thành phố Santa Cruz, Mỹ là một nơi xinh đẹp với ngôi trường Đại học California danh giá. Nữ sinh theo học tại trường đều là những cô gái xinh đẹp, họ thường ra khỏi trường đi chơi và bắt nhờ xe để quay về. Tuy nhiên, sau khi xuất hiện liên tiếp những trường hợp sinh viên nữ mất tích và bị sát hại, ban giám hiệu nhà trường đã rơi vào khủng hoảng. Đây vừa là sự cảnh tỉnh cho những cô gái vô tư đi nhờ xe của người lạ, vừa là khởi nguồn cho câu chuyện kinh hoàng về “Thợ săn nữ sinh” của Đại học California, Santa Cruz.

Ban đầu, nhà trường cho rằng chỉ cần giữ sinh viên trong khuôn viên sư phạm là đủ đảm bảo an toàn. Thế nhưng, cơn ác mộng vẫn không có hồi kết khi chưa đầy một tháng sau, hai nữ sinh Rosalind Thorpe và Allison Liu gặp nạn. Một tuần sau khi hai cô gái biến mất, có người đã phát hiện ra thi thể không nguyên vẹn bị vứt ở hẻm núi Eden gần San Francisco.


Cảnh sát rơi vào thế khó, không biết nên điều tra theo hướng nào. Cùng lúc, giới truyền thông địa phương ồ ạt đưa tin về vụ án làm dấy lên làn sóng dư luận. Các cô gái trẻ sống trong khu vực đều hoảng sợ không thôi, không dám bước chân ra khỏi nhà nửa bước.

Vì vậy, cảnh sát địa phương xin trợ giúp từ FBI, đồng thời gửi ảnh và thông tin người bị hại tới cho chuyên gia tâm lý tội phạm John Douglas.

Sau khi nghiên cứu thông tin được cung cấp, Douglas và các chuyên gia FBI cho rằng những người phạm tội cướp giết thường rơi vào ba loại động cơ sau: thống trị, thao túng và kiểm soát.


Nguyên nhân phạm tội thường do thất bại trong sự nghiệp và tình cảm, người phạm tội thường bị đối xử bất công, phần lớn đều bị ngược đãi về mặt tinh thần hoặc sinh lý. Vì vậy, họ sẽ vẽ ra ảo tưởng về chính mình, tự coi mình là người có quyền thực thi công lý, làm hại người khác để bảo vệ lợi ích cá nhân. Kẻ phạm tội sẽ cố trà trộn vào đội ngũ cảnh sát nhưng không thành công, chỉ có thể làm những công việc như vệ sĩ, bảo vệ…

Do đó, trong quá trình phác họa chân dung hung thủ, Douglas đã lưu ý: Hung thủ sẽ lái những mẫu xe giống xe tuần tra của cảnh sát như Ford Victoria Crown hoặc Chevrolet Caprese.

Hung thủ sẽ đến những địa điểm tụ tập quen thuộc của cảnh sát gồm nhà hàng và quán rượu, đồng thời tìm cách để tiếp cận, trò chuyện cùng cảnh sát để tìm hiểu tình hình điều tra, từ đó suy đoán bước đi tiếp theo của giới chức năng. Hành động này sẽ khiến kẻ phạm tội cảm thấy mình có quyền hành hơn và giống một người trong cuộc.


Douglas phân tích, điểm mấu chốt trong các vụ án giết người liên hoàn là trí tưởng tượng của hung thủ, vì vậy khẳng định “Thợ săn nữ sinh” thích chìm đắm trong ảo tưởng. Những tên tội phạm kiểu này thường có nhiều điểm yếu và rất tự ti, cho rằng không có người phụ nữ nào muốn chấp nhận mình. Vì vậy, họ sử dụng các ảo tưởng như một sự bù đắp. Và, để có thể hoàn toàn kiểm soát hình mẫu trong trí tưởng tượng của mình, cuối cùng sẽ dẫn đến việc sát hại nạn nhân.

Đối với những kẻ sát nhân có tính bạo dâm, để đi từ ảo ảnh đến hiện thực thì cần có chất xúc tác là văn hóa phẩm đồi trụy hoặc các hành vi biến thái với động vật, thậm chí là thái độ bạo lực với người cùng độ tuổi.

Ngoài ra, bối cảnh gia đình của hung thủ khá phức tạp, không ổn định, chịu nhiều ảnh hưởng từ người mẹ hoặc họ hàng là nữ giới có tính kiểm soát mạnh. Kẻ phạm tội sẽ hình thành tâm lý muốn báo thù, sát hại tàn bạo những người phụ nữ khác.

Ảnh chụp người bị hại cho thấy, hung thủ phân xác của nạn nhân sau khi họ đã chết. Điều này thể hiện hắn không phải là kẻ cuồng ngược đãi, cũng không có ý định trừng phạt nạn nhân mà thậm chí còn muốn giúp họ giảm bớt đau đớn.

Khi Douglas và các thám tử đang phân tích vụ án, họ nhận được một cuộc gọi từ cảnh sát Santa Cruz, thông báo rằng kẻ sát nhân đã đầu thú. Hắn thừa nhận giết hại nhiều người, trong số đó có các sinh viên đại học gặp nạn. Hiện hung thủ đang ở vùng ngoại ô quận Pueblo, Colorado để chờ cảnh sát tới.


Ban đầu, cảnh sát nghĩ rằng đây là trò đùa ác ý của ai đó, nhưng sau khi nghe người gọi điện trình bày chi tiết về cách gây án và nơi chôn xác, lực lượng chức năng bắt đầu tin rằng hắn chính là hung thủ.

Tiếp đó, người gọi điện thú nhận rằng hắn đã giết hại mẹ ruột của mình vào đêm qua. Hắn cảm thấy mình làm vậy là điều không thể tránh khỏi vì chính mẹ hắn là người đã sỉ nhục, mắng nhiếc hắn từ nhỏ đến lớn. Kẻ sát nhân kể lại chi tiết vụ việc như sau: Hắn dùng búa đánh chết mẹ mình khi bà đang ngủ, sau đó tra tấn và hạ nhục xác chết. Tiếp theo, hắn gọi điện cho người bạn thân nhất của mẹ và mời bà đến ăn tối. Khi khách đến, hắn bóp cổ bà đến chết rồi phân xác.

Sau khi bị bắt giữ, cảnh sát xác nhận tên của kẻ giết người là Edmund Emile Kemper, hắn vô cùng bình tĩnh và kiên nhẫn khi bị bắt. Sau cùng, Kemper bị kết tội giết người cấp độ một và bị kết án tù chung thân. Khi thẩm phán hỏi thấy hình phạt nào phù hợp với mình, hắn trả lời: “Tra tấn đến chết.” Rất nhanh, các phương tiện truyền thông đưa tin hàng loạt về Kemper. Lúc này, hình ảnh về kẻ giết người mới được đưa ra ánh sáng: Dáng người cao lớn, vạm vỡ, ăn nói nhẹ nhàng, hiền lành, không hề thô lỗ như những sát nhân liên hoàn khác. Những đặc điểm này khiến người khác khó mà nghĩ hắn lại là một tên sát nhân máu lạnh.


Theo dòng thời sự, quần chúng hiểu hơn về Edmund Emile Kemper. Hắn ta và em gái được sinh ra trong một gia đình tan vỡ, tư chất thông minh nhưng không nhận được sự công nhận của bố mẹ. Ngược lại, Kemper bị mẹ ruột khinh thường, ngược đãi. Thường xuyên cãi vã khiến bố mẹ Kemper nhanh chóng ly hôn. Càng lớn, Kemper càng giống bố khiến mẹ hắn vô cùng phiền não, thái độ đối đãi cũng lạnh nhạt hơn.

So với bạn bè đồng trang lứa, ngoại hình của Kemper khá thô kệch khiến nhiều bạn học xa lánh, cô lập. Sau đó, vì hình dáng quá khổ khiến người mẹ lo sợ rằng hắn có thể quấy rối em gái, bà đã bắt Kemper xuống ở tại tầng hầm tối tăm và lạnh lẽo. Điều này khiến cậu bé Kemper, lúc ấy mới 10 tuổi, rất sốc và sợ hãi, cảm thấy mình giống như một người bị cầm tù, bắt đầu nảy sinh lòng thù hận và những suy nghĩ chết chóc.

Từ đó, Kemper có những hành động rất khác thường như chặt xác hai con mèo nuôi trong nhà, bẻ nát búp bê của em gái. Việc này chọc giận mẹ hắn khiến bà đánh đập và đuổi Kemper đến sống với người chồng đã ly hôn. Không lâu sau, Kemper trốn về nhà mẹ đẻ nhưng lại bị mẹ mình đưa đến sống với ông bà ngoại.

Việc này khiến Kemper cảm thấy rất buồn chán và cô độc. Sống ở một nơi cách biệt với thế giới bên ngoài khiến những bóng tối tâm hồn hắn ngày càng lớn dần. Năm hắn 14 tuổi, vì bà ngoại kiên quyết bắt hắn ở nhà làm việc, không được đi cùng ông ngoại nên Kemper đã nổi giận, bắn chết bà bằng một khẩu súng trường. Sau khi bắn chết bà mình, hắn dùng dao làm bếp chém nhiều nhất vào thi thể nạn nhân. Mặc dù rất thân thiết với ông ngoại nhưng vì lo sợ ông không thể tha thứ cho mình nên khi ông ngoại trở về nhà, Kemper đã dùng súng giết chết ông một cách tàn nhẫn. Khẩu súng đó cũng chính là món quà ông ngoại tặng hắn làm quà sinh nhật.

Sau khi giết ông bà ngoại, Kemper không hề hoảng sợ, hắn bình tĩnh gọi điện cho mẹ mình kể lại những việc mình đã làm. Sau khi cảnh sát đến và đưa hắn đi thẩm vấn, Kemper đã trả lời bằng thái độ nhẹ như không: “Tôi chỉ muốn biết cảm giác giết bà ta sẽ như thế nào. Vì vậy, Kemper được chẩn đoán là rối loạn nhân cách loại hung hăng thụ động. Hắn được chuyển đến điều trị trong một bệnh viện nhà nước dành cho các tội phạm mắc bệnh tâm thần. Thời gian nhập viện, Kemper có biểu hiện xuất sắc và nhanh chóng xây dựng mối quan hệ tốt với các bác sĩ, thậm chí còn trở thành trợ lý cho họ. Hắn học và nắm vững nhiều kiến thức tâm lý học, có cơ hội tiếp xúc với hầu hết các dữ liệu về bệnh nhân và kết quả chẩn đoán của bệnh viện. Sau khi biết về tiêu chuẩn của bài kiểm tra đánh giá tâm thần, Kemper đã ghi nhớ toàn bộ đáp án cho 28 câu hỏi một cách vô cùng thông minh.


Năm 21 tuổi, Kemper thuận lợi vượt qua bài đánh giá tâm thần của bệnh viện và được xác nhận là không gây nguy hiểm cho xã hội. Được thả tự do, hắn quay về sống với mẹ ruột. Thời điểm đó, mẹ hắn vừa ly hôn người chồng thứ ba và đang làm thư ký tại Đại học Santa Cruz, California. Tuy nhiên, nhiều năm xa cách không khiến quan hệ giữa hai người hòa hoãn hơn, Kemper và mẹ thường xuyên tranh cãi, người mẹ vẫn tiếp tục nhục mạ hắn như trước.

Vốn sáng da và hiếu học, Kemper tốt nghiệp với điểm số cao trường cao đẳng cộng đồng. Dự định của hắn là thi vào trường cảnh sát nhưng không đủ tiêu chuẩn do ngoại hình quá khổ. Do đó, Kemper thường xuyên lui tới các quán rượu và nhà hàng mà cảnh sát hay tụ tập để nghe ngóng những câu chuyện của họ như một sự an ủi.

Trong khoảng thời gian này, Kemper nhận làm thêm một số việc lặt vặt. Hắn nộp đơn đăng ký tham gia Đội tuần tra xa lộ nhưng thất bại, tuy nhiên nhờ đó mà có cơ hội gia nhập vào Bộ Giao thông California. Từ đó, hắn sửa xe cá nhân cho giống với xe cảnh sát, lái xe đi vòng quanh và chở các cô gái trẻ cần đi xe trong khu vực Santa Cruz. Phải đối mặt với những lời nhục mạ từ mẹ đẻ, “ác quỷ” trong Kemper lớn lên từng ngày. Hắn bắt đầu lên kế hoạch cho những vụ giết người.

Ngày 7 tháng 5 năm 1972, Kemper cho Mary Pesce và Anita Luchessa đi nhờ xe từ Đại học Bang Fresno. Hắn chở hai cô gái đến một nơi hẻo lánh và đâm chết họ, sau đó giấu xác ở nhà mẹ ruột, chụp ảnh người chết rồi mới phân xác.

Ngày 14 tháng 9 cùng năm, Kemper đón nữ sinh trung học 15 tuổi Aiko Koo, bóp cổ nạn nhân tới chết, tra tấn thi thể sau đó di chuyển về nhà mẹ đẻ để phân xác. Ngày hôm sau, hắn đã để đầu của nạn nhân vào ô tô rồi lái xe đến bệnh viện để kiểm tra sức khỏe định kỳ và giám định sức khỏe tâm thần. Kemper vượt qua bài xét nghiệm một cách suôn sẻ, bác sĩ cũng tuyên bố rằng hắn không còn là mối đe dọa cho xã hội và những người khác nữa.

Ngày 7 tháng 1 năm 1973, Kemper đón Cindy Schall trong khuôn viên trường Cao đẳng Cabrillo, Santa Cruz. Sau khi sát hại nạn nhân một cách thô bạo, hắn chặt xác nạn nhân và mang đầu của Schall về chôn ở sân sau nhà mẹ ruột trong tư thế mặt ngửa lên, mắt hướng về phía cửa sổ phòng ngủ của bà mẹ. Nói về việc này, Kemper giải thích rằng mẹ hắn luôn muốn người khác phải “ngước nhìn mình”.

Tiếp đó, ban giám hiệu trường Đại học California, Santa Cruz đã cảnh báo nữ sinh hạn chế ra ngoài nhưng vì mẹ của Kemper làm việc trong trường và xe của hắn có thể thông hành do chính trường đại học cung cấp nên hung thủ vẫn có thể thực hiện hành vi tàn ác của mình. Trong chưa đầy một tháng, hắn ra tay giết hại hai nữ sinh là Rosalind Thorpe và Alice Liu.

Sau khi bị bắt giữ, Kemper từng cổ tự tử trong tù bằng cách cắt cổ tay nhưng không thành. Kẻ sát nhân cũng phải trải qua nhiều bài kiểm tra tâm lý, kết quả của các thí nghiệm này cho thấy hắn là người có chỉ số thông minh cao, có khả năng vận dụng các lý thuyết về bệnh tâm thần để phân tích hành vi của mình.

CHIA SẺ CỦA CHUYÊN GIA TÂM LÝ TỘI PHẠM

Các chuyên gia lập hồ sơ tội phạm cho rằng, nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến sự hình thành của tội phạm giết người hàng loạt như Kemper là bối cảnh gia đình và tuổi thơ không trọn vẹn. Chịu nhiều kích thích do bị mẹ ruột bạo hành tâm lý, bạn bè cười nhạo và cô lập khiến nỗi căm hận trong lòng hung thủ lớn dần theo năm tháng. Kết quả, Kemper chỉ có thể trốn trong thế giới do chính mình tạo ra, ảo tưởng về việc được tôn trọng và nắm quyền kiểm soát. Đây cũng là khuôn mẫu phạm tội phổ biến, tội phạm nhận thức được hành động của mình là sai trái nhưng không thể dừng lại vì quá phấn khích và kích động.

Chương 5 - Sát thủ nhền nhện ác mộng của người đồng tính

Một buổi chiều đẹp trời nọ ở Illinois, bà Piest đứng đợi cậu con trai Robert, năm nay 15 tuổi, tan làm. Vì bận rộn với công việc làm thêm trong mùa hè nên Robert đã bỏ lỡ nhiều cuộc vui của gia đình. Tuy nhiên, hôm đó là sinh nhật của bà Piest và chắc hẳn Robert sẽ không muốn bỏ lỡ ngày đặc biệt của mẹ. Vì vậy, bà chủ động đến đón con trai tan làm.

Nhưng, Robert không theo mẹ về nhà ngay sau khi tan làm mà nói với bà Piest rằng cậu phải đi gặp một chủ thầu ở bãi để xe. Robert nghe nói rằng người này đang tìm nhân viên bán thời gian và đưa ra mức lương cao gấp đôi thu nhập hiện tại của cậu.


Bẵng đi một lúc lâu, bà Piest vẫn không thấy con trai quay trở về nên đã gọi điện cho cảnh sát vì quá lo lắng. Cảnh sát an ủi người mẹ rằng có thể cậu con trai đang tuổi mới lớn, ham chơi nên đi cùng bạn bè mà quên không báo lại cho gia đình, đây cũng là điều rất bình thường. Tuy nhiên, tới bảy rưỡi tối, bà Piest vẫn không thấy Robert về nhà. Không thể chờ lâu hơn nữa, bà nhất quyết yêu cầu lực lượng chức năng nhập cuộc tìm kiếm con trai mình.

Sau khi nghe tin, Trung úy của đội hình sự tại địa phương, Joe Kozenczak đã lập tức chú ý đến vụ việc. Con trai anh là bạn cùng trường với Robert, Kozenczak biết Robert là một cậu bé ngoan, không bao giờ bỏ đi mà quên nói lời từ biệt. Anh đoán rằng cậu đã gặp chuyện bất trắc và chủ động dẫn cảnh sát tới nơi Robert làm thêm.


Sau khi tìm hiểu, Kozenczak tra ra được chủ thầu mà Robert gặp hồi chiều tên là John Gacy, hiện đang làm thiết kế nội thất. Điều tra sơ bộ cho thấy John Gacy không hề ra ngoài vào ngày xảy ra vụ án mà chỉ làm việc trong nhà. Tuy nhiên, Kozenczak vẫn nghi ngờ Gacy và tìm kiếm lịch sử tiền án của đối tượng, đồng thời phát lệnh cho Gacy đến thẩm vấn.

Khi Gacy tới buổi thẩm vấn, Kozenczak chưa tiến hành điều tra sâu về đối tượng nhưng vẻ ngoài của hắn lập tức khiến anh chú ý: Dáng người thấp lùn, mập mạp, hai cằm, râu đen. Đối tượng tự xưng là doanh nhân, từng tham gia các hoạt động chính trị của địa phương và chụp ảnh cùng đệ nhất phu nhân. Ngoài ra, hắn cũng có mặt trong một số hoạt động công ích như đóng vai chú hề trong các lễ hội để giải trí cho trẻ em.


Khi được hỏi về Robert, Gacy cho hay mình không hề quen biết nạn nhân và cũng chưa từng có bất kỳ tiếp xúc nào. Tuy nhiên, khi Trung úy Kozenczak đề cập đến lời khai của nhân chứng đã từng trông thấy Gacy và Robert ở bãi để xe, đối tượng lập tức biện hộ rằng mình chỉ chào hỏi cậu bé rồi rời đi.

Lời khai của Gacy nghe chừng hợp lý nhưng với trực giác nhạy bén của một cảnh sát lâu năm, Kozenczak cho rằng hắn đang nói dối. Sau khi khám xét nhà của đối tượng, cảnh sát tìm thấy một số quần áo của bé trai nhưng vì không có đủ bằng chứng nên không thể thực hiện bắt giữ với Gacy.

Song, chỉ với ngần ấy thông tin cũng đủ để cảnh sát để mắt tới Gacy và giám sát hắn chặt chẽ hơn. Ban đầu, Gacy tỏ vẻ bàng quan nhưng chỉ sau một tuần, hắn không giữ được bình tĩnh và thuê luật sư để cáo trạng cảnh sát quấy rối công dân, cản trở việc kinh doanh.

Ngay lúc Gacy chuẩn bị trình đơn tố cáo, Trung úy Kozenczak có được thông tin mới: Gacy đã từng bị kết án 10 năm tù vì tấn công t.ình d.ục một cậu bé ở Iowa nhưng được phóng thích sớm vì có biểu hiện tốt trong tù.

Sau khi mãn hạn tù, Gacy chuyển đến Illinois. Không lâu sau đó, một cậu bé đã kiện hắn vì có hành vi bạo lực và không đúng mực. Trong quá trình tạm giam, đối tượng khai rằng người khởi tố muốn tống tiền mình, đồng thời yêu cầu cảnh sát bắt giữ cậu bé kia nhưng không được đáp lại. Vào ngày diễn ra vụ xét xử, do người khởi tố không xuất hiện nên Gacy được bác bỏ mọi cáo buộc.


Vì vậy, phía lực lượng chức năng quyết định tiến hành lục soát toàn diện nơi ở của Gacy. Đối tượng tình nghi cũng góp mặt, hắn phủ nhận việc che giấu Robert khi bị cáo buộc nhưng lại thừa nhận bản thân đã từng giết bạn tình đồng tính để tự vệ, sau đó đốt xác và chôn dưới sàn xi măng của hầm để xe.

Trong quá trình khám xét nơi ở của Gacy, cảnh sát tìm thấy một căn phòng bí mật, bên trong có ba thi thể bị cắt xẻ không lành lặn. Lực lượng chức năng lập tức bắt giữ Gacy, khởi tố hắn vì tội giết người.

Phía cảnh sát điều tra nhà của hung thủ rất cẩn thận, tháo gỡ toàn bộ tường, trần và sàn nhà. Kết quả thu được rất nhiều vật chứng bao gồm dây chuyền, giày da, thắt lưng… Không nghi ngờ gì, đây đều là đồ vật tùy thân của người bị hại. Số xác chết được tìm thấy lên đến con số 29. Ngoài ra, Gacy cũng đã thừa nhận tội ác, tăng thêm 3 nạn nhân, trong đó có Robert đã bị hắn ném xác xuống sông Des Plaines.

Lời thú tội của hắn khiến cảnh sát bàng hoàng, Gacy là một trong số những kẻ sát nhân tàn bạo nhất nước Mỹ khi lấy đi mạng sống của hàng chục người. Hầu hết các nạn nhân của hắn đều là nam giới trong khoảng từ 15 – 20 tuổi. Vụ án này đã thu hút sự chú ý của chuyên gia lập hồ sơ tội phạm FBI Robert K. Ressler và nhiều nhà tâm lý học khác. Ressler cũng có mặt trong buổi thẩm vấn của Gacy để nghiên cứu sâu về đối tượng.

John Gacy cho biết, lần đầu tiên hắn giết người là tháng 1 năm 1970. Tối hôm đó, Gacy đã làm quen với một người đồng tính nam trạm xe buýt và rủ người này về nhà. Sáng hôm sau, đối tượng dùng dao để uy hiếp Gacy, trong lúc vật lộn, Gacy đã vô tình đâm dao vào ngực nạn nhân khiến anh ta tử vong. Sau đó, hắn chôn thi thể dưới sàn nhà.

Không lâu sau, Gacy kết hôn cùng một người phụ nữ và sinh được hai đứa con. Sau khi hắn ngồi tù, hai người đã ly hôn. Về sau, hắn đi tới hôn nhân cùng một người phụ nữ khác và sống trong chính ngôi nhà mà hắn đã chôn xác nạn nhân. Được một thời gian, vợ của Gacy phàn nàn rằng ngôi nhà có mùi hôi thối nhưng hung thủ không hề lo lắng, ngược lại, hắn biện minh rằng mùi hôi xuất phát từ việc căn nhà đã lâu không được dọn dẹp cẩn thận. Nhân lúc vợ đi du lịch, Gacy đã bọc kín thi thể bằng bê tông.

Gacy không nhớ chính xác về những lần giết người xảy ra sau đó. Tuy nhiên, kẻ sát nhân khai báo rằng vào năm 1975, hắn đã giết hại một nhân viên của mình tên John Butkovich. Khi ấy, Butkovich đã yêu cầu Gacy trả số tiền lương mà hắn thiếu nợ nhưng Gacy đã tìm cách trốn tránh cho qua chuyện. Gacy đã lừa nạn nhân về nhà mình, thực hiện tấn công t.ình d.ục, bắt ép nạn nhân tham gia trò chơi hiếp dâm mà hắn bày ra. Cuối cùng, Gacy siết cổ nạn nhân tới chết bằng dây thừng, chôn xác nạn nhân ở một phòng chứa đồ trong gara và đổ xi măng lên để xóa dấu vết.

Theo thời gian, những chiêu trò dụ dỗ trai trẻ của Gacy ngày càng trở nên thuần thục, những tội ác mà hắn thực hiện cũng điên cuồng, hung tợn hơn. Hắn tự gọi bản thân là “Người nhện”, bởi không con mồi nào có thể thoát khỏi tấm lưới mà hắn đã dệt nên.

Gacy thường lang thang, lưu vãng ở những nhà hàng, quán rượu dành cho người đồng tính nam để tìm kiếm đối tượng phù hợp. Đa số nạn nhân là khách tạm trú nên dù họ có mất tích cũng chẳng ai hay biết. Hung thủ sẽ mời họ về nhà uống rượu hoặc lén bỏ ma túy vào đồ ăn của họ. Sau đó, hắn sẽ rủ họ xem phim về đồng tính nam hoặc phim khiêu dâm. Nếu đối phương từ chối, kẻ tội phạm sẽ giở trò hiếp dâm. Cuối cùng, người bị hại không thể thoát khỏi nanh vuốt của ác quỷ và phải chịu số phận bi thảm.


Trong phiên tòa xét xử John Gacy, hắn đã bị kết án giết chết 33 mạng người, bồi thẩm đoàn tuyên án tử hình trên ghế điện.

Chuyên gia lập hồ sơ tội phạm Ressler tin rằng Gacy là một người rất thông minh với chỉ số IQ cao vượt trội, thuộc dạng tội phạm nguy hiểm. Hắn không chỉ có tài ăn nói, hùng biện mà còn biết cách khiến người khác mất cảnh giác, dẫn dắt họ từng bước đi vào cái bẫy mà hắn đã bày ra. Nếu kẻ thủ ác không tình nguyện nói ra sự thật, phía cảnh sát sẽ rất khó để tìm ra được chân tướng.

Thêm vào đó, Gacy rất giỏi ngụy trang. Vì vậy, những vụ giết người liên tiếp của hắn mới không bị lực lượng chức năng phát hiện. Chính điều này càng làm hung thủ trở nên ngông nghênh và mất đạo đức hơn. Trong cuộc sống xã hội, hắn thường hóa trang thành chú hề để đến thăm trẻ nhỏ trong bệnh viện, tự tổ chức những bữa tiệc cộng đồng hoặc giúp hàng xóm sửa chữa đồ đạc.

Gacy không bao giờ vắng mặt trong các hoạt động phúc lợi tại địa phương. Trên thực tế, tất cả đều là vỏ bọc của kẻ giết người. Ngay cả khi có một vụ án mạng xảy ra trong khu vực, cảnh sát cũng sẽ không dồn sự nghi ngờ vào “quý ông tốt bụng” này.

Nhiều phương tiện truyền thống xây dựng hình ảnh về Gacy như một người đa nhân cách nhưng Ressler cho rằng hắn đơn giản là một tên tội phạm khôn khéo và mưu mô. Gacy từng giúp vợ mở một tiệm gà rán và lợi dụng chức quyền để quyến rũ nam nhân viên trẻ. Nếu họ đồng ý quan hệ t.ình d.ục với hắn, Gacy sẽ thưởng cho họ. Nếu không, những chàng trai này sẽ phải nhận sự trả thù tàn nhẫn. Một cậu bé từng tố cáo Gacy bạo hành nhưng hắn đã thuê một người khác đánh cậu đến chết và đe dọa người kia không được khai báo trước tòa. Vì vậy, vụ án này Gacy trắng án vì nguyên đơn từ chối làm chứng trước tòa.

Ngoài ra, một số nhà tâm lý học cũng tiến hành phân tích tâm lý của Gacy. Từ những vụ án của hung thủ, có thể dễ dàng nhận thấy Gacy có nhiều sang chấn tâm lý. Hắn ta thích thao túng và kiểm soát người khác, điều này có thể biết được qua những trải nghiệm trong tù của Gacy. Hắn làm quen với nhiều bạn khác giới trong tù và thường xuyên viết thư cho họ để chỉ điểm, hướng dẫn đối phương cách cư xử, đối nhân xử thế… Có lẽ chính mâu thuẫn trong tính cách là nguyên nhân khiến Gacy đi vào con đường tội lỗi, không ngừng sát hại người khác.

Tâm lý tàn bạo và méo mó của Gacy bắt nguồn từ những kỷ niệm thời thơ ấu: Gia sư nghiêm khắc quá mức, người bố nát rượu chỉ biết đánh đập vợ con sau mỗi lần chè chén. Năm Gacy 5 tuổi, hắn bị một cô gái vị thành niên xâm hại t.ình d.ục; năm 8 tuổi bị chủ một cửa hàng là đàn ông trêu chọc; 10 tuổi mắc bệnh động kinh, phải liên tục uống thuốc. Năm học cấp ba, do cơ thể có bệnh nên Gacy không thể tham gia các hoạt động thể thao dù chỉ là những sinh hoạt hàng ngày đơn giản nhất. Sau khi trưởng thành và tìm được việc làm, hắn bị sa thải chỉ sau vài ngày vì sức khỏe ốm yếu. Từ đó, tính cách của Gacy thay đổi đáng kể, sống dựa vào rượu và ma túy.

CHIA SẺ CỦA CHUYÊN GIA TÂM LÝ TỘI PHẠM

Trong một số trường hợp, sự hình thành của một kẻ giết người biến thái máu lạnh liên quan đến giai đoạn thứ hai của quá trình trưởng thành: Tuổi dậy th.ì. Nếu trong thời gian này, kẻ phạm tội nhận được sự giúp đỡ về tinh thần, họ sẽ không có những hành vi sai trái. Tuy nhiên, hầu hết tội phạm không được may mắn như vậy, chính điều này đã khiến họ một đi không trở lại trên con đường tội lỗi.

Chuyên gia tâm lý tội phạm cho biết, thông thường, trẻ em trong giai đoạn từ 8 đến 12 tuổi có khả năng thay đổi tính cách nhanh chóng, dễ xuất hiện những đặc điểm tiêu cực. Trong thời gian này, người có ảnh hưởng lớn nhất đến trẻ là bố ruột. Bố đẻ của những kẻ tội phạm thường không làm tròn trách nhiệm cơ bản của một người bố. Có người ly hôn, có người đi tù, cũng có người vẫn sống cùng con cái nhưng quan hệ bố con rất lạnh nhạt và xảy ra tình trạng bạo hành gia đình. Ví dụ, bố đẻ của John Gacy cũng không phải là một người bố tốt, ngày đêm uống rượu và đánh đập vợ con. Đây chính là ngòi nổ khiến những mặt tối trong tính cách của hung thủ trở nên trầm trọng hơn.
 
PHÁC HỌA CHÂN DUNG KẺ PHẠM TỘI

[separate]




Updating

Diệp Hồng Vũ

BeBooks,

Nxb Thanh Niên

Sách tâm lý học

Đã hoàn thành

Dịch

Đỗ Ái Nhi

[separate]


Phần 2: Kĩ Năng Lập Hồ Sơ Tội Phạm

Chương 1: Xác chết kỳ quái án mạng cô giáo trẻ


Francine Elverson là giáo viên tại một trường mẫu giáo dành cho trẻ em khuyết tật ở Bronx, New York. Cô có ngoại hình nhỏ nhắn, tính tình hiền lành, lịch sự và rất kiên nhẫn với trẻ nhỏ nên được các học sinh yêu mến. Một buổi sáng nọ, Elverson không xuất hiện ở chỗ làm, điều này khiến đồng nghiệp của cô lo lắng. Cô là người có trách nhiệm và sẽ không tùy ý bỏ lớp, nếu có việc đột xuất thì cũng sẽ báo cho người phụ trách hoặc đồng nghiệp biết tin.

Chiều ngày hôm đó, một thi thể kỳ dị được tìm thấy trên nóc một chung cư ở Bronx. Sau khi nhận được tin báo, cảnh sát lập tức có mặt tại hiện trường. Lực lượng chức năng cũng rất bối rối khi trông thấy xác người bị hại, sau khám nghiệm ban đầu, xác định được người chết chính là Francine Elverson.

Khi được tìm thấy, thi thể ở tình trạng khỏa thân, nội y bị cởi ra và đội lên đầu. Khuyên tai của Elverson được đặt ngay ngắn hai bên, cổ tay bị trói bằng quần tất của nạn nhân, quần áo vứt vung vãi xung quanh. Khám nghiệm sơ bộ cho thấy, phần mặt bị thương nghiêm trọng, nạn nhân bị siết cổ đến chết bằng dây túi xách da.


Thêm vào đó, người chết đã bị hung thủ tra tấn tàn bạo bằng nhiều vết dao, đùi trong hằn rõ vết răng. Kẻ giết người dùng bút viết lên đùi và bụng nạn nhân dòng chữ: “Ngươi không thể ngăn cản ta.” Song, điều khiến cảnh sát thấy khó lý giải nhất là một dấu hiệu rất giống với chữ “chai” trong tiếng Do Thái trên xác nạn nhân. Về sau, bố mẹ Elverson nói rằng vòng cổ của nạn nhân có ký hiệu này nhưng khi khám xét hiện trường không tìm thấy vật chứng. Sau này, kết quả đã xác nhận là chi tiết này không liên quan đến vụ án.

Bước đầu điều tra cho thấy, có thể nạn nhân đã bị tấn công ở tầng trệt. Sau khi đánh Elverson bất tỉnh, kẻ sát nhân đã mang cô lên tầng thượng và thực hiện những hành vi tàn ác của mình.


Kết quả pháp y cho thấy, trong người nạn nhân có tinh dịch. Ngoài ra còn tìm thấy một sợi lông lạ màu đen. Cảnh sát đã tiến hành một cuộc tìm kiếm trên quy mô lớn, thẩm vấn gần 2.000 người và giới hạn được 22 đối tượng tình nghi. Những người này đều đã từng tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với Elverson như: Người đàn ông da đen từng làm bảo vệ tại khu chung cư nhà nạn nhân; cậu bé 15 tuổi nhặt được ví của cô…

Tuy nhiên, kết quả điều tra cho thấy tuy nhân viên bảo vệ người da đen từng làm việc tại khu vực này nhưng đã nghỉ việc và trả lại chìa khóa tòa nhà. Cảnh sát thẩm vấn người nhặt ví và kết luận rằng nhân chứng nhặt được vật chứng khi đang chuẩn bị đi học và chỉ đơn giản là không giao nộp kịp thời.

Những nghi phạm trong diện tình nghi đều bị loại từng người một, cuộc điều tra rơi vào bế tắc. Vì vậy, cảnh sát địa phương đã gửi điện xin trợ giúp tới FBI, đồng thời bàn giao toàn bộ ảnh chụp hiện trường và thông tin vụ án cho hai chuyên gia tâm lý tội phạm là John Douglas và Roy Hazelwood.


Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, John Douglas và Roy Hazelwood xác nhận rằng hung thủ ra tay không có kế hoạch chuẩn bị trước, vì vậy trường hợp này xếp vào loại phạm tội ngẫu nhiên. Hai người đưa ra phác thảo đầu tiên về chân dung tội phạm như sau: Nam giới, da trắng, độ tuổi từ 25 đến 35, sống cùng hoặc rất gần với tòa nhà chung cư nơi nạn nhân sinh sống. Kẻ giết người có quen biết nạn nhân, khả năng cao đang sống cùng bố mẹ hoặc người thân là nữ giới, lớn tuổi. Phán đoán dựa theo hiện trường cho thấy hắn không nghiện rượu hoặc ma túy, vẻ ngoài lôi thôi, bặm trợn.

Vì án mạng không dự trù trước, có thể đoán rằng hung thủ mắc bệnh tâm thần. Dấu hiệu tra tấn, hủy hoại thi thể nạn nhân là bằng chứng cho thời kỳ ủ bệnh lâu dài, ít nhất cũng đã mười năm. Đây có thể là vụ án đầu tiên của kẻ thủ ác, nếu không kịp thời bắt giữ hung thủ, hắn sẽ tiếp tục ra tay sát hại người vô tội.

Khả năng cao, hung thủ đã từng điều trị tại viện tâm thần và chỉ vừa được xuất viện trong khoảng một năm đổ lại, vẫn cần điều trị bằng thuốc. Từ những hành vi hắn thực hiện với nạn nhân, chuyên gia tâm lý cho rằng hung thủ đã bỏ học, thích xem, đọc văn hóa phẩm đồi trụy và thủ pháp giết người bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những loại ấn phẩm này.

Ngoài ra, sau khi xem xét ảnh chụp hiện trường và những vật chứng khác, Douglas cho rằng cọng lông lạ được tìm thấy ở hiện trường không liên quan tới vụ án. Quả thật, sau khi điều tra cẩn thận, cảnh sát phát hiện ra túi đựng xác Elverson đã được sử dụng trước đó và chưa kịp làm sạch. Điều này khiến pháp y nhầm lẫn và kết luận rằng cọng lông là của hung thủ để lại.


Dựa trên hồ sơ tâm lý và những đầu mối mà Douglas cung cấp, cảnh sát đã điều tra những người nhập viện vì bệnh tâm thần trong khu vực sinh sống của nạn nhân. Sau cùng, Carmine Calabro, một nhân viên sân khấu đã lọt vào tầm ngắm của lực lượng chức năng.

Kẻ tình nghi hiện đang thất nghiệp, sống với bố trong cùng khu nhà với nạn nhân. Mẹ của Calabro mất khi hắn còn nhỏ.

Trước đó, cảnh sát đã nói chuyện với bố của Calabro. Ông ta khai rằng khi vụ án xảy ra, kẻ tình nghi đang trong bệnh viện nên cảnh sát đã loại Calabro ra khỏi danh sách nghi phạm. Tuy nhiên, điều tra sâu hơn cho thấy bố Calabro đã nói dối.

Nghi phạm có tiền sử bệnh tâm thần nên đã bỏ học từ những năm cấp ba và điều trị trong bệnh viện một khoảng thời gian. Sau khi xuất viện, Calabro đi làm quản lý sân khâu nhưng không lâu sau thì thất nghiệp. Trong một năm gần đây, hắn sống ở một bệnh viện tâm thần trong khu vực. Khi cảnh sát tới bệnh viện để điều tra, họ phát hiện ra hệ thống quản lý của bệnh viện rất lỏng lẻo, Calabro hoàn toàn có khả năng trốn ra ngoài để gây án sau đó quay về mà không bị ai phát hiện.

Trên thực tế, Calabro đã xuất hiện những hành vi bạo lực từ rất sớm. Trước đó, hắn đã từng cố tự sát vài lần, đồng thời nhiều lần bị bắt quả tang quấy rối các cô gái trẻ. Douglas nhận định, nguyên nhân khiến Calabro phạm tội là do hắn không thể giao tiếp bình thường với nữ giới.


Cảnh sát tìm thấy rất nhiều phim, truyện khiêu dâm tại nơi ở của nghi phạm. Một thông tin cho biết trong khoảng thời gian Elverson bị sát hại, trên tay Calabro có dính một miếng thạch cao. Lực lượng chức năng suy luận, hung thủ đã dùng vũ khí bằng thạch cao để đánh ngất nạn nhân. Ngoài ra, dấu răng được tìm thấy trên người Elverson cũng trùng khớp với kết quả nha khoa của Calabro. Cuối cùng, Carmine Calabro bị tuyên án 25 năm tù.

CHIA SẺ CỦA CHUYÊN GIA TÂM LÝ TỘI PHẠM

Tổ khoa học hành vi của FBI thường xuyên tiếp xúc với một số lượng lớn các vụ án kinh hoàng và kỳ lạ. Nhiệm vụ của họ là phân tích chi tiết và nguyên nhân của từng vụ án. Vì vậy, điều mà các chuyên gia tìm kiếm không phải là chứng cứ phạm tội mà là dữ liệu đằng sau mỗi vụ án. Từ đó về sau, tất cả thông tin về những vụ giết người, đánh bom, h.ãm hiếp… xảy ra trong phạm vi nước Mỹ đều được gửi đến FBI. Thông qua việc phân tích trạng thái tâm lý và hành vi phạm tội, các chuyên gia thiết lập được một hệ thống kho lưu trữ thông tin, cũng chính là nền tảng vững chắc nhất cho việc lập hồ sơ tội phạm.

Người sáng lập ra Tổ Khoa học hành vi của FBI (sau này đổi tên thành tổ Hỗ trợ điều tra), John Douglas từng nói: “Tôi đã làm việc tại FBI 20 năm và dành nhiều sức lực nghiên cứu những kẻ giết người, tội phạm bạo lực nhất. Tất cả các vụ án đều có tính độc nhất nhưng cũng đồng thời, tồn tại một số khuôn mẫu nhất định.” Vì vậy, mỗi khi có vụ án mới xảy ra, các điều tra viên sẽ truy cập vào kho dữ liệu đã có để nhanh chóng tìm kiếm những vụ án tương tự.

Không dừng lại ở đó, năm 1997, tổ Khoa học và hành vi đã xuất bản cuốn sách “Hướng dẫn phân loại tội phạm”. Ông cho biết cuốn sách này có thể giúp sắp xếp và phân loại các trường hợp phạm tội nghiêm trọng theo đặc điểm hành vi cũng như đưa ra lời giải thích hợp lý cho từng tình huống.

Chương 2 - Sát nhân ác quỷ Henry Lee Lucas

Tháng 10 năm 1982, cảnh sát Texas, Mỹ nhận được một cuộc gọi báo án: Một góa phụ đã mất tích vài ngày, người thân và bạn bè không ai có tin tức gì của nạn nhân. Vì vậy, cảnh sát địa phương đã lập tức tiến hành tìm kiếm những địa điểm mà nạn nhân thường hay lui tới. Một xác người được phát hiện trong bụi cây dại ven đường quốc lộ, sau khi khám nghiệm, xác nhận đó chính là người mất tích.

Tại hiện trường, cảnh sát không tìm thấy túi xách của nạn nhân. Người cuối cùng trông thấy người bị hại đã khai báo rằng nạn nhân có cầm theo túi xách cá nhân. Vì vậy, cảnh sát suy đoán đồ vật đã bị hung thủ lấy mất. Lực lượng chức năng tổ chức khám xét những phương tiện qua lại trên đường.

Sau đó, cảnh sát đã tìm thấy một chiếc túi giống như mô tả trên xe của một người đàn ông, họ lập tức kiểm tra danh tính đối tượng. Chiếc xe thuộc về Henry Lee Lucas, một người có tật ở mắt. Ngoài ra, trong cốp xe của hắn có một con dao khá nguy hiểm, vì vậy cảnh sát đã tạm giữ nghi phạm với tội danh tàng trữ vũ khí.

Tuy nhiên, sau khi đưa nghi phạm đến đồn và kiểm tra toàn diện chiếc túi xách khả nghi, kết quả lại cho thấy đó không phải là vật tùy thân của nạn nhân. Thêm vào đó, Lucas xuất trình một biên lai tại cây xăng làm bằng chứng ngoại phạm. Khi xảy ra vụ án, hắn đang ở một nơi cách đó 300km và không thể có đủ thời gian gây án.

Mặc dù Lucas không liên quan gì đến vụ giết người nhưng loại vũ khí nguy hiểm mà nghi phạm cất giữ làm cảnh sát dấy lên nhiều nghi ngờ. Lực lượng chức năng quyết định giữ hắn lại để thẩm vấn thêm.

Buổi thẩm vấn trở thành một sự kiện kinh hoàng khi Lucas tự tiết lộ mình là một tay sát nhân có nhiều kinh nghiệm. Hắn tuyên bố đã giết người ở mọi bang trên nước Mỹ và đã cướp đi mạng sống của hơn 200 người.

Lucas thú nhận mình từng có tòng phạm là Otis Elwood Toole. Họ gặp nhau ở Florida, Toole kém Lucas 11 tuổi và là một kẻ mắc chứng lệch lạc t.ình d.ục, ái tử thi, đồng tính luyến ái. Lý tưởng lớn gặp nhau, lại có cùng những thú vui bệnh hoạn, nhiều nạn nhân đã trở thành “món ngon” cho hai kẻ thủ ác. Chúng xuống tay không từ thủ đoạn, một trong những cách giết người ưa thích của Lucas và Toole là đặt nạn nhân nằm thẳng trên đường rồi lái xe cán qua.

Lucas và Toole bén duyên hai năm và mối quan hệ bắt đầu rạn nứt vì cháu gái của Toole, Becky Powell. Ban đầu, cả ba cùng chung sống để thuận tiện cho những hành vi phạm tội man rợ của mình. Về sau, Lucas – vốn là người song tính dần trở nên thân thiết với Becky khiến Toole nổi cơn ghen và chấm dứt với Lucas.

Lời thú tội của “Sát nhân ác quỷ” Henry Lee Lucas không chỉ khiến giới cảnh sát nói riêng mà cả thế giới nói chung phải bàng hoàng. Không lâu sau khi Lucas bị bắt, Toole cũng đã cúi đầu quy án. Cả hai khai nhận kinh nghiệm giết người của mình với thái độ khoe khoang, miêu tả từng chi tiết một cách tự hào.

Tuy nhiên, phía cảnh sát vô cùng nghi ngờ lời khai của hai kẻ giết người. Mặc dù nhiều tình tiết mà tội phạm đề cập đến có vẻ rất chân thật, đồng thời hắn cũng kể ra đầy đủ họ tên, nghề nghiệp và vị trí của nạn nhân nhưng đây đều là những thông tin đã được truyền thông công bố. Cảnh sát phỏng đoán rằng Lucas đã cố tình ghi nhớ những dữ liệu này để đánh lừa lực lượng chức năng. Vì vậy, họ chỉ tiến hành điều tra sâu với những tin tức án mạng chưa được truyền thông lan truyền,

Lucas khai rằng mình từng phạm tội ở Tây Ban Nha và Nhật Bản. Nhưng sau khi tìm hiểu, cảnh sát phát hiện ra rằng cả hắn lẫn Toole đều chưa từng xuất ngoại. Ngoài ra, Lucas còn nói rằng mình đã giết một giáo viên nữ ở Virginia và cung cấp đầy đủ tên tuổi của nạn nhân. Tuy nhiên, theo điều tra của cảnh sát, nữ giáo viên này không hề bị hại và vẫn đang sống rất khỏe mạnh. Cũng có một số vụ án mà Lucas đã thú nhận song cảnh sát không thể tiến hành kiểm tra.

Sau khi Lucas bị kết án tử hình, cảnh sát bắt đầu nghiên cứu vụ mất tích của Kate Rich, 80 tuổi. Lucas chia sẻ rằng hắn chôn xác của bà cụ ngay cạnh bếp nấu trong nhà mình. Khi cảnh sát khám xét vị trí được cung cấp, quả thật đã tìm thấy hài cốt nạn nhân.

Các Cơ quan chức năng trên toàn nước Mỹ đều liên lạc với cảnh sát Texas để xin nhận được trợ giúp cho các vụ án còn tồn đọng. Trong quá trình điều tra những vụ án này, Lucas thường xuyên được phép ra khỏi nhà tù. Trong một khoảng thời gian, hắn sống như một ngôi sao, di chuyển bằng máy bay hoặc ô tô đường dài, được sắp xếp ở trong khách sạn và tận hưởng những bữa ăn ngon.

Thế nhưng, cảnh sát nhận ra rằng, thực chất rất nhiều vụ án đã được Lucas bịa đặt hoặc ngụy tạo. Mỗi khi cảm thấy buồn chán với cuộc sống trong tù, hắn sẽ nhớ đến một nạn nhân bất kỳ và báo cáo với cảnh sát. Mục đích của kẻ tội phạm là thu hút sự chú ý của lực lượng chức năng, tránh để bản thân bị rơi vào quên lãng.

Sau này, trường hợp của Henry Lee Lucas đã thu hút sự chú ý của tổ Khoa học hành vi FBI, các đặc vụ quyết định làm một cuộc nghiên cứu sâu về sự vụ.

Các nhà nghiên cứu đã kiểm tra X quang não của Lucas và phát hiện ra rằng, phần não chịu trách nhiệm kiểm soát cảm xúc và hành vi của tên tội phạm bị chấn thương trên diện rộng. Theo lời kể của Lucas, hắn đã bị mẹ ruột đánh đập và mắng mỏ từ khi còn là một đứa trẻ. Sự bạo hành cũng giống như bài tập về nhà, trở thành một thứ quen thuộc mỗi ngày. Hắn thậm chí còn không nhớ rõ mình đã bị ảnh hưởng sức khỏe từ sau trận đánh nào. Năm hắn 12 tuổi, trong một lần bị mẹ đánh quá tay, Lucas bị thương nặng ở đầu và tổn thương trực tiếp đến não bộ. Các chuyên gia tâm lý cho biết, đây có thể là nguyên nhân dẫn đến chứng tâm thần phân liệt và những hành vi máu lạnh của kẻ giết người này.

Bị ngược đãi trong thời gian dài không chỉ khiến Lucas mất khả năng đồng cảm mà còn khiến hắn không thể phát triển như người bình thường. Vì vậy, ngay từ bé hắn đã tìm bắt những con vật như chuột, chim và tra tấn chúng đến chết. Lucas không coi những hành động đó là tàn ác, man rợ mà ngược lại, tìm thấy cảm giác thỏa mãn thông qua hành vi này. Đây chính là cơ sở tiền đề cho những màn hành hạ nạn nhân của hắn trong tương lai.

Khi còn nhỏ, trong vòng ba năm liên tiếp, mẹ của Lucas luôn bắt hắn mặc váy và làm tóc như con gái. Điều này khiến cho cậu bé Lucas bị các bạn cùng lớp chế giễu và bắt nạt. Các nhà tâm lý học phân tích rằng trải nghiệm này không chỉ phá hủy lòng tự trọng, sự tự tin của Lucas với tư cách một đứa trẻ mà còn là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng song tính.

Mẹ của Lucas là gái làng chơi, bà ta không hề giữ gìn cho con trai mà ngông cuồng tới mức đưa khách về nhà và bắt Lucas phải chứng kiến cảnh họ làm tình. Về vấn đề này, chuyên gia tâm lý cho rằng hành vi này của người mẹ đã khiến Lucas nảy sinh những quan niệm bất thường về t.ình d.ục và cảm thấy không cần thiết phải kiểm soát những hành vi t.ình d.ục của mình. Về sau, Lucas thú nhận rằng hầu hết các vụ sát hại của hắn đều do nạn nhân không đồng ý quan hệ t.ình d.ục.

Theo lời khai của Lucas, hắn giết người lần đầu tiên vào năm 13 tuổi. Lúc đó, Lucas âm mưu cưỡng hiếp một cô gái 17 tuổi nhưng bị chống trả quyết liệt. Do không làm chủ được cảm xúc, hắn đã quá tức giận và siết cổ cô đến chết. Sau khi trấn tĩnh lại, phát hiện nạn nhân đã chết nên Lucas bèn vứt xác trong cánh rừng bên sông. Thế nhưng, kết quả điều tra khu vực sinh sống của nạn nhân thời trẻ cho thấy không có vụ án mạng thiếu nữ nào. Vì vậy, chuyên gia cho rằng đây chỉ là trí tưởng tượng của Lucas, do thời điểm đó hắn đã mắc bệnh tâm thần phân liệt nên không thể phân biệt giữa thực và ảo.

Năm 23 tuổi, Lucas gặp gỡ và quen biết một cô gái tên là Sarah. Hai người đã gần tiến đến hôn nhân nhưng khi chuẩn bị đính hôn, mẹ Lucas ra mặt phản đối kịch liệt. Bà ta mong muốn con trai vĩnh viễn là món đồ chơi trong tay để có thể kiểm soát Lucas mọi lúc mọi nơi. Vì vậy, người mẹ đã ra sức phá hoại tình cảm giữa Lucas và Sarah. Cuối cùng, Sarah cảm thấy bản thân không thể chung sống với người có tính cách quái gở như vậy nên đã đoạn tuyệt với Lucas.

Theo phân tích của chuyên gia tâm lý, có thể nói rằng sự việc này chính là bước ngoặt, đồng thời dẫn đến vụ án có thật đầu tiên trong cuộc đời hắn. Sự ruồng bỏ của bạn gái khiến Lucas giận đến mất trí, trong lúc tranh cãi nảy lửa với mẹ ruột, hắn đã dùng một tay túm cổ, một tay dùng dao đâm bà đến chết. Sau khi giết chết mẹ ruột, hung thủ hủy hoại và làm nhục thi thể.

Vụ án man rợ và biến thái này đã được tòa tuyên án giết người cấp độ hai, nhưng do luật sư của Lucas nhấn mạnh rằng hắn mắc chứng tâm thần phân liệt nên tòa tuyên án giam giữ trong bệnh viện tâm thần với mức án 40 năm.

Tuy nhiên, sau khi chịu án vài năm, Lucas đã được tạm tha. Mặc dù Lucas tuyên bố rằng hắn chưa sẵn sàng xuất viện nhưng bệnh viện đã phớt lờ ý kiến cá nhân của tội phạm. Kể từ đó, Henry Lee Lucas bắt đầu sự nghiệp sát hại người vô tội đầy cuồng loạn. Hắn thường xuyên lái xe quanh các xa lộ của tất cả các bang trên khắp nước Mỹ, nạn nhân một khi đã bị hắn nhắm trúng thì bất kể độ tuổi và giới tính đều khó lòng thoát nạn.

Việc bắt giữ Lucas xảy ra hoàn toàn tình cờ. Chuyên gia lập hồ sơ tội phạm đến từ Tổ khoa học hành vi Robert K. Ressler đã chia sẻ sau khi phỏng vấn Lucas: “Nếu chúng tôi có VICAP khi thẩm tra Lucas thì có thể sẽ đạt được kết quả tốt hơn, dễ dàng phân biệt giữa phần thực tế và hư cấu trong câu chuyện.” Cuối cùng, Lucas đã thẳng thắn thừa nhận với Ressler rằng hầu hết các vụ án mà hắn thú nhận đều không đúng sự thật. Trên thực tế, hắn có thể chỉ giết một vài người mà thôi. Thêm vào đó, Lucas cũng tuyên bố rằng hắn nói dối cốt chỉ để chơi đùa với cảnh sát và chứng minh cho người khác thấy rằng mình thông minh hơn pháp luật.

CHIA SẺ CỦA CHUYÊN GIA TÂM LÝ TỘI PHẠM

VICAP là chương trình bắt giữ tội phạm hình sự, một đơn vị hỗ trợ việc thu thập và phân tích thông tin về các vụ giết người ngẫu nhiên, bắt cóc trẻ em và các trường hợp khác. Bằng chứng từ những vụ án này sẽ được phân loại và lưu trữ một cách có hệ thống để các cơ quan thực thi pháp luật trên toàn nước Mỹ có thể sử dụng chung. Đồng thời, những dữ liệu mà chương trình này đem lại cũng giúp tổng hợp sự tương đồng trong hành vi phạm tội. Nếu phát hiện ra những điểm giống nhau của các vụ án, các cơ quan sẽ cùng hợp tác điều tra sâu.

Người đầu tiên phát triển VICAP là Pierce Brooks, một cố vấn cảnh sát. Ông đã đề xuất với Bộ Tư pháp về việc thiết lập một hệ thống máy tính trên toàn quốc: CHƯƠNG trình bắt giữ tội phạm hình sự (VICAP). Năm 1982, chính phủ đã quyết định nghiên cứu tính khả thi của đề xuất này.

Sau khi thành lập VICAP, các chuyên viên của FBI đã làm biểu mẫu báo cáo phân tích tội phạm VICAP và phát đến các chi nhánh khu vực của FBI. Mẫu báo cáo bao gồm nhiều câu hỏi, các nhân viên FBI phụ trách vụ án cần có ba thông tin cơ bản: Tội phạm là kẻ giết người hàng loạt hay buôn ma túy, vụ án có liên quan đến người mất tích hoặc bị bắt cóc không và nếu là án mạng thì có phải là mưu sát có kế hoạch không…

Sau khi thu thập thông tin, họ cần có mô tả các chi tiết của vụ việc. Ví dụ như thời điểm gây án, danh tính nạn nhân, đồ tùy thân của người bị hại, vết bớt, sẹo đặc biệt… Tiếp theo, họ sẽ phải tìm hiểu về phương pháp phạm tội, bao gồm các dữ liệu về hiện trường phạm tội. Ngoài ra, bác sĩ pháp y sẽ cung cấp những câu trả lời cho các vấn đề đặc biệt. Cuối cùng, phần cuối của báo cáo yêu cầu liệt kê các trường hợp khác mà họ cho rằng có liên quan đến vụ án.

Tuy nhiên, mẫu báo cáo của VICAP không thể sử dụng đánh giá của chuyên gia tâm lý tội phạm. Đặc vụ FBI phụ trách vụ án cần tự mình liên hệ với chuyên gia tâm tội phạm nếu muốn có phác thảo của kẻ phạm tội. Sau khi tiến hành phân tích, nếu chuyên gia tâm lý tội phạm cảm thấy có thể đáp ứng được yêu cầu được đề xuất, họ sẽ chuyển hồ sơ vụ án đến Trung tâm phân tích tội phạm hình sự quốc gia.

Quy trình phân tích của VICAP gồm sáu bước chính:

1. Nhập thông tin cần thiết. Bước này yêu cầu nhập tất cả thông tin cần thiết để xây dựng hồ sơ tâm lý tội phạm bao gồm biểu mẫu báo cáo VICAP, chứng cứ, ảnh chụp hiện trường, lục bút… vào máy tính.

2. Phân loại hành vi phạm tội. Các chuyên gia tâm lý tội phạm sẽ dựa theo thông tin thu thập được để tiến hành hệ thống tội phạm. Ví dụ như hình thức gây án, động cơ phạm tội, vị trí hiện trường…

3. Giám định tội phạm. Ở bước này, chuyên gia lập hồ sơ tội phạm sẽ cố gắng tái tạo hành vi của hung thủ và nạn nhân sau khi đã nắm được các tình tiết cơ bản. Ví dụ, vụ án được dàn dựng hay ngẫu nhiên, địa điểm gây án có bị thay đổi không…

4. Phác họa hung thủ. Hồ sơ tội phạm không chỉ bao gồm giới tính, chủng tộc, kinh nghiệm làm việc… mà còn là các đặc điểm tâm lý và tính cách của kẻ gây án. Ngoài ra còn có lịch sử tiền án tiền sự. Sau khi xây dựng hình ảnh về tội phạm, chuyên gia tâm lý tội phạm cần quay lại bước thứ hai để xác định xem miêu tả của mình có trùng khớp với thông tin tội phạm hay không.

5. Điều tra. Sau khi có hồ sơ tâm lý tội phạm, cảnh sát sẽ sử dụng nó như một manh mối để sàng lọc đối tượng tình nghi. Nếu thu thập thêm được thông tin, hồ sơ sẽ tiếp tục được thay đổi và điều chỉnh để phù hợp với thực tế.

6. Phá án. Mục tiêu cuối cùng của việc xây dựng hồ sơ tâm lý tội phạm là bắt giữ được kẻ thủ ác. Sau khi bắt được đối tượng, lực lượng chức năng sẽ tiến hành thẩm vấn xác nhận các tình tiết của vụ án.

Chương 3 - Ai đã giết người thiếu nữ?


Cô bé Mary Frances Stoner 12 tuổi, sống ở Rome, Georgia. Mary luôn về nhà cùng các bạn bằng xe buýt của nhà trường. Dọc đường đi, cô bé cùng bạn mình luôn trò chuyện vui vẻ không dứt. Khi xe tới điểm trả học sinh gần nhà Mary, cô bé tạm biệt các bạn rồi bước xuống xe.

Tuy nhiên, tới tận tối muộn ngày hôm đó, bố mẹ của Mary vẫn không thấy con gái về nhà. Quá lo lắng và sốt ruột, họ lập tức báo cảnh sát. Trong lúc cảnh sát đang nghiên cứu vụ việc, một cặp vợ chồng trẻ đã gọi điện và khai báo rằng có thi thể một đứa trẻ trong rừng cây ven đường. Cảnh sát tức tốc tới hiện trường vụ án.


Khảo sát sơ bộ hiện trường cho thấy, nạn nhân bị đánh vào đầu bằng một loại vũ khí cùn, đây cũng chính là nguyên nhân tử vong. Mặt nạn nhân bị che lại bằng một chiếc áo khoác màu vàng, quần áo xộc xệch. Cổ có nhiều vết thương, chứng tỏ hung thủ đã dùng tay bóp cổ nạn nhân từ phía sau. Cảnh sát suy đoán rằng hung khí có thể là một hòn đá lớn ở hiện trường, nằm ngay gần đầu nạn nhân và còn dính máu. Sau khi tìm hiểu, xác nhận nạn nhân chính là Mary Frances Stoner bị mất tích.

Đặc vụ Robert Leary của văn phòng thường trực FBI ở Rome, Georgia đã liên lạc với chuyên gia tâm lý tội phạm của FBI John Douglas với hy vọng ông có thể hỗ trợ điều tra. Muốn nắm được nhiều thông tin về nạn nhân hơn nữa, Douglas đã đề nghị cảnh sát sở tại tìm hiểu về Mary trước khi có hồ sơ vụ án.


Kết quả, tất cả những người quen biết Mary đều dành cho cô bé những lời có cánh và nhận xét nạn nhân là một đứa trẻ lễ phép, ấm áp và dễ thương. Ở trường, Mary là đội trưởng đội cổ vũ và thường mặc áo đồng phục của đội khi đi học. Em không có tiền sử sử dụng ma túy, rượu bia và cũng chưa từng quan hệ t.ình d.ục. Khám nghiệm tử thi cho thấy nạn nhân còn trinh khi bị cưỡng hiếp. Theo logic này,Douglas xếp Mary vào loại người bị hại trong môi trường ít rủi ro. Kẻ giết người đã phạm tội ngẫu nhiên, không tính toán trước.

Sau khi nghiên cứu kỹ càng các chi tiết và hồ sơ cùng với ảnh hiện trường của vụ án, Douglas đưa ra những phân tích sau: Trang phục xộc xệch của nạn nhân cho thấy cô bé đã bị hung thủ lột quần áo trong quá trình gây án, sau đó mặc lại một cách vội vàng; lưng và chân của Mary không dính bẩn, thể hiện rằng cô bé đã bị tấn công trong xe ô tô chứ không phải ở rừng cây như hiện trường.


Hung thủ trùm áo khoác che mặt nạn nhân là dấu hiệu của việc hắn thấy không thoải mái. Trong trường hợp này, tội phạm là người thông minh, nhanh nhẹn và biết cách xử sự nên có khả năng tự suy xét về hành vi phạm tội, đổ lỗi cho người bị hại và hợp lý hóa hành vi của mình. Quá trình suy nghĩ diễn ra càng lâu, càng khó để khiến hung thủ thừa nhận tội ác. Ngay cả khi sử dụng máy phát hiện nói dối để thẩm tra, hắn cũng có thể khéo léo vượt qua.

Nhân lúc cảnh sát chưa thắt chặt điều tra, hắn sẽ có cơ hội bỏ trốn và khiến cuộc truy bắt trở nên khó khăn hơn. Vì vậy, Douglas quyết tâm phải bắt được kẻ sát nhân càng sớm càng tốt.

Đánh giá từ cách gây án, hung thủ có thể là người sống trong khu vực lân cận và đã gặp gỡ, lấy lời khai với cảnh sát. Trong lúc thẩm vấn, hắn sẽ bày ra một thái độ hợp tác tốt. Dựa trên độ phức tạp của vụ việc, cảnh sát suy đoán rằng hung thủ đã có tiền sử phạm tội nhưng có thể đây là lần đầu tiên hắn giết người.

Đánh giá vị trí tìm thấy thi thể, đây là khu vực khá hẻo lánh, cho thấy hung thủ rất quen thuộc với địa lý xung quanh và biết rõ nơi nào thuận tiện để phạm tội.


Phương tiện di chuyển của tội phạm khá cũ, có thể do tình hình kinh tế nên hắn không mua xe mới. Tuy nhiên, chiếc xe này vẫn hoạt động tốt và được bảo dưỡng thường xuyên. Từ hiện trường vụ án thấy được hung thủ hành sự đâu ra đấy, vô cùng ngăn nắp. Điều này là dấu hiệu của chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế, những người mắc bệnh này có xu hướng thích xe tối màu.

Dựa trên những phân tích này, Douglas đã dựng nên toàn bộ diễn biến vụ án như sau: Mary Frances là một cô bé có tính cách hướng ngoại, dễ tin người. Hung thủ đã cất lời dụ dỗ cô bé, khi nạn nhân đến gần hắn bèn lấy dao hoặc súng đe dọa, ép Mary lên xe.

Hung thủ không có dự tính trước, có thể hắn đã lái xe đi ngang qua và bắt gặp Mary rồi mới nảy sinh ý định phạm tội. Hắn bị thu hút bởi sự vui tươi và đáng yêu của Mary, điều này kích thích trí tưởng tượng của kẻ giết người, tự coi đó là dấu hiệu cho thấy cô bé sẵn sàng quan hệ t.ình d.ục với mình.

Thế nhưng, khi kẻ thủ ác tấn công và cưỡng hiếp nạn nhân, tiếng kêu cứu đầy sợ hãi của Mary đã phá vỡ sự ảo tưởng của hắn.

Hung thủ bắt đầu rơi vào trạng thái hỗn loạn và không biết nên làm thế nào. Sau khi bình tĩnh lại, hắn cho rằng lối thoát duy nhất của mình là giết người. Để khiến Mary hợp tác hơn, hắn giục cô bé nhanh chóng mặc quần áo và nói rằng hắn sẽ thả em đi.



Chờ lúc Mary quay lưng bỏ đi, hung thủ đã siết cổ nạn nhân từ phía sau. Tuy nhiên, bóp cổ bằng tay không thuận lợi nên hắn đã kéo Mary đến gốc cây gần đó và dùng một hòn đá lớn đập mạnh vào đầu khiến cô bé tử vong.

Douglas xây dựng hồ sơ tâm lý về kẻ giết người bao gồm: Nam giới, da trắng, từ 24 – 29 tuổi; đã kết hôn nhưng cuộc sống hôn nhân không hòa thuận hoặc đã ly hôn, nghề nghiệp liên quan đến kỹ thuật, chẳng hạn như thợ sửa ống nước…, bỏ học khi đang học trung học cơ sở, chỉ số IQ ở mức trung bình, tính tình kiêu căng, ngạo mạn, có khả năng vượt qua bài kiểm tra nói dối; có tiền án tiền sự như đốt phá, cưỡng hiếp, sở hữu xe ô tô màu đen hoặc xanh đậm.

Khi Douglas cung cấp những phân tích và phác họa hung thủ, cảnh sát địa phương vô cùng kinh ngạc bởi những mô tả của ông rất giống với một nghi phạm mà họ vừa thả. Ngay lập tức, cảnh sát nói cho Douglas về tình huống của kẻ tình nghi: Darrell Gene Devier, da trắng, 24 tuổi, đã kết hôn hai lần nhưng đều ly hôn, hiện đang sống cùng người vợ đầu tiên.

Nghi phạm là một thợ làm vườn, cắt tỉa cây cối ở Rome, Georgia. Hắn từng có liên quan đến một vụ hiếp dâm nhưng không bị truy tố. Phương tiện di chuyển hàng ngày của đối tượng là một chiếc ô tô Ford màu đen. Hắn khai báo rằng đã có tiền sử bị giam giữ vì tàng trữ Cocktail Molotov khi còn trẻ. Darrell bỏ học khi đang học lớp Tám, kiểm tra IQ cho kết quả từ 100 – 110.

Cảnh sát từng nói chuyện với nghi phạm vào ngày xảy ra vụ án. Darrell khai rằng hắn đang cắt tỉa cây cối gần đó khi xảy ra vụ việc. Sau đó, lực lượng chức năng đã yêu cầu đối tượng tham gia bài kiểm tra nói dối và hắn đã vượt qua thành công.

Douglas cho rằng, kiểm tra nói dối không có tác dụng với Darrell, vì vậy kết quả không đáng tin. Hung thủ nghĩ rằng bản thân có thể chiến thắng máy móc nên đã nghĩ cách để không bị phát hiện. Douglas chỉ điểm cảnh sát sắp xếp thời gian thẩm vấn vào buổi tối, địa điểm tại đồn cảnh sát. Đầu tiên, phải làm cho kẻ tình nghi cảm thấy thoải mái, thả lỏng tâm trí bởi hắn sẽ buông lỏng đề phòng và dần để lộ những điểm yếu của mình.


Trong quá trình thẩm vấn, đặt hòn đá dính máu trên bàn ở một góc 45 độ từ tầm nhìn của nghi phạm mà không giải thích gì thêm. Mỗi lần quay đầu qua, đối tượng có thể nhìn thấy hung khí. Hãy quan sát mọi cử động và ngôn ngữ cơ thể bao gồm nhịp thở, biến hóa trên khuôn mặt. Nếu nghi phạm đích thực là kẻ giết người thì hắn sẽ không thể làm ngơ trước hòn đá, ngay cả khi cảnh sát không đưa ra bất kỳ nhận xét nào.

Thực chất, đây là một kỹ thuật thẩm vấn được chuyên gia tâm lý tội phạm John Douglas phát triển trong nhiều năm. Mục đích của việc này là tạo ra cảm giác căng thẳng “như ngồi trên đống lửa”, khiến nghi phạm dễ để lộ điểm yếu.

Ngoài ra, ông còn thiết kế một số loại ánh sáng yếu, mập mờ khu vực thẩm vấn. Theo lời khuyên của Douglas, chỉ nên có hai sĩ quan tham gia vào quá trình hỏi cung, một người là đặc vụ FBI và người kia là cảnh sát sở tại. Khi thẩm vấn, cảnh sát sẽ ngầm thể hiện cho nghi phạm thấy rằng họ đã hiểu được hoàn cảnh của đối tượng, đồng thời đứng từ góc độ của kẻ tình nghi và hướng mũi dùi vào nạn nhân. Điều này sẽ kích thích nghi phạm đưa ra lời lý giải cho hành vi phạm tội.

Đặc biệt trong vụ án này, vì hung thủ đã dùng đá tảng để giết chết nạn nhân nên chắc chắn không thể tránh khỏi việc bị dính máu. Vì vậy, trong lúc hung thủ chìm vào những giây phút hồi tưởng, người thẩm tra chỉ cần nhìn thẳng vào mắt đối tượng và nói rằng trên người hắn có dính máu của nạn nhân. Khi ấy, hung thú nhất định sẽ trở nên mất bình tĩnh.

Diễn biến sau đó đúng như những gì Douglas đã dự đoán. Khi Darrell được đưa vào phòng thẩm vấn, hắn lập tức chú ý đến hòn đá và bắt đầu đổ mồ hôi, thở gấp. Mọi ngôn ngữ cơ thể của hắn đều trái ngược với cuộc thẩm vấn trước đó. Khi cảnh sát đề cập đến vết máu, Darrell trở nên bồn chồn không yên. Chính hành động này đã giúp lực lượng chức năng xác nhận rằng Darrell Gene Devier chính là hung thủ.

Cuối cùng, kẻ thủ ác thừa nhận hành vi hiếp dâm. Tuy nhiên hắn khai rằng Mary đã uy hiếp mình nên mới dẫn đến vụ việc. Ngoài ra, hắn cũng nhận tội cưỡng hiếp cho một số vụ án khác Darrell Gene Devier bị kết án tử hình vì tội cưỡng hiếp và sát hạ Mary Frances Stoner.

CHIA SẺ CỦA CHUYÊN GIA TÂM LÝ TỘI PHẠM

Các chuyên gia lập hồ sơ tội phạm cho biết, trong bất kỳ vụ án nào, muốn phá án cũng cần nắm được điểm mấu chốt của vụ án và tìm cách móc nối các thông tin. Đặc biệt là trong những trường hợp phạm tội tập thể, một khi đã nắm được nghi can dễ bại lộ nhất thì những phần tử khác không sớm thì muộn cũng sẽ phải quy án.

Trong quá trình thẩm vấn, nên có ít nhất một cảnh sát thể hiện thái độ hiền hòa, thân thiện nhưng vẫn có uy để khiến nghi phạm thả lỏng. Đồng thời, nên bố trí địa điểm hỏi cung cho phù hợp để có tác dụng lên tâm lý nghi phạm và làm tăng không khí của cuộc thẩm tra. Ví dụ, có thể sử dụng một phòng biệt lập để hỏi cung vì điều này sẽ làm kẻ tình nghi cảm thấy cảnh sát rất thận trọng, sát sao với vụ án. Thêm vào đó, nên bài trí một số hình ảnh hoặc hồ sở dữ liệu được đánh dấu cẩn thận trên tường để thể hiện rằng cuộc điều tra đang diễn ra trên phạm vi rộng. Có thể viết rõ những hình phạt mà hung thủ sẽ phải đối mặt làm tiền đề răn đe tâm lý.

Khi lấy cung, chuyên gia tâm lý tội phạm cho rằng nên chọn thời gian nửa đêm hoặc sáng sớm. Lúc này tội phạm thường không phòng bị tâm lý nên sẽ dễ để lộ ra điểm yếu. Ngoài ra, một cuộc thẩm vấn đêm khuya cũng mang hàm ý: Vụ án này không hề tầm thường và cảnh sát đang dốc toàn lực phá án.
 
PHÁC HỌA CHÂN DUNG KẺ PHẠM TỘI

[separate]




Updating

Diệp Hồng Vũ

BeBooks,Nxb Thanh Niên

Sách tâm lý học

Đã hoàn thành

Dịch

Đỗ Ái Nhi​


[separate]



Phần 3: Hiện trường giấu đầu lòi đuôi

Chương 1 - Cái chết của mỹ nhân

Karla Brown là một cô gái người Mỹ trẻ trung, xinh đẹp với mái tóc vàng óng, thân hình quyến rũ, tính cách cởi mở, nhiệt thành. Cô có một vị hôn phu cao ráo, vạm vỡ tên là Mark Fair, cả hai vô cùng xứng đôi vừa lứa. Giờ đây, cặp đôi chuẩn bị chuyển nhà tới mái ấm mới trên đại lộ Acton, thị trấn Wood River.

Tối thứ Ba, Karla và Mark tổ chức một bữa tiệc tân gia, mời bạn bè thân thiết đến nâng cốc thay lời cảm ơn vì đã hỗ trợ họ chuyển nhà. Sáng hôm sau, Mark đi làm còn Karla ở nhà dọn dẹp, đợi Mark tan sở.


Một người bạn của Mark, Tom Feigenbaum đã hứa sẽ cho anh một ngôi nhà dành cho chó nên sau khi tan làm, Mark đánh xe đến gặp bạn. Họ cùng nhau cất nhà dành cho chó lên xe và trở về nhà Mark.

Về đến cửa nhà, Mark xuống xe, cất tiếng gọi Karla để khoe với cô chiến lợi phẩm mới. Thế nhưng, dù anh có gọi bao nhiêu lần Karla cũng không đáp lại. Cho rằng vợ chưa cưới của mình đã ra ngoài mua sắm, Mark và Tom mang chiếc chuông ra đặt ở sân sau. Họ phát hiện cửa sân sau không khóa, điều này khiến Mark lưu ý và thắc mắc không biết vì sao Karla lại bất cẩn như vậy, anh thầm nhủ phải nhắc nhở cô nhiều hơn.

Xong xuôi, Mark dẫn Tom đi thăm quan ngôi nhà mới. Sau khi xem hết một lượt các phòng chính, cả hai cùng xuống tầng hầm. Bước xuống căn hầm, Mark nhìn thấy vài chiếc bàn nhỏ nằm chỏng chợ, úp ngược trên mặt đất, ghế sofa và sàn nhà có nhiều vết nước. Khung cảnh lộn xộn khiến Mark không khỏi bất ngờ: “Chuyện gì thế này? Rõ ràng hai ngày trước bọn mình vừa dọn dẹp chỗ này mà!” Vào lúc Mark chuẩn bị quay lên để tìm Karla, anh chợt trông thấy cửa phòng giặt hé mở. Bước tới, một cảnh tượng khủng khiếp lộ ra trước mắt anh: Karla đang quỳ ở đó, thân trên mặc một chiếc áo len, từ eo trở xuống hoàn toàn lõa lồ. Hai tay cô bị trói ngoặt về phía sau bằng dây điện, đầu nhúng vào xô nước.


Mark và Tom vội vàng chạy đến kéo đầu Karla ra khỏi xô. Lúc này, khuôn mặt của cô đã tím tái, sưng phù lên. Trên trán và cằm đều có vết thương, cô gái đã không còn hơi thở.

Mark gục xuống vì sốc và đau buồn, anh nhờ Tom tìm một tấm chăn để đắp cho Karla rồi mới gọi điện báo án.

Ngay lập tức, cảnh sát địa phương nhanh chóng có mặt tại hiện trường. Khám nghiệm sơ bộ cho thấy đầu của nạn nhân bị chấn thương nghiêm trọng, có thể do một vũ khí cùn gây ra. Cổ nạn nhân bị buộc lại bằng hai chiếc tất, cho thấy cô đã bị siết cổ. Ngoài ra, Karla đã chết trước khi bị nhúng đầu vào xô nước.


Cảnh sát hiểu rõ rằng hiện trường là nơi cung cấp manh mối quan trọng nhất để giải quyết vụ án, nhưng việc thu thập bằng chứng lại vấp phải nhiều khó khăn. Chiếc máy ảnh mà điều tra viên mang theo không hoạt động do đèn pin hỏng. Thêm vào đó, việc trích xuất vân tay không thuận lợi do Mark và Karla được nhiều bạn bè, người thân giúp đỡ khi chuyển nhà, dẫn đến loãng thông tin tại hiện trường.

Sau đó, cảnh sát bắt đầu lấy lời khai của những người sống trong khu vực. Một người hàng xóm tên Paul Main cho biết, buổi chiều xảy ra vụ án, anh ta cùng bạn là John Plante đã dành phần lớn thời gian chuyện trò ngay trước hiên nhà. Plante khai báo, ngày hôm đó anh ta đi tìm việc, đến chơi với Main một lúc rồi lại tiếp tục đi đến nơi khác để kiếm việc.

Ngoài ra, họ chia sẻ rằng đã cùng một người bạn khác tới giúp đỡ Mark và Karla dọn nhà trước khi xảy ra vụ án. Theo lý, cả ba sẽ được mời đến buổi tiệc của Mark và Karla, phần vì Main là hàng xóm của cặp đôi, phần vì người bạn còn lại là bạn cùng trường cấp hai với Karla. Nhưng cuối cùng, họ đã không nhận được lời mời nào, người bạn có quen biết kia cũng chỉ tới chào hỏi Karla bên ngoài nhà.

Bob Lewis, một người tham dự bữa tiệc, nói rằng đã trông thấy một người có dáng vẻ thô lỗ hét tên của Karla nên cô đã nói chuyện đôi câu với anh ta. Cảnh sát phỏng đoán người này là bạn của Paul Main.


Hỏi thăm người bạn cùng phòng cũ của Karla, cảnh sát biết được nạn nhân có mối quan hệ bất hòa với bố dượng và từng bị đánh đập. Tuy nhiên, điều tra sau đó cho thấy bố dượng của Karla không liên quan tới vụ việc.

Lúc này, cảnh sát chuyển sự chú ý sang vị hôn phu của Karla là Mark Fair. Mark và Tom những người đầu tiên phát hiện ra thi thể, hơn nữa lại có thể tự do ra vào căn nhà. Thế nhưng, gia đình và bạn bè của Karla không tin Mark là thủ phạm, cặp đôi có tình cảm tốt và hiếm khi xảy ra tranh cãi. Sau đó, cảnh sát đã yêu cầu Mark thực hiện bài kiểm tra nói dối bằng máy và anh đã vượt qua một cách suôn sẻ.

Thông qua thẩm vấn bằng máy phát hiện nói dối, một nhân vật khác rơi vào tầm ngắm. Đó chính là hàng xóm của Karla, Paul

Main. Mặc dù cảnh sát cho rằng anh ta là nghi phạm lớn nhất vì không ai biết anh ta đã làm gì sau khi Plante rời đi, nhưng không có bằng chứng nào đủ chắc chắn để chứng minh Main có liên quan tới cái chết của Karla. Cảnh sát địa phương rơi vào bế tắc và vụ án không có tiến triển trong vài tháng.

Cuối cùng, họ đã nhờ đến sự giúp đỡ của FBI, đặc vụ Alva Busch tiếp quản vụ việc. Chuyên gia tâm lý tội phạm John Douglas cũng nhận được thông báo và tham gia giúp đỡ Busch phá án.


Có trong tay ảnh chụp hiện trường và báo cáo vụ việc từ phía cảnh sát gửi tới, Douglas và Busch tiến hành phân tích chi tiết: Thi thể được tìm thấy ở một nơi có nước, điều này cho thấy kẻ sát nhân đã cố gắng phá hoại hiện trường để ngăn lực lượng chức năng tìm kiếm và khai thác manh mối; hung thủ có thể sống gần nạn nhân. Trong phần lớn các vụ án tương tự, tội phạm là hàng xóm hoặc người quen của nạn nhân bởi ít người sẽ chọn địa điểm gây án cách xa nơi trú ẩn. Nếu trên người dính máu, hắn sẽ tìm một địa điểm lân cận để lau chùi, xử lý quần áo. Kẻ sát nhân có thể rất quen thuộc với địa hình khu vực hoặc với chính Karla, đồng thời nắm được thói quen sinh hoạt của Karla và Mark, từ đó dễ dàng tìm được thời gian thuận tiện để động thủ.

Hung thủ không lên kế hoạch giết hại nạn nhân, bởi nếu có thì hắn sẽ mang sẵn hung khí theo người. Tuy nhiên, Karla bị bóp cổ đến chết và các vết thương được gây ra bởi một vũ khí cùn. Điều này cho thấy cô đã cự tuyệt hung thủ khiến hắn trở nên cuồng nộ, dẫn đến hành động sát hại.

Kẻ tội phạm có thể đã lấy cớ đến thăm nhà mới để tới gặp Karla, nạn nhân cũng có quen biết với hung thủ nên mới để hắn vào nhà. Nhưng mục đích thực sự của kẻ giết người là quan hệ t.ình d.ục với cô gái, khi bị Karla từ chối và phản kháng, hắn đã xuống tay giết người.

Vết nước trên sàn nhà và ghế sofa có thể là dấu hiệu cho thấy hung thủ đã tìm cách đánh thức Karla sau khi bóp cổ nạn nhân. Không đạt được kết quả như mong muốn, hắn đã kéo Karla xuống sàn nhà và ấn đầu cô vào xô nước. Nhìn qua thì giống như một dạng nghi thức kỳ quái, nhưng thực tế là hắn muốn đánh lạc hướng và che đậy chân tướng thực. Thế nhưng, chính những hành động này của hung thủ đã tiết lộ thêm nhiều manh mối và chứng cứ để vạch trần hắn.

Việc nhúng đầu nạn nhân vào xô nước cũng có thể mang một ý nghĩa khác. Karla đã khước từ kẻ sát nhân và hắn muốn cô phải nếm trải nhục nhã.

Cảnh sát địa phương đã từng tiếp xúc với hung thủ trong quá trình lấy lời khai sơ bộ. Hắn chắc chắn rất hợp tác và phối hợp với cảnh sát, cho rằng bản thân có thể làm chủ được cục diện. Khi sự việc dịu xuống, hung thủ sẽ lặng lẽ ra đi. Có khả năng cao hắn nghiện rượu hoặc thuốc lá và sử dụng những chất kích thích này để giảm áp lực tinh thần. Ngoài ra, rượu còn đóng vai trò khách quan, giúp kẻ giết người có thêm dũng khí bước vào nhà Karla. Tuy nhiên, việc dàn dựng hiện trường sau khi gây án cho thấy hắn vẫn giữ được tỉnh táo.


Sau khi giết người, hung thủ có thể sẽ tìm cách thay đổi diện mạo. Ví dụ, nếu trước kia hắn để râu hoặc tóc dài thì sau khi hạ thủ, hắn sẽ cắt tóc, cạo râu, nếu trước đó không nuôi râu thì sau đó sẽ để râu. Bản chất của hung thủ là một người lộn xộn, không chú trọng vẻ bề ngoài nhưng giờ đây lại phải cố tỏ ra chỉn chu, gọn gàng. Điều này sẽ khiến chính hắn thấy mệt mỏi vì phải nỗ lực kiểm soát hành vi.

Kẻ giết người có thể sẽ ngầm theo dõi tiến độ điều tra của cảnh sát. Nếu không thấy tin tức về manh mối mới, hắn sẽ vô cùng nhẹ nhõm. Ngược lại, biết được cuộc điều tra có nhiều khởi sắc sẽ khiến kẻ sát nhân trở nên hoang mang. Vì vậy, Douglas đề nghị cảnh sát công bố những đầu mối hữu ích trong vụ việc để thu hút sự chú ý của công chúng, đồng thời đẩy hung thủ vào trạng thái “ngồi trên đống lửa”, dễ sơ xuất mà xuất đầu lộ diện.

Đặc vụ Busch đề xuất mở quan tài, khám nghiệm tử thi và lan truyền thông tin qua các phương tiện truyền thông để đảm bảo tin tức tới tại hung thủ. Douglas đồng ý và tuyên bố với thế giới rằng cảnh sát sẽ hạ quyết tâm giải quyết vụ án này cho dù phải mất tới hàng chục năm. Bồn chồn không yên, hung thủ sẽ tìm cách để nghe ngóng, thậm chí mò đến nghĩa trang để dòm ngó tiến triển của cảnh sát.

Lực lượng chức năng và FBI tiến hành một cuộc điều tra sâu dựa trên phác họa về hung thủ, kết quả thu hẹp được hai nghi phạm lớn nhất chính là Paul Main và John Plante. Vào ngày xảy ra vụ việc, cả hai đều ở ngay sát bên nhà nạn nhân, Plante cũng thừa nhận có uống bia. Trước đó, lời khai của hai nghi phạm có điểm bất đồng, khả năng là do ảnh hưởng của rượu khiến trí nhớ kém hoặc một trong hai người đã nói dối.

Ngoài ra, hành vi của cả hai đều phù hợp với hồ sơ tâm lý của kẻ giết người, đặc biệt là Plante. Đối tượng rất hợp tác với cảnh sát điều tra, vui vẻ thực thẩm vấn với máy phát hiện nói dối. Sau đó, hắn lặng lẽ lánh khỏi tầm mắt của cảnh sát trong một khoảng thời gian rồi mới xuất hiện trở lại.

Không lâu sau, cảnh sát bắt đầu mở quan tài nghiệm thi cũng như đưa tin về sự kiện này trên đài báo và các phương tiện truyền thông khác. May mắn là thi thể của Karla được bảo quản rất tốt. Bác sĩ pháp y có tiếng Mary Case đã tiến hành khám nghiệm tử thi một lần nữa. Kết quả thu được cho thấy Karla bị chết đuối. Điểm mấu chốt được tìm thấy chính là vết cắn trên cơ thể nạn nhân.

Nắm được điều này, đặc vụ FBI Alva Busch đã yêu cầu cảnh sát sở tại đến nhà Main để điều tra dưới danh nghĩa khảo sát hộ gia đình đủ điều kiện nhận hỗ trợ của chính phủ. Trong lúc trò chuyện, họ đã dẫn đến chủ đề về vụ án của Karla, tiết lộ rằng nạn nhân đã bị bắn, bóp cổ và dìm trong thùng nước. Tuy nhiên, Main vẫn một mực phủ nhận.

Trong khi cảnh sát dồn hướng điều tra vào Main, một người phụ nữ từng tham dự bữa tiệc của Karla đã cung cấp manh mối mới: Vào ngày Karla bị giết, một người đàn ông tuyên bố đã đến nhà Karla và trông thấy trên người cô có vết cắn. Nhân chứng cho rằng đây là những lời lẽ linh tinh nên không mấy quan tâm. Sau đó, người đàn ông kia còn nói rằng hắn phải rời đi để tránh trẻ thành nghi phạm quan trọng. Đối tượng này chính là John Plante.

Nghe tin, đặc vụ Busch không giấu được kinh ngạc. Dấu răng trên cơ thể nạn nhân chỉ mới được phát hiện cách đây không lâu, làm sao Plante có thể biết được điều này vào ngày xảy ra vụ án? Ngoài ra, cảnh sát đã tìm hiểu về Plante và phát hiện rằng sau khi vụ án xảy ra, đối tượng bắt đầu để râu, vợ chồng Plante đã ly hôn… Tất cả đều trùng khớp với phân tích về hung thủ của Douglas.

Sau đó, Busch nhận được sự chấp thuận của tòa án và yêu cầu Plante gửi mẫu răng cá nhân cho cảnh sát. Đối tượng rất hợp tác trong toàn bộ quá trình. Tuy nhiên, hắn ngay lập tức gọi điện hỏi thăm tình hình vụ án sau khi cung cấp mẫu răng. Kết quả thẩm định cho thấy, dấu răng trên người Karla chính là của Plante. Hắn bị kết tội giết người, có mưu đồ cưỡng hiếp và đột nhập vào nhà riêng, chịu án 75 năm tù.

CHIA SẺ CỦA CHUYÊN GIA TÂM LÝ TỘI PHẠM

Trong nhiều trường hợp, kẻ phạm tội sẽ tìm cách bố trí, sắp đặt hiện trường vụ án để che giấu manh mối, tạo hiện trường giả nhằm đánh lạc hướng điều tra viên. Giả mạo hiện trường là một hiện tượng thường gặp, nhưng các chuyên gia tâm lý tội phạm và điều tra viên vẫn có thể tìm ra chân tướng thực sự thông qua quá trình khám xét và phân tích kỹ lưỡng.

Khi khám nghiệm hiện trường, các điều tra viên cần làm rõ những câu hỏi sau: Nguyên nhân tử vong thật sự là gì? Tại hiện trường có dấu hiệu vật lộn không? Công cụ phạm tội hoặc hung khí được để ở đâu? Hung thủ có lấy đồ vật gì ở hiện trường vụ án không?

Chương 2 - Màn kịch giết người

Tại một thị trấn nhỏ vùng Ohio, cô gái tuổi teen Deborah Sue sống cùng gia đình và thường đến chơi nhà bạn bè mỗi khi rảnh rỗi. Một tối nọ, Deborah ham vui tới quên cả thời gian và chỉ nhận ra mình phải trở về khi đồng hồ đã điểm 8 giờ tối. Cô bé miễn cưỡng rời đi, rảo bước về nhà chỉ cách đó vài dãy phố.

Sáng sớm hôm sau, bố của Deborah sang phòng gọi con gái xuống ăn sáng. Sau khi gọi cửa vài lần mà vẫn không thấy có tiếng trả lời, ông bèn đẩy cửa bước vào. Căn phòng trống không, Deborah không hề ở nhà. Ban đầu, người bố cho rằng cô bé đã ở lại nhà bạn tới tận khuya rồi ngủ lại đó, nhưng khi gọi điện sang hỏi thăm, gia đình người bạn nói rằng Deborah đã rời đi lúc 8 giờ tối.


Sự bất an lớn dần, bố của Deborah lập tức báo cảnh sát. Ngay sau khi biết tin, lực lượng chức năng đã bắt đầu tìm kiếm người mất tích và thu thập lời khai trong khu vực. Cuộc truy tìm diễn ra trong một thời gian dài nhưng không thu được kết quả, không phát hiện ra bất kỳ dấu vết nào của Deborah và cũng không có ai trông thấy cô bé.

Sau đó, gia đình Deborah nhận được một cuộc gọi. Một người đàn ông nói rằng Deborah đã bị bắt cóc và đòi số tiền 80.000 đô la Mỹ để đổi lấy mạng sống của cô bé. Dì của Deborah là người nhận cuộc gọi, bà yêu cầu được nói chuyện với Deborah để xác nhận rằng cô bé vẫn an toàn nhưng đầu bên kia lập tức cúp máy.


Dì của Deborah nhanh chóng trình báo thông tin này với cảnh sát và nhận định rằng giọng nói là của một người đàn ông, da trắng, xấp xỉ 20 tuổi nhưng không rõ là người từ vùng nào. Dì của Deborah khá thông thuộc về hệ thống liên lạc nên bà đoán rằng kẻ bắt cóc có thể đang gọi từ chính khu vực địa phương.

Cảnh sát đã lắp đặt thiết bị ghi âm trong nhà Deborah để chờ cuộc gọi tiếp theo. Một ngày sau, bố của nạn nhân nhận được điện thoại, đối phương cũng tuyên bố rằng Deborah đang nằm trong tay mình và đòi tiền chuộc là 50.000 đô la Mỹ. Khi người bố lên tiếng muốn nghe giọng con gái, hắn không đồng ý mà chỉ nói sẽ liên lạc lại để cho biết cách chuyển tiền. Nghe giọng người gọi, bố của Deborah đoán rằng dường như kẻ bắt cóc nói giọng Mexico.


Như thường lệ, FBI cử hai đặc vụ Nick Lenn và George Steinbeck đến hỗ trợ điều tra vụ án. Vào ngày thứ ba của vụ bắt cóc, quần áo của Deborah được tìm thấy gần một con đường ở vùng nông thôn cách Kenoya hơn 3.000 m về phía Tây. Một ngày sau, vài món quần áo khác lại được tìm thấy ở một khu vực khác gần đó. Cùng với trang phục, cảnh sát tìm thấy một tấm bản đồ, bên trong đánh dấu rõ ràng hai địa điểm vứt quần áo của nạn nhân.

Cảnh sát bắt đầu điều tra chi tiết dựa trên các đầu mối trong bản đồ. Họ tìm thấy vết lốp xe và dấu chân ở một cây cầu gần đó, có thể đoán ra rằng hung thủ đã đứng từ trên cầu để ném một vật gì đó xuống sông. Chó cảnh sát nhập cuộc nhưng không tìm thấy manh mối nào. Lúc này, lực lượng chức năng cho rằng Deborah đã bị sát hại, để có thể tìm thấy thi thể trong thời gian sớm nhất, cảnh sát địa phương tiếp tục cử người tìm kiếm trên diện rộng. Đồng thời, họ cũng theo dõi điện thoại tại nhà của nạn nhân nhưng không có thêm bất cứ cuộc gọi nào từ phía kẻ bắt cóc. Vụ án rơi vào ngõ cụt.

Đặc vụ Dick Lenn đã nhờ đến sự giúp đỡ của chuyên gia tâm lý tội phạm FBI Robert K. Ressler với hy vọng tìm được đáp án. Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ việc, tấm bản đồ và đoạn ghi âm, Ressler suy luận rằng đây có thể là một “trò chơi” do chính kẻ sát nhân dàn dựng. Thực tế, cảnh sát đã bị hắn dắt mũi và làm theo những gì hắn muốn trong suốt thời gian qua. Hung thủ đánh lừa cảnh sát và khiến họ nghĩ rằng tấm bản đồ chính là manh mối quan trọng, lần theo nó và tìm kiếm xác Deborah dưới dòng sông. Với kinh nghiệm nhiều lần xử lý tội phạm xảo quyệt, Ressler đề nghị cảnh sát nhanh chóng chuyển hướng điều tra.


Theo phân tích của Ressler, khi hung thủ tống tiền gia đình của Deborah, nạn nhân thực chất đã chết. Trong các vụ án tương tự, nạn nhân có thể đã bị cưỡng hiếp hoặc hành hung dẫn đến tử vong. Hung thủ không cố ý bắt cóc hay sát hại Deborah nhưng đã gây ra cái chết trong phút bốc đồng. Vì vậy, hắn thiết kế một cái bẫy tỉ mỉ để đánh lừa cảnh sát. Nếu cảnh sát điều tra kỹ lưỡng, hắn chắc chắn sẽ bị phát hiện nên chỉ có thể tìm cách gây trở ngại cho cuộc điều tra.

Vì vậy, Ressler chia sẻ với các đặc vụ Dick Lenn và George Steinbeck rằng trên thực tế, mục tiêu cuối cùng của kẻ giết người là ngăn cảnh sát tìm thấy Deborah.

Ngoài ra, thông qua đoạn ghi âm điện thoại có thể thấy rằng đó là một màn ngụy trang được bố trí cẩn thận, hung thủ cố tình nhại giọng địa phương để đánh lạc hướng cảnh sát. Thị trấn nơi nạn nhân sinh sống chỉ có khoảng 2.000 cư dân, vì vậy một cuộc điều tra toàn diện sẽ diễn ra nhanh chóng và hung thủ ý thức được rất rõ điều này. Hắn đã cố gắng hết sức để phân tán sự chú ý của lực lượng chức năng.

Dựa trên những manh mối thu thập được, Ressler phác họa về hung thủ như sau: Nam giới, da trắng, trên dưới 30 tuổi, thể chất tốt. Kẻ phạm tội đã âm thầm bắt cóc Deborah mà không một ai hay biết giữa thị trấn, trong những trường hợp tương tự, hung thủ thường cố tình rèn luyện sức khỏe để có một cơ thể rắn chắc và mạnh mẽ. Ngoài ra, hắn cũng thích đi ủng cao bồi để phô trương vẻ nam tính. Hung thủ có tâm lý chủ động, công kích, ngoại hình gọn gàng, sạch sẽ nên dễ thu hút những cô gái trẻ ngây thơ. Hắn gây án khi bị kích động, ẩn sau là nguyên nhân tâm lý ngầm, có thể liên quan đến việc nội tâm có mâu thuẫn với phụ nữ hoặc là một kẻ có cảm giác hưng phấn khi bị căng thẳng, áp lực.



Từ thủ pháp gây án có thể thấy rằng kẻ sát nhân rất quen thuộc với công việc của cảnh sát và có thể đã từng là một thám tử tư, sĩ quan… Thời điểm gây án, có khả năng hung thủ đang thất nghiệp và thậm chí thời gian thất nghiệp đã kéo dài từ 6 – 9 tháng. Thêm vào đó, đây là lần đầu tiên hắn mất việc, trong lòng luôn buồn bực, cáu giận nên đã chia tay bạn gái hoặc ly hôn vợ. Hậu quả là hắn không thể kìm nén cảm xúc, dễ bạo phát cơn giận. Ngoài ra, hung thủ cũng có thể có những hành vi bất hợp pháp như lái xe trái phép, nghe lén kênh radio của cảnh sát.

Dựa trên phác họa, cảnh sát địa phương đã xác định được hai kẻ tình nghi: Một cảnh sát 31 tuổi bị trục xuất vì có quan hệ tình cảm và chung sống với trẻ vị thành niên, người còn lại là một sĩ quan đường sắt bị sa thải 9 tháng trước, từng sống gần đồn cảnh sát.

Cảnh sát đã từng điều tra nghi phạm đầu tiên và mời đối tượng đến đồn thẩm vấn. Nghi phạm tỏ ra rất hợp tác và khai báo đúng thông tin về bản thân. Sau đó, anh ta cũng thực hiện bài kiểm tra phát hiện nói dối và vượt qua thành công. Vì vậy, cảnh sát nhận định đối tượng vô tội. Ressler cho rằng máy phát hiện nói dối chỉ có tác dụng với người bình thường, một số tội phạm có kinh nghiệm hoặc trí thông minh cao có thể không bị phát hiện. Vì vậy, lực lượng chức năng điều tra sâu từ nhiều phương diện khác nhau và đi đến kết luận đối tượng trong sạch.

Nghi phạm thứ hai tên là Jack Gail, sau khi tìm hiểu, cảnh sát phát hiện tình trạng hiện tại của đối tượng rất giống với phác họa tâm lý của Ressler. Jack và vợ cũ có mâu thuẫn vì tranh chấp tài sản, thêm vào đó, hắn từng bị cáo buộc ăn cắp. Đối tượng sở hữu một chiếc xe hơi có gắn bộ đàm có thể dò kênh của cảnh sát. Do không muốn đánh rắn động cỏ, cảnh sát không vội vã bắt giữ nghi phạm mà tạm thời để hắn tự do.

Vài tuần sau, hung thủ lại gọi điện cho gia đình của Deborah, dùng giọng Mexico để nhắc lại chuyện tiền chuộc. Cảnh sát vẫn luôn cử một sĩ quan túc trực theo dõi khu vực nên rất nhanh đã nắm được tình hình. Từ giọng nói trong điện thoại, điều tra viên suy luận đây chính là Jack Gail cải trang, bởi thông tin thu thập được cho biết hắn thường bắt chước giọng Mexico để nói chuyện với đồng nghiệp.


Ngày hôm sau, kẻ bắt cóc tiếp tục gọi đến. Lần này, cảnh sát nhanh chóng lần ra vị trí cuộc gọi tại bốt điện thoại của cửa hàng tiện dụng cách đó vài km. Một thiết bị nghe lén được cài vào bốt điện thoại, cảnh sát bố trí nhân viên theo dõi khu vực, sẵn sàng vây bắt hung thủ.

Quả nhiên, Jack xuất hiện để gọi điện thoại. Cùng lúc đó, điện thoại nhà Deborah đổ chuông, kẻ bắt cóc yêu cầu nhận được tiền chuộc vào tối nay và thông báo sẽ gọi lại vào chiều tối để thông tin về địa điểm trao đổi. Nhân viên giám sát đã chụp ảnh và ghi lại toàn bộ quá trình. Có thể thấy, đối tượng tình nghi đeo găng tránh để lại dấu vân tay khi gọi điện thoại, thể hiện ý thức xóa bỏ dấu vết rất mạnh.

Cảnh sát quyết định lái xe bám theo Jack nhưng dường như nghi phạm cảm nhận được có điều bất ổn. Không muốn rút dây động rừng, giám sát viên của cảnh sát đành phải bỏ đi. Tuy nhiên, phía cảnh sát đã kịp phái người bao vây nhà của đối tượng.

Chiều tối ngày hôm đó, bố của Deborah lại nhận được điện thoại từ hung thủ. Hắn chỉ điểm ông tới bên ngoài cửa hàng và chờ đợi chỉ dẫn tiếp theo. Cảnh sát phát hiện Jack đã để lại một tờ giấy bên cạnh bốt điện thoại sau khi thực hiện cuộc gọi. Sau khi đến nơi, bố của Deborah tìm thấy tờ giấy, đến địa điểm ghi trên giấy để giao tiền chuộc. Tuy nhiên, ông đã chờ đợi 5 tiếng đồng hồ mà không thấy một ai nên đành trở về nhà.

Trên thực tế, tất cả đều là mánh khóe của Jack Gail. Hắn muốn. tạo ra chứng cứ ngoại phạm và chứng minh bản thân không ra ngoài vào ngày xảy ra việc trao đổi tiền. Mặc dù chưa tìm thấy thi thể nạn nhân nhưng cảnh sát đã có đủ bằng chứng để bắt giữ và truy tố Jack Gail. Về sau, với sự hỗ trợ của các đặc vụ Dick Lenn và George Steinbeck, cảnh sát cuối cùng cũng tìm thấy xác của Deborah. Vị trí của người bị hại hoàn toàn trái ngược với những thông tin trong tấm bản đồ của hung thủ.

CHIA SẺ CỦA CHUYÊN GIA TÂM LÝ TỘI PHẠM

Để hiểu được một nghệ sĩ, trước tiên phải nắm được các tác phẩm. Điều này cũng tương tự với tội phạm. Với nhiều kẻ phạm tội, hành vi gây án là một cách thể hiện bản thân. Do đó, các chuyên gia lập hồ sơ tội phạm thường sử dụng hai phương pháp sau để suy luận tâm lý hung thủ:

Phương pháp đầu tiên, muốn biết hung thủ nghĩ gì trong lúc sát hại nạn nhân, cần phải xem hắn đã xuống tay như thế nào. Điều này có thể suy ra từ hiện trường vụ án, cách thức gây án. Phương pháp thứ hai, phỏng vấn những tên tội phạm đã bị bắt và kết án. Một khi đã xác nhận tội danh, kẻ phạm tội sẽ không còn hy vọng trốn thoát và không còn bắt buộc phải nói dối. Ngoài ra, có những kẻ muốn được khoe khoang về “tác phẩm nghệ thuật” của mình, việc kể lại tội ác của bản thân đem đến cảm giác thành tựu và khoái cảm vượt bậc. Trong trường hợp này, chuyên gia tâm lý tội phạm sẽ trò chuyện với họ, đóng vai trò là người nghe để tìm hiểu biến hóa tâm lý của tội phạm.

Chương 3 - Vụ giết người tại số 75, phố Birch

Một sáng nọ, cảnh sát vùng Wilkes Barre, Pennsylvania nhận được thông tin về cuộc tấn công xảy ra tại nhà riêng của một nha sĩ ở địa chỉ số 75 phố Birch. Hai sĩ quan Dale Minnick và Anthony George lập tức lên đường đến hiện trường vụ việc.

Đến nơi, họ tìm thấy Tiến sĩ Edward Glenn Wolsieffer, 33 tuổi, đang nằm trên sàn nhà. Nạn nhân không gặp nguy hiểm đến tính mạng và đã tỉnh lại. Wolsieffer khai rằng có người đã tấn công, bóp cổ và đánh anh bằng một vật cùn. Anh trai của Glenn Wolsieffer là Neil Wolsieffer lúc đó cũng có mặt, Neil sống ở con phố đối diện và đã vội vã chạy sang sau khi nhận được điện thoại của em trai. Neil cũng là người đã báo cảnh sát.


Khi được hỏi vì sao không gọi cho cảnh sát ngay lập tức, Wolsieffer giải thích rằng mình quá choáng váng và chỉ nhớ được số điện thoại của anh ruột. Anh ta cho biết vợ và con gái 5 tuổi của mình vẫn đang ở trên lầu nhưng không rõ an nguy ra sao.

Neil nói mỗi lần anh định lên kiểm tra tình hình của hai người còn lại trong nhà, Wolsieffer luôn rên rỉ và dường như sắp ngất đi vì đau đớn nên tới giờ họ vẫn chưa lên đến lầu hai. Wolsieffer thanh minh rằng mình lo sợ kẻ tấn công vẫn quanh quẩn trong nhà nên không dám tự ý hành động.

Minnick và George vội vã kiểm tra tình hình của hai nạn nhân còn lại. Hai sĩ quan không tìm thấy dấu vết của kẻ đột nhập dù đã khám xét cẩn thận, nhưng điều không may đó là vợ của Wolsieffer được tìm thấy trong trạng thái tử vong tại phòng ngủ. Nạn nhân nằm nghiêng trên sàn, gần gi.ường ngủ, đầu hướng vào chân gi.ường. Phần cổ của cô có vết bầm tím, sắc mặt tái xanh, khóe miệng dính nước miếng. Đây là tử trạng của người bị bóp cổ bằng tay, cảnh sát suy đoán vợ của Wolsieffer là Betty đã bị siết cổ đến chết.


Ngoài ra, cảnh sát còn tìm thấy vết máu trên ga trải gi.ường. Mặt nạn nhân cũng dính máu nhưng đã được lau sạch, đồ ngủ của Betty bị cởi đến thắt lưng. Bác sĩ pháp y có kinh nghiệm cho biết nạn nhân không bị tấn công t.ình d.ục.

Daniel, con gái 5 tuổi của Wolsieffer, vẫn đang ngủ ở phòng bên cạnh. Cô bé không hề hấn gì, sau khi tỉnh dậy, em nói với cảnh sát rằng mình không nghe thấy bất cứ tiếng động lạ nào.

Sau khi xem xét tình hình ở lầu hai, Minnick và George di chuyển xuống lầu một. Thay vì miêu tả lại những gì đã trông thấy, họ hỏi Wolsieffer chuyện gì đã xảy ra. Vị nha sĩ kể lại, sáng sớm ngày hôm đó, anh ta bị đánh thức bởi những tiếng động lạ. Rất nhanh, anh bèn lôi một khẩu súng lục từ trong tủ đầu gi.ường ra và xuống lầu kiểm tra một mình, để lại người vợ Betty đang ngủ.


Bước đến cửa phòng ngủ, Wolsieffer nhìn thấy bóng một người đàn ông cao to dưới chân cầu thang, kẻ kia không phát giác ra anh. Đang lúc định bám theo kẻ gian xuống nhà thì Wolsieffer bỗng mất dấu và bị tấn công từ phía sau một cách vô cùng bất ngờ. Kẻ tấn công siết cổ anh bằng một sợi dây, Wolsieffer đá chân về phía sau để đánh trả và đụng trúng vào phần bụng của người kia. Cú đá khiến kẻ gian mất thăng bằng và thả lỏng lực tay, tuy nhiên Wolsieffer chưa kịp quay lại thì đã bị đánh mạnh vào đầu và bất tỉnh. Sau khi lấy lại được ý thức, Wolsieffer nhanh chóng gọi cho anh trai là Neil.

Sau đó, nhân viên y tế khẩn trương khám và xử lý vết thương cho vị nha sĩ. Các vết thương của Wolsieffer không nghiêm trọng, sau đầu có vết bầm, vài vết đỏ ở sau cổ và dấu cào cấu trên ngực trái. Để chắc chắn, cảnh sát vẫn đưa anh đến bệnh viện để kiểm tra tổng thể. Bác sĩ cũng nói rằng nạn nhân không gặp vấn đề nguy hiểm nhưng Wolsieffer yêu cầu được ở lại bệnh viện để theo dõi thêm.

Trên thực tế, lời khai của Wolsieffer rất đáng nghi. Anh ta nói rằng kẻ gian đột nhập vào từ cửa sổ lầu hai ở thời điểm rạng sáng, điều này không hợp lý. Cảnh sát tìm thấy một chiếc thang dẫn đến cửa sổ phòng ngủ trên lầu hai ở ngoài nhà, tuy nhiên chiếc thang này đã mục nát đến nỗi người nhẹ cân cũng không thể sử dụng được, huống chi là một người đàn ông cao to, lực lưỡng như mô tả.

Mặt đất ở vị trí đặt thang rất mềm nhưng không hề có vết lõm do trọng lượng của người đứng trên thang tạo thành, ngoài ra cũng không có dấu vết ở điểm tiếp xúc giữa thang và máng xối trên mái nhà.


Thêm vào đó, tình trạng phòng ngủ cũng không khớp với lời kể của Wolsieffer. Đồ vật có giá trị vẫn còn nguyên, kể cả những món trang sức đắt tiền ngay trên mặt bàn. Nếu hung thủ có ý định giết người, tại sao không dùng súng để xử lý Wolsieffer khi anh ta hôn mê mà lại quay trở lại lầu hai để giết một người phụ nữ không có vũ khí?

Đồng thời, có hai điểm đáng nghi khiến cảnh sát chú ý. Đầu tiên, nếu Wolsieffer bị hành hung tới mức ngất xỉu, tại sao trên cổ lại không xuất hiện dấu vết vật lộn? Thứ hai, tại sao Wolsieffer và anh trai không lên lầu để kiểm tra tình hình của Betty và Daniel?

Theo thời gian, lời khai của Wolsieffer liên tục thay đổi, chi tiết thêm thắt ngày một nhiều, mô tả về hung thủ cũng rõ ràng hơn. Anh ta chia sẻ, đối tượng tấn công mặc áo len dài tay không cổ màu đen, bịt mặt và có ria mép.

Ở một số chi tiết, lời kể của Wolsieffer không nhất quán. Lúc thì anh ta cho biết mình không đánh thức vợ và xuống cầu thang một mình sau khi nghe thấy tiếng động, lúc lại nói rằng có nói chuyện với vợ khi nghe thấy âm thanh lạ. Ban đầu, Wolsieffer khai báo bị mất 1.300 đô la Mỹ để trong ngăn kéo bàn làm việc nhưng khi cảnh sát tìm thấy hóa đơn của số tiền, anh ta lại đổi lời khai. Khi nhân viên điều tra nhận được cuộc gọi báo án, Wolsieffer có vẻ vừa tỉnh lại, chưa thể nói chuyện bình thường nhưng khi đến bệnh viện, anh ta lại khẳng định mình đã nghe thấy cảnh sát gọi cho bác sĩ pháp y.


Càng điều tra sâu, Edward Glenn Wolsieffer càng bổ sung nhiều tình tiết và nói rằng có hai kẻ tấn công. Cảnh sát phát hiện ra Wolsieffer đã ngoại tình với trợ lý ở phòng khám nha khoa nhưng khi được hỏi về vấn đề này, anh ta gạt đi và báo rằng mối quan hệ đã kết thúc từ một năm trước.

Một số người bạn của Betty cho hay, nạn nhân hết mực yêu thương chồng nhưng vô cùng buồn phiền và mệt mỏi với hành vi ngoại tình của Wolsieffer, đặc biệt là những lúc người chồng la cà bên ngoài tới khuya mới trở về. Vài ngày trước khi vụ việc xảy ra, Betty tuyên bố với bạn bè rằng nếu Wolsieffer tiếp tục trở về nhà muộn, cô sẽ tỏ rõ thái độ và đòi ly hôn.

Sau này, Wolsieffer nghe theo lời khuyên của luật sư và dừng hợp tác với cảnh sát. Vì vậy, lực lượng chức năng chỉ có thể tập trung khai thác từ phía anh trai của Wolsieffer là Neil. Tuy nhiên, câu chuyện mà Neil kể lại cũng không thỏa đáng, ngoài ra đối tượng cũng không đồng ý tham gia bài kiểm tra nói dối vì cho rằng máy phát hiện nói dối không chính xác, kết quả không tốt có thể ảnh hưởng đến danh tiếng cá nhân.

Thế nhưng, trước những yêu cầu bức bách từ phía cảnh sát và gia đình Betty, cuối cùng Neil cũng đồng ý thực hiện thẩm vấn với máy phát hiện nói dối ở tòa án.

Ngày lấy cung, cảnh sát hay tin chiếc xe của Neil đã xảy ra va chạm với một xe tải cỡ lớn khiến nạn nhân tử vong tại chỗ. Kết quả điều tra cho thấy Neil đã vòng xe quá tay rồi vội vàng phanh gấp nên mới dẫn đến sự cố.

Sự kiện bất lợi này khiến vụ án giết người của Betty giậm chân tại chỗ. Cảnh sát sở tại có nhiều lý do để tin rằng Edward Glenn Wolsieffer chính là thủ phạm nhưng không thể buộc tội đối tượng do thiếu bằng chứng. Vân tay và tóc của nghi phạm được tìm thấy hiện trường nhưng vì đó cũng là phòng ngủ của Wolsieffer nên chứng cứ bị vô hiệu hóa. Hung khí gây án có thể đã bị xử lý trước khi nghi phạm gọi điện cho Neil.

Vì vậy, cảnh sát tìm đến chuyên gia tâm lý tội phạm của FBI John Douglas để xin ý kiến.


Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng hồ sơ vụ án, Douglas kết luận kẻ giết người rất thân thuộc với nạn nhân. Vì cảnh sát đã xác định được nghi phạm chính, ông không lập hồ sơ tâm lý của đối tượng mà chỉ cung cấp một số kiến giải để giúp lực lượng chức năng bắt kẻ thủ ác phải quy hàng trước pháp luật.

Khả năng đây là một vụ đột nhập để ăn trộm tài sản không cao. Nhà của Wolsieffer là một tư dinh, trong sân còn đậu hai chiếc ô tô. Đây không phải là môi trường lý tưởng để phạm tội, ngược lại có độ rủi ro cao. Thêm vào đó, Douglas là người có kinh nghiệm phá án dày dạn, ông cho biết việc kẻ đột nhập đi vào nhà từ cửa sổ lầu hai, sau đó lập tức xuống lầu một mà không lục soát ở lầu hai trước là vô cùng phi lý.

Không có bằng chứng nào cho thấy kẻ tấn công mang theo hung khí giết người nên trường hợp này không phải là sát hại có kế hoạch. Ngoài ra, Betty không bị tấn công t.ình d.ục nên lập luận giết người do cưỡng hiếp thất bại cũng không hợp lý. Không có bằng chứng cho thấy kẻ hành hung có âm mưu ăn trộm tài sản nên cũng không thể kết luận rằng đây là án trộm.

Xét từ cách thức gây án, bóp cổ là một hình thức phạm tội điển hình ở mức tiếp cận gần. Vì vậy, nếu hung thủ và nạn nhân là hai người xa lạ thì thủ phạm thường không chọn cách này. Thêm vào đó, nếu kẻ tấn công đã lập sẵn kế hoạch giết người cướp của chi tiết thì sẽ có cách hạ thủ khác.

Sau cùng, nhờ những phân tích quyết đoán của Douglas, cảnh sát đã nỗ lực không ngừng để bắt giữ và truy tố Edward Glenn Wolsieffer vì tội mưu sát chính người vợ của mình.

CHIA SẺ CỦA CHUYÊN GIA TÂM LÝ TỘI PHẠM

Kỹ thuật phác họa chân dung kẻ phạm tội được đúc kết và cải tiến dựa trên nền tảng dữ liệu của công việc điều tra tội phạm. Có thể nói, công nghệ lập hồ sơ tâm lý tội phạm rất khoa học và khách quan.

Đầu tiên, kỹ thuật này dựa trên các lý thuyết tâm lý. Lý luận về tâm lý tội phạm là nền tảng của phác họa chân dung tội phạm. Nhìn từ quá trình tư duy, phân tích tâm lý tội phạm chủ yếu liên quan đến hành vi phạm tội, tiếp đó là môi trường sống của tội phạm, từ đó xác định được nghi phạm. Trình tự lần lượt là: Hiện trường vụ án – hành vi phạm tội – tâm lý kẻ phạm tội – môi trường sinh sống của kẻ phạm tội – đối tượng gây án.

Thứ hai, lập hồ sơ tội phạm là kết tinh từ các thành tựu khoa học hiện đại. Mặc dù cốt lõi của kỹ thuật này là tâm lý học tội phạm nhưng trên thực tế, quá trình xây dựng hồ sơ tội phạm liên quan đến nhiều môn khoa học khác nhau như sinh lý học, xã hội học, thần kinh học,… Ví dụ, khi phân tích các tội phạm tâm thần thì không thể tách rời sinh lý học và thần kinh học.

Cuối cùng, phác họa chân dung tâm lý tội phạm là sự thăng hoa của tâm lý học tội phạm. Tâm lý học tội phạm được kết hợp từ tội phạm học và tâm lý học, vì vậy nếu muốn phát triển tâm lý học tội phạm thì trước tiên phải đi từ tâm lý học. Xem xét nguồn gốc của tâm lý học, nếu không có những nghiên cứu về sinh học, tâm thần học, nội tiết học, tâm lý học không thể tồn tại. Vì vậy, kỹ thuật lập hồ sơ tội phạm của bộ môn tâm lý học tội phạm hiện đại không chỉ tiếp thu những điểm sáng của trường phái sinh học cổ đại và tâm thần học hiện đại mà còn thúc đẩy sự sinh sôi của tâm lý học tội phạm. Từ đó có thể kết luận, lập hồ sơ tội phạm là bước tiến của tâm lý học tội phạm.

Chương 4 - Ai là hung thủ đích thực

Năm 1991, FBI tiếp nhận một vụ án, người báo án cho biết nhà riêng bị đột nhập và bị phá hoại nghiêm trọng. Tại hiện trường, giá sách và tài sản có giá trị bị đập phá, phòng khách, phòng ngủ chính, phòng tắm và phòng bếp đều hư hỏng nặng. Nhiều bình hoa, đồ trang trí bằng đá quý, tranh treo tường cũng bị hư hại, tường nhà đầy các từ ngữ thô tục như “Đồ khốn nạn”, “Chết đi”…

Lúc đó, chuyên gia lập hồ sơ tội phạm Robert K.Ressler đã nghỉ hưu và đóng vai trò cố vấn cho FBI. Mong muốn nhận được sự giúp đỡ của ông, cảnh sát đã gửi ảnh chụp hiện trường và biên bản vụ việc cho Ressler. Với kinh nghiệm phá án dày dạn, Ressler đã từng tiếp xúc với vô số vụ án bạo lực, phá hoại tài sản, ông tự tin có thể xử lý trường hợp này.


Vì vậy, Ressler nghiên cứu cẩn thận dữ liệu và bắt đầu phân tích vụ án. Từ ảnh chụp thấy được, trước khi bị đập phá, ngôi nhà có phong cách ấm cúng, nhẹ nhàng.

Chủ nhân căn hộ cho hay thủ phạm là một nhóm nam thanh niên, tuy nhiên, Ressler lại phủ nhận kết luận này. Đây chắc chắn không phải là cuộc bạo loạn của những cậu bé tuổi vị thành niên.

Thông thường, những vụ phá hoại tài sản thường rơi vào hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất, nếu là hành vi tập thể thì khả năng cao có một người cầm đầu trong nhóm, mục đích tấn công là để giải tỏa bất mãn đối với xã hội. Trường hợp thứ hai là trẻ vị thành niên chống đối xã hội hoặc pháp luật. Các đối tượng này hành động và đưa ra lựa chọn một cách ngẫu nhiên, nội dung vẽ, viết bậy sẽ phản ánh tâm lý, thái độ và yêu ghét của họ. Trong quá trình gây án, tội phạm thường viết tên riêng như tên ban nhạc, quỷ Satan. Ngoài ra, có xuất hiện hành vi phóng uế trên gi.ường, trong tủ quần áo và trộm cắp.


Tuy nhiên, từ ảnh hiện trường có thể thấy rằng, hung thủ phá hoại có chọn lọc chứ không hề bừa bãi. Ví dụ, không phải tất cả các bức tranh đều bị hỏng, đặc biệt là những tác phẩm có giá trị. Nếu có, mức độ và cách thức gây thiệt hại cũng nhẹ nhàng hơn những món đồ khác.

Trong đó, duy nhất một bức sơn dầu vẽ bé gái vẫn nguyên vẹn, không bị bất cứ tổn thất nào. Một số đồ sơn mài bị vứt vương vãi trên mặt đất nhưng không bị hư hỏng. Đây không phải là đặc điểm hành vi của thiếu niên trong độ tuổi dậy th.ì.

Nhà bếp và phòng tắm có vẻ rất hỗn loạn nhưng trên thực tế, gương phòng tắm và nhiều vật dụng làm bếp không bị hư hại gì. Ngoại trừ tay nắm cửa, những món đồ khác vẫn giữ được tình trạng vốn có. Đồ đạc trên mặt đất trông không giống như bị gạt xuống sàn mà dường như được đặt một cách cố tình. Ngoài ra, một số y kiện tuy bị phá hoại nhưng không hư hỏng đến mức không thể sửa chữa, không có dấu hiệu rách, đứt.


Điều này khiến Ressler nghi ngờ: Phải chăng hung thủ phá hoại tài sản có chủ ý? Hơn nữa, còn cố tình lựa chọn những vật ít giá trị để gây án?


Một điểm đáng chú ý khác, tranh ảnh và đồ gia dụng không bị vứt bừa bãi mà được đặt ở những vị trí dễ trông thấy, những lời lẽ thô tục trên tường không thông dụng với giới trẻ hiện đại, đồng thời cũng không có tên ban nhạc, khẩu hiệu phổ biến.

Từ những phân tích này, Ressler loại trừ khả năng thủ phạm là thanh thiếu niên hoặc băng nhóm phạm tội và đưa ra phác họa tâm lý về hung thủ như sau: Nữ giới, da trắng, từ 40 đến 50 tuổi, tính tình hiền hòa, cẩn thận nhưng có phần cô độc, khó tính và không hài lòng với người trẻ tuổi hiện nay. Đối tượng là người có xu hướng tự luyến, không hòa hợp với người khác, có thể đã ly hôn. Các dấu hiệu ở hiện trường vụ phá hoại cho thấy người này là một thành viên nữ trong gia đình, thủ phạm hiểu rõ căn nhà cũng như có tình cảm với một số đồ vật nhất định nên mới tránh làm hỏng chúng.

Hiện trường vụ án đã được dàn dựng và mục đích của thủ phạm là đánh lừa cảnh sát, hướng sự tình nghi đến các đối tượng thanh thiếu niên. Tuy nhiên, chính những từ ngữ mà hung thủ để lại đã phơi bày tuổi tác và tính cách của mình. Những dòng chữ đó không phải là của một người trẻ tuổi ở thời điểm đó và nhất là không phải của những cô gái trẻ, vì vậy đối tượng thu hẹp trong phạm vi những người phụ nữ đang gặp khủng hoảng tuổi trung niên.

Nếu kẻ gây án có con, người con cũng không phải là một cậu bé tuổi dậy th.ì bởi trong trường hợp này, hung thủ sẽ có hiểu biết nhất định về ngôn ngữ phổ biến trong giới trẻ. Vì vậy, hung thủ có thể có con gái nhưng không cùng chung sống. Bức tranh cô gái còn nguyên vẹn là minh chứng cho thấy thủ phạm có một thành viên nữ yêu thích trong gia đình nhưng không ở gần.


Từ cách gây án thấy rằng, người phụ nữ này đã trải qua những thăng trầm lớn trong cuộc sống gần đây. Sự thất bại có thể liên quan đến tiền bạc, đàn ông hoặc công việc.

Do đó, Ressler đã kết luận rằng thủ phạm có bốn động cơ chính: Một là trả thù người nhà; hai là tâm trạng suy sụp vì biến cố trong cuộc sống: ba là để thu hút sự chú ý của người xung quanh và cuối cùng là vì vấn đề tiền bảo hiểm.

Khi Ressler gửi kết quả phân tích đến FBI, các đặc vụ phát hiện ra rằng hồ sơ tâm lý tội phạm của ông khớp với miêu tả về chính chủ nhân của căn nhà bị phá hoại. Đó là một người phụ nữ da trắng, 40 tuổi, mới chia tay với bạn trai và gặp khó khăn về tài chính. Đối tượng có một cô con gái, hiện đang sống cùng chồng cũ, bản thân chủ nhà là người hiền lành nhưng do ở một mình đã lâu nên tính tình có phần xa cách, lạnh lùng.

Thêm vào đó, một công ty bảo hiểm cũng cho biết, người này mới đây đã đệ đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại nhà cửa với số tiền lên tới 270.000 đô la Mỹ. Sau khi liên lạc với cảnh sát, phía công ty bảo hiểm mới vỡ lẽ, hóa ra tất cả là do chủ nhà sắp đặt và dùng hiện trường giả để gian lận bảo hiểm.

CHIA SẺ CỦA CHUYÊN GIA TÂM LÝ TỘI PHẠM

Các chi tiết về hiện trường vụ án, đặc biệt là ảnh chụp hiện trường có tính hữu ích cao đối với các chuyên gia lập hồ sơ tâm lý tội phạm. Năm 1992, các chuyên gia tâm lý tội phạm của FBI, trong đó có sự góp mặt của John Douglas và Robert K. Ressler, đã xuất bản cuốn sách “Sổ tay hướng dẫn phân loại tội phạm”.

Cuốn sách đề cập đến nhiều vấn đề mà cảnh sát cần lưu ý khi khám xét hiện trường vụ án: Vụ án xảy ra trong nhà hay ngoài trời? Thời gian phạm tội là khi nào? Thủ phạm có mặt tại hiện trường trong bao lâu? Hung thủ gồm mấy người?

Hiện trường vụ án có lộn xộn không? Bằng chứng nhiều hay ít? Vụ án được lên kế hoạch hay bộc phát ngẫu nhiên? Thông thường, hiện trường vụ án đều nằm giữa hai thái cực, không quá hỗn loạn nhưng cũng không ngăn nắp.

Tội phạm mang theo hung khí riêng hay sử dụng vật dụng ở hiện trường để gây án? Hung thủ mang hung khí đi hay để lại? Có bao nhiêu công cụ gây án? Thi thể nạn nhân để lại ở hiện trường là cố tình hay vô ý? Nhìn chung, dấu vết và bằng chứng tại hiện trường vụ án là đầu mối vô cùng quan trọng.

Cuối cùng, điều mà lực lượng chức năng cần biết là kẻ gây án luôn mang vũ khí bên mình hay ngầm tấn công và kiểm soát nạn nhân.


Chương 5 - Lưới trời lồng lộng

Ngày 22 tháng 12 năm 1997, người dân thành phố Tennessee đang chìm trong không khí hân hoan của lễ Giáng Sinh, nhà nhà tất bật trang trí cây thông Noel và chuẩn bị những món quà trao nhau. Chính lúc này, tổng đài 911 nhận được một cuộc báo án. Qua điện thoại, cảnh sát nghe thấy một người đàn ông khai báo rằng vợ anh ta là Sandra Stevens và mẹ vợ Myrtle Wilson được tìm thấy đã chết tại nhà riêng.

Tổng đài 911 ngay lập tức bàn giao sự việc cho sĩ quan Brandt Corcoran. Sau khi hỏi thăm địa chỉ và hoàn cảnh cụ thể, Brandt Corcoran lái xe đến hiện trường vụ án và gọi điện cho đồng nghiệp và bác sĩ pháp y, yêu cầu họ nhanh chóng có mặt.


Sandra Stevens và Myrtle Wilson bị giết hại trong chính phòng ngủ của mình. Thi thể của Sandra Stevens lõa lồ trên gi.ường, đầu gối có dính máu nhưng không có vết thương. Gần đầu của nạn nhân có một số tạp chí khiêu dâm và một album ảnh khỏa thân của Sandra. Nạn nhân thứ hai là Myrtle Wilson cũng nằm trên gi.ường, đồ ngủ bị kéo lên xộc xệch, quần áo lót bị vứt trên sàn nhà. Khám nghiệm sơ bộ cho thấy Sandra Stevens bị siết cổ đến chết, nạn nhân bị hung thủ chế trụ và tấn công t.ình d.ục. Trong khi đó, Myrtle Wilson tử vong do vết thương từ dao và không bị xâm hại t.ình d.ục.

Ban đầu, cảnh sát cho rằng đây là một vụ cướp hiếp giết. Sau khi thủ phạm thực hiện hành vi trộm cắp bèn tấn công, h.ãm hiếp Sandra Stevens sau đó giết chết cả hai nạn nhân. Tuy nhiên, với kinh nghiệm lâu năm trong việc phân tích hiện trường vụ án, Brandt Corcoran đã đưa ra một kết luận khác sau khi khám xét căn phòng. Vị thám tử cho rằng, mặc dù tình huống này có điểm tương đồng với các vụ án tấn công t.ình d.ục khác nhưng cũng đồng thời có những điểm khác biệt rất lớn. Dường như hiện trường đã bị làm giả.


Phòng ốc trong nhà đều bừa bộn, cây thông Noel đổ rạp sang một bên nhưng đồ trang trí trên cây vẫn lành lặn, như thể là có người đã cố tình đặt cây thông xuống chứ không phải bị đổ trong quá trình ẩu đả. Trong phòng ngủ của Myrtle Wilson, ví tiền cá nhân bị moi sạch, các món đồ trong ví vứt trên sàn nhưng không có dấu hiệu bị lấy mất thứ gì. Ngoài ra, ngăn kéo bàn trang điểm bị lục lọi và mở tung nhưng y trang vẫn còn nguyên. Trong phòng của Sandra Stevens, nhiều đồ đạc rơi vãi trên mặt đất nhưng không giống như bị quăng quật một cách tự nhiên. Không có bất kỳ phòng nào trong nhà có dấu hiệu hoặc bằng chứng bị đột nhập.

Vì vậy, Brandt Corcoran đã chỉ đạo nhân viên phụ trách thu thập dấu vân tay tại hiện trường vụ án.



Kết quả, cảnh sát thu được 30 dấu vân tay còn mới, bao gồm nhiều dấu vân tay trên các cuốn tạp chí và album ảnh. Một chiếc túi vải màu xanh lá cây được tìm thấy gần nhà nạn nhân, trong đó có một con dao dính máu, dài 20 cm, một chiếc áo phông trắng nhuốm máu và vài món đồ trang sức. Brandt Corcoran yêu cầu chụp ảnh, lấy vân tay trên hiện vật và đem về sở cảnh sát để kiểm tra.

Sau đó, cảnh sát tiến hành thẩm vấn người báo án, William Richard Stevens. Thông tin thu thập được cho biết, William đã kết hôn ba năm, mẹ vợ của anh là Myrtle Wilson mới đến sống cùng hai vợ chồng được sáu tháng. Thời gian gần đây, William thường xuyên đi công tác. Nhân dịp Giáng Sinh, anh mới có cơ hội về nhà để nghỉ lễ với gia đình thì lại phát hiện ra vợ và mẹ vợ bị sát hại.

Mặc dù lời khai của đối tượng không có gì đáng nghi, nhưng trực giác của vị thám tử đã mách bảo không thể đặt niềm tin hoàn toàn vào William Richard Stevens. Do không có chứng cứ thuyết phục, Brandt Corcoran không đưa ra lời buộc tội mà tiến hành điều tra sâu.

Khám nghiệm tử thi cho thấy, hung thủ đã lấy tay bịt miệng Myrtle Wilson và dùng dao đâm nhiều nhát vào ngực nạn nhân. Vết thương không sâu nhưng mất rất nhiều máu. Thêm vào đó, trên cơ thể người bị hại còn có những thương tích do vật lộn trong quá trình tự vệ để lại. Con dao được tìm thấy trước đó khớp với vết thương trên cơ thể Myrtle Wilson. Vết máu trên đầu gối của Sandra Stevens là của Myrtle Wilson, có vẻ kẻ giết người đã làm vương máu của Myrtle Wilson lên đầu gối của Sandra trong khi gây án. Ngoài ra, có nhiều vật dụng khác cũng dính máu.


Cảnh sát bèn liên hệ với chuyên gia tâm lý tội phạm Gregg McCrary – thành viên của Tổ Khoa học hành vi. Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và ảnh chụp hiện trường, Gregg thể hiện sự đồng tình với quan điểm của Brandt Corporan. Các dấu vết tại hiện trường không hợp lý, trên thực tế, một hiện trường hỗn loạn do giết người, ẩu đả có chủ ý sẽ có những dấu hiệu khác. Có thể thấy được, kẻ gian đã làm giả hiện trường với mục đích che giấu động cơ phạm tội cũng như các tình tiết khác của vụ án.

Thêm vào đó, Gregg bổ sung số hung thủ và kết luận rằng vụ án này có nhiều hơn một thủ phạm. Hai nạn nhân bị giết bằng hai loại vũ khí khác nhau, Myrtle Wilson bị sát hại bằng dao còn Sandra Stevens chết ngạt vì bị trói và bóp cổ. Myrtle Wilson là nạn nhân đầu tiên, vì vậy trên lý thuyết, phòng của Sandra Stevens sẽ dính nhiều máu của Myrtle Wilson do hung thủ để lại trong quá trình gây án. Tuy nhiên, cuối cùng lại chỉ có đầu gối của nạn nhân dính máu.

Ngoài ra, tuy hiện trường vụ án đã được dàn dựng nhưng một số đồ vật trong chiếc túi được tìm thấy vẫn chưa được xử lý và vẫn dính máu của Myrtle Wilson.

Gregg McCrary phân tích, vụ án này không có kế hoạch cụ thể. Sandra Stevens là mục tiêu tấn công chính và cũng là người bị cưỡng bức, mẹ cô chỉ là người bị vạ lây do xuất hiện sai thời điểm. Thông thường, trong các vụ tấn công thiếu tổ chức, hung thủ là người quen của nạn nhân, biết rõ nơi ở, vị trí của người bị hại và ra tay một cách chớp nhoáng. Ngoài ra, trong những trường hợp tương tự, thủ phạm thường bỏ lại thi thể, hung khí và nhiều chứng cứ tại hiện trường, rất dễ phát hiện.

Trong lúc đó, bằng chứng mới nhất do phòng thí nghiệm cung cấp cho biết một người hàng xóm 18 tuổi của Sandra và William Stevens là Corey Milliken rơi vào diện bị tình nghi. Ban đầu, đối tượng chối bỏ tội danh, tuy nhiên, dưới sự tra khảo cặn kẽ của cảnh sát, nghi phạm đã thừa nhận tội ác. Điều Corey tiết lộ khiến mọi người sửng sốt: William Richard Stevens chính là người đã thuê Corey giết chết vợ và mẹ vợ của mình.

Cảnh sát lập tức bắt giữ William. Kết quả thẩm vấn cho thấy William nảy sinh ý định giết hại vợ khi phát hiện nạn nhân có quan hệ mập mờ với một người đàn ông khác. Hắn đã thuê chính hàng xóm và cũng là người làm công cho mình để xử lý nạn nhân, đồng thời dàn dựng hiện trường như một vụ cướp. Trong quá trình gây án, khi một kẻ đang tấn công Sandra Stevens, người còn lại phát hiện ra Myrtle Wilson và dùng một con dao làm bếp dài 20 cm đâm chết nạn nhân.

Kết cục, William Richard Stevens chịu tội giết người cấp độ một, kết án tử hình.

CHIA SẺ CỦA CHUYÊN GIA TÂM LÝ TỘI PHẠM

Các nhà tâm lý học chia tội phạm ra thành hai loại: Có kế hoạch và vô tổ chức.

Nhóm tội phạm có kế hoạch sẽ tính toán và hành động cẩn thận khi phạm tội. Thông thường, động cơ gây án là sự hoang tưởng kéo dài trong nhiều năm, hầu hết nạn nhân trong những vụ án này không quen biết thủ phạm. Người bị hại sẽ có đặc điểm giống với những khuôn mẫu trong tưởng tượng của hung thủ.

Với nhóm tội phạm vô tổ chức, hành vi của kẻ gây án thường thiếu logic, hung thủ không quan tâm đến thân phận, đặc điểm của nạn nhân mà xuống tay tùy cảm xúc cá nhân. Điều này khiến kẻ giết người dễ bị bại lộ do không kiểm soát được tình hình, ví dụ như khi tấn công, nạn nhân kháng cự quyết liệt dẫn đến lưu lại thương tích trên người tội phạm. Nhìn chung, loại tội phạm thứ hai có xu hướng tàn bạo hơn, từ đó dẫn đến hành vi hủy hoại thi thể sau khi hành sự.
 
Phần 4: Những người phụ nữ nguy hiểm

Chương 1 - Nữ sát nhân đến từ địa ngục


Năm 1908, người đàn bà với tên gọi “Nữ sát nhân đến từ địa ngục” đã trở thành tâm điểm chú ý của giới truyền thông Mỹ. Người đàn bà này đã ra tay sát hại chồng và tất cả các con của mình, đồng thời giết chết khoảng hơn một chục người điều tra mình. Nữ sát thủ phân xác các nạn nhân một cách tàn nhẫn và chôn họ trong sân nhà. Hơn một thế kỷ sau, các nhà nghiên cứu người Mỹ đã sử dụng xét nghiệm ADN để giải mã bí ẩn về tội ác hàng loạt của “Góa phụ đen” Belle Gunness.

Belle Gunness sinh năm 1895 tại một ngôi làng nhỏ ở Na Uy. Khi còn nhỏ, Belle có chiều cao nổi trội so với bạn bè đồng trang lứa khiến ngoại hình có phần cao lớn hơn người. Khi 22 tuổi, cô cao 170 cm, nặng 92 kg, là một người phụ nữ khá tráng kiện.

Không lâu sau, Belle Gunness nhập cư vào Mỹ và kết hôn với một người đàn ông tên Mads Sorenson vào năm 1884. Sau khi kết hôn, hai người cùng mở một cửa hàng bán kẹo ở trung tâm thành phố Chicago. Họ có với nhau bốn cô con gái. Tuy nhiên, cửa hàng của Belle bị thiêu rụi trong một trận hỏa hoạn và họ được nhận tiền bồi thường từ công ty bảo hiểm.


Năm 1898, nhà của gia đình Belle lại sập trong một trận cháy và công ty bảo hiểm đền bù cho họ một số tiền khá lớn. Sau đó, hai trong số bốn đứa con của Belle qua đời vì viêm đại tràng cấp tính. Do hai đứa trẻ đều có bảo hiểm nhân thọ nên sau khi chết, Belle nhận được bảo hiểm tử kỳ của các con. Sau này, bác sĩ đã chẩn đoán và tìm ra nguyên nhân cái chết của hai đứa trẻ là do ngộ độc.

Ngày 30 tháng 7 năm 1900, chồng của Belle đột ngột qua đời. Ngày chết của ông chỉ cách thời gian có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm đúng một ngày. Vì vậy, công ty bảo hiểm đã trả 8.500 đô la Mỹ cho Belle. Về sau, bác sĩ phát hiện người chết có dấu hiệu trúng độc nhưng do thiếu chứng cứ nên không thể thay đổi được gì.


Sau cái chết của người chồng, Belle mua một trang trại ở La Porte, Indiana và tận hưởng cuộc sống nhàn nhã. Chẳng bao lâu sau, Belle gặp Peter Gunness và đi bước nữa vào năm 1902. Một tuần sau hôn lễ, con gái riêng của Belle đột nhiên qua đời. Chưa đầy một năm sau, người chồng thứ hai cũng bạc mệnh về với Tây Thiên. Vì kịp mua bảo hiểm trước khi qua đời, Belle lại được nhận bảo hiểm tử kỳ của chồng với số tiền 3.000 đô la Mỹ.

Sau tang lễ của Peter, Belle nhanh chóng đăng quảng cáo tìm kiếm bạn đời trên báo. Tuy nhiên, bà ta đòi các ứng viên phải xuất trình đầy đủ giấy tờ tài sản để tỏ lòng thành trước khi quyết định đi tới hôn nhân. Thế nhưng, tất cả những người đàn ông giàu có gặp gỡ Belle đều chịu chung một số phận bi thảm: Trúng độc và chết.



Năm 1906, một người làm công trẻ tuổi trong trang trại của Belle đột nhiên biến mất. Belle nói với người khác rằng anh ta có chuyện ở quê nên phải vội vã rời đi. Ngày 28 tháng 4 năm 1908, một vụ cháy lớn đã thiêu rụi dinh thự của Belle và thi thể của người đàn ông này được khai quật. Không dừng lại ở đó, rất nhiều xác chết được tìm thấy trong trang trại của Belle, hầu hết đều là giới nam. Lúc này, hàng loạt tội ác mới được đưa ra ánh sáng.

Ngoài ra, cảnh sát cũng phát hiện thi thể không đầu của một người phụ nữ trưởng thành và ba bộ hài cốt trẻ em. Ban đầu, cảnh sát nghĩ rằng đó chính Belle và những đứa con của mình. Kết quả điều tra cho thấy trước khi xảy ra vụ cháy, Belle đã lập di chúc và chủ động mua dầu hỏa.

Tuy nhiên, càng tìm hiểu, cảnh sát càng thấy nhiều xác chết riêng lẻ tại hiện trường. Thêm vào đó, bác sĩ pháp y đồng thời là nhà nhân chủng học Stephen Laurọc cho hay, thi thể không đầu có độ tuổi tương tự với Belle nhưng chiều cao bất đồng. Xác chết có chiều cao khoảng 160 cm trong khi Belle cao hơn 170 cm.

Vì vậy, cảnh sát nghi ngờ rằng xác chết không đầu là một người khác chứ không phải Belle. Nhưng, vì không có đầu nên rất khó xác định danh tính nạn nhân, thời điểm đó cũng chưa có công nghệ ADN để điều tra sâu hơn.


Bí ẩn này đã phủ bụi gần một trăm năm. Một thế kỷ sau, một chuyên gia phân tích tội phạm có tiếng đã kết luận rằng Belle không chết trong vụ hỏa hoạn sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án. Thực chất, Belle đã giết một người phụ nữ khác để mạo danh mình nhằm mục đích ve sầu thoát xác. Để xác minh giả thiết của mình, chuyên gia này đã đề nghị trích xuất ADN của xác chết, so sánh với mẫu ADN lấy từ thư viết tay của Belle để xác định sự thật.

Sau này, cảnh sát tìm ra bằng chứng cho thấy vụ cháy được gây ra bởi Ray Lamphere, một tay giang hồ được Belle thuê để hành sự. Trước khi bị tử hình, Ray Lamphere đã thừa nhận tất cả trước tòa. Hắn và Belle là tình nhân trong một thời gian dài, sau khi biết về những tội ác của Belle, hắn đã ra tay giúp đỡ người tình trốn tránh pháp luật.

Pháp y cho biết, thi thể không đầu thuộc về một phụ nữ người Chicago được Belle thuê làm quản gia. Chuyên gia tâm lý tội phạm phân tích, Belle sợ những tội ác mà mình gây ra sẽ bị phát giác nên đã lên kế hoạch thiêu chết người quản gia, giả mạo danh tính hòng che mắt mọi người.

Sau khi bỏ trốn, Belle đổi tên thành Esther Carlson và lánh đến Los Angeles. Với bản tính độc ác, Belle tiếp tục ra tay sát hại một người đàn ông trong quá trình tẩu thoát. Lần này, nữ hung thủ đã rơi vào tay cảnh sát, Belle bị khởi tố vì tội giết người và bị tạm giam. Trước khi tiến hành thẩm vấn, nữ tội phạm được tìm thấy đã chết trong tù.

Về sau, thông qua trích xuất ADN, cảnh sát phát hiện Esther Carlson chính là Góa phụ đen lừng danh Belle Gunness.

CHIA SẺ CỦA CHUYÊN GIA TÂM LÝ TỘI PHẠM

Quan điểm của một số nhà tâm lý học là lý do phạm tội của nữ giới cũng tương tự như nam giới. Ví dụ như trả thù, lòng tham, ghen tuông hay các vấn đề rối loạn tâm thần, h.am m.uốn nắm quyền sinh sát. Thông thường, phương pháp gây án sẽ mang nặng đặc điểm giới tính.

Hầu hết nữ giới đều phát triển mạnh về cảm xúc, khi xúc động thì khó có thể kiểm soát được hành vi. Ngoài ra, họ cũng mất khả năng suy xét thấu đáo, tính cách có phần ỷ lại nên khi gặp biến cố, thất bại trong cuộc sống dễ phát sinh hành động cực đoan.

Ngoài ra, sự chênh lệch về thể lực giữa nam và nữ khiến đặc điểm giới tính lộ rõ trong quá trình gây án. Đặc biệt là trong những vụ án có tính bạo lực, hung thủ là nữ thường sẽ chọn cách đầu độc nạn nhân hoặc sử dụng các phương pháp tương tự.


Chương 2 - Góa phụ đen

Trong thế giới tự nhiên, có một loài nhện lừng danh với nọc độc kinh khủng mang tên Góa phụ đen. Tập tính của loài nhện này là sau khi giao phối, nhện cái sẽ ăn thịt con đực một cách tàn nhẫn để tích lũy dinh dưỡng cho những đứa con tương lai. Tuy man rợ nhưng hành vi này đến từ bản năng sinh tồn của động vật. Ở xã hội loài người, những phụ nữ ra tay sát hại chồng của mình được gọi là “Góa phụ đen”. Trong đó, nữ sát thủ tiêu biểu nhất phải kể đến Nannie Doss đến từ Alabama, Mỹ.

Nannie Doss sinh ra tại Blue Mountain ở Alabama, Mỹ vào ngày 4 tháng 11 năm 1905. Là chị hai trong gia đình có năm anh chị em, tuổi thơ của Nannie vô cùng ảm đạm vì người bố không khác gì bạo chúa. Ngày ngày, ông ta bắt năm đứa con phải làm việc liên tục, đánh đập và chửi mắng họ. Vài người trong gia đình của Nannie không được giáo dục đầy đủ mà chỉ đọc qua một vài cuốn sách.


Các chuyên gia tâm lý học đã phân tích môi trường trưởng thành của Nannie và thấy rằng người bố bạo hành đóng vai trò nền tảng trong việc phát triển tâm lý tội phạm của đối tượng. Phần lớn các hung thủ giết người hàng loạt đều từng trải qua thời thơ ấu với người mẹ, người bố bạo lực. Đây cũng là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến tâm lý biến thái.

Nannie không có tuổi thơ đầy màu sắc và vui vẻ như những đứa trẻ khác. Thay vào đó, cô phải dành thời gian để làm những công việc đòi hỏi sức lực như nhổ cỏ, bổ củi… Thỉnh thoảng, Nannie và anh chị em sẽ đùa nghịch, cãi cọ nhưng đều bị bố ruột lấy đó làm lý do để đánh mắng, chửi bới.

Mẹ của Nannie cũng trải qua những ngày tháng tăm tối dưới “ách trị vì” của người chồng. Bà làm việc quần quật bất kể ngày đêm, sống cuộc sống không ra hình người.


Bước ngoặt xảy đến khi Nannie lên 7. Trong một cuộc phỏng vấn sau khi bị tống giam, nữ tội phạm đã chia sẻ rằng tất cả tội ác mà mình gây ra đều bắt đầu từ vụ tai nạn xe năm 7 tuổi.

Năm 1912, Nannie cùng gia đình về thăm họ hàng ở phía Nam Alabama bằng tàu hỏa. Trên đường đi, tàu hỏa phanh gấp, quán tính mạnh đã khiến cô bé Nannie văng ra khỏi ghế và đập đầu vào thành tàu. Kể từ đó, Nannie thường xuyên bị đau đầu, ngất xỉu và dễ rơi vào trạng thái u uất.

Để trốn tránh chuỗi ngày u ám và bệnh tật kéo dài trong hiện thực, Nannie dần chìm vào thế giới hoang tưởng do chính mình tạo ra. Cô thường lén lút đọc những câu chuyện tình yêu lãng mạn trong tạp chí của mẹ và mơ mộng về một chàng hoàng tử quyến rũ, một cuộc sống tương lai màu hồng, tràn đầy hạnh phúc. Tuy nhiên, người bố gia trưởng không chỉ kiểm soát cách ăn mặc mà còn cấm đoán đời sống xã hội của họ. Cuối cùng, Nannie đã tìm đến hôn nhân như một sự trốn thoát từ khi còn rất trẻ.


Năm 1921, khi chỉ mới 16 tuổi, Nannie kết hôn với Charley Braggs, một đồng nghiệp tại nhà máy sợi dệt mà cô làm việc. Tuy mới quen biết bốn tháng, nhưng mong muốn mãnh liệt được thoát khỏi mái nhà đang giam cầm mình đã khiến Nannie một mực muốn cưới Charley.

Thế nhưng, cuộc sống sau khi lập gia đình không hề hạnh phúc. Mẹ chồng của Nannie là một góa phụ cục cằn, hai người thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Đã quen nhẫn nhịn, Nannie thường xuyên nhường mẹ chồng khiến tính tình quái gở của bà ta càng được đằng chân lân đằng đầu. Thêm vào đó, sự đổ đốn của người chồng khiến những ngày tháng hôn nhân của Nannie càng thêm não nề. Điều này khiến tính cách của Nannie thay đổi, cô nóng tính hơn và tìm đến bia rượu, thuốc lá để giải tỏa. Đồng thời, Nannie cũng liếc mắt đưa tình, tán tỉnh những con bợm rượu khác để chứng tỏ sức hút của mình.

Tội ác đầu tiên xảy ra vào năm 1927, hai trong số những đứa con của Nannie qua đời do ngộ độc thực phẩm. Tuy bác sĩ pháp y đã nhận định đây là một sự cố nhưng khi nhìn thấy sự lạnh lùng trong mắt vợ, Charley cảm thấy bất an và muốn tìm cách thoát khỏi Nannie. Anh ta đưa con gái lớn là Melvina bỏ nhà ra đi, để lại đứa con mới sinh, vợ và mẹ ruột.

Một năm sau, Charley trở về. Ngoài con gái, anh ta còn dẫn theo một người phụ nữ khiến Nannie vô cùng tức giận và ngay lập tức đệ đơn ly hôn. Charley đồng ý, Nannie đưa hai con gái về nhà mẹ đẻ.


Ở nhà một khoảng thời gian, Nannie dần thoát khỏi cái bóng của hôn nhân. Cô giao con gái cho mẹ đẻ chăm sóc và đi làm tại một nhà máy dệt may ở ngoại ô Blue Mountain. Mới 23 tuổi, Nannie vẫn tràn đầy hy vọng vào một tương lai hạnh phúc. Không còn ngây thơ như trước, những mơ mộng của Nannie cũng trở nên thực dụng hơn, cô bắt đầu tìm kiếm quảng cáo hôn nhân trên báo.

Đó là cách Nannie gặp được người chồng thứ hai, Robert Franklin Harrelson. Người đàn ông này đến từ Jacksonville, Florida, làm việc trong một nhà máy và có ngoại hình tương đối vạm vỡ, sáng sủa. Thủa đầu, họ thường viết thư, kể cho nhau về cuộc sống thường nhật. Robert gửi cho Nannie nhiều lá thư tình mùi mẫn, tình cảnh của hai người nhanh chóng sâu đậm và họ có cùng nhau một khoảng thời gian ngọt ngào.

Sau khi cuộc sống đi vào quỹ đạo, Robert dần để lộ bản chất. Hắn không chỉ đam mê cờ bạc mà còn có tiền án, thường xuyên bị cảnh sát tìm tới vì uống rượu và gây gổ. Nannie nhiều lần đến đồn cảnh sát để đón chồng, điều này khiến cô xấu hổ vì phải đối mặt với chỉ trích của người đời.

Cuộc sống trong mơ vỡ vụn, Nannie lại chọn cách im lặng và nhẫn nhục. Thế nhưng, chính sự kiên nhẫn của cô đã đẩy bản thân vào tình huống tiến thoái lưỡng nan. Robert mang những bê bối từ bên ngoài về nhà, hắn say xỉn, đánh đập Nannie và hai đứa trẻ. Điều bất ngờ là, Nannie đã chịu đựng cuộc hôn nhân vô nhân đạo này trong suốt mười sáu năm trời.


Dồn nén càng lâu, sự phun trào càng mãnh liệt. Năm 1943, con gái lớn của Nannie là Melvina hạ sinh một bé trai, Nannie lên chức bà ngoại. Một năm sau, Melvina lại mang thai. Lúc chuyển dạ, Melvina vô cùng hoảng loạn vì khó sinh, cô yêu cầu có mẹ ở bên. Nannie đã túc trực bên con gái cả đêm, cổ vũ và chăm sóc cho cô. Cuối cùng, đứa bé chào đời mạnh khỏe, cả gia đình thở phào nhẹ nhõm.

Sau khi sinh, Melvina không thực sự tỉnh táo do ảnh hưởng của thuốc gây mê. Trong cơn mê man, cô dường như mơ thấy ác mộng, chứng kiến cảnh mẹ mình là Nannie lấy ghim cài mũ đâm vào đầu của đứa bé. Khi tỉnh dậy, chồng cô đau đớn báo tin đứa con mới sinh đã qua đời. Nghe tin dữ, Melvina gần như ngã quỵ, bác sĩ không thể đưa ra nguyên nhân cái chết của đứa trẻ sau khi khám nghiệm. Melvina kể lại cho chồng và em gái về cơn ác mộng nhưng họ đều tỏ ý không tin, dù quả thật đã trông thấy Nannie cầm trong tay một chiếc ghim mũ vào thời điểm đứa bé ra đời.

Từ đó, mối quan hệ giữa Melvina và chồng trở nên xa cách, dẫn đến ly hôn. Một mình nuôi con khiến Melvina mệt mỏi, có bắt đầu gặp gỡ nhiều người đàn ông khác để chuẩn bị cho tương lai, Tuy nhiên, Nannie điên cuồng ngăn cản con gái, hai người thường xuyên cãi vã. Về sau, Melvina để con trai lại cho mẹ chăm sóc vì một vài lý do. Bi kịch lại tiếp diễn.

Ngày 7 tháng 7 năm 1945, con trai của Melvina đột ngột qua đời. Nguyên nhân cái chết được bác sĩ chẩn đoán là do ngạt thở không rõ nguyên nhân. Điều này khiến Melvina suy sụp đến tận cùng và chìm vào hối hận.

Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật Bản tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Trong vài tháng sau đó, người dân Mỹ tổ chức nhiều hoạt động kỷ niệm khác nhau. Chồng của Nannie, Robert, cũng mua rượu và chè chén mỗi ngày để ăn mừng. Ngày 15 tháng 9 năm 1945, Robert say xỉn và cưỡng hiếp Nannie. Giọt nước tràn ly, Nannie quyết định chấm dứt chuỗi ngày địa ngục của mình. Cô ta trộn thuốc diệt chuột vào chai rượu của Robert khiến người chồng lập tức bỏ mạng.


Sau khi chôn cất người chồng thứ hai, Nannie đi du lịch một mình đến California. Với nữ tội phạm, niềm khát khao có một cuộc sống tốt đẹp không lúc nào ngừng nghỉ. Tại Lexington, Bắc California, Nannie gặp gỡ Arlie Lanning và cũng là người chồng thứ ba của cuộc đời cô. Vì Arlie từng sống ở Alabama, hai người nhanh chóng trở nên gần gũi và tiến tới hôn nhân.

Một lần nữa, cuộc sống hôn nhân lại biến thành địa ngục vì tính khí của Arlie chẳng khác gì Robert: Nóng nảy, nghiện rượu và trăng hoa. Vì thế mà Nannie thường xuyên bỏ nhà đi, mối quan hệ đôi bên rất lạnh nhạt. Trong mắt người ngoài, Nannie là một người hiền lành, cần mẫn và ngoan đạo vì khi nhận được những lời hỏi thăm về lý do vắng nhà, bà ta luôn giải thích rằng mình phải về quê chăm sóc mẹ của Arlie. Khi Nannie ở nhà, hàng xóm luôn thấy bà bận rộn dọn dẹp nhà cửa, sân vườn, chăm sóc gia đình. Thêm vào đó, Nannie cũng rất siêng đi tới nhà thờ vào mỗi cuối tuần, tạo nên hình ảnh về một tín đồ sùng đạo.

Ngược lại, Arlie có danh tiếng tệ hại khiến ai nấy đều đứng về phía Nannie và thương xót cho người phụ nữ. Vì vậy, khi Arlie đột ngột qua đời do một cơn trụy tim vào tháng 2 năm 1950, những người đến đám tang đều tỏ ra thông cảm và chia buồn với Nannie mà không hề chú ý đến nguyên nhân cái chết của Arlie.

Nhiều nhà tội phạm học đã nhấn mạnh khả năng lừa gạt dự luận trong các trường hợp hung thủ là nữ giới và đây là một ví dụ tiêu biểu. Các chuyên gia cho rằng, hình ảnh phụ nữ trong xã hội luôn gắn liền với những tính cách yếu đuối và cần được người khác bảo vệ. Vì vậy, tâm lý đề phòng các đối tượng nữ tương đối thấp, giúp họ dễ dàng che mắt đám đông và trốn tránh pháp luật.

Sau khi Arlie chết, toàn bộ tài sản thuộc về người em gái. Một trận hỏa hoạn đã thiêu rụi căn nhà của Arlie và Nannie không lâu sau đám tang. Ngoài Nannie, tài sản có giá trị nhất trong nhà là chiếc ti vi cũng “may mắn” thoát được thảm họa. Nannie giải thích rằng mình đã lái xe đem ti vi đi sửa khi xảy ra sự cố.


Công ty bảo hiểm đã trả cho Nannie một số tiền để đền bù thiệt hại. Sau khi nhận được tấm séc, nữ sát thủ ngay lập tức đến ngân hàng rút tiền và biến mất khỏi California. Điều đáng nói là, ngay trước khi bà ta rời đi, mẹ và em gái của Arlie đều đột ngột ra đi khi đang say ngủ.

Điểm đến tiếp theo của Nannie là Kansas. Số tiền bảo hiểm đảm bảo cho bà ta một cuộc sống vô lo vô nghĩ. Bà ta đăng ký tham gia một câu lạc bộ có tên “Xã hội kim cương” (Diamond Social – chuyên cung cấp dịch vụ mai mối cho người độc thân. Tại đó. Nannie đã gặp người chồng thứ tư, Richard Morton.

Tháng 10 năm 1952, Nani kết hôn với Richard. Tuần trăng mật trôi qua đầy ngọt ngào, Richard thường tạo bất ngờ cho Nannie bằng nhiều món quà lãng mạn. Dường như Nannie đã tìm thấy hạnh phúc của đời mình, nhưng niềm vui đến nhanh mà qua đi cũng nhanh.

Năm thứ hai của cuộc hôn nhân, Richard thú thực với vợ về tình trạng thật của mình: Không chỉ phá sản, ông ta còn nợ nần tứ phía. Dù vậy, Nannie vẫn tha thứ cho chồng và dùng tiền riêng để giúp bạn đời vượt qua sóng gió.

Chẳng bao lâu sau, Richard bắt đầu cư xử khác lạ, thường xuyên đi sớm về khuya. Nannie dấy lên nghi ngờ và sau khi tìm hiểu, bà ta phát hiện chồng đã ngoại tình. Điều này khiến Nannie nổi giận và lên kế hoạch cho cái chết của người chồng. Tuy nhiên, một tin tức từ gia đình đã phá tan kế hoạch của Nannie. Người nhà báo tin, bố Nannie đã qua đời và người mẹ cô đơn muốn tới sống cùng bà ta một thời gian. Thông tin đầu tiên khiến Nannie chẳng mảy may quan tâm, nhưng tin thứ hai lại làm nữ sát thủ khó xử vì sự xuất hiện của bà mẹ sẽ cản trở dự định của mình.

Tới sống cùng con gái tại Kansas chưa bao lâu, mẹ của Nannie bỏ mạng vì ngộ độc thực phẩm. Cảnh sát đã can thiệp để điều tra vụ việc vì nghi ngờ Nannie có liên quan tới cái chết của nạn nhân. Tuy nhiên, do thiếu chứng cứ thuyết phục, cộng thêm nghi phạm luôn chối bỏ trách nhiệm nên vụ án chìm vào quên lãng. Ba tháng sau, Richard cũng qua đời vì ngộ độc.

Lúc này, “Góa phụ đen” Nannie Doss đã quen với việc giết người. Một lần nữa, bà ta thay đổi địa điểm gây án. Nannie tới Oklahoma để thăm một người tình cũ tên là Samuel Doss. Samuel là một người đàn ông đẹp mã, không rượu bia, thuốc lá nhưng giờ đây, Nannie chẳng còn ý định xây dựng một cuộc sống tốt đẹp, bà ta chỉ muốn lấy chồng vì tiền.

Tháng 6 năm 1953, Nannie và Samuel tổ chức hôn lễ. Sau khi chung sống 3 tháng, sức khỏe của Samuel sa sút dần. Trong vòng chưa đầy một tuần, đối tượng đã sụt tới 15 cân. Theo chẩn đoán của bác sĩ, ông ta bị nhiễm trùng dạ dày và cần nhập viện theo dõi.

Ngày 5 tháng 10 năm 1953, Samuel xuất viện. Nannie đã rất “chu đáo” chuẩn bị cho chồng một tách cà phê và đĩa thịt nướng. Samuel tắt thở ngay sau khi thưởng thức bữa tối “ngon lành”.

Cái chết bất đắc kỳ tử của Samuel khiến bác sĩ chăm khám cho ông ta nghi ngờ. Sau khi khám nghiệm tử thi, pháp y tìm thấy thạch tín sót lại trong thi thể nạn nhân. Ngay lập tức, cảnh sát bắt giữ Nannie.

Mặc dù đã ra tay sát hại nhiều người nhưng Nannie chưa bao giờ phải đối mặt với cảnh sát. Trước những bằng chứng xác đáng và màn thẩm vấn gắt gao, kẻ giết người nhanh chóng khai nhận hành vi phạm tội.

Ngày 17 tháng 5 năm 1955, Nannie Doss cúi đầu nhận tội trước pháp luật, bị kết án tù chung thân. Năm 1965, Nannie, khi đó 60 tuổi, chết vì bệnh bạch cầu tại nhà giam ở Oklahoma.

CHIA SẺ CỦA CHUYÊN GIA TÂM LÝ TỘI PHẠM

Theo phân tích của chuyên gia lập hồ sơ tội phạm, xã hội hiện đại với chủ trương cởi mở, văn minh mang đến nhiều cơ hội và không gian để thỏa mãn quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ. Đối mặt với vô số cám dỗ, các quan niệm đạo đức dần xung đột với lối sống dẫn đến tâm lý phạm tội ở một số trường hợp. Nhìn chung, tâm lý của tội phạm nữ có hai đặc điểm chính:

Đầu tiên, tội phạm nữ thiếu hiểu biết về pháp luật và có cái nhìn ngây thơ về hành vi phạm tội. Hầu hết các nữ tội phạm không có kiến thức luật pháp cơ bản, huống hồ là nắm rõ thẩm quyền và tính nghiêm minh của pháp luật. Tiêu chí đánh giá sự việc của họ dựa trên nhu cầu cấp thấp và kinh nghiệm cá nhân, vì vậy họ dễ phạm sai lầm chỉ vì những nguyên nhân nhỏ nhặt. Ngoài ra, cốt lõi cuộc sống của tội phạm nữ là mưu cầu lạc thú cá nhân. Họ không phân biệt rõ ràng giữa đúng và sai, thiện và ác trong đời sống xã hội nên dễ dẫn đến những thói hư tật xấu và các quan điểm sai lệch. Lấy niềm vui thú làm mục tiêu sống họ xem tiền bạc là đích đến duy nhất và làm mọi cách để được hưởng lợi về kinh tế. Khi lợi ích cá nhân và những thói xấu đi tới đỉnh điểm mà không được kiềm chế, tội phạm nữ sẽ thực hiện nhiều hành vi phạm tội khác nhau.

Thứ hai, tội phạm là nữ giới có xu hướng cảm xúc bất ổn. Nhiều phụ nữ bị ảnh hưởng bởi văn hóa truyền thống và đặc trưng sinh học nên cảm xúc của họ rất tinh tế và đa dạng. Nếu thiếu đi thước đo đạo đức và cái nhìn đúng đắn về cuộc sống, tình cảm của nữ giới sẽ có dao động, biến hóa lớn và không làm chủ được lý trí. Do không làm chủ được cảm xúc, phụ nữ dễ bị xúi giục phạm tội vì những nguyên nhân nhỏ nhặt như lợi nhuận, giúp đỡ bạn đời… Thêm vào đó, do cảm xúc cá nhân mạnh mẽ và mãnh liệt nên khi gặp biến cố hoặc bị thất vọng, người phụ nữ có xu hướng thay đổi vượt bậc về mặt tính cách. Lúc này, nếu bị kích thích, họ rất dễ đi đến hành vi phạm tội.


Chương 3 - Mỹ nhân xảo quyệt


Được đánh giá là một trong những thành phố hiện đại nhất cả nước, nhiều người dân Mỹ chọn định cư tại vùng Dallas xinh đẹp. Tại đây, Sandra Bridewell sống cùng ba đứa con của mình. Dù đã ngoài 30 nhưng Sandra vẫn giữ được vẻ duyên dáng và nụ cười xinh đẹp lay động lòng người.

Năm 1984, Sandra Bridewell, khi đó 36 tuổi, đem lòng yêu Alan Rehrig từ cái nhìn đầu tiên. Alan là một chàng trai 29 tuổi, đến từ Oklahoma với ngoại hình cao ráo, sáng sủa. Anh đến Dallas để làm việc và gặp Sandra khi đi xem nhà cùng bạn bè, họ nhanh chóng tiến tới hẹn hò. Điều đáng nói là, người phụ nữ này không hề tầm thường. Tuy là một góa phụ, một mình nuôi ba con nhỏ nhưng Sandra sống ở khu vực cao cấp trong thành phố. Trong mắt mọi người, cô là một người phụ nữ giàu có, bối cảnh gia đình hiển hách.


Sau khi quen biết Sandra, Alan cũng không ngoại lệ. Đứng trước người phụ nữ giàu có nhưng lại thân thiện và giản dị này, anh lập tức rơi vào lưới tình. Hai người thường xuyên hẹn hò, Sandra nhiều lần đưa Alan và bạn bè đến những câu lạc bộ cao cấp.

Bên nhau một thời gian, Sandra và Alan gắn bó không rời, mối quan hệ giữa Alan và ba đứa con của Sandra cũng rất hòa thuận. Một ngày nọ, Sandra thông báo cho Alan rằng cô đã mang thai, hơn nữa còn là một cặp song sinh. Điều này khiến Alan vô cùng vui sướng, kích động tới mức rơm rớm nước mắt. Từ trước tới nay, anh vẫn luôn yêu trẻ con và mong muốn có một mái nhà của riêng mình, không chần chừ hơn nữa, cặp đôi quyết định kết hôn.

Vài tuần sau đám cưới, Alan nhận được cuộc gọi của Sandra trong lúc đang làm việc. Trong điện thoại, Sandra khóc lóc nói rằng cô đã sảy thai và đang ở bệnh viện. Hay tin, Alan vội vàng muốn đến bệnh viện cùng vợ nhưng Sandra lại nói rằng mình đã quyết định về nhà. Mất đi đứa trẻ khiến Alan vô cùng buồn bã vì anh đặt nhiều tình cảm vào đứa con của hai người.


Sự cố qua đi, Sandra ngỏ ý muốn Alan mua bảo hiểm, đồng thời tham khảo ý kiến của mẹ Alan. Mẹ chồng của Sandra hết mực ủng hộ ý kiến này vì cho rằng con trai là trụ cột gia đình, cần phải chú ý tới những trách nhiệm tương tự. Vì vậy, Alan mua một khoản bảo hiểm trị giá 220.000 đô la Mỹ.

Tuy nhiên, Alan dần bị gánh nặng gia đình đè nặng sau một thời gian chung sống. Sandra tiêu pha nhiều hơn số tiền mà họ có thể kiếm được, dần dần, tài chính gia đình xuất hiện những dấu hiệu khó khăn. Alan không giấu nổi sự nghi ngờ, anh bắt đầu thắc mắc về tài sản thật sự của vợ. Thêm vào đó, Alan phát hiện Sandra nói dối mình về vấn đề tuổi tác, anh cảm thấy dường như người vợ của mình vẫn còn che giấu rất nhiều bí mật.

Alan quyết định chuyển đến sống tại nhà một người bạn. Một tháng sau, Sandra gọi điện cho Alan, cô muốn gặp mặt và đến kho chứa đồ chung để lấy vài món đồ. Alan rất mong chờ buổi hẹn bởi cả hai đã xa cách hơn một tháng trời.


Ngày 7 tháng 12 năm 1985, Alan lái xe đến chỗ hẹn, anh gặp và dừng lại trò chuyện cùng một người bạn tên Phil trên đường đi. Tuy nhiên, hai tiếng sau, Phil nhận được cuộc gọi từ Sandra hỏi về tung tích của Alan. Phil vô cùng ngạc nhiên, lẽ nào Alan đã đi gặp bạn bè và lỡ mất buổi hẹn? Alan không phải người như vậy.

Sau đó, Phil liên lạc với bạn bè và người thân của Alan để hỏi thăm tin tức của anh nhưng kết quả không có dấu hiệu khả quan. Hai ngày trôi qua, Alan vẫn bặt vô âm tín. Mẹ của Alan gọi điện đến nơi anh làm việc và được biết Alan không hề xuất hiện ở chỗ làm. Họ quyết định báo tin cho cảnh sát.

Lúc này, Sandra không hề tỏ ra lo lắng cho an nguy của chồng mà chỉ chú ý đến bản thân. Cô khai báo với cảnh sát, Alan nghiện ma túy và cô lo sợ anh ta sẽ quay lại để làm hại mình. Thậm chí, Sandra còn thuê vệ sĩ riêng để đảm bảo an toàn.

Sandra nói với thám tử tư rằng Alan từng có hành động bạo lực với mình. Trong một lần trượt tuyết, Alan đã cố tình xô ngã Sandra khi cô di chuyển quá nhanh và chỉ đứng yên khi cô cố gắng đứng dậy. Vì vậy thám tử tư đã giúp Sandra thay khóa nhà và bí mật theo dõi tình hình xung quanh.

Bốn ngày sau khi mất tích, thi thể của Alan được tìm thấy trong một chiếc xe hơi ở Oklahoma. Cảnh sát lập tức có mặt tại hiện trường, nạn nhân bị bắn vào đầu và ngực, trên xe có nhiều vết máu. Sau khi kiểm tra, nhân viên hiện trường cho biết các vết máu này đều thuộc về Alan. Sau khi hay tin, mẹ Alan vô cùng bàng hoàng, không thể tin rằng con trai mình đã qua đời.


Trong quá trình điều tra vụ án, cảnh sát nhận được nhiều cuộc điện thoại nặc danh, thái độ của người gọi cho thấy họ không tin tưởng vào Sandra và sẽ tìm cách lật tẩy người phụ nữ xinh đẹp mà xảo trá này. Vì vậy, lực lượng chức năng cũng hướng mũi nghi ngờ vào Sandra.

Ngay sau đó, báo chí đưa tin về sự dối trá của Sandra. Một phóng viên tung tin rằng Sandra đã thực hiện cắt bỏ tử cung tám năm về trước, vì vậy việc Sandra có con với Alan đã được dàn dựng nhằm mục đích lừa kết hôn.

Khi cảnh sát liên lạc với Sandra, họ phát hiện người phụ nữ này rất hay bịa đặt. Cô ta liên tục bôi nhọ nhân cách của Alan và đặt điều về anh như nghiện cờ bạc, ma túy, thậm chí còn cáo buộc Alan cố gắng h.ãm hại mình. Thông qua khám nghiệm tử thi và điều tra sâu, phía cảnh sát biết rằng tất cả đều sai sự thật, sự nghi ngờ đối với Sandra ngày một lớn dần.

Sau tang lễ của Alan, Sandra lập tức thuê luật sư khiến lực lượng chức năng càng khó tiếp cận với đối tượng. Tuy nhiên, cảnh sát không hề nhụt chí và tiến hành điều tra toàn diện. Thám tử tư của Sandra là Bill cũng hoài nghi thân chủ của mình. Cảnh sát chủ động liên lạc với Bill và cho anh biết về những lời nói dối của Sandra, vì vậy Bill đã mời một chuyên gia kiểm tra nói dối đến để làm việc với Sandra.

Kết quả là Sandra không thể vượt qua thử nghiệm. Mặc dù kết quả của bài kiểm tra nói dối không phải tuyệt đối nhưng đối với Bill, anh đã phát hiện ra điểm then chốt: Sandra dường như hiểu rất rõ về tình tiết của vụ án. Bill liền hủy bỏ hợp đồng làm việc với Sandra và khai báo với cảnh sát về những điều mình thu thập được.


Các chuyên gia tâm lý học tội phạm đã chỉ ra động cơ tiềm ẩn của Sandra, chính là khoản bảo hiểm cá nhân trị giá 220.000 đô la Mỹ của Alan. Nếu hai người ly hôn, Sandra sẽ không nhận được một đồng nào nhưng ngược lại, toàn bộ số tiền sẽ thuộc về Sandra một cách hợp pháp trong trường hợp Alan gặp chuyện bất trắc. Vụ án dần trở nên sáng tỏ nhưng Sandra có bằng chứng ngoại phạm mạnh mẽ. Theo lời của nghi phạm, cô ta đợi hai tiếng đồng hồ nhưng không thấy Alan xuất hiện nên đã rời đi và đến chơi nhà một người bạn.

Ngoài ra, các nhà tâm lý học tội phạm tin rằng nạn nhân đã bị giết ở Dallas rồi mới được di chuyển đến Oklahoma. Báo cáo khám nghiệm tử thi cho thấy, người bị hại tử vong tại nơi có nhiệt độ cao, sau đó xác chết mới được chuyển đến nơi có nền nhiệt tương đối thấp. Ngày Alan mất tích, thời tiết ở Dallas khá ấm áp và khi thi thể được tìm thấy ở Oklahoma, trời rất lạnh.

Nạn nhân được đặt vào ghế sau, phần giữa của chiếc xe, chứng tỏ hung thủ là người đã điều khiển phương tiện. Ghế lái đã được điều chỉnh độ cao nên các chuyên gia suy đoán rằng hung thủ có vóc người thấp hơn Alan.

Mặc dù Sandra có chứng cứ ngoại phạm nhưng chuyên gia tâm lý học tội phạm phân tích, địa điểm gặp mặt của hai người tương đối kín đáo, thời gian vào ban đêm, Sandra hoàn toàn có thể giấu xác Alan trong nhà kho rồi vận chuyển xác chết đi sau. Bằng cách này, cô ta đã tạo ra bằng chứng cho mình, đánh lạc hướng sự nghi ngờ của cảnh sát.

Thế nhưng, lực lượng chức năng không thể tìm thấy chứng cứ xác thực. Sandra và luật sư không tiếp nhận phỏng vấn, tuyên bố mình không phải là kẻ giết người mà chỉ là nạn nhân của những tin đồn ác ý và suy đoán vô căn cứ.

Món tiền bảo hiểm của Alan về tay Sandra, chẳng bao lâu sau, cô ta mang theo những đứa con và rời khỏi Dallas. Quá khứ và những ẩn số về cô ta được phơi bày phần nào khiến công chúng càng thêm hoang mang trước sự xảo quyệt và nham hiểm của người phụ nữ xinh đẹp này.


Năm 1967, Sandra kết hôn với David Stegall, một nha sĩ trẻ, đẹp trai và phong độ. Khi ấy, Sandra mới 24 tuổi. Vài năm sau đám cưới, cặp đôi sở hữu một ngôi nhà tiện nghi, to đẹp và ba đứa con ngoan ngoãn. Tuy nhiên, các khoản nợ của họ ngày càng tăng khiến David trở nên mệt mỏi, buồn phiền và chán nản. Đứng trước áp lực, anh lại tiếp tục đi vay nợ để chi trả cho cuộc sống hàng ngày, đó cũng là lúc vận đen ập đến.

Buổi sáng ngày 22 tháng 2 năm 1976, cảnh sát nhận được cuộc gọi báo án từ Sandra. David được tìm thấy trong tình trạng bị bắn vào đầu và rạch cổ tay. Thời điểm đó, cảnh sát cho rằng nạn nhân đã tự tử do căng thẳng quá độ. Vì vậy, Sandra nhận được khoản tiền bồi thường trị giá 100.000 đô la Mỹ.

Sandra dùng số tiền đó để trả nợ và bắt đầu một cuộc sống mới. Cô nhờ bạn bè giới thiệu cho mình những người đàn ông giàu có và thậm chí còn đưa chồng của bạn vào tầm ngắm. Trong mọi cuộc gặp gỡ, Sandra sẽ ăn mặc quyến rũ để dụ dỗ chồng của người bạn giàu có. Mọi chuyện vỡ lở, mối quan hệ giữa Sandra và những người xung quanh dần trở nên lạnh nhạt.

Tuy nhiên, cô ta đã thành công thu hút những người đàn ông khá giả khác. Chẳng bao lâu sau, ước muốn của Sandra đã thành sự thực. Năm 1978, cô kết hôn với Bobby Bridewell, con trai của một ông trùm dầu mỏ. Liền đó, cô mua một căn nhà khang trang trong khu phố cao cấp ở Dallas, thường xuyên lui tới những nơi của giới thượng lưu. Bất ngờ, tai họa lại xảy đến khi Bobby được chẩn đoán mắc bệnh ung thư hạch bạch huyết và qua đời.

Trong khoảng thời gian Bobby chiến đấu với bệnh ung thư, Sandra đã làm quen và nhờ cậy bác sĩ chăm sóc anh là John Bagwells cùng vợ là Betsy. John rất nhiệt tình và thường xuyên giúp đỡ Sandra.

Sau khi Bobby qua đời, Sandra vẫn tiếp tục quấy nhiễu gia đình Bagwells. Cô ta hay gọi điện cho Betsy để nhờ mua đồ, đồng thời nhờ John sửa chữa xe nhưng khi John đến, ô tô của Sandra không gặp vấn đề gì đáng ngại. Vì vậy, John và Betsy mất dần thiện cảm và muốn tránh xa Sandra bởi cô ta đang gây phiền phức cho họ. Thế nhưng, bi kịch lại xảy ra.


Ngày 16 tháng 7 năm 1982, Sandra gọi điện cho Betsy, dường như xe của Sandra xảy ra vấn đề và cô muốn rủ Betsy cùng đi thuê một chiếc xe mới với mình. Tuy nhiên, khi Betsy đến nơi, xe của Sandra vẫn hoạt động bình thường nên họ chào tạm biệt nhau. Tới tối muộn ngày hôm đó, Betsy vẫn không về nhà khiến chồng cô rất lo lắng và báo cảnh sát.

8 giờ tối cùng ngày, cảnh sát tìm thấy xe ô tô của Betsy tại bãi đỗ xe gần văn phòng cho thuê phương tiện. Thi thể của Betsy được tìm thấy bên trong chiếc xe, trên tay nạn nhân là một khẩu súng lục cỡ nòng 22 ly, bị bắn vào đầu từ bên phải.

Khi cảnh sát thẩm vấn Sandra, đối tượng cho biết mình quên mang theo bằng lái xe và không thể hoàn thành thủ tục thuê xe nên đã tìm đến Betsy. Sau khi giải quyết xong xuôi, hai người tạm biệt nhau và mỗi người một ngả.

Lực lượng chức năng cho rằng Betsy đã tự tử nhưng nhiều tình tiết lại chỉ ra điều ngược lại. Chuyên gia tâm lý học tội phạm phân tích, nếu Betsy thực sự muốn tự vẫn, cô ấy sẽ để lại lời trăn trối. Ngoài ra, trước khi ra khỏi nhà nạn nhân còn chuẩn bị bữa tối cho các con và dặn dò người thân rằng mình sẽ sớm trở lại. Tất cả những dấu hiệu này cho thấy đây không phải là một vụ tự sát, có kẻ đã h.ãm hại Betsy.

Một thám tử tư cũng đã xác nhận suy nghĩ này của chuyên gia tâm lý học tội phạm. Cô đã theo dõi vụ án trong một thời gian dài và thấy rằng Betsy không hề mắc bệnh tâm lý hoặc trầm cảm, nạn nhân là người vui tươi, yêu gia đình và cuộc sống.

Thêm vào đó, vị thám tử này cũng đã nghiên cứu các vết máu để lại ở hiện trường. Chứng cứ cho thấy Betsy không phải là người duy nhất có mặt trên chiếc xe ngày hôm đó, đã có sự hiện diện của một người khác tại hiện trường. Cơ thể của Betsy đã được di chuyển và có một số vệt máu trên cánh tay nạn nhân. Trong trường hợp tự tử, máu từ vết thương sẽ không bắn và dính về hướng đó. Vì vậy, thám tử tư tin rằng kẻ giết người đã dàn dựng hiện trường giả và đặt khẩu súng vào tay nạn nhân.

Sau khi kiểm tra bột thuốc súng trong tay Betsy, chuyên viên thẩm định cho biết có khả năng Betsy đã giằng co với hung thủ để giành lấy khẩu súng khiến bột nổ dây ra tay.

Thêm vào đó, vị thám tử cũng nêu ra động cơ giết người của Sandra: Cô ta đã trù tính ngay từ đầu khi tiếp xúc với gia đình Bagwells. Sandra muốn quyến rũ John nhưng bất thành, vì vậy chỉ có thể giết Betsy thì kế hoạch mới phát triển thuận lợi.

Tuy nhiên, bất chấp tất cả lập luận và dẫn chứng, phía cảnh sát vẫn không có đủ bằng chứng để khởi kiện Sandra. Chẳng bao lâu sau, tin đồn về người phụ nữ xảo quyệt này lan truyền khắp nơi ở Dallas và nhiều thông tin của Sandra được báo đài khai thác. Giới truyền thông đều muốn trả lời cho câu hỏi: Rốt cuộc người phụ nữ này là ai?

Phóng viên dần phanh phui ra những bê bối trong cuộc đời Sandra. Hóa ra, sau khi rời khỏi Dallas, Sandra vẫn ngựa quen đường cũ, làm quen với những người giàu có và lợi dụng họ về mặt tiền bạc. Cô ta phải chịu nhiều lời tố cáo nhưng luôn tìm được cách thoát tội. Sandra sống nay đây mai đó, di chuyển khắp các thành bang của nước Mỹ.

Điều đáng nói là khi Sandra bị bắt vào năm 2007, đối tượng đã bị bắt giữ vì tội gian lận thẻ tín dụng chứ không phải vì cáo buộc giết người.

Bước sang tuổi 63, Sandra biết rằng mình không thể sử dụng sắc đẹp để lừa bịp tình cảm, tiền bạc của đàn ông được nữa. Thay vào đó, bà ta thay đổi thân phận, tự xưng là một nhà truyền giáo và xuất hiện với cái tên Camille Bridewell. Bà ta làm quen với nhiều người theo đạo Cơ đốc ở một thị trấn nhỏ vùng Bắc Carolina, Sandra giới thiệu mình là một nhà truyền giáo và đã chu du khắp nơi để giảng đạo. Bà ta thể hiện sự thân thiện và lòng nhiệt thành với người dân trong khu vực, đặc biệt là đối với bà lão 77 tuổi Sue Moseley. Sandra thường kể cho Sue nghe những câu chuyện về Kinh thánh, Sue và gia đình đều là những con chiên ngoan đạo, họ rất hạnh phúc vì gặp được Sandra.

Sandra nói dối Sue và gia đình rằng mình sẽ đến Ấn Độ để giảng đạo, vì vậy hiện tại bà ta chỉ tìm kiếm một nơi trú chân tạm thời. Ngay lập tức, Sue Moseley tốt bụng bèn mời Sandra đến sống cùng mình. Rất nhanh, Sue đặt trọn niềm tin vào Sandra, người đã cải trang thành Camille.

Đầu năm 2007, Sandra chia sẻ với Sue về kế hoạch đưa giáo hội truyền đạo về nơi mình sống, vì vậy bà ta muốn mua một căn nhà. Khi Sue và Sandra đi xem nhà, bà ta chỉ quan tâm đến những ngôi nhà có giá trị lên tới hàng triệu đô la Mỹ. Về sau, Sandra tìm thấy căn nhà ưng ý nhưng khi người bán nhà yêu cầu trả tiền đặt cọc, bà ta liền thoái thác.

Biết tin, con trai của Sue Moseley lập tức cảm thấy nghi ngờ và tìm kiếm thông tin về Sandra trên Internet. Sau khi đọc nhiều bài báo khác nhau, anh xác định rằng người trong ảnh chính là Camille lúc bấy giờ. Con trai Sue lập tức báo cảnh sát, nhưng khi lực lượng chức năng tới nơi, Sandra đã rời đi từ vài ngày trước để đến Ấn Độ.

Cuộc tìm kiếm vẫn tiếp tục, cảnh sát phát hiện ra Sandra không hề đi đâu xa mà vẫn đang lưu lại ở nhà một thành viên trong giáo hội. Trong khoảng thời gian này, bà ta đã sử dụng thẻ tín dụng của Sue Moseley một cách bừa bãi. Thêm vào đó, Sandra còn tìm cách lừa đảo nhà đất của Sue Moseley. Với những bằng chứng xác đáng, cảnh sát vội bắt giữ đối tượng. Cuối cùng, tòa án tuyên bố xử phạt hai năm tù vì tội gian lận thẻ tín dụng.

CHIA SẺ CỦA CHUYÊN GIA TÂM LÝ TỘI PHẠM

Các nhà tâm lý học tội phạm cho biết, những kẻ giết người hàng loạt thường thỏa mãn tâm lý kiểm soát bất thường của mình bằng cách thao túng sống chết của nạn nhân. Với tội phạm nữ, hành vi phạm tội của họ đều mang đậm dấu ấn từ những tính xấu của nữ giới như ghen tuông, sợ bị phản bội…

Trong khi đó, có những sát nhân hàng loạt là nữ giới phạm tội vì giúp đỡ người tình tìm kiếm, tra tấn hoặc cướp đi sinh mạng của những người phụ nữ khác. Tội phạm nữ thuộc trường hợp này luôn đóng vai trò là nạn nhân của sự phục tùng. Họ thích nhìn nam giới hành hạ, làm nhục người phụ nữ yếu ớt khác, điều này đem đến kích thích và khi họ là người ra tay, tội phạm nữ sẽ biến thành kẻ tấn công máu lạnh và điên cuồng.


Chương 4 - Ác ma mang gương mặt trẻ thơ


Tháng 5 năm 1968, một nhóm trẻ em tìm thấy cậu bé 4 tuổi Martin Brown đang nằm trên sàn nhà trong một căn nhà hoang. Ban đầu, lũ trẻ tưởng cậu bé đang chơi trò “giả chết” nhưng khi lại gần, miệng nạn nhân liên tục trào máu khiến đám trẻ sợ hãi. Sau khi biết tin, người lớn trong khu vực lập tức báo cảnh sát.

Tiến hành điều tra, cảnh sát phát hiện ra vụ án có liên quan đến Mary Bell, một bé gái 11 tuổi. Đối tượng được cho là nghi phạm chính của vụ án. Mới đầu, lực lượng chức năng khó lòng tin nổi rằng một cô bé mới lớn lại là kẻ tình nghi trong vụ án sát hại bé trai 4 tuổi. Tuy nhiên, chính những lời nói và hành động kỳ lạ của Mary Bell đã thuyết phục cảnh sát.


Vào ngày xảy ra vụ việc, nhiều người trong số nhân chứng phát hiện ra hiện trường đều bỏ chạy sau khi chứng kiến nạn nhân tử vong. Tuy nhiên, Mary lại dẫn bạn mình là Norma đến để xem cái xác của Martin. Sau đó, Mary dẫn Norma đến gặp dì của Martin và miêu tả lại cái chết của cậu bé. Không chỉ vậy, Mary còn liên tục công kích dì của nạn nhân bằng lời nói, đặt ra những câu hỏi ác ý như “Cô có buồn vì Martin đã chết không? Cô có khóc không?” Hai bé gái tỏ ra rất vui sướng trước những câu hỏi độc địa và không ngừng mỉm cười. Quá tức giận, dì của Martin đã đuổi họ đi và cho rằng đó chỉ là một trò chơi khăm.

Mary cũng có hành vi tương tự với mẹ của Martin. Vài ngày sau khi Martin qua đời, cô bé đến tận nhà của nạn nhân, tươi cười gõ cửa và hỏi gặp Martin. Khi mẹ nạn nhân đau buồn cho biết Martin đã mất, Mary cười khẩy và nói: “Cháu biết là nó chết rồi, nhưng cháu muốn nhìn nó trong quan tài cơ.” Sau cái chết của Martin, Mary đón sinh nhật 11 tuổi. Để kỷ niệm, cô bé cùng người bạn Norma đã đột nhập vào một trường mẫu giáo địa phương để phá hoại và để lại những lời nhắn thú nhận đã sát hại Martin. Thêm vào đó, Mary còn vẽ hình một cậu bé đang nằm trong tư thế giống với nạn nhân lên tường. Bên cạnh hình người là hình một chai thuốc, phía dưới có chữ “Thuốc”. Những dòng chữ trong bức vẽ dường như cũng liên quan đến cái chết của Martin nhưng giáo viên nhà trẻ không chú ý đến điều này, cho rằng đó chỉ là những gì Mary biết được thông qua các câu chuyện về vụ việc.


Cảnh sát dồn sự chú ý vào Mary Bell nhưng không thể tìm ra bằng chứng đáng tin, hơn nữa cô bé vẫn chỉ là một đứa trẻ, tuy cách hành xử có phần kỳ quặc nhưng rất khó để buộc tội một bé gái 11 tuổi là hung thủ giết người. Thế nhưng một vụ án xảy ra sau đó đã khiến cảnh sát đổi ý.

Ngày 31 tháng 7 năm 1968, hai tháng sau khi Martin Brown qua đời, cậu bé 3 tuổi Brian Howe mất tích. Trong lúc tìm kiếm em trai quanh nhà, Pat – chị gái 14 tuổi của Brian bắt gặp Mary và Norma, cả ba cùng nhau đi tìm cậu bé.

Pat dần trở nên lo lắng khi hai bé gái dẫn cô đến một khu vực vắng vẻ, đây chính là nơi đã xảy ra vụ án mạng cách đó không lâu. Quá sợ hãi, cô bé không dám đi tiếp và quay về nhà dù Mary cho biết Brian có thể đang ở gần.


Sau cùng gia đình của Brian đã trình báo vụ việc cho cảnh sát. 23 giờ cùng ngày, thi thể của Brian được tìm thấy ở địa điểm Mary đã dẫn Pat đến. Môi của nạn nhân tái xanh, trên cổ có nhiều vết hằn cho thấy người bị hại đã bị bóp cổ đến chết. Trên cơ thể Brian nhiều vết cắt, đặc biệt trên bụng có khắc một chữ M. Tại hiện trường có một chiếc kéo bị gãy, dính tóc của nạn nhân. Hung thủ đã dùng kéo để cắt tóc của Brian.

Ngoài ra, bác sĩ pháp y tiết lộ chữ M ở phần bụng được rạch lên thi thể sau khi nạn nhân qua đời. Đánh giá từ tình trạng vết thương, dường như ban đầu kẻ giết người muốn rạch chữ N nhưng sau đó đã đổi thành chữ M.

Sau đó, cảnh sát bắt đầu đi sâu vào vụ án của Brian. Thám tử James Dobson được giao phụ trách vụ án, ông cùng lực lượng chức năng đã tiến hành khảo sát 1.000 trẻ em trong khu vực nhưng không thu được bất kỳ manh mối hữu ích nào. Trong đó, có hai đứa trẻ cho biết vào ngày xảy ra vụ án, trông Norma rất kỳ lạ. Khi nói chuyện với James, Norma cũng chỉ mỉm cười và không hợp tác cung cấp thông tin.

James cùng đồng nghiệp đã đến nhà Mary Bell để điều tra. Ngay khi bước vào nhà của nghi phạm, vị thám tử đã cảm nhận được không khí u ám và âm trầm. Không gian bên trong tối tăm, tù mù tới mức khiến người ta cảm thấy ớn lạnh. Căn nhà tĩnh lặng và trống trải, chỉ có vài món đồ cũ kỹ. Ngoài trời, ánh nắng ấm áp chan hòa nhưng khi đặt chân qua cánh cửa, nhà của Mary Bell dường như là một thế giới khác, lạnh lẽo tới mức khiến người ta khó thở.


Trò chuyện với Mary, James nhận thấy cô bé có xu hướng lảng tránh và tự lừa dối chính mình. Mary khai rằng cô đã làm nhiều việc khác vào ngày Brian bị giết nhưng những lời khai không hề thuyết phục. Điều này khiến James sinh nghi, tự hỏi rằng đứa trẻ trước mặt có thực sự vô tội?

Khi tang lễ của Brian diễn ra, James đã trông thấy Mary đứng trước cửa nhà nạn nhân, vừa cười vừa xoa tay đầy hoan hỉ. Cảnh tượng này khiến vị thám tử kinh hãi, James cảm thấy mình có trách nhiệm phải ngăn chặn ác quỷ nhỏ này trước khi nó ra tay sát hại thêm những nạn nhân vô tội khác. Điều đáng sợ là, trước khi Brian bé nhỏ gặp nạn, Mary đã từng đến nhà cậu bé và tiết lộ cho họ rằng Norma sẽ giết Brian. Không chỉ vậy, cô bé còn minh họa hành động bóp cổ bằng cách tự nắm lấy cổ họng mình, thè lưỡi và giả vờ bị ngạt. Chẳng bao lâu sau, Brian thực sự bị siết cổ đến chết.

Về sau, Norma trình báo rằng Mary đã kể lại cho mình về việc giết Brian và dẫn Norma tới xem xác chết. Mary yêu cầu cô phải giữ bí mật, không được tiết lộ với bất kỳ ai. Trong quá trình thuật lại vụ việc, Norma có vẻ hoảng loạn nhưng dần dần lấy lại bình tĩnh và phủ nhận tội danh giết hại Brian.

Vì vậy, khi lấy cung Mary, cảnh sát đã nói cho đối tượng biết có người nhìn thấy cô xuất hiện tại hiện trường vụ án. Mary lập tức trả lời rằng người đó có thị lực tốt. Thấy vậy, cảnh sát liền vặn hỏi, vì sao lại như vậy? Nhận ra mình lỡ miệng, Mary chớp mắt, đáp rằng chỉ có người có thị lực tốt mới có thể nhìn thấy người không hề có mặt ở đó. Sự ranh mãnh và khôn khéo của đứa trẻ này khiến những người có mặt tại buổi thẩm vấn đều kinh ngạc.


Theo lời Mary, mình cùng với Norma đã chơi đùa cùng Brian tại ngôi nhà bỏ hoang vào ngày xảy ra vụ việc. Sau đó, Norma và Brian đánh nhau và trong lúc mất kiểm soát, Norma đã giữ chặt cổ nạn nhân, giật tóc và đập đầu cậu bé vào tường. Mary cố gắng khuyên can Norma nhưng Norma đã hét lên. Cuối cùng, mặt của Brian trở nên tím ngắt, chuyển màu xanh đen.

Norma cảnh cáo Mary không được nói với ai về việc này, bằng không sẽ có kết cục tương tự như Brian. Thêm vào đó, Mary cho biết Norma cũng nhận rằng đây là lần đầu tiên nhưng sẽ không phải là lần cuối cùng cô ta giết người. Khi Mary và Norma giúp Pat tìm kiếm Brian, Mary đã cố gắng dẫn Pat đến chỗ thi thể của em trai mình nhưng Norma khăng khăng rằng cậu bé không ở đó. Thậm chí, sau khi thi thể được tìm thấy, Norma đã rủ Mary cùng bỏ trốn.

Câu chuyện của Mary không hề thuyết phục cảnh sát, họ cho rằng cô ta chỉ nói một nửa sự thật, phần còn lại là sự bịa đặt để đổ tội cho Norma. Vì vậy, cả Mary Bell và Norma đều bị khởi tố với tội danh giết người.

Trong thời gian giam giữ, Mary được chỉ định làm việc với bác sĩ tâm thần. Bác sĩ nhận thấy hành vi của tội nhân không bình thường, cô không hiểu được sự nghiêm trọng của hành vi mà mình gây ra. Điều duy nhất sát nhân nhỏ tuổi quan tâm là mẹ cô có thể sẽ không đủ tiền để trả tiền phạt. Thêm vào đó, cô cũng cho rằng sẽ chẳng ai nhớ đến Brian Howe vì cậu bé không còn bố mẹ.

Trong phiên tòa xét xử, nhà tâm lý học trẻ em nổi tiếng Orton đã phân tích hành vi và tâm lý của Mary Bell. Ông đã nghiên cứu nhiều đối tượng có trí tuệ cao và tâm lý bất thường nhưng chưa bao giờ gặp trường hợp nào tinh ranh, có dục vọng khống chế cao như Mary. Tuy vẫn còn nhỏ nhưng tội phạm đã rất lạnh lùng, khôn khéo và khó đoán, đó cũng là lý do khiến cô ta trở nên nguy hiểm. Khi bị hỏi tội, Mary đã tỏ ra bình tĩnh, trầm lặng như một người trưởng thành khiến bồi thẩm đoàn không thể coi cô như một đứa trẻ.


Theo đánh giá, Mary có nhiều khả năng bị ảnh hưởng bởi bệnh tâm thần, hành động không cân nhắc hậu quả. Kẻ phạm tội không thể hiện sự hối hận, lo lắng hay rơi nước mắt trong bất cứ hoàn cảnh nào. Cô ta giữ thái độ thờ ơ với tất cả và chỉ tỏ ra tức giận khi giam giữ. Trong vụ án của Brian, dường như Mary vẫn chưa thực sự hài lòng với “tác phẩm” của mình, xu hướng bạo lực ngày càng mãnh liệt. Nếu không bị bắt, tội phạm sẽ độc ác và tàn bạo hơn, trở thành một sát nhân đáng sợ sau khi trưởng thành.

Ngược lại, Norma có những biểu hiện phù hợp với tâm lý của một đứa trẻ trong thời gian thẩm vấn như sợ hãi, khóc và hối hận, Chính điều này đã tạo được sự đồng cảm, gia tăng lòng tin của cảnh sát. Cuối cùng, tòa án kết luận Norma là nạn nhân, đầu óc đơn giản. Tuy nhiên, Mary là trường hợp đặc biệt, hung hăng, độc địa và không có lòng trắc ẩn. Nhìn nhận một cách khách quan, sự thông minh của Mary vượt xa trí tuệ thông thường nhưng lại đi kèm tính xảo quyệt khiến người khác phải rùng mình.

Thêm vào đó, báo cáo pháp y cho thấy Mary cũng chính là hung thủ giết hại Martin Brown. Mẫu vải dính trên quần áo nạn nhân trùng khớp với đồ tư trang của Mary.

Vì vậy, tòa tuyên bố Norma trắng án, kẻ giết người Mary Bell chịu án tù chung thân. Vụ việc gây chấn động toàn nước Anh, mọi phương tiện truyền thông đều đổ dồn sự chú ý vào sát nhân 11 tuổi. Cũng từ đó, bức tranh cuộc đời Mary dần hiện rõ:

Khi vừa mới sinh, lời chào đón đầu tiên mà Mary nhận được là: “Mau lôi thứ này ra khỏi người tôi!” Lúc đó, Mary là gánh nặng đối với người mẹ 17 tuổi, chưa lập gia đình. Vì vậy, từ nhỏ cô bé Mary đã phải chịu sự ghẻ lạnh, bạo hành của mẹ.

Được 1 tuổi, Mary nhập viện trong tình trạng nguy kịch vì đã uống quá nhiều thuốc. Ban đầu, gia đình Mary nghĩ rằng trẻ nhỏ tham ăn, không phân biệt được thuốc và kẹo nên đã xảy ra sự cố. Tuy nhiên, bác sĩ đã phủ nhận và cho biết trẻ em có khả năng phân biệt ngọt đắng, cho dù xảy ra nhầm lẫn thì sau khi ăn viên thuốc đầu tiên, đứa trẻ sẽ nhổ ra hoặc dừng lại. Ngoài ra, lọ thuốc cũng được đặt ở nơi xa tầm tay trẻ em. Dường như đây không đơn thuần chỉ là một tai nạn.


Năm Mary lên ba, những đứa trẻ hàng xóm từng thấy mẹ của cô bé cho Mary ăn một loại bột và gọi đó là kẹo. Kết quả, Mary phải đến bệnh viện vì nuốt một lượng lớn chất bột.

Lúc này, gia đình Mary mới quyết định đưa cô bé rời khỏi người mẹ bạo lực. Mẹ của Mary được chẩn đoán có triệu chứng ảo tưởng nặng, rối loạn tinh thần và luôn muốn đẩy người xung quanh vào những tình huống nguy kịch. Căn bệnh này chính là nguyên nhân khiến cô ta ngược đãi con gái mình.

Suốt thời thơ ấu, mẹ của Mary đã đem cô bé đi cho rất nhiều người nhận nuôi nhưng không thành công. Mary dần học được cách thu mình và trở nên lạnh lùng. Cô không bao giờ khóc khi bị đánh đập. Năm Mary 5 tuổi, cô chứng kiến một người bạn bị xe ô tô tông chết, điều này ảnh hưởng nhiều đến tâm lý đứa trẻ. Từ đó, Mary thường có những hành động kỳ quặc như véo cổ những đứa bé khác hoặc thậm chí là lấy đồ chơi đánh vỡ mũi chú ruột.

Sống trong sự tra tấn về cả tinh thần lẫn thể xác từ mẹ ruột, Mary mắc chứng đái dầm kinh niên. Cô bé không dám ngủ vì sợ làm bẩn gi.ường. Mỗi lần phát hiện cô đái dầm, người mẹ sẽ làm nhục Mary bằng cách bôi nước tiểu lên mặt cô bé, mang ga trải gi.ường ướt đẫm cho hàng xóm xem và thậm chí còn ấn đầu Mary vào cầu tiêu.

Các chuyên gia tâm lý cho rằng, chính sự hành hạ của người mẹ đã khiến kẻ sát nhân thuần thục trong việc thao túng, điều khiển tâm lý và luôn muốn lăng mạ người xung quanh.

Thời gian ở trong tù, một người gác tù tốt bụng đã lo rằng Mary nhỏ tuổi sẽ cảm thấy cô đơn, vì vậy ông đã tặng cô bé một chú mèo con. Kết quả, Mary trút giận lên con vật bằng cách bóp cổ nó. Các nhà tâm lý học cho rằng kẻ sát nhân mang trong mình sự độc ác bẩm sinh, tồn tại dục vọng tấn công, bắt nạt trẻ em hoặc động vật nhỏ hơn mình vì chúng không có khả năng phản kháng.

Ban đầu, Mary bị giam tại một trung tâm cải tạo cho trẻ dưới tuổi vị thành niên. Năm 1972, Mary bị chuyển đến một nhà tù dành cho người lớn do đã đủ 16 tuổi. Năm 1977, Mary trốn tù, gặp gỡ và có mối quan hệ tình cảm với một người đàn ông. Không lâu sau, kẻ phạm tội bị bắt, người đàn ông kia vội bán câu chuyện của mình cho các mặt báo.

Thời gian này, Mary có một sự thay đổi khi ở tù, dường như “đạo đức trong cô đột nhiên thức tỉnh”. Nữ sát nhân gần như trở thành một con người khác. Ngày 14 tháng 5 năm 1980, Mary được phóng thích. Sau đó, cô mang thai, nhận được sự cho phép của tòa án, Mary hạ sinh đứa trẻ vào năm 1984.

Năm 1992, Mary trở thành một người mẹ hiền từ, dường như cô đã hoàn lương. Tuy nhiên, nhiều người vẫn không thể đặt niềm tin vào một kẻ giết người và cho rằng cô không thể bỗng dưng biến thành người tốt. Nhất cử nhất động của Mary vẫn bị người đời dòm ngó và gièm pha.

Năm 1998, Mary Bell xuất bản cuốn tự truyện “Những tiếng khóc thầm lặng9”. Cuốn sách đã dấy lên một làn sóng bất mãn và chỉ trích của người dân Anh, phê phán việc cho phép kẻ giết người kiếm tiền dựa trên chính tội ác của mình. Thậm chí, Thủ tướng Anh đương thời đã công khai mắng Mary Bell là vô liêm sỉ. Nhờ việc này, Mary nhận được một khoản thù lao lớn, nhưng đồng thời nó cũng cho con gái cô biết sự thật về mẹ mình. Cuối cùng, đứa con đã tha thứ cho Mary.

CHIA SẺ CỦA CHUYÊN GIA TÂM LÝ TỘI PHẠM

Những trường hợp phạm tội khi tuổi đời còn trẻ thường là nạn nhân của những vụ bạo hành gia đình kéo dài. Trẻ nhỏ không biết cách giải tỏa tâm lý, vì vậy chỉ có thể bộc lộ những khúc mắc tâm lý bằng cách gây hấn, cướp đoạt những gì mà người khác có. Ví dụ như trộm cắp hoặc phá hoại.

Hầu hết những sát nhân nhỏ tuổi đều có nhiều chấn thương tâm lý và chịu áp lực từ tấm bé. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến rối loạn tâm lý và mất kiểm soát hành vi. Hình phạt đến từ môi trường ngoại cảnh không thể giúp họ sửa đổi hành vi. Tuy nhiên, đây không phải là cái cớ để chấp nhận hành vi phạm tội.

Ngoài ra, hành vi phạm tội của tội phạm nhỏ tuổi là hậu quả của việc thiếu đi cơ chế tự vệ phù hợp. Đây là một vòng luẩn quẩn mà nguyên nhân đến từ việc trẻ em không được bảo vệ đầy đủ. Bạo lực sẽ sinh ra bạo lực, trẻ nhỏ không phải là những tội phạm bẩm sinh. Trường hợp của Mary Bell là một ví dụ tiêu biểu.
 
Quay lại
Top Bottom