Những nỗ lực tiếp cận công nghệ Laser trước đây của Việt Nam

liveagain

Thành viên
Tham gia
23/4/2013
Bài viết
10
Trong lịch sử phát triển hơn nửa thế kỷ của công nghệ Laser, Việt Nam đã nhiều lần hụt tay khi với tới nó. Tuy nhiên, thành quả của nó là việc đã có một số ít đơn vị Việt Nam đủ năng lực tham gia các khâu trong công nghệ này (Ngoài việc đơn thuần chỉ buôn bán thiết bị). Và chỉ có gần như duy nhất một đơn vị có khả năng chế tạo thiết bị này nội địa.


soviet-space-cannon-1666125064.jpg

Những bước đi chập chững của Việt Nam công nghệ Laser trong tổng thể bức tranh hiện đại hóa.​


Nếu như ở phần trước, các bạn đã tìm hiểu về “Lược sử lý thuyết Laser” và biết thêm về một số khái niệm cơ bản trong Laser. Thì ở phần này các bạn sẽ biết được thêm về các ứng dụng của Laser và tại sao các cường quốc lại đã đổ tiền và thành công nhờ công nghệ này.

Trong chiến tranh, Quân đội nhân dân Việt Nam đã chạm trán với các loại vũ khí Laser thời kỳ đầu của Mỹ. Dù chưa hoàn thiện, nhưng điều này cũng đã gây không ít khó khăn đối với dân và quân chúng ta. Do đó, các cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự Quốc Phòng cũng đã có những nhận thức ban đầu về tầm quan trọng của công nghệ này.

Khởi đầu với thời kỳ cạnh tranh ngầm về khoa học công nghệ giữa hai siêu cường hàng đầu là Mỹ và Xô Viết gọi tắt là Chiến Tranh Lạnh. Xô Viết với tư tưởng CNXH đã đưa ra chương trình Intercosmos. Đây là chương trình với sự góp sức của tất cả khối xã hội Chủ Nghĩa để

  • Cùng khám phá vũ trụ
  • Định hình tương lai của nhân loại (bao gồm các hoạt động kinh tế sau này).

Với tầm nhìn như vậy, công nghệ Laser được chọn là một trong các mũi nhọn tiên phong đột phá. Với công nghệ Laser các kỹ sư hàng không vũ trụ có thể:

  • Tạo ra những chi tiết linh kiện chính xác trong tên lửa, tàu con thoi và các thiết bị nghiên cứu được mang lên vũ trụ.
  • Đặc biệt phải nói đến là laser trong máy quang khắc để tạo ra các con chip và vi mạch chính xác.
  • Laser năng lượng cao trong phòng thủ tên lửa cho cả điểm phóng lẫn vệ tinh lẫn bản thân vệ tinh.
  • Thậm chí đến cả trang phục phi hành gia cũng có thể phải cắt với laser. Bộ trang phục với nhiều tính năng đặc biệt khiến không có loại kéo không thường nào có thể cắt được. Nó cần đảm bảo vừa đủ bảo vệ phi hành gia trước các thiên thạch nhỏ. Đồng thời đảm bảo tránh khỏi bức xạ mặt trời cao hơn thông thường. Và dĩ nhiên việc tẩy trắng nó sẽ cần các phương pháp ít gây kích ứng da nhất có thể để đạt sự dễ chịu khi mặc nó ra ngoài không gian và thao tác các động tác phức tạp.

Và Việt Nam là một trong các nước Xã Hội Chủ Nghĩa đầu tiên được giới thiệu các công nghệ này. Tuy nhiên thì việc tham gia sâu vào cùng nghiên cứu và phát triển công nghệ này khi đó vấp phải rất nhiều sự phản đối. Đó là bởi:

  • Mặt bằng dân trí thấp
  • Các hoạt động khôi phục kinh tế và đời sống nhân dân cấp thiết hơn đang cần nguồn chi hơn là các chương trình phát triển dài hạn.
  • Các rạn nứt chính trị xã hội sau chiến tranh còn ảnh hưởng sâu đậm trong cả nhân dân lẫn chính giới.
  • Có những ý kiến chính trị bảo thủ và cả những âm mưu muốn kìm h.ãm sự phát triển công nghệ vượt trội và “đi tắt đón đầu” của Việt Nam.

Tuy nhiên thì cũng đã có những hạt mầm đầu tiên được gieo và tạo nền móng của ngành công nghệ Laser của Việt Nam.

Đó là giáo sư Trần Đức Hân, người đầu tiên nghiên cứu thành công Laser CO2 trong phòng thí nghiệm.

Phó Giáo Sư Tiến Sĩ Trần Minh Thái, người chế tạo ra thiết bị nguyên mẫu về thiết bị laser bán dẫn công suất thấp cho y sinh và sinh học. Hiện máy đã được đưa vào ứng dụng thành công ở quy mô nhỏ và một số bệnh viện tại Việt Nam. Tuy nhiên để sản xuất quy mô lớn và vận hành toàn cầu vẫn còn nhiều việc cần làm.

PGS.TS Trần Công Duyệt - Chủ tịch LCH laser y học trong nội khoa và ngoại khoa.

Như vậy Việt Nam trong chuỗi giá trị Laser toàn cầu là:
  • Nơi đỡ đầu cho các doanh nghiệp nhỏ khởi nghiệp trên toàn cầu. Vì nguồn tài nguyên của chúng ta rất nhỏ và các công đoạn cao trong chuỗi giá trị hiện nay đã thuộc sở hữu trí tuệ của các công ty, tập đoàn và tổ chức kinh tế lớn trong cả kinh tế và quốc phòng.

Và chúng ta cũng cần phải đảm bảo các điều kiện về:
  • An ninh an toàn và bảo mật,
  • Tài chính lẫn
  • Sở hữu trí tuệ
… cho các doanh nghiệp này.

Tất nhiên, trong số đó có cả các doanh nghiệp Việt Nam.

Riêng với vấn đề an ninh, quốc phòng, cần xem xét đến các yếu tố chính trị dài hạn. Vì nếu chọn sai đối tác thì sẽ biến Việt Nam thành đối tượng cung ứng cho các nhóm vũ trang chính trị gây bất ổn trên thế giới. Điều đó ảnh hưởng lớn tới danh tiếng và uy tín của Việt Nam trên trường Quốc Tế.

Bản thân các tổ chức kinh tế thuần túy tư nhân và vì mục đích dân dụng hòa bình thông thường cũng có thể bị trưng dụng các sản phẩm trí tuệ để phục vụ an ninh quốc phòng trong nhiều trường hợp. Vì vậy việc có sẵn sự đề phòng và các giao thức an ninh an toàn cần thiết trong giao dịch các nguyên liệu thô để tạo nên laser là điều thiết yếu.

Và hiện cơ chế tài chính và luật pháp ít cởi mở để các doanh nghiệp khởi nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực này có thể ra được các sản phẩm trí tuệ.

“Còn tính khả thi” như trong báo chí và giới truyền thông nhắc đến thì vốn là một khái niệm rất mơ hồ nếu chỉ bàn thảo trên giấy. “Chỉ bàn lùi, không bàn làm” là điều rất dễ gặp phải đối với các doanh nghiệp có ít nguồn vốn là các mối quan hệ chính trị. Ngay cả khi có luồng tài chính nội địa tương đối tốt thì các doanh nghiệp này rất dễ trở thành các bị can của các vụ án hối lộ.

Còn nếu dựa vào tài chính nước ngoài và các quan hệ chính trị nước ngoài thì nhiều khả năng sản phẩm làm ra sẽ thuộc sở hữu trí tuệ của nước ngoài.

Cần sớm nghiên cứu các cơ chế thông thoáng để nguồn lực tư nhân Việt Nam không trở thành:

  • “Bảo tàng các nhà kinh tế tư nhân Việt Nam”.
  • “Như đã hình thành với “Bảo tàng các nhà khoa học Việt Nam”
 
Quay lại
Top Bottom