Huệ Phố công chúa
Huệ Phố công chúa:
Nguyễn Phúc Tĩnh Hòa (1830 - 22 tháng 4 năm 1882), tự Quý Khanh, Dưỡng Chi, hiệu Huệ Phố, biệt hiệu Thường Sơn, là con gái thứ ba mươi bốn của vua Minh Mạng và là cô em út trong Tam Khanh (hai người kia là Nguyễn Phúc Vĩnh Trinh và Nguyễn Phúc Trinh Thận), tức một trong ba nữ danh sĩ đất Thần kinh (Huế) ở nửa sau thế kỷ 19 tại Việt Nam.
Nguyễn Phúc Tĩnh Hòa sinh năm Canh Dần (1830), lúc bé sống với mẹ là Thục tân Nguyễn Thị Bửu (1801-1851) trong cung cấm. Tính nết bà dịu dàng, lại thông minh nên sớm làu thông kinh sử, thi từ, nhạc phủ...
Năm Kỷ Dậu (1849), bà và hai chị theo mẹ ra ở Tiêu Viên trong phủ của anh cả là Miên Thẩm (Tùng Thiện Vương) bên bờ sông Lợi Nông (An Cựu, Huế). Năm Canh Tuất (1850), chị Vĩnh Trinh và Trinh Thận đều kết hôn và theo chồng.
Năm Tự Đức thứ 4 (1853), Tĩnh Hòa kết hôn với Đặng Huy Cát. Nhờ cùng yêu chuộng và biết sáng tác thơ văn, nên vợ chồng bà sống rất hòa hợp[1].
Đêm 16 tháng 9 năm 1866, cháu rể của bà là Đoàn Hữu Trưng (con rể của Tùng Thiện Vương) cầm đầu binh lính và dân phu ở công trường Vạn Niên nổi dậy và thất bại, anh bà (Tùng Thiện Vương) bị nghi có liên quan nên phủ đệ bị đóng cửa, bị canh gác nghiêm ngặt.
Năm Tự Đức thú 22 (1869), bà được phong Thuận Lễ công chúa.
Bà mất ngày 5 tháng 3 năm Nhâm Ngọ (22 tháng 4 năm 1882), thụy Mỹ Thục. Vợ chồng bà có cả thảy bốn con trai, nhưng ba người đã mất sớm, còn một người tên Đặng Hữu Phổ bị án tử hình năm 1885 (còn chồng thì bị tù) sau khi bà lìa đời mới ba năm.
Nguyễn Phúc Tĩnh Hòa mất, để lại một tác phẩm duy nhất là Huệ Phố thi tập. Sáng tác này gồm bốn quyển với 216[2] bài thơ chữ Hán do bà viết từ năm 1845 cho đến ngày từ trần. Tập thơ có một bài tựa do Miên Thẩm (Tùng Thiện Vương) viết và được năm người nữa, gồm: Miên Thẩm, Phan Lương Khê (Phan Thanh Giản), Nguyễn Phương Đình (Nguyễn Văn Siêu), cùng hai em là Quân Bác và Quân Công bình điểm.
Huệ Phố thi tập chưa được khắc in, hiện chỉ là bản chép tay. Nhưng không như Nguyệt Đình thi thảo của chị bà là Nguyễn Phúc Vĩnh Trinh đã bị thất lạc, Huệ Phố thi tập, nhờ con cháu gìn giữ trân trọng nên tập thơ vẫn còn nguyên vẹn cho đến ngày nay.
Thời còn ở trong cung và Tiêu Viên, có đầy đủ mẹ con, anh chị em, thơ của bà thường giản dị, hồn nhiên. Phần lớn mảng thơ này, theo Từ điển Văn học (bộ mới) thì “được sáng tác trong các cuộc du ngoạn bằng thuyền, bằng ngựa ra ngoài hoàng thành hoặc dạo vườn, ngắm trăng, uống rượu, thưởng hoa cùng các anh chị em. Nhiều bài tả cảnh như Mạt ly từ (Bài thơ hoa nhài), Thái liên khúc (Thơ hái sen), Chu trung nhàn vọng (Ngồi thuyền ngắm cảnh)...đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảnh, họa và tình...[3]
Xuân nhật tạp vịnh.
Vũ quá vân âm phú đậu bành (bằng)
Hiểu song trang bãi ngọc cầm hoành
Hoàng li tự giải lân xuân sắc
Cố bạng hoa gian bất tích thanh.
Tạm dịch:
Giàn đậu sau mưa mây khói lan
Song mai trang điểm dạo cung đàn.
Oanh vàng cũng biết yêu xuân sắc,
Bên khóm hoa tươi cứ hót tràn.
Nhưng không lâu sau, cả hai chị đều theo chồng và kế đến là mẹ mất (1951), con mất. Nỗi quạnh quẽ khi còn lại một mình bà, được bộc lộ thầm kín trong thơ. Từ điển Văn học (bộ mới) viết: “Tĩnh Hòa cũng đặc biệt thành công trong những bài thơ tả nỗi lòng thương nhớ các chị em, bạn thơ như bài Tuế mộ ký Uyển Sồ (Cuối năm gửi Uyển Sồ) , Thu dạ hoài Mai Am (Đêm thu nhớ Mai Am), Khốc Nhược Hương nhị thủ (Hai bài khóc Nhược Hương)... Ở những bài thơ này, tình cảm của tác giả thiết tha, nồng hậu".
Bệnh trung cảm tác (Cảm xúc làm ra khi ốm)
Hoa chiếu trì đường nguyệt chiếu môn
Xuân lai dục khứ dị tiêu hồn.
Tương phùng tha nhật vô tu thuyết
Khan thủ la sam cựu lệ ngân.
Tạm dịch:
Cửa ngõ trăng soi, ao ánh hoa.
Xuân về sắp hết chạnh lòng ta.
Gặp nhau ngày nọ xin đừng nhắc,
Nhìn vết châu hoen vạt áo là.
Thuật hoài
Thực trúc di hoa cưỡng tự khoan
Giác vô ngôn xứ thế nan nan
Thương tâm tối thị đình tiền nguyệt
Bất tự đoàn viên cựu nhật khan.
Tạm dịch:
Trồng trúc dời hoa vui gượng sao
Biết nơi chẳng nói lệ tuôn trào.
Xót thương chi xiết trăng ngoài ngõ,
Chẳng thấy tròn như tự thuở nào.
Khốc thứ nam Kính Chỉ
Thừa hoan trấp tải độc vô vi
Thái tức quang âm sự chuyển phi.
Tự hữu từ thân thủ trung tuyến
Tri tùng hà xứ thụ nhi y.
Tạm dịch:
Hai chục năm qua hiếu một lòng
Hỡi ôi! Thoáng chốc đã thành không.
Nay còn sợ chỉ trên tay mẹ,
Đâu chốn trao con chiếc áo bông.
Ngoài nỗi đau riêng, bà cũng có những bài thơ chia sẻ nỗi vất vả của dân vì thiên tai (hạn hán) và nạn nước (thực dân Pháp xâm chiếm nước Việt):
Điền gia từ (Lời nhà nông)
Lục nguyệt khổ hạn miêu bất phì
Điền gia phạn khứu thần vô xuy
Vị minh cát cao nhập điền quán
Chung nhật bất tích cân lực bì
Truyền văn biên phòng kim vị tức
Chuyển thâu nhân nhân diện bì hắc
Lão phu hà dĩ tá quan gia
Nỗ lực vân canh túc quân thực.
Tạm dịch:
Tháng sáu hạn dài lúa xác xơ,
Nhà nông buổi sớm nuốt chút cơm nguội.
Chưa sáng, mang gàu ra tưới ruộng,
Suốt ngày chẳng tiếc gân sức mệt mỏi.
Ngoài biên nghe còn binh lửa chưa tắt,
Những người đi tiếp tế mặt mày đen sạm.
Nhà nông già làm gì để giúp vua?
Lo cố cày bừa để quân lính có đử lương ăn.
Hay rất vui khi nghe tin quân Pháp bị đánh đuổi khỏi Quảng Nam:
Cung họa ngự đề Tức sự nguyên vận - Chỉ Quảng Nam lỗ thoái sự.
Nam quận thanh phong đoạn tái trần
Uất thông giai khí mãn thành xuân
Man lao tướng sĩ lâm quan ngoại
Chung kiến thiền vu độn hải tân
Vạn lý củng châu hoàn Vũ cống
Tứ dân canh tạc tự Nghiêu nhân.
Tức kim tầng kiến thăng bình hội
Tiêu cán tần phiền thánh niệm ân.
Tạm dịch:
Thành Nam gió quét bụi quang trời
Rực rỡ kinh kì xuân thắm tươi.
Quân tướng nhọc nhằn ra trước trận,
Giặc thù lủi trốn tận ngoài khơi.
Ngọc châu muôn dặm về bờ cõi,
Cày cấy toàn dân sống thảnh thơi.
Nay thấy thăng bình ngày hội lớn,
Sớm hôm lo lắng cậy ơn Người.
Đối với mảng thơ vừa trích giới thiệu trên, Từ điển Văn học (bộ mới) có lời bàn: "Tĩnh Hòa có một chùm thơ nói về người lao động: Ngư phủ tử (Ông chài), Tiều phu tử (Người kiếm củi), Điền gia tử (Người làm ruộng), Mục đồng tử (Trẻ chăn trâu)... Song ở đây, bút pháp của tác giả vẫn là trữ tình và họa cảnh chứ không phải tả thực. Bài thơ họa đề ra của vua Tự Đức về việc nghe tin quân Pháp rút khỏi Quảng Nam cũng không được sâu sắc như thơ Mai Am...[4]
Đề tựa cho Huệ phố thi tập, Tùng Thiện Vương viết:
“ Tập thơ Huệ Phố là tác phẩm của em gái cùng mẹ với tôi, Thái trưởng công chúa Tĩnh Hòa. Em ở trong cung khuê, thường đem học thức của mình dạy lại cho người khác. Lễ nhạc mùa thu, thơ văn mùa xuân, cây bút không rời tay, sách luôn đem theo bên mình. Chẳng bao lâu, nổi tiếng về Nho học, được tôn gọi là nữ sư... Công lao bỏ ra nhiều, thành đạt cũng lắm, văn chương cũng càng hay, hoàn toàn xứng đáng bậc thầy (như Đổng Trọng Thư)... Thử xem bài thơ Kí hoài mới viết gần đây…lời gọn gàng, ý lưu loát, văn trôi chảy, điệu mạnh mẽ, biết gia phong của Hữu thừa chưa dứt, giá trị cũ của Tam nương hãy còn...[5] ”
Từ điển Văn học (bộ mới) đánh giá:
“ Thơ trong Huệ Phố thi tập ít sự mà thiên về tình và cảnh... Tuy thơ Tĩnh Hòa còn thua kém chị (Mai Am). Thậm chí có bài bị phê là học thơ xưa mà "không tiêu hóa" (Xuân thủy - Nước mùa xuân) hay "ý được mà lập ngôn chưa ổn" (Điệt tế Trương Duy Phương tiến ngư nhị thủ- Cháu rể Trương Duy Phương biếu hai con cá) nhưng bên cạnh đó lại có những bài rất được khen ngợi. Và dù trong Huệ Phố thi tập chưa phải là tất cả, song tập thơ đã đánh dấu tinh thần học tập và sáng tác không mệt mỏi, không tự ái của Tĩnh Hòa để nâng cao nghệ thuật thơ, để mở rộing diện tiếp xúc với cuộc sống phong phú nhiều vẻ ở ngoài hoàng thành. Điều này là quý đối với một công chúa hay đau yếu và gặp nhiều bất hạnh trong đời riêng.[6] ”
Sách Vua Minh Mạng... có đoạn:
“ So với thơ Mai Am, thơ Huệ Phố không sâu sắc bằng, nhưng được cái giản dị, chân thật...
Nói gọn, thơ Huệ Phố cùng với hai chị là Nguyệt Đình (Vĩnh Trinh) và Mai Am (Trinh Thận), đã góp thêm cho thơ ca xứ Huế giữa thế kỷ 19 một nét thanh lệ đáng yêu. Đó là những dòng cảm xúc nhẹ nhàng hoặc sâu sắc từ hoàn cảnh sống riêng tư, những suy nghĩ mang tính thời đại về xã hội hiện thực, những day dứt, đam mê của lứa tuổi con gái trước cuộc đời cá nhân cũng như trước non sông đất nước...[7]