- Tham gia
- 11/11/2008
- Bài viết
- 9.441
Trước khi nói về việc một quốc gia vỡ nợ, hãy thử hình dung sự việc phổ biến hơn trong đời sống, đó là sự vỡ nợ của một người bình thường. Khi một người không thể thanh toán một khoản nợ đúng hạn, các chủ nợ sẽ bắt đầu gửi thư hay nhấc máy gọi đòi nợ. Nếu các chủ nợ vẫn chưa nhận được tiền, tài sản thế chấp sẽ bị thu hồi.
Hầu hết các quốc gia đều đã vỡ nợ một lần trong lịch sử, thậm chí có nước từng vỡ nợ hơn 10 lần chẳng hạn như Tây Ban Nha, nhưng Hy Lạp là quốc gia phát triển đầu tiên vỡ nợ. Vì sao Hy Lạp vỡ nợ?
Nợ công Hy Lạp – vượt quá tầm kiểm soát
Sự yếu kém trong quản lý công khiến nợ công quá cao là nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng nợ Hy Lạp
Cho đến nay, cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu đã kéo dài gần 3 năm, các nỗ lực cứu trợ cũng như các chương trình thắt lưng buộc bụng của các Chính phủ vẫn không ngừng được đưa ra nhưng tình hình thậm chí ngày càng xấu đi. Trong cuộc khủng hoảng này, Hy Lạp là cái tên được người ta nhắc đến nhiều nhất.
Hy Lạp được đặt vào tình trạng khủng hoảng nợ công kể từ cuối năm 2009, khi Chính phủ mới của nước này thừa nhận rằng Chính phủ tiền nhiệm đã công bố những số liệu kinh tế không trung thực, đặc biệt là về thâm hụt ngân sách. Thực tế thâm hụt ngân sách của nước này năm 2009 là 13,6% chứ không phải là 6,7% GDP như đã từng được báo cáo, cao hơn nhiều hạn mức thâm hụt ngân sách 3% GDP cho phép đối với các nước thành viên EU. Tình trạng tiết kiệm thấp và vay nợ nước ngoài cho chi tiêu công vẫn diễn ra mạnh mẽ trong giai đoạn 2002-2007 là một trong những nguyên nhân giúp tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế lên mức 4.2%/năm.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009 đã ảnh hưởng mạnh mẽ lên các ngành công nghiệp chủ chốt của Hy Lạp. Doanh thu ngành du lịch và vận tải biển – 2 ngành chủ chốt của nền kinh tế này, sụt giảm trên 15% vào năm 2009. Kinh tế Hy Lạp lâm vào khó khăn, các nguồn thu thuế, phí …để tài trợ cho ngân sách bị thu hẹp, trong khi Chính phủ vẫn phải tăng cường chi tiêu công để hỗ trợ nền kinh tế vượt qua khủng hoảng, đã đẩy nợ công đến con số khổng lồ.
Đến năm 2010, báo cáo của OECD cho thấy nợ công của Hy Lạp đã lên tới con số 330 tỷ Euro, tương đương với 147.8% GDP. Các chuyên gia kinh tế dự đoán dù Hy Lạp có thực hiện được kế hoạch thắt lưng buộc bụng kéo dài 3 năm, nợ của Hy Lạp đến năm 2012 vẫn tăng lên mức 172% GDP.
(Nguồn: Morgan Stanley)
Ngoài ra, do kinh tế lún sâu hơn vào suy thoái, mặc dù đã cam kết những chính sách khắc khổ nhằm giảm thâm hụt ngân sách nhưng thâm hụt ngân sách trong 8 tháng đầu năm 2011 của Hy Lạp đã lên tới 18,1 tỷ euro (24,67 tỷ USD), tăng mạnh so với 14,813 tỷ euro cùng kỳ năm ngoái. Biểu đồ dưới cho thấy mức thâm hụt ngân sách của một số quốc gia Châu Âu, trong đó Hy Lạp và Ireland là 2 nước có mức thâm hụt lớn nhất. Trong khi thâm hụt ngân sách của Ireland chủ yếu là những khoản nợ chuyển từ khu vực tư nhân sang khu vực công do chính phủ phải “ra tay” cứu hệ thống ngân hàng, thâm hụt ngân sách Hy Lạp lại chủ yếu gây ra bởi trình độ quản lý công yếu kém.
(Nguồn: Morgan Stanley)
Như vậy, Hy Lạp đang cùng lúc đối mặt với những vấn đề nan giải: nợ công quá cao (147,8%), thâm hụt ngân sách lớn (13,6% GDP năm 2010) và thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai lớn (trung bình vào khoảng 9% GDP – so với mức trung bình của toàn khu vực Eurozone là 1%). Cả hai mức thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân vãng lai của Hy Lạp đều vượt quá trần quy định cho phép của Liên minh Tiền tệ và Kinh tế châu Âu (EMU), đặc biệt vi phạm Hiệp ước Bình ổn và Tăng trưởng của Liên minh châu Âu (EU) với quy định trần thâm hụt ngân sách 3% GDP.
Việc ngụy tạo các số liệu kinh tế nhằm che dấu thực trạng đất nước đã khiến uy tín của Chính phủ Hy Lạp bị suy giảm nặng nề. Cả 3 hãng xếp hạng tín nhiệm lớn nhất thế giới hiện đều đều hạ mức tín nhiệm của Hy Lạp xuống mức gần thấp nhất trong thang điểm đánh giá tín nhiệm đồng thời cảnh báo từ sớm về nguy cơ vỡ nợ của quốc gia này là rất cao. Lợi suất trái phiếu chính phủ Hy Lạp kỳ hạn 2 năm đã tăng lên trên 60%, trong khi đó kỳ hạn 1 năm đã vượt 110%. Điều này đồng nghĩa với việc Hy Lạp gặp nhiều khó khăn trong việc huy động thêm vốn từ thị trường vốn quốc tế và chỉ có thể mong đợi các khoản cứu trợ đặc biệt từ IMF, ECB hay một số quốc gia khác.
Lợi suất TPCP Hy Lạp (1 năm)
(Nguồn: Bloomberg)
Khác với doanh nghiệp hoặc cá nhân khi vỡ nợ, thay vì rời khỏi ngành kinh doanh, quốc gia vỡ nợ phải đối mặt với nhiều lựa chọn và lựa chọn thường xuyên nhất là tái cấu trúc các khoản nợ.
Thông thường trong khoảng thời gian này, hạ giá đồng nội tệ là giải pháp phổ biến để giảm bớt áp lực nợ.
Bên cạnh đó, nhiều quốc gia còn thực hiện biện pháp "thắt lưng buộc bụng" sau khi tăng trưởng hồi phục. Trong trường hợp một quốc gia hạ giá đồng nội tệ để trả nợ dễ dàng hơn, việc định giá tiền tệ thấp hơn cũng sẽ hỗ trợ cho xuất khẩu và ngành sản xuất trong nước, qua đó giúp tái phục hồi nền kinh tế.
Người cho vay cuối cùng đôi khi cũng phải tiếp tục vay mượn thêm một lần nữa. Khác với sự phá sản của một doanh nghiệp hay một cá nhân vỡ nợ, một quốc gia vỡ nợ không đồng nghĩa với việc đã mất đi tất cả. Ít nhất, họ vẫn sở hữu những tài sản quốc gia có giá trị lớn để gán nợ hoặc bán lấy tiền trả nợ. Vì thế, xu hướng tái cấu trúc nợ trở nên phổ biến: quốc gia vỡ nợ sẽ đổi những khoản nợ cũ không trả được bằng những khoản nợ mới, nhằm giảm giá trị các khoản nợ và có thêm thời hạn để chi trả. Rốt cuộc, một quốc gia không thể đóng cửa mãi mãi.
Hy Lạp chỉ là một quốc gia nhỏ ở Châu Âu với đóng góp không nhiều vào GDP hàng năm của khu vực nhưng việc vỡ nợ của Hy Lạp lại có ảnh hưởng nặng nề chưa tính toán hết được tới nền kinh tế toàn cầu. Đây là bài học rõ ràng cho những quốc gia đang phát triển nóng theo đuổi những con số đẹp về chỉ tiêu tăng trưởng, nếu cứ tiếp tục đi vay và sử dụng tiền vay như Hy Lạp đã làm trong thập kỷ vừa qua, chắc chắn di sản có thể để lại cho tương lai sẽ là một món nợ khổng lồ.
Tồng hợp từ: https://pgbankresearch.wordpress.com/2011/09/30/khủng-hoảng-nợ-cong-hy-lạp/
Hầu hết các quốc gia đều đã vỡ nợ một lần trong lịch sử, thậm chí có nước từng vỡ nợ hơn 10 lần chẳng hạn như Tây Ban Nha, nhưng Hy Lạp là quốc gia phát triển đầu tiên vỡ nợ. Vì sao Hy Lạp vỡ nợ?
Những nguyên nhân chính khiến Hy Lạp rơi vào khủng hoảng và vỡ nợ
Nợ công Hy Lạp – vượt quá tầm kiểm soát
Sự yếu kém trong quản lý công khiến nợ công quá cao là nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng nợ Hy Lạp
Cho đến nay, cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu đã kéo dài gần 3 năm, các nỗ lực cứu trợ cũng như các chương trình thắt lưng buộc bụng của các Chính phủ vẫn không ngừng được đưa ra nhưng tình hình thậm chí ngày càng xấu đi. Trong cuộc khủng hoảng này, Hy Lạp là cái tên được người ta nhắc đến nhiều nhất.
Hy Lạp được đặt vào tình trạng khủng hoảng nợ công kể từ cuối năm 2009, khi Chính phủ mới của nước này thừa nhận rằng Chính phủ tiền nhiệm đã công bố những số liệu kinh tế không trung thực, đặc biệt là về thâm hụt ngân sách. Thực tế thâm hụt ngân sách của nước này năm 2009 là 13,6% chứ không phải là 6,7% GDP như đã từng được báo cáo, cao hơn nhiều hạn mức thâm hụt ngân sách 3% GDP cho phép đối với các nước thành viên EU. Tình trạng tiết kiệm thấp và vay nợ nước ngoài cho chi tiêu công vẫn diễn ra mạnh mẽ trong giai đoạn 2002-2007 là một trong những nguyên nhân giúp tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế lên mức 4.2%/năm.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009 đã ảnh hưởng mạnh mẽ lên các ngành công nghiệp chủ chốt của Hy Lạp. Doanh thu ngành du lịch và vận tải biển – 2 ngành chủ chốt của nền kinh tế này, sụt giảm trên 15% vào năm 2009. Kinh tế Hy Lạp lâm vào khó khăn, các nguồn thu thuế, phí …để tài trợ cho ngân sách bị thu hẹp, trong khi Chính phủ vẫn phải tăng cường chi tiêu công để hỗ trợ nền kinh tế vượt qua khủng hoảng, đã đẩy nợ công đến con số khổng lồ.
Đến năm 2010, báo cáo của OECD cho thấy nợ công của Hy Lạp đã lên tới con số 330 tỷ Euro, tương đương với 147.8% GDP. Các chuyên gia kinh tế dự đoán dù Hy Lạp có thực hiện được kế hoạch thắt lưng buộc bụng kéo dài 3 năm, nợ của Hy Lạp đến năm 2012 vẫn tăng lên mức 172% GDP.
(Nguồn: Morgan Stanley)
Ngoài ra, do kinh tế lún sâu hơn vào suy thoái, mặc dù đã cam kết những chính sách khắc khổ nhằm giảm thâm hụt ngân sách nhưng thâm hụt ngân sách trong 8 tháng đầu năm 2011 của Hy Lạp đã lên tới 18,1 tỷ euro (24,67 tỷ USD), tăng mạnh so với 14,813 tỷ euro cùng kỳ năm ngoái. Biểu đồ dưới cho thấy mức thâm hụt ngân sách của một số quốc gia Châu Âu, trong đó Hy Lạp và Ireland là 2 nước có mức thâm hụt lớn nhất. Trong khi thâm hụt ngân sách của Ireland chủ yếu là những khoản nợ chuyển từ khu vực tư nhân sang khu vực công do chính phủ phải “ra tay” cứu hệ thống ngân hàng, thâm hụt ngân sách Hy Lạp lại chủ yếu gây ra bởi trình độ quản lý công yếu kém.
(Nguồn: Morgan Stanley)
Như vậy, Hy Lạp đang cùng lúc đối mặt với những vấn đề nan giải: nợ công quá cao (147,8%), thâm hụt ngân sách lớn (13,6% GDP năm 2010) và thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai lớn (trung bình vào khoảng 9% GDP – so với mức trung bình của toàn khu vực Eurozone là 1%). Cả hai mức thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân vãng lai của Hy Lạp đều vượt quá trần quy định cho phép của Liên minh Tiền tệ và Kinh tế châu Âu (EMU), đặc biệt vi phạm Hiệp ước Bình ổn và Tăng trưởng của Liên minh châu Âu (EU) với quy định trần thâm hụt ngân sách 3% GDP.
Việc ngụy tạo các số liệu kinh tế nhằm che dấu thực trạng đất nước đã khiến uy tín của Chính phủ Hy Lạp bị suy giảm nặng nề. Cả 3 hãng xếp hạng tín nhiệm lớn nhất thế giới hiện đều đều hạ mức tín nhiệm của Hy Lạp xuống mức gần thấp nhất trong thang điểm đánh giá tín nhiệm đồng thời cảnh báo từ sớm về nguy cơ vỡ nợ của quốc gia này là rất cao. Lợi suất trái phiếu chính phủ Hy Lạp kỳ hạn 2 năm đã tăng lên trên 60%, trong khi đó kỳ hạn 1 năm đã vượt 110%. Điều này đồng nghĩa với việc Hy Lạp gặp nhiều khó khăn trong việc huy động thêm vốn từ thị trường vốn quốc tế và chỉ có thể mong đợi các khoản cứu trợ đặc biệt từ IMF, ECB hay một số quốc gia khác.
Lợi suất TPCP Hy Lạp (1 năm)
(Nguồn: Bloomberg)
Vậy điều gì sẽ xảy ra khi một quốc gia rơi vào tình trạng vỡ nợ?
Khác với doanh nghiệp hoặc cá nhân khi vỡ nợ, thay vì rời khỏi ngành kinh doanh, quốc gia vỡ nợ phải đối mặt với nhiều lựa chọn và lựa chọn thường xuyên nhất là tái cấu trúc các khoản nợ.
Thông thường trong khoảng thời gian này, hạ giá đồng nội tệ là giải pháp phổ biến để giảm bớt áp lực nợ.
Bên cạnh đó, nhiều quốc gia còn thực hiện biện pháp "thắt lưng buộc bụng" sau khi tăng trưởng hồi phục. Trong trường hợp một quốc gia hạ giá đồng nội tệ để trả nợ dễ dàng hơn, việc định giá tiền tệ thấp hơn cũng sẽ hỗ trợ cho xuất khẩu và ngành sản xuất trong nước, qua đó giúp tái phục hồi nền kinh tế.
Người cho vay cuối cùng đôi khi cũng phải tiếp tục vay mượn thêm một lần nữa. Khác với sự phá sản của một doanh nghiệp hay một cá nhân vỡ nợ, một quốc gia vỡ nợ không đồng nghĩa với việc đã mất đi tất cả. Ít nhất, họ vẫn sở hữu những tài sản quốc gia có giá trị lớn để gán nợ hoặc bán lấy tiền trả nợ. Vì thế, xu hướng tái cấu trúc nợ trở nên phổ biến: quốc gia vỡ nợ sẽ đổi những khoản nợ cũ không trả được bằng những khoản nợ mới, nhằm giảm giá trị các khoản nợ và có thêm thời hạn để chi trả. Rốt cuộc, một quốc gia không thể đóng cửa mãi mãi.
Kết
Hy Lạp chỉ là một quốc gia nhỏ ở Châu Âu với đóng góp không nhiều vào GDP hàng năm của khu vực nhưng việc vỡ nợ của Hy Lạp lại có ảnh hưởng nặng nề chưa tính toán hết được tới nền kinh tế toàn cầu. Đây là bài học rõ ràng cho những quốc gia đang phát triển nóng theo đuổi những con số đẹp về chỉ tiêu tăng trưởng, nếu cứ tiếp tục đi vay và sử dụng tiền vay như Hy Lạp đã làm trong thập kỷ vừa qua, chắc chắn di sản có thể để lại cho tương lai sẽ là một món nợ khổng lồ.
Tồng hợp từ: https://pgbankresearch.wordpress.com/2011/09/30/khủng-hoảng-nợ-cong-hy-lạp/
Hiệu chỉnh: