Hoàn Mê hành ký – Thi Định Nhu

Thời gian thấm thoắt, cô bé đã có thể nói, tuy rằng vẫn cứ ngọng nghịu, không rõ lời.


Chàng thở dài một tiếng, đáp: “Ừ”, nói rồi tìm kim chỉ, xuyên từng hạt từng hạt lại với nhau.


Thân hình nhỏ bé kia ngồi bên chân chàng, tay cứ níu lấy tay chàng. Chàng cảm thấy th.ân thể con gái nóng bừng, y phục đã ướt đẫm một mảng.


Xem ra con bé có mái tóc đen giống Hà Y, vừa thô vừa dài. Bây giờ cũng cuộn lên thành một búi sau đầu.


Nhìn tới nhìn lui, đây hình như là điểm duy nhất Tử Duyệt giống mẫu thân nó.


Chàng cười khổ.


“Không được chạy linh tinh, không được tới ven hồ, nghe chưa?”, chàng vuốt ve đầu con gái, cảm thấy chân cô bé lại bắt đầu muốn cựa quậy. Tử Duyệt đúng là chẳng thể ngồi yên một khắc.


Điểm này thì hoàn toàn giống Hà Y.


“Ưm, phụ thân, con đi trèo cây một tẹo…”


“Tìm cây thâm thấp mà trèo, nếu không bị ngã, phụ thân không đỡ nổi con”, chàng cố ý đanh mặt.


“Vâng ạ”, nói xong là chạy biến.
 
Chàng xuyên xong chuỗi hồng đậu bèn lấy kéo lách cách mấy tiếng, cắt cái móc khóa một chuỗi vòng ngọc trai trong hộp đồ trang sức, buộc vào hai đầu chuỗi hồng đậu.


Xỏ hồng đậu vội vàng, ngón tay đã bị kim đâm tứa máu.


Vừa ngẩng đầu, ánh mặt trời chói mắt khiến chàng hoa mắt.


“Tử Duyệt”, chàng đảo mắt nhìn bốn phía, không thấy bóng con, bèn gọi một tiếng.


“Con ở đây!”, tiếng cô bé vọng ra sau một bụi cỏ.


Tử Duyệt chạy lại, mặt mũi đỏ hồng, mi mày nhíu chặt, biểu hiện trên mặt rất lạ.


Chàng đeo chuỗi vòng hồng đậu cho con gái.


“Con… con bị ong vò vẽ đốt rồi…”, cô bé vốn đang cố chịu đau, cuối cùng nước mắt rơm rớm nhìn chàng.


Không cần phải nói, chàng nhìn thấy rồi. Trên trán Tử Duyệt đã sưng lên một cục to tướng.


“Để cha xem nào.”


Chàng đau lòng ôm lấy con gái, đặt ngồi lên chân mình rồi quay xe lăn vào phòng bôi thuốc cho cô bé. Tử Duyệt khóc lóc không ngừng, vừa khóc, vừa víu tay áo chàng lau nước mắt.
 
“Được rồi, sau này không vào bụi cỏ đó nữa nhé”, chàng an ủi con.


“Đau quá… hu hu… vừa đau vừa ngứa”, Tử Duyệt bắt đầu lớn giọng khóc to.


Trông cô bé đáng thương nhường ấy, trán đã sưng vống lên.


Chàng chỉ đành thoa thêm thuốc, dỗ dành rất lâu, Tử Duyệt mới từ từ cuộn mình trong lòng chàng ngủ thiếp đi.


… Không nhớ nổi đây đã là lần thứ mấy con bé bị ong đốt rồi. Tóm lại, hình như cứ được vài ngày là con bé lại bị thương, lần nào cũng khóc tới khi khản tiếng kiệt sức. Mà cứ khỏi rồi, con bé lại lập tức chạy đi nghịch ngợm những trò nguy hiểm khác.


Trẻ con hai tuổi chẳng quản nổi nữa rồi, chàng thầm thở dài một tiếng.


Thực ra, trẻ con hai tuổi đối với chàng mà nói đã rất nặng rồi, chàng phải tốn rất nhiều sức mới có thể đặt Tử Duyệt lên gi.ường một cách yên ổn.


Thời gian thừa ra, chàng phê duyệt y án một canh giờ, sau đó Phượng tẩu tới bế Tử Duyệt đi.


Thoắt cái trong viện lại yên ắng trở lại.


Ăn xong cơm trưa, chàng tới tiểu đình giữa hồ, đưa mắt ngắm nhìn cảnh sắc giữa hồ.


Mặt hồ lớn trong sáng man mác này vốn nằm giữa hai ngọn núi lớn, không biết vì sao, gần đây lúc nào chàng cũng chỉ nhìn thấy ngọn núi bên trái.
 
Con bên phải, luôn là một màu trời nước mênh mang lãng đãng lúc ẩn lúc hiện vô cùng tận.


Nghìn năm thoáng chốc, mạch núi từ huyền cổ tới nay cũng có thể trong chớp mắt biến mất trong mắt chàng.


“Hà Y, ta cũng không biết ta làm sao rồi”, chàng lẩm bẩm.


Trước mặt, bóng hình áo tím nhạt kia lại xuất hiện.


“Chàng chỉ là đang nghĩ quá nhiều thôi”, nàng cười, tay nâng chén trà.


Chàng cũng khẽ cười nhìn nàng, người kia cười vang rồi chợt mờ ảo đi. Mộ Dung Vô Phong choàng tỉnh, nhanh chóng rời khỏi tiểu đình đó.


Lúc tất tả tới nơi, trong phòng chẩn bệnh các đại phu đã tề tựu đầy đủ.


Sau khi Trần Sách bình phục vết thương, vẫn tiếp tục chủ quản y vụ ngoài cốc. Mộ Dung Vô Phong bình thường giữ Sái Tuyên lại phòng chẩn bệnh, một là bởi vì ở phòng chẩn bệnh của chàng có nhiều bệnh nhân nặng nhất, hai là vì chàng không khỏe, lại không muốn phiền người khác, trang viện của Sái Tuyên thì ở gần chỗ chàng nhất.


Chàng rửa tay, rồi ra lệnh, ba người bắt đầu kiểm tra thương thế của bệnh nhân. Lật người bệnh nhân qua lại một lúc, Vương, Sái hai người mỗi người lại chẩn ra mạch khác nhau, mọi người thảo luận một lúc, Vương Tử Kinh liền nói: “Đây là chứng thương thấp, mồ hôi chảy quá nhiều, tứ chi không động đậy được. Học trò đã thử dùng canh nhân sâm dưỡng khí nhưng không thấy có hiệu quả gì”.


Sái Tuyên nói: “Sách Nội kinh viết: ‘Sốt cao quá mức, dùng vị ngọt mát để chữa, lấy vị chua mà khống chế’, học trò cho rằng đường quy vị cay nồng, vỏ quýt vị đắng chát, bạch thược lại có tính hàn, ba loại này có thể dùng được, bổ tì, kiện phế”.


Mộ Dung Vô Phong gật đầu: “Anh nói không sai, đây rõ ràng là chứng thấp thương nên bị uất khí mà bại liệt. Đầu tiên dùng phương thuốc của anh, nếu như toàn thân bệnh nhân nóng lên, thì dùng thêm xuyên liên, sinh truật, hậu phác, quật bạch, đại hoàng. Còn như bụng trướng lên, thì dùng ngũ linh tán và nhị truật cao. Loại bệnh kéo dài này, chỉ có thể điều dưỡng như thế, không vội được, càng không được vì muốn thấy có hiệu quả mà dùng thuốc mạnh”.


Vương Tử Kinh vội đáp: “Thưa vâng”, rồi rất nhanh chóng ghi lại ý chàng, phái một đệ tử mang đơn thuốc tới phòng thuốc.
 
Mộ Dung Vô Phong nói: “Người tiếp theo là ai?”.


Sái Tuyên cười nói: “Hẳn tiên sinh quên mất rồi, vị này là bệnh nhân cuối cùng của hôm nay. Một lúc nữa học trò và Vương đại phu sẽ tới chỗ Ngô đại phu. Tiên sinh bệnh nặng mới khỏi, vẫn nên về nghỉ ngơi sớm thì tốt hơn”.


Vì không muốn chàng mệt mỏi quá độ, Sái Tuyên cố ý đem bệnh nhân chuyển hết cho Ngô Du.


“Xem ra hôm nay cũng không bận lắm”, Mộ Dung Vô Phong nói.


Sắc mặt chàng vẫn trắng tái tới đáng sợ, thêm vào đó là thân hình gầy gò cực độ. Công việc chẩn trị, đại khái chàng chỉ có thể duy trì trong một canh giờ.


Sái Tuyên đáp: “Thưa vâng, hiếm khi được thoải mái, học trò đưa tiên sinh về”.


Chàng lắc đầu: “Không cần, một lúc nữa Hà Y sẽ tới đón ta”.


Hai người kia sững người, bốn mắt nhìn nhau.


Ánh mắt Mộ Dung Vô Phong ngơ ngẩn nhưng lại có thêm một tầng ấm áp rất lâu không thấy.


Sái Tuyên lắp bắp nói: “Đã… đã như vậy, học trò đi pha… pha trà cho tiên sinh”, trong lòng buồn rầu lo lắng, giọng nói không khỏi có chút run rẩy.


“Đa tạ, ta ở đây đợi nàng, các anh cứ đi trước đi”, chàng đón lấy tách trà, uống một ngụm.


Trà vị rất nồng, có phần đắng chát. Chàng thong thả thưởng thức chợt nhận ra hai người trước mặt vẫn cứ đứng nguyên ở đấy không động đậy bèn ngẩng đầu hỏi: “Sao các anh còn chưa đi?”.


Sái Tuyên cười cười, cười tới mức càng thêm miễn cưỡng: “Học trò… học trò… chỉ lo… vạn nhất… vạn nhất… phu nhân quên thì sao?”.
 
Nàng đã bao giờ quên chưa?”, chàng từ tốn hỏi ngược một câu, tựa như vấn đề của Sái Tuyên thật quá hoang đường.


Chẳng biết làm sao, lại sợ chàng lúng túng, hai người Sái, Vương chỉ đành lui ra khỏi cửa nhưng vẫn không yên tâm, đứng xa xa ở một góc hành lang đợi xem chàng.


Một lúc sau, Vương Tử Kinh nói: “là cảm giác của tôi sai hay là…”.


Trong mắt Sái Tuyên thấy cay cay, nói: “Không sai…”.


“Vậy chúng ta nên làm thế nào?”


“Hy vọng đây chỉ là tạm thời. Có lẽ là vì tiên sinh bi thương quá độ… Trong cơn bệnh nặng, không tránh khỏi xuất hiện ảo giác.”


“Nói câu này huynh đừng có sợ, đây là lần thứ hai tôi gặp chuyện này rồi.”


“Tôi cũng thế. Lần trước, trong phòng còn có đầy học trò cơ.”


“May là lúc khám bệnh tiên sinh vẫn rất tỉnh táo…”


“Tính tình tiên sinh vốn sầu muộn kiệm lời. Nhất thời gặp việc thương tâm, trừ phu nhân ra cũng chẳng còn ai khác có thể khuyên giải. Bây giờ phu nhân đã khuất, tiên sinh… hằng ngày…”


“Rồi tiên sinh sẽ khỏe lên thôi.”


“Trà Thiết quan âm trong chén đã dần nguội lạnh. Mộ Dung Vô Phong ngồi tựa trên ghế, th.ân thể đã gần như hoàn toàn cứng đờ.


Lơ đãng nhìn bóng chiều chậm chạp ngoài rèm, chàng đợi chờ tiếng bước chân quen thuộc kia vang lên.


Đợi rèm châu được bàn tay kia vén lên kêu “đinh đang”.


Chàng đợi trọn một canh giờ, Sái Tuyên và Vương Tử Kinh cũng ở bên ngoài từng ấy thời gian.


Cuối cùng, một bóng hình lẻ loi cũng xuất hiện trên hành lang, chàng mệt mỏi, khó khăn đi ra ngoài phòng, khuôn mặt toát lên vẻ mất mát khiến người ta thấy mà tan nát cõi lòng.


Bóng chàng dần khuất phía xa, hai người chợt cảm thấy bi thương trào lên, nước mắt không kìm được cứ trào ra mãi không thôi.


Những ngày tiếp theo, bệnh tình của chàng không hề thuyên giảm.
 
Dần dần, các đại phu trong cốc cũng quen với ảo giác của chàng, không bàn tán nữa. Chàng thì lúc tỉnh tảo, lúc mơ hồ. Chỉ sợ bệnh tim chàng bộc phát, cứ khi nào chàng xuất hiện ảo giác thì mọi người đều hoặc là giả vờ không nhìn thấy, hoặc là đáp qua quýt với chàng, tuyệt đối không dám nhiều lời, càng không dám vạch trần sự thật làm tăng thêm nỗi thống khổ của chàng.


Chàng bắt đầu liều mạng vùi đầu vào công việc, lại bận rộn như xưa. Ngày nào cũng phải xem qua tất cả y án, tự mình sắp xếp và phân phối tất cả bệnh nhân.


Vào thời diểm bận bịu nhất, chàng lại chẳng quản xem th.ân thể mình có chịu nổi hay không, bất kể ngày đêm làm việc không nghỉ.


***


Mùa thu năm nọ, đột nhiên có một vị thương nhân Ba Tư tới Vân Mộng cốc, dùng thứ tiếng Hán cứng ngắc giới thiệu với các tổng quản một hộp chứa ba mươi viên thuốc đem về từ nước Cổ La xa xôi.


Tên thuốc, miễn cưỡng dịch sang Hán văn gọi là “Địch nô thống cân hoàn”.


“Trong sách dược quả thật cũng có ghi, chỉ là không biết thuốc này là hàng thật hay hàng giả”, Sái Tuyên nhìn món hàng thương nhân Ba Tư đưa tới, rồi bổ viên thuốc ra, dùng các phương pháp kiểm tra dược tính, cuối cùng gật đầu, nói với Triệu Khiêm Hòa: “Mua được đấy, chín phần mười là thuốc thật”.


Nghe nói thuốc này trị phong thấp cực kỳ hiệu nghiệm, chỉ là từ trước tới nay chưa có người nào ở trung thổ dùng qua.


Ba mươi viên thuốc nho nhỏ này, tay thương nhân người Ba Tư tên Đóa Nhan chai mặt kiên trì đòi năm vạn lượng bạc.


“Nếu như thuốc này có thể chữa được chứng bệnh hành hạ quý cốc chủ bao nhiêu năm nay, chớ nói năm vạn lượng bạc, có là một trăm vạn lượng bạc cũng đáng”, đôi mắt màu lam của Đóa Nhan lấp loáng, dùng giọng điệu kỳ dị nói.
 
Triệu Khiêm Hòa và Quách Tất Viên nói rách mép, cuối cùng cũng giảm xuống giá ba vạn lượng thành giao, lúc phấn khởi đem tin này báo cho Mộ Dung Vô Phong, chàng lại chẳng mảy may hứng thú.


Thuốc đó cứ để mãi trên cái giá đầu gi.ường chàng, trước sau chưa hề được mở ra.


Qua mấy ngày, chàng gọi người tìm một chiếc rương gỗ, đảo mắt nhìn quanh rồi bắt đầu thu thập di vật của Hà Y.


Tất cả y phục của nàng, từ trong ra ngoài, từng bộ từng bộ được xếp chỉnh tề vào trong rương. Nhưng trang giấy nàng tập viết cũng được chàng đóng thành gần mười cuốn sách to nhỏ khác nhau.


Trên chiếc lược vẫn còn vương vài sợi tóc dài của nàng, chàng cẩn thận gỡ chúng ra khỏi răng lược, cất vào trong túi gấm, sau đó dùng tấm rèm lụa thêu hình con gián gói lại hết những bộ y phục nhỏ với chiếc giày tí xíu nàng làm cho Tử Duyệt.


Khóe mắt lại hướng vào cuốn sách đầy máu trên bìa đã biến thành màu đen.


Sau khi nàng chết, cuốn sách đã được đưa đi in, bây giờ các tiệm sách lớn đều đang bày bán.


Chàng thoáng nhìn cuốn sách một cái, tròng mắt lại đột nhiên ươn ướt, liền vội vàng tìm một mảnh vải cẩn thận bọc lại, giống như những thứ đồ vật khác, đặt hết cả vào trong rương, sau đó “lách cách” một tiếng, dùng một cái khóa lớn khóa chiếc rương gỗ lại.


Chỉ có một tấm áo tím nàng thường mặc là chàng giữ lại cất ở đầu gi.ường.


Chàng vẫn giữ thói quen trước đây, đêm đến, chỉ có níu một góc tay áo Hà Y mới ngủ được.


Làm xong mọi việc, chàng thấy Phượng tẩu đã đưa Tử Duyệt tới.


“Tử Duyệt ngoan, phụ thân tháo vòng hồng đậu xuống cho con, có được không?”, cảm thấy vòng hồng đậu ấy quá bận mắt, chàng cầm một chuỗi hạt trân châu dụ con gái đổi.


Trên mặt cô bé lập tức hiện vẻ cáu giận, hai tay che chặt trước cổ, lớn tiếng: “Không được!”.


Chàng mặc kệ con, dùng sức giữ chặt lấy người Tử Duyệt, tháo bỏ móc khóa chuỗi hạt.
 
“Oa…”, Tử Duyệt khóc tới kinh thiên động địa, nước mắt tuôn như mưa: “Phụ thân xấu! Con không muốn phụ thân! Con muốn mẹ! Hu hu… con muốn mẹ!”.


Chàng thở dài một tiếng, lỏng tay ra, dịu giọng nói: “Phụ thân không xấu, con thích thì cứ đeo đi vậy”.


Tử Duyệt duỗi tay ôm lấy cổ chàng, níu chặt lấy người chàng như thạch sùng bám tường.


“Được rồi… Phượng tẩu, tẩu đưa nó tới chỗ khác chơi đi.”


“Ứ đâu! Con muốn ở cùng phụ thân cơ!”, đôi tay nhỏ trong lòng cứ bám chặt lấy chàng.


“Tử Duyệt… ngoan nào, chúng ta ra ngoài đi. Phụ thân con đang ốm đấy”, Phượng tẩu vội kéo cô bé.


Chàng lại thở dài, mắt dõi theo bóng con gái xa dần.


Mặt trời chính Ngọ chiếu trên mái tiểu đình.


Chàng tới mép nước, quăng chìa khóa của chiếc rương gỗ xuống hồ.


“Hà Y… Ta phải quên nàng”, chàng sầu muộn đăm đăm nhìn từng gợn sóng lăn tăn, “Vì Tử Duyệt, ta vẫn phải sống tiếp”.


Chiếc chìa khóa nhanh chóng chìm xuống, chớp mắt đã không thấy đâu nữa.


Nếu như ký ức cũng có thể biến mất nhanh như thế thì tốt rồi.
 
✥ Chương 15: Hái hoa đại đạo ✥




“Mộc Huyền Hư, hai mươi bảy tuổi. Vũ khí thành danh: Yến tử đang[1], giết người không thấy máu, học được hết nội công do Thiết Phong đạo trưởng của Tâm Ý môn, Long Môn phái, Võ Đang mật truyền, là đệ tử tục gia đời thứ bảy của Võ Đang. Ba năm trước do hành vi hái hoa gian ác bị bại lộ, bị đuổi khỏi Võ Đang. Từng đang đêm lẻn vào môn phái cưỡng hiếp và giết mười mấy nữ nhân. Là tên hái hoa đại đạo nổi tiếng nhất trên giang hồ, quan phủ phát lệnh truy nã treo thưởng.”




[1] Một loại phi tiêu.


“Lý Thu Dương, tuổi không rõ. Quen dùng một thanh thiết kiếm lưỡi cực hẹp. Nghe nói là đệ tử phái Hải Nam, là sát thủ đòi giá cao nhất trong võ lâm chỉ sau “Tam tinh”, rất giữ chữ tín, từ khi bắt đầu hành nghề tới nay chưa từng thất thủ. Tính tình kẻ này hung bạo hiếu sát, chỉ cần lúc giết người mà có người ngoài không may trông thấy thì cũng bị hắn giết không tha.”


Hai tờ giấy này đang nằm trong tay Đường Tầm, đọc tới đây, tay hắn không khỏi run lên, thiếu chút nữa làm tách trà trong tay trào nước ra ngoài, nói: “Nghe nói sau khi hắn giết người, thường thích nhét một chiếc khăn tay có thêu tên hắn vào miệng người chết”.


“Tính tình bọn sát thủ thường tương đối quái gở…”, Đường Tiềm từ tốn hé mở nắp chén trà, nhấp một ngụm, ngữ khí chẳng có vẻ ngạc nhiên chút nào.


“Đường Hồng, Đường Hoán hai người này đệ đương nhiên biết, không cần ta nhiều lời nữa.”


Đường Tiềm hơi chau mày, không rõ câu này rốt cuộc là muốn dẫn tới đâu: “Mấy kẻ ấy có liên quan gì tới đệ?”.


Đường Tầm vỗ vỗ vai hắn, tỏ ra cực kỳ thân thiết: “Lão đệ, phải giam hai năm, mới năm tháng ta đã thả đệ rồi, đệ cũng phải lấy công chuộc tội đi chứ?”, không đợi hắn mở miệng, Đường Tầm tiếp luôn, “Đệ phải giúp Đường môn giải quyết bốn kẻ này đi… Hai kẻ trước coi là hành hiệp, hai kẻ sau tính là thanh lý môn hộ. Với lại thanh lý môn hộ là trách nhiệm của Hình đường, đệ đi chuyến này, chẳng bằng tiện tay làm luôn một thể. Đường gia cần là cần một vị đại hiệp hành hiệp trượng nghĩa, trên giang hồ cũng có tiếng nói… Chí ít thì bọn chủ nợ gặp chúng ta cũng phải có ba phần khách khí”.


Phải nói thế này, giao tình giữa Đường Tiềm và Đường Tầm có thể tính về tít từ khi cả hai còn là trẻ sơ sinh. Đường Tầm chỉ lớn hơn Đường Tiềm có hai tháng, lúc còn nhỏ cả hai thường bị người khác nhầm là anh em sinh đôi.


Là bạn bè thân thiết từ nhỏ tới lớn thì đều sẽ gặp vấn đề như thế này: Bất kể người này tương lai thành đạt thế nào, trong đầu anh hắn vẫn vĩnh viễn mang hình tượng là một đứa nhóc vắt mũi chưa sạch, cho nên rất khó coi lời hắn là thật.
 
Ngồi trên ghế chưởng môn chưa được một năm, Đường Tầm đã bị món nợ to đùng chưa trả nổi làm cho bận rộn tới sứt đầu mẻ trán, gần như cứ cách chưa được mươi ngày nửa tháng là lại phải tiếp một vị chủ nợ. Cho dù hắn lanh lợi thông minh, khéo ăn khéo nói, nhưng đối phó với tình cảnh nợ nần chồng chất thế này, việc có thể làm được cũng không ngoài bốn chữ “giật gấu vá vai”. Chỉ đành lúc thì lấp liếm, lúc thì kêu khổ, lúc thì thề thốt hứa hẹn, lúc thì nhìn trái nhìn phải mà đánh trống lảng… Cùng đường đuối lý thì cũng phải mặt không đổi sắc, lỗ tai mài cho chai ra. Tuy giờ Đường Tầm mở miệng, nói ra mấy câu y chang Đường Lan nói mấy năm trước nhưng lời lẽ vẫn ngang ngược như lúc bình thường… Người ta có chỗ khó khăn, mười mấy năm huynh đệ ở cùng một chỗ, không tìm hắn thì tìm ai? Hắn không giúp thì ai giúp?


“Nếu như đệ không nghe nhầm, ý của huynh là muốn đệ phụng lệnh hành hiệp hả?”, Đường Tiềm khinh thường hừ một tiếng, “Thế chẳng phải rất không ổn sao?”.


“Lão đệ, rốt cuộc đệ đi hay không đi?”


“Đi”, chẳng biết làm sao, hắn đành đáp một câu.


“Hảo huynh đệ, lúc đệ về hai người bọn ta sẽ uống một trận”, vai hắn lại bị Đường Tầm vỗ cho phát nữa, “Nhớ kỹ, đánh được thì đánh, đánh không được thì chuồn, tính mạng là trên hết”.


… Còn nhớ mang máng, từ ngày đầu tiên quen với Đường Tầm, hắn đã không ngừng vỗ vai mình. Bản thân từ bé không biết đã giúp hắn đánh nhau bao nhiêu trận.


… Có lẽ đây chính là nguyên nhân bất kể Đường Tầm làm gì thì đều là hữu kinh vô hiểm.


Trong lòng hắn thầm thở dài, một lần nữa thề rằng lần sau tuyệt đối không thể dễ dàng với tay này nữa.


“Có điều.” Đường Tiềm rất không thoải mái ngồi trên chiếc thái sư kỷ cứng ngắc… người thì quá cao, ghế lại quá thấp… hại cặp chân dài của hắn chẳng biết để vào đâu, hắn tiếp tục khoan thai nhâm nhi tách trà trong tay, từ tốn nhả thêm một câu, “Chắc không phải để đệ đi một mình chứ?”.


Đường Tầm vội nói: “Đương nhiên! Có một người đệ rất thích cứ nhặng cả lên đòi đi theo đệ”.


Đường Tiềm nhướng mày, đang định mở miệng thì nghe thấy một giọng nói phấn khởi vui vẻ cất lên: “Tiềm thúc, là cháu… là cháu đấy!”.


Kế đó là tiếng bước chân phơi phới, Đường Bồng sải bước vào đại sảnh, hi hi ha ha chào hỏi hai người.


Đường Tiềm lập tức thấy đầu mình to như cái đấu, nói nhỏ với Đường Tầm: “Có thể đổi người khác không? Thằng nhóc này rất thích gây sự…”.


“Người võ công cao hơn nó không nhiều, lựa chọn khác còn có Đường Dung, Đường Tân, Đường…”


“Vậy cứ để Đường Bồng cũng được rồi”, Đường Tiềm nói.
 
“Dược các đã phối chế cho đệ một bao thuốc giải, theo điều tra thì ‘Song Hồng’ hiện đang ở Hoa gia, Sâm Châu. Những kẻ khác vẫn chưa tìm được, có điều Đường Bồng nói nó sẽ có cách…”


“Đúng đấy Tiềm thúc, việc tìm người cứ để cháu làm, chính phái tà phái cháu đều tìm được”, vừa thấy Đường Tiềm đồng ý, Đường Bồng đã mừng rỡ khoa chân múa tay, chỉ hận không thể lập tức sửa soạn hành lý.


“Theo ta đi cũng không sao nhưng phải đồng ý một điều kiện, làm xong chính sự phải về nhà ngay, không được gây chuyện thị phi.”


“Cái gì cũng nhận lời thúc hết.”


“Đúng là đứa trẻ ngoan”, Đường Tầm và Đường Tiềm đồng thanh.


Mùa đông năm Tân Mùi, mùng Hai tháng Mười hai.


Giang hồ khoái báo đăng: Đường Tiềm, Đường Bồng giết “Đường thị Song Hồng”.


Cặp huynh đệ thanh danh thối tha nhất giang hồ của Đường gia, hiệu xưng “Quỷ thủ song ma”, Đường Hồng, Đường Hoàn từ đấy biến mất.


Hạ tuần tháng ấy, trang chủ Khoái Kiếm sơn trang ở Giang Nam là Tạ Tĩnh bỏ ra mười vạn lượng bạc thuê Lý Thu Dương giết Đường Tiềm.


Bạc, cực nhiều bạc là cách duy nhất để tìm được Lý Thu Dương.


Mùng Năm tháng Hai năm Nhâm Thân, Đường Tiềm giết Lý Thu Dương tại bến Hồng Khẩu Loan.


Cả giang hồ xôn xao, khoái báo truyền khắp, sau một đêm thanh danh của Đường môn lại vang dội.


Vị Bắc đẩu của võ lâm là Tây Sơn tiên sinh vì thế đã đặc biệt gọi Đường Tiềm, Đường Bồng tới Tây Sơn Thảo đường của ông ta uống rượu, cùng mâm nghe nói còn có bốn vị lão nhân đức cao vọng trọng nhưng ít khi lộ diện trong võ lâm khác.


Đây quả thật là vinh dự hiếm có.


Lần yến hội đó, Đường Tiềm ứng đối tự nhiên, nói cười phóng khoáng, lại cực kỳ khiêm tốn và cung kính trước mặt các lão nhân kia.


“Qua nhiên không hổ là nhi tử của song đao”, Tây Sơn tiên sinh hòa nhã sai gia nhân gắp thức ăn cho Đường Tiềm, “Phụ thân ngươi khi còn trẻ cũng là khách thường xuyên ở nơi đây… chỉ tiếc sau này không hay xuất môn nữa”.


“Có lẽ là vì tiểu bối làm liên lụy người”, Đường Tiềm cười nhạt, cảm ơn người bên cạnh vừa gắp cho hắn một miếng bánh, lễ độ trả lời.


“Hiền điệt chớ nói như thế. Phụ thân ngươi trên trời có linh, thấy ngươi làm được những chuyện lớn như thế này trong lòng nhất định cũng rất tự hào”, Tây Sơn tiên sinh cười ha ha, cực kỳ ưa thích thanh niên cử chỉ ôn hòa này.


“Thế bá quá thương yêu rồi.”


“Hiền điệt sang đông một chuyến, trong võ lâm lập lức bớt đi ba tên bại hoại, thật sự không đơn giản, Thiết Phong, ông nói đúng hay không?”


“Lại còn không sao? Năm ấy ta cũng từng cùng Đường Ẩn Đao thử mấy chiếu đấy… ha ha… chỉ là ta không có phúc như hắn, có được một đứa con giỏi giang hiểu biết thế này, ài… không nói nữa”, Thiết Phong đạo trưởng vuốt chòm râu dài, thở than một tiếng.


Ông ta mặc một tấm đạo bào cũ đã giặt nhiều tới mức trắng bạc ra, diện mạo nghiêm túc, mày rậm mắt ưng, dáng vẻ vào khoảng năm mươi đổ lại, tuy là sư đệ của chưởng môn Võ Đang Tùng Phong đạo trưởng nhưng lại ít hơn ông ta tới mười tuổi. Có thể xem là một nhân vật xuất sắc nhất của Võ Đang, là người trẻ tuổi nhất thuộc lớp tiền bối, địa vị rất được tôn sùng trên giang hồ, kết giao cũng rất tốt. Chỉ là không ngờ lại dạy ra một tên đệ tử ác danh vang dội như thế, khiến ông ta mất hết thể diện. Nghe nói năm ấy ông ta từng tự chặt một ngón tay, sám hối trước tượng tổ sư, lại thề nhất định phải bắt bằng được Mộc Huyền Hư về, thanh lý môn hộ.


“Chúng tiểu bối cũng đang tìm Mộc Huyền Hư”, trông thấy ngón út tay trái của Thiết Phong quả nhiên bị cụt tận gốc, trong lòng Đường Bồng nóng lên, đột nhiên nói một câu.


“A!”, Thiết Phong đột nhiên ngẩng đầu, rõ ràng cực kỳ kinh ngạc.


“Lão bá đã là sư phụ hắn, liệu có biết hắn ở đâu không?”, Đường Bồng oang oang nói, một câu chọc đúng nỗi đau của ông ta.


Mặt Thiết Phong lập tức méo xệch đi, nghiến răng nói: “Thằng súc sinh ấy tránh ta còn không kịp, làm sao ta biết được chỗ hắn trốn? Nếu ngươi nghe ngóng được, đừng ngại nói cho ta!”.


Đường Bồng đang định nói gì đó, Đường Tiềm đã nhạt giọng cắt lời: “Bọn vãn bối cũng đang nghe ngóng, nếu có tin tức gì nhất định thông báo”.


Thiết Phong nghiêm mặt nói: “Vì thằng súc sinh ấy ta đã tái xuất giang hồ ba năm nay, tới giờ vẫn không biết được tung tích hắn. Chỉ hối hận lúc xưa lại đem hết công phu cả đời dạy cho hắn! Các ngươi trẻ tuổi, tin tức nhanh nhạy, bất kể thế nào, xin hai người nhất định phải để cho ta giải hắn về Võ Đang. Đời này kiếp này, Thiết mỗ dù có vào địa ngục cũng nhất định phải tự tay giết hắn!”.
 
Đường Tiềm cúi đầu: “Vãn bối xin nghe lời dặn dò, không dám không tuân mệnh. Chỉ là… vãn bối và Đường Bồng đều không nhận ra Mộc Huyền Hư”.


“Chỗ ta còn có hình truy nã của quan phủ, lại còn một bức họa do ta tự vẽ, thiết nghĩ cũng tốt hơn nhiều rồi”, Thiết Phong quay người rút hai tờ giấy trong hành trang ra, đưa cho Đường Bồng.


Đường Bồng mở ra xem, cười nói: “Thật không ngờ đạo trưởng còn là cao thủ đan thanh[2]. Đã có bức họa này rồi nếu bọn vãn bối vẫn không tìm được hắn vậy thì người Đường môn quá ngu ngốc rồi”.


[2] Đan là màu son đỏ, thanh là màu xanh. Đan thanh là chỉ việc vẽ vời.


“Hành tung hắn ẩn mật, lại am hiểu thuật cải trang, tìm được hắn cũng không phải chuyện dễ dàng gì. Hai vị phải vất vả nhiều rồi”, Thiết Phong nghiêm nghị nói. Nói xong lại có chút không yên tâm cho lắm mà nhìn Đường Bồng, cảm thấy thiếu niên này ăn mặc lòe loẹt, nói cười rạng rỡ, hoàn toàn là dáng vẻ tùy tiện cẩu thả, tinh nghịch xốc nổi.


… Loại người này làm việc liệu có chắc chắn không?


Ăn xong bữa tối, lại hầu tiếp năm người kia hàn huyên một chập, chú cháu hai người Đường Tiềm mới cáo từ ra về, đi trên con đường nhỏ xóm quê.


Hoàng hôn đã tận, nhà nhà khói bếp, ngoài đồng là một khoảng yên tĩnh hiếm gặp.


Đang đi, Đường Bồng đột nhiên hỏi: “Sao thúc không nói cho Thiết Phong, theo tin tức đáng tin cậy, Mộc Huyền Hư rất có khả năng đang ở một dải Thần Nông trấn?”.


Đường Tiềm khẽ cười nói: “Ngươi quên bọn ta tới đây làm gì rồi à”.


“Không quên, chúng ta đi làm đại hiệp.”


“Nếu Thiết Phong mà tìm được Mộc Huyền Hư, vậy đại hiệp bọn ta há chẳng phải là làm không được sao?”


Đường Bồng chắp tay sau lưng cười nói: “Từ bao giờ Tiềm thúc nói chuyện lại ra dáng ‘Đường môn’ rồi thế? Tên Mộc Huyền Hư ấy chẳng phải kẻ tầm thường, võ công chỉ sợ còn hơn Lý Thu Dương một bậc, thêm một người giúp chẳng phải càng tốt sao?”.


Đường Tiềm nói: “Nếu quả Mộc Huyền Hư lợi hại như lời đồn, Thiết Phong đã chẳng phải đối thủ của hắn. Nếu không ông ta há lại có thể để hắn trốn bên ngoài bao nhiêu năm như thế? Vừa rồi ta nghe lúc ông ta vận khí nói chuyện giống như một lão nhân xế chiều rồi, năm đó ắt hẳn đã bị nội thương rất nặng. Chúng ta nên giúp ông ấy sống thêm vài năm thì hơn”.


Đường Bồng vò đầu bứt tai nói: “Cháu vẫn nghĩ không ra sao Mộc Huyền Hư lại có thể trốn vào Thần Nông trấn? Nơi đó là địa bàn của Mộ Dung Vô Phong. Muốn ở đó làm loạn, Mộ Dung Vô Phong cũng không bỏ qua cho hắn”.


“Rất có thể Vân Mộng cốc hoàn toàn không biết việc này, trước nay Mộ Dung Vô Phong vẫn giữ khoảng cách với giang hồ.”


Hai người ruổi ngựa chạy tới Vân Mộng cốc, tìm một gian khách điếm trú lại. Bọn họ tìm khắp trấn trọn mười ngày trời, thậm chí không tiếc đút tiền cho Cái bang vùng này nhưng vẫn chẳng tìm thấy chút tăm hơi nào của Mộc Huyền Hư.


“Hắn quả là người thông minh. Nơi đây thuyền bè tấp nập, ngựa xe thông suốt, người bên ngoài đến cực nhiều, tới lui cũng tiện. Những kẻ chỉ lưu lại khách điếm một ngày cũng chẳng biết bao nhiêu mà lần. Bất kể là ai cũng có thể vô thanh vô tức tới đây rồi lại vô thanh vô tức rời đi. Tìm người ở đây quả thật còn khó hơn lên trời”, ngày hôm ấy, Đường Bồng nhìn đường phố chen chúc toàn người với người, cuối cùng cũng phải than phiền.


“Ta đang nghĩ, liệu có phải Mộc Huyền Hư đã trà trộn vào Vân Mộng cốc rồi không”, Đường Tiềm nói.


“Thế thì hắn phải giả vờ bệnh mới được. Từ sau khi Sở Hà Y gặp chuyện, Vân Mộng cốc đã biến thành nơi phòng bị nghiêm ngặt.”


“Giả bệnh trước mặt Mộ Dung Vô Phong cũng không dễ.”


“Hay là chúng ta tìm Ngô đại phu cùng nghĩ cách?”, Đường Bồng chớp chớp mắt, thử thăm dò, “Thúc đi qua cửa y quán của người ta không phải mười thì cũng chín lần rồi còn gì? Đã đến đây rồi mà cũng không chịu tới chào hỏi, Tiềm thúc, định lực của thúc đúng là vững vàng vô tỉ”.


“Đấy chỉ là ta chuyên tâm làm việc mà thôi”, Đường Tiềm đẩy cái đầu đang thò sang của Đường Bồng ra, nhạt giọng nói.
 
Trên đường lớn toàn là khách bộ hành vội vàng tới lui và những tiểu thương đang cao giọng chào mời.


Không khí mát lạnh, mấy cỗ xe ngựa phóng vụt qua cạnh hắn, cuốn lên một lớp bụi mù.


Phía trước đưa tới mùi son phấn rất nồng cùng với mùi dầu đánh bóng gỗ. Hắn biết mình lại đi qua Tích Dạ lâu rồi… đấy là nơi hắn lần đầu tiên cũng là lần duy nhất thật sự tiếp xúc với nữ nhân… không kìm được nhớ tới cái đêm cuồng nhiệt hoang đường ấy.


Người con gái tên gọi “Tam Canh” ấy không hề lưu lại cho hắn bất kỳ ấn tượng xấu xa nào giống như những kỹ nữ trong lời kể, mà ngược lại, nàng giống như người thiếu nữ trong đêm đầu tiên, chân thành hầu hạ, lưu lại cho hắn một phen ngọt ngào… Đương nhiên, có lẽ đối với ai nàng cũng đều như vậy. nàng không muốn lớn lên, hết lần này tới lần khác chơi trò ‘Quá gia gia’, ngày tiếp ngày đắm mình trong kh.oái lạc thuở niên thiếu.


… Có lẽ nàng khi đeo mặt nạ, khi đang nô đùa, hoặc nàng trong những câu chuyện lưu truyền hay trong tưởng tượng còn chân thực hơn nàng chân chính ngoài đời.


Dạ nữ Tam Canh, bây giờ nàng có còn đó chăng?


Hắn thừa nhân bản thân khi nghe được Mộc Huyền Hư đang trốn trong Thần Nông trấn thì cảm thấy có một sự hưng phấn khó tả. Nhưng mỗi khi đi qua Trúc Gian quán, hắn lại cảm thấy thất vọng và hoang mang. Từ ngày gặp Mộ Dung Vô Phong bên Lăng Hư động, hắn đã hiểu nỗi tuyệt vọng của Mộ Dung Vô Phong, cũng hiểu được nỗi tuyệt vọng của Ngô Du, kế đó hắn liền hiểu được nỗi tuyệt vọng của chính mình. Có điều hắn vẫn không sao ngăn được mình lúc nào cũng nghĩ tới nàng, nghĩ tới khoảng thời gian ngắn ngủi hai người ở cùng nhau. Tuy rằng từ đầu tới cuối rõ ràng hắn rất ngốc nghếch, nhưng hắn vẫn cảm thấy quãng thời gian ấy cực kỳ đẹp đẽ. Đẹp đẽ tới mức bản thân hắn cũng phải thể hiện thật tốt đẹp mới có thể sánh được với khoảng thời gian đó. Cho nên, khi hắn phải ngồi trong nhà ngục lạnh lẽo ẩm ướt quay mặt vào tường sám hối, hắn chưa từng mảy may thấy hối hận.


Đúng thế, hắn chẳng hiểu gì về nữ nhân.


Từ khi quen biết Ngô Du, hắn đột nhiên hiểu được nữ nhân vốn không hề giống như các huynh đệ hắn thường miêu tả.


Nữ nhân có thể là bất cứ hạng người nào.


Bởi thế, hắn cứ hết lần này tới lần khác đi qua cửa nhà nàng.


Chỉ là đi ngang đường.


“Bất kể con chán ghét thế giới này tới thế nào, cũng không được từ bỏ hy vọng đối với nó”, đây là lời của phụ thân hắn lúc lâm chung.


Đúng vậy, hy vọng.


Hắn trầm mặc nghĩ ngợi.


Hôm nay là ngày Hai mươi chín tháng Hai.


Hắn chợt có một loại linh cảm kỳ diệu.


“Thúc phải biết, trên giang hồ những kẻ muốn làm đại hiệp nhiều lắm, ai cũng đi rồi, người muốn bắt Mộc Huyền Hư, trừ bổ khoái của quan phủ, còn có mấy vị công tử của Thí Kiếm sơn trang nữa. Bọn họ hễ có việc gì cũng đều thích ra mặt, nghe nói đã truy bắt liền mấy tháng nhưng đều công cốc quay về”, tìm một quán nhỏ ven đường, ngồi xuống yên ổn, Đường Bồng gọi một bình rượu rồi tiếp tục nói.


Dọc đường hắn cứ nói mãi không thôi, Đường Tiềm thì lại chỉ đắm mình vào tâm sự của bản thân, gần như chẳng để vào tai câu nào.


Trong quán nhỏ mùi thịt dê nồng nồng, hắn không khỏi nhíu mày nhăn mặt.


Chỉ nghe thấy tiếng Đường Bồng hớn hở nói: “Mùi vị của quán thịt dê này e rằng đã là tuyệt nhất ở đây. Chúng ta gọi một bát canh ăn đi. Đây là rượu Băng Đường Tam Hoa, thúc nếm thử coi…”.


Hắn đang định nói gì đó thì Đường Bồng đã nhanh nhẹn bày xong bát đũa cho hắn.


Hắn đành ngậm miệng lại. Một lúc sau, thấy Đường Bồng vẫn cứ nhiệt tình bưng canh rót nước, hắn đặt chén trà xuống, nhạt giọng mở miệng: “Ngươi cứ tự mình thưởng thức đi, ta không ăn thịt dê”.


“Tiềm thúc, cho thịt dê một cơ hội đi mà…”, Đường Bồng ra sức khuyên nhủ, “Thúc phải hiểu, bát cơm canh này lão bản đã cố ý múc cho thúc rất nhiều, để thúc một lần không thể ăn hết. Trước khi đi, thúc sẽ phải cho bọn họ hai mươi xu, bảo bọn họ xào lại một lần nữa, cái này gọi là ‘Tẩu Oa’, còn nếu muốn xào khô dầu mỡ thì gọi là ‘Khứ Vĩ’. Tẩu Oa vẫn là ngon nhất đấy!”.


… Đường Bồng luôn muốn nếm thử các thứ mới lạ. Hắn mặc kệ chỉ lắc đầu, tự mình gọi một bát chân giò hun khói nấu măng, một đĩa bánh bao hoa mai, một bình rượu quả ép.


Vừa định nâng đũa, Đường Bồng đột nhiên huých huých chân hắn, thấp giọng nói: “Hắn xuất hiện rồi, ở bên trái thúc”.


Tiếng bước chân nặng nề vang lên, đi qua bàn hai người ngồi tiến sâu vào trong đại sảnh.


Tiếp đến một giọng thanh niên trầm thấp truyền tới: “Tiểu nhị, cho một bát mì thịt dê”.


… Kẻ này hiển nhiên rất nghèo, mì thịt dê năm xu một bát, là thứ rẻ tiền nhất ở đây.


Đường Bồng liếc mắt qua, chỉ thấy người đó mình cao bảy thước mặt đen gầy, râu ria tua tủa, mặc một chiếc áo bẩn tới mức gần như không thể nhận ra nổi màu sắc ban đầu nữa, đôi mắt thì ủ rũ phờ phạc.


“Ngươi khẳng định là hắn?”, Đường Tiềm thì thầm hỏi.


“Tuy hắn để râu dài, nhưng thoát sao khỏi mắt cháu. Huống chi trên mặt hắn còn có một vết sẹo, giống y chang trong bức họa. Ai da, kẻ này cũng chẳng biết đường mà cải trang một chút, bộ dạng thế này vừa nhìn đã giống như tội phạm bỏ trốn rồi”, Đường Bồng thấp giọng nói, tay đã sờ kiếm chỉ chực động thủ.


“Nơi đây là phố xá đông đúc, cẩn thận làm bị thương người vô can. Cứ nên báo một tiếng, mời hắn tới miếu thổ địa phía tây trấn đi.”


“Còn phải dùng quy củ võ lâm với hạng người này sao? Cháu sợ hắn thừa cơ chuồn mất.”


“Cho nên ngươi ở đây ra gặp hắn, ta sẽ ở bên kia đợi. Ngươi không được giao thủ với hắn, nhớ chưa?”


“Tại sao?”


“Ngươi không phải đối thủ của hắn.”


Đường Bồng tức đỏ cả mặt, muốn nói lại thôi.


Kẻ kia gọi một bát rượu lớn… dường như hắn định đem hết bạc trên người ra mua rượu… kế đó liền hết bát này tới bát khác nốc bằng hết.


Đường Bồng tới trước mặt hắn, chào hỏi: “Mộc Huyền Hư?”.


Kẻ kia say khướt, đáp: “Ta… ta không phải họ Mộc, cũng không phải tên là Mộc Huyền Hư. Ta gọi là… Vương Đại Hổ”.


“Thế à?”, Đường Bồng cười vang, đột nhiên đạp đổ chiếc ghế kẻ kia đang ngồi.


Cùng lúc ấy, kẻ kia chân trượt một cái, tựa như sắp ngã đến nơi, thân hình nghiêng nghiêng nhưng không sai không lệch vừa vặn ngồi sang một chiếc ghế khác.


“Ngươi biết ta là ai không?”, Đường Bồng hỏi.


“Ngươi và hắn đều là tới tìm ta?”, kẻ kia cười khổ, ngẩng đầu một cái, dốc hết rượu trong chén vào hòng, tay chỉ sang bàn Đường Tiềm.


“Nói như vật ngươi đã nhận mình là Mộc Huyền Hư?”


“Không sai. Các hạ là?”


“Ta là Đường Bồng, kia là Đường Tiềm.”


“Từ khi nào thằng mù cũng thích quản chuyện của người khác vậy?”


Đường Bồng một chưởng vung tới nhưng bị Mộc Huyền Hư tóm được.


Rõ ràng hắn đã uống tới say túy lúy, nhưng tay vẫn rất vững, đôi mắt bỗng tóe lên quang mang tựa như đao phong.


Đường Bồng rụt tay về, nói: “Chỗ này quá đông người, không bằng bọn ta tới miếu thổ địa phía tây trấn nói chuyện. Mộc huynh nghĩ sao?”.


Mộc Huyền Hư nhìn Đường Tiềm, dáng vẻ như đã tỉnh rượu, lạnh lùng nói: “Xem ra hình như ta không thể không đi”.


Đường Bồng nói: “Nếu ta là ngươi, tuyệt đối sẽ không chết trong quán thịt dê. Chết kiểu này sẽ khiến người ta cười thối mũi”.


Mộc Huyền Hư nói: “Ta chẳng phải là ngươi, ta cũng không để tâm mình chết thế nào”.


Đường Tiềm bước tới, nói: “Trong này còn có hai đứa trẻ”.


Mộc Huyền Hư im lặng, nhìn hai đứa bé gái đang chơi đùa ở bàn bên cạnh, rồi vắt bọc hành lý màu tro trong tay lên vai, nói: “Được, ta đi cùng các ngươi”.


Con đường này tuyệt không dài, đối với Đường Tiềm, đại khái là khoảng ba trăm bước chân.


Tâm tình hắn không tốt lắm. Trong ngày sắp thắng lợi tới nơi này, đến bản thân hắn cũng không nói rõ được là tại sao.


Hắn có một loại trực giác, thanh niên này đã đánh động hắn ở một điểm nào đó, tuy nhiên hắn hoàn toàn không nghĩ ra nguyên nhân.
 
Có lẽ là bởi giọng nói trầm và ngữ điệu lạnh lùng của hắn; có lẽ bởi những lời hắn vừa nói; có lẽ bởi hắn đã uống rất nhiều rượu, mà một kẻ đang phải lẩn trốn tứ xứ thì nhẽ ra không nên phóng túng uống rượu như thế…


Có lẽ từng ấy thứ cũng đủ nhiều rồi.


“Hắn chỉ là một tên hái hoa đại đạo không việc ác nào không làm”, hắn thầm nghĩ.


Bùn đất tháng đông cực kỳ rắn chắc. Miếu thổ địa ở trên một ngọn núi nhỏ hoang vắng.


Không biết vì sao, hắn lại nghĩ tới bùn đất. Hắn đang nghĩ, hắn sẽ chôn tên ác nhân vô ác bất tác này ở đâu.


Mỗi một cô gái bị kẻ này cưỡng hiếp đều chết rất thê thảm. Đầu tiên là bị hắn dùng một sợi dây thừng siết chết, sau đó, sợ người chưa chết hẳn, hắn còn chặt đầu họ xuống.


Nạn nhân đầu tiên là hai cô bé mới mười bốn tuổi, ở trong trấn dưới chân núi Võ Đang. Hai cô bé này là hàng xóm, đến ngày hôm sau cùng được phát hiện ra.


Từ đó về sau, gần như cứ ba tháng là lại có một người chết.


“Đối với hạng như ngươi, vốn chẳng cần nói rõ quy củ võ lâm. Có điều, ta hi vọng ngươi chết tâm phục khẩu phục. Cho nên, Đường Bồng, lùi lại mười bước”, Đường Tiềm đứng trên đỉnh núi nói.


“Chết dưới tay thiên hạ đệ nhất đao, Mộc Huyền Hư ta cũng xem như chết không uổng”, hắn mở bọc đồ, rút ra một đôi Yến tử đang, “choang” một tiếng kim loại cọ vào nhau phát ra âm thanh chỉ có ở thứ sắt thép đã qua trăm lần tôi luyện.


“Được lắm. Ta tuy là người Đường môn nhưng trước giờ không dùng ám khí, ngươi không cần lo.”


“Ta tuy xuất thân từ Võ Đang nhưng trước giờ không thích sĩ diện, ngươi cũng không cần bận tâm”, Mộc Huyền Hư đột nhiên nói một câu như vậy.


… Đường Tiềm cảm thấy lời hắn nói cũng rất thú vị. Sau đó, hắn ổn định tinh thần, muốn xua trực giác của mình đi.


“Mời”, Đường Tiềm lạnh nhạt nói.


“Mời”, Mộc Huyền Hư nói, “Ngươi xuất chiêu trước”.


Đường Tiềm sững người, có chút nổi giận, nhưng lập tức bình tĩnh lại: “Vậy không khách sáo nữa”.


Tay nhoáng một cái, ánh đao sáng loáng, bổ thẳng xuống đầu Mộc Huyền Hư.


Mỗi một kích Yến tử đang trong tay Mộc Huyền Hư đánh tới đều có tiếng gió rất rõ cho nên lúc đao thứ hai của hắn bổ tới liền đánh chiếc Yến tử đang trong tay trái Mộc Huyền Hư tóe lửa, gần như bị đánh bay khỏi tay, hai người lộn mình trong không trung, đối nhau một chưởng.


“Bình” một tiếng, nội lực ập tới, trùng trùng mãnh liệt, tay Mộc Huyền Hư thu về đẹp mắt, rồi lại đẩy về phía trước thành ra thế Thái ất nhu hóa tựa như liễu xuân đón gió.


“Bên ngoài truyền nhau rằng Mộc huynh là nhân vật kiệt xuất nhất trong hàng đệ tử đời thứ bảy của Võ Đang, học được hết chân truyền của Tâm Ý môn. Hôm nay được thấy quả nhiên không giả”, Đường Tiềm tự biết một chưởng vừa rồi tuy bản thân chưa dốc hết sức nhưng cũng chẳng chiếm được bao nhiêu lợi thế, trong lòng không khỏi có chút bội phục.


“Đường huynh nếu muốn thưởng thức kỹ hơn, sao không tới tiếp?”, Mộc Huyền Hư hít sâu một hơi, nội tức bình ổn, gân cốt trên người kêu lạo xạo.


Nội lực hắn thâm hậu, thu phóng như ý, đã có thể liệt vào hàng mười đại cao thủ trong đám thanh niên đương thời.


Chẳng trách bao nhiêu người truy sát mà vẫn không giết được hắn.


“Cũng nên đến lượt Mộc huynh thưởng thức đao pháp của ta rồi”, thân hình Đường Tiềm chợt động đã như bạch hạc xung thiên, đường rãnh đỏ trên thân đao dưới ánh dương lại càng toát ra màu đỏ sẫm. Mộc Huyền Hư lùi liền ba bước, nghiêng người nhảy chếch, một mũi đang nhanh chóng đâm tới chân trái Đường Tiềm, mũi kia xoáy tít phóng thẳng hướng Đường Tiềm, nhắm đúng đỉnh đầu hắn!


Một chiêu này gọi là “Lâm kính khán hoa”, là tuyệt chiêu thành danh năm xưa của Thiết Phong đạo nhân.


Mộc Huyền Hư đã sớm tính toán, Đường Tiềm dù có thông minh, nhiều nhất cũng chỉ có thể tránh được một trong hai chiêu.


Trên sườn núi không biết từ lúc nào đã nổi lên một tầng sương mù mỏng, trong không khí đột nhiên có hơi lạnh khiến người ta nghẹt thở.


Ánh đao trong như xuân thủy nhanh tựa sao băng.


Lúc mũi ngân đang đâm tới, tựa như sớm đã lường tới chiêu này, Đường Tiềm đột nhiên nghiêng đầu, than thể chếch đi, nhẹ nhàng hóa giải hết. Kế đó hắn cắp đao tung người, lộn mình trong không trung, hữu chưởng đánh ra, một chưởng đánh trúng ngực Mộc Huyền Hư!


Hắn dùng gần chín thành công lực, th.ân thể Mộc Huyền Hư văng lên không trung, “bình” một tiếng va vào sườn núi rồi rơi xuống, vừa vặn đúng dưới chân Đường Bồng.


Mộc Huyền Hư gắng gượng muốn đứng lên nhưng cố mấy lần cũng không sao đủ sức. Miệng thấy mằn mặn, trong ngực nội khí cuộn trào, không nhịn được”phì” một tiếng, nôn ra một ngụm máu lớn.


Đường Bồng giẫm chân lên ngực hắn, rút quyển trục trong người ra, nói: “Mộc Huyền Hư, kể từ ba năm trước ngươi đã gian sát tổng cộng mười ba cô gái. Lần gần đây nhất là ngày mùng Năm tháng Mười một năm Tân Mùi, ngươi đang đêm lẻn vào Tưởng gia trang cách đây mười dặm, gian sát quả phụ nhà họ Tưởng là Phùng thị. Những tội danh này, ngươi nhận hay không?”.


Mộc Huyền Hư lạnh lùng nói: “Tội danh ta không nhận, ngươi muốn giết thì cứ giết”.


“Phì! Chết đến nơi rồi vẫn còn giảo biện, tên súc sinh tội ác ngập đầu nhà ngươi!”, Đường Bồng thấy hắn vẫn còn chối cãi, không nhịn được lại đạp cho hắn một cước.


Đường Tiềm quát mắng: “Đường Bồng, ngươi tránh ra”, hắn quăng một thanh chủy thủ tới trước mặt Mộc Huyền Hư, lạnh nhạt nói: “Ngươi trúng một chưởng của ta, mạng đã chẳng còn bao lâu nữa. Dám làm dám chịu, đó mới là hảo hán. Bọn ta không ép ngươi, ngươi nên tự vẫn ở đây đi, thế còn được toàn thây. Nếu không để bổ đầu của quan phủ bắt được, người chỉ còn nước bị lăng trì trên đường, lại càng thê thảm hơn”.


Mộc Huyền Hư cuồng tiếu, nói: “Ta thà chết dưới đao của ngươi chứ tuyệt không tự vẫn. Tự vẫn là hành vi của bọn nhát gan sợ tội, Mộc Huyền Hư ta tuyệt đối sẽ không tự vẫn. Đường Tiềm, sao ngươi không cho ta một đao thống khoái? Đao của ngươi phải uống máu ác nhân thì mới không uổng danh nghĩa hiệp, chẳng phải sao?”.


Không biết tại sao, nghe câu này, trong lòng Đường Tiềm lại có chút không thoải mái, đành nói: “Ngươi còn muốn nói gì nữa?”.


Mộc Huyền Hư dang hai tay, nói: “Lúc này rồi, ta muốn tự biện hộ một câu được không?”.


Đường Tiềm vừa nâng đao, lại hạ xuống nói: “Ngươi nói đi”.


Mộc Huyền Hư cổ họng giật giật, hổn hển nói: “Cứ coi như tất cả nữ nhân trước đây đều là do ta giết, nhưng ả cuối cùng Tưởng cái gì gì đó thì không phải ta làm”.


Đường Tiềm sững người: “Khẩu thiệt vô bằng. Huống chi cách cô ta chết giống hệt với các cô gái trước đây, ngươi lại vừa khéo xuất hiện ở vùng này”.


Mộc Huyền Hư nói: “Ngươi nói không sai. Có điều mùng Ba tháng Mười một, ta bị người khác tập kích trọng thương, bởi thế ngày hôm sau tới đứng ta còn đứng không nổi, càng không nói tới chuyện đi giết người”.


Đường Tiềm hỏi: “Có người làm chứng không?”.


Mộc Huyền Hư nói: “Ngày hôm đó ta giả danh là Vương Đại Hổ tới Vân Mộng cốc cầu cứu chữa. Đại phu ra tay chữa trị trên người ta, bận rộn gần hết một ngày, ta còn phải lưu lại trong cốc gần mười ngày mới có thể miễn cưỡng đi đứng”.


Đường Tiềm hỏi tiếp: “Ngươi còn nhớ là ai đã chữa trị cho ngươi không?”.


Mộc Huyền Hư đáp: “Lúc ấy ta luôn hôn mê bất tỉnh, lúc tỉnh lại thì đã được chuyển tới gian phòng khác, do hai thị nữ trong cốc chăm sóc. Bọn họ nói là ta được đích thân Mộ Dung tiên sinh cứu chữa, nếu không hiện giờ ta đã là một hồn ma rồi”.


Đường Tiềm nghĩ một lát, đột nhiên điểm vào đại huyệt toàn thân Mộc Huyền Hư, nói: “Ngươi đã có chứng cứ, chúng ta sẽ đi gặp Mộ Dung Vô Phong nghe xem sự việc đúng thật là như vậy không”.


Mộc Huyền Hư nói: “Ngươi đã có lòng hoài nghi chuyện này, vậy tâm nguyện của ta đã toại rồi, ta… mệt rồi”, thương thế hắn trầm trọng, đầu lệch sang một bên ngất đi.


Đường Tiềm vác th.ân thể nặng nề ấy lên vai, bảo: “Đường Bồng, tìm xe ngựa, chúng ta tới Vân Mộng cốc”.
 
×
Quay lại
Top Bottom