- Tham gia
- 3/4/2012
- Bài viết
- 2.058
Thi cử đã xuất hiện ở VN từ gần 1.000 năm rồi, kể từ khoa thi đầu tiên năm Ất Mão 1075 đời Lý. Vậy thì ông cha mình đã tổ chức việc thi cử như thế nào? Sĩ tử học hành, ứng thí ra sao? Trường thi ngày xưa như thế nào? Việc chấm thi và công bố kết quả? Trường thi có xảy ra sự cố như bây giờ không?...
Độc giả hãy cùng chúng tôi lùi lại quá khứ để tìm hiểu về chuyện thi cử dưới thời Nguyễn, là triều đại kế thừa nền tảng khoa cử từ các thời trước và xây dựng thành hệ thống khoa cử hoàn chỉnh nhất.
TT - Chúng tôi trở lại Văn Miếu (Huế) vào một ngày cuối tháng 6, nắng hè như đổ lửa. Bên trong nhà thờ các vị học trò Khổng Tử thì râm mát hơn nên các cô cậu thí sinh vào tránh nắng để tranh thủ ôn bài.
Lều và chõng tre cho thí sinh ngồi làm bài - Ảnh tư liệu
Bên ngoài sân, một vài vị du khách đang lúi húi với những dòng chữ Nho trên hàng bia tiến sĩ. Có lẽ họ đang đi tìm dấu tích của tiền bối đã đỗ đạt dưới thời Nguyễn.
Thí sinh ngày đó học gì?
Bắt đầu là học chữ Nho với các thầy đồ (gọi là sơ học), với các sách Tam thiên tự, Tam tự kinh, Hiếu kinh, Ấu học quỳnh lâm...
Lớn lên chừng 10 tuổi bắt đầu làm quen những sách kinh điển của Nho giáo, như bộ Tứ thư (Đại Học, Luận Ngữ, Mạnh Tử, Trung Dung), lần lần đến Ngũ kinh (Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân thu), rồi Bắc sử (sử Trung Quốc), Nam sử (sử nước ta).
Ngoài ra, còn phải đọc sách của Bách gia chư tử, tức sách của các triết gia Trung Quốc thời cổ đại; học thêm Đường thi, Tống thi, các áng văn tiêu biểu trong lịch sử Trung Quốc và Việt Nam; nghiền ngẫm những bài văn sách danh tiếng qua các đời...
Đó là nội dung cơ bản của việc học. Tất thảy phải thuộc lòng, quên một chữ là phải tìm thầy để hỏi. Thử hình dung một khối lượng khổng lồ tri thức như vậy, hoàn toàn bằng chữ Hán, việc học gian nan biết chừng nào, hẳn sĩ tử phải học bằng quyết tâm sống còn mới có thể ra trường thi.
Nhưng kiến thức trên mới là phần cứng, còn làm bài thi lại là một sự vận dụng linh hoạt, đòi hỏi tài năng sáng tạo. Việc hành văn thì từ nhỏ đã tập viết, tập làm thơ. Khi đã thông làu kinh sử thì tập viết những bài văn. Khi bước chân vào kỳ hạch (khảo khóa, tức sơ khảo) ở địa phương, các thể loại kinh, văn sách, thi phú, văn tứ lục (tức các loại văn bản hành chính: chiếu, biểu...) thí sinh đã phải tường tận lắm rồi mới mong vượt được kỳ sơ khảo này.
Không quy định tuổi tác
Vì điều kiện dự thi không hạn định tuổi tác nên trẻ dưới hai mươi, già trên năm mươi đều có thể ứng thí. Cha con cùng đi thi, có trường hợp 82 tuổi vẫn còn đi thi như thí sinh Đoàn Tử Quang ở Hà Tĩnh năm 1900 (độc giả sẽ đọc thấy trong kỳ sau).
Trước kỳ thi hương tối thiểu là ba tháng phải tổ chức kỳ khảo khóa để sơ tuyển những người đủ tư cách và trình độ đi thi. Sau đó, lập danh sách trình lên trên để chuẩn bị kỳ thi hương. Người nào qua được kỳ khảo khóa này được gọi là thầy khóa (hay còn gọi là khóa sinh); chưa phải là học vị gì nhưng như thế cũng đã oai lắm rồi. Tuy nhiên, qua được kỳ khảo khóa, muốn dự thi hương phải còn xem xét một số tiêu chí ràng buộc về mặt hành chính mà ta quen gọi là “lý lịch” trong thi cử.
Quan bắc loa gọi tên thí sinh vào trường thi - Ảnh tư liệu
Rất xem trọng đạo đức thí sinh
Trước thời gian thi bốn tháng, những thí sinh muốn dự thi phải ghi danh tại lý trưởng của làng để xem xét tư cách.
Nhà Nguyễn quy định những trường hợp sau không được dự thi:
Đang chịu tang cha hoặc mẹ, hoặc đang chịu tang ông bà nội mà đương sự là người phải lo việc thờ phụng. Những người bất hiếu, bất mục (không hòa thuận với anh em), gian dâm, bạo tàn.
Thân thuộc với những người phạm tội đã bị chém, giảo (thắt cổ), đi đày, sung quân (dù những người này đã được tha về)... thì không được ứng thí. Trường hợp người thân phạm tội nhẹ hơn thì được xem xét.
Thân thuộc với giặc. Điều luật này chia làm bốn khoản quy định từ nặng đến nhẹ và mức độ thân thuộc. Nếu giặc là chánh yếu phạm, tức mang những chức tước cao nhất, không kể đã bị xét xử hay chưa, dù đã chết hay đã ra đầu thú được khoan dung, thì từ con cho đến cháu, chắt cùng những người chịu tang từ chín tháng trở lên (giả định người làm giặc chết đi) đều không được dự thi. Nếu kẻ chịu án thuộc hàng thứ phạm, chỉ mang chức tước nhỏ thì con, cháu cùng những người chịu tang trong một năm không được dự thi, kể cả khi đã ra đầu thú hoặc lập công chuộc tội được giảm miễn. Nếu là kẻ tòng phạm can tâm theo giặc nhưng không có chức tước hoặc chức tước nhỏ thì con và cháu không được dự thi. Nếu kẻ tòng phạm đã ra đầu thú, lập công chuộc tội đã được giảm án thì cháu được đi thi. Nếu là kẻ tòng phạm nhưng bị giặc ức hiếp phải theo chẳng có chức tước gì thì con không được đi thi nhưng cháu trở xuống đều được đi thi.
Người theo tả đạo (đạo Thiên Chúa) bị cấm dự thi, nhưng ra khỏi đạo thì cho dự thi. Phụ nữ bị cấm tiệt không được dự thi.
Đã vào trường thi là bình đẳng
Ngoài ra, triều đình còn quy định những người ngoại tỉnh đến trú ngụ học thi phải về thi tại quê quán, trừ những người theo cha ông đi trấn nhậm ở xa. Trong quyển thi (tức bài thi, đóng bằng giấy bổi) của mình, trang đầu tiên ngoài tên tuổi, quê quán và nơi học tập, thí sinh phải ghi rõ phần cung khai tam đại (kê khai ba đời) về ông cố, ông nội, cha: nghề nghiệp, còn sống hay đã chết.
Tất nhiên, không thể man khai, vì chính quyền sở tại đã nắm vững lý lịch của thí sinh từ khi tham dự kỳ khảo khóa. Đến khoa thi hương cuối cùng năm 1918, quy định thí sinh phải dán ảnh.
Nếu đã phạm vào những quy định trên thì chắc chắn không được dự thi, nhưng nếu đã có quyền dự thi thì tất cả thí sinh đều hoàn toàn bình đẳng, không có tầng lớp nào bị đối xử nghiệt ngã hay được ban đặc quyền đặc lợi.
Trong suốt 143 năm tồn tại, triều Nguyễn tổ chức 39 khoa thi hội, lấy đỗ 293 vị tiến sĩ, chỉ có duy nhất một người trong hoàng tộc (dòng họ nhà vua) đỗ đại khoa, đó là ông Tôn Thất Lĩnh, đỗ tiến sĩ khoa Kỷ Sửu (1889) triều Thành Thái.
Ngoài ra, trên các bia tiến sĩ chỉ thấy lác đác vài người xuất thân là ấm sinh, ấm tử (con của quan lại từ hàng tam phẩm trở lên, được học trong trường QuốcTử Giám), còn lại đại đa số là con em giới bình dân.
PHẠM ĐỨC THÀNH DŨNG (Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế)
------------------------------------------------
“...Các bậc thánh đế minh vương không ai không lấy việc nuôi nấng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, bồi đắp nguyên khí làm việc ưu tiên...”.
Đó là những dòng trong bài văn bia nổi tiếng khắc trên tấm bia tiến sĩ đầu tiên dựng tại Văn Miếu (Hà Nội) ghi tên những tiến sĩ khoa thi năm 1442 dưới triều Lê. Muốn chọn hiền tài tất phải thông qua thi cử. Triều Nguyễn cũng kế tục và phát triển quan điểm đó.
Độc giả hãy cùng chúng tôi lùi lại quá khứ để tìm hiểu về chuyện thi cử dưới thời Nguyễn, là triều đại kế thừa nền tảng khoa cử từ các thời trước và xây dựng thành hệ thống khoa cử hoàn chỉnh nhất.
TT - Chúng tôi trở lại Văn Miếu (Huế) vào một ngày cuối tháng 6, nắng hè như đổ lửa. Bên trong nhà thờ các vị học trò Khổng Tử thì râm mát hơn nên các cô cậu thí sinh vào tránh nắng để tranh thủ ôn bài.
Bên ngoài sân, một vài vị du khách đang lúi húi với những dòng chữ Nho trên hàng bia tiến sĩ. Có lẽ họ đang đi tìm dấu tích của tiền bối đã đỗ đạt dưới thời Nguyễn.
Thí sinh ngày đó học gì?
Bắt đầu là học chữ Nho với các thầy đồ (gọi là sơ học), với các sách Tam thiên tự, Tam tự kinh, Hiếu kinh, Ấu học quỳnh lâm...
Lớn lên chừng 10 tuổi bắt đầu làm quen những sách kinh điển của Nho giáo, như bộ Tứ thư (Đại Học, Luận Ngữ, Mạnh Tử, Trung Dung), lần lần đến Ngũ kinh (Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân thu), rồi Bắc sử (sử Trung Quốc), Nam sử (sử nước ta).
Ngoài ra, còn phải đọc sách của Bách gia chư tử, tức sách của các triết gia Trung Quốc thời cổ đại; học thêm Đường thi, Tống thi, các áng văn tiêu biểu trong lịch sử Trung Quốc và Việt Nam; nghiền ngẫm những bài văn sách danh tiếng qua các đời...
Đó là nội dung cơ bản của việc học. Tất thảy phải thuộc lòng, quên một chữ là phải tìm thầy để hỏi. Thử hình dung một khối lượng khổng lồ tri thức như vậy, hoàn toàn bằng chữ Hán, việc học gian nan biết chừng nào, hẳn sĩ tử phải học bằng quyết tâm sống còn mới có thể ra trường thi.
Nhưng kiến thức trên mới là phần cứng, còn làm bài thi lại là một sự vận dụng linh hoạt, đòi hỏi tài năng sáng tạo. Việc hành văn thì từ nhỏ đã tập viết, tập làm thơ. Khi đã thông làu kinh sử thì tập viết những bài văn. Khi bước chân vào kỳ hạch (khảo khóa, tức sơ khảo) ở địa phương, các thể loại kinh, văn sách, thi phú, văn tứ lục (tức các loại văn bản hành chính: chiếu, biểu...) thí sinh đã phải tường tận lắm rồi mới mong vượt được kỳ sơ khảo này.
Không quy định tuổi tác
Vì điều kiện dự thi không hạn định tuổi tác nên trẻ dưới hai mươi, già trên năm mươi đều có thể ứng thí. Cha con cùng đi thi, có trường hợp 82 tuổi vẫn còn đi thi như thí sinh Đoàn Tử Quang ở Hà Tĩnh năm 1900 (độc giả sẽ đọc thấy trong kỳ sau).
Trước kỳ thi hương tối thiểu là ba tháng phải tổ chức kỳ khảo khóa để sơ tuyển những người đủ tư cách và trình độ đi thi. Sau đó, lập danh sách trình lên trên để chuẩn bị kỳ thi hương. Người nào qua được kỳ khảo khóa này được gọi là thầy khóa (hay còn gọi là khóa sinh); chưa phải là học vị gì nhưng như thế cũng đã oai lắm rồi. Tuy nhiên, qua được kỳ khảo khóa, muốn dự thi hương phải còn xem xét một số tiêu chí ràng buộc về mặt hành chính mà ta quen gọi là “lý lịch” trong thi cử.
Rất xem trọng đạo đức thí sinh
Trước thời gian thi bốn tháng, những thí sinh muốn dự thi phải ghi danh tại lý trưởng của làng để xem xét tư cách.
Nhà Nguyễn quy định những trường hợp sau không được dự thi:
Đang chịu tang cha hoặc mẹ, hoặc đang chịu tang ông bà nội mà đương sự là người phải lo việc thờ phụng. Những người bất hiếu, bất mục (không hòa thuận với anh em), gian dâm, bạo tàn.
Thân thuộc với những người phạm tội đã bị chém, giảo (thắt cổ), đi đày, sung quân (dù những người này đã được tha về)... thì không được ứng thí. Trường hợp người thân phạm tội nhẹ hơn thì được xem xét.
Thân thuộc với giặc. Điều luật này chia làm bốn khoản quy định từ nặng đến nhẹ và mức độ thân thuộc. Nếu giặc là chánh yếu phạm, tức mang những chức tước cao nhất, không kể đã bị xét xử hay chưa, dù đã chết hay đã ra đầu thú được khoan dung, thì từ con cho đến cháu, chắt cùng những người chịu tang từ chín tháng trở lên (giả định người làm giặc chết đi) đều không được dự thi. Nếu kẻ chịu án thuộc hàng thứ phạm, chỉ mang chức tước nhỏ thì con, cháu cùng những người chịu tang trong một năm không được dự thi, kể cả khi đã ra đầu thú hoặc lập công chuộc tội được giảm miễn. Nếu là kẻ tòng phạm can tâm theo giặc nhưng không có chức tước hoặc chức tước nhỏ thì con và cháu không được dự thi. Nếu kẻ tòng phạm đã ra đầu thú, lập công chuộc tội đã được giảm án thì cháu được đi thi. Nếu là kẻ tòng phạm nhưng bị giặc ức hiếp phải theo chẳng có chức tước gì thì con không được đi thi nhưng cháu trở xuống đều được đi thi.
Người theo tả đạo (đạo Thiên Chúa) bị cấm dự thi, nhưng ra khỏi đạo thì cho dự thi. Phụ nữ bị cấm tiệt không được dự thi.
Đã vào trường thi là bình đẳng
Ngoài ra, triều đình còn quy định những người ngoại tỉnh đến trú ngụ học thi phải về thi tại quê quán, trừ những người theo cha ông đi trấn nhậm ở xa. Trong quyển thi (tức bài thi, đóng bằng giấy bổi) của mình, trang đầu tiên ngoài tên tuổi, quê quán và nơi học tập, thí sinh phải ghi rõ phần cung khai tam đại (kê khai ba đời) về ông cố, ông nội, cha: nghề nghiệp, còn sống hay đã chết.
Tất nhiên, không thể man khai, vì chính quyền sở tại đã nắm vững lý lịch của thí sinh từ khi tham dự kỳ khảo khóa. Đến khoa thi hương cuối cùng năm 1918, quy định thí sinh phải dán ảnh.
Nếu đã phạm vào những quy định trên thì chắc chắn không được dự thi, nhưng nếu đã có quyền dự thi thì tất cả thí sinh đều hoàn toàn bình đẳng, không có tầng lớp nào bị đối xử nghiệt ngã hay được ban đặc quyền đặc lợi.
Trong suốt 143 năm tồn tại, triều Nguyễn tổ chức 39 khoa thi hội, lấy đỗ 293 vị tiến sĩ, chỉ có duy nhất một người trong hoàng tộc (dòng họ nhà vua) đỗ đại khoa, đó là ông Tôn Thất Lĩnh, đỗ tiến sĩ khoa Kỷ Sửu (1889) triều Thành Thái.
Ngoài ra, trên các bia tiến sĩ chỉ thấy lác đác vài người xuất thân là ấm sinh, ấm tử (con của quan lại từ hàng tam phẩm trở lên, được học trong trường QuốcTử Giám), còn lại đại đa số là con em giới bình dân.
PHẠM ĐỨC THÀNH DŨNG (Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế)
------------------------------------------------
“...Các bậc thánh đế minh vương không ai không lấy việc nuôi nấng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, bồi đắp nguyên khí làm việc ưu tiên...”.
Đó là những dòng trong bài văn bia nổi tiếng khắc trên tấm bia tiến sĩ đầu tiên dựng tại Văn Miếu (Hà Nội) ghi tên những tiến sĩ khoa thi năm 1442 dưới triều Lê. Muốn chọn hiền tài tất phải thông qua thi cử. Triều Nguyễn cũng kế tục và phát triển quan điểm đó.