Kính Vạn Hoa (trọn bộ 54 tập) - Nguyễn Nhật Ánh (FULL)

b13a793bd0270d50ad951f84147e5b3d.jpg

Cô hải âu Kengah bị nhấn chìm trong váng dầu – thứ chất thải nguy hiểm mà những con người
xấu xa bí mật đổ ra đại dương. Với nỗ lực đầy tuyệt vọng, cô bay vào bến cảng Hamburg và rơi xuống ban công của con mèo mun, to đùng, mập ú Zorba. Trong phút cuối cuộc đời, cô sinh ra một quả trứng và con mèo mun hứa với cô sẽ thực hiện ba lời hứa chừng như không tưởng với loài mèo:
Không ăn quả trứng. Chăm sóc cho tới khi nó nở.Dạy cho con hải âu bay. Lời hứa của một con mèo cũng là trách nhiệm của toàn bộ mèo trên bến cảng, bởi vậy bè bạn của Zorba bao gồm ngài mèo Đại Tá đầy uy tín, mèo Secretario nhanh nhảu, mèo Einstein uyên bác, mèo Bốn Biển đầy kinh nghiệm đã chung sức giúp nó hoàn thành trách nhiệm. Tuy nhiên, việc chăm sóc, dạy dỗ một con hải âu đâu phải chuyện đùa, sẽ có hàng trăm rắc rối nảy sinh và cần có những kế hoạch đầy linh hoạt được bàn bạc kỹ càng…Chuyện con mèo dạy hải âu bay là kiệt tác dành cho thiếu nhi của nhà văn Chi Lê nổi tiếng Luis Sepúlveda – tác giả của cuốn Lão già mê đọc truyện tình đã bán được 18 triệu bản khắp thế giới. Tác phẩm không chỉ là một câu chuyện ấm áp, trong sáng, dễ thương về loài vật mà còn chuyển tải thông điệp về trách nhiệm với môi trường, về sự sẻ chia và yêu thương cũng như ý nghĩa của những nỗ lực – “Chỉ những kẻ dám mới có thể bay”. Cuốn sách mở đầu cho mùa hè với minh họa dễ thương, hài hước là món quà dành cho mọi trẻ em và người lớn.
-------------------

“Chúng ta đã bảo vệ con từ khoảnh khắc con mổ vỡ lớp vỏ trứng ra đời. Chúng ta đã dành cho con sự chăm sóc mà không hề nghĩ tới việc biến con thành một con mèo. Chúng ta yêu con như yêu một con hải âu. Thật dễ dàng để chấp nhận và yêu thương một kẻ nào đó giống mình, nhưng để yêu thương ai đó khác mình thực sự rất khó khăn, và con đã giúp chúng ta làm được điều đó. Con là chim hải âu, và con phải sống cuộc đời của một con hải âu. Con phải bay.”
Đó là lời của con mèo mun, to đùng, mập ú Zorba với cô nàng hải âu non bé bỏng đã được cộng đồng mèo ở bến cáng Hamburg chăm sóc và bảo vệ từ khi trứng nước. Câu chuyện thấm đẫm tình mèo và tình người này là một kiệt tác dành cho thiếu nhi của Luis Sepúlveda, một trong những nhà văn xuất sắc nhất Chi Lê hiện nay. Một câu chuyện khiến tâm hồn nở hoa, một thế giới vẹn nguyên, trong sáng và nhân hậu sâu xa, một cuốn sách như viên ngọc khó tìm, dành cho mọi trẻ em và người lớn…
“Một câu chuyện đầy cuốn hút về lòng tận tâm và tầm quan trọng của việc giữ lời hứa.”
- Publisher Weekly-
 
Cho con trai tôi Sabatían, Max và Léon
Những thủy thủ số một trong giấc mơ tôi
Cho cảng biển Hamburgs,
Bởi đó là nơi tôi từng sống
Và cho con mèo của tôi, Zorba, tất nhiên rồi

Phần I

1. Biển Bắc

“Có đàn cá trích ven cảng kìa,” hải âu trinh sát thông báo, và cả đàn chim từ ngọn Hải Đăng Cát Đỏ đón nhận tin vui với những tiếng rít sung sướng vang dài.

Chúng đã bay liền một mạch sáu tiếng, và mặc dù những con hải âu hoa tiêu đã dò thấy luồng khí nóng có thể giúp cả đàn lướt bay thoải mái trên những con sóng, chúng vẫn cần nạp lại năng lượng – và còn gì tốt hơn là một bữa cá trích tươi ngon?

Chúng đang bay trên cửa sông Elber, nơi dòng nước đổ vào biển Bắc. Từ không trung, chúng thấy những con tàu lần lượt nối đuôi nhau như đàn cá voi kiên nhẫn và kỷ luật đang chờ tới lượt mình ào ra biển lớn. Khi đã ra khơi, đám tàu sẽ xác định phương hướng rồi tỏa đi tới mọi cảng biển trên khắp hành tinh.

Kengah, cô hải âu có bộ lông màu bạc, đặc biệt thích thú quan sát mấy lá cờ của đám tàu, vì cô biết mỗi lá cờ đại diện cho một cách nói, cách gọi tên cùng một thứ bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau.

“Loài người thật là vất vả với việc đó.” Kengah có lần từng nhận xét với một chị hải âu đồng hành. “Không như hải âu bọn mình, trên khắp thế giới cũng chỉ quang quác y như nhau.”

“Cô nói đúng. Kỳ quặc nhất là đôi khi họ vẫn tìm được cách để hiểu nhau đấy,” chị bạn quàng quạc đáp lại.

Qua khỏi mép nước, quang cảnh chuyển dần sang màu lục tươi sáng. Kengah có thể nhìn thấy bãi chăn gia súc khổng lồ điểm xuyết những bầy cừu đang gặm cỏ trong vòng tay bảo vệ của đê điều và những cánh quạt trễ nải trên cối xay gió.

Theo sự hướng dẫn của hải âu hoa tiêu, đàn chim từ Hải Đăng Cát Đỏ đón lấy một luồng khí lạnh rồi lao xuống vũng cá trích. Một trăm hai mươi thân hình lao xuyên mặt nước như những mũi tên, và khi trở lại, con nào cũng có cá kẹp ngang mỏ.

Cá trích ngon tuyệt. Ngon và béo ngậy. Đó chính xác là thứ chúng cần để hồi phục năng lượng trước khi tiếp tục hành trình tới Den Helder, nơi chúng sẽ nhập cùng đàn từ quần đảo Frisian.

Theo như lịch trình, chúng sẽ tiếp tục bay tới Calais, qua eo biển Dover, và trên không vực eo biển Măng-sơ, chúng sẽ găp nhựng đàn chim bay từ vịnh Seine và vực Saint-Malo. Rồi chúng sẽ cùng nhau bay tới vùng trời vịnh Biscay.

Khi đó, sẽ có tới cả nghìn con hải âu, một đám mây bạc di chuyển nhanh nhẹn, có thể còn được nhân rộng ra với những đàn chim tới từ Belle-île-en-Mer, từ île d’Oléron, mũi Machicano, mũi Ajo và mũi Penas. Khi các đàn hải âu tuân theo luật biển và gió tập trung đầy đủ ở vịnh Biscay, Đại Hội Hải âu các vùng Baltic, Biển Bắc, và Đại Tây Dương sẽ được bắt đầu.

Đó hẳn sẽ là những ngày tươi đẹp, Kengah mơ màng khi nuốt chửng con cá trích thứ ba. Đã thành thông lệ hàng năm, chúng sẽ được lắng nghe những câu chuyện thú vị, đặc biệt là chuyện của đàn hải âu từ mũi Penas, những kẻ ngao du không biết mệt mỏi, đôi khi còn bay xa tới tận quần đảo Canary hay quần đão mũi Verde.

Đám hải âu mái như cô sẽ dành trọn sức lực cho bữa tiệc cá mòi hay mực ống, khi đám hải âu trống xây tổ trên đỉnh vách đá. Ở đó, hải âu mái sẽ đẻ trứng, ấp ủ, bảo vệ chúng khỏi hiểm nguy, và rồi sau khi chim non thay lông tơ và trổ những chiếc lông vũ đầu tiên, sẽ tới khoảnh khắc đẹp đẽ nhất trong suốt cuộc hành trình: dạy những chú hải âu con bay trên vịnh Biscay.

Kengah sục đầu xuống nước bắt con cá trích thứ tư, vì thế cô không nghe thấy tiếng quang quác báo động xé toạc cả không trung: “Cảng biển nguy hiểm! Cất cánh khẩn cấp!”

Khi Kengah nhô đầu khỏi mặt nước, cô nhận ra mình hoàn toàn trơ trọi giữa đại dương bao la.

2. Con mèo mun to đùng, mập ú

“Tao thật ghét phải để mày lại một mình,” cậu nhóc nói, ve vuốt cái lưng con mèo mun to đùng, mập ú.


Rồi cậu quay lại với việc nhét đồ đạc vào balô. Cậu chọn một băng cát-sét của The Pur, một trong những thứ đồ cậu ưa thích, nhét nó vào balô, suy nghĩ, rồi lại lấy ra. Cậu không thể nào quyết định được sẽ cất nó vào balô hay để nó lại trên bàn. Thật là khó biết cái gì nên mang theo và cái gì nên để lại khi đi nghỉ mát.


Con mèo mun béo mập đang ngồi trên bậu cửa sổ, chỗ nó rất khoái, theo dõi cậu nhóc đầy chăm chú.


“Tao đã bỏ kính bơi vào chưa ấy nhỉ? Zorba, mày có thấy cặp kính của tao đâu không? Mà không. Mày không thể biết nó là cái gì vì mày đâu có ưa nước. Mày không biết là mày đã bỏ phí cái gì đâu. Bơi lội là một trong những trò thể thao hay ho nhất đấy. Làm một miếng không?” cậu bé hỏi, nhấc hộp thức ăn Bé Mèo Măm Măm lên.
Cậu trút ra một phần ăn nhiều hơn cả mức hào phóng, và con mèo mun béo mập bắt đầu nhấm nháp thật khoan thoai để kéo dài sự sung sướng. Đúng là một bữa ngon, giòn và đậm đà vị cá!


Cậu chủ quả là tốt bụng, con mèo nghĩ, miệng đầy những mảnh vụn. Ý ta là gì ấy nhỉ, một cậu nhóc tốt bụng thôi ư? Cậu chủ phải là xịn nhất ấy chứ! Nó tự đính chính khi nuốt thức ăn. Zorba, con mèo mun to đùng, mập ú, có lý do thích đáng cho quan điểm của mình về cậu nhóc, người không chỉ chịu xuất tiền tiêu vặt thết đãi Zorba món ngon mà còn giữ cho cái thùng nơi Zorba đi vệ sinh luôn sạch sẽ. Cậu tán chuyện với nó và dạy dỗ nó những điều quan trọng.


Họ thường dành nhiều giờ ngồi ngoài ban công, ngắm cảnh giao thông rộn rịp ở cảng biển Hamburg. Rồi kế đó, cậu nhóc sẽ bắt đầu nói, kiểu như, “Mày thấy cái thuyền kia không, Zorba? Mày có biết nó từ đâu tới không? Từ Liberia đấy, một nước ở Châu Phi cực kỳ hay, do những người từng sống đời nô lệ sáng lập. Khi nào lớn, tao sẽ trở thành thuyền trưởng một tàu viễn dương lớn, rồi tao sẽ tới Liberia. Mày cũng sẽ đi cùng tao đấy, Zorba ạ. Mày sẽ là một con mèo vượt đại dương ngon lành. Tao chắc chắn đấy!”


Giống như mọi đứa trẻ sống quanh khu cảng, cậu nhóc này cũng mơ mộng được du hành tới những đất nước xa xôi. Con mèo mun to đùng, mập ú lắng nghe, gừ gừ trong cổ. Nó có thể tưởng tượng ra mình trên boong một con tàu viễn dương khổng lồ đang chạy xuyên qua những lớp sóng.


Đúng, Zorba rất yêu quý cậu nhóc và không bao giờ quên rằng nó nợ cậu mạng sống của mình. Món nợ của Zorba bắt đầu từ ngày nó bỏ cái giỏ vốn từng là mái ấm gia đình cùng với bảy anh chị em khác.
Sữa của mèo mẹ thật ngọt ngào, ấm áp, nhưng nó cũng muốn nếm thử mấy cái đầu cá mà người ở chợ hay quẳng cho lũ mèo lớn. Nó cũng không định đi ăn mảnh một mình. Không hề. Ý định của nó là sẽ quay lại giỏ và bảo với các anh chị em khác, “Bú sữa mẹ thế này là đủ lắm rồi! Mọi người không thấy mẹ gầy đi thế nào sao? Ăn miếng cá này đi, đây là thứ mà tất cả bọn mèo ở cảng đều ăn đó.”


Vài ngày trước khi Zorba rời khỏi giỏ, mèo mẹ đã rất nghiêm khắc nói với nó, “Con đã có chân cẳng và giác quan nhanh nhạy. Mấy điều đó tốt thôi, nhưng con phải biết thận trọng mỗi khi đi đâu. Mẹ không muốn con bò ra giỏ. Mai kia thôi, con người sẽ tới và quyết định số phận của con, cũng như của các anh chị em con. Mẹ đảm bảo là họ sẽ đặt cho con cái tên hay và cho con mọi đồ ăn con muốn. Con thật may mắn vì được sinh ra ở cảng, người dân cảng thường yêu thương và bảo vệ loài mèo. Điều duy nhất họ mong đợi ở chúng ta là giúp xua đuổi lũ chuột. Ồ, đúng rồi, con trai. Con thật may mắn khi làmột con mèo ở cảng, nhưng con vẫn phải cẩn thận. Chỉ có một điều ở con có thể gây ra rắc rối. Trông các anh chị em của con đi, con trai. Con thấy tất cả chúng nó đều lông xám rồi chứ? Và lông của chùng đều có vằn như da hổ. Còn con, ngược lại, khi sinh ra đã đen từ đầu tới chân, chỉ trừ túm lông trắng dưới cằm. Có những người còn tin là mèo đen mang tới điềm xấu. Vì vậy, con trai, mẹ không muốn con ra khỏi giỏ.”


Nhưng Zorba, lúc đó chỉ là một quả bóng lông bé xíu đen óng như than, cứ lén bò rakhỏi giỏ. Nó muốn ăn thử một cái đầu cá. Và nó cũng muốn biết thêm tí xíu về thế giới bên ngoài. Nó cũng chưa đi được xa. Khi líu ríu tìm tới chỗ quầy cá với cái đuôi dựng đứng run run, nó chạy ngang qua con chim to tướng đang gà gật, cái đầu ngoẹo sang một bên. Đó là một con chim cực kỳ xấu xí với cái bọng lớn lủng lẳng dưới mỏ.


Hẫng một cái, chú mèo con cảm thấy mặt đất dưới chân biến mất và còn chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra, nó đã nhận ra mình đang lộn nhào trên không. Nhớ lại một trong những lời dạy đầu tiên của mẹ, nó tìm vị trí có thể đáp xuống bằng cả bốn chân. Nhưng thay vào đó, nó thấy bên dưới con chim đang ngoác cái mỏ chờ đón. Nó rơi tọt vào cái bọng, trong đó tối thui và bốc mùi phát khiếp.


“Nhả tao ra! Nhả tao ra!” con mèo con gào lên tuyệt vọng.


“Úi… Nó biết nói,” con chim lầu bầu mà không cần mở mỏ. “Mày là cái giống gìthế?”
“Nhả tao ra không tao cào cho bây giờ,” con mèo ngao lên đe doạ.


“Tao nghĩ mày là con ếch. Mày có phải ếch không?” con chim hỏi, kẹp thật chặt cái mỏ dài.
“Ta chết ngộp trong này mất thôi, con chim ngu ngốc kia!” mèo con gào lên.
“Đúng rồi. Mày là ếch. Một con ếch đen. Kỳ quặc ghê.”


“Tao là mèo, và tao phát điên lên rồi đây. Nhả tao ra không thì mày phải ân hận đấy!” Zorba bé bỏng đe doạ, lần mò trong cái bọng tối thui để tìm chỗ cắm móng vuốt.


“Mày tưởng là tao không biết mèo với ếch khác chỗ nào hử? Mèo có lông, nhanh nhẹn và có mùi dép đi trong nhà. Mày là ếch. Có lần tao đã chén vài con ếch rồi, cũng không đến nỗi tệ. Nhưng chúng đều có màu xanh. Nói xem, mày không phải ếch độc chứ, hử?” con chim rên lên, thoáng chút lo sợ.


“Đúng! Đúng, tao là con ếch độc, và hơn nữa, tao còn mang tai hoạ đến cho mày đấy!”


“Ôi, làm thế nào bây giờ? Tao từng xực nguyên con cầu gai độc mà vẫn sống ngon lành. Làm thế nào bây giờ? Tao sẽ nuốt chửng mày hay nhè mày ra đây?” con chim phân vân. Bỗng nó đột nhiên ngừng lải nhải, bắt đầu nhảy lên nhảy xuống và vỗ cánh bồm bộp. Cuối cùng, nó cũng chịu há mỏ ra. Zorba bé nhỏ, người đầy nhớt dãi, cố ngoi đầu lên và nhảy ra ngoài. Rồi nó thấy cậu nhóc đang tóm lấy cổ con chim, lắc lấy lắc để.


“Mày mù rồi hả, con bồ nông đần độn này! Lại đây nào, mèo con. Tí nữa thì mày tiêu đời trong bụng con chim già xấu xí kia rồi.” Cậu nhóc nói rồi bế Zorba lên tay.


Và đó là khoảnh khắc bắt đầu cho tình bạn kéo dài đã năm năm nay.
Nụ hôn của cậu nhóc trên trán làm phân tán những hồi tưởng của Zorba. Nó nhìn bạn mình khoác balô lên vai, đi ra cửa, và nán ở đó vẫy chào tạm biệt nó lần nữa.

“Bọn mình sẽ không gặp nhau trong suốt bốn tuần lễ. Tao sẽ nhớ tới mày h
àng ngày, Zorba ạ tao hứa đấy.”
“Tạm biệt, Zorba!” “Tạm biệt” Hai thằng nhóc em cũng gào lên và vẫy chào rối rít.

Nó lắng nghe tiếng then cài cửa vang lên hai lần, rồi chạy tới cửa sổ nhìn xuống phố, quan sát gia đình chủ lái xe đi.

Con mèo mun béo mập hít một hơi sâu, khoan khoái. Trong suốt bốn tuần lễ, nó đàng hoàng là

chúa tể, là chủ nhân của cả căn hộ. Một người bạn của nhà chủ mỗi ngày sẽ tới mở một hộp đồ ăn mèo và dọn dẹp cái thùng vệ sinh của Zorba. Có tới những bốn tuần để nằm ườn trên ghế bành, trên gi.ường hay vọt ra ban công, leo lên mái nhà lợp ngói, nhảy vù từ đó sang mấy cành cây dẻ già, rồi trượt theo thân cây xuống sân trong, nơi nó vẫn khoái tụ tập cùng đám mèo hàng xóm. Nó sẽ chẳng thấy chán tí nào đâu. Không đời nào!

Ít nhất đó là điều mà Zorba, con mèo mun to đùng, mập ú hình dung ra, bởi nó không thể nào

biết được chuyện gì sẽ tới.
 
3. Hamburg trong tầm mắt
Kengah dang cánh bay lên, nhưng con sóng đang xô tới quá nhanh. Sức sóng nhấn chìm cô xuống nước và khi cô ngoi được lên, ánh sáng ban ngày đã tắt. Cô lắc đâu lia lịa, nhận ra mình vừa ngoi qua một lớp sóng đen đầy váng dầu suýt làm cô mù mắt.


Kengah, cô chim hải âu với bộ lông vốn màu ánh bạc, cố ngụp đầu sâu xuống nước cho tới khi
chút ánh sáng le lói xuyên qua được lớp váng dầu nặng trịch đang che phủ mắt cô.
Thứ chất lỏng dính như keo mà loài hải âu coi như tử thần màu đen của chúng giờ đây đang ép chặt đôi cánh vào mạng sườn cô. Cô cuống quýt đạp chân, hi vọng có thể bơi thật nhanh để thoát khỏi dòng nước đen đó. Toàn thân bị co rút căng cứng, nhưng cuối cùng cô cũng tới được mép lớp váng dầu và nhoài người sang vùng nước sạch. Cô chớp mắt liên hồi, cố rửa sạch bằng cách ngâm đầu thật lâu trong nước.


Nhưng khi ngước lên bầu trời, cô chỉ nhìn thấy vài cụm mây đang trôi bồng bềnh giữa mặt biển và vòm trời khổng lồ. Bạn bè của cô trong đàn Hải Đăng Cát Đỏ đã bay đi xa, rất xa rồi.


Đó là quy định. Bản thân cô đã từng nhìn thấy những con chim hải âu khác hoảng loạn trước con sóng tử thần màu đen, và dù cả đàn đều muốn quay lại cứu giúp kẻ xấu số, nhưng chúng biết rõ rằng điều đó là không thể. Chúng chẳng giúp được gì nữa cả. Bởi vậy, đàn của cô cứ thế bay, tuân thủ luật cấm chứng kiến cái chết của thành viên trong bầy.


Với đôi cánh bất động, nhanh chóng bị dính chặt vào cơ thể, hải âu dễ dàng trở thành mồi cho cá lớn. Hoặc chúng phải chờ đợi cái chết từ từ, bị bóp ngạt bởi dầu thấm dần qua lớp lông vũ, bịt kín lỗ chân lông.
Kết cục nghiệt ngã của số phận đang chờ đợi Kengah. Cô chỉ ước sao có một bộ hàm lớn của con cá khổng lồ nào đó nhanh chóng nuốt chửng lấy mình.


Bọn nhơ bẩn! Khi chờ đợi màn kết của cuộc đời mình, Kengah nguyền rủa tất cả loài người.
“Nhưng không phải tất cả họ. Công bằng là thế,” cô thì thào yếu ớt.


Từ trên trời cao, cô vẫn quan sát các con tàu chở dầu lớn thường lợi dụng những n

gày có sương
mù dọc bờ biển, chạy hơi nước ra xa khỏi đất liền để thau rửa các thùng dầu. Người ta trút xuống biển hàng nghìn lít thứ chất lỏng sền sệt, hôi hám đó rồi nhờ những con sóng đánh dạt ra xa. Nhưng cô cũng từng nhìn thấy mấy tàu nhỏ đi áp sát đám tàu chở dầu để ngăn chúng xả bừa bãi. Đáng tiếc thay, những con tàu được phủ lên lớp sơn bảy sắc câu vồng đó thường không tới kịp để bảo vệ biển khỏi bị ô nhiễm.


Kengah trải qua những giờ phút dài nhất trong cuộc đời khi bập bềnh trên sóng, kinh hoàng tự hỏi phải chăng cô đang chờ đợi cái chết đáng sợ nhất trên đời. Kinh khủng hơn chuyện bị một con cá ăn thịt, kinh khủng hơn chuyện thể xác đớn đau vì nghẹt thở, đó là chết đói.


Tuyệt vọng với ý nghĩ về cái chết mòn mỏi dó, cô cựa quậy và sửng sốt nhận ra lớp dầu không
dính đét đôi cánh vào thân mình. Cánh cô phủ đầy thứ chất đặc quánh đen sì, nhưng chí ít cô vẫn có thể dang chúng ra.
“Mình có thể vẫn còn chút cơ hội để thoát khỏi cảnh này, và biết đâu, có thể nếu mình bay cao,
thật cao, mặt trời sẽ nung chảy lớp dầu,” Kengah thốt lên bi thảm.


Cô nhớ lại câu chuyện của bác hải âu già từ quần đảo Frisian về một con người tên là Icarus. Để thực hiện giấc mơ được bay liệng trên bầu trời, anh làm cho mình một đôi cánh từ lông vũ đại bàng. Và rồi anh ta cũng bay được thật... bay cao, cao tận sát mặt trời, tới mức hơi nóng hun chảy lớp sáp anh dùng để kết dính những sợi lông, thế là anh rơi tuột xuống mặt đất.


Kengah đập cánh thật mạnh, quắp chân ra sau, lao lên cao được một thước trên mặt sóng, rồi lại rơi cắm đầu xuống nước. Trước khi cố thêm lần nữa, cô lặn xuống nước rồi di chuyển cánh từ sau ra trước. Lần này, cô đã bay cao được hơn ba thước trước khi rơi xuống.


Thứ dầu đáng nguyền rủa đã ken chặt phần lông đuôi khiến cô không thể nào điều khiển được


hướng bay lên của mình. Cô lặn xuống lần nữa và cố rỉa cho hết thứ chất đặc quánh dính chặt lấy đuôi mình. Cô cố chịu đựng đau đớn mỗi khi không may rứt phải một chiếc lông vũ, cho tới lúc cảm thấy vừa lòng rằng bộ phận điều chỉnh hướng của mình đã được giải phóng chút ít.

Tới lần nỗ lực thứ năm, Kengah đã thành công: cô bay lên được.


Cô đập cánh điên cuồng, nhưng sức nặng của lớp dầu khiến cô không thể lướt bay được nữa. Chỉ một phút ngơi nghỉ, cô đã lộn nhào xuống dưới. May thay, cô vẫn còn trẻ, cơ bắp vẫn phản ứng ổn thoả được ngay.
Cô bay lên cao hơn nữa. Vỗ cánh, vỗ cánh không ngừng, cô nhìn xuống và mơ hồ nhận ra đường viền trắng mờ của bờ biển. Cô cũng nhìn thấy vài ba con tàu đang di chuyển như những vật thể nhỏ xíu trên lớp áo xanh đại dương. Cô bay lên cao, nhưng niềm hy vọng vào sức nóng mặt trời đã không thành.


Có thể nhiệt độ của những tia nắng quá yếu ớt, hay tại lớp dầu trên th.ân thể cô quá dày. Kengah biết rằng sức cô không thể duy trì thêm được nữa, bởi vậy, cô bay vào đất liền, cố tìm một nơi để hạ cánh, dọc theo lằn xanh ngoằn ngoèo của dòng Elbe. Những cú đập cánh càng lúc càng trở nên nặng nề, cô đuối sức. Cô bay mỗi lúc một thấp hơn. Trong nỗ lực tuyệt vọng để bay cao lên chút nữa, cô nhắm chặt mắt và đập cánh với chút sức lực còn lại. Cô không biết mình đã nhắm mắt bao lâu, nhưng khi mở ra, cô thấy mình đang bay trên một toà tháp cao có phong hướng tiêu nạm vàng trên đỉnh.


“Nhà thờ Thánh Michael!” cô rền rĩ khi nhận ra toà tháp nhà thờ Hamburg.
Đôi cánh không thể vỗ thêm một lần nào nữa.


4. Kết thúc chuyến bay


Con mèo mun to đùng, mập ú đang sưởi nắng ở ban công, rên gừ gừ, yên ổn tận hưởng cảm giác sung sướng được nằm ườn ra đấy, phơi bụng, khoan khoái trong ánh mặt trời ấm áp, bốn bàn chân nó thu lại và cái đuôi duỗi dài.
Đúng vào khoảnh khắc nó đang lật người lại để phơi lưng ra dưới nắng, nó chợt nghe thấy tiếng vù vù từ một vật thể bay mà nó không thể xác định được, một cái gì đó đang lao tới với tốc độ kinh khiếp.

Báo động! Nó nhảy dựng lên, bốn chân lấy đà, sẵn sàng nhảy sang một bên để né cô chim hải âu đang rơi thẳng xuống ban công.

Đó là một nàng chim hết sức dơ bẩn. Toàn thân cô bám đầy thứ chất đen sì, hôi rình.
Zorba nhích tới khi cô hải âu lẩy bẩy cố đứng lên, kéo lê theo đôi cánh: “Đáp cánh cũng không
được duyên dáng lắm nhỉ,” nó bảo.


“Tôi xin lỗi. Tôi không làm sao khác được,” cô chim áy náy nói.
“Mièo ơi! Cô em trông kinh quá! Cái thứ gớm ghiếc gì bám đầy người cô em thế kia! Mà cô em bốc mùi ghê quá đi thôi!” con mèo hít hít.


“Tôi bị đắm trong váng dầu. Tử thần nơi biển cả. Tôi sắp chết rồi!” cô hải âu rên lên ai oán.
“Chết? Nói tầm bậy tầm bạ! Cô em mệt và bẩn một tí. Thế thôi. Sao cô em không bay sang chỗ
vườn thú ấy? Cũng chẳng xa đây lắm đâu, ở đó các bác sĩ thú ý có thể chăm sóc cho cô em,” Zorba nói.
“Tôi không thể. Đây là chuyến bay cuối cùng rồi,” cô chim thì thào gần như không thành tiếng,
rồi nhắm mắt lại.


“Đừng có chết ở đây. Nghỉ ngơi một tí đi, cô sẽ thấy khá lên thôi. Cô đói không? Tôi sẽ mang
cho cô chút thức ăn của tôi, làm ơn đừng chết,” Zorba van xin, bò sát lại cô hải âu đã lịm đi.
Vượt qua cảm giác ghê tởm, con mèo liếm lên đầu cô hải âu. Thứ chất màu đen bám lên cô có vị khủng khiếp y như mùi. Khi đầu lưỡi nó lướt trên cổ cô chim, con mèo có thể nhận thấy hơi thở cô chim đang càng lúc càng yếu ớt.


“Nghe này, cô bạn nhỏ. Tôi muốn giúp cô, nhưng tôi chẳng biết làm thế nào cả. Cố nghỉ ngơi đi, trong lúc tôi chạy đi tìm cách nào cứu một con hải âu ốm,” Zorba nói vọng lại, lấy đà nhảy lên trên nóc nhà.
Khi nó đang chuyển hướng nhảy sang phía cây dẻ, nó nghe thấy tiếng cô chim gọi nó quay lại.
“Cô muốn tôi cho cô một chúc thức ăn à?” nó hỏi hơi vững dạ.


“Tôi sắp sinh một quả trứng. Với tất cả sức lực còn lại, tôi sẽ sinh một quả trứng. Bạn mèo tốt


của tôi, ai cũng có thể thấy anh là một con vật rất tử tế có tấm lòng nhân ái cao quý. Bởi vậy, tôi muốn anh hứa với tôi ba điều. Anh hứa với tôi được không?” Kengah nói, cố gắng chậm chạp đứng lên, nhưng vô ích.


Zorba nghĩ cô chim khốn khổ này đang bị mê sảng rồi, và vì cô đang rơi vào tình trạng đáng thương tới mức ấy, nó không còn lựa chọn nào khác ngoài cách tỏ ra rộng lượng. “Tôi hứa là tôi sẽ làm những gì cô muốn. Nhưng bây giờ, cô cứ nghỉ ngơi cái đã,” nó nói đầy thương cảm.


“Tôi không còn thời gian nữa rồi. Hãy hứa với tôi anh sẽ không ăn quả trứng!” Kengah mở mắt, thều thào.
“Tôi xin hứa rằng tôi sẽ không ăn quả trứng!” Zorba lặp lại câu nói.


“Hứa với tôi anh sẽ chăm lo cho quả trứng đến khi con chim non ra đời,” cô nói, rướn cổ cao lên một chút.
“Tôi xin hứa rằng tôi sẽ chăm lo cho quả trứng đến khi con chim non ra đời.”


“Và hãy hứa với tôi anh sẽ dạy nó bay,” Kengah hổn hển nói, nhìn thẳng vào mắt con mèo.


Đến lúc này thì Zorba biết cô chim tội nghiệp không chỉ mê sảng, cô ta khùng hoàn toàn rồi.
“Tôi hứa là sẽ dạy nó bay. Và giờ thì cô nghỉ ngơi đi, tôi đi kiếm người giúp,” Zorba bảo cô,
nhảy phốc một cái lên mái nhà lợp ngói.


Kengah nhìn lên bầu trời, tạ ơn những làn gió tốt lành đã nâng cánh cô trong suốt cuộc đời, và cô trút hơi thở cuối cùng, một quả trứng lốm đốm xanh lăn ra từ cơ thể đẫm dầu của cô.
 
5. Kiếm tìm lời khuyên
Zorba phi như tên bắn xuống khỏi cây dẻ, chạy một mạch qua sân trong để tránh mấy con chó đi rông, rời khỏi ngôi nhà, ngó chừng kỹ càng xem có chiếc xe ô tô nào đi qua không rồi mới băng sang đường, thẳng tới Cuneo, một nhà hàng Ý trên bến cảng.
Hai con mèo hoang đang ngửi ngửi thùng rác thấy nó chạy hối hả ngang qua.
“Ê, cu! Mày có thấy cái tao vừa thấy không? Rời mắt khỏi miếng bánh mì nuột nà đó coi nào,” một con nheo nhéo nói.
“Đây đây. Sao mà đen quá thế. Nó làm mày nhớ đến viên mỡ lợn hả? Ối không, trông giống cục nhựa đường hơn. Chạy đi đâu đấy, nhựa đường?” con đầu tiên cất tiếng.
Dù rất lo lắng cho cô hải âu, nhưng Zorba không thể bỏ qua cơ hội ra oai với hai con mèo đầu đường xó chợ này. Vì thế, nó tạm ngưng công cuộc chạy, rồi với bộ lông xù ra, dựng đứng ở hai bên mạng sườn, nó nhảy phắt lên nắp cái xô rác.
Rất chậm rãi, nó chĩa bàn chân trước ra, xoè tưng cái vuốt vừa cong vừa dài như kim khâu thảm, dí sát vào mặt con mèo mà nó cho rằng mình có thể át vía được. “Thích chơi không? Ờ, tao còn chín cái vuốt ngon hơn nữa kia. Mày có thích nếm vài cú cào ở miếng sườn vàng khè của mày không?” nó hỏi bằng giọng thách thức.
Nhìn cái vuốt đang dứ ngay trước mắt, con mèo kia lập cập mãi rồi mới cất nên lời: “Em đâu dám, đại ca. Đẹp trời quá nhỉ? Đại ca có thấy thế không?” Mắt con mèo hoang cứ trân trối nhìn vào cái vuốt.
“Còn mày? Mày định lèm bèm gì?” Zorba hất mặt sang con mèo thứ hai.
“Hơ, em cũng nghĩ hôm nay tốt trời ạ. Rất tốt để đi dạo ạ, à, có thể hơi lạnh một tí ạ.”
Giải quyết xong vụ vặt vãnh đó, Zorba lại hối hả chạy tới nhà hàng, nơi những người phục vụ đang chuẩn bị bàn cho khách ăn trưa. Nó dừng lại ở cửa, meo lên ba tiếng, và ngồi xuống đợi. Vài phút sau, Secretario - một con mèo nhập cư gốc Ý gầy gò bước ra. Râu ria nó gần như trụi cả, chỉ còn hai sợi lông dài ở hai bên cánh mũi.
“Scusi, chúng tôi xin rứt xin lỗi, nhưng nếu quý khách chưa đặt bàn, chúng tôi xin lỗi không thể phục vụ được. Quán đã rất đông rồi,” Secretario nói bằng giọng Ý lơ lớ. Nó còn định nói thêm vài từ, nhưng Zorba đã cắt ngang.
“Tôi muốn nói chuyện với ngài Đại Tá một tí. Chuyện khẩn cấp!”
“Khẩn cấp! Lúc nào mà chã có gã nào đó với ba cái chiện cấp tốc vào giờ chót. Để tôi coi có làm được gì không, nhưng chỉ là vì nó rứt khẩn cấp đấy nhá,” Secretario ngoao lên, rồi lui vào trong nhà hàng.
Tuổi tác của ngài Đại Tá là một điều bí mật. Có kẻ nói ngài đã nhiều tuổi như cái quán ăn mà ngài gọi là nhà này, một số khác khăng khăng thậm chí ngài còn già hơn. Nhưng tuổi tác không là vấn đề, bởi lẽ tất cả mọi người đều nhớ rằng từ hồi còn trẻ, ngài đã lừng danh với tên gọi Đại Tá Bóng Đêm, và rằng ngài có được biệt tài kỳ lạ trong việc đưa ra lời khuyên cho lũ mèo gặp rắc rối. Cho dù ngài chưa từng hòa giải được vụ ẩu đả nào, nhưng chỉ riêng lời khuyên của ngài thôi đã làm dịu bớt tình hình rồi.
Với tuổi tác và tài năng đó của mình, ngài Đại Tá là một trong những con mèo lãnh đạo có uy quyền nhất ở cảng. Secretario đủng đỉnh quay lại.
“Theo tôi. Ngài Đại Tố sẽ gặp anh, thật chã giống bình thường…,” nó bảo.
__________________________________________________ ____________________

Scusi: tiếng Ý, nghĩa là “Xin lỗi”

Zorba đi theo nó. Lách qua những chân bàn chân ghế, chúng đi thằng về phía cánh cửa hầm rượu. Chúng nhảy xuống bậc của cái cầu thang hẹp và ở dưới đáy hầm là ngài Đại Tá, đuôi như cái cột cờ, đang kiểm tra nút bấc của mấy chai sâm banh.
“Porca miseria! Bọn chuột đã nhằn hết nút mấy chai ngon nhất trong nhà rồi. Ô Zorba! Caro Amico!” Đại Tá cất lời chào người bạn thân của ngài. Cũng giống như Secretario, ngài Đại Tá khoái khoe khoang một chút nguồn gốc Ý của mình.
“Mong ngài tha thứ cho tội quấy rầy khi ngài đang bận bịu, nhưng tôi gặp một chuyện nghiêm trọng lắm và cần lời khuyên của ngài” Zorba phân trần.
“Ta luôn sẵn sàng phục vụ, caro amico. Secretario! Đãi mio amico3
đây một chút lasagna al forno mà họ cho chúng ta sáng nay,” ngài Đại Tá ra lệnh.
“Nhưng hít rồi. Mà tôi mới khịt mũi một cái không hơn đấy,” Secretario làu bàu.
Zorba cảm ơn, và nói dù sao mình cũng chưa đói. Nó vội vàng kể về sự xuất hiện kịch tính, tình trạng đáng thương của cô hải âu cùng những lời hứa mà nó buộc phải nói với cô. Con mèo già yên lặng lắng nghe, rồi nó vừa ngẫm nghĩ về vấn đề vừa giật giật sợi ria dài. Cuối cùng nó ngao lên, “Porca miseria! Chúng ta phải giúp cô nàng hải âu đáng thương kia có thể bay trở lại.”
“Đúng,” Zorba gật đầu. “Nhưng bằng cách nào?”
“Sao chúng ta không tới gặp ngài giáo sô, ngài Einstein ấy. Ngài bít hết mọi thứ trên đời mà,” Secretario đề nghị.
“Đúng. Ý kiến hay đấy. Tôi sẽ tới gặp Einstein.” Zorba đồng tình.
“Chúng ta cùng đi. Trên bến cảng này, vấn đề của một con mèo là vấn đề của tất cả đồng bọn mèo,” ngài Đại Tá long trọng tuyên bố.
Ba con mèo rời khỏi căn hầm, băng qua hành lang bên trong dãy nhà trông ra bến cảng, hối hả chạy tới ngôi đền của con mèo có tên là Einstein.

__________________________________________________ __________________

Porca miseria: tiếng Ý, nghĩa là “khốn khổ khốn nạn”

Caro amico: tiếng Ý, nghĩa là “bạn quý”

Mio amico: tiếng Ý, nghĩa là “bạn của ta”.

Lasagna al forno: Món của người Ý bao gồm mì sợi, thịt bò, pho mát, cà chua và các nguyên vật liệu khác trộn lẫn và nướng trong lò.

6. Chốn kỳ lạ
Einstein ngụ ở một nơi tương đối khó miêu tả, thoạt nhìn bạn có thể cho rằng đó là một cửa hàng bừa bộn các loại máy móc kỳ cục, một bảo tàng trưng bày mấy thứ lai căng chả-biết-gọi-là-gì, một nhà kho chứa mớ đồ cơ khí biết-chết-liền, một thư viện hỗn độn nhất thế giới hoặc phòng thí nghiệm các linh kiện kỳ dị của nhà phát minh thông thái nào đó. Nhưng nó không là bất kỳ thứ nào ở trên, hoặc đúng ra nó còn hơn cả tất cả những thứ kia cộng lại.
Nơi đó có tên Hiệu tạp hoá Bến cảng Harry, và chủ nhân của nó, ông Harry, là một thủy thủ già lão luyện, suốt mười lăm năm rong ruổi qua mọi đại dương, đã dâng hiến mình cho việc sưu tầm tất cả đồ vật có thể tìm thấy trên hàng trăm bến cảng ông từng ghé qua.
Khi tuổi già đã in dấu lên xương cốt, ông Harry quyết định kết thúc cuộc đời đi biển của mình để trở thành người sống trên cạn, và mở một hiệu tạp hoá để bày mớ đồ sưu tầm hỗn độn kia. Ông đã thuê một ngôi nhà ba tầng trên con phố ở ngay cảng biển, nhưng rõ là nó quá nhỏ để trưng bày hết đồ đạc của cửa hiệu tạp hoá lạ lùng. Rồi ông thuê tiếp căn bên cạnh, một ngôi nhà hai tầng và cũng tương tự, nó vẫn chưa đủ lớn. Sau khi đã thuê nốt ngôi nhà thứ ba, ông mới có thể trưng bày toàn bộ khối đồ đạc theo trật tự, thật thế, với một lối cảm quan sắp xếp rất đỗi kỳ cục. Ở trong ba ngôi nhà, nối với nhau bằng những cầu thang hẹp, có tới cả triệu thứ đồ vật. Trong số chúng, vài món đáng được lưu ý đặc biệt: 7200 mũ vành mềm, không bị thổi bay trong gió; 160 bánh xe từ những chiếc tàu đã phát chóng mặt vì đi vòng quanh thế giới; 245 đèn tàu soi xuyên làn sương mù dày mờ như súp đậu; 12 máy điện tín chạy điện méo mó dưới bàn tay chắc khoẻ của những thuyền trưởng hay la lối; 256 la bàn khôngbao giờ xoay về hướng Bắc; 6 con voi gỗ to như thật; 2 con hươu cao cổ nhồi bông tạo dáng như đang nhìn ngắm thảo nguyên; 1 con gấu Bắc cực nhồi bông có cánh tay phải của nhà thám hiểm người Nauy trong bụng; 700 cái quạt mỗi khi quay lại gợi nhớ tới làn gió chiều trong lành ở xứ nhiệt đới; 1200 võng đay canh chừng cho giấc ngủ đêm ngon lành; 1300 con rối ở đảo Sumatra không biểu diễn gì khác ngoài những câu chuyện tình; 129 bảng chiếu phong cảnh những miền đất nơi người ta luôn hạnh phúc; 54000 cuốn tiểu thuyết được viết bằng 47 ngôn ngữ; 2 phiên bản tháp Eiffel, cái thứ nhất làm từ nửa triệu đinh ghim, cái thứ hai là từ 300000 que tăm; 3 khẩu pháo của cướp biển Anh; 17 mỏ neo dưới đáy biển Bắc; 2000 bức vẽ hoàng hôn; 17 máy đánh chữ từng thuộc về những nhà văn danh tiếng; 128 quần flanen dài dành cho người cao trên mét tám; 7 áo khoác dự tiệc cho người lùn; 500 tẩu thuốc nhét đầy bọt biển; 1 dụng cụ đo thiên thể khăng khăng chỉ về chòm Nam Thập Tự; 7 vỏ ốc khổng lồ từ đó vọng tiếng xa xăm của những con tàu ma bí ẩn; 12 kilômét lụa đỏ; 2 cánh cửa tàu ngầm; và một loạt những thứ kỳ quặc khác quá vụn vặt để liệt kê. Muốn thăm hiệu tạp hoá của Harry, bạn phải trả lệ phí vào cửa, và một khi đã bước vào trong, bạn phải có khả năng định hướng đâu ra đấy nếu không muốn đi lạc trong mê cung của những căn phòng không cửa sổ, hành lang dài và cầu thang hẹp.
Harry nuôi hai thú cưng: Matthew, con đười ươi làm việc với tư cách nhân viên thu vé kiêm bảo vệ cho người thuỷ thủ già, cùng ông chơi cờ đam – dĩ nhiên nó chơi rất tệ, uống bia của ông, và cố bày trò bịp mấy vị khách. Con vật may mắn còn lại là Einstein, một con mèo xám gầy gò, nhỏ con, dành phần lớn thời gian cho việc nghiên cứu hàng nghìn cuốn sách từ bộ sưu tập của ông chủ.
Đại Tá, Secretario và Zorba lon ton chạy vào hiệu tạp hoá với ba cái đuôi chổng ngược. Chúng tiếc rẻ khi không thấy Harry đằng sau quầy bán vé bởi ông cụ thường nói những lời âu yếm và ban cho chúng mấy mẩu xúc xích.
“Này này hượm đã, bọn nhếch nhác kia! Chúng mày quên không trả tiền rồi,” Matthew lào khào quát.
“Từ thuở nào các gatto phải trả tiền thế?” Secretario phản ứng.
“Bảng trước cửa đã ghi: ‘Phí vào xem: 2 mác’. Không thấy ghi mèo được xem miến phí. Tám mác đưa đây không thì biến,” con đười ươi rít lên đanh gọn.
“Scusi, xi-nho Khỉ, nhưng tôi sợ rằng đếm chác không phải thế mạnh của ông,” Secretario trả miếng.
“Đấy đúng là điều ta định nói. Một lần nữa, anh lại chặn ngang lời của ta,” Đại Tá phàn nàn.
“Bla bla bla. Hoặc trả tiền hoặc đi ra,” Matthew nạt nộ.
Zorba vọt lên bàn bán vé và nhìn trừng trừng vào mắt con đười ươi. Nó nhìn cho tới khi Matthew phải chớp mi, ứa cả nước mắt. “Thôi được rồi, thì sáu mác. Con đười ươi nào cũng có thể tính nhầm,” Matthew the thé.
Zorba vẫn nhìn chằm chằm vào nó, bật ra một cái vuốt ở bàn chân trước bên phải. “Mày thích cái này không, Matthew? Này, tao còn có tới chín cái nữa đấy. Mày có tưởng tượng được cả mười cái cắm vào bộ đít đỏ mà lúc nào mày cũng vênh váo phơi ra không?” nó từ tốn đe doạ.
“Ơ, lần này thì tôi sẽ làm ngơ vậy,” con đười ươi gật gù, cố tỏ vẻ bình tĩnh. “Các anh có thể vào.” Ba con mèo, đuôi vểnh cao kiêu hãnh, biến mất trong mê cung của những hành lang.

__________________________________________________ _______________

Gatto: Tiếng Ý, nghĩa là “mèo”.

Xi-nho: Tiếng Ý, nghĩa là “ông”, “ngài”
 
5. Kiếm tìm lời khuyên
Zorba phi như tên bắn xuống khỏi cây dẻ, chạy một mạch qua sân trong để tránh mấy con chó đi rông, rời khỏi ngôi nhà, ngó chừng kỹ càng xem có chiếc xe ô tô nào đi qua không rồi mới băng sang đường, thẳng tới Cuneo, một nhà hàng Ý trên bến cảng.


Hai con mèo hoang đang ngửi ngửi thùng rác thấy nó chạy hối hả ngang qua.
“Ê, cu! Mày có thấy cái tao vừa thấy không? Rời mắt khỏi miếng
bánh mì nuột nà đó coi nào,” một con nheo nhéo nói.


“Đây đây. Sao mà đen quá thế. Nó làm mày nhớ đến viên mỡ lợn hả? Ối không, trông giống cục nhựa đường hơn. Chạy đi đâu đấy, nhựa đường?” con đầu tiên cất tiếng.


Dù rất lo lắng cho cô hải âu, nhưng Zorba không thể bỏ qua cơ hội ra oai với hai con mèo đầu đường xó chợ này. Vì thế, nó tạm ngưng công cuộc chạy, rồi với bộ lông xù ra, dựng đứng ở hai bên mạng sườn, nó nhảy phắt lên nắp cái xô rác.


Rất chậm rãi, nó chĩa bàn chân trước ra, xoè tưng cái vuốt vừa cong vừa dài như kim khâu thảm, dí sát vào mặt con mèo mà nó cho rằng mình có thể át vía được. “Thích chơi không? Ờ, tao còn chín cái vuốt ngon hơn nữa kia. Mày có thích nếm vài cú cào ở miếng sườn vàng khè của mày không?” nó hỏi bằng giọng thách thức.


Nhìn cái vuốt đang dứ ngay trước mắt, con mèo kia lập cập mãi rồi mới cất nên lời: “Em đâu dám, đại ca. Đẹp trời quá nhỉ? Đại ca có thấy thế không?” Mắt con mèo hoang cứ trân trối nhìn vào cái vuốt.
“Còn mày? Mày định lèm bèm gì?” Zorba hất mặt sang con mèo thứ hai.


“Hơ, em cũng nghĩ hôm nay tốt trời ạ. Rất tốt để đi dạo ạ, à, có thể hơi lạnh một tí ạ.”


Giải quyết xong vụ vặt vãnh đó, Zorba lại hối hả chạy tới nhà hàng, nơi những người phục vụ đang chuẩn bị bàn cho khách ăn trưa. Nó dừng lại ở cửa, meo lên ba tiếng, và ngồi xuống đợi. Vài phút sau, Secretario - một con mèo nhập cư gốc Ý gầy gò bước ra. Râu ria nó gần như trụi cả, chỉ còn hai sợi lông dài ở hai bên cánh mũi.


“Scusi, chúng tôi xin rứt xin lỗi, nhưng nếu quý khách chưa đặt bàn, chúng tôi xin lỗi không thể phục vụ được. Quán đã rất đông rồi,” Secretario nói bằng giọng Ý lơ lớ. Nó còn định nói thêm vài từ, nhưng Zorba đã cắt ngang.
“Tôi muốn nói chuyện với ngài Đại Tá một tí. Chuyện khẩn cấp!”


“Khẩn cấp! Lúc nào mà chã có gã nào đó với ba cái chiện cấp tốc vào giờ chót. Để tôi coi có làm được gì không, nhưng chỉ là vì nó rứt khẩn cấp đấy nhá,” Secretario ngoao lên, rồi lui vào trong nhà hàng.


Tuổi tác của ngài Đại Tá là một điều bí mật. Có kẻ nói ngài đã nhiều tuổi như cái quán ăn mà ngài gọi là nhà này, một số khác khăng khăng thậm chí ngài còn già hơn. Nhưng tuổi tác không là vấn đề, bởi lẽ tất cả mọi người đều nhớ rằng từ hồi còn trẻ, ngài đã lừng danh với tên gọi Đại Tá Bóng Đêm, và rằng ngài có được biệt tài kỳ lạ trong việc đưa ra lời khuyên cho lũ mèo gặp rắc rối. Cho dù ngài chưa từng hòa giải được vụ ẩu đả nào, nhưng chỉ riêng lời khuyên của ngài thôi đã làm dịu bớt tình hình rồi.


Với tuổi tác và tài năng đó của mình, ngài Đại Tá là một trong những con mèo lãnh đạo có uy quyền nhất ở cảng. Secretario đủng đỉnh quay lại.


“Theo tôi. Ngài Đại Tố sẽ gặp anh, thật chã giống bình thường…,” nó bảo.
__________________________________________________ ____________________

Scusi: tiếng Ý, nghĩa là “Xin lỗi”



Zorba đi theo nó. Lách qua những chân bàn chân ghế, chúng đi thằng về phía cánh cửa hầm rượu. Chúng nhảy xuống bậc của cái cầu thang hẹp và ở dưới đáy hầm là ngài Đại Tá, đuôi như cái cột cờ, đang kiểm tra nút bấc của mấy chai sâm banh.


“Porca miseria! Bọn chuột đã nhằn hết nút mấy chai ngon nhất trong nhà rồi. Ô Zorba! Caro Amico!” Đại Tá cất lời chào người bạn thân của ngài. Cũng giống như Secretario, ngài Đại Tá khoái khoe khoang một chút nguồn gốc Ý của mình.


“Mong ngài tha thứ cho tội quấy rầy khi ngài đang bận bịu, nhưng tôi gặp một chuyện nghiêm trọng lắm và cần lời khuyên của ngài” Zorba phân trần.


“Ta luôn sẵn sàng phục vụ, caro amico. Secretario! Đãi mio amico3


đây một chút lasagna al forno mà họ cho chúng ta sáng nay,” ngài Đại Tá ra lệnh.


“Nhưng hít rồi. Mà tôi mới khịt mũi một cái không hơn đấy,” Secretario làu bàu.


Zorba cảm ơn, và nói dù sao mình cũng chưa đói. Nó vội vàng kể về sự xuất hiện kịch tính, tình trạng đáng thương của cô hải âu cùng những lời hứa mà nó buộc phải nói với cô. Con mèo già yên lặng lắng nghe, rồi nó vừa ngẫm nghĩ về vấn đề vừa giật giật sợi ria dài. Cuối cùng nó ngao lên, “Porca miseria! Chúng ta phải giúp cô nàng hải âu đáng thương kia có thể bay trở lại.”


“Đúng,” Zorba gật đầu. “Nhưng bằng cách nào?”


“Sao chúng ta không tới gặp ngài giáo sô, ngài Einstein ấy. Ngài bít hết mọi thứ trên đời mà,” Secretario đề nghị.
“Đúng. Ý kiến hay đấy. Tôi sẽ tới gặp Einstein.” Zorba đồng tình.
“Chúng ta cùng đi. Trên bến cảng này, vấn đề của một con mèo là vấn đề của tất cả đồng bọn mèo,” ngài Đại Tá long trọng tuyên bố.


Ba con mèo rời khỏi căn hầm, băng qua hành lang bên trong dãy nhà trông ra bến cảng, hối hả chạy tới ngôi đền của con mèo có tên là Einstein.

__________________________________________________ __________________

Porca miseria: tiếng Ý, nghĩa là “khốn khổ khốn nạn”

Caro amico: tiếng Ý, nghĩa là “bạn quý”

Mio amico: tiếng Ý, nghĩa là “bạn của ta”.

Lasagna al forno: Món của người Ý bao gồm mì sợi, thịt bò, pho mát, cà chua và các nguyên vật liệu khác trộn lẫn và nướng trong lò.

6. Chốn kỳ lạ

Einstein ngụ ở một nơi tương đối khó miêu tả, thoạt nhìn bạn có thể cho rằng đó là một cửa hàng bừa bộn các loại máy móc kỳ cục, một bảo tàng trưng bày mấy thứ lai căng chả-biết-gọi-là-gì, một nhà kho chứa mớ đồ cơ khí biết-chết-liền, một thư viện hỗn độn nhất thế giới hoặc phòng thí nghiệm các linh kiện kỳ dị của nhà phát minh thông thái nào đó. Nhưng nó không là bất kỳ thứ nào ở trên,
hoặc đúng ra nó còn hơn cả tất cả những thứ kia cộng lại.


Nơi đó có tên Hiệu tạp hoá Bến cảng Harry, và chủ nhân của nó, ông Harry, là một thủy thủ già lão luyện, suốt mười lăm năm rong ruổi qua mọi đại dương, đã dâng hiến mình cho việc sưu tầm tất cả đồ vật có thể tìm thấy trên hàng trăm bến cảng ông từng ghé qua.


Khi tuổi già đã in dấu lên xương cốt, ông Harry quyết định kết thúc cuộc đời đi biển của mình để trở thành người sống trên cạn, và mở một hiệu tạp hoá để bày mớ đồ sưu tầm hỗn độn kia.


Ông đã thuê một ngôi nhà ba tầng trên con phố ở ngay cảng biển, nhưng rõlà nó quá nhỏ để trưng bày hết đồ đạc của cửa hiệu tạp hoá lạ lùng. Rồi ông thuê tiếp căn bên cạnh, một ngôi nhà hai tầng và cũng tương tự, nó vẫn chưa đủ lớn. Sau khi đã thuê nốt ngôi nhà thứ ba, ông mới có thể trưng bày toàn bộ khối đồ đạc theo trật tự, thật thế, với một lối cảm quan sắp xếp rất đỗi kỳ cục. Ở trong ba ngôi nhà, nối với nhau bằng những cầu thang hẹp, có tới cả triệu thứ đồ vật. Trong số chúng, vài món đáng được lưu ý đặc biệt: 7200 mũ vành mềm, không bị thổi bay trong gió;160 bánh xe từ những chiếc tàu đã phát chóng mặt vì đi vòng quanh thế giới; 245 đèn tàu soi xuyên làn sương mù dày mờ như súp đậu; 12 máy điện tín chạy điện méo mó dưới bàn tay chắc khoẻ của những thuyền trưởng hay la lối; 256 la bàn khôngbao giờ xoay về hướng Bắc; 6 con voi gỗ to như thật; 2 con hươu cao cổ nhồi bông tạo dáng như đang nhìn ngắm thảo nguyên; 1 con gấu Bắc cực nhồi bông có cánh tay phải của nhà thám hiểm người Nauy trong bụng; 700 cái quạt mỗi khi quay lại gợi nhớ tới làn gió chiều trong lành ở xứ nhiệt đới; 1200 võng đay canh chừng cho giấc ngủ đêm ngon lành; 1300 con rối ở đảo Sumatra không biểu diễn gì khác ngoài những câu chuyện tình; 129 bảng chiếu phong cảnh những miền đất nơi người ta luôn hạnh phúc; 54000 cuốn tiểu thuyết được viết bằng 47 ngôn ngữ; 2 phiên bản tháp Eiffel, cái thứ nhất làm từ nửa triệu đinh ghim, cái thứ hai là từ 300000 que tăm; 3 khẩu pháo của cướp biển Anh; 17 mỏ neo dưới đáy biển Bắc; 2000 bức vẽ hoàng hôn; 17 máy đánh chữ từng thuộc về những nhà văn danh tiếng; 128 quần flanen dài dành cho người cao trên mét tám; 7 áo khoác dự tiệc cho người lùn; 500 tẩu thuốc nhét đầy bọt biển; 1 dụng cụ đo thiên thể khăng khăng chỉ về chòm Nam Thập Tự; 7 vỏ ốc khổng lồ từ đó vọng tiếng xa xăm của những con tàu ma bí ẩn; 12 kilômét lụa đỏ; 2 cánh cửa tàu ngầm; và một loạt những thứ kỳ quặc khác quá vụn vặt để liệt kê. Muốn thăm hiệu tạp hoá của Harry, bạn phải trả lệ phí vào cửa, và một khi đã bước vào trong, bạn phải có khả năng định hướng đâu ra đấy nếu không muốn đi lạc trong mê cung của những căn phòng không cửa sổ, hành lang dài và cầu thang hẹp.

Harry nuôi hai thú cưng: Matthew, con đười ươi làm việc với tư cách nhân viên thu vé kiêm bảo vệ cho người thuỷ thủ già, cùng ông chơi cờ đam – dĩ nhiên nó chơi rất tệ, uống bia của ông, và cố bày trò bịp mấy vị khách. Con vật may mắn còn lại là Einstein, một con mèo xám gầy gò, nhỏ con, dành phần lớn thời gian cho việc nghiên cứu hàng nghìn cuốn sách từ bộ sưu tập của ông chủ.


Đại Tá, Secretario và Zorba lon ton chạy vào hiệu tạp hoá với ba cái đuôi chổng ngược. Chúng tiếc rẻ khi không thấy Harry đằng sau quầy bán vé bởi ông cụ thường nói những lời âu yếm và ban cho chúng mấy mẩu xúc xích.
“Này này hượm đã, bọn nhếch nhác kia! Chúng mày quên không trả tiền rồi,” Matthew lào khào quát.
“Từ thuở nào các gatto phải trả tiền thế?” Secretario phản ứng.


“Bảng trước cửa đã ghi: ‘Phí vào xem: 2 mác’. Không thấy ghi mèo được xem miến phí. Tám mác đưa đây không thì biến,” con đười ươi rít lên đanh gọn.


“Scusi, xi-nho Khỉ, nhưng tôi sợ rằng đếm chác không phải thế mạnh của ông,” Secretario trả miếng.
“Đấy đúng là điều ta định nói. Một lần nữa, anh lại chặn ngang lời của ta,” Đại Tá phàn nàn.
“Bla bla bla. Hoặc trả tiền hoặc đi ra,” Matthew nạt nộ.


Zorba vọt lên bàn bán vé và nhìn trừng trừng vào mắt con đười ươi. Nó nhìn cho tới khi Matthew phải chớp mi, ứa cả nước mắt. “Thôi được rồi, thì sáu mác. Con đười ươi nào cũng có thể tính nhầm,” Matthew the thé.
Zorba vẫn nhìn chằm chằm vào nó, bật ra một cái vuốt ở bàn chân trước bên phải. “Mày thích cái này không, Matthew? Này, tao còn có tới chín cái nữa đấy. Mày có tưởng tượng được cả mười cái cắm vào bộ đít đỏ mà lúc nào mày cũng vênh váo phơi ra không?” nó từ tốn đe doạ.


“Ơ, lần này thì tôi sẽ làm ngơ vậy,” con đười ươi gật gù, cố tỏ vẻ bình tĩnh. “Các anh có thể vào.” Ba con mèo, đuôi vểnh cao kiêu hãnh, biến mất trong mê cung của những hành lang.

__________________________________________________ _______________

Gatto: Tiếng Ý, nghĩa là “mèo”.

Xi-nho: Tiếng Ý, nghĩa là “ông”, “ngài”
 
7. Giáo sư mèo
“Khủng khiếp! Khủng khiếp! Một điều khủng khiếp đã xảy ra,” Einstein rền rĩ, con mèo đó, rất
xứng đáng với cái tên của mình, biết tất cả mọi điều cần phải biết.


Nó đang căng thẳng đi tới đi lui trước cả đống sách để mở trên sàn nhà, thỉnh thoảng lại lấy hai
chân trước ôm đầu. Nó xem chừng đang thật sự tan nát cõi lòng.
“Có điều gì… sai trái ạ?” Secretario hỏi.


“Đó chính xác là điều ta đang định hỏi đấy,” Đại Tá nói, tỏ vẻ không hài lòng.
“Thôi nào. Có chuyện gì mà tệ đến thế,” Zorba bày tỏ ý nghĩ.


“Không tệ đến thế à? Khủng khiếp. Khủng khiếp lắm! Bọn chuột đáng nguyền rủa đó đã gặm nát cả một trang của tập bản đồ. Bản đồ Madagascar tiêu rồi. Khủng khiếp quá đi mất,” Einstein giận dữ phản đối, giật bần bật mấy sợi râu.


“Secretario, nhớ nhắc ta rằng phải trị cho lũ phá hoại Masacar... Masgacar… ờ, anh biết ta định
nói gì rồi đấy,” Đại Tá bảo.


“Madagascar,” Secretario phát âm lại chuẩn xác.


“Chúng tôi sẽ giúp ông một tay, Einstein, nhưng lúc này chúng tôi có mặt ở đây bởi chúng tôi có rắc rối lớn, và vì ông biết tất cả mọi điều, có thể ông sẽ giúp được chúng tôi,” Zorba giải thích, và ngay lập tức kể lại câu chuyện của cô hải âu cho Einstein nghe.


Einstein chăm chú lắng nghe. Nó gật đầu tiếp nhận các chi tiết, và mỗi lúc cái đuôi giật giật đầy
căng thẳng trước những xúc cảm mà lời kể của Zorba khuấy động, nó lại cố đè đuôi dưới hai chân sau.
“… và vì thế tôi để cô ấy nằm đấy, trong tình trạng tệ lắm, mới một lúc thôi…” Zorba kết thúc
câu chuyện.


“Câu chuyện khủng khiếp! Khủng khiếp! Hừmmm, để tôi xem… hải âu… hải âu… dầu… dầu… hải âu bị ốm… chính là nó! Chúng ta phải tra cứu từ điển bách khoa thôi!” Einstein la lên vui mừng.
“Tra cứu gì cơơ?” ba con mèo kia hỏi.


“Từ-điển-bách-khoa. Cuốn sách tri thức. Chúng ta phải tra ở tập bốn và tập tám, tương ứng với
chữ D cho dầu và chữ H cho hải âu.” Einstein nói rành mạch.


“Thế thì cho chúng tôi xem cái từ đẻn… từ đẻn bác kho… cái thứ đó đi,” Đại Tá tỏ ý không bằng lòng.
“Từ-điển-bách-khoa,” Secretario phát âm từ tốn.


“Thì đó là cái ta định nói đấy mà!” Đại Tá nổi cáu.


Einstein trèo lên trên đống lỉnh kỉnh đồ đạc, nơi mấy cuốn sach dày cộp, nom rất bệ vệ ngự thành một hàng. Khi đã dò ra được chữ D và chữ H trên gáy sách, nó khều chúng rơi xuống khỏi giá. Rồi nó nhảy xuống, với mấy cái móng cụt ngủn mòn đi vì đã giở qua quá nhiều cuốn sách, nó lật hết trang này sang trang nọ. Đám mèo còn lại theo dõi và kính cẩn lặng yên mỗi khi nghe những tiếng meo hết sức khẽ khàng của Einstein.


“Đúng rồi, tôi tin là chúng ta đã đi đúng đường. Thú vị lắm. Chúng ta sắp tới nơi rồi. Đây là “đoạn đầu đài.” Xin cảm ơn, vô cùng thú vị. Nghe này, các bạn: ‘hệ thống gồm có một lưỡi dao nặng treo cao, giữa hai cây cọc dựng thẳng và được thả xuống để chặt đầu nạn nhân bên dưới.’ Ôi trời. Thật là Khủng khiếp,” Einstein kêu lên như bị mê hoặc.


“Chúng tôi chã hứng thú gì với đoạn đầu đài. Chúng tôi ở đây vì một cô hải âu,” Secretario cắt
ngang.


“Thứ lỗi cho tôi. Đoạn đấy chỉ để dành cho chính tôi, từ điển bách khoa thật không thể cưỡng lại nổi. Lần nào nhìn vào các trang sách, tôi cũng học được thêm một thứ mới,” Einstein xin lỗi, và tiếp tục lật giở. “A, hải tảo, hải lưu, hải chiến… hải âu!”


Nhưng những gì từ điển bách khoa nói về hải âu không có ích cho lắm. hầu như tất cả những gì
chúng nhận được là hải âu thuộc loài Ngân âu, có tên gọi đó bởi lông chúng có màu trắng bạc.


Và những gì chúng tìm được về dầu cũng vô ích trong việc chỉ cho chúng làm thế nào để cứu cô hải âu. Tệ hơn nữa, chúng phải dỏng tai nghe một bài giảng dài ngoằng của Einstein - kẻ khăng khăng muốn nói về Chiến Tranh Vùng Vịnh vào thập niên 90.


“Ôi rắc rối rồi đây! Chúng ta quay lại điểm bắt đầu rồi,” Zorba thốt lên.


“Thật là khủng khiếp! Khủng khiếp! Lần đầu tiên cuốn từ điển bách khoa làm tôi thất vọng,” Einstein rầu rĩ thừa nhận.


“Và trong cái Tuỳ điển.. cái tự đền bạch hổ.. ờ, anh biết ta định nói gì rồi đấy, có lời khuyên thiết thực nào bảo cách tẩy lớp váng dầu không?” Đại Tá thắc mắc.


“Sáng tạo lắm! Sáng tạo tuyệt vời! Đó chính là chỗ chúng ta có thể bắt đầu. Tôi sẽ lấy tập hai
mươi ngay lập tức, chữ T cho ‘tẩy vết bẩn’,” Einstein thốt lên như mê sảng khi nó nhảy lên giá sách.
“Anh thấy chưa? Nếu anh ngưng được thói quen lố bịch là cướp lời ta thì chúng ta đã biết nên
làm gì vào lúc này rồi,” Đại Tá gắt gỏng với Secretario - kẻ giờ đang yên lặng.


Trên trang sách có chữ ‘tẩy vết bẩn,” ngoài việc hướng dẫn tẩy vết chanh, mực Tàu, máu và xirô mâm xôi, chúng đã tìm được phương thức để tẩy váng dầu.


“‘Lau sạch phần bị bám váng với một miếng giẻ tẩm benzen.’ Chúng ta tìm thấy rồi!” Einstein
ngoao lên.


“Chúng ta làm gì có thứ đó,” Zorba khịt mũi với một vẻ châm biếm rõ là không thành công lắm.
“Chúng ta có thể tìm thấy benzen ở cái nơi chết tiệt nào kia chứ?”


“Ờ, nếu ta không nhầm, trong hầm nhà chúng ta có một cái can lớn đựng đầy chổi sơn được ngâm trong benzen. Secretario, anh biết anh phải làm gì rồi đấy,” Đại Tá la lớn.


“Scusi, xi-nho, nhưng tôi không hiểu ,” Secretario xin lỗi.


“Rất đơn giản: dễ lắm. Anh nhúng cái đuôi của mình vào benzen, rồi chúng ta sẽ chạy tới lo cho cô hải âu tội nghiệp,” Đại Tá giảng giải, mắt nhìn lảng sang hướng khác.


“Á, không! Không được ! Không phải tôi!” Secretario phản đối.


“Ta nhắc lại cho anh là trong thực đơn chiều nay suất gan và nước sốt sẽ tăng gấp đôi,” Đại Tá
ngâm nga.


“Nhúng đuôi của tôi vào cái của benzina đấy… Ôi Mamma mia! Có phải ngài vừa nói gan với
nước sốt không?”


Einstein quyết định sẽ đi cùng chúng, vậy là cả bốn con mèo phi thẳng về phía cửa ra. Khi đưa
mắt nhìn theo đám mèo, con đười ươi - kẻ vừa nốc cả vại bia – ra vẻ đồng tình với chúng bằng một chuỗi ợ không thành tiếng.



__________________________________________________ ___________________

Mama mia: tiếng Ý, nghĩa là “mẹ ơi”


8. Zorba bắt đầu thực hiện lời hứa của mình


Bốn con mèo nhảy từ mái nhà xuống ban công, và ngay lập tức biết rằng chúng đã về quá muộn. Đại Tá, Einstein và Zorba ngắm nhìn hình hài không còn sự sống của cô hải âu đầy thành kính, còn Secretario quất cái đuôi của mình trong gió để mùi benzen bay đi.


“Ta tin chúng ta nên khép lại đôi cánh cho cô ấy. Đó là điều phải làm trong tình huống này,” Đại Tá buồn bã nói.
Vượt qua cảm giác khó chịu với những chiếc lông vũ dính đầy dầu, chúng khép đôi cánh sát vào cơ thể cô hải âu, và khi đang làm việc đó chúng phát hiện ra quả trứng màu trắng đốm xanh.


“Quả trứng! Cô ấy đã làm được rồi! Cô ấy đã sinh ra quả trứng!” Zorba reo lên.

“Giờ thì anh đã tự trói mình vào một tình thế phức tạp rồi đấy, caro amico. Một tình thế thực sự
phức tạp!” Đại Tá lên tiếng nhắc nhở.


“Tôi phải làm gì với một quả trứng bây giờ?” Zorba thống thiết hỏi.


“Bella, bella!” Có nhiều thứ để làm với một quả trứng lắm. Món ốp lết chẳng hạn,” Secretario
mau mắn gợi ý.


“Ôi trời, đúng. Chỉ cần liếc qua từ điển bách khoa là chúng ta sẽ biết làm thế nào để có được món ốp lết khiến người ta thèm chảy dãi. Cái đó có ở trong tập mười lăm, vần O.” Einstein cả quyết nói.


“Không được nói thêm một từ nào về món ốp lết nữa! Zorba đã hứa với cô hải âu tội nghiệp kia


rằng sẽ chăm lo cho quả trứng và đứa con của cô ấy. Anh ấy đã thề nguyện bằng danh dự, và lời thề của một con mèo ở cảng cũng là lời thề của mọi con mèo khác, vì thế không ai được rờ tới quả trứng!” Đại Tá trịnh trọng tuyên bố.


“Nhưng tôi không biết chăm sóc một quả trứng như thế nào cả! Tôi chưa từng làm việc ấy bao
giờ,” Zorba ngao lên vô vọng.


Sáu con mắt hướng về phía Einstein. May ra trong cái từ-điển-bách-khoa trứ danh của nó có thứ gì đó liên quan tới chủ đề này.


“Tôi phải ngâm cứu tập hai mươi, chữ T. Các bạn có thể chắc chắn rằng chúng ta sẽ tìm thấy mọi thứ cần thiết để hiểu rõ quả trứng, nhưng ngay lúc này, tôi đề nghị phải có hơi ấm, hơi ấm cơ thể, thật nhiều hơi ấm cơ thể.” Einstein lên giọng thuyết giáo, dạy đời.


“Có nghĩa là anh phải nằm ra đó, nhưng đừng có làm món ốp lết,” Secretario nói thêm.


“Chính là điều tôi định đề xuất đấy. Zorba, anh ở lại đây coi chừng quả trứng và chúng tôi sẽ
tháp tùng Einstein đi xem cái tư điền… cái trụ đèn bách hoa… trời ạ, anh biết tôi định đề cập tới cái gì rồi đấy. Chúng tôi sẽ quay lại đây tối nay với thông tin hữu ích, và chúng ta sẽ cùng chôn cô hải âu đáng thương này,” Đại Tá sắp xếp công việc trước khi nhảy vọt lên mái nhà.


Einstein và Secretario theo chân nó. Zorba bị bỏ lại ở ban công với quả trứng và cô hải âu đã
chết. Rất khẽ khàng, nó nằm xuống và khều quả trứng lại gần bụng. Nó thấy thật kỳ cục. Nó nghĩ tới chuyện mình sẽ bị chọc ghẹo ra sao nếu hai con mèo vô lại vừa chạm mặt lúc sáng trông thấy nó lúc này.
Nhưng lời hứa vẫn là lời hứa, và vì thế, được sưởi ấm dưới ánh mặt trời, nó ngủ thiếp đi với quả trứng lốm đốm xanh kề ngay bên cái bụng to tròn, mập ú, đen tuyền.


__________________________________________________ _______________

Bella: tiếng Ý, nghĩa là “tuyệt”
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
9. Một đêm buồn
Dưới ánh trăng đêm, Secretario, Eistein, Đại Tá và Zorba đào một cái hố dưới gốc cây dẻ. Một lúc trước đó, hết sức trông chừng để không bị con người nào trông thấy, chúng đã tha cô hải âu từ ban công xuống sân trong. Rất nhanh chóng chúng lăn th.ân thể cô hải âu xuống dưới cái hố và phủ đất lên. Rồi Đại Tá gửi tới cô lời ca thán trịnh trọng:


“Huynh đệ mèo chúng tôi, trong đêm trăng ngần này, phải cất lời vĩnh biệt những gì còn lại của quý cô hải âu bất hạnh mà chúng tôi còn chưa kịp biết tên. Tất cả những gì chúng tôi biết, nhờ tri thức của người anh em Einstein, là cô thuộc loại Ngân Âu, và có lẽ cô đã bay tới đây từ một miền xa xôi, nơi những con sông đổ về với biển.

Chúng tôi chỉ biết chút ít về cô, nhưng điều quan trọng là cô đã giã từ cuộc đời khi vừa tìm tới được ban công nhà Zorba - anh ấy là một phần chúng tôi, tất nhiên rồi - và rằng cô đã trao trọn niềm tin vào anh ấy. Zorba đã hứa sẽ chăm lo cho quả trứng cô sinh ra trước khi nhắm mắt, cho con chim non sẽ được sinh ra từ nó, và sau đó - điều khó khăn nhất trong tất cả, thưa các huynh đệ - anh ấy đã hứa sẽ dạy con chim non biết bay.”


“Bay. Tập hai, vần B.” Chúng nó nghe thấy Einstein lầm bầm qua mớ râu dài.


“Đấy chính xác là những gì ngài Đại Tố định nói. Anh cướp lời ở ngay cửa miệng ngài rồi,”Secretario nhỏ nhẻ mỉa mai. “… những lời hứa thật khó hoàn thành,” Đại Tá tiếp tục, lờ Secretario đi.
“Nhưng chúng ta biết rằng một con mèo ở cảng biển luôn giữ trọn lời hứa. Và để điều đó trở thành sự thật, tôi phân công người anh em Zorba đây ở lại cùng quả trứng cho tới khi chim non ra đời, và người anh em Einstein sẽ tra cứu cuốn… từ điền… từ biến bách hoá.. ờ , mấy cuốn sách của anh ấy, xem liệu anh có thể học được gì về nghệ thuật bay lượn.

Và giờ đây, chúng tôi cất lên lời từ giã cuối cùng với cô hải âu, kẻ đã trở thành nạn nhân bởi thảm hoạ do con người gây ra. Hãy để chúng tôi vươn cổ về phía mặt trăng, cùng rên xiết bài ca vĩnh biệt mà mọi con mèo ở cảng đều hay biết.”
Và ở đó, dưới gốc cây dẻ già, bốn con mèo bắt đầu cất vang lên bài kinh cầu buồn thảm.

Âm thanh ngoao ngoao của chúng nhanh chóng được nhân thêm bởi tiếng những con mèo hàng xóm, và rồi tới những con mèo ở bên kia dòng sông, hợp xướng thê thiết của bầy mèo con hoà chung cùng tiếng tru của lũ chó, tiếng chiêm chiếp thê lương của những con chim hoàng yến trong lồng, của bầy sẻ trong tổ, tiếng ộp oạp buồn bã của những con ếch, và thậm chí cả tiếng rít thủng màng nhĩ của con đười ươi Matthew.


Ánh đèn sáng lên trong mọi căn nhà ở Hamburg, và đêm đó, tất cả cư đân của thành phố phân vân tự hỏi họ đã làm nên nỗi gì mà khiến bọn thú trở nên đau buồn làm vậy.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Phần II


1. Con mèo ấp trứng
Con mèo mun to đùng, mập ú dành nhiều ngày để nằm cạnh quả trứng, trông chừng nó, nhẹ nhàng khều quả trứng trở lại bằng bàn chân mềm bông không lộ vuốt mỗi khi những cử động vô tình của cơ thể đẩy nó ra xa độ một hoặc hai phân. Trong những ngày khó chịu dài lê thê đó, thỉnh thoảng Zorba thấy thật uổng phí thì giờ, bởi có vẻ như nó đang phải chăm lo cho một vật thể không sức sống, một hòn đá dễ nứt vỡ, cho dù có màu trắng lốm đốm xanh.
Có một lần, cơ thể nó bị chuột rút do không được vận động - bởi vì, theo như mệnh lệnh của Đại Tá, nó chỉ dám rời quả trứng để đi ăn và đi vệ sinh chỗ cái thùng - nó thấy thèm được biết liệu con chim con có lớn lên chút nào bên trong lớp vỏ can-xi cứng hay không. Nó ghé sát một tai vào quả trứng, rồi tới tai kia, nhưng nó không nghe thấy bất cứ âm thanh nào. Nó cũng chẳng may mắn hơn khi cố gắng nhìn xuyên vào bên trong quả trứng bằng cách đặt nó ra trước ánh sáng. Lớp vỏ trắng đốm xanh thật là dày và hoàn toàn không để ánh sáng chiếu qua.
Đại Tá, Secretario và Einstein tới thăm Zorba hàng đêm, chúng thường xuyên kiểm tra quả trứng xem liệu cái Đại Tá gọi là “chu trình mong muốn” có diễn ra hay không, nhưng ngay khi chúng nhận ra quả trứng trông y nguyên như hôm đầu tiên thì chủ đề trò chuyện của cả bọn thay đổi.
Eistein không ngừng lải nhải than phiền về chuyện bộ tự điển bách khoa của nó không cho biết chính xác về thời gian ấp trứng; chi tiết tạm chấp nhận được nhất có thể lấy ra từ những cuốn sách dày cộp nói rằng giai đoạn đó có thể kéo dài từ mười bảy tới ba mươi ngày, tùy theo đặc tính loài của chim mẹ.
Ngồi ấp trứng thực không dễ dàng chút nào với con mèo mun to đùng mập ú. Nó không thể nào quên được cái bữa người bạn của gia đình chủ vốn nhận trách nhiệm trông nom nó chợt nghĩ rằng sàn nhà cần được lau dọn và quyết định bật máy hút bụi lên.
Mọi buổi sáng, suốt thời gian người bạn ở đó, Zorba phải giấu quả trứng sau mấy chậu hoa cảnh trên ban công để ra quấn quít với con người tốt bụng đã dọn rửa cái thùng vệ sinh của nó và cho nó thức ăn. Nó meo meo đầy biết ơn, cọ cọ mình quanh chân người ấy để rồi ông ta đi về không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng Zorba mới ngoan thật là ngoan. Nhưng sáng hôm đó, sau khi quan sát cái máy hút bụi rè rè chạy quanh phòng khách và phòng ngủ, nó nghe người đó nói: “Và giờ tới lượt ban công. Bụi chắc đóng tảng quanh mấy chậu hoa đó mất rồi!”
Khi người bạn nghe thấy tiếng xoảng của cái bát đựng hoa quả vỡ tan tành, ông ta chạy về phía bếp và hét tướng lên ngay ở cửa: “Mày mắc chứng gì thế, Zorba? Nhìn xem mày vừa làm gì này! Biến ra khỏi đây ngay, con mèo điên này! Mày mà bị mảnh thủy tinh đâm vào chân nữa là xong!”
Thật đúng là một sự sỉ nhục quá đáng! Zorba rón rén bò khỏi bếp, đuôi cụp giữa hai chân, giả vờ như đang xấu hổ chết đi được, rồi phi thẳng với tốc độ tối đa ra ban công. Thật không dễ gì mà lăn được quả trứng từ mấy chậu hoa vào một trong các phòng ngủ nhưng đã thành công, rồi nó đợi ở đó cho tới khi người bạn dọn dẹp xong mọi thứ và ra về.
Zorba đang gà gật khi màn đêm buông xuống và ngày thứ hai mươi, vì thế nó không nhận ra rằng quả trứng nhúc nhích, thật chậm, nhưng đang nhúc nhích, như thể đang cố lăn trên mặt sàn.
Một cú nhói ở bụng khiến Zorba tỉnh giấc. Nó mở mắt và hết sức lo ngại khi nhìn thấy một chóp nhỏ màu vàng cứ xuất hiện rồi biến mất qua vết nức của quả trứng. Nó kẹp vững quả trứng bằng hai chân sau, và nhờ thế có thể nhìn thấy con chim non mổ lấy mổ để tới khi cái lỗ đủ rộng cho một cái đầu trắng, bé xíu ướt nhẹp ra khỏi vỏ trứng.

b8lfz1d7gpvu6xpd0vd.jpg


“Má!” con chim non chiếp chiếp gọi.
Zorba không biết phải phản ứng ra sao. Nó biết là lông của mình đen óng như than, nhưng dường như nỗi xúc động và xấu hổ đã khiến nó ngượng hồng lựng cả người.
2. Làm mẹ khó lắm chứ chẳng đùa
“Má! Má!” con chim non, giờ đã chui hẳn ra khỏi vỏ, chiêm chiếp một lần nữa. Nó trắng như sữa, nửa thân mình được phủ một lớp lông vũ mềm, ngắn cũn, lởm chởm. Nó loạng choạng bước vài bước và ngã bịch vào bụng Zorba.
“Má! Con đói!” nó liếp chiếp, mổ lên lớp lông của Zorba.
Biết cho nó ăn cái gì bây giờ? Einstein chưa bao giờ hướng dẫn Zorba cho chim ăn. Nó biết là bọn hải âu ăn cá, nhưng nó biết đi đâu để kiếm được một mẩu cá bây giờ? Zorba chạy vào bếp, và lăn trở ra một quả táo.
Con hải âu non đứng dậy trên hai cái cẳng run rẩy và tấn công quả táo. Cái mỏ màu vàng nhỏ xíu gõ bép bép lên lớp vỏ trái cây dày cui như cao su, bị nảy ngược, con hải âu non bắn văng ra sau và ngả đập lưng xuống đất.
“Con đói!” nó kêu chép chép giận dữ. “Má! Con đói!”
Zorba tha con chim vào trong bếp và cố giúp nó mổ vào củ khoai tây, rồi một chút thức ăn của mèo - từ ngày gia đình nhà chủ đi vắng. Nó không có nhiều thứ để lựa chọn cho lắm! - nó thấy hối hận vì đã liếm sạch bát thức ăn trước khi con hải âu nở. Tất cả đều vô ích. Cái mỏ bé xíu quá mềm và bị uốn cong khi con hải âu cố mổ củ khoai tây hay thức ăn. Rồi, khi đã đi đến cực điểm vô vọng, Zorba chợt nhớ ra rằng con hải âu non này thuộc loài chim, và chim thì ăn côn trùng.
Bởi thế, Zorba chạy vù ra ban công và kiên nhẫn đợi bọn ruồi đậu xuống trong tầm vuốt. Cũng chẳng lâu la gì để bắt được một con ruồi, và nó mớm cho con hải âu non đang đói ngấu.
Con hải âu non mổ lấy ruồi, ngậm nó vào mỏ và nhắm tịt mắt lại, nuốt chửng. “Ngon quá xá, Má ơi. Con muốn ăn nữa!” nó chiếp chiếp vui sướng.
Zorba chạy ra ngoài lần nữa và bắt đầu nhảy tới nhảy lui trên ban công. Nó đã tóm được tổng cộng năm con ruồi và một con nhện, thì từ mái nhà của căn hộ bên kia sân, vọng tới tiếng hai con mèo cù bất cù bơ mà nó vừa dằn mặt hôm trước.
“Trông kìa, cu. Thằng béo đang tập thể dục nhịp điệu kìa. Người ngợm như thế kia, chắc chắn nó là một vũ công rồi,” một con nói.
“Ô meo, tao thì nghĩ nó đang tập aerobic cơ đấy. Trông nó giống một cái bình tuyệt đẹp. Thật duyên dáng. Thật phong cách. Này, cục mỡ, người ta đang chăm chút mày để thi hoa hậu hả?” Con thứ hai cũng nheo nhéo.
Cả hai con cùng cười hô hố, an toàn ở phía bên kia sân.
Zorba rất sẵng lòng cho chúng hưởng tí hương vị của mấy cái vuốt sắc như dao cạo, nhưng chúng lại ở xa quá. Bởi vậy, nó quay lại với con hải âu háu đói cùng mẻ côn trùng vừa bắt. Con hải âu non ngấu nghiến nuốt năm con ruồi, nhưng nhất quyết không động tới con nhện. No nê, nó ợ một cái rồi xích người lại sát bụng của Zorba. “Má, con buồn ngủ rồi!” nó khẽ liếp nhiếp.
“Nghe này, tớ xin lỗi về chuyện này, nhưng tớ không phải là mẹ của đằng ấy!” Zorba khẽ nói.
“Tất nhiên Má là má của con. Và là một bà má rất xịn,” nó đáp, và nhắm mắt lại.
Khi Đại Tá, Secretario và Einstein xuất hiện, chúng thấy con hải âu non đang ngủ ngay cạnh Zorba.
“Chúc mừng. Thật là một con hải âu non xinh đẹp. Nó nặng bao nhiêu thế?” Einstein hỏi.
“Hỏi han kiểu gì thế? Tôi có phải mẹ nó đâu!” Zorba cáu kỉnh.
“Nhưng đó là câu mà người ta thường hỏi trong những dịp này. Đừng có hiểu lầm ý tôi. Thực tế thì nó thật là một con hải âu xinh đẹp!” Đại Tá nói.
“Thật khủng khiếp! Quá khủng khiếp!” Einstein rên lên, nhồi cả hai chân trước vào miệng.
“Liệu chúng tôi có thể biết cái gì khủng khiếp đến thế không?” Đại Tá thắc mắc.
“Con chim hải âu này không có gì để ăn cả. Điều đó thật là khủng khiếp! Khủng khiếp làm sao!”
“Anh nói đúng,” Zorba đồng ý. “Tôi đã phải kiếm cho nó mấy con ruồi, và tôi nghĩ chắc còn lâu nó mới lại thấy muốn ăn nữa.”
“Secretario, anh còn đợi gì nữa?” Đại Tá giậm chân nôn nóng.
“Scusi, xi-nho, nhưng tôi không hiểu ý ngài.”
“Chạy về nhà hàng và mang lại đây một con cá mòi ngay,” Đại Tá ra lệnh.
“Ơ, sao lại là tôi? Tại sao Secretario luôn luôn là con mèo chạy vặt, hở? ‘Nhúng đuôi anh vào cái thứ benzena đó, Secretario. Chạy đi kiếm cá mòi đi, Secretario’. Sao lúc nào cũng là Secretario này?”
“Bởi vì tối nay, thưa quý ngài tốt bụng, chúng ta sẽ được xơi món mực Romana,” Đại Tá đáp lời.
“Đó có là lý do tốt chăng?”
“Cái đuôi khốn khổ của tôi vẫn còn bốc thứ mùi benzena… Mamma Mia! Có phải ngài vừa nói là mực Romana?” Secretario hỏi trước khi chạy vù đi.
“Má, đám kia là… con gì thế?” Con hải âu non lép chép, chĩa cái mỏ về phía bọn mèo.
“Má! Nó gọi anh là Má kìa! Ngọt ngào khủng khiếp,” Einstein thốt lên trước khi bộ mặt của Zorba kịp ném cho nó lời khuyên rằng nên suy nghĩ về chuyện đó kỹ hơn.
“Ờ, caro amico, anh đã làm trọn lời hứa thứ nhất, anh đang thực hiện lời hứa thứ hai, và giờ chỉ còn lại lời hứa thứ ba,” Đại Tá tuyên bố.
“Phải. Cái dễ nhất. Dạy cho nó bay,” Zorba mỉa mai nói.
“Chúng ta sẽ làm được vụ đó thôi. Tôi đang tra trong từ điển bách khoa. Nhưng việc nghiên cứu cũng mất thì giờ lắm,” Einstein an ủi nó.
“Má! Con đói!” con hải âu cắt ngang.
 
3. Hiểm nguy phía trước
259f33be2ae4e8e859d7ad1efcabdedb.jpg

Mọi chuyện phức tạp bắt đầu vào ngày thứ hai sau khi chim con nở. Zorba phải dùng tới biện pháp dứt khoát hơn để người bạn của gia đình không phát hiện ra con hải âu non của nó, ngay khi nghe thấy tiếng cửa mở, nó lật ngược một chậu hoa rỗng, úp lên con chim non rồi ngồi lên đó. Thật may là ông bạn không đi ra ban công và không thể nghe được tiếng chiêm chiếp phản ứng của con chim khi ông ta ở trong bếp.
Người bạn, như thường lệ, dọn rửa cái thùng của nó, mở cái hộp đựng thức ăn và trước khi rời đi, ông ngó ra ban công.
“Tao hy vọng mày không bị ốm, Zorba. Lần đầu tiên tao thấy mày không chạy hoắng lên khi tao lấy thức ăn cho mày đấy nhé. Mày làm cái trò gì mà ngồi lên cái chậu hoa thế kia? Mày tưởng là mày đang giấu thứ gì đó à. Được rồi, con mèo điên này, hẹn gặp lại ngày mai nhé.”
Ngộ nhỡ ông ta nhìn xuống bên dưới cái chậu thì sao nhỉ? Chỉ cần nghĩ tới chuyện đó thôi là dạ dày Zorba đã muốn trộn nháo nhào, và nó phải chạy tới cái thùng vệ sinh.
Nó đứng ở đó, đuôi ngỏng lên trời, tận hưởng cảm giác xả hơi đã đời và nghĩ về lời nói của con người.
“Con mèo điên”. Đó là thứ mà ông ta đã gọi nó. “Con mèo điên.”
Có thể ông ta đúng, bởi lẽ hành động thiết thực nhất là để cho ông ta nhìn thấy con hải âu non.
Người bạn của gia đình chủ sẽ tưởng rằng Zorba đang định xơi tái con chim, ông ta sẽ đưa nó đi rồi nuôi đến lớn. Nhưng Zorba đã giấu con chim dưới một cái chậu hoa. Có phải nó điên thật rồi không?
Không. Không hề. Zorba đã tuân thủ thật nghiêm ngặt những luật lệ danh giá của cộng đồng mèo ở cảng. Nó đã hứa với cô hải âu trong giây phút lâm chung rằng sẽ dạy con hải âu non biết bay, và nó sẽ làm thế? Nó chẳng biết phải dạy dỗ bằng cách nào nhưng nó sẽ làm.
Zorba đang thu dọn chu đáo cái thùng vệ sinh thì tiếng chiếp chiếp thất thanh của hải âu non khiến nó phải phóng vù ra ban công.
Cảnh tượng trước mắt khiến máu nó đông cứng lại.
Hai con mèo hoang đang nằm sà ngay trước hải âu non, đuôi giần giật với vẻ phấn khích, một con còn dí móng vào đuôi hải âu, dúi con chim xuống. May mắn thay hai con mèo khốn đó quay lưng lại nên chúng không trông thấy Zorba. Toàn thân Zorba căng cứng.
“Ai mà đoán nổi rằng chúng ta vớ được món điểm tâm béo bở thế này, phải không cu? Con chim này nom y như bữa sáng của hoàng đế,” một con nheo nhéo nói.
“Má! Cứu con!” con chim la thảm thiết.
“Phần khoái khẩu của tao là cặp cánh. Cánh con này tuy gầy nhẳng, nhưng đùi nó trông cũng đầy đặn ngon lành đấy,” con mèo kia bình luận.
Zorba trườn tới. Nó bật xòe mười cái vuốt trên hai chân trước, tóm lấy hai con mèo du đãng, dộng đầu chúng bôm bốp xuống nền ban công.
Hai con mèo cố gắng ngóc đầu dậy, nhưng mỗi lần làm thế, chúng lại xơi nguyên cái vuốt nhọn vào tai.
“Má! Chúng nó định ăn thịt con!” chim non chiêm chiếp mách.
“Ăn con của bà ư? Không, thưa bà. Không phải bọn em ạ,” một con mèo mếu máo, đầu nó đang dính bép vào nền ban công.
“Bọn em ăn chay, thưa bà. Ăn chay khắc khổ ấy chứ,” con còn lại lên tiếng thề thốt.
“Tao chả phải là bà biếc gì hết, đồ ngu,” Zorba rít, xách tai kéo đầu chúng lên để chúng thấy rõ mặt mình.
Khi nhận ra nó, hai con mèo ăn cướp thấy lông mình dựng đứng cả lên
“Phải đấy, anh bạn. Anh có đứa con xinh lắm. Lớn lên nó thế nào cũng sẽ là một con mèo tuyệt đấy,” con thứ nhất cả quyết với Zorba.
“Xa tới cả dặm cũng nhận ra được ấy chứ. Đúng, thật là một con mèo xinh đẹp, phải rồi,” con thứ hai phụ họa.
“Nó không phải là mèo, bọn ngu này. Nó là một con hải âu non,” Zorba đính chính.
“Đấy, chính là thứ mà tôi thường xuyên nói với anh bạn đây. Ai cũng nên có một con hải âu con,” con mèo thứ nhất réo lên. “Phải thế không, anh bạn?”
Zorba quyết định hạ màn vở hài kịch, nhưng trước hết thì phải tặng hai thằng đần món lưu niệm từ bộ móng của nó mới được. Nó dí mạnh chân trước, bộ vuốt xé rách một bên tai của hai thằng hèn kia. Gào la thảm thiết vì đau đớn, chúng vọt chạy như tên bắn.
“Má của con thật là anh hùng!” con hải âu ríu rít nói.
Zorba nhận thấy rằng ban công không phải chốn an toàn, nhưng nó cũng không thể đưa con chim vào trong nhà vì có thể làm bẩn tấm thảm và thế nào rồi người bạn của gia đình cũng phát hiện ra.
“Đi nào, chúng ta dạo quanh một chút nhé,” Zorba thầm thì rồi nhẹ nhàng tha con chim giữa hai hàm răng.
4. Họa vô đơn chí
Tập trung tại hiệu tạp hóa Harry, bọn mèo thống nhất rằng con hải âu non sẽ không thể ở lại căn hộ nhà Zorba thêm nữa. Có quá nhiều rủi ro, và thậm chí còn nghiêm trọng hơn mối đe dọa từ hai con mèo hoang, đó là từ con người.
“Con người, không may thay, lại rất khó lường. Thường thì với những ý định tốt nhất họ lại phá hoại nhiều nhất,” Đại Tá lên giọng.
“Ông nói đúng. Ví dụ, hãy nhìn ông Harry xem. Ông ấy là một con người tốt, tốt trọn con tim, ông ấy khoái bọn đười ươi và hiểu rằng Matthew cực kỳ thích món bia của ông. Thế là, đùng một phát, ông ấy cứ thế dúi bia cho nó mỗi khi nó khát,” Einstein nói. “Giờ thì Matthew tội nghiệp của chúng ta là một gã nghiện ngập. Nó chẳng còn biết xấu hổ là gì, rồi mỗi lần uống say, nó lại lè nhè mấy bài hát tục tĩu. Khủng khiếp!”
“Và khi nào họ mới hiểu được việc họ đang làm? Hãy nghĩ về cô hải âu tuyệt vời kia. Cô ấy chết vì họ điên cuồng, làm ô nhiễm đại dương với rác rưởi của họ,” Secretario thêm vào.
Sau một cuộc thảo luận ngắn gọn, cả đám đồng ý rằng Zorba và con hải âu non sẽ sống trong hiệu tạp hóa cho tới khi nó học được cách bay. Zorba sẽ quay lại căn hộ mỗi sáng để con người không lo lắng vì nó, rồi sau đó sẽ quay lại cửa hiệu chăm nom con hải âu.
“Ý tưởng về chuyện cho bambino này một cái tên cũng không tệ lắm nhỉ,” Secretario đề nghị.
“Đó chính xác là điều ta đang định đề xuất. Ta rất không bằng lòng với cái trò ngắt lời của anh!” Đại Tá càu nhàu.
“Tôi đồng ý,” Zorba nói. “Nó cần có một cái tên, nhưng trước tiên, chúng ta phải biết nó là trống hay mái đã.” Nó chưa kịp nói rõ ý thì Einstein đã lon ton chạy tới tra cứu tập từ điển bách khoa có chữ G và lật nhanh tới trang có từ “giới tính.”
Thật không may, cuốn từ điển bách khoa không đả động gì đến chuyện phân biệt giới tính của một con hải âu non.
“Anh phải thừa nhận là mớ từ điển bách khoa nhà anh chẳng giúp bọn mình được mấy việc,” Zorba phàn nàn.
“Tôi không chấp nhận bất cứ lời chỉ trích nào về giá trị sử dụng của bộ bách khoa toàn thư. Mọi tri thức đều nằm trong những cuốn sách này cả đấy,” Einstein quay lại, cáu kỉnh nói.
“Thế còn Bốn Biển thì sao! Đó là một con mèo đi biển cự phách. Ông ấy chính là gatto có thể nói cho chúng ta biết bambino đây là trống hay mái,” Secretario cất tiếng.
“Chính là thứ mà…! Này, ta cấm anh không bao giờ được phép…!” Đại Tá lắp bắp.
Vì bọn mèo thảo luận hăng quá, con hải âu non bắt đầu lượn quanh đám chim nhồi bông. Ở đó có cả chim két đen, vẹt, tu căng, công, đại bàng và chim cắt, con hải âu non nhìn chúng khiếp sợ. Đột nhiên một con vật với cặp mắt đỏ khè đứng ngáng đường nó, một con vật rõ ràng không phải đồ nhồi bông.
“Má! Cứu con!” Con hải âu non gào lên thất thanh.
Kẻ đầu tiên phi tới chỗ nó là Zorba, vừa kịp lúc, chỉ nháy mắt nữa thôi con chuột đã vồ tới ức của con chim non rồi.
Khi thấy Zorba, con chuột chuồn thẳng vào khe nứt trên tường.
“Nó muốn ăn thịt con má ơi!” Con hải âu non thổn thức liếp chiếp, rúc sát vào Zorba.
“Chúng ta quên bẵng mất mối nguy này. Tôi nghĩ chúng ta phải có một bữa nói chuyện phải quấy với bọn chuột thôi,” Zorba nói.

__________________________________________________ _______________

Bambino: Tiếng Ý, nghĩa là “đứa trẻ”
“Ta đồng ý. Nhưng đừng nhượng bộ bọn nhãi con đó quá,” Đại Tá nhắc nhở.
Zorba chui vào khe nứt trên tường. Bên trong tối đen như mực, tuy nhiên nó vẫn nhìn thấy cặp mắt đỏ lòe của con chuột.
“Tao muốn gặp đầu đảng của tụi mày,” Zorba nói giọng dứt khoát.
“Tao là đầu đảng đây,” nó nghe thấy tiếng trả lời trong bóng tối.
“Nếu mày là đầu đảng, thì nhà chuột chúng mày còn hèn mạt hơn cả loài gián. Bảo với thằng đầu đảng của mày tao muốn gặp nó ngay!” Zorba nhấn mạnh.
Zorba nghe thấy tiếng chuột lục xục xa dần, tiếng nó trượt theo một đường ống nước, móng vuốt cạo, soàn sọat. Vài phút sau, Zorba lại thấy cặp mắt đỏ lòe của nó giữa bóng tối.
“Đầu đảng của bọn tao sẽ gặp mày trong hầm vỏ hàu, có một lối đi đằng sau ngực tượng tên cướp biển,” con chuột rít lên.
Zorba đi xuống căn phòng vỏ hàu. Nó tìm ở phía sau ngực tên cướp biển và nhìn thấy cái lỗ trên tường, đủ lớn để nó chui được qua. Nó gạt đám mạng nhện sang bên và trườn vào vương quốc của bọn chuột. Chỗ đó bốc mùi nhớp nháp và rác rưởi.
“Đi theo đường ống nước,” con chuột mà nó không thể nhìn thấy lại lên tiếng.
Nó y lời. Càng bò vào sâu, bụi bẩn và rác rưởi lại càng bám dày lên lông nó.
Nó lần mò trong bóng tối cho tới khi tới được đoạn cống được chiếu sáng lờ mờ bởi một tia sáng ban ngày mỏng manh. Zorba đoán rằng hẳn nó đang ở phía dưới con phố, và ánh sáng nó nhìn thấy được chiếu xuyên qua một cái lỗ trên nắp cống. Chỗ đó bốc mùi phát khiếp, nhưng đủ rộng để Zorba có thể đứng thẳng trên cả bốn chân. Một rãnh nước hôi Tui<3KumaTui<3KumaTui<3KumaTui<3Kuma chạy ngang giữa phòng. Rồi nó nhìn thấy đầu đảng của bọn chuột, một con vật to tướng, màu xám đen, toàn thân đầy những sẹo là sẹo, đang lấy vuốt gẩy lên gẩy xuống cái đuôi vằn.
“Ô la la. Nhìn xem ai tới thăm này! Một lão béo ục!” Con chuộc đầu đảng rít lên.
“Béo ục! Béo ục” hàng tá chuột mà Zorba chỉ có thể nhận thấy qua những đôi mắt đỏ ké nheo nhéo nhắc lại.
“Ta muốn các ngươi để cho con chim non được yên,” Zorba hít hơi rồi nói.
“Vậy đúng là bọn mèo các ngươi đang nuôi một con chim non. Ta biết mà! Chúng ta nghe những lời đồn thổi khắp các cống rãnh. Bọn đó nói rằng nó bé xíu thơm ngon lắm. Thơm ngon cực kì. Hí hí hí,” con chuột đầu đảng lít rít.
“Thơm ngon cực kì! Hí hí hí,” những con khác hòa theo.
“Con hải âu non đó được loài mèo bảo vệ,” Zorba nói, không chút hăm dọa.
“Để rồi khi nó đủ lớn các ngươi sẽ xơi nó? Không thèm mời tới chúng ta. Bọn chuyên liếm láp ngón chân nhà các ngươi ích kỉ lắm,” con chuột kia lớn tiếng buộc tội.
“Ích kỉ! Ích kỉ lắm!” bọn chuột kia nhái lại.
“Các người biết rõ rồi đấy, bọn chuột bị ta tiêu diệt còn nhiều hơn lông trên người ta. Nếu có bất cứ chuyện gì xảy ra với con hải âu non, thì giờ của các ngươi đã điểm rồi đấy,” Zorba thong thả nói.
“Nghe đây, con mèo béo kia, ngươi đã nghĩ tới việc làm thế nào để thoát khỏi chỗ này chưa?
Bọn ta có thể biến ngươi thành món mèo xay ngon tuyệt đấy,” con chuột đe dọa.
“Mèo xay! Mèo xay!” Bọn chuột gào theo.
Đột nhiên Zorba nhảy tới vồ con chuột đầu đảng. Nó đáp xuống ngay trên lưng, đè đầu con chuột xuống đất bằng bộ vuốt của mình.
“Mày sắp sửa mất toi đôi mắt rồi đấy. Có thể đám lâu la sẽ biến tao thành mèo xay, nhưng mày cũng mù tiệt luôn. Nào, bây giờ thì mày sẽ để cho con hải âu non được yên chứ?”
“Cư xử của ngươi mới gây sốc làm sao. Được rồi,” con chuột chấp thuận. “Không mèo xay, không chim hải âu non. Mọi thứ dưới cống đều có thể thương lượng.”
“Vậy thì chúng ta sẽ thương lượng. Ngươi muốn ta đáp lại gì cho việc giữ mạng con hải âu non?” Zorba hỏi.
“Giải phóng con đường qua khoảng sân trong. Thằng mèo Đại Tá ra lệnh chặn đứng con đường bọn ta ra chợ. Chúng ta muốn giải phóng lối đi qua sân trong,” con chuột chin chít nói.
“Đồng ý. Chúng mày có thể đi ngang qua sân trong, nhưng vào ban đêm, khi con người không trông thấy chúng mày. Loài mèo chúng ta còn phải giữ thanh danh nữa.” Zorba thả con chuột ra.
Nó đi giật lùi ra, không rời mắt khỏi con chuột đầu đảng và hàng tá đôi mắt đỏ lừ đang nhìn nó đầy căm ghét.
 
5. Hải âu trống hay hải âu mái?
Phải mất ba ngày chúng mới nói chuyện được với Bốn Biển, bạn của chúng, một con mèo từng ra khơi xa, một con mèo viễn dương đích thực.
Bốn Biển là con vật may mắn của Hannes Đệ Nhị, một con thuyền lớn quyền uy chịu trách nhiệm giữ cho cửa sông Elbe thông thoáng và không còn bùn cát hay rác rưởi. Thủy thủ đoàn trên Hannes Đệ Nhị hết sức coi trọng Bốn biển, con mèo màu mật ong có đôi mắt xanh biếc, kẻ được coi là bạn đồng hành của họ trong công việc nạo vét lòng sông gian khó.
Vào những ngày mưa bão, Bốn Biển diện một bộ áo mưa vải dầu không thấm nước, được đo cắt theo đúng kích cỡ của nó, y như bộ áo mưa mà thủy thủ đoàn mặc, và nó đứng trên boong tàu cùng chịu cảnh khắc nghiệt với những thủy thù kiên cường đã quá quen thuộc với phong ba, bão tố.
Hannes Đệ Nhị còn lãnh trách nhiệm nạo vét các cảng biển ở Rotterdam, Antwerp, Copenhaghen và Bốn Biển có thể kể hàng đống chuyện thú vị về những hành trình xa xôi đó. Ồ vâng. Nó đúng là một con mèo viễn dương đích thực.
“Huây huây!” Bốn Biển hét vang khi nó bước vào cửa tiệm tạp hóa.
Con đười ươi chớp mắt mỉa mai khi quan sát con mèo tiến lại, nhảy nhót bên này, bên nọ như một thủy thủ và phớt lờ vị thế tôn quý đầy quan trọng của nó là người bán vé tham quan khu trưng bày.
“Nếu mày không biết chào hỏi cho ra đường ra lối thì ít nhất cũng trả tiền vé vào cửa, đồ khố rách kia,” Matthew gầm gừ.
“Đồ bù nhìn cánh tả! Mày vừa gọi tao là khố rách hử? Thằng soát vé xấu xí lắm mồm kia! Mày nên biết, toàn bộ đám rận rệp khắp các cảng biển trên thế giới đã từng gặm lớp da này của tao. Ngày nào đó tao sẽ kể cho mày nghe chuyện một con đỉa đói đã cắm phập vào lưng tao và uống máu no nê tới mức nó trở nên nặng trịch và tao không vác nổi nó nữa. Rồi tao sẽ kể cho mày nghe chuyện mấy con bọ chét trên đảo Cacatúa phải đốt bảy người thì mới đủ cho bữa cocktail của chúng. Nhấc mỏ neo lên, đồ khỉ, đừng có chắn mũi tàu của tao!” Bốn Biển ra lệnh, và cứ thế đi thẳng, không để cho con đười ươi kịp phản ứng câu nào.
Khi đã tới căn phòng chứa sách, nó dừng lại ở ngưỡng cửa và lên tiếng chào bọn mèo đang tụ tập ở đó.
“Trào!” – Bốn Biển tự lên tiếng. Nó thích được nói “xin chào” bằng chất giọng khàn khó nghe nhưng ngọt ngào của Hamburg.
“Thuyền trổng! Cuối cùng anh cũng tới. Anh không biết bọn ta cần anh đến thế nào đâu!”
Chúng mau mắn kể cho Bốn Biển nghe câu chuyện của cô hải âu và những lời hứa của Zorba, những lời hứa – chúng nhấn mạnh – mà tất cả bọn mèo phải giữ.
Bốn Biển lắng nghe và gật gù rất trang trọng.
“Đồ mực mù thả bậy! Những điều kinh hoàng vẫn xảy xa trên biển. Thình thoàng tôi vẫn tự hỏi bọn người khùng hết cả rồi hay sao, họ đã biến đại dương thành một bãi rác thải khổng lồ. Tôi vừa mới đến đây sau cuộc nạo vét cửa sông Elbe và các anh không tưởng tượng nổi số rác rưởi mà thủy triều đã đánh dạt vào đó đâu. Nhiều như khe trên mai rùa biển. Chúng tôi kéo lên bao nhiêu là thùng thuốc trừ sâu, lốp xe hỏng, và hàng tấn chai nhựa đáng ghê tởm mà con người đã vứt lại trên các bãi tắm,” Bốn Biển kể, giọng bừng bừng tức giận.
“Khủng khiếp! Khủng khiếp! Nếu mọi chuyện cứ như thế này, thì chẳng mấy chốc mà từ ‘ô nhiễm’, sẽ chiếm trọn tập mười lăm, vần O mất thôi,” Einstein thở dài, hết sức căng thẳng.
“Ừm, vậy lão thủy thủ già này có thể làm gì cho con chim tội nghiệp đó?” Bốn Biển hỏi.
“Chỉ mình anh, kẻ hiểu được những bí mật của biển khơi, mới có thể nói cho chúng tôi biết con hải âu non này là trống hay mái,” Đại Tá đáp.
Chúng dẫn Bốn Biển tới chỗ con hải âu non đang ngủ ngon lành sau bữa tiệc mực ống mà Secretario – kẻ tuân theo lệnh của Đại Tá chịu trách nhiệm về thực phẩm – mang tới.
Bốn Biển khều một chân ra, xem xét đầu con chim, rồi vén mớ lông vũ bắt đầu trổ ra ở đuôi chim. Con hải âu non nhìn Zorba bằng đôi mắt đầy sợ hãi.
“Ôi, cái móng vuốt chẻ đôi cua kềnh!” Con mèo viễn dương thốt lên thích thú. “Cô hải âu mái hé nhỏ xinh đẹp này một ngày nào đó sẽ đẻ trứng nhiều như lông trên đuôi tôi vậy!”
Zorba liếm đầu con hải âu nhỏ. Nó thấy hối tiếc vì quên không hỏi tên hải âu mẹ, bởi chim con, được số trời định tiếp tục cuộc hành trình đã bị gián đoạn phũ phàng bởi tội lỗi của con người, sẽ thật hạnh phúc nếu được đặt theo tên mẹ mình.
“Dựa theo việc con chim non đã may mắn được chúng ta bảo vệ,” Đại Tá công bố, “ta đề nghị đặt tên nó là Lucky.”
“Ôi, cái mang cá mú đầy khe! Giờ thì đã có một cái tên tuyệt đẹp cho con,” Bốn Biển chúc mừng. “Ta chợt nhớ một chiếc du thuyền xinh đẹp mà ta từng thấy trên biển Baltic. Lucky cũng là tên của nó, và nó cũng được sơn phủ trắng bong y như cô hải âu bé bỏng này.”
“Tôi tin tưởng từ đáy lòng mình rằng bambina của chúng ta sẽ làm được những điều kỳ diệu. Sì, chắc chắn tên của cô bé phải có trong bộ sách to tướng kia, numero mười hai, vần L,” Secretario thêm vào.
Tất cả đều lấy làm hài lòng với cái tên Đại Tá lựa chọn. Năm con mèo đứng thành vòng tròn quanh con hải âu nhỏ, rướn lên trên hai chân sau, rồi chụm các chân trước lại tạo thành một hình vòm trên con hải âu, cùng nghi thức rửa tội theo cách những con mèo trên cảng.
“Chúng ta chào mừng con, Lucky, đứa con thân yêu của loài mèo sống trên cảng.”
“Huây! Huây! Huây!” Bốn Biển ngoao lên khoái chí.

__________________________________________________ _______________


Sì: Tiếng Ý, nghĩa là “Vâng”

Numero: Tiếng Ý, nghĩa là “số”

6. Lucky, thực sự may mắn
Lucky lớn nhanh như thổi, được bao bọc trong sự yêu thương của bầy mèo. Sau một tháng sống trong tiệm tạp hóa của Harry, nó đã ra dáng một con hải âu tuổi thiếu niên thon thả với lớp lông vũ mềm màu bạc.
Khi có khách tới tham quan tiệm tạp hóa, Lucky theo hướng dẫn của Đại Tá, co mình bất động giữa những con chim nhồi bông, giả vờ là một trong số chúng. Nhưng buổi chiều muộn, khi tiệm tạm hóa đóng cửa và lão thủy thủ già đã đi nghỉ ngơi, nó lại lạch bạch với dáng vẻ của một con chim biển đi xuyên qua các căn phòng, trầm trồ trước hàng nghìn loại vật thế chứa trong đó. Trong khi đó, Einstein điên cuồng giở hết cuốn sách này sang cuốn sách khác, tìm ra phương pháp giúp Zorba dạy con chim mới trổ cánh tập bay.
“Việc tập bay bao gồm đẩy không khí ra phía trước và phía sau. À há! Giờ thì chúng ta đã tìm ra yếu tố quan trọng,” Einstein ngâm nga, vẫn chúi mũi vào một cuốn sách.
“Tại sao con lại phải bay?” Lucky hỏi, hai cánh khép chặt vào thân.
“Bởi vì con là hải âu, mà hải âu thì phải bay,” Einstein đáp. “Với bác thì thật là khủng khiếp, thật là khủng khiếp nếu con không nhận ra điều đó.”
“Nhưng con không thích bay. Và con cũng không thích làm hải âu,” Lucky cãi lại. “ Con muốn làm mèo, mà mèo thì không bay.”
Một buổi chiều, nó lạch bạch đi tới cửa ra vào tiệm tạp hóa, ở đó có vụ đụng độ không mấy dễ chịu với con đười ươi.
“Tao không muốn phân chim quanh đây đâu, con nhỏ lòi dom kia” Matthew rít lên.
“Tại sao ngài lại gọi cháu thế, thưa ngài Khỉ?” Lucky rụt rè hỏi.
“Chim chóc con nào chẳng làm thế. Ị bậy khắp nơi. Mà mày thì đích thị là một con chim,” con đười ươi nhắc lại với vẻ hách dịch.
“Ngài nhầm rồi. Cháu là một con mèo và rất biết giữ vệ sinh,” Lucky phản ứng, tìm kiếm sự đồng cảm của con khỉ không đuôi. “Cháu dùng chung cái thùng vệ sinh với bác Einstein.”
“Thật là nực cười! Bọn khố rách áo ôm làm trò gì mà thuyết phục được mày tin rằng mày là một trong số chúng thế? Mày ngó lại mày tí coi: mày có hai chân, và mèo thì có bốn chân. Mày có lông vũ, còn chúng nó có lông mao. Còn đuôi mày? Ơ? Đuôi mày đâu ấy nhỉ? Mày cũng dở hơi chả kém gì con mèo kia, bỏ cả đời cắm đầu vào mấy cuốn sách rồi kêu lên, ‘Khủng khiếp! Khủng khiếp!’ Đồ chim đần độn. Và mày có biết tại sao lũ đó lại tỏ ra tử tế như thế với mày không? Chúng nó đang đợi mày béo nẫn ra, rồi làm thịt mày thành bữa ăn ra trò. Chúng sẽ chén tuốt cả lông lẫn xương của mày!” con đười ươi rít lên.
Chiều hôm đó, bọn mèo ngạc nhiên khi không thấy con hải âu xuất hiện để xơi món yêu thích – món mực ống mà Secretario chôm được từ bếp nhà hàng.
Cảm thấy lo lắng, bọn chúng chạy đi tìm con hải âu, Zorba tìm thấy nó buồn bã nằm rúc giữa đám thú nhồi bông. “Con có đói không, Lucky? Chúng ta có món mực đấy,” Zorba bảo nó.
Con hải âu không buồn hé mỏ.
“Con thấy trong người khó chịu à?” Zorba lo lắng hỏi, “Con có bị ốm không?”
“Má muốn con ăn để con béo tròn, ngon lành phải không?” nó hỏi mà không ngẩng đầu lên.
“Không, để con lớn nhanh và mạnh khỏe.”
“Rồi khi con béo, má sẽ mời bọn chuột tới chén thịt con phải không?” nó léc quéc, đôi mắt đẫm nước.
“Con nghe ở đâu chuyện vớ vẩn như thế hả?” Zorba ngoao lên giận dữ.
Nước mắt lưng tròng, Lucky thuật lại tất cả mọi thứ mà Matthew đã nói với nó. Zorba liếm khô nước mắt của Lucky và bỗng nhiên nhận ra mình đang giảng giải cho con hải âu nhỏ, điều mà nó chưa từng làm trước đây:
“Con là một con hải âu. Gã đười ươi đúng ở điểm đó, nhưng chỉ điểm đó thôi. Tất cả chúng ta đều yêu con, Lucky. Và chúng ta yêu con bởi vì con là một con hải âu. Một con hải âu xinh đẹp. chúng ta chưa từng phủ nhận khi nghe con nói con là mèo, bởi điều đó an ủi chúng ta rằng con muốn giống chúng ta, nhưng con khác với chúng ta và chúng ta vui với sự khác biệt đó. Chúng ta đã không cứu được mẹ con, nhưng chúng ta có thể giúp con. Chúng ta đã bảo vệ con từ khoảnh khắc con mổ vỡ lớp vỏ trứng ra đời. chúng ta đã dành cho con sự chăm sóc mà không hề nghĩ tới việc biến con thành một con mèo. Chúng ta yêu con như yêu một con hải âu. Chúng ta cảm thấy con cũng yêu chúng ta như vậy, chúng ta là bạn con, là gia đình của con, và chúng ta muốn con biết rằng nhờ con, chúng ta đã học được một điều đáng tự hào: chúng ta học được cách trân trọng ,quý mến và yêu thương một kẻ không giống chúng ta. Thật dễ dàng để chấp nhận và yêu thương một kẻ nào đó giống mình, nhưng để yêu thương ai đó khác mình thực sự rất khó khăn, và con đã giúp chúng ta làm được điều đó. Con là chim hải âu, và con phải sống cuộc đời của một con hải âu. Con phải bay. Khi con đã học hành tử tế, Lucky, ta hứa với con rằng con sẽ thấy hạnh phúc lắm, và sau đó tình cảm của chúng ta dành cho nhau thậm chí còn sâu sắc và đẹp đẽ hơn, bởi đó là tấm chân tình giữ hai loài vật hoàn toàn khác nhau.”
“Con sợ bay lắm,” Lucky léc quéc, đứng dậy.
“Khi con tập bay, ta sẽ ở đó với con,” Zorba thầm thì, liếm đầu Lucky. “Ta đã hứa với mẹ con rồi.”
Con hải âu nhỏ và con mèo mun to đùng, mập ú cùng bước đi – con mèo dịu dàng liếm đầu con hải âu và con chim duỗi một cánh vắt ngang lưng con mèo.
 
7. Học bay
“Trước khi bắt đầu, chúng ta phải ôn lại phần lý thuyết một lần nữa đã,” Einstein lên tiếng.


Từ trên nóc những giá sách, Đại Tá, Secretario, Zorba, và Bốn Biển đang tập trung theo dõi những gì đang xảy ra bên dưới. Lucky đang đứng cuối hành lang và định hướng chạy đà, còn ở đầu kia là Einstein, chùi đầu vào cuốn từ điển bách khoa tập mười hai, vần L. Nó đang mở rộng những trang sách viết về Leonardo Da Vinci, nơi có hình minh họa một loại máy kỳ cục được học giả vĩ đại người Ý gọi là “máy bay”.


“Nếu con đã sẵn sàng,” Einstein chỉ dẫn. “Trước hết chúng ta phải xác nhận độ ổn định của trục đỡ A và B.”


“Kiểm tra hai trục đỡ A và B,” Lucky nhắc lại, nhảy nhảy trên cẳng chân bên trái, rồi chân bên phải.


“Hoàn hảo. Giờ chúng ta sẽ thử độ mở của vị trí C và D,” Einstein lên giọng, nó thấy mình quan trọng không thua gì một kỹ sư NASA.
“Kiểm tra độ mở vị trí C và D,” Lucky tuân lời, dang rộng đôi cánh.


“Tuyệt vời!” Einstein nói giọng khuyến khích. “Bây giờ chúng ta làm lại một lần nữa.”
“Con mèo râu quặp cổ cong!” Bốn Biển ngoao lên. “Để cho con bé bay đi thôi!”


“Để tôi nhắc lại với anh rằng tôi là phụ trách kỹ thuật cho toàn bộ việc bay!” Einstein cãi lại.
“Mọi yếu tố cần phải được kiểm tra đầy đủ nếu không hậu quả sẽ khủng khiếp khôn lường với Lucky. Khủng khiếp!”
“Naturalmente. Anh ấy biết việc của mình mà,” Secretario nói theo.
“Đó chính là cái mà ta đang định nói.” Đại Tá sôi sục nói.
Trong suốt tuần qua, có hai chuyện đã xảy ra khiến con bọn mèo nhận ra rằng con hải âu thực sự muốn bay, cho dù nó giấu giếm cảm xúc của mình rất khéo léo.
Chuyện đầu tiên xảy ra vào một buổi chiều khi Lucky theo đám mèo đi sưởi nắng trên mái của cửa hiệu tạp hóa Harry. Sau khi khoan khoái tận hưởng những tia nắng trong chừng một tiếng đồng hồ, chúng nhìn thấy ba con chim hải âu đang bay phía trên cao, trước tầm mắt.
Ba con chim trông thật đẹp đẽ, uy quyền, phác họa một đường trên nền trời xanh biếc. Có lúc chúng tựa như bất động giữa không trung, thư thái thả mình trôi theo không khí với đôi cánh sải dài, nhưng rồi với một cử động nhẹ nhàng, chúng lao về phía trước với sự kiêu hãnh và tao nhã có thể khuấy động nỗi ghen tuông trong lòng kẻ quan sát và khiến họ cũng muốn được bay cao như chúng. Có một điều gì đó đã khiến bọn mèo rời mắt khỏi bầu trời và ngó xuống Lucky. Con chim hải âu nhỏ mải mê ngắm nhìn chuyến bay của đồng loại mà không hề nhận ra rằng mình cũng đang dang rộng đôi cánh.
“Nhìn kìa, con bé muốn bay,” Đại Tá thầm thì.
“Phải, đã tới lúc để nó học cách bay rồi,” Zorba đồng ý. “Con bé đã trở thành một con hải âu trưởng thành và khỏe mạnh.” “Lucky! Volare! Thử đi!” Secretario gào ông ổng về phía nó.
Nhưng khi nghe những lời động viên từ bạn bè, Lucky lặng lẽ thu đôi cánh rồi đi lại gần chúng.
Nó nằm xuống cạnh Zorba và bắt đầu gõ lách cách cái mỏ, giả vờ như nó đang rên rừ rừ.
Chuyện thứ hai đã xảy ra vào ngày tiếp theo, khi bọn mèo đang lắng nghe một trong những câu chuyện của Bốn Biển:
“… và như tôi đã kể, con sóng cao thật là cao, chúng tôi không tài nào nhìn thấy được bờ biển và tệ nhất là – những con cá heo miệng cười tuyệt vời – vốn vẫn là la bàn sống cho chúng tôi bị đánh dạt hết. Năm ngày năm đêm chúng tôi bị nhồi lắc trong bão biển, không hế biết tàu đang lao về phía bờ hay ra biển.
Rồi, ngay khi chúng tôi tin rằng không còn gì để hy vọng, thủy thủ hoa tiêu trông thấy một đàn chim hải âu. Chúng tôi là một đoàn thủy thủ hạnh phúc, các bạn ạ. Chúng tôi chuyển bánh lái theo hướng mà đàn chim đang bay tới, và nhờ thế chúng tôi vào được đất liền. Cá nhồng chặt khúc lắm mồm! Những con hải âu đó đã cứu mạng chúng tôi! Nếu không nhìn thấy chúng, làm sao Bốn Biển già này có thể ngồi đây mà kể chuyện cho những kẻ chỉ biết sống trên cạn các anh.”
__________________________________________________ _______________

Naturalmete: tiếng Ý, nghĩa là “Cứ để tự nhiên!”

Volare: tiếng Ý, nghĩa là “Bay lên nào!”
Lucky, kẻ luôn ngỏng cổ theo dõi những câu chuyện của con mèo viễn dương với sự tập trung cao độ, đã nghe chuyện đó với đôi mắt mở to: “Bác nói là hải âu có thể bay trong bão tố ạ?” nó hỏi.


“Sao lại không, hải âu là loài chim cứng cỏi nhất trong vũ trụ,” Bốn Biển cam đoan với nó.
“Không một loài chim nào rành rẽ chuyện bay bằng hải âu.”


Câu chuyện của con mèo viễn dương đã tác động mãnh liệt tới trái tim Lucky. Hai chân nó dộng trên nền nhà còn cái mỏ thì đập vào nhau lách cách đầy căng thẳng.


“Vậy thì, thưa quý cô Lucky, cô có nghĩ rằng mình muốn bay hay không?” Zorba hỏi.
Lucky nhìn bọn mèo, từng con một, rồi nó đáp: “Vâng! Vui lòng dạy con bay!”


Bọn mèo ngoao lên sung sướng và ngay lập tức bắt chân vào nhiệm vụ. Chúng mong đợi giây phút này đã lâu rồi. Với bản tính kiên nhẫn của loài mèo, chúng chờ cho con hải âu tự nói lên mong ước được bay lượn, bởi có một châm ngôn truyền đời đã dạy chúng rằng bay lượn là một quyết định hoàn toàn cá nhân. Sung sướng nhất là Einstein, kẻ lúc này đã thuộc nằm lòng tất cả những vấn đề cơ bản của bay lượn trong tập mười hai, vần L của bộ từ điển bách khoa, và vì thế đã gánh vác trách nhiệm chỉ đạo quá trình tập bay.
“Sẵn sàng cất cánh!” Einstein thông báo.
“Sẵn sàng cất cánh!” Lucky nhắc lại.


“Bắt đầu chạy vào đường băng bằng cách đẩy hai trụ đỡ A và B về phía sau.”
Lucky bắt đầu di chuyển về phía trước, nhưng thật chậm, như nó đang lăn trên những bánh xe hoen rỉ.
“Tăng tốc,” Einstein thúc giục.


Con hải âu lạch bạch sải chân nhanh hơn một chút.
“Rồi, mở hai vị trí C và D.”


Lucky dang rộng cánh vào lao về phía trước.
“Rồi! Nâng điểm E!” Einstein ra lệnh.
Lucky dựng lông đuôi lên.


“Còn bây giờ, nâng lên hạ xuống hai vị trí C và D để đẩy không khí ra phía sau, đồng thời nhấc điểm A và B khỏi mặt đất!”
Lucky đập đập đôi cánh, co chân, nhấc thân hình lên khỏi mặt đất vài phân, rồi ngay lập tức rơi uỵch xuống như một cục chì.
Mấy con mèo nhảy vọt khỏi giá sách và chạy vù tới chỗ nó. Chúng thấy nó nước mắt lưng tròng.


“Con thật là đồ kém cỏi! Con thật là đồ kém cỏi!” nó khóc lóc nức nở, không sao dỗ dành được.


“Không kẻ nào có thể bay được ngay trong lần đầu tiên tập cả, con sẽ học dần. Ta hứa đấy,” Zorba meo khe khẽ, liếm đầu nó.
Einstein tiếp tục nghiên cứu để tìm ra điểm sai sót, nó đọc đi đọc lại phần nói về máy bay của ngài Leonardo Da Vinci.


8. Bọn mèo quyết định phá vỡ điều cấm kị


Mười bảy lần Lucky cố gắng bay lên là mười bảy lần nó rơi ọach xuống nền nhà sau khi rướn cao được vài phân.
Einstein, thậm chí gầy gò hơn cả thường lệ, giật râu ria của nó phừn phựt khi con hải âu thất bại ở lần thứ mười hai, và với giọng run rẩy, nó cố nói lời xin lỗi.


“Tôi không hiểu. Tôi đã xem xét phần lý thuyết bay kỹ lắm rồi mà. Tôi đã đối chiếu hệ thống máy của Leonardo với tất cả mọi điều ghi trong mục khí động lực học, tập mười một, vần K của bộ từ điển bách khoa mà vẫn không thể tìm ra vấn đề là ở đâu. Thật là khủng khiếp. Khủng khiếp!”
Bọn mèo chấp nhận lời giải thích của nó và dồn mọi sự chú ý vào Lucky, cô bé sau những nỗ lực thất bại thảm hại càng trở nên buồn bã và ủ ê hơn.
Theo dõi những lần thất bại cuối cùng, Đại Tá quyết định tạm thời hoãn việc tập luyện, kinh nghiệm bản thân nói cho nó biết rằng con hải âu bắt đầu cảm thấy mất lòng tin ở chính mình, và điều đó rất nguy hiểm nếu nó tha thiết hy vọng được bay.


“Có thể nó chã bay được đâu,” Secretario nêu ý kiến. “Có thể tại nó sống vứi chúng ta lâu quá nên nó quên béng mất cách bay rồi.”
“Nếu ai đó tuân theo những chỉ dẫn kỹ thuật và chấp hành luật khí động lực học thì kẻ đó có thể bay. Đừng bao giờ quên rằng tất cả đều đã được nêu trong bộ bách khoa toàn thư này,” Einstein nhấn mạnh.


“Ôi con cá đuối gai độc khốn khổ!” Bốn Biển thốt lên. “Nó là một con hải âu, mà hải âu thì bay!”
“Nó phải bay. Tôi đã hứa với mẹ nó và cả nó nữa. Nhất định phải biết bay,” Zorba nhắc đi nhắc lại.
“Và mỗi chúng ta phải có trách nhiệm thực hiện cho được lời hứa đó,” Đại Tá nhắc nhở cả bọn.


“Phải thừa nhận là chúng ta không biết cách dạy bay cho con bé, phải tìm kiếm sự giúp đỡ bên ngoài thế giới loài mèo thôi,” Zorba tuyên bố.
“Anh thật là người thẳng thắn, caro amico. Vậy anh muốn đi đâu nào?” Đại Tá hỏi rất nghiêm túc.


“Tôi chờ đợi sự cho phép của ngài để phá bỏ cấm kỵ linh thiêng của chúng ta, lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong đời tôi,” Zorba yêu cầu, nhìn sâu vào mắt từng chiến hữu.


“Phá bỏ cấm kỵ!” bọn mèo đồng thanh ngoao lên, móng vuốt bật ra và lông lá trên lưng dựng đứng hết cả.


“Nói ngôn ngữ loài người là điều cấm kỵ” đã trở thành một điều luật đối với mèo, lý do không phải vì loài mèo không khoái giao tiếp với người. Sự nguy hiểm nằm ở chỗ liệu con người sẽ phản ứng ra sao. Họ sẽ làm gì với một con mèo biết nói? Gần như chắc chắn là họ sẽ nhốt nó vào lồng, bắt nó phải chịu qua hàng đống những thí nghiệm ngu ngốc, bởi vì nói chung, con người không thể chấp nhận việc một sinh vật khôn giống họ lại có thể hiểu họ và cố gắng làm cho họ hiểu nó. Loài mèo tất nhiên đã nhận thức rất rõ từ số phận đáng buồn của cá heo, chỉ vì chúng đã phô diễn trí thông minh cho loài người – những kẻ đã kết án chúng phải diễn trò như thể bọn hề trong những khu biểu diễn dưới nước.


Và mèo cũng biết rõ những hành động sỉ Tui<3KumaTui<3KumaTui<3KumaTui<3Kuma khác của con người với bất cứ loài động vật nào phô trương trước họ trí thông minh và khả năng lĩnh hội. Sư tử là một ví dụ, bọn mèo lớn đùng đó đã bị bắt sống sau song sắt. Chúng phải chịu nỗi xấu hổ khi để cho mấy kẻ ngu ngốc kê đầu giữa hai hàm răng.


Và bọn vẹt nữa chứ, chúng phải sống trong lồng, nhại đi nhại lại mấy câu nói nhảm nhí của con người quanh năm suốt tháng. Vì vậy, nói tiếng người thực sự là một hành động liều chết của loài mèo.


“Anh ở đây với Lucky. Chúng tôi sẽ ra một chỗ yên tĩnh để họp bàn về yêu cầu của anh,” Đại Tá ra lệnh.

Cuộc họp của bọn mèo diễn ra phía sau những cánh cửa đóng chặt, kéodài rất lâu. Hàng giờ liền Zorba phải nằm bò ra sát cạnh con hải âu đang thất vọng vì không thể bay.
Khi bọn mèo họp xong, đêm đã xuống. Zorba nhón gót về phía chúng để nghe quyết định.


“Hội đồng mèo ở cảng cho phép anh phá vỡ điều cấm kỵ - chỉ một lần duy nhất. Anh chỉ được nói với riêng một con người, nhưng trước hết chúng ta phải quyết định kẻ nào trong số họ được lựa chọn,” Đại Tá trịnh trọng công bố.
 
9. Chọn lựa con người
Quyết định ai sẽ là người để Zorba hỏi ý kiến thật không dễ dàng gì. Bọn mèo lập ra một danh sách những con người mà chúng biết, rồi bắt đầu loại dần từng người một.

“Réne, bếp trưởng tại nhà hàng là một con người tử tế, hào hiệp, không nghi ngờ gì nữa. Ông ấy luôn để dành một phần các món đặc sản cho chúng tôi, Secretario và tôi được ăn uống với niềm hạnh phúc. Nhưng những gì Réne tốt bụng của chúng tôi biết chỉ là gia vị và chảo nấu, ông ấy không thể giúp ích gì nhiều trong trường hợp này,” Đại Tá quả quyết.

“Harry cũng vậy, thực là một người tốt. Ông ấy biết cảm thông và thân thiện với tất cả, thậm chí cả cái thằng Matthew kia. Nó được ông ấy bỏ qua cho nhiều hành động khủng khiếp, khủng khiếp! Ví dụ như việc nhúng cả người vào dầu hoắc hương, thứ bốc mùi khủng khiếp. Khủng khiếp lắm! Tuy nhiên, cho dù Harry có thể biết rất nhiều về biển và tàu bè, nhưng khi chuyển sang mục bay lượn thì ông ấy chẳng biết gì cả,” Einstein góp lời.
“Carlo, người phục vộ tại il ristorante, nói rằng tôi thộc về anh ấy và tôi để cho anh ấy tin thế vì

đó quả thực là một gã bạn tốt. Tôi phải lấy làm buồn khi nói rằng, dù anh ấy rành rẽ về bóng đá, bóng rổ, bóng chuyền, đua ngựa, hộp đêm, và nhiều thứ khác, nhưng anh ấy chưa từng đả động lần nào về chuyện bay cả,” Secretario nói.

“Thuyền trưởng của tôi là một người tốt, tấm lòng thực là nhân ái, như trong lần ẩu đả gần đây nhất tại quán bar ở Antwerp, ông ấy đã đánh lại mười hai gã dám xúc phạm mình và chỉ để cho một nửa trong số chúng bay khỏi vòng chiến đấu. Nhưng ôi cái vỏ trai chứa âm thanh của biển, ông ấy chỉ cần leo lên ghế thôi đã hoa mắt chóng mặt. Tôi không thấy ông ấy giúp được gì mình đâu,” Bốn Biển thêm vào giọng chắc nịch.


“Cậu chủ nhà tôi có thể thông cảm,” Zorba nói. “Nhưng giờ cậu ấy đang đi nghỉ, và, dù sao đi nữa, một cậu bé thì có thể biết gì về bay lượn cơ chứ?”
“Porca miseria! Thế là danh sách của chúng ta đã hết sạch rồi,” Đại Tá gừ lên.

“Không. Vẫn còn một con người chưa được đưa vào danh sách của chúng ta,” Zorba phản đối.“Người sống cùng Angelina.”
Angelina là một con mèo khoang đen trắng xinh đẹp, thường tận hưởng sự thư thái giữa các chậu hoa trên sân thượng hàng giờ liền. Và tất cả đám mèo đực rựa khắp cảng diễu thành hàng từ từ qua trước mặt cô nàng, phô trương vẻ dẻo dai của th.ân thể, màu sáng bóng của lớp lông chải chuốt, độ dài của các hàng ria, vẻ thanh lịch của cái đuôi thẳng giương cao chỉ để gây ấn tượng với cô. Nhưng Angelina khác biệt với tất cả bọn chúng, cô nàng chỉ chấp nhập tình thương mến từ chủ, người ngồi trên sân thượng hết giờ này qua giờ khác với cái máy đánh chữ.
Ông ta là một con người lạ lùng – kẻ thỉnh thoảng lại phá lên cười sau khi đọc lại thứ mình vừa viết ra, rồi khi khác lại đóng sập những bản thảo đó mà không thèm đọc gì hết. Sân thượng nhà ông ta luôn êm ái ngập tràn thứ âm nhạc dịu dàng và sầu muộn khiến Angelina trở nên uể oải và làm những gã mèo đực đi qua phải thở dài.
“Chủ của Angelina? Sao lại là ông ta?” Đại Tá hỏi.
“Tôi không biết. Nhưng tôi cảm thấy mình có thể tin con người đó.” Zorba thú nhận. “Tôi đã nghe ông ấy đọc những gì chính ông ấy viết. Những ngôn từ đẹp đẽ đó có thể làm anh hạnh phúc hay u sầu, nhưng chúng luôn mê hoặc anh và khiến anh cảm thấy muốn nghe thêm nữa.”
“Một thi sĩ! Thứ người đó viết được gọi là thơ ca. Tập hai mươi, vần T, trong bộ từ điển bách khoa,” Einstein quả quyết.
“Tại sao anh nghĩ rằng người chủ của Angelina biết về chuyện bay?” Secretario thắc mắc.
__________________________________________________ _______________

1
Il ristorante: Tiếng Ý, nghĩa là “nhà hàng”
2
Porca miseria: Tiếng Ý, nghĩa là “Thật là khốn khổ!”
“Có thể ông ấy không biết làm thế nào để bay với đôi cánh của loài chim, nhưng mỗi khi tôi nghe ông ấy đọc, tôi luôn cảm thấy ông ấy đang bay bổng cùng với ngôn từ của mình,” Zorba trả lời.


“Những ai đồng ý rằng Zorba nên tới gặp người chủ của Angelina, vui lòng giơ chân trước bên phải lên,” Đại Tá cao giọng.
Và đó là cách chúng đi đến quyết định cho phép Zorba được hỏi ý kiến thi sĩ.
10. Một mèo cái. Một mèo đực. Và một thi sĩ.


Zorba bắt đầu chạy băng qua các mái nhà về phía sân thượng của con người đã được lựa chọn.
Khi thấy Angelina đang duyên dáng dựa mình giữa mấy chậu hoa, nó trân trân nhìn rồi thở dài trước khi cất tiếng. “Angelina, đừng hoảng nhé. Tôi ở trên này.”

“Anh muốn gì? Anh là ai?” Cô nàng xinh đẹp giật mình, lên tiếng hỏi.


“Xin đừng bỏ đi, làm ơn. Tôi tên là Zorba và tôi sống ở gần đây. Tôi cần sự giúp đỡ của cô. Tôi xuống đó được không?”
Angelina gật đầu. Zorba bò xuống dưới sân thượng và ngồi quỳ trên hai chân sau. Angelina tiến lại hít nó.


“Anh có mùi của sách, của hơi ẩm, của quần áo cũ, của một con chim, của bụi bặm, nhưng lớp lông của anh lại sạch sẽ,” Angelina kết luận.
“Đó là các loại mùi từ cửa tiệm tạp hóa Harry. Đừng có ngạc nhiên nếu tôi cũng bốc mùi của một con đười ươi,” nó cảnh cáo cô nàng.
Thứ âm nhạc dìu dặt văng vẳng vọng ra sân thượng.


“Âm nhạc tuyệt vời quá!”
“Của Vivaldi. Bản giao hưởng Bốn Mùa. Anh muốn gì ở tôi?” Angelina thắc mắc.
“Tôi muốn cô dẫn tôi vào trong và giới thiệu với chủ của cô,” Zorba trả lời.


“Không đời nào. Ông ấy đang làm việc và không một ai, ngay cả tôi, được phép làm phiền ông ấy,” cô nàng mèo nói.
“Làm ơn đi mà, đây là vấn đề cấp bách lắm. Tôi cầu xin cô nhân danh tất cả mèo sống ở bến cảng này,” Zorba van nài.
“Tại sao anh phải gặp với ông ấy?” Angelina hỏi, tỏ ra thoáng chút nghi ngờ.


“Tôi cần nói chuyện với ông ấy,” Zorba nói chắc gọn.


“Đó là điều cấm kị!” Angelina ngoao lên, lông trên lưng của cô nàng dựng ngược. “Đi ngay khỏi đây!”
“Không đời nào. Và nếu cô không mời tôi vào… ờ, thế thì dẫn ông ấy ra đây! Cô có khoái nghe rock không hả, người đẹp?”


Bên trong, người được chọn đang gõ máy chữ. Ông đang phấn khởi sắp hoàn thành một tác phẩm và những vần thơ tuôn ra như nước. Đột nhiên, từ phía sân thượng, ông ta nghe thấy tiếng ngoao ngoáo của một con mèo, không phải là Angelina. Tiếng con mèo gào rõ ràng chẳng theo một giọng nào, nhưng xem chừng lại có nhịp điệu. Nửa bực mình, nửa hiếu kỳ, ông ta bước ra ngoài sân thượng rồi phải dụi mắt để tin vào những điều mình đang nhìn thấy.


Angelina đang lấy hai chân trước bịt tai lại, trước mặt cô nàng là một con mèo mun, to đùng, mập ú đang ngồi lên hai cẳng chân sau, dựa mình vào một chậu hoa. Nó lấy một chân trước nắm lấy đuôi như thể đó là cái cần đàn guitar bass, còn chân kia thì đang giả vờ gẩy đàn tưng tửng trong khi vẫn gào lên ngoeo ngoéo không ngừng.


Khi đã hết ngạc nhiên, con người không thể nào nhịn được cười, và khi ông ta phải cúi gập về phía trước, ôm lấy bụng vì cười dữ quá, Zorba chớp lấy cơ hội để trườn nhanh vào trong nhà.


Khi còn đang mềm oặt cả người ra vì cười, người đó trở vào trong, ông nhìn thấy con mèo đen, to đùng, mập ú ngồi thù lù trên ghế.
“Thật là một buổi diễn ra trò! Mày đúng là một gã Don Juan ngon lành, nhưng ta e là Angelina không ưa nhạc của mày cho lắm. Một màn trình diễn hết sẩy đấy!” Người đó nói.


“Tôi biết tôi là một ca sĩ dở ẹc. Không ai hoàn hảo cả,” Zorba đáp lại bằng ngôn ngữ của loài người.
Con người há hốc miệng, đập một tay lên đầu rồi ngã dựa vào tường.
“Mày.. mày… đang nói,” ông thốt lên.


“Ông cũng đang nói đấy thôi và tôi chẳng ngạc nhiên gì cả. Vui lòng bình tĩnh lại đi nào,” Zorba nói.
“Một… một con mèo… nó nói!” Giờ thì con người ngã vật xuống ghế bành.


“Tôi không nói, tôi chỉ kêu meo meo thôi, nhưng bằng ngôn ngữ của các ông. Tôi biết cách meo bằng nhiều ngôn ngữ,” Zorba đáp.
Con người đó lấy tay che mắt và nhắc đi nhắc lại, “Mình chỉ đang mệt quá thôi. Mình chỉ đang mệt quá thôi.” Khi ông ta bỏ tay ra, con mèo đen, to đùng, mập ú vẫn đang ngồi chình ình trên ghế.


“Tao đang bị ảo giác. Mày chỉ là một ảo giác thôi đúng không?” Con người đó hỏi.


“Không, tôi là một con mèo bằng xương bằng thịt đang ngồi đây trò chuyện với ông,” Zorba khẳng định với ông ta. “Cộng đồng mèo ở cảng đã chọn ông, từ rất nhiều con người để phó thác một vấn đề rất lớn. Chúng tôi hy vọng ông sẽ giúp đỡ. Ông không bị khùng đâu. Tôi có thật.”
“Anh bạn bảo anh có thể nói được nhiều ngôn ngữ?” Con người hỏi, vẫn còn nghi hoặc.


“Tôi cho rằng ông cần minh chứng. Tốt thôi, cứ việc thử tôi.”
“Buon giorno,” con người nói.


“Bây giờ đã là cuối ngày rồi. Nói Buon Sera thì tốt hơn,” Zorba chỉnh lại.
“Kalimera,” con người đó nhấn giọng bằng tiếng Hy Lạp.


“Kalispera, tôi đã bảo ông là bây giờ muộn rồi mà,” Zorba đính chính lần thứ hai.
“Dobroye utro!” Con người đó gào lên bằng tiếng Nga.
“Dobry den. Giờ thì ông tin tôi chưa?” Zorba hỏi.


“Rồi. Và kể cả nếu đây là một giấc mơ thì đã sao? Ta thích nó và muốn tiếp tục mơ,” con người trả lời.
“Tốt, giờ chúng ta vào việc thôi,” Zorba đề nghị.


Con người gật đầu, nhưng ông ta muốn Zorba phải tôn trọng những nghi thức giao tiếp của loài người. Ông ta thết Zorba một liễn sữa, rồi ông ngồi xuốn ghế bành với một ly cô-nhắc trong tay. “Nói đi, anh bạn mèo,” con người đó bảo, và Zorba liền kể lại cho ông ta nghe câu chuyện về cô hải âu hấp hối, quả trứng, Lucky bé bỏng, và những nỗ lực vô vọng của bọn mèo để dạy cho nó bay.


“Ông có thể giúp chúng tôi được không?” Zorba hỏi khi kết thúc câu chuyện của loài mèo.
“Ta nghĩ là ta có thể. Ngay chính đêm nay,” con người đó đáp lại.
“Ngay chính đêm nay. Ông chắc chứ?”


“Nhìn ra cửa sổ xem, anh mèo. Hãy ngước nhìn bầu trời. Anh thấy gì nào?” Con người đó hỏi.
“Mây. Mây đen. Một cơn bão đang tới, trời sắp mưa rồi,” Zorba quan sát.
“Phải, vì thế mà chính là đêm nay đấy,” con người nói.


“Tôi không hiểu. Xin lỗi ông, nhưng tôi chưa hiểu”
Con người đó tiến tới bàn, nhặt lên một cuốn sách rồi lần tìm qua các trang. “Nghe này, anh mèo.
Tôi sẽ đọc cho anh nghe một tác phẩm của nhà thơ có tên Bernardo Atxaga. Một vài dòng trong bài thơ có tựa đề là “Những con hải âu”
“Nhưng những trái tim nhỏ bé


Những trái tim của thần bay lượn
Không khao khát gì hơn
Những cơn mưa hoang dại
Những cơn mưa mang lại luồng gió thổi
Những cơn mưa mang lại ánh mặt trời”

__________________________________________________ ______________

Buon giorno: Tiếng Ý, nghĩa là “chào buổi sáng”

Buon sera: Tiếng Ý, nghĩa là “chào buổi tối”

Kamilera: Tiếng Hy Lạp, nghĩa là “chào buổi sáng”

Kalispera: Tiếng Hy Lạp, nghĩa là “chào buổi tối”

Dobroye utro: Tiếng Nga, nghĩa là “chào buổi sáng”

Dobry den: Tiếng Nga, nghĩa là “chào buổi tối”
“Tôi hiểu rồi. Tôi biết là ông sẽ giúp được chúng tôi mà,” Zorba nói, nhảy bật khỏi chiếc ghế.
Họ thống nhất rằng sẽ gặp lại lúc nửa đêm, bên ngoài hiệu tạp hóa, và con mèo mun, to đùng, mập ú lao đi để thông báo lại cho bạn bè mình.


11. Bay


Cơn mưa lớn đổ ập xuống Hamburg, từ những khu vườn, mùi đất ẩm ướt sực lên. Mặt đường trải nhựa lấp lóa sáng, và những bóng đèn neon phản chiếu nhập nhòe trên những vỉa hè ướt. Một người đàn ông rảo bước trên con phố hoang vắng về phía Hiệu tạp hóa Bến cảng Harry.
“Không đời nào!” Con đười ươi rít lên. “Kể cả chúng mày có ngoáy năm mươi cái móng vào lỗ dom tao, tao cũng không mở cửa cho chúng mày đâu!”
“Nhưng không ai muốn đánh anh cả. Chúng tôi chỉ muốn anh giúp đỡ,” Zorba nài nỉ.


“Giờ bọn tao mở cửa là từ chín giờ sáng tới sáu giờ tối. Đó là quy định, và nó phải được tôn trọng.”
“Đồ sứa bầy nhầy! Mày không thể thành một gã trai tử tế chỉ một lần trong đời mày sao, đồ khỉ?” Bốn Biển ngoao lên.
“Làm ơn đi mà, ngài Khỉ,” Lucky van vỉ.


“Không là không! Quy định cấm tao chìa tay ra mở cánh cửa mà bọn khố rách áo ôm tay không ngón chúng mày không thể mở được,” Matthew rít lên đầy khinh bỉ.
“Mày là một con linh trưởng khủng khiếp! Khủng khiếp!” Einstein lẩm bẩm.


“Có một người đàn ông ngoài kia đang nhìn đồng hồ đeo tay,” Secretario la lên, trỏ trỏ chân qua cửa sổ.
“Ông nhà thơ đấy! Không còn thì giờ nữa đâu!” Zorba nói, lao hết tốc lực về phía cửa sổ.


Khi tiếng chuông của nhà thờ Thánh Michael bắt đầu ngân lên báo nửa đêm, con người trên phố giật bắn mình khi nghe tiếng kính vỡ. Con mèo đen, to đùng, mập ú nhảy phốc xuống mặt phố giữa đám mưa mảnh thủy tinh mù mịt, nhưng nó lại lấy đà, không hề chú ý tới vết rách trên đầu, rồi lại nhảy ngược lên khung cửa sổ mà nó vừa đâm xuyên qua.


Con người kia chạy lại đúng lúc mấy con mèo đang kéo con hải âu lên bậu cửa sổ. Đằng sau bọn mèo, một con đười ươi đang run rẩy lấy tay ôm mặt cố bịt mắt, bịt tai, bịt miệng cùng một lúc.


“Đón lấy con bé. Đừng để cho nó bị mảnh kính cắt phải,” Zorba lên tiếng nhắc.


“Nhảy xuống đây, cả hai bạn,” con người nói, ôm cả con mèo và con hải âu trong vòng tay.


Con người gấp rút rời khỏi cửa sổ hiệu tạp hóa. Bên dưới lớp áo mưa, ông mang theo một con mèo mun, to đùng, mập ú và một con hải âu có lớp lông màu bạc.


“Bọn cặn bã! Quân kẻ cướp! Chúng mày sẽ phải trả giá!” Con đười ươi rít lên.


“Cho mày đáng đời! Mày biết mai ông Harry sẽ nghĩ gì không? Rằng chính mày đã đập vỡ cửa kính,” Secretario nói.
“Hoan hô,” Đại Tá líu cả lưỡi. “Cho mày nhớ cái lần mày dám thụi tao.”


“Cá chuồn phi gấp! Chạy lên nóc nhà thôi, anh em ơi! Phải xem Lucky của bọn mình bay mới được,” Bốn Biển lên tiếng gọi.
Con mèo mun, to đùng, mập ú đang rất thoải mái dưới lớp áo mưa, tắm trong hơi ấm của con người đang sải những bước nhanh, mạnh. Chúng có thể nghe thấy tiếng ba trái tim đập với những nhịp điệu khác nhau, nhưng đều đang đập mãnh liệt.


“Anh có bị đau không, anh mèo?” Con người hỏi khi trông thấy những vết máu khô đọng trên vệt áo mưa.
“Chẳng đáng bận tâm. Chúng ta đang đi đâu đây?” Zorba hỏi.
“Má hiểu được con người đó nói gì hả má?” Lucky lép chép.


“Ừ. Ông ấy là một con người tử tế và sẽ giúp con bay,” Zorba trấn an con hải âu.
“Anh có hiểu được con hải âu nói gì không?” con người hỏi.


“Nói cho tôi hay chúng ta đang đi đâu đi,” Zorba lại nhắc thêm lần nữa.

“Chúng ta không đi đâu cả, chúng ta đang ở đó rồi,” con người đáp.


Zorba ló đầu ra. Họ đã dừng lại trước một tòa nhà cao vút. Nó ngẩng lên và nhận ra đó chính là tháp chuông nhà thờ Thánh Michael, được chiếu sáng chói bởi hàng chục ngọn đèn pha. Ánh sáng tập trung vào một khối kiến trúc đơn giản với những lớp đồng mạ đã bị thời gian, mưa gió để lại lớp gỉ màu xanh.


“Xem chừng cửa bị khóa rồi,” Zorba ngao ngán bảo.


“Không phải tất cả các cửa đâu,” con người nói. “Ta thường lên đây vào những đêm bão tố để hút thuốc và suy ngẫm về nỗi cô đơn. Ta biết một lối vào.”


Họ ngoặt vào một góc rồi bước qua cánh cửa bên mà con người nậy ra bằng một lưỡi dao. Ông lôi từ túi ra một cái đèn pin và nhờ vào ánh sáng yếu ớt của nó, họ bắt đầu leo lên một cầu thang xoắn vòng tưởng chừng như không bao giờ hết.
“Con sợ,” Lucky thốt lên.


“Nhưng con muốn bay, phải không?” Zorba hỏi.


Từ tòa tháp chuông nhà thờ Thánh Michael, họ có thể nhìn thấy toàn bộ thành phố. Mưa bao phủ cả tháp truyền hình, và trên bến cảng, những chiếc cần trục trông như những con thú đang say ngủ.


Zorba trỏ về phía một ngôi nhà có ánh sáng. “Trông kìa, hiệu tạp hóa của Harry. Nơi bạn bè chúng ta đang đứng đấy,” Zorba nói.
“Má ơi, con sợ lắm!” Lucky lại kêu lên.


Zorba nhảy lên lan can bao quanh tháp chuông. Phía dưới, những phương tiện giao thông đang nhung nhúc bò như đám côn trùng với cặp mắt sáng chói. Con người nâng con hải âu trên bàn tay.


“Không! Con sợ lắm! Zorba! Zorba ơi!” Lucky òa lên khóc, mổ chong chóc vào bàn tay con người.
“Khoan đã! Đặt con bé xuống lan can đi,” Zorba nói với con người.
“Tôi không định thả nó xuống đâu,” con người đáp.


“Con chuẩn bị bay rồi, Lucky à. Hít một hơi thở sâu. Hãy cảm nhận làn mưa. Đó là nước. Trong cuộc đời, con sẽ có rất nhiều lý do để hạnh phúc. Một trong những thứ đó là nước, thứ khác là gió, thứ khác nữa là mặt trời, và đó luôn là món quà đến sau những cơn mưa. Hãy cảm nhận mưa đi. Dang đôi cánh của con ra,” Zorba điềm tĩnh nói.


Con hải âu xòe đôi cánh. Những chiếc đèn pha tưới nó đẫm trong ánh sáng, và nước mưa vương trên bộ lông nó như những viên ngọc trai. Con người và con mèo quan sát nó ngẩng đầu lên, mắt nhắm nghiền.


“Mưa. Nước. Con thích chúng,” nó nói.
“Con sắp bay,” Zorba nói thêm lần nữa.


“Con yêu má, Zorba. Má là con mèo tuyệt vời nhất thế giới,” Lucky nói, di chuyển về góc chót của dãy lan can bao quanh.
“Con sẽ bay. Cả bầu trời kia sẽ thuộc về con.”


“Con sẽ không bao giờ quên má và cả các bác mèo.” Lucky đã chấp chới vươn nửa bàn chân ra khỏi gờ lan can, đúng như bài thơ của Atxaga đã nói, nó mang trái tim của thần bay lượn.


“Bay đi!” Zorba la lên, chìa ra một bàn chân và hích con hải âu một cái thực là khẽ.


Lucky biến mất khỏi tầm nhìn, con người và con mèo sợ đến chết khiếp. Nó rơi thằng xuống như một viên đá. Nín thở, họ vươn ra ngoài lan can, và rồi họ thấy con hải âu, đang đập cánh, lượn qua bãi đỗ xe, rồi họ dõi theo nó bay cao lên, cao hơn cả cái phong hướng tiêu mạ vàng đang tôn vinh vẻ đẹp độc nhất vô nhị nhà thờ Thánh Michael.


Lucky bay một mình trong đêm quanh thành phố Hamburg. Nó bay đi xa, đập nhanh đôi cánh của mình, cho tới khi đã bay cao vượt trên cả những cái cần trục ở cảng, cao vượt trên cả những cột buồm, và rồi nó quay trở lại, lướt đi, đảo hết vòng này đến vòng khác quanh tháp chuông nhà thờ.
“Con đang bay! Má Zorba! Con biết bay rồi!” Con hải âu la lên ngây ngất từ bầu trời xám xịt bao la.

Con người vỗ lưng Zorba. “Đó, anh mèo, chúng ta làm được rồi,” ông ta nói, thở phào.

Zorba ngẩn ra ngẫm nghĩ mất một lúc. “Phải. Từ chỗ không biết gì con bé đã thấu hiểu được điều quan trọng nhất,” Zorba.
“Ô, thế sao? Đó là cái gì?” con người hỏi.

“Chỉ những kẻ thực sự dám thì mới có thể bay.”

Ta chuẩn bị đi xuống đây. Ta đợi anh bên dưới,” con người nói rồi bước đi.

Zorba ngồi đó, dõi theo con hải âu cho tới lúc nó không biết những giọt mưa hay nước mắt đã phủ mờ đôi mắt màu vàng của con mèo mun to đùng, mập ú… một con mèo tử tế, cao quý, một con mèo của bến cảng.


Laufenburg, Cánh Rừng Đen, 1996
 
gigabook-Kinh-Van-Hoa-Bo-Mong-2012-Tap-19-Cu-Nhay-Kinh-Hoang-.jpg
Kính vạn hoa - Tập 19 - Cú nhảy kinh hoàng
Tác giả:
Nguyễn Nhật Ánh

Khi nhìn rõ hai bóng người quái dị đó, Quý ròm như không tin vào mắt mình. Cơ thể họ trơn nhẫy, sáng lấp lánh, đầu cổ nhẵn nhụi không một cọng tóc và gương mặt họ mới khiếp đảm làm sao, chẳng thấy mũi, miệng đâu, chỉ có hai hốc mắt thi thoảng chớp chớp. Họ là ai? Hay chính là những người đến từ hành tinh khác?

Chương 1

Xe sắp sửa lên dốc cầu thì bị nghẽn. Thoạt đầu Tiểu Long còn cố chống chân nhích từng quãng, sau nó đành phải khựng lại. Bốn bề người như nêm, lách trái lách phải đều bít lối.

- Kẹt rồi!

Tiểu Long than. Nó nói không quay đầu lại nhưng Quý ròm vẫn nghe rõ.

- Đợi một chút vậy!

Quý ròm nói và đưa đôi mắt tuyệt vọng nhìn quanh. Thế này thì khó thoát! Quý ròm nhìn đám xe cộ kìn kìn kéo tới mỗi lúc một đông, chiếc trước chiếc sau hăm hở đùn cục vào nhau, lo lắng nhủ bụng.

Dạo này thành phố rất hay kẹt xe. Đường xá cũng vẫn thế thôi nhưng xe cộ dường như mỗi ngày một lắm nên cứ đúng vào giờ đi làm hoặc giờ tan sở là các ngã ba, ngã tư chật ních những xe và xe, tiếng động cơ gầm gừ, rú rít hoà vào tiếng người thúc hối, cãi cọ, náo động cứ như họp chợ.

Đang nghĩ ngợi lan man, Quý ròm bỗng giật mình:

- Ủa! Nhưng giờ này đâu phải giờ tan sở! Sao nạn kẹt xe lại xảy ra lúc ba giờ chiều, lạ vậy kìa?

Nó liền thúc vào hông Tiểu Long:

- Ráng lách lên đi mày!

Tiểu Long ngạc nhiên:

- Chi vậy?

- Xem thử đằng trước đang xảy ra chuyện gì!

Chiều ý bạn, Tiểu Long bặm môi luồn qua lách lại giữa những bánh xe và những cẳng chân. Nhưng nó cũng chỉ len lỏi được một quãng ngắn. Rồi dừng xe lại, thở đánh thượt:

- Chịu thôi! Không thể nào tiến tới được nữa!

- Không tiến tới được thì thôi! – Giọng Quý ròm ỉu xìu, rồi nó tặc tặc lưỡi – Mày trông thấy gì đằng trước không?

Tiểu Long không nhích tới được, nhưng đứng ở chỗ này dù sao cũng nhìn rõ mọi thứ hơn chỗ cũ. Nó nhỏm người trên yên xe dòm dỏ một hồi rồi quay đầu lại:

- Chẳng biết có chuyện gì ở giữa cầu mà người ta bu đen kịt!

Thông báo của Tiểu Long khiến Quý ròm muốn khóc thét:

- Chuyện đó chẳng cần mày nói tao cũng biết! Tao chỉ muốn biết chuyện gì khiến "người ta bu đen kịt" kìa!

Tiểu Long quay lại nghiêng ngó thêm một lúc rồi lắc đầu:

- Tao không thấy rõ! Nhưng tao đoán là đụng xe!

- Hừ, đoán! – Quý ròm nhăn nhó – Thế sao mày không đoán là có người nhảy sông tự vẫn?

Quý ròm vừa nói xong, ở đằng trước lửa bỗng phừng lên rồi giữa vòng tròn người ken dày đang rùng rùng dãn ra, hai bóng người cháy rực như hai cây đuốc xẹt về phía mép cầu và lao thẳng ra khoảng không, rơi vụt xuống dưới.

Cảnh tượng kinh hoàng kia tuy xảy ra ở giữa dốc cầu nhưng đứng từ xa, ai cũng có thể nhìn thấy. Hàng loạt những tiếng la hoảng, tiếng thét lạc giọng thoáng chốc vang lên, rền như sấm.

- Ối! – Lưỡi Quý ròm như ríu lại – Có người nhảy sông thật!

Còn Tiểu Long thì đưa tay ôm mặt:

- Ôi, ghê quá! Lại tự thiêu nữa!

Làn sóng người chung quanh ùn ùn chuyển động. Dường như quên mất mình đang bị kẹt cứng, ai cũng muốn vọt tới trước, vì thế đã kẹt lại càng kẹt.

Sau thoáng sững sờ, Quý ròm hấp tấp nhảy xuống khỏi xe, đập vội lên vai Tiểu Long:

- Mày đợi ở đây nhé!

- Ê! – Tiểu Long quýnh quíu – Mày chạy đi đâu thế?

Nhưng Quý ròm không đủ thì giờ trả lời bạn. Nhoáng mắt, nó đã lẫn vào đám đông, hối hả chen lên phía trước.

Khi Quý ròm len được vào đám đầu cổ đang lúc nhúc bu đặc thành cầu, mồ hôi đã ướt đẫm lưng áo. Nhưng Quý ròm không màng đến điều đó. Nó đang lo ngay ngáy cho tính mạng của hai người vừa rồi, e rằng nếu không chết cháy ắt họ cũng chết chìm dưới nước.

Quý ròm hồi hộp thò đầu ra thành cầu dòm xuống mặt sông.

Đã không nhìn thì thôi, khi ngó xuống mặt sông đang dợn sóng, mồm Quý ròm không khỏi há hốc. Ơ kìa, sao lạ quá! Đập vào mắt nó là hai bóng người đang bì bõm lội vào bờ giữa tiếng reo hò hớn hở của những người đứng trên thành cầu. Ôi, thế ra họ không chết! – Quý ròm thở ra, ngực nó đã thôi chèn đá, nhưng rồi nó lại ngỡ ngàng tự hỏi - Nhưng tại sao đã muốn tự tử, bây giờ họ lại bơi vào bờ? Hay là đến phút chót họ bỗng cảm thấy quyến luyến cuộc sống và đổi ý?

Không trả lời được nhưng câu hỏi đang quay cuồng trong óc, Quý ròm tò mò giương mắt ngắm hai bóng người lúc này đang men theo bờ cỏ, chậm chạp leo lên cầu.

Hai bóng người càng lúc càng đến gần. Và khi Quý ròm nhìn rõ tướng mạo của họ, người nó giật bắn như chạm phải điện.

Quả thật hai bóng người trước mắt nó nom quái dị không thể tả! Căn cứ vào thân hình, họ có vẻ là một nam một nữ, nhưng cơ thể họ trơn nhẫy, sáng lấp lánh, đầu cổ nhẵn nhụi không một cọng tóc, và gương mặt họ mới kinh làm sao, chẳng thấy mũi miệng đâu, chỉ có hai hốc mắt thỉnh thoảng chớp chớp.

Hay đây là những người đến từ hành tinh khác như mình vẫn thường nghe mô tả? Quý ròm hoang mang nghĩ và như không đừng được, nó thót bụng bước lui một bước.

Trong rừng người rậm rạp trên cầu, trẻ con hiếu kỳ như Quý ròm có đến hàng đống. Nhưng khác với Quý ròm, bọn trẻ này bạo dạn tợn. Bốn, năm đứa đi lẽo đẽo theo "người ngoài hành tinh", chả tỏ vẻ gì sợ sệt. Thậm chí có đứa còn quẹt tay vào "người ngoài hành tinh" rồi cười lên thích thú:

- Hà hà, tao phải xin mẹ tao may cho một bộ quần áo như vậy mới được!

Thoạt nghe thằng nhóc láu lỉnh kia nói, Quý ròm chả hiểu gì cả. Nhưng khi hai "người ngoài hành tinh" đi ngang qua trước mặt thì Quý ròm chợt vỡ lẽ.

Ở khoảng cách gần, Quý ròm nhanh chóng nhận ra hai người này đang mặc một chiếc áo liền quần, may bằng thứ vải đặc biệt trơn láng. Vải màu bạc, lại đẫm nước nên dưới nắng chiều nom óng ánh như kim loại.

Đầu họ chụp một chiếc nón may bằng thứ vải cùng loại, kín tới tận ót, nên lúc nãy Quý ròm tưởng họ không có tóc. Còn gương mặt dị dạng kia thì không còn nghi ngờ gì nữa, đích thị là mặt nạ.

Khi khám phá ra những điều đơn giản đó, Quý ròm không khỏi tự cười thầm mình. Nhưng rồi nó chợt ngẩn ra: Những người này là ai mà ăn mặc kỳ quái thế? Họ nhảy xuống sông làm gì để rồi phải loay hoay trèo lên? Và khi nãy rõ ràng họ cháy phừng phực như hai bó đuốc kia mà, sao bây giờ nom họ dường như họ chẳng hề hấn gì?

Những thắc mắc trong đầu khiến Quý ròm mất hẳn rụt rè. Noi gương bọn trẻ trước mặt, nó cố chen vào giữa đám đông, hồi hộp lần theo hai con người kỳ dị nọ.

Hai "người ngoài hành tinh" kia chẳng đi đâu xa. Ở chính giữa cầu, một đám đông đứng xúm xít quanh một người đàn ông đứng tuổi, đeo kính, mũ thùm thụp trên đầu đang đợi họ.

Đến lúc này, Quý ròm mới nhình thấy cái caméra to đùng đặt trên đường ray ngắn cạnh đó, phía sau một người đàn ông râu quai nón hờ hững vịn tay vào máy quay, tay kia đang lau mồ hôi chảy thành dòng trên trán, mặt nhăn nhăn nhó nhó. Thì ra người ta đang đóng phim! Quý ròm thở phào, vừa hân hoan lại vừa thất vọng.

Nó tò mò nhìn đoàn làm phim, tìm xem có diễn viên quen thuộc nào không nhưng chả thấy. Toàn những khuôn mặt nó chưa gặp qua trên màn ảnh bao giờ! Có lẽ hôm nay các diễn viên chính không có cảnh quay! Quý ròm nghĩ và nó liếc qua chỗ hai "người ngoài hành tinh" đứng, bụng không ngớt xuýt xoa: Mình tới trễ quá! Khi nãy người ta quay cảnh nhảy từ trên cầu xuống sông mà mình chỉ thấy thấp thoáng từ xa, phí thật!

Quý ròm tặc lưỡi tiếc rẻ và quay mình tính quay về chỗ Tiểu Long đứng đợi. Nhưng vừa dợm bước, nó đột ngột dừng phắt lại. Bên tai nó tiếng người đàn ông đeo kính vang lên:

- Cảnh vừa rồi không đạt lắm! Các cháu chịu khó thực hiện thêm một lần nữa vậy!
 
Chương 2


Người đàn ông vừa lên tiếng ý chừng là đạo diễn. Ông vừa nói vừa quạt phành phạch cuốn tập ố vàng trên tay như để xua cái nóng do mặt trời và do hơi người dồn nén chung quanh.

Yêu cầu của đạo diễn thường được xem là mệnh lệnh. "Người ngoài hành tinh" nữ có lẽ cũng biết vậy, nhưng chị vẫn ngập ngừng:

- Tụi cháu đã nhảy ba lần rồi, chú!

Giọng ông đạo diễn thoắt nghiêm nghị:

- Để có một cảnh quay đẹp, nếu cần, chúng ta lặp đi lặp lại cả chục lần cũng không sao!

Cuộc đối đáp lọt vào tai khiến Quý ròm vô cùng sửng sốt. Nhảy từ trên chiếc cầu cao này xuống sông đâu phải là chuyện đùa, vậy mà theo lời "người ngoài hành tinh" nữ vừa nói thì từ nãy đến giờ họ đã lặp lại cú nhảy khủng khiếp đó đến những ba lần. Và bây giờ lại sắp sửa nhảy lần thứ tư.

Lời nói có ý quở trách của ông đạo diễn làm "người ngoài hành tinh" nữ im bặt. Quý ròm không trông thấy gương mặt khuất phía sau chiếc mặt nạ kia nhưng nhìn đôi vai "người ngoài hành tinh" nữ khẽ rung lên, nó đoán hẳn chị ấm ức lắm.

- Thôi, được rồi! Tụi cháu sẽ nhảy lại!

"Người ngoài hành tinh" nam hắng giọng nói, tay anh đặt lên vai cô gái bên cạnh vừa như động viên vừa như chia sẻ.

Câu nói của "người ngoài hành tinh" nam vừa cất lên, Quý ròm bỗng nghe bụng mình thót một cái: giọng nói của anh rất quen thuộc với nó.

Trong một thoáng, Quý ròm không thể nhớ ra đó là giọng nói của ai nhưng nó tin chắc nó đã nghe giọng nói này nhiều lần, có nghĩa "người ngoài hành tinh" nam này không phải là người xa lạ.

Quý ròm dán mắt vào anh, tai dỏng lên, chờ anh nói tiếp một câu nữa, hy vọng lần này sẽ nhớ được.

Nhưng "người ngoài hành tinh" nam chỉ nói mỗi một câu. Sau đó, anh và cô gái kia lẳng lặng xoay người qua phải qua trái cho bộ phận phục trang trong đoàn làm phim mặc thêm một lớp quần áo bên ngoài bộ đồ lạ mắt nọ. Xong, người ta khoác lên chiếc đầu nhẵn nhụi của mỗi người một bộ tóc giả.

Những "khán giả" đứng chung quanh ai nấy đều mở to mắt nhìn. Đến khi người ta tưới xăng lên hai "người ngoài hành tinh" chuẩn bị đốt thì nhiều cái miệng kêu thét, nửa sợ hãi nửa thích thú.

Một người trong đoàn làm phim lại gần hai "người ngoài hành tinh":

- Cố chịu nóng một chút nhé?

- Không sao! – "Người ngoài hành tinh" nam sờ tay lên ngực – Loại vải chống cháy này cũng khá tốt!

Lần thứ hai, Quý ròm nghe "người ngoài hành tinh" nam nói. Và khổ nỗi, cũng là lần thứ hai nó nhận ra giọng nói rất quen nhưng vẫn chẳng nhớ được là ai.

Hai "người ngoài hành tinh" bước tới sát thành cầu. À quên, lúc này họ chẳng còn vẻ gì là người ngoài hành tinh nữa, đã có quần áo tóc tai như mọi người! Ông đạo diễn quay đầu về phía người phụ trách máy quay:

- Chuẩn bị!

Chiếc caméra được đẩy trên đường ray, trượt đến cách đó một quãng, chiếm vị trí thuận tiện để quay ngang, vừa quay vừa di chuyển ngược theo đường ray để có thể thu vào khung hình toàn bộ cảnh nhảy.

Quý ròm không dám xáp lại gần "hiện trường". Nhưng từ chỗ đứng của mình, nó vẫn nhìn rõ mồn một cảnh người ta bật hộp quẹt gí vào hai diễn viên đã được tẩm xăng, rồi lửa phừng lên và ngay lập tức, hai con người đang bốc cháy rừng rực kia lao vọt qua thành cầu, chúc ngược đầu xuống dưới và rơi đi vùn vụt.

Khi hai "cây đuốc" vừa dợm phóng người bay ra, Quý ròm còn nghe rõ tiếng hét đanh gọn của ông đạo diễn ra lệnh cho người quay phim "Máy!", nhưng sau đó thì nó không còn nghe gì nữa. Tiếng la thét, tiếng reo hò xen lẫn tiếng hoan hô của đám đông nổ ra át cả tiếng rè rè của máy quay lẫn tiếng đập thình thịch trong ngực nó.

Mãi một lúc, khi tiếng ồn lắng xuống, Quý ròm mới thò đầu qua thành cầu nhìn xuống sông và cũng như lúc nãy, nó thở đánh phào khi trông thấy hai bóng người đang lặng lẽ dìu nhau lội trên mặt sông xa tít dưới kia.

Ngay lúc này, lẽ ra Quý ròm đã bỏ về. Tiểu Long đợi nó nãy giờ có lẽ đã sốt ruột lắm rồi. Hơn nữa, nó biết chắc nếu ở lại cũng chẳng còn gì để xem nữa. Cảnh vừa rồi hoặc đã vừa ý ông đạo diễn, hoặc sẽ phải quay lại vào một hôm khác, bởi hai người diễn viên can đảm kia nom có vẻ mệt lắm rồi, và điều quan trọng là cảnh sát giao thông đã xuất hiện và đang tiến đến chỗ đoàn làm phim nhằm giải toả nạn kẹt xe đã gây ách tắc quá xá lâu.

Nhưng Quý ròm vẫn không nhích chân. Nó mặc kệ Tiểu Long. Nó mặc kệ cảnh sát. Điều canh cánh trong lòng nó bây giờ là phải khám phá cho bằng được người diễn viên nam kia là ai. Nếu không, tối nay nó sẽ không tài nào chợp mắt được vì ấm ức.

Cũng như lúc nãy, sau khi lội được vào bờ đôi nam nữ diễn viên kia lảo đảo leo trở lên cầu với hình dạng của những người ngoài trái đất. Bộ quần áo mặc ngoài lẫn bộ tóc giả đã cháy tiêu trong lúc phóng người xuống nước.

Quý ròm đang định xông lại chỗ đoàn làm phim để chờ xem hai người diễn viên gỡ mặt nạ ra nhưng vừa nhích chân nó đã bị đám đông nhốn nháo đẩy dạt về phía sau.

Nó cố chen lên, vừa gạt mồ hôi vừa thu người luồn lách nhưng vẫn không tài nào tiến được nửa bước. Vừa thấy bóng cảnh sát giao thông thấp thoáng, vòng người hiếu kỳ hấp tấp xô nhau lui lại khiến nhân vật còm nhom của chúng ta cứ bị trôi mãi, trôi mãi về phía chân cầu.

Thế là toi! Quý ròm làu bàu khi nhận ra mình đang đứng nếu không phải ngay chỗ khi nãy thì cũng không cách đó bao xa. Nó đảo mắt nhìn quanh tìm Tiểu Long nhưng không thấy thằng mập đâu. Có khi đợi lâu quá, nó bỏ về rồi không chừng! Quý ròm lo lắng nghĩ và đưa hai tay lên miệng làm loa chĩa ra bốn phía:

- Tiểu Long ới ời!

Khi Quý ròm hét đến lần thứ bảy, lạc cả giọng và sắp sửa tắt hơi thì Tiểu Long mới "hồi âm":

- Tao ở đây nè!

Nghe tiếng Tiểu Long xa tít, Quý ròm nhướn cổ:

- Ở đây là ở đâu? Tao chả nhìn thấy mày đâu cả!

Tiếng Tiểu Long vẫn xa xôi vọng lại:

- Tao cũng thế! Tao chỉ nghe tiếng của mày thôi!

Quý ròm chép miệng:

- Thế mày đang đứng ở đâu?

- Tao đứng dưới chân cầu!

Câu trả lời của Tiểu Long làm Quý ròm điên tiết:

- Dĩ nhiên là mày đứng ở chân cầu! Tao không nghĩ mày đã chui xuống dưới gầm cầu!

Thấy thằng ròm nổi cáu, Tiểu Long vội vàng "bổ sung":

- Tao đang đứng bên lề đường!

- Lề đường nào?

- Lề bên trái!

Tới đây, "nhà toán học" Quý ròm vẫn không thể nào xác định được "toạ độ" của bạn mình. Tiểu Long đinh ninh "lề bên trái" là một chỉ dẫn quá sức rõ ràng trong khi Quý ròm chẳng rõ thằng mập căn cứ vào đâu để "tuyên bố" về chuyện phải, trái. Bởi nếu đi từ dưới lên thì bên trái là bên có những quán nước dừa nằm san sát, còn nếu đi từ trên cầu xuống thì bên trái lại là bên có những cánh đồng rau xanh nằm sau dãy bạch đàn.

Quý ròm tức muốn xịt khói lỗ tai. Nó gân cổ hét tướng:

- Tao chả rõ mày muốn nói lề bên nào!

- Này, này! Chú bé này làm gì mà đứng giữa đường hò hét om sòm thế! – Một người đàn ông dắt xe gắn máy cau mày nhìn Quý ròm – Có tránh ra cho người khác đi không!

Đúng lúc đó, Tiểu Long lên tiếng "bổ sung" lần thứ hai:

- Tao đang đứng chỗ các quán nước ấy!

Quý ròm liếc trộm về phía người đàn ông, thè lưỡi một cái rồi rụt cổ lảng mất.

Lát sau, nó tìm thấy Tiểu Long trước quán nước dừa thứ ba tính từ chân cầu. Mặt nó lập tức bí xị:

- Mày làm gì chạy tuốt lại đây thế?

Tiểu Long vỗ lên yên xe:

- Nếu tao không thoát kịp, chiếc xe này đã bẹp dúm rồi!

Rồi nó nhìn lom lom vào mặt Quý ròm, tò mò hỏi:

- Mày đi đâu lâu vậy?

- Đi xem người ta đóng phim!

- Đóng phim? Phim gì thế?

- Tao chả biết! – Quý ròm nhún vai – Nhưng chuyện tự thiêu rồi nhảy xuống sông là cảnh trong phim chứ không phải chuyện thật!

Tiểu Long áp tay lên ngực:

- Thế mà nãy giờ tao cứ thót cả ruột!

Rồi nó chớp chớp mắt, ra vẻ hiểu biết:

- Người ta đốt những hình nộm rồi ném xuống sông chứ gì?

- Sai bét! Đây là người thật chứ không phải hình nộm!

- Người thật? – Mắt Tiểu Long trợn tròn – Mày có dóc tổ không đấy?

Quý ròm nhăn mặt:

- Tao chen lấn nãy giờ mệt lắm rồi, chả còn hơi sức đâu mà nói dóc!

Tiểu Long vẫn bán tín bán nghi. Nó thu nắm tay quẹt mũi:

- Người thật mà bốc cháy như thế làm sao sống nổi?

- Rõ là đồ ngốc tử! – Quý ròm nheo mắt nhìn bạn – Để đóng những vai như thế, người ta phải mặc đồ chống cháy chứ lị!

Rồi không đợi Tiểu Long hỏi tới hỏi lui, Quý ròm vội vã giục:

- Lên xe đi! Rồi tao thuật cho mày nghe!

Chung quanh lúc này đã vãn người, Tiểu Long ngồi trước cong lưng đạp, Quý ròm ngồi sau co chân đẩy, hai đứa vừa ì ạch leo lên dốc cầu vừa trò chuyện.

Gọi là trò chuyện nhưng thực ra chỉ có Quý ròm nói, còn Tiểu Long vểnh tai nghe, chốc chốc lại chép miệng trầm trồ hoặc hỏi chen ngang một vài câu ấm ớ.

- Tuyệt thật đấy! – Đến khi Quý ròm kết thúc bài "văn tường thuật" sinh động của mình, Tiểu Long không nhịn được tiếng xuýt xoa, nếu không phải đang lái xe nó đã hào hứng vung cả hai tay lên rồi.

- Cái gì tuyệt?

- Nhưng người đóng phim ấy! – Giọng Tiểu Long thán phục – Nhảy từ trên cầu xuống đâu phải dễ, phải võ nghệ đầy mình ấy chứ! Đó là chưa kể còn bị đốt cháy nữa!

- À, tao quên nói với mày chuyện này! – Quý ròm sực nhớ ra – Giọng nói của người diễn viên nam nghe rất quen, tiếc là tao không nhớ ra là ai!

Quý ròm vừa nói vừa chồm người tới khiến chiếc xe lảo đảo.

Tiểu Long ghìm tay lái:

- Nhìn mặt thì biết ngay chứ gì!

- Nói chuyện với mày chán bỏ xừ! – Quý ròm nhăn nhó – Tao đã bảo với mày là họ mang mặt nạ rồi kia mà!

- Ờ há! – Tiểu Long lỏn lẻn, nó khụt khịt mũi một hồi rồi ngập ngừng hỏi – Thế mày có nhớ mày đã từng nghe giọng nói đó ở đâu không?

Quý ròm thở dài:

- Nếu nhớ được điều đó thì nói làm gì! Tao chỉ nhớ là giọng nói đó rất quen thôi!

Đang nói, Quý ròm bỗng la lên:

- A, anh Tuấn mày!

Tiểu Long giật mình ngó quanh:

- Anh Tuấn tao đâu?

- Không! Anh Tú mày!

Tiểu Long chưa kịp hiểu ra chuyện gì thì Quý ròm lại hét giật:

- Anh Tuấn anh Tú mày!

Tới lúc này thì Tiểu Long không nhịn nổi nữa. Nó dừng hẳn xe lại và ngoái cổ nhìn ra sau:

- Mày nói năng lảm nhảm gì thế?

Bất chấp ánh mắt kinh ngạc của Tiểu Long, mặt Quý ròm vẫn tươi hơn hớn. Tay nó múa tít:

- Hoặc anh Tuấn hoặc anh Tú mày!

Tiểu Long chớp chớp mắt, giọng nó bắt đầu lo lắng:

- Mày làm sao thế hả Quý ròm?

- Tao chả làm sao cả! – Quý ròm toét miệng cười – Tao chỉ chợt nhớ ra giọng nói của người diễn viên đó là ai thôi!

- Là ai?

- Thì tao đã nói rồi! Hoặc là anh Tuấn hoặc là anh Tú, một trong hai ông anh bảo bối của mày chứ ai!

Tiểu Long bây giờ mới vỡ lẽ. Nó thở một hơi dài:

- Thì ra vậy! Mày không nói sớm làm tao hết hồn! Tao cứ tưởng mày đột ngột hoá điên!

Rồi nó nhe răng cười:

- Nhưng mày đoán sai rồi! Không phải là anh Tuấn hay anh Tú đâu! Hai ông anh tao mà làm diễn viên điện ảnh thế quái nào được!

- Mày ngốc quá! – Quý ròm hừ giọng – Đây chỉ là những diễn viên đóng thế vai chứ không phải là diễn viên thực sự! Người ta gọi những người này là cascadeur!
 
Chương 3


Trong phim ảnh, đặc biệt là trong loại phim hành động, thường có những cảnh nguy hiểm như đua xe tốc độ cao, đánh đấm, nhào lộn, lao môtô xuống hồ, đu dây trên vực thẳm, v.v…. Với những cảnh đó, các diễn viên thường không có khả năng tự đóng, hoặc nếu có khả năng thì lại không đủ can đảm, và trong hầu hết các trường hợp những nhà làm phim phải nhờ đến đội ngũ cascadeur, tức những người chuyên đóng những cảnh nguy hiểm thế cho các diễn viên. Những cascadeur không những giỏi võ mà còn phải dũng cảm, tính toán và hành động chuẩn xác, có máu mạo hiểm và đặc biệt phải rất yêu nghề, nếu không chả ai dại gì đem tính mạng mình phó thác vào những cuộc phiêu lưu!

Tiểu Long nghệt mặt nghe Quý ròm hùng hồn giảng giải về cái nghề nó chưa từng nghe nói qua này. Quý ròm "diễn thuyết" trơn tru, mạch lạc nhưng Tiểu Long vẫn cảm thấy chưa thông suốt lắm. Nó gãi đầu:

- Thế những phim do Thành Long hay Lý Liên Kiệt thủ vai cũng do cascadeur đóng thế à?

- Trường hợp Thành Long hay Lý Liên Kiệt lại khác! – Quý ròm nhún vai – Phim của họ là phim võ thuật, diễn viên đương nhiên phải là những võ sư thứ thiệt, chả cần đến người thế vai!

Tiểu Long thở phào. Có thế chứ! Nó là con nhà võ. Nó mê các phim võ thuật. Nó thích xem các phim do Lý Liên Kiệt hoặc Jean-Claude Van Damme đóng vai chính. Nhưng nó vẫn mê nhất Thành Long. Thành Long đánh đấm đẹp như mơ, nhưng lúc nào cũng vui nhộn, không có vẻ đằng đằng sát khí như các diễn viên võ thuật khác. Bây giờ nếu bảo nó những cú đá liên hoàn điệu nghệ, những màn chui dưới gầm xe tải hoặc những cú nhảy đứng tim từ nóc buyn-đinh này qua nóc buyn-đinh khác mà nó từng xem đến ngây người trên màn ảnh không phải do Thành Long thực hiện mà do một kẻ khác đóng thế thì chẳng khác nào bảo nó bầu trời sắp đổ sập xuống đầu.

Cũng may là cuối cùng Quý ròm đã đính chính giùm các thần tượng của nó. Thằng ròm này ngó ba hoa vậy mà sáng suốt ghê! Tiểu Long cảm động nghĩ và vui vẻ hỏi:

- Sao mày biết rõ về chuyện đóng phim thế?

- Tao đọc báo! – Quý ròm ưỡn ngực, nó tiếc hùi hụi không có râu để vểnh – Báo chí luôn cung cấp những thông tin phong phú, nóng hổi và bổ ích!

Tiểu Long cười khì:

- Mày "quảng cáo" giùm cho ba nhỏ Hạnh đấy hả?

Ba nhỏ Hạnh là nhà báo, vì vậy Tiểu Long mới trêu Quý ròm. Nhưng Quý ròm phớt lờ, nó nôn nóng quay trở lại đề tài chính:

- Như vậy mày đã tin người diễn viên nam kia là anh Tuấn hoặc anh Tú của mày chưa?

Tiểu Long ngẩn ngơ:

- Tao có chính tai nghe giọng nói của anh ta đâu mà biết!

Quý ròm quắc mắt:

- Nhưng tao nghe!

- Mày nghe chắc gì đã chính xác!

- Hoàn toàn chính xác! – Quý ròm sầm mặt – Tao chỉ không phân biệt được đó là ai trong hai ông anh của mày thôi!

Anh Tuấn và anh Tú của Tiểu Long là hai anh em sinh đôi, giống nhau như hai giọt nước, từ khuôn mặt, vóc người đến giọng nói, hồi mới đến chơi nhà Tiểu Long, Quý ròm cứ nhầm lẫn liên miên. Mãi về sau, nhờ để ý hai kiểu tóc cắt khác nhau, Quý ròm mới thôi lộn người này qua người kia. Nhìn tận mặt mà còn như vậy, huống chi ở đây nó chỉ nghe mỗi giọng nói.

Tiểu Long cũng hiểu vậy nên chẳng nghi ngờ gì. Nó chỉ thắc mắc:

- Nếu đó là anh Tuấn hay anh Tú tao, sao nhà tao chẳng ai biết?

- Làm sao nhà mày biết được! – Quý ròm "xì" một tiếng – Nếu anh mày không tự mình nói ra thì chẳng ai biết!

Tiểu Long lại nhíu mày:

- Nhưng tại sao anh tao lại không nói ra?

- Có thể anh mày sợ mọi người ngăn cản – Giọng Quý ròm trầm ngâm – Nếu biết anh mày làm cái việc nguy hiểm này, chắc chắn ba mẹ mày sẽ không đồng ý!

Quý ròm trầm ngâm khiến Tiểu Long trầm ngâm theo. Nó khẽ cắn môi:

- Ngay cả tao nữa, tao cũng không muốn anh tao mạo hiểm như vậy tí nào!

Nhưng rồi nó liền lúc lắc đầu:

- Nhưng người diễn viên đó không thể là anh tao. Anh Tuấn tao làm ở xí nghiệp may, còn anh Tú hiện làm ở nhà máy giày, làm sao có thể đi đóng phim được?

Quý ròm nheo mắt:

- Xin nghỉ ở xí nghiệp một, hai buổi để đi đóng phim chẳng có gì khó. Hơn nữa chỉ đóng một vài "pha" chứ đâu phải đóng suốt bộ phim!

- Không thể được! – Tiểu Long vẫn lắc đầu quầy quậy – Không thể như thế được!

Quý ròm hiểu rõ nỗi lo lắng trong lòng Tiểu Long. Vì vậy, nó dịu dàng đặt tay lên vai bạn:

- Có thể là tao nghe nhầm! Nhưng để biết đích xác, tối nay mày cần phải khéo léo dò hỏi hai ông anh của mày!

Tiểu Long méo xệch miệng:

- Mày đã biết tao không phải là đứa khéo léo rồi kia mà!

Quý ròm chớp mắt:

- Ý của mày là…

- Mày biết thừa mà còn làm bộ! – Tiểu Long lườm bạn – Tao muốn mày tối nay ghé nhà tao!

Anh Tuấn và anh Tú dĩ nhiên không hay biết gì về "âm mưu" của hai ông nhóc.

Tối, thấy Quý ròm lò dò bước vào, anh Tú vui vẻ:

- A, Quý! Vào đi! Tiểu Long có nhà đấy!

Đúng lúc đó, Tiểu Long cũng vừa xuất hiện chỗ ngách cửa thông ra nhà sau. Nó nhìn Quý ròm, miệng cười toe toét:

- Tới giải bài tập toán giùm tao hả?

- Không! – Mặt Quý ròm nghiêm trang, vừa nói nó vừa ngồi xuống ghế - Chuyện này quan trọng hơn chuyện giải toán nhiều!

Tiểu Long nheo nheo mắt:

- Chuyện gì thế?

Quý ròm không trả lời ngay. Nó thận trọng đảo mắt nhìn quanh, sợ nhỏ Oanh lảng vảng đâu đấy sẽ kinh hãi khi nghe câu chuyện khủng khiếp của mình. Đến khi biết chắc cô em gái Tiểu Long còn bận bịu ở đằng sau bếp, nó mới hắng giọng trịnh trọng:

- Ở ngoài phố người ta đồn hồi chiều có một cặp vợ chồng giận nhau sao đó, rốt cuộc cả hai chạy ra cầu Thị Nghè ôm nhau nhảy xuống sông tự vẫn!

Tiểu Long đặt tay lên ngực:

- Thật không?

Anh Tuấn ngồi trên đivăng kế đó cũng giật mình nhỏm dậy:

- Em nghe ai nói thế?

- Nhiều người nói!

Anh Tú bỗng dưng vọt miệng:

- Không phải cầu Thị Nghè mà là cầu Sài Gòn!

Khi cố tình chuyển địa điểm từ cầu Sài Gòn qua cầu Thị Nghè, Quý ròm cũng không tin vào hiệu quả của "chiếc bẫy" này lắm. Không ngờ nó mới mào đầu sơ sơ, anh Tú đã hùng hồn "đính chính" khiến nó và Tiểu Long bất giác đưa mắt ngó nhau.

Anh Tuấn ngạc nhiên nhìn anh Tú:

- Hồi chiều em cũng có mặt ở đó hả?

- Không! – Anh Tú đáp bằng giọng bình thản – Em nghe những người trong nhà máy kể lại!

Cố che giấu sự mừng rỡ, Quý ròm tiếp tục "tường thuật" bằng giọng nghiêm nghị:

- Nhưng không chỉ có thế! Trước khi nhảy xuống sông, cặp vợ chồng kia còn tẩm xăng vào người đốt phừng phừng lên như hai bó đuốc nữa!

Tiểu Long giả vờ bụm mặt:

- Eo ôi, ghê quá!

Còn anh Tuấn thì cau mày:

- Lạ thật! Nếu vợ giận chồng hoặc chồng giận vợ mà làm như vậy còn có thể hiểu được! Đằng này cả hai người giận lẫn nhau và cùng huỷ hoại mình theo cùng một kiểu thì quả là khó tin!

- Chẳng có gì là khó tin! – Anh Tú lại mau miệng giải thích – Bởi đây không phải là chuyện thật mà là chuyện trong phim!

- Chuyện trong phim? – Anh Tuấn quay phắt sang anh Tú – Là sao?

- Nghĩa là người ta đóng phim chứ là sao! Tự đốt mình rồi nhảy xuống sông chỉ là cảnh người ta dàn dựng để quay phim chứ không phải là chuyện thật như lời đồn!

Một lần nữa anh Tuấn lại mở to mắt:

- Sao em biết?

Anh Tú vẫn tỉnh khô. Anh đáp không hề lúng túng:

- Thì em nghe được từ trong nhà máy! Một số người trong xí nghiệp em tình cờ có mặt tại đó và chứng kiến mọi chuyện từ đầu đến cuối!

Ba Tiểu Long từ ngoài hẻm bước vào làm câu chuyện giữa mấy anh em đột nhiên ngưng bặt.

Quý ròm ngoắt Tiểu Long ra trước sân, nói khẽ:

- Như vậy người diễn viên hồi chiều đích thị là anh Tú mày!

- Anh Tú tao ư? – Tiểu Long ngẩn ngơ hỏi lại.

Thái độ lừng khừng của Tiểu Long khiến Quý ròm bực mình:

- Thì mày cũng nghe thấy rồi đấy! Chả phải anh Tú mày đã nói vanh vách về những gì vừa xảy ra trên cầu Sài Gòn sao!

Ừ nhỉ, nếu anh Tú không phải là người diễn viên đó tại sao ảnh lại biết rõ về câu chuyện này thế! Tiểu Long bần thần nghĩ. Nhưng rồi nó vội xua tan ngay sự phỏng đoán trong đầu.

- Cũng không hẳn! – Nó nhìn Quý ròm, mắt hấp háy – Có thể anh tao chỉ nghe người khác kể lại thôi! Hồi chiều cả khối người bu đen kịt chỗ đoàn làm phim, biết đâu chả có người trong nhà máy anh tao ở đó!

Mặc dù tin chắc người diễn viên nam hồi chiều là anh Tú, Quý ròm cũng không thể phản bác lập luận xác đáng của Tiểu Long. Nó đành thở dài:

- Thôi được! Nếu mày đã nói thế, tao sẽ chứng minh bằng cách khác!
 
Chương 4


Căn nhà của nữ võ sư Kim Liên nằm trong một con hẻm sâu. Tiểu Long chở Quý ròm, ba nhỏ Hạnh chở nó trên xe gắn máy, bốn người vừa chạy rề rề vừa đảo mắt dáo dác nhìn lên các biển số nhà.

Sở dĩ ba nhỏ Hạnh có mặt trong chuyến đi này đầu đuôi là do Quý ròm. Nó bảo với Tiểu Long nó sẽ chứng minh người diễn viên hôm nọ là anh Tú. Tưởng nó nghĩ ra mưu kế gì, ai ngờ nó "chứng minh" bằng cách chạy tới "cầu cứu" nhỏ Hạnh.

Nhỏ Hạnh giúp Quý ròm bằng cách chờ một buổi tối rỗi rãi, mon men lại gần ba:

- Ba nè!

- Gì thế con?

- Ba đã bao giờ nghe nói về nghề cascadeur chưa?

Ba mỉm cười:

- Ba đã từng viết về họ.

Câu trả lời của ba làm nhỏ Hạnh ngạc nhiên:

- Ba đã từng viết về họ ư?

- Đúng thế! Ba đã từng đến đó.

- Đến đâu cơ?

- Đến phòng tập của câu lạc bộ Cascadeur.

Nhỏ Hạnh tò mò:

- Ba đã gặp tất cả mọi người chứ?

- Tất nhiên! Ba đã gặp hầu hết thành viên trong câu lạc bộ! Võ sư Kim Liên đã giới thiệu họ với ba!

- Võ sư Kim Liên là ai?

- Là phó chủ nhiệm câu lạc bộ.

- Là nữ ư? – Nhỏ Hạnh ngẩn ngơ.

- Nữ thì sao?

Nhỏ Hạnh chớp mắt:

- Con cứ nghĩ phụ trách công việc này phải là nam chứ!

- Vậy là con lầm rồi! Võ sư Kim Liên là người đeo thập bát bạch đai, một đẳng cấp tối cao của Võ cổ truyền! Bà được võ sư Nguyễn Phương Danh tức nghệ sĩ Tám Danh dạy võ công từ nhỏ, sau đó thụ giáo các võ phái Sa Long Cương Bình Định, Thiếu Lâm, Thái cực Đường lang, học thêm kiếm Tây, kiếm Nhật…

Nhỏ Hạnh có vẻ không hình dung được những điều ba nói. Nó cắn môi:

- Thế sao con ít thấy bà ấy xuất hiện trên các báo thể thao thế?

- À! – Ba gật gù – Bởi vì võ sư Kim Liên học võ không phải để thi thố võ nghệ, mục đích chính của bà là tìm cách ứng dụng võ thuật vào sân khấu. Trên căn bản võ thuật đắc thủ được, bà tìm tòi, chắt lọc và sáng tạo những chiêu thức đẹp mắt, hiệu quả và quan trọng là chiêu thức đó phải phù hợp với thể lực của người nghệ sĩ, chứ không phải võ sĩ, để có thể trình diễn được trên sân khấu. Ba quên nói với con, võ sư Kim Liên còn là phó chủ nhiệm Khoa Cải lương của trường Nghệ thuật Sân khấu và Điện ảnh!

Nhỏ Hạnh trầm ngâm một hồi rồi tiếp tục thắc mắc:

- Nhưng việc gì bà ấy phải học nhiều môn võ khác nhau thế? Con nghĩ nếu để ứng dụng trên sân khấu, chỉ cần thông thạo võ cổ truyền là đủ!

- Không đơn giản như con nghĩ đâu! – Ba tặc tặc lưỡi – Cũng là binh khí, nhưng Lục Vân Tiên sử dụng côn, Quan Vân Trường múa Thanh Long đao hay Tôn Ngộ Không múa thiết bảng đều có đặc trưng riêng. Dựng tuồng dã sử về thời Tây Sơn thì không khó, nhưng nếu gặp tuồng Nhật, người chỉ đạo võ thuật buộc phải am hiểu các môn võ Nhật như Karaté, Kendo, Aikido hay Judo. Cũng vậy, khi dựng các vở phương Tây như Roméo và Juliette chẳng hạn, diễn viên sân khấu phải biết các tư thế chào, cầm kiếm và đánh đỡ của các hiệp sĩ châu Âu thời xưa…

Đang nói thao thao, ba bỗng nhỏm người dậy và quay sang nhỏ Hạnh:

- Nếu con thích, chiều mai ba dẫn con đến nhà thăm võ sư Kim Liên! Từ lúc bà ấy đi lưu diễn ở Pháp về, ba vẫn chưa gặp lại!

- Ba nói thật đấy chứ?

Nhỏ Hạnh nói như reo. Nó đang tìm cách gạ ba viết về đề tài cascadeur để bọn nó tìm cách đi theo điều tra bí mật của anh Tú. Khi nghe ba bảo đã từng viết bài giới thiệu về câu lạc bộ này rồi, nó không khỏi than thầm. Nào ngờ đúng vào lúc nó không còn hy vọng gì, ba lại rủ nó đi thăm võ sư Kim Liên, một trong những người phụ trách câu lạc bộ, bảo nó không mừng như bắt được vàng sao được!

Tất nhiên ba không hiểu ý nghĩa tiếng reo của nhỏ Hạnh. Thấy nó hào hứng, ba mỉm cười:

- Con quan tâm đến chuyện võ nghệ từ bao giờ thế?

Nhỏ Hạnh nói trớ:

- Hôm trước xem ti-vi, thấy các anh chị cascadeur giật giải trong "Trò chơi liên tỉnh" nên con tò mò thế thôi!

Ừ, trẻ con nào mà chẳng tò mò! Ba nghĩ thế nên khi nhỏ Hạnh đề nghị cho Tiểu Long và Quý ròm tháp tùng, ba vui vẻ đồng ý ngay.

Hẻm càng lúc càng sâu, bốn người vừa đi vừa dòm quanh quất, mãi vẫn chẳng thấy địa chỉ muốn tìm.

Nhỏ Hạnh chép miệng:

- Ba chưa đến đây lần nào sao?

- Chưa! Những lần trước ba chỉ gặp võ sư Kim Liên ở phòng tập của câu lạc bộ!

Đang nói, ba bỗng reo lên:

- A, kia rồi!

Đã được ba gọi điện thoại hẹn trước nên võ sư Kim Liên không hề bất ngờ trước sự viếng thăm của người quen cũ. Bà chỉ ngạc nhiên trước bọn trẻ lủ khủ đi theo:

- Ôi, ông nhà báo còn dẫn theo những hoàng tử, công chúa nào nữa thế này? Hay là định giới thiệu mầm non vào đội nhào lộn trong câu lạc bộ của tôi đây?

Ba cười:

- Con cháu tôi cả đấy! Chúng vốn hâm mộ câu lạc bộ Cascadeur nên biết tôi đến thăm chị, chúng nhất quyết đòi đi theo để "chiêm ngưỡng dung nhan" chị cho bằng được!

Võ sư Kim Liên trợn mắt:

- Ôi, chiêm ngưỡng dung nhan xấu xí của bà lão này ư? – Rồi bà vẫy tay, vui vẻ - Vậy thì xin mời quý khách vào tệ xá!

Hồi sáng, khi nghe nhỏ Hạnh tấm tắc thuật lại những điều ba nó kể về nữ võ sư Kim Liên, Tiểu Long và Quý ròm thán phục đến ngẩn ngơ. Và tụi nó mường tượng một nữ võ sư mang đai cấp mười tám của võ cổ truyền, lại thông thạo võ công của nhiều môn phái khác, hẳn phải là một người oai phong, quắc thước ghê gớm. Nào ngờ trước mắt tụi nó lúc này chỉ là một phụ nữ nhỏ nhắn trạc năm mươi tuổi, thậm chỉ có vẻ gầy gò, mảnh mai, khác hẳn với những gì tụi nó hình dung.

Quý ròm huých mạnh vào hông Tiểu Long, thì thào:

- Bà ấy cũng còm ròm giống như tao thôi!

Ngay lúc đó, ánh mắt của võ sư Kim Liên lia ngay đến chỗ hai đứa đứng khiến Tiểu Long quýnh quíu. Sợ thất lễ với chủ nhà, Tiểu Long vội né qua một bên tránh cú huých của Quý ròm.

Cú lách người bất thần của Tiểu Long làm Quý ròm mất thăng bằng. Nó hoảng hốt thấy người mình chao đi, nhưng đúng vào lúc nó loạng choạng sắp sửa ngã xoài ra đất thì xoẹt một cái, võ sư Kim Liên đã bắn đến bên cạnh và giữ chặt vai nó, miệng tủm tỉm:

- Cẩn thận chứ, chú bé!

Quý ròm đỏ bừng mặt. Nó lấm lét nhìn quanh với vẻ ngượng nghịu. Thật là chả ra gì! – Quý ròm tự rủa thầm – Nếu không nhờ bà võ sư gầy nhom này kịp thời ra tay, mình đã làm trò cười cho mọi người rồi! Ý nghĩ đó khiến Quý ròm càng thêm xấu hổ: Thế ra mình đánh giá về bà võ sư này sai be sai bét! Thân thủ của bà nhanh không tưởng tượng. Cú lạng người phi phàm kia cứ như thể của một cô gái trẻ, chẳng có vẻ gì được thực hiện bởi một phụ nữ trung niên cả!

Những hình ảnh trong các cuộn băng vi-đê-ô quay tại Pháp được chiếu trên màn ảnh ti-vi sau đó càng khiến Quý ròm ngạc nhiên về sự nhanh nhẹn kỳ lạ của người phó chủ nhiệm câu lạc bộ Cascadeur mảnh khảnh này.

Cùng với Tiểu Long và nhỏ Hạnh, nó nghệt mặt xem cảnh võ sư Kim Liên song đấu tay không và binh khí với các võ sĩ Mỹ, Pháp, Angiêri, Thuỵ Sĩ… Nó như không tin và mắt mình khi thấy bà nhanh như cheo, đánh đỡ tự tin, đẹp mắt và kiến hiệu trước những võ sĩ to gấp đôi, gấp ba bà giữa tiếng reo hò ngưỡng mộ của công chúng nước ngoài.

Sau đó, bọn trẻ còn được xem những cảnh biểu diễn rùng rợn của các thành viên câu lạc bộ Cascadeur như đu dây tử thần hoặc cảnh vừa rượt đuổi vừa bắn nhau với "bọn cướp" bằng cách nằm ngửa trên xe, hai tay vẩy hai súng còn chân thì lái xe, bóp thắng, rồ ga… Trong những trích đoạn đó, võ sư Kim Liên đã tham gia không ít những cảnh đứng tim khiến bọn trẻ vừa xem vừa giật mình thon thót.

Trong khi Tiểu Long, Quý ròm và nhỏ Hạnh mải mê và thích thú ngồi dán mắt vào màn hình xem cảnh võ sư Kim Liên đóng những pha chiến đấu thay cho diễn viên Hương Giang trong phim Tây Sơn hiệp khách, thay cho Việt Trinh trong Ngọc Trản thần công… thì bà ngồi điềm tĩnh trò chuyện với ba nhỏ Hạnh.

Bà tâm sự:

- Thực ra mục tiêu của câu lạc bộ chúng tôi không chỉ hướng tới việc đào tạo những người đóng thế vai trong điện ảnh. Tôi mơ ước sẽ xây dựng nó thành một Võ phái Nghệ thuật với mục tiêu biểu diễn và truyền bá, nhưng hiện nay hoàn cảnh còn khó khăn…

- Thế chị đi suốt như thế này, anh ấy có nói gì không?

Câu hỏi của ba nhỏ Hạnh làm mắt bà long lanh. Bà đáp với giọng hạnh phúc:

- Chồng, mẹ chồng và các con tôi đều cảm thông và ủng hộ công việc mà tôi đang say mê đeo đuổi!

Đang nói, như sực nhớ ra một việc, bà mỉm cười:

- Thú thật thì thời gian đầu, chồng tôi đôi lúc cũng bực mình! Có lần tôi mải đi biểu diễn về trễ, chẳng lo cơm nước gì cho anh ấy. Đẩy cửa bước vào nhà, tôi ngạc nhiên khi thấy một cái lồng bàn đậy giữa bàn ăn. Giở ra, tôi càng tá hoả. Trong lồng bàn chỉ có tờ bằng khen của tôi và chiếc đai của bộ võ phục mà thôi! Đó là một cách giận dỗi của anh ấy đấy!

Rồi bà vui vẻ tiếp:

- Nhưng đó là chuyện cũ, lâu rồi! Bây giờ những lúc mệt mỏi, nhớ chồng thương con, nếu không có sự động viên và cáng đáng của anh ấy, có lẽ tôi không đủ sức để theo nghề nữa…

- Hết rồi, cô ơi!

Tiếng kêu giật của Quý ròm cắt ngang câu chuyện giữa hai người. Võ sư Kim Liên quay lại:

- Gì thế cháu?

Quý ròm chưa kịp đáp, Tiểu Long đã hứng khởi vọt miệng:

- Phim hay quá cô ơi! Cô còn cuộn phim nào khác nữa không?

- Hôm nay trễ rồi các cháu! – Ba nhỏ Hạnh hắng giọng – Đã đến giờ cô Kim Liên phải có mặt tại câu lạc bộ rồi! Hôm khác chúng ta sẽ đến quấy rầy tiếp vậy!

Vừa nói ông vừa đứng lên khỏi ghế. Trong khi Quý ròm và nhỏ Hạnh lục tục đứng lên theo và lễ phép cáo từ chủ nhân thì Tiểu Long vẫn nấn ná hỏi thêm:

- Các anh chị cascadeur luyện tập ở đâu thế hở cô?

- Ở câu lạc bộ thể thao Nguyễn Du. Bọn cô thuê phòng tập ở đấy, mỗi tuần ba buổi, chiều thứ hai, thứ tư và thứ sáu! – Đáp xong, võ sư Kim Liên niềm nở mời – Hôm nào rảnh, các cháu cứ đến đó chơi!

- Chắc chắn tụi cháu sẽ đến ạ!

Tiểu Long hoan hỉ nói và lật đật chào người võ sư, nó hối hả quay người đi theo Quý ròm và nhỏ Hạnh.

Nhưng vừa ra khỏi cửa, Tiểu Long bỗng "Ơ" lên một tiếng rồi hấp tấp dừng chân, quay sang hai bạn:

- Chết rồi! Tụi mình quên hỏi chuyện kia!

- Chuyện kia là chuyện gì? – Quý ròm giương mắt ếch.

Nhỏ Hạnh đập tay lên vai Quý ròm:

- Thì chuyện anh Tú chứ chuyện gì! Mải xem phim, Hạnh cũng quên khuấy mất mục đích đến đây!

- Ờ há! – Quý ròm gãi gãi đầu – Đoảng thật! – Rồi nó đánh mắt sang Tiểu Long – Thế bây giờ mày chạy vào hỏi đi!

- Tao ư? – Tiểu Long giật bắn.

Quý ròm láu lỉnh:

- Thì mày chứ ai! Anh Tú là anh mày mà!

Tiểu Long rụt cổ:

- Thôi, tao không dám đâu! Mày mau mồm mau miệng, vào hỏi giùm tao đi!

- Thằng này lạ! – Quý ròm nheo mắt – Có gì phải sợ! Mày chỉ cần hỏi xem trong câu lạc bộ Cascadeur có người nào tên Tú không thôi!

Tiểu Long tròn mắt:

- Chỉ hỏi thế thôi ư?

- Thế thôi! Câu trả lời sẽ làm sáng tỏ tất cả.

- Thế thì được!

Tiểu Long nhè nhẹ thở ra và rụt rè quay trở vào nhà.

- Ôi, mấy đứa trẻ làm gì mà lâu thế?

Dắt xe ra một hồi, chẳng thấy bọn trẻ ra theo, ba nhỏ Hạnh sốt ruột cất tiếng gọi.

- Ba chờ tụi con một tí! – Nhỏ Hạnh ngoảnh lại đáp – Bạn Long bỏ quên nón, phải quay vào lấy!

Câu trả lời của nhỏ Hạnh làm ba ngạc nhiên:

- Bạn con khi nãy đâu có đội nón!

- Không đội nhưng cầm trên tay ạ! – Quý ròm phịa nhanh như máy.

Nó vừa nói dứt, Tiểu Long đã hớn hở quay ra.

Quý ròm nhìn bạn lom lom, giọng thăm dò:

- Không có ai tên Tú phải không?

Tiểu Long cười tươi:

- Có! Quả là có một anh chàng tên Tú!

- Có sao trông mày phởn thế? – Quý ròm không khỏi lấy làm lạ - Mày chẳng sợ anh Tú mày tham gia vào những trò diễn nguy hiểm sao?

- Sợ thì vẫn sợ! Nhưng không hiểu sao sau khi gặp võ sư Kim Liên, tao cảm thấy bớt sợ đi nhiều.

Nhỏ Hạnh tủm tỉm:

- Nghĩa là Long bắt đầu cảm thấy nghề này cũng hay hay chứ gì?

- Ừ!

Nhỏ Hạnh tủm tỉm thì Quý ròm cũng tủm tỉm:

- Nghĩa là mày không còn ý định ngăn cản anh Tú mày đóng phim nữa chứ gì?

Trái với suy nghĩ của Quý ròm, lần này Tiểu Long lại lắc đầu:

- Không! Tuy đã bớt sợ nhưng tao vẫn thấy lo lo là! Anh Tú tao không nên đi theo nghề này thì hơn!

Lối ăn nói mâu thuẫn của Tiểu Long khiến cặp lông mày Quý ròm nhăn tít. Nhưng nó không có thì giờ để hỏi tới hỏi lui. Giọng nói giục giã của ba nhỏ Hạnh một lần nữa lại vang lên:

- Lên xe đi các cháu!
 
Chương 5


Ba đứa chạy hai xe, trực chỉ đến câu lạc bộ thể thao Nguyễn Du.

Hôm trước, lúc Tiểu Long quay vào nhà hỏi thăm tin tức của anh Tú, võ sư Kim Liên dặn nó cứ đến phòng tập của câu lạc bộ, gặp anh Khế sẽ được hướng dẫn.

Anh Khế vốn là vô địch thể dục dụng cụ, là vận động viên nhào lộn cấp kiện tướng quốc gia, hiện ở trong Ban điều hành Câu lạc bộ Cascadeur. Anh là một người rất vui tính. Võ sư Kim Liên giới thiệu về người cộng sự của mình như vậy và bảo Tiểu Long cứ đến thẳng phòng tập gặp anh, đừng ngại.

Phòng tập của những cascadeur rộng rãi nhưng sơ sài, không bề thế như bọn Quý ròm tưởng. Căn phòng mênh mông chỉ có một bộ ván dậm, một dàn nhún bằng lò so đã gỉ sét, ba sợi "dây tử thần", mười cặp móc, hai chiếc áo bảo hộ và một số binh khí như côn, đao, kiếm, có lẽ do câu lạc bộ tự trang bị.

Khi bọn trẻ bước vào đã thấy một số anh đang tập nhào lộn với nhiều tư thế ngoạn mục, người nào người nấy mồ hôi nhễ nhại. Ở góc phòng, một số khác, có cả các chị, đang hăm hở múa song kiếm và trường thương. Tất cả đều vận võ phục trắng nẹp đỏ, nom oai phong ra phết!

Tiểu Long quét mắt một vòng xem có anh Tú trong đó không nhưng chả thấy. Cả võ sư Kim Liên cũng không có mặt trong phòng.

Ngần ngừ một thoáng, Tiểu Long huých vai Quý ròm:

- Mày vào đi!

- Vào làm gì?

- Vào xin gặp anh Khế!

Quý ròm liếc mắt về phía người thanh niên cao lớn, đẹp trai, nom khá giống diễn viên điện ảnh Quách Phú Thành của Hồng Kông, đang hướng dẫn nhóm nhào lộn. Có lẽ anh Khế là anh này! Nó thầm nhủ và rón rén bước lại.

- Gì thế em?

Thấy ông nhóc lạ mặt lò dò lại gần, người thanh niên mỉm cười hỏi.

Quý ròm chớp mắt:

- Dạ, anh có phải là anh Khế?

Người thanh niên lộ vẻ ngạc nhiên:

- Đúng rồi! Em gặp anh có chuyện gì không?

Quý ròm liếm môi:

- Dạ, cô Kim Liên bảo tụi em đến gặp anh.

- Cô Kim Liên ư?

Anh Khế khẽ ngước mắt nhìn về phía Tiểu Long và nhỏ Hạnh đang đứng rồi chỉ chỉ tay vào chiếc băng dài kê sát tường, gật đầu nói:

- Em và các bạn ngồi đó đợi anh một lát!

Bọn Quý ròm ngồi làm khán giả chừng mười lăm phút thì anh Khế ra hiệu cho nhóm nhào lộn tạm nghỉ và nhanh nhẹn rảo bước về phía bọn trẻ:

- Cô Kim Liên dặn các em đến gặp anh có chuyện gì thế?

- Cũng chả có gì quan trọng đâu ạ! – Quý ròm gãi đầu – Tụi em chỉ muốn hỏi thăm một người.

- Hỏi thăm một người? – Anh Khế tò mò – Ai thế?

- Tụi em muốn gặp anh Tú.

- À! – Anh Khế gật gù – Anh Tú cũng ở trong nhóm nhào lộn. Nhưng hôm nay anh Tú cho biết sẽ đến trễ, các em đợi một lát thế nào cũng gặp.

Tiểu Long nhìn người thanh niên vạm vỡ trước mặt với vẻ ngưỡng mộ:

- Anh là vận động viên vô địch về môn thể dục dụng cụ ư?

Anh Khế mỉm cười:

- Trước đây thôi!

Tiểu Long tấm tắc:

- Trước đây hay bây giờ thì cũng thế! Đã là nhà vô địch thì oai phải biết!

Anh Khế vỗ vai Tiểu Long, giọng thân mật:

- Tưởng gì chứ nhà vô địch thì trong câu lạc bộ tụi anh thiếu gì! Anh Lữ Đắc Long là kiện tướng nhào lộn, ba lần vô địch toàn thành, hai chị Thuỳ Trang và Diễm Trang từng vô địch Teakwondo toàn quốc, riêng chị Kim Thoa còn giành được Huy chương bạc về môn võ gậy ở SEA Games 16 nữa đấy!

Tiết lộ của anh Khế làm Quý ròm há hốc miệng:

- Thế câu lạc bộ Cascadeur tập hợp toàn vận động viên cả sao?

- Chỉ một số thôi! Những người yêu thích và tham gia câu lạc bộ còn có cả bác sĩ, công an, thợ may, thợ cơ khí, sinh viên và võ sĩ thuộc mọi môn phái nữa. Như anh Tú mà tụi em đang đợi chẳng hạn, ảnh đang làm việc ở một nhà máy…

Quý ròm lấy vai đụng Tiểu Long một cái, thì thào:

- Đúng chóc anh Tú của mày rồi!

Tiểu Long hồi hộp quay sang bạn:

- Thế lát nữa gặp ảnh, tụi mình sẽ làm gì?

- Tao cũng chả biết nữa! – Câu hỏi bất thần làm Quý ròm bối rối, nó cũng chưa kịp nghĩ tới điều quan trọng đó.

Nhỏ Hạnh ngồi cạnh cũng nghệt mặt suy tính: Ừ nhỉ, nếu anh Tú đến, bọn mình sẽ phải ứng phó ra sao kìa?

Trong khi Tiểu Long, Quý ròm và nhỏ Hạnh còn đang loay hoay nghĩ ngợi, anh Khế bỗng reo khẽ:

- A! Anh Tú đến rồi kìa!

Rồi anh cất tiếng gọi lớn:

- Tú! Lại đây, có người cần gặp!

Quý ròm và nhỏ Hạnh giật mình ngoảnh phắt lại. Chỉ có Tiểu Long là cố tình quay đầu một cách chậm chạp, mặt đỏ nhừ vì lúng túng. Cho đến lúc này nó vẫn chưa biết sẽ phải nói gì với ông anh trong tình huống trớ trêu này.

Nhưng đến khi đã quay hẳn người lại, mặt nó đang đỏ lập tức chuyển qua xanh: người thanh niên đang từ từ tiến đến chỗ tụi nó ngồi là một anh chàng lạ hoắc lạ huơ.

- Ai tìm mình thế?

Khi đã đến sát bên, người thanh niên nhìn anh Khế, ngạc nhiên hỏi.

- Đây! – Anh Khế ngoảnh qua bọn Quý ròm lúc này đang ngồi lo sốt vó bên cạnh – Các bạn trẻ này đợi Tú từ nãy đến giờ đấy!

Anh thanh niên tên Tú nhìn lom lom vào mặt ba đứa trẻ:

- Có phải các em định tìm anh không?

- Dạ không ạ! – Quý ròm lí nhí đáp.

Câu trả lời của nó khiến hai anh chàng cascadeur tròn xoe mắt.

Anh Tú đưa mắt nhìn anh Khế ra ý hỏi. Còn anh Khế thì mãi một lúc sau mới mở miệng được. Anh nhíu mày ngó Quý ròm:

- Các em bảo các em muốn gặp anh Tú kia mà?

- Vâng ạ!

Sự thừa nhận của Quý ròm càng làm anh Khế thêm điên đầu:

- Thế chả phải anh Tú đang đứng trước mặt các em là gì?

Quý ròm ngượng nghịu:

- Nhưng anh Tú mà chúng em muốn tìm không phải là …anh Tú này ạ!

Tới đây anh Khế chừng như hiểu ra. Anh "à" một tiếng rồi gật gù:

- Thế các em muốn tìm anh Tú nào?

Câu hỏi đơn giản của anh Khế làm Quý ròm cứng họng. Hẳn nhiên anh Tú tụi nó tìm là ông anh của Tiểu Long! Nhưng ở câu lạc bộ Cascadeur này chắc chắn người ta không thể biết ông anh của Tiểu Long là ông anh cóc cắn nào! Nói ra điều đó chẳng khác nào đánh đố người nghe, vì vậy anh Khế hỏi cả buổi rồi mà Quý ròm cứ ấp a ấp úng chẳng biết phải giải thích như thế nào.

Thấy vì chuyện của mình mà Quý ròm lâm vào cảnh lúng túng như gà mắc tóc, Tiểu Long liền rụt rè lên tiếng:

- Anh Tú mà tụi em tìm chính là anh của em đấy ạ!

- Anh của em sinh hoạt ở đây ư? – Anh Khế tò mò nhìn Tiểu Long – Nhưng trong câu lạc bộ của tụi anh đâu còn ai tên Tú nữa! Chỉ có một anh Tú này thôi!

- Dạ, lúc đầu tụi em tưởng là như thế! Bây giờ thì tụi em biết là tụi em nhầm rồi ạ! – Quý ròm mau mắn đáp thay thằng mập, nó đã kịp lấy lại sự liến thoắng.

Anh Khế mỉm cười đứng dậy:

- Không sao! Nhầm lẫn là chuyện bình thường! Thôi, các em cứ ngồi chơi tự nhiên nhé, tụi anh phải tập tiếp đây!

Nói xong, anh cùng anh Tú bước ra giữa phòng và đưa hai tay lên khỏi đầu vỗ bôm bốp:

- Tiếp tục, các bạn ơi!

Trên băng ghế, nhỏ Hạnh thở dài:

- Thế là công toi!

Tiểu Long quay sang Quý ròm:

- Thôi, tụi mình về đi!

Nhưng Quý ròm làm như chẳng nghe thấy tiếng nói của Tiểu Long. Nó vẫn ngồi yên, không ừ không hử.

- Mày làm sao thế? – Tiểu Long trố mắt.

Nhỏ Hạnh tủm tỉm:

- Quý đinh ninh người cascadeur hôm nọ là anh Tú, bây giờ vỡ lẽ là mình đoán sai, Quý buồn đến mức không nhấc chân nhấc tay nổi đó thôi!

- Đừng có trêu thằng này! – Quý ròm hừ mũi – Chẳng có gì là không nhấc tay nhấc chân nổi!

Tiểu Long chép miệng:

- Thế thì về!

- Không! – Quý ròm lắc đầu – Đợi thêm một lát đã!

- Còn đợi gì nữa! Chẳng phải mày đã đoán nhầm rồi sao?

- Tao không đoán nhầm! – Quý ròm khăng khăng – Giọng nói của người cascadeur hôm nọ dứt khoát là giọng của anh Tú mày!

Thái độ ngoan cố của Quý ròm làm Tiểu Long giương mắt ếch:

- Anh Khế chả bảo ở đây không có một anh Tú nào khác là gì!

Quý ròm không đáp. Trước vẻ mặt ngơ ngác của hai bạn, nó đứng phắt dậy và đi thẳng lại chỗ anh Khế.

- Gì đấy em? – Anh Khế nhìn Quý ròm với vẻ ngạc nhiên – Các em chưa về sao?

- Dạ chưa ạ! – Quý ròm thoáng bối rối nhưng rồi nó cố trấn tĩnh – Em muốn hỏi anh thêm một chuyện!

- Em hỏi đi! – Anh Khế mỉm cười thân thiện.

Quý ròm chớp mắt:

- Anh có biết hai cascadeur đóng phim ở ngoài cầu Sài Gòn cách đây mấy ngày không?

- Đóng phim gì cơ? – Anh Khế nhíu mày.

Tất nhiên Quý ròm chả biết phim đó là phim gì.

- Em không rõ! – Nó nuốt nước bọt – Nhưng họ đóng cảnh bị cháy và nhảy xuống sông ấy!

Mắt anh Khế sáng lên:

- À, thế thì anh biết! Nhưng chỉ có cô gái là thành viên của câu lạc bộ bọn anh, còn anh chàng kia thì không phải!

- Không phải ư? – Quý ròm chưng hửng – Sao lạ thế hở anh?

- Chả có gì lạ cả! – Anh Khế khoa tay vào không khí – Như thế này này! Các thành viên câu lạc bộ Cascadeur đa số đều là võ sư, võ sĩ của nhiều môn phái nên thỉnh thoảng họ vẫn rủ bạn đồng môn đi đóng phim cho vui…

- Thế anh có biết anh chàng cascadeur đó tên gì không? – Quý ròm nôn nóng hỏi.

- Tất nhiên là biết! Anh ta tên Tuấn, đệ tứ đẳng Karaté!

- Tên Tuấn ư? – Quý ròm nghe như có một luồng điện chạy qua người.

- Đúng rồi! Anh ta là Nguyễn Minh Tuấn!

Đây đích thị là ông anh của Tiểu Long rồi! Võ sĩ Karaté Nguyễn Minh Tuấn anh của võ sĩ Teakwondo Nguyễn Minh Long, điều đó rõ ràng như hai với hai là bốn, không còn nghi ngờ gì nữa! Thế ra không phải anh Tú, mà là anh Tuấn! Quý ròm ngỡ ngàng nhủ bụng, nhưng để cho chắc ăn, nó nín thở hỏi dò:

- Thế anh có biết anh Tuấn đang làm việc ở đâu không?

Anh Khế lắc đầu:

- Không!

Rồi anh nheo mắt ngó Quý ròm:

- Nhưng em hỏi về anh Tuấn này làm gì kỹ thế?

- Dạ, không có gì ạ!

Sợ anh Khế vặn vẹo lôi thôi, Quý ròm chối phắt một câu rồi ấp úng cáo lui. Nhưng nó vừa đi được vài ba bước, anh Khế bỗng gọi giật:

- Này, này, anh nhớ ra rồi! Hình như anh ta làm việc ở một xí nghiệp may nào đấy…

- Cảm ơn anh! Thế thì đúng phóc rồi ạ!

Anh Khế chưa hiểu ra "đúng phóc rồi ạ" là cái quái quỷ gì thì Quý ròm đã bắn vọt lại chỗ Tiểu Long và nhỏ Hạnh ngồi, hối hả vẫy tay:

- Tụi mình đi!
 
Chương 6


- Bây giờ đi đâu đây?

Quý ròm còm nhom nhưng vọt lẹ như gió, mãi khi ra tới bãi giữ xe, Tiểu Long mới kịp hỏi một câu.

- Thì đi về chứ đi đâu!

Quý ròm đáp lửng lơ, nó vẫn chưa buồn tiết lộ bí mật vội.

Tiểu Long nhìn bạn bằng ánh mắt nghi ngờ:

- Khi nãy mày nói gì với anh Khế vậy?

- Tao hỏi ảnh có biết người cascadeur đóng cảnh lao xuống sông hôm nọ không?

Tiểu Long hồi hộp:

- Ảnh bảo sao?

- Ảnh bảo biết!

- Thế thôi ư?

Quý ròm khịt mũi:

- Rồi tao hỏi tiếp ảnh có biết người đó tên gì không?

Tiểu Long lặp lại câu hỏi vừa rồi:

- Ảnh bảo sao?

- Ảnh bảo biết! – Quý ròm cũng lặp lại câu trả lời khi nãy.

Nhỏ Hạnh một tay dắt xe một tay đẩy gọng kính, nhăn mặt trách:

- Có gì Quý nói đại ra đi, cứ úp úp mở mở hoài!

Quý ròm nhe răng cười:

- Thằng mập hỏi tới đâu tôi đáp tới đó thôi! Ăn nói cũng phải có trật tự nề nếp chứ!

- Thôi được rồi! – Tiểu Long lằm bằm – Thế anh chàng cascadeur đó tên gì?

Quý ròm nheo mắt:

- Không phải tên Tú!

- Cái đó thì tao biết rồi! – Tiểu Long nhún vai – Ngay từ đầu tao đã nói với mày các ông anh tao không thể nào đóng phim được kia mà!

Quý ròm vẫn thản nhiên:

- Không phải tên Tú nhưng tên Tuấn!

- Tuấn?

- Ừ.

- Gì Tuấn? – Tiểu Long lộ vẻ quan tâm.

- Nguyễn Minh Tuấn!

Tiểu Long hừ giọng:

- Xạo đi mày!

Không buồn để lời phản đối của Tiểu Long vào tai, Quý ròm tiếp tục:

- Nguyễn Minh Tuấn, đệ tứ đẳng Karaté, công nhân xí nghiệp may!

Tới đây thì Tiểu Long không nói "Xạo đi mày!" nữa. Nó thấp thỏm hỏi, miệng khô khốc:

- Mày nói thật đấy chứ?

- Thật trăm phần trăm!

Tiểu Long lại liếm môi:

- Anh Khế bảo vậy hả?

- Ừ.

Quý ròm gật đầu, rồi nó nhún vai tiếp:

- Và như vậy tao chỉ đoán sai có năm mươi phần trăm thôi! Tao chỉ nhầm anh Tuấn thành anh Tú!

Tiểu Long thở một hơi dài:

- Mày đoán sai là phải! Chiều hôm trước, anh Tuấn đã đóng kịch như thật! Cả tao lẫn mày đều bị lừa!

Quý ròm cười:

- Một người đã đóng kịch tài như thế chắc chắn đóng phim cũng tài không kém!

- Không được! – Ánh mắt Tiểu Long thoáng vẻ lo âu – Tao phải nói chuyện với anh Tuấn tao mới được!

Nhỏ Hạnh nãy giờ vẫn im lặng đi bên cạnh, giờ nghe Tiểu Long nói vậy liền buột miệng hỏi:

- Thế Long định nói những gì?

Tiểu Long thu nắm tay quẹt mũi:

- Lúc nãy tôi chưa nghĩ ra, nhưng bây giờ tôi nghĩ ra rồi. Tôi sẽ nói với ảnh là tôi đã biết chính ảnh đóng cảnh bị đốt cháy và nhảy xuống sông hôm nọ.

- Thế rồi sao nữa?

Tiểu Long chớp mắt:

- Tôi sẽ yêu cầu ảnh không tham gia vào những pha diễn nguy hiểm như vậy nữa!

- Nếu ảnh không nghe?

Tiểu Long huơ tay:

- Nếu ảnh không nghe, tôi sẽ méc mẹ!

Nhỏ Hạnh cười khúc khích:

- Long làm như anh Tuấn là trẻ con không bằng! Hở tí là méc mẹ!

- Tại Hạnh không biết đó thôi! – Tiểu Long nghiêm trang – Bốn anh em tôi không ai dám cãi lời mẹ! Anh Tuấn là anh cả, càng sợ bị mẹ rầy!

Quý ròm không bỏ lỡ cơ hội trêu bạn:

- Thế mày không phải con cả thì không sợ mẹ rầy hay sao?

Tiểu Long nhăn mặt:

- Tao đâu có nói như thế!

- Thôi được rồi! – Nhỏ Hạnh nói – Tối nay Long cứ gặp anh Tuấn xem sao!

Tuy đã có sẵn kế hoạch, Tiểu Long vẫn không nén nổi bồn chồn khi nghĩ đến cuộc gặp gỡ tối nay. Nghe nhỏ Hạnh nhắc, nó càng thêm lo.

Và không chỉ Tiểu Long, hôm đó Quý ròm và nhỏ Hạnh cũng ra về trong tâm trạng phấp phỏng, không rõ bạn mình có thuyết phục được ông anh ham đóng phim này không.

Nhưng Quý ròm và nhỏ Hạnh chỉ phấp phỏng có một đêm. Sáng hôm sau lên trường, gặp bộ mặt tươi hơn hớn của Tiểu Long, hai đứa hỏi ngay:

- Kết quả thế nào rồi?

Tiểu Long giơ ngón tay cái lên trời:

- Ngon lành!

Quý ròm rùn vai:

- Tao hỏi là hỏi kết quả cuộc nói chuyện giữa hai anh em mày chứ có hỏi tối hôm qua mày ăn món gì đâu mà la ngon?

- Quý sao lúc nào cũng đùa được! – Sau khi lườm Quý ròm một cái, nhỏ Hạnh quay sang Tiểu Long – Đầu đuôi thế nào, Long kể nghe coi!

Tiểu Long chớp mắt:

- Ngay câu đầu tiên tôi đã hỏi thẳng liền!

Quý ròm khịt mũi:

- Hỏi thẳng là sao mà hỏi cong là sao?

Tiểu Long mím môi:

- Tao hỏi người cascadeur đóng cảnh nhảy xuống sông Sài Gòn hôm trước là anh phải không?

- Thế anh Tuấn mày nói sao? – Quý ròm hồi hộp hỏi, nó đã thôi bông phèng.

- Thoạt đầu ảnh chối!

Quý ròm gật gù:

- Thế là mày đem chuyện mày đã đến Câu lạc bộ Thể thao Nguyễn Du gặp anh Khế ra kể?

- Không! – Tiểu Long lắc đầu – Tao chưa nhắc đến chuyện đó vội! Tao bảo là hôm đó thằng Quý ròm bạn em có mặt nơi quay phim và đã trông thấy anh!

- Bỏ xừ rồi! – Quý ròm giật bắn – Sao mày lại đem tao ra làm bằng chứng? Mày không sợ anh Tuấn mày làm mặt lạnh với tao sao?

- Mày yên tâm! – Tiểu Long trấn an bạn – Đem mày ra làm bằng chứng rốt cuộc cũng chả ích gì! Anh Tuấn tao cứ khăng khăng phủ nhận! Ảnh bảo chắc là mày nhầm ảnh với ai!

Nhỏ Hạnh đẩy gọng kính trên sống mũi:

- Thế sau đó thì sao?

Tiểu Long cười hì hì:

- Sau đó tôi buộc phải thuật lại chuyện bọn mình mò đến phòng tập của Câu lạc bộ Cascadeur chứ thì sao! Tôi bảo thằng Quý ròm có thể nhầm nhưng anh Khế nhất định không nhầm!

Quý ròm nheo mắt:

- Chà, dạo này miệng lưỡi mày cũng sắc bén gớm!

Nhỏ Hạnh mỉm cười:

- Thế là anh Tuấn hết đường quanh co?

- Ừ! Cuối cùng ảnh đành phải thú nhận! – Đang tươi tỉnh, đôi mắt Tiểu Long bỗng cụp xuống – Và ảnh bảo…

- Ảnh bảo sao? – Quý ròm chồm tới – Làm gì mày ấp a ấp úng thế?

Giọng Tiểu Long buồn buồn:

- Ảnh bảo… vì mẹ tao dạo này hay đau lưng…

Lần thứ hai Tiểu Long bỏ lửng câu nói. Và câu nói nửa chừng của nó khiến hai đứa bạn nó ngớ người ra chẳng hiểu gì cả.

Mãi một lúc nhỏ Hạnh mới ngập ngừng lên tiếng:

- Long muốn nói vì mẹ Long hay đau lưng nên anh Tuấn phải đi đóng phim hay sao?

Tiểu Long không nói gì, chỉ lặng lẽ gật đầu.

- Tao chả hiểu gì cả! – Quý ròm bứt tóc kêu – Việc anh Tuấn mày đi đóng phim với việc mẹ mày đau lưng đâu có liên quan gì với nhau!

Đôi mắt Tiểu Long trở nên xa vắng, nó nói bằng giọng trầm trầm:

- Anh tao muốn mua cho mẹ tao một cái máy giặt!

Lời giải thích của Tiểu Long ngắn gọn nhưng lần này Quý ròm và nhỏ Hạnh đều hiểu.

So với mẹ nhỏ Hạnh và mẹ Quý ròm, mẹ của Tiểu Long vất vả hơn nhiều. Chả bù với ba ông con trai khoẻ mạnh của mình, mẹ Tiểu Long vốn gầy gò, lại ngày nào cũng ngồi suốt từ sáng đến tối ngoài quầy tạp hoá, chả được ngả lưng lấy một tẹo, tối về còn phải gò người giặt giũ quần áo của cả nhà. Ba Tiểu Long và hai ông anh đi làm suốt, chẳng đỡ đần được mấy tí. Nhỏ Oanh thì còn bé, chỉ có thể phụ mỗi chuyện bếp núc.

Tiểu Long thấy cảnh mẹ quần quật suốt, muốn giúp đỡ mẹ nhưng chẳng biết làm sao. Có những buổi chiều, sau khi học bài xong nó len lén lôi thau quần áo ra giặt, nhưng bị mẹ bắt gặp và mắng cho, từ đó tịt luôn. Mẹ nó chỉ muốn nó dồn tâm trí và thời gian vào bài vở. Anh Tuấn và anh Tú nó vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn đã phải bỏ học từ năm lớp chín, bây giờ mẹ nó không muốn nó và nhỏ Oanh đi theo con đường của hai ông anh.

Những chuyện đó Quý ròm và nhỏ Hạnh đều biết. Chơi thân với nhau nhiều năm, tất nhiên tụi nó thừa hiểu tâm sự cũng như mơ ước của bạn mình. Tụi nó thừa hiểu Tiểu Long là đứa con hiếu thảo, lúc nào cũng canh cánh mong cho mau lớn để ra đi làm hòng đỡ bớt gánh nặng cho ba mẹ. Và cũng chính vì hiểu rõ bạn mình như vậy, Quý ròm không khỏi ngẩn ngơ nhủ bụng: "Anh Tuấn đã nói thế, chả hiểu thằng mập sẽ đối đáp làm sao!".

- Thế anh Tuấn đã mua được máy giặt chưa? – Nhỏ Hạnh đột nhiên hỏi.

- Chưa!

- Chưa ư? – Nhỏ Hạnh tròn mắt.

Tiểu Long buồn bã:

- Anh Tuấn bảo chưa đủ tiền. Pha đóng phim vừa rồi người ta chỉ trả có năm trăm ngàn.

Quý ròm liếm môi:

- Thế máy giặt đắt lắm hay sao?

Tiểu Long gật đầu:

- Ừ, những mấy triệu đồng một cái lận!

- Ôi! – Quý ròm thè lưỡi – Thế biết đến bao giờ mới mua được?

Mắt Tiểu Long đột nhiên long lanh:

- Nhưng anh Tuấn tao bảo trong xí nghiệp có người bán lại một cái máy cũ với giá chỉ một triệu hai thôi.

- Một triệu hai? – Nhỏ Hạnh nhíu mày – Như vậy vẫn còn thiếu đến bảy trăm ngàn đồng nữa!

Quý ròm nhìn lom lom vào mặt Tiểu Long:

- Thế anh Tuấn mày định sẽ đi đóng phim tiếp ư?

- Ừ! – Tiểu Long cắn môi – Nhưng tao kịch liệt phản đối. Tao không muốn anh tao tiếp tục mạo hiểm.

- Thế anh mày trả lời sao?

- Thoạt đầu ảnh không chịu nghe tao! – Tiểu Long đưa tay quẹt mũi – Đến khi tao doạ méc mẹ, ảnh mới chịu nhượng bộ! Ảnh bảo những người đến với nghề này thực ra là do lòng say mê chứ không ai vì tiền bạc hoặc vì muốn được nổi tiếng cả. Trên màn ảnh, người cascadeur luôn phải giấu mặt, khán giả chỉ nhìn thấy diễn viên chính chứ không bao giờ nhìn thấy kẻ thế vai, do đó những ai mong được nổi tiếng sẽ chẳng đi vào nghề này. Tiền bạc cũng vậy. So với công sức phải bỏ ra và mức độ nguy hiểm phải đương đầu, tiền thù lao mà cascadeur nhận được từ những chủ phim không đáng là bao!

Quý ròm tặc lưỡi:

- Thế anh mày thì sao?

- Trường hợp của anh tao thì khác! Lúc đầu ảnh đi theo một người bạn trong Câu lạc bộ Cascadeur đến mấy chỗ quay phim chỉ vì tò mò và ham vui thôi. Tuy rất thích thú với những cảnh diễn của các thành viên câu lạc bộ nhưng ảnh vẫn không có ý định đi vào cái nghề nguy hiểm này. Cho đến ngày mẹ tao ngồi đâu cũng quài tay ra sau lưng đấm thùm thụp…

- Thì anh mày chính thức tham gia vào Câu lạc bộ Cascadeur? – Quý ròm gật gù vẻ hiểu biết.

- Không! – Tiểu Long lắc đầu – Anh tao chỉ định tham gia một vài cảnh để kiếm đủ tiền mua máy giặt thôi!

Nhỏ Hạnh buột miệng:

- Nhưng anh Tuấn đã kiếm đủ tiền đâu?

- Không đủ cũng đành chịu, phải dành dụm hoặc xoay xở bằng cách khác! – Tiểu Long chép miệng – Một khi đã phát hiện được chuyện này, tôi nhất quyết ngăn cản đến cùng!

- Lạ thật đấy! – Quý ròm nheo mắt nhìn bạn – Mày lúc nào cũng mơ trở thành diễn viên võ thuật thượng thặng cỡ Thành Long, Lý Liên Kiệt mà nghe anh mình đi đóng phim lại đâm ra lo sợ và một mực phản đối!

Câu nói của Quý ròm làm Tiểu Long thộn mặt vì bối rối. Phải ngẩn tò te mất một lúc, nó mới nghĩ ra câu trả lời:

- Nhưng anh Tuấn tao đâu có nuôi mộng trở thành diễn viên võ thuật như tao. Nếu đó là sự nghiệp mà anh tao đeo đuổi và sẵn sàng chấp nhận mọi bất trắc vì nó thì tao sẽ không phản đối! Nhưng ở đây không có gì giống như thế! Chuyện anh tao đi đóng phim chỉ là bất đắc dĩ thôi!
 
Chương 7


Suốt một tuần lễ liền, Tiểu Long không nói gì với anh Tuấn về chuyện đóng phim đóng phiếc nữa. Nó cũng không hé môi với bất kỳ ai trong nhà về chuyện này. Hai anh em đã thoả thuận với nhau như vậy.

Tiểu Long cũng chẳng thấy có lý do gì để tiết lộ bí mật của anh Tuấn. Nếu mẹ biết, mẹ chỉ càng thêm lo. Hơn nữa, anh Tuấn đã hứa với nó là sẽ không nhận đóng bất cứ một vai diễn nào nữa. Mà nó, nó chỉ mong có thế thôi.

Nhưng Tiểu Long cũng không yên tâm được lâu. Mới đây nó nhìn thấy những vết trầy khả nghi trên cườm tay của anh Tuấn.

Tuy anh Tuấn cố mặc áo dài tay để che vết xước nhưng đến ngày thứ ba thì Tiểu Long phát hiện ra.

- Tay anh bị làm sao thế? – Nó nghi hoặc hỏi.

- Tay anh có bị làm sao đâu! – Anh Tuấn đáp với vẻ thản nhiên.

- Anh đừng có dối em! – Tiểu Long khịt mũi – Em thấy tay anh bị trầy!

- Ờ, ờ! – Anh Tuấn lúng túng – Chỉ là một vết trầy nhỏ thôi mà! Anh cũng chả để ý nữa!

- Vết trầy không nhỏ như anh nói đâu! – Tiểu Long liếm môi – Anh đau lắm phải không?

- Anh chả thấy đau tí ti nào!

Tiểu Long nhìn chằm chằm vào mắt ông anh:

- Nhưng làm sao tay anh bị trầy thế?

- Có gì đâu! – Anh Tuấn nhún vai – Anh bất cẩn nên va phải cánh cổng ở nhà máy thôi!

- Va phải cánh cổng mà trầy đến bốn năm đường như thế?

Anh Tuấn tặc lưỡi:

- Biết làm sao được! Trên cổng có rất nhiều sợi kẽm, hễ sơ ý là bị chúng cào phải ngay!

Tiểu Long bán tín bán nghi nhưng không nghĩ ra cách nào để bắt bẻ. Nó quay đi mà bụng cứ lo lắng không đâu.

Ngày hôm sau, Tiểu Long gặp Quý ròm:

- Tao nghi quá mày ạ!

- Nghi chuyện gì?

- Chuyện anh Tuấn tao ấy!

- Anh Tuấn mày sao?

Tiểu Long thu nắm tay quẹt mũi:

- Tao nghi ảnh lại lén đi đóng phim!

Nói xong, Tiểu Long bồn chồn thuật lại những điều nó vừa phát hiện.

Quý ròm nhún vai:

- Muốn biết thật hư trong chuyện này chả có gì khó!

- Không khó? – Tiểu Long trố mắt.

- Ừ! – Quý ròm nhún vai – Đến gặp anh Khế hỏi là biết ngay!

- Hay đấy! – Tiểu Long mừng rơn – Có thế mà tao cũng chẳng nghĩ ra!

Rồi nó nhìn lom lom vào mặt Quý ròm, nôn nóng hỏi:

- Thế chừng nào tụi mình đi?

- Đi đâu?

- Đi gặp anh Khế chứ đi đâu!

Quý ròm lắc đầu:

- Không đi nữa!

Câu trả lời của Quý ròm làm Tiểu Long chưng hửng:

- Sao thế? Vừa rồi mày chả bảo phải đi gặp anh Khế là gì?

- Nhưng tao nghĩ lại rồi! – Quý ròm chậm rãi – Nếu anh Tuấn cố tình làm như thế, chắc chắn ảnh đã nhờ anh Khế che giấu giùm ảnh rồi!

- Ừ, có lẽ thế! – Tiểu Long gật gù, rồi nó cắn môi hỏi – Thế bây giờ tao phải làm sao?

Quý ròm vung tay:

- Đến nhà máy nơi anh Tuấn mày làm việc!

Tiểu Long ngơ ngác:

- Đến đó làm gì?

- Sao lại đến làm gì? – Quý ròm hừ giọng – Đến xem có đúng là trên cánh cổng có những sợi kẽm như anh Tuấn mày mô tả không!

- Tao hiểu rồi! – Tiểu Long thở dài – Nếu trên cổng không có sợi kẽm nào nghĩa là anh Tuấn tao đã phịa chuyện?

- Đúng vậy! Và thế là anh mày hết đường chối quanh!

Tiểu Long tấm tắc:

- Mày thông minh ghê!

Được khen, Quý ròm phổng mũi.

- Thông minh gì đâu! – Nó nói, khiêm tốn một cách sung sướng.

Nhưng Quý ròm sung sướng được có một ngày. Ngày hôm sau, vừa thấy mặt nó, Tiểu Long đã thở đánh thượt:

- Hỏng bét rồi!

- Hỏng bét chuyện gì?

- Chuyện cánh cổng ở nhà máy anh tao ấy!

Quý ròm mở to mắt:

- Mày đã đến đó chưa?

- Đến rồi!

- Thế nào? Có sợi kẽm nào trên cánh cổng không?

- Chả có sợi kẽm nào cả! Cổng chỉ là một tấm sắt dày, có bánh xe ở dưới để đẩy qua đẩy lại thôi!

Quý ròm nín thở:

- Thế mày đã nói chuyện với anh Tuấn mày chưa?

- Rồi! – Tiểu Long vò đầu – Tao giở chuyện cánh cổng, tưởng phen này bắt bí được anh tao, không ngờ anh tao tỉnh khô! Ảnh bảo sau khi ảnh bị trầy tay, người ta đã tháo những sợi kẽm đó đi rồi!

Quý ròm khịt mũi:

- Anh mày phịa đó thôi!

- Tao cũng nghĩ vậy! – Tiểu Long tặc lưỡi – Nhưng chả có cách nào làm cho ra lẽ!

Quý ròm cau mày nghĩ ngợi. Nó định đưa tay vỗ vỗ trán nhưng sực nhớ nó không phải là nhỏ Hạnh, liền bỏ tay xuống, nói:

- Tao nghĩ ra cách rồi!

- Cách gì? – Tiểu Long sáng mắt.

- Kiếm nhỏ Hạnh!

- Kiếm Hạnh làm gì?

- Sao lại làm gì? – Quý ròm tằng hắng – Chắc chắn nhỏ Hạnh sẽ nghĩ ra cách nào đó!

Tiểu Long xì một tiếng:

- Tưởng mày nghĩ ra cách gì, té ra cách nhờ vả người khác!

- Rõ là đồ ngốc tử! – Quý ròm kéo tay bạn – Đây không phải nhờ vả, mà gọi là… là gì nhỉ? À, gọi là "phát huy trí tuệ tập thể", hiểu chưa?

Nhỏ Hạnh lắng tai nghe Tiểu Long tường thuật lại những dấu hiệu khả nghi vừa được phát hiện, không nói một tiếng nào. Ngay cả khi Tiểu Long kể xong cả buổi rồi, nó vẫn ngồi im cau mày nghĩ ngợi. Thấy "trí tuệ" của cô bạn gái chẳng chịu "phát huy" tẹo nào,Tiểu Long sốt ruột:

- Giờ phải làm sao đây Hạnh?

- Hạnh đang suy tính! – Nhỏ Hạnh đẩy gọng kính trên sống mũi, chậm rãi nói – Theo Hạnh, có lẽ tụi mình không cần phải theo dõi anh Tuấn!

Tiểu Long ngạc nhiên:

- Nếu không thế làm sao biết được ảnh có tiếp tục đi đóng phim hay không?

- Tụi mình sẽ điều tra theo hướng khác! – Nhỏ Hạnh trầm ngâm – Tụi mình sẽ tìm hiểu xem đoàn làm phim hôm trước đang quay phim gì, và thăm dò xem bao giờ thì họ sẽ lại quay những cảnh có cascadeur tham gia diễn xuất!

- Hay đấy! – Quý ròm gật gù – Và mình sẽ đến ngay "hiện trường" để bắt quả tang nếu như anh Tuấn có mặt ở đó!

- Đúng rồi! – Mặt Tiểu Long rạng lên – Chỉ có cách đó anh tao mới hết đường chối cãi!

Đang hào hứng, Tiểu Long bỗng thộn mặt:

- Ôi, nhưng làm sao biết được phim người ta đang quay là phim gì?

Quý ròm tủm tỉm:

- Chuyện này chắc phải nhờ Hạnh hỏi giùm! Ba Hạnh là nhà báo cơ mà!

Nhỏ Hạnh nguýt bạn:

- Ba Hạnh là nhà báo chứ Hạnh có là nhà báo đâu!

Tuy nói vậy, hai hôm sau nhỏ Hạnh đã tươi tỉnh thông báo:

- Ba Hạnh hỏi giùm rồi! Phim đó là phim "Cạm bẫy giữa ban ngày"!

Tiểu Long nuốt nước bọt:

- Thế chừng nào người ta sẽ lại quay những cảnh có cascadeur tham gia?

Nhỏ Hạnh lắc đầu:

- Chuyện đó thì ba Hạnh không biết!

- Thế thì cũng như không! – Tiểu Long xịu mặt.

- Dễ thôi! – Quý ròm vọt miệng – Muốn biết chuyện đó thì cứ đến hỏi đoàn làm phim!

- Không được đâu! – Nhỏ Hạnh chép miệng – Đoàn làm phim thường xuyên đi đây đi đó, không dễ gì gặp được họ!

- A, tôi nghĩ ra rồi! – Quý ròm thình lình – Dò hỏi các anh chị trong Câu lạc bộ Cascadeur! Hôm trước anh Khế chả bảo người nữ đóng chung với anh Tuấn là một thành viên của Câu lạc bộ là gì!

Nhỏ Hạnh gục gặc đầu:

- Ừ, có lẽ chỉ còn cách đó thôi!
 
Chương 8


Đúng ba giờ rưỡi chiều thứ bảy tuần này, tức là chỉ còn ba ngày nữa, đoàn làm phim "Cạm bẫy giữa ban ngày" sẽ quay một cảnh khá rùng rợn do các cascadeur thủ vai. Đó là tin tức bọn Quý ròm thu lượm được từ một anh chàng tên Thịnh trong câu lạc bộ.

Anh Khế và cả cô gái đóng chung cảnh phóng người xuống sông với anh Tuấn hôm trước đều tỏ vẻ ù ù cạc cạc khi nghe bọn Quý ròm hỏi về cảnh quay sắp tới, chả rõ là không biết thật hay giả bộ. May mà cuối cùng bọn nó cũng dò la được ít nhiều.

Nhưng bọn Quý ròm chỉ dò la được có thế. Anh chàng tên Thịnh chỉ khẳng định cảnh quay này sẽ được thực hiện vào chiều thứ bảy ngay tại thành phố, nhưng địa điểm cụ thể thì anh ta không rõ.

Trên đường về, Tiểu Long cứ thở dài thườn thượt:

- Chả biết địa điểm thì cũng bằng không!

Quý ròm và nhỏ Hạnh nghe rõ lời than thở của Tiểu Long nhưng không đứa nào nói gì. Tụi nó vẫn chưa nghĩ ra cách nào giúp bạn.

Mãi một lúc nhỏ Hạnh mới nhỏ nhẹ lên tiếng:

- Nhưng chắc gì anh Tuấn sẽ tham gia vào cảnh quay này!

Lời an ủi của cô bạn gái càng khiến Tiểu Long thêm ngán ngẩm:

- Nếu không đến tận nơi thì tụi mình chẳng thể biết chắc được điều gì!

Thấy thằng mập bực bội, nhỏ Hạnh liền làm thinh. Nó lầm lũi đạp xe, cặp lông mày nhíu lại. Đã mấy lần nó định đưa tay lên vỗ vỗ trán theo thói quen nhưng lại sợ té, đành tặc lưỡi nắm chặt ghi-đông.

Quý ròm ngồi ngậm tăm nãy giờ phía sau, đột ngột chồm tới vỗ vai Tiểu Long:

- A, có một cách!

- Cách gì? – Tiểu Long ngoảnh cổ hỏi.

Giọng Quý ròm tươi tỉnh:

- Tụi mình đã biết là chiều thứ bảy này sẽ có cảnh quay phải không?

- Ừ.

- Thế từ nay đến đó mày tìm cách trò chuyện với anh mày, dò xem anh mày phản ứng ra sao?

Tiểu Long im lặng một hồi rồi đáp, giọng thiếu tin tưởng:

- Cũng được! Nhưng tao e chả có kết quả gì. Lần này nếu vẫn bí mật đóng phim, chắc chắn anh tao sẽ rất cảnh giác!

- Thì cứ thử xem! – Quý ròm nhún vai – Nếu không có kết quả, tụi mình sẽ tính cách khác!

- Cách gì?

- Đừng nóng ruột! Tối nay cứ dò hỏi anh mày đi đã!

Nghe Quý ròm nói vậy, Tiểu Long chả buồn vặn vẹo nữa.

Tối, đợi cả nhà cơm nước xong xuôi, nó mon men lại gần anh Tuấn:

- Anh Tuấn nè!

- Gì thế em?

Ánh mắt của anh Tuấn tự dưng làm cổ Tiểu Long khô lại. Định tìm cách thăm dò thái độ của ông anh nhưng khi vào chuyện, nó lại cảm thấy khó khăn làm sao.

Mãi một hồi nó mới mở miệng được, nhưng chỉ để hỏi một câu ngớ ngẩn:

- Anh vẫn đi làm bình thường chứ hả?

- Tất nhiên là bình thường!

Anh Tuấn đáp và Tiểu Long có cảm giác anh phải cố để khỏi phì cười về câu hỏi kỳ quặc của nó. Vì thế, cổ nó đã khô lại càng khô. Đến lúc này Tiểu Long mới hối hận là đã không rủ Quý ròm về nhà. Thằng ròm mồm mép lanh lợi, sắc bén, lại lắm mưu mẹo, có nó bên cạnh dù sao cũng yên tâm hơn nhiều.

Thấy ông em ngồi thuỗn ra, anh Tuấn mỉm cười:

- Em chỉ hỏi anh có thế thôi sao?

- À, không! Còn… còn một chuyện…

Tiểu Long ấp úng đáp, trong một thoáng nó có cảm giác anh Tuấn đang điều tra nó chứ không phải là ngược lại.

- Chuyện gì thế? – Anh Tuấn lại hỏi.

- À! – Tiểu Long nuốt nước bọt, cố trấn tĩnh – Em muốn hỏi về đoàn làm phim ấy mà!

- Đoàn làm phim nào?

- Đoàn làm phim hôm trước chứ đoàn làm phim nào! Đoàn làm phim mà anh đã từng tham gia ấy!

- Đoàn làm phim đó làm sao?

Tiểu Long chớp mắt:

- Anh có biết bộ phim người ta đang quay là phim gì không?

- Tất nhiên là biết! – Anh Tuấn thản nhiên – Đó là phim "Cạm bẫy giữa ban ngày"!

- Thế người ta đã quay xong chưa?

- Điều này thì anh không rõ! – Anh Tuấn giọng thật như đếm – Nhưng anh nghĩ là chưa xong!

Tiểu Long nhìn chăm chăm vào gương mặt điềm tĩnh của ông anh, thất vọng khi chẳng tìm thấy một dấu hiệu bối rối nào. Cho đến lúc này, nó vẫn không đoán được anh Tuấn nó nói thật hay chỉ vờ vịt. Hôm trước hai anh em đã giao ước với nhau là không đề cập gì đến chuyện đóng phim của anh Tuấn nữa nên Tiểu Long không tiện hỏi thẳng. Loay hoay một hồi chẳng nghĩ được mẹo nào, nó quyết định nói huỵch toẹt:

- Chiều thứ bảy này đoàn làm phim "Cạm bẫy giữa ban ngày" có một cảnh quay rùng rợn lắm đấy!

Anh Tuấn ngạc nhiên:

- Sao em biết?

Tiểu Long chẳng buồn giấu giếm:

- Em nghe các anh ở Câu lạc bộ Cascadeur nói!

Mặt anh Tuấn thoáng lộ vẻ khác lạ. Trán anh khẽ cau lại nhưng rồi dãn ra ngay. Anh hỏi với vẻ điềm nhiên:

- Họ quay ở đâu thế?

- Em không rõ! Em chỉ định hỏi xem anh có biết nơi đó không!

- Anh không biết! Đã lâu rồi anh không liên lạc với bọn họ!

Thế là công cốc! Nếu có thằng ròm ở đây, nó có thể nghĩ ra những câu hỏi thông minh! Mình chỉ hỏi toàn câu những câu ngốc nghếch, chả lần ra được chút đầu mối nào! Tiểu Long thở dài và cố tìm cách vớt vát:

- Nhưng anh có thể hỏi giùm tụi em! Tụi em định đi xem!

- Anh không thể hỏi giùm em được! – Anh Tuấn lắc đầu – Từ hôm nay đến thứ bảy, ngày nào anh cũng phải có mặt ở nhà máy!

Lời từ chối của anh Tuấn kết thúc luôn cuộc điều tra vụng về của "thám tử" Tiểu Long.

Khi nghe thằng mập thuật lại mọi chuyện, Quý ròm ôm bụng cười bò:

- Trời ơi là trời! Như vậy là mày thú tội với anh Tuấn chứ đâu phải mày điều tra!

- Thú tội? – Tiểu Long giương mắt ếch – Tao thú tội gì đâu?

- Vậy mà còn cãi! – Quý ròm nheo mắt – Chả phải sau cuộc "điều tra" ngốc nghếch kia, anh Tuấn đã biết tỏng hành động cũng như ý định của mày, còn mày thì chẳng biết cóc gì về hành động của anh Tuấn hay sao?

Nhận xét của Quý ròm khiến Tiểu Long ngẩn tò te. Nó gãi gãi tai:

- Ờ há!

Rồi nó liếc Quý ròm:

- Thế mình phải tính cách sao?

Quý ròm nghiêm nghị:

- Chỉ còn một cách cuối cùng!

Tiểu Long hồi hộp:

- Cách gì vậy?

Quý ròm hắng giọng:

- Chiều thứ bảy này tao và mày sẽ đến…

- Đến sao được mà đến! – Tiểu Long vùng kêu lên – Tụi mình đã biết người ta quay phim ở địa điểm nào đâu!

- Rõ là đồ ngốc tử! – Quý ròm trừng mắt – Đã không biết thì làm thinh quách đi cho rồi! Ai bảo mày là tụi mình sẽ đến chỗ quay phim?

- Không phải đến chỗ quay phim ư? – Tiểu Long ngơ ngác – Thế đến đâu?

Quý ròm buông từng tiếng một:

- Đến nhà máy nơi anh Tuấn mày làm việc!

- Chi vậy? – Tiểu Long vẫn chưa hiểu.

- Mình sẽ mai phục trước nhà máy chứ chi! – Quý ròm lườm bạn – Nếu chờ đến ba giờ vẫn không thấy anh Tuấn mày ra khỏi nhà máy thì có thể yên tâm là anh mày thực sự không tham gia vào chuyện phim phiếc này nữa! Còn nếu ảnh ra ngoài thì tao và mày sẽ bí mật bám theo!

Tiểu Long lại gãi gãi tai:

- Ờ há!

Và lại khen bạn:

- Mày thông minh ghê!

Lần này Quý ròm không buồn khiêm tốn như hôm trước. Nó cười toét miệng:

- Còn phải nói!

Tiểu Long lại hỏi:

- Rủ Hạnh đi không?

- Đi đâu?

- Đi đến nhà máy ấy!

Quý ròm ngần ngừ:

- Thôi khỏi! Những chuyện "trinh sát" như thế này, càng ít người càng tốt!

Quý ròm bảo "ít người" tức là chỉ có nó và Tiểu Long. Nhưng Tiểu Long dường như muốn "ít người" hơn nữa cho nên đến đến chiều thứ bảy, ngay trước giờ lên đường, nó đột nhiên nằng nặc đòi ở nhà:

- Thôi, mày đi một mình đi! Có gì thì chạy về cho tao hay!

Quý ròm chưng hửng:

- Mày làm sao thế? Có ấm đầu không đấy?

- Tao chả làm sao cả! – Tiểu Long nhăn nhó – Nhưng tao không muốn để anh Tuấn bắt gặp tao lảng vảng quanh nhà máy!

- Anh Tuấn bắt gặp thì sao?

- Hai anh em đã thoả thuận rồi! Nếu ảnh biết tao theo dõi ảnh tới tận chỗ làm, tao sẽ không yên thân đâu!

- Xạo đi mày! – Quý ròm nheo nheo mắt – Hôm trước mày mò tới nhà máy để xem xét cánh cổng sao mày chẳng sợ, bây giờ lại sợ?

Tiểu Long liếm môi:

- Hôm trước tao đến vào lúc chiều tối, mọi người trong nhà máy đã ra về. Còn hôm nay mới hai giờ đã dẫn xác tới đó thế nào anh Tuấn ngồi trong phòng bảo vệ trông ra cũng sẽ nhìn thấy!

- Ngốc ơi là ngốc! – Quý ròm giơ hai tay lên trời – Ai bảo mày lượn lờ trước cổng làm chi cho ảnh thấy! Tụi mình nấp ở góc đường gần đó quan sát là được rồi!

Góc đường mà Quý ròm và Tiểu Long nấp cách cổng nhà máy chừng ba mươi mét. May làm sao ở đó có một cây trứng cá. Hai ông nhóc thu mình dưới tàng cây, hồi hộp chong mắt về phía nhà máy.

Tiểu Long ngồi chống chân trên xe đạp, chốc chốc lại quay sang Quý ròm, thấp thỏm hỏi:

- Mấy giờ rồi hở mày?

- Hai giờ mười lăm.

- Mấy giờ rồi hở mày?

- Hai giờ ba mươi.

Tiểu Long hỏi đến lần thứ ba thì Quý ròm nổi cáu:

- Mấy giờ cái đầu mày! Nhìn xem ai tới kia kìa!

Tiểu Long ngước mắt nhìn ra phía trước, miệng đột nhiên há hốc.

Tít từ đầu đường đối diện, anh Tuấn nó đang cưỡi chiếc mobylette cọc cạch rề rề chạy tới.

- Ngồi xuống!

Tiểu Long hoảng hốt kêu lên, vừa nói nó vừa phóc ra khỏi xe, ngồi thụp xuống. Ở bên cạnh Quý ròm cũng lật đật làm theo.

Nhưng anh Tuấn không trông thấy hai đứa trẻ. Tới cổng nhà máy, anh ung dung xuống xe và thong thả dắt vào sân.

Quý ròm quay qua Tiểu Long, vừa hỏi vừa từ từ đứng lên:

- Sao anh Tuấn mày đi làm trễ quá vậy?

- Tao cũng chả rõ! – Tiểu Long đứng lên theo – Thường ngày anh tao vẫn đến nhà máy từ sáng sớm, trưa ở lại, chiều tối mới về nhà!

Quý ròm tặc tặc lưỡi:

- Như vậy chắc anh mày vừa đi đâu về!

Câu nói của Quý ròm làm Tiểu Long giật thót:

- Hay là anh tao vừa ở chỗ quay phim về?

- Không có đâu! – Quý ròm lắc đầu – Theo lời anh Thịnh thì ba giờ rưỡi đoàn làm phim mới…

Quý ròm chưa nói dứt câu, Tiểu Long đã cuống quýt:

- Coi chừng! Anh tao ra đấy!

Lần này không đợi Tiểu Long ra lệnh, Quý ròm vội vàng thụp người xuống và lia mắt về phía trước.

Quả nhiên, ông anh của Tiểu Long đang dắt xe ra cổng, chuẩn bị đạp máy.

Quý ròm thì thào:

- Thế thì đúng rồi!

Quý ròm không nói rõ đúng rồi chuyện gì nhưng Tiểu Long thừa hiểu. Nó bất giác thót bụng lại.

Mãi đến khi Quý ròm giục:

- Đuổi theo lẹ đi! Coi chừng mất dấu đấy!

Tiểu Long mới bừng tỉnh và hấp tấp nhấn mạnh bàn đạp rượt theo chiếc mobylette vừa khuất sau cua đường trước mặt.

Quý ròm không hiểu tâm sự của Tiểu Long. Nó ngồi phía sau, miệng cứ bô bô:

- Phen này thì anh mày hết chối nhé!

Giọng điệu hí hửng như sắp bắt được trộm của thằng ròm càng làm Tiểu Long thêm lo lắng. Nó không buồn hé môi, cứ cắm cúi guồng mạnh cặp giò.

Đằng trước, anh Tuấn dường như chẳng tỏ vẻ gì vội vã. Hơn nữa, với tốc độ của chiếc xe cà tàng kia anh có muốn vội vã cũng không được.

Nhờ thế, dù chở thêm Quý ròm phía sau, Tiểu Long vẫn chẳng khó khăn gì trong việc bám theo ông anh. Tuy vậy, nó vẫn giữ một khoảng cách vừa phải, bụng nơm nớp sợ hành tung của mình bị phát giác.

Nhưng Tiểu Long chỉ lo xa. Anh Tuấn trước sau chẳng hề quay đầu lại, vẻ như anh chẳng hay biết gì về những động tĩnh sau lưng.

Quý ròm khoái lắm. Nó cười hi hi:

- Mưu của tao cứ là thánh nhé! Anh mày chẳng nghi ngờ lấy mảy may!

Thấy Tiểu Long làm thinh, Quý ròm lại cười hì hì:

- Lát nữa gặp mày chỗ quay phim, chắc anh mày sẽ khóc thét!

Đang chuẩn bị chuyển qua cười hí hí thì Quý ròm bỗng khựng lại. Ông anh của Tiểu Long chưa kịp khóc thét thì nó đã mếu xệch miệng:

- Ôi, anh mày sao lại đến chỗ này?

- Ừ, lạ thật! – Tiểu Long cũng giật thót, nó thắng kít xe lại – Tại sao anh Tuấn lại đến nhà máy giày của anh Tú kìa?

Quý ròm vò đầu:

- Hay là người ta quay phim ngay tại đây?

- Không thể như thế được!

Tiểu Long lắc đầu. Đang lẩm bẩm, nó chợt hét giật:

- Thôi, hỏng bét rồi!

- Gì thế? – Quý ròm ngơ ngác.

Tiểu Long mặt mày tái xám:

- Hình như từ nãy đến giờ tụi mình đang theo dõi anh Tú chứ không phải anh Tuấn!

- Làm gì có chuyện đó! – Quý ròm tròn mắt – Chẳng lẽ chính mày cũng không phân biệt được ai là anh Tuấn ai là anh Tú sao?

Tiểu Long vẫn chưa hết bàng hoàng:

- Tất nhiên là phân biệt được! Nhưng với khoảng cách xa như thế thì khó nói lắm! Hơn nữa, chiếc mobylette kia là chiếc xe anh Tuấn tao vẫn đi thường ngày!

Quý ròm hít vào một hơi:

- Tao và mày chạy lại xem sao!

- Nhỡ đó là anh Tuấn thật thì sao? – Tiểu Long tỏ vẻ e ngại.

Quý ròm trấn an:

- Thì tụi mình bảo là tụi mình tình cờ chạy ngang qua đây! Làm sao anh mày biết tao và mày bám theo nãy giờ được!

Lý lẽ của Quý ròm giúp Tiểu Long mạnh dạn lên một tẹo. Nó phân vân một thoáng rồi nhấn mạnh bàn đạp.

Ông anh của Tiểu Long vừa giảm ga tắt máy chưa kịp dắt xe qua cổng đã thấy Tiểu Long và Quý ròm trờ tới, liền trố mắt:

- Ủa, các em đi đâu đây?

Bỏ xừ rồi! Quả nhiên là anh Tú! Tiểu Long kêu khổ thầm và vờ đáp:

- Tụi em đi lại nhà bạn!

Rồi nó liếc chiếc mobylette, ngạc nhiên:

- Sao hôm nay anh lại đi xe của anh Tuấn?

Anh Tú mỉm cười:

- À, chiều nay anh Tuấn nghỉ làm nên giao xe cho anh nhờ anh đi xin phép giùm!

Quý ròm có cảm giác như bị ai gõ búa vào đầu: Thế là rõ! Mình và Tiểu Long đã trúng phải kế "Kim Thiền thoát xác"! Anh Tuấn đã liệu trước chiều nay thế nào mình và Tiểu Long cũng sẽ giám sát chặt chẽ nhất cử nhất động của anh nên đã rời khỏi nhà máy từ trưa. Đã thế anh lại vờ nhờ anh Tú đến xin phép để lợi dụng sự giống nhau giữa hai anh em hòng cho mình và Tiểu Long vào bẫy! Thằng Tiểu Long khù khờ bị trúng kế không nói làm gì, ngay cả mình cũng bị lừa thì quả là ức thật!

Tiểu Long không để ý đến tiếng nghiến răng ken két của Quý ròm ở phía sau, nín thở hỏi dò:

- Thế anh có biết anh Tuấn đi đâu không?

- Không! Anh Tuấn không nói! – Anh Tú lắc đầu, rồi anh chớp mắt nhìn Tiểu Long – Nhưng em tìm anh Tuấn làm gì mà gấp thế?

- Không! Chả có chuyện gì đâu ạ! – Tiểu Long ấp úng – Em chỉ hỏi thế thôi!

Rồi sợ ông anh gặng tới gặng lui, nó hấp tấp chào:

- Thôi, tụi em phải đi đây!

Nói xong, nó đạp mạnh một cái, chiếc xe đột ngột lao vút đi khiến Quý ròm la oai oái:

- Mày làm gì thế? Tao sắp rơi xuống đất rồi đây nè!
 
Quay lại
Top Bottom