Duyên kì ngộ-trang trang [hoàn]

“Nàng sẽ không làm thế!”.
“Ồ, sao chàng lại khẳng định như vậy?”. Vương Yến Hồi ngoái đầu nhìn Tử Ly, thấy nụ cười thoảng trên mặt chàng, chính khí độ cao ngạo đó, khiến chàng vượt xa thái tử. Nàng lại thở dài, quay đầu đi tiếp, không nói gì thêm nữa.
Đi qua mấy khúc ngoặt, phía trước hiện ra một một gian phòng nhỏ hình vuông bằng đá. A La bị treo rút trên cao, hình như đã rất lâu, đầu nàng ngoẹo sang một bên, rơi vào hôn mê. Tử Ly lòng đau thắt, nhìn Vương Yến Hồi: “Nàng thắng rồi!”.
Lời vừa dứt, tuyến phòng thủ cuối cùng trong lòng Vương Yến Hồi đột nhiên sụp đổ. Nàng nhìn A La, từ từ nhắm mắt, hai hàng nước mắt ứa ra nhưng không quay đầu, giọng nhỏ nhẹ: “Tại sao? Rõ ràng chàng biết người nàng ta yêu là Bình Nam vương!”.
“Nàng không hiểu yêu là gì!”. Tử Ly ngắt lời nàng.
“Chàng hiểu ư? Rút cục chàng yêu nàng ta cái gì? Nói cho thiếp biết!”
“Nàng ấy giống như ánh nắng, xua tan u ám trong lòng ta, không cần nàng ấy lập công, không cần nàng ấy hiền thục đoan trang, chỉ cần nàng ấy như bây giờ là đủ”.
Vương Yến Hồi bật cười: “Dùng ngôi báu của chàng đổi mạng nàng ta, chàng có bằng lòng không?”.
“Lấy mạng ta cũng được!”. Tử Ly không do dự.
“Ha ha ha, chàng… chàng nói thật hay nói chơi? Chàng không đùa ta chứ! Một người mưu đồ bá chủ thiên hạ như chàng, ha ha, vì một nữ nhi dám từ bỏ vương quyền, từ bỏ tính mệnh?”. Vương Yến Hồi cười đến trào nước mắt. Nàng đã khiến cho họ Vương rơi vào thảm cảnh không còn đường lui, không đầu hàng tất bị tàn sát. Tất cả những điều đó… nàng mâu thuẫn bao nhiêu, rõ ràng biết một nửa phần thắng cũng không có hy vọng, vậy mà vẫn tình nguyện đánh bạc. Vậy mà chàng lại không phải là tri âm của nàng! Vương Yến Hồi đột nhiên nói: “Thiếp không có được, sẽ không ai có được! Thiếp sẽ không giết chàng, thiếp muốn chàng suốt đời không thể quên nàng ta chết thảm trước mặt chàng thế nào!”. Suốt đời chàng sẽ không quên được thiếp! Nàng tự nhủ.
Thân người Tử Ly vừa động, Vương Yến Hồi hét: “Chớ động đậy, chân thiếp giẫm lên bẫy, dù chàng võ công cao cường, cũng không nhanh hơn ngàn mũi tên đang nhằm vào người nàng ta!”.
Tử Ly nhìn nàng, giọng mềm hẳn: “Nàng hà tất phải làm vậy? Ta đã hứa sẽ giữ lời, nàng còn muốn gì?”.
“Tử Ly, ngay từ đầu thiếp đã không nghĩ chàng sẽ giữ lời. Ngay từ đầu thiếp đã hiểu sẽ có ngày hôm nay. Thiếp đã sắp đặt xong mọi kế hoạch, nhưng bây giờ thiếp đổi ý, thiếp sẽ để chàng chứng kiến nàng ta chết thế nào”. Tay Vương Yến Hồi vừa động, từ trong ống tay trượt ra một lưỡi đoản kiếm, nhằm vào thân mình: “Khi thiếp ngã xuống là sẽ chạm vào chốt bẫy, nàng ta sẽ bị ngàn mũi tên cắm vào người như con nhím, không ai cứu được!”. Nói xong thúc kiếm sắc vào bụng, máu đỏ vọt ra.
Tử Ly sải hai bước đến ôm lấy nàng, mắt liếc về phía A La, mặt hốt hoảng.
 
“Phải… chàng chỉ có như thế, ôm như thế… cứ ôm thiếp như thế… một bước… một bước không rời… mới không chạm vào chốt bẫy”. Vương Yến Hồi nói nặng nhọc, ngắt quãng, sắc mặt tựa như cười, “Tử Ly, nếu chàng yêu thiếp… thiếp có thể giúp chàng… thống nhất thiên hạ, nhưng, đáng tiếc…”.
Chính trong lúc đó, từ cửa gian mật đá một bóng người phi vào, bay vọt lên chém đứt sợi dây thừng, ôm lấy A La nhảy xuống đất. Tử Ly và Vương Yến Hồi sững sờ nhìn, người đó cúi chào: “Vương thượng, thần Thành Tư Duyệt cứu giá chậm trễ! Xin tha tội cho thần không thể hành lễ”.
Tử Ly thở phào, buông tay, Vương Yến Hồi rơi xuống, chỉ nghe tiếng gió “sì sì”, nhưng không thấy tên bắn ra, Vương Yến Hồi trợn mắt kinh ngạc nhìn Thành Tư Duyệt nói: “Ngươi… ngươi là…”. Nhưng mắt lại nhìn Tử Ly, trên môi nở nụ cười vô cùng bí hiểm, “Ninh… Ninh quốc… đại loạn…”. Giọng nàng đứt quãng, rồi tắt hẳn, Vương Yến Hồi cuối cùng tắt thở.
Tử Ly lùi hai bước, sững người, thở dài nhìn Thành Tư Duyệt: “Ngươi đến bao lâu rồi?”. “Vương thượng tha tội, thần đã tìm thấy lối vào, nhưng loanh quanh không biết bao lâu mới tìm thấy gian phòng này, thấy thái tử phi mình đầy máu, Thanh La bị treo rút trên cao, không kịp thỉnh an vương thượng, phải cứu muội ấy trước đã”. Thành Tư Duyệt cẩn thận đáp.
“Ngươi chẳng phải là thần tử trung thành của Đông cung sao?”. Tử Ly bình thản hỏi.
Thành Tư Duyệt nhìn chàng: “Thần chỉ trung thành với hoàng đế Ninh quốc”.
Tử Ly cười: “Lui ra đi!”.
“Xin vâng!”. Thành Tư Duyệt ôm A La đi trước dẫn đường, hai người ra khỏi địa cung. Tử Ly không đón A La từ tay Thành Tư Duyệt. Thành thị lang là anh rể A La, còn chàng là hoàng đế Ninh quốc. Ra khỏi địa cung, Tử Ly khẽ ra lệnh: “Phá hủy!”. Chàng nhìn A La vẫn thiêm thiếp trong tay Thành Tư Duyệt, lòng lo lắng vô hạn, nhưng không dám thể hiện trước mặt thần tử, đành ra lệnh: “Tìm thái y khám, nếu không có gì nghiêm trọng đưa tam tiểu thư trở về tướng phủ điều dưỡng”.
Thành Tư Duyệt cúi đầu nhận lệnh. Chàng thầm nghĩ, con người này đã kìm chế mọi tình cảm trong lòng, người ta nói bụng vua khó dò, tâm thái ấy không phải tự nhiên mà có, mà từng chút được bồi nên trong cuộc sống luôn căng thẳng đề phòng.
Thái y sau khi xem xét kỹ nói: “Tam tiểu thư chỉ do quá mất sức, không có trở ngại lớn, nghỉ ngơi vài ngày là khỏi”.
 
Thành Tư Duyệt thở phào, chàng đã bắt mạch cho nàng, biết là thế, lúc này nghe thái y chẩn đoán, nét mặt mừng rỡ. Nữ chủ này nếu có mệnh hệ gì chàng sẽ phiền phức to: “Ông đi bẩm báo Ly… vương thượng”. Thành Tư Duyệt chữa lại, thầm nhắc bản thân, Lưu Phi bây giờ không còn là Ly Thân vương, chàng đã là tân vương Ninh quốc, đại lễ đăng cơ hai ngày sau chỉ là nghi thức mà thôi.
A La vẫn chưa tỉnh. Thành Tư Duyệt cau mày, rõ ràng là mạch bình ổn, tại sao đến giờ vẫn chưa tỉnh? Chàng theo xe ngựa đích thân đưa nàng về tướng phủ. Lý tướng vẫn chưa về, đại phu nhân sai một a hoàn đưa A La đến Đường viên, chăm sóc cẩn thận.
Đại phu nhân tươi cười đón Thành Tư Duyệt vào đại sảnh, Thành Tư Duyệt cúi chào: “Các nhạc mẫu xin chớ lo lắng, cục thế trong cung đã định, nhạc phụ là hữu tướng quốc, bận rộn quốc sự, lát nữa sẽ về thôi”.
Các phu nhân thở phào, tam phu nhân nước mắt lưng tròng: “Không biết Thanh Lôi nhà ta thế nào, cô gia có biết không?”.
Thành Tư Duyệt nghĩ, Thanh Lôi chắc là đã bị giam lỏng cùng thái tử ở ngoại thành phía đông rồi. Chàng thở dài: “Tính mạng không sao, phu nhân yên tâm!”.
Chàng lại nói với tứ phu nhân: “Những ngày này Tư Duyệt việc nhiều, Phỉ Nhi lại đang mang thai… liệu có thể đón thân nương đến đó?”. Mắt nhìn sang đại phu nhân.
Đại phu nhân sao có thể không cho đi, thái tử bị đổ, Thành Tư Duyệt này hình như lại không hề hấn gì. Anh ta là rể nhà này, Thanh Phỉ đang mang thai, muốn để mẹ ruột đến chăm sóc cũng phải, bà cười: “Tứ muội à, tướng phủ nhiều việc, ta không lúc nào rời đi được, muội đến đó chăm sóc A Phỉ. Tư Duyệt một mình xoay sở sao được?”.
Tứ phu nhân phấn khởi, chạy đi sắp đồ. Lúc ngang qua Thành Tư Duyệt, bà chợt nghe thấy tiếng nói nhỏ như tiếng muỗi kêu: “Sau này phu nhân không phải quay về tướng phủ nữa”. Tứ phu nhân ngây người, nhìn ánh mắt tươi cười của Thành Tư Duyệt, lòng bà khấp khởi, phải rồi, có thể sống cùng con gái và cháu ngoại, việc gì phải ở trong tướng phủ chịu sự ức hiếp của mấy phu nhân kia. Bà phải nhân cơ hội chăm sóc Thanh Phỉ, rời khỏi chốn thị phi này. Trong vương phủ, Lưu Giác đứng ngồi không yên, ngược lại An Thanh vương ngồi uống trà, ung dung nhàn tản. Lưu Giác đi đi lại lại mấy vòng, mắt liếc nhìn cha, cũng ngồi xuống, thong thả uống trà, còn gọi người hầu: “Hôm nay ta cũng mệt rồi, chuẩn bị vài món ăn, kiếm bình rượu mang đến đây”. Chàng lại nhìn An Thanh vương, nói: “Đại cục đã định, cha có muốn uống vài chén?”.
 
An Thanh vương nhìn con trai, bụng nghĩ, sao không thấy tiểu tử này sốt ruột nhỉ? Ta sẽ không nói, nhất định có lúc mi sẽ sốt ruột cho coi. Hai cha con ngồi trong nhà hóng mát, ngắm sắc xuân đầy vườn, vừa ăn vừa uống rượu, không ai nhắc tới A La.
Lưu Giác lòng đã sốt ruột phát điên. Ông già chắc chắn đã có thu xếp, lại có âm mưu gì đó, chẳng qua không nói cho chàng biết, muốn khiến chàng sốt ruột phát điên. Chàng cười nhạt hỏi: “Cha, cha nói xem, sau khi Tử Ly đăng cơ, huynh ấy sẽ ra tay diệt trừ họ Vương chứ?”.
An Thanh vương tinh thần phấn chấn, tiểu tử, cuối cùng không nhịn nổi rồi sao? Ông đắc ý vuốt râu: “Con muốn hỏi họ Vương hay hỏi A La?”.
“Đương nhiên là họ Vương, việc quốc gia đại sự như vậy đương nhiên con phải quan tâm”. Lưu Giác trả lời.
“Ồ, không đâu, chưa thấy Vương hoàng hậu bị ban dải lụa trắng thắt cổ, chỉ có Vương thái úy đã cáo lão về quê, Vương Yến Hồi đã tự vẫn…”. Nói đến Vương Yến Hồi, ông bỗng dừng lại.
“Vương Yến Hồi tự vẫn? Nàng ta giống người tự vẫn hay sao? Trong trận khe núi Hoàng Thủy, nếu Tử Ly không điều đến hầu hết Hữu quân, con trai cha suýt không còn mạng mà về! Loại nữ tử như vậy có thể tự vẫn sao!”. Lưu Giác không tin, nghi hoặc nhìn An Thanh vương. Trước đây chàng chỉ nghe nói Vương Yến Hồi thông minh mưu lược, sau trận Hoàng Thủy chàng mới tin.
Chàng còn tưởng Vương Yến Hồi sẽ bố trí vô số cạm bẫy trong cung, đợi chàng và Tử Ly tấn công sẽ một lần nữa khiến họ thương vong thảm hại.
An Thanh vương nhìn con trai đăm đăm, ý tứ sâu sa: “Nàng ta không chết sao được? Nếu không tự vẫn, Tử Ly sẽ tha cho nàng ta ư? Tử Ly sao có thể giữ lại người đàn bà như vậy, nuôi hổ để rước họa? Cho dù Tử Ly mềm lòng tha cho nàng ta, nàng ta có cam lòng chịu cuộc sống giam lỏng cùng thái tử không? Người tự vẫn, bảo toàn vương cung, Vương thái úy cha nàng ta và các đại thần họ Vương cùng lắm chỉ cần rút khỏi triều đình, nếu quyết tử một trận trong vương cung, kết quả sẽ thế nào? Chắc chắn tru di chín họ!”.
 
Khi An Thanh vương nói đến tru di chín họ ngữ khí vô cùng nghiêm trọng, Lưu Giác hoàn toàn có thể tưởng tượng ra số phận những người họ Vương và các quan đứng về phía thái tử sau khi vương cung bị phá. Bao nhiêu người chết? Máu ở ngoài Ngọ Môn sẽ chảy thành sông, dao quằn trong tay đao phủ. An Thanh vương bỗng thở dài: “Có thể dùng tính mạng của mình đổi lấy cơ hội sống cho họ Vương, không thể không khiến người ta khâm phục!”
Lưu Giác ngẫm nghĩ những lời cha mình vừa nói, mắt lóe sáng: “Binh pháp có câu: Người biết có thể đánh và không thể đánh là người thắng cuộc, Vương Yến Hồi biết không thể đánh, người mặc dù tự vẫn, nhưng cũng khó nói nàng ta thất bại”.
“Ha ha, phải lắm!”. An Thanh vương phấn khởi, con trai ông càng ngày càng trưởng thành, đã dần dần biết rút ra bài học kinh nghiệm, đang đủ dần lông cánh, có thể thả cho bay rồi. Sau này… mắt bỗng nhòa ướt, ông cúi đầu uống cạn chén rượu: “Con trai, hôm nay là lần cuối cùng. Sau này phải nhớ Tử Ly là hoàng đế, không phải là Ly Thân vương đã cùng con đồng cam cộng khổ chiến đấu”.
Lưu Giác miệng cười rạng rỡ: “Con hiểu”.
“Nếu Tử Ly hỏi đến A La thì sao?”. An Thanh vương sốt ruột không nén nổi.
“Với suy tính và tính cách của Tử Ly, liệu huynh ấy có làm chuyện đại nghịch quân vương tranh cướp thê thiếp của thần tử không? Con thấy chắc chắn Tử Ly không làm chuyện đó, thâm tâm huynh ấy cũng không cho phép mình làm vậy”. Lưu Giác nói thẳng. An Thanh vương cười nheo mắt nhìn con trai, tiểu tử này, rõ ràng sốt ruột đến phát điên, lòng đang thầm chửi lão phu, vậy mà còn kìm chế mãi như thế, thật đã làm khó con rồi. Ông cười khà khà: “Lão phu không làm khó con nữa, nói cho con biết, ta đâu muốn làm tổn thương nha đầu đó, con thử nghĩ xem, trong cung có người của chúng ta. À, con luôn muốn làm quen với người đó, hôm nay có thể gặp y”.
“Ám Dạ?!”. Lưu Giác hào hứng nói.
Ô y kỵ của An Thanh vương có năm tổ, là Huyền tổ, Xích tổ, Minh tổ, Thanh tổ, Cáp tổ. Huyền tổ chuyên phụ trách tấn công, Xích tổ phòng thủ, Minh tổ chuyên lo ám sát, vạch định mưu kế, Thanh tổ bảo vệ, Cáp tổ đảm trách thông tin liên lạc. Huyền Y, Xích Phong, Minh Âm, Thanh Ảnh và Lưu Anh đều là những tổ trưởng sống trong vương phủ chỉ có Ám Dạ – tổ trưởng Cáp tổ không ở trong phủ, phụ trách truyền đạt thông tin, thực hiện các mệnh lệnh, bố trí điều vận đội quân bí mật cài cắm theo dõi các nơi, lực lượng của người này mạnh nhất Ô y kỵ, nắm lực lượng bí mật nhất của phủ An Thanh vương. Vậy mà Lưu Giác lại chưa gặp bao giờ. An Thanh vương không cho anh ta lộ mặt trước Lưu Giác, thỉnh thoảng trong phủ hoặc sau lưng ông, chàng cảm thấy hơi hướng của Ám Dạ, đó là một khí trường đặc biệt khác người.
Trước khi đi Biên thành xa xôi, An Thanh vương giao Ô y kỵ cho Lưu Giác, nhưng chàng vẫn chưa gặp Ám Dạ lần nào, hỏi An Thanh vương đều được một câu trả lời giống nhau: “Thời cơ chín muồi khắc biết”.
 
Lúc này ông già chủ động nhắc đến Ám Dạ, khiến chàng không khỏi cảm thấy tò mò.
An Thanh vương chậm rãi nói: “Ô y kỵ của ta từ khi được thành lập theo lệnh tiên tổ vương, người xung quanh đã không dám coi thường. Ô y kỵ ngoài Lưu Anh tất cả đều bịt mặt, mục đích là đến một ngày nào đó sau khi giải tán vẫn có thể trở thành lực lượng hữu dụng. Bây giờ tứ điện hạ đã đăng cơ thuận lợi, Ô y kỵ đã đến lúc giải tán được rồi”. Lưu Giác bỗng chốc hiểu ra, đây là chuyện sớm muộn, một vương phủ lưu giữ lực lượng như vậy, có quân vương nào có thể để yên? Khi tiên vương còn tại thế, do tình hình đặc biệt, bởi tiên vương tính khí ôn hòa, là huynh đệ ruột thịt với An Thanh vương, trong khi họ Vương lộng hành chuyên quyền sự tồn tại của Ô y kỵ là tất yếu. Tử Ly vốn trị bề tôi rất nghiêm cẩn, bản thân đã tận mắt chứng kiến, sau khi chàng đăng cơ, Ô y kỵ tiếp tục tồn tại sẽ là một cái gai trong mắt Tử Ly.
An Thanh vương rất hài lòng trước biểu hiện của con trai, con ông không hề tỏ ra kinh ngạc, xem ra đã hiểu sự tình: “Nhiều năm trước cha đã bảo Ám Dạ âm thầm sắp xếp chuyện này. Lực lượng kiên trung của Ô y kỵ đã ẩn vào dân gian, Ô y kỵ bây giờ có thể bỏ mặt nạ, công khai trước thiên hạ. Nhìn rõ rồi cũng có thể làm quen”.
Nhận rõ rồi, khi muốn loại bỏ cũng tiện chứ gì? Lưu Giác muốn cười lại nhịn, lúc này chính hai cha con cũng nói mập mờ như vậy! Chàng lơ đãng liếc An Thanh vương, nói tiếp: “Ám Dạ này bản lĩnh khá được, bao nhiêu năm nay không phải con không tra soát y, mà là không tra ra tin tức gì, y…”. Giọng chàng bỗng lạnh lùng: “Đến rồi sao còn không vào?!”.
Ngoài cửa sổ một bóng đen bay vào, trong mắt Ám Dạ lóe lên vẻ ấm áp và tán dương: “Chúa thượng không tồi, phát hiện ra Ám Dạ nhanh hơn Lưu Phi nhiều”.
Lưu Giác bước lên trước, ngắm nghía Ám Dạ. Anh ta uể oải đứng đó, dáng dong dỏng cao, đôi mắt lấp lánh lộ ra ngoài mạng che. Bàn tay với những ngón dài trắng nõn, đầu ngón giữa hơi nhô ra, có nốt chai nhẹ, anh ta vốn là người cầm bút hoặc vẽ tranh hay sao? Ám Dạ vừa đổi giọng, nghe quen quen: “Giọng nói này, chúa thượng có nhận ra không?”.
Lòng Lưu Giác trào lên cảm giác vô cùng quen thuộc, nhưng lại giống như bị cách một bức rèm che, nhất thời không nắm bắt được. Đúng rồi, giọng nói này chàng đã từng nghe, hơn nữa người này có lẽ chàng đã quen, là ai nhỉ? Chàng trợn mặt nhìn Ám Dạ, khóe mắt liếc An Thanh vương, như một tia chớp lóe, đáp án tức thì bật ra, chàng nhìn An Thanh vương: “Chính là y!”.
An Thanh vương và Ám Dạ nhìn nhau cười.
 
Ám Dạ bước lên quỳ thi lễ chính thức: “Cáp tổ Ô y kỵ Ám Dạ từng gặp chúa thượng, tam tiểu thư đã được đưa về tướng phủ, thuộc hạ đã gặp Lưu Anh, bố trí y ở lại tướng phủ chăm sóc tiểu thư. Xung quanh tướng phủ đã bố trí người theo dõi, tiểu thư rất an toàn”. Lưu Giác nhấc chân, nhanh như chớp đá Ám Dạ một cái. Ám Dạ ngạc nhiên, cơ thể bay trượt ra xa ba thước, nhưng vẫn giữ nguyên tư thế quỳ. Lưu Giác cười lớn: “Nghe nói trong Ô y kỵ ngươi thân thủ tốt nhất, so với bản vương thế nào?”.
Rất tốt, không lập tức hỏi tình hình tiểu thư, chúa thượng như vậy mới xứng đáng thống lĩnh Ô y kỵ. Ám Dạ kính cẩn đáp: “Ngang ngang với chúa thượng, nhưng nếu chúa thượng luyện thành công tầng thứ bảy Phi tuyết công, Ám Dạ không phải là đối thủ”.
Lưu Giác kinh ngạc, Phi tuyết công này ngay cả cha chàng cũng không biết nội tình, sư phụ truyền dạy cho chàng đã chết ở Tuyết Sơn, Ám Dạ sao biết được?
Mắt Ám Dạ ánh lên vẻ ấm áp: “Xin cho thuộc hạ đứng lên nói”. Chàng đứng dậy, hai cánh tay vòng trước mặt, kết ra một chuỗi thủ ấn. Chính là khởi thức của tuyệt chiêu Phi tuyết công mà Lưu Giác chưa từng sử dụng. Ám Dạ dừng lại nói ngay: “Sư phụ là do lão vương gia tìm. Ông ấy cũng thu nhập thuộc hạ làm đệ tử”.
Lòng Lưu Giác băn khoăn, cha đi Biên thành xa xôi, giao chàng mới được mấy tuổi cho những người trong phủ trông nom, lúc đó chàng đã tưởng cha không quan tâm đến chàng. Về sau sư phụ đột nhiên xuất hiện, xưng là võ sư kỳ tài, đến truyền dạy tuyệt chiêu cho chàng. Sau khi lớn lên, An Thanh vương mỗi năm trở về một lần, lần nào cũng thích trêu đùa vui chơi với chàng. Tình cảm cha con mới dần dần sâu đậm.
Lưu Giác nhìn cha, lòng cảm kích vô hạn. Cha đã thu xếp tất cả mọi việc, bao gồm cả A La. Không nói với chàng cũng do sợ chàng sốt ruột. Chàng đáp lễ với Ám Dạ: “Đây là lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng ta thi lễ với binh sĩ Ô y kỵ. Nói đi, sau này ngươi trở thành thuộc hạ hay sư đệ của ta?”.
“Ám Dạ chính là Ám Dạ, Ô y kỵ trước sau vẫn là Ô y kỵ, sinh tử đều không thể xa rời”. Ám Dạ trang nghiêm nói.
“Nếu ngươi muốn…”.
Ám Dạ ngắt lời chàng: “Chúa thượng không muốn hỏi tình hình vương cung?”.
“Tình hình vương cung thế nào?”. Lưu Giác hạ giọng hỏi. Ám Dạ rõ ràng hiểu ý chàng, nhưng lại không muốn rời bỏ Ô y kỵ, từ bỏ thân phận Ám Dạ, sống cuộc sống hoàn toàn dưới ánh mặt trời. Mắt tràn ngập quyết tâm trung thành với vương phủ. Nỗi xúc động dâng trào trong lồng ngực Lưu Giác, đây là thuộc hạ, cũng là huynh đệ của chàng!
 
“Vương Yến Hồi và Lưu Phi có minh ước, chính là lý do vương cung không đánh cũng hàng. Nhưng Lưu Phi rõ ràng không thể thực hiện minh ước, Vương Yến Hồi tự vẫn, có lẽ muốn cầu khẩn Lưu Phi khai ân cho họ Vương thoát nạn tru di, đúng là một kỳ nữ. Nhưng nàng ta dùng tam tiểu thư để ép… Lưu Phi”.
Ám Dạ liếc nhanh Lưu Giác: “Theo thuộc hạ cảm thấy, Lưu Phi tâm địa khó dò, nhưng với tam tiểu thư thì tình cảm sâu nặng. Còn nữa, sau khi chúa thượng đi Hoàng Thủy không lâu, Cáp tổ hồi báo, hơn hai vạn tinh binh của Vương Yến Hồi đã lọt vào tay Lưu Phi”.
Lưu Giác và An Thanh vương ngồi nghe, trầm ngâm rất lâu. Tử Ly và Vương Yến Hồi có minh ước, điều này thực sự nằm ngoài dự liệu của họ. Lưu Giác đột nhiên cười: “Con phải đi thăm A La, cha à, sau khi Tử Ly đăng cơ, vương phủ chúng ta cũng nên tổ chức hỷ sự thôi. Cha có muốn bế cháu không?”.
An Thanh vương cười ha hả: “Phải lắm, cưới A La về, bế cháu, ha ha!”. Ông mỉm cười nghĩ đến nha đầu đó, tâm trạng cũng vui lên.
Ám Dạ cúi chào: “Thuộc hạ cáo lui!”. Nói đoạn nhún người bay vọt ra.
Sau khi Ám Dạ đi khỏi, Lưu Giác bĩu môi với An Thanh vương: “Cứ tưởng cái gì tốt là dành cho con, không ngờ cha còn giữ riêng một bảo bối lợi hại như thế”.
An Thanh vương trừng mắt: “Bảo bối à? Nếu là con, một hạt trân châu rơi trước mặt, con có nhặt không. Lúc nhặt được Ám Dạ nó đang cướp đồ bố thí, người bé tý như vậy mà chen chúc rất hăng trong đám ăn xin đông đúc, vừa may có bọc bánh, bọc thịt gì đó ném ra. Hầy, nó nhảy cao nhất! Khi nó quay đầu lại ta đã nhìn thấy mắt nó, chà chà, một đôi mắt sáng quắc, vừa kiên cường vừa không biết sợ. Hừ, giống hệt con khi cướp A La!”.
Lưu Giác tức mình, cười: “A La là miếng thịt sao? Con nhớ rồi, nàng ấy sẽ thù cha cho coi!”.
An Thanh vương giơ tay, cốc một cái rõ mạnh vào đầu chàng: “Nghe ta nói hết đã! Lúc đó nó thấy cha nhìn nó, liền ngây ra, mồm cắn miếng thịt, thỏa mãn vô cùng, cha không kìm nổi, bảo thị vệ đưa nó đến. Cha hỏi tuổi, nó giơ ngón tay, ra hiệu năm tuổi. Ta sai thị vệ mua mấy cái bánh cho nó, tiện thể hỏi chuyện gia cảnh, mắt nó ngấn nước, nhưng không khóc, lát sau bỗng nó quỳ xuống cầu xin ta, hỏi có thể bán thân cho ta không, chỉ cần một lượng bạc. Ta hỏi dùng bạc làm gì nó nói, muốn mua đồ ăn cho cha nó, cha hiếu kỳ theo nó về nhà…”.
 
An Thanh vương đột nhiên dừng lại nhìn ra ngoài cửa sổ, rất lâu không nói. Lưu Giác muốn hỏi, há miệng lại thôi. Chắc chắn là cảnh ngộ khiến An Thanh vương chấn động. Là cảnh ngộ gì không quan trọng, quan trọng câu nói tiếp theo của An Thanh vương: “Sau này khi điều kiện chín muồi, Ám Dạ sẽ tự mất tích, như chưa bao giờ tồn tại”. Rồi đột nhiên chuyển chủ đề: “Nhìn hai đứa, ta cảm thấy nó còn tốt hơn con, tính cách cũng tốt, lại hiếu thuận đâu có như con?”.
“Hừ, con còn chưa nói ra đấy, làm gì có người cha nào như cha? Rắp tâm để con trai lo lắng! Cha nói đi, bây giờ con không vội, con sẽ cưới A La về để nàng ấy đấu với cha!”. Lưu Giác nói, cười một hồi rồi nhảy ra khỏi nhà hóng mát, lòng đã vô cùng sốt ruột, chàng muốn gặp A La thật nhanh.
Tử Ly bồi hồi đi lại trong Ngọc Long cung. Mọi thứ ở đây chàng đều quen thuộc, nhưng lại thấy xa lạ. Chàng không ngừng nói thầm trong lòng: Phụ hoàng, Tử Ly đã làm được rồi! Phụ hoàng, phụ hoàng sẽ yên tâm chứ? Phụ hoàng đã gặp được mẫu hậu chưa? Mẫu hậu đã chờ đợi người lâu lắm rồi. Nghĩ tới đó chàng lấy ra cây ngọc tiêu, lặng lẽ thổi một khúc. Tiếng tiêu phiêu diêu, tựa như lòng chàng lơ lửng trên không, trên không tới trời, dưới không chạm đất, không bến đỗ, không tìm được chốn quay về.
Cuối cùng đã trở thành chủ nhân của Ngọc Long cung, nhưng lòng chàng bỗng trống rỗng, chơi vơi như trên đời chỉ còn lại đơn độc một mình. Tiếng tiêu nghẹn dần, chàng dừng tay, khẽ vuốt mặt, những ngón tay ươn ướt, là nước mắt sao? Ngừng lại tiếng tiêu, ngừng lại lòng mình, nỗi niềm miên man cùng tình thân ấm áp hòa trong nước mắt rơi xuống long bào. Chàng lặng lẽ đứng, đợi giọt nước mắt cuối cùng rơi xuống, nhưng nó lại ngưng trong mắt, rồi khô dần, không còn sức rơi xuống nữa.
Tử Ly giơ tay quệt khô nước mắt, trước mắt không còn nhập nhòe bóng nước, mọi vật trở nên rõ ràng, đến mức có thể nhìn rõ những sợi màng nhện trên xà nhà. Chàng nhẹ nhàng vọt lên, ngón tay chạm vào sợi tơ nhện đó, chàng nhảy xuống đưa ra ánh sáng nhìn, những sợi tơ mảnh mà dai, nhẹ bẫng. Tơ tình cũng thế, bắt đầu chỉ là một sợi mắc trong lòng, chú ý đến rồi giơ tay chạm vào, thổi nhẹ một cái, có thể lập tức tan biến vô hình vô ảnh. Nhưng lâu dần, tơ tình mới giăng mắc lan man chằng chịt, trái tim vừa vùng vẫy, cựa động đã không còn sức lực, đành để mặc cho tơ tình cùng lớn dần, đến cuối cùng đã không còn nhận rõ đâu là tim đâu là tơ nữa.
Tử Ly phủi màng nhện trên tay, dưới khuôn mặt trầm tĩnh ấy suy nghĩ của chàng đang như sóng trào từng lớp. Chàng bất giác nhắm mắt, lòng không ngừng gọi tên phụ hoàng và mẫu hậu, hít thật sâu hết hơi này đến hơi khác, nét mặt càng kiên định. “Hãy tin tưởng nhi thần, mỉm cười nhìn nhi thần trị vì Ninh quốc cường thịnh thế nào!”. Tử Ly thầm thì. Chàng chậm rãi đi vào đại điện, ngồi trên ngai vàng. Làn gió mát thổi vào trong điện, ánh mặt trời dừng lại bên ngoài, Tử Ly nhìn ra, dưới ánh mặt trời vương cung lộng lẫy biết bao. Đây là cuộc đời chàng sao? Ngồi một chỗ sâu hút giữa tầng tầng lớp lớp trướng rủ màn che nắm trong tay thế giới bên ngoài chói lòa ánh nắng. Tất cả mọi người đều sống dưới ánh mặt trời, cho dù một lúc không có ánh nắng, chỉ cần bước hai bước là có thể tự do cho thể xác và tâm hồn tắm trong ánh nắng. Chỉ có chàng ở trên ngai vàng không thể di dời là mãi mãi trầm luân, bọc chặt trái tim máu thịt trong giáp sắt, quẳng trong lửa thiêu, ném vào nước lạnh, đến khi luyện thành tấm giáp cứng như thép, mà mọi mưu đồ toan tính, mọi công kích đả phá không thể nào chọc thủng.
 
Ánh mắt chàng dần dần trầm lắng, nhìn xuyên qua tường cung, từ từ nhắm lại, bản đồ bốn bề Ninh quốc hiện lên trước mắt, chàng đột nhiên cảm thấy coi thường thiên hạ. Thế lực hắc ám mạnh hơn quang minh nhiều, bởi vì nhìn không xuyên, sờ không thấu; thế lực hắc ám an toàn nhất, bởi vì không biết ra tay từ đâu. Đó chính là đế vương!
Chàng nghĩ tới Vương Yến Hồi, khóe miệng hiện lên nụ cười giễu cợt. Minh ước ư? Có một nội ứng để dễ nắm binh quyền, sao không thể? Vương Yến Hồi cũng như cha nàng ta, chưa từng chinh chiến, tinh thông trận pháp thì sao? Chiến trường thiên biến vạn hóa, sao có thể chỉ dựa vào một cái đầu rỗng là có thể thắng trận? Thật nực cười, đó chỉ là trò đánh trận trên giấy không hơn!
Nàng ta còn không bằng Lưu Giác và Cố Thiên Tường, dựa vào mấy cuốn binh thư là đã muốn khai thiên lập địa, muốn thay đổi thân phận, còn muốn ngồi sánh ngang với mình, cùng xuất chinh bốn bể, e là nàng ta điên rồi! Sao mình có thể để nàng ta toại nguyện, chỉ dựa vào công trạng làm nội ứng cho mình là có thể thành hoàng quý phi của mình! Đưa chính phi thái tử đến bên hoàng huynh làm gian tế, một minh quân thánh chúa sao có thể liên quan tới những chuyện bỉ ổi như vậy? Nàng ta muốn trở thành kỳ tài thiên hạ, chỉ có điều hiểu biết quá ít về lòng người.
Dù có ôm mộng bá chủ, thống nhất năm nước, chàng cũng sẽ không tùy tiện xuất binh. Vô cớ xuất binh sẽ khiến các nước lân bang phẫn nộ, muốn tiêu diệt quân đội có sĩ khí cao ngạo được thống lĩnh bởi những tướng soái có chung mục đích chống phi nghĩa, cho dù cuối cùng giành được thắng lợi cũng làm tổn thương nặng nề nguyên khí của Ninh quốc.
Điều đáng tiếc duy nhất là, một nữ nhi có hùng tâm tráng chí như thế quả thật hiếm hoi, vậy mà đã chết.
Bản thân chàng không thích nàng ư? Thích, nhưng không phải bởi vì nàng mạnh mẽ, nàng có thể sánh ngang với chàng là có thể trao nàng trái tim. Chàng đã trao trái tim cho người khác, đối với nàng, chàng chỉ có thể thở dài.
Lúc bước vào đại điện Đông cung, chàng đã cảm thấy nàng đã sớm nghĩ ra, cho nên đã thông minh dùng hai vạn Bắc quân cộng với tính mạng bản thân để bảo vệ cả họ Vương. Tử Ly mỉm cười, chàng đương nhiên không tru di chín họ họ Vương, càng không truy cứu bất kỳ viên quan từng theo thái tử. Thái tử, lương đệ, tiểu công chúa, chàng sẽ đối đãi tử tế, để họ phải tạ ơn, để thái tử khâm phục, trong thiên hạ còn gì được lòng người hơn thế? Chỉ có điều việc đầu tiên phải làm sau lễ đăng cơ là hạ một đạo thánh chỉ, mọi nữ tử họ Vương vĩnh viễn không được vào cung làm phi tần, nam tử vĩnh viễn không được làm quan.
Chú thích:
1. Tiên hoàng hậu Hiếu Hiền: Chỉ mẹ của Tử Ly, Hiếu Hiền là thụy hiệu.
 
Chương 30 Lưu Giác vui vẻ đi vào tướng phủ đã thấy Lý tướng ra đón. Dù chàng không thích ông ta, về danh nghĩa Lý tướng vẫn là nhạc phụ đại nhân của chàng, thấy Lý tướng mặt mày hơn hở, chàng cũng mỉm cười thi lễ, chàng được nghênh đón vào chính đường tướng phủ, hàn huyên mấy câu.
Lý tướng lòng thấp thỏm không yên. Địa vị của Cố tướng đã nâng một bậc, trở thành quốc trượng, còn trưởng nữ Thanh Lôi của ông lại bị giam lỏng cùng thái tử, không lâu nữa sẽ chuyển đến biệt uyển ở ngoại ô phía đông; thứ nữ Thanh Phỉ gả cho Thành Tư Duyệt không cao không thấp. Duy có đứa thứ ba, cơ hồ có nhiều vương vấn tình cảm với tân vương và Bình Nam vương. Cảnh diễn ra ở phủ An Thanh vương ông vẫn còn nhớ. Nếu Thanh La có thể gả cho vương thượng, không được làm hoàng hậu thì cũng làm quý phi, lại là quý phi được sủng ái nhất, địa vị của ông ta và Cố tướng sẽ ngang nhau. Sau này biết đâu có thể A La hạ sinh hoàng tử, nhờ mẫu thân được sủng ái mà hoàng tử được lập làm thái tử.
… Nhưng, cha con An Thanh vương… Trong đầu ông bao ý nghĩ xáo trộn, nhanh chóng đưa ra phán đoán mới. Vừa đăng cơ, tân vương quyết không gây ra chuyện cướp vợ của đại thần, hơn nữa, đại thần này lại không phải là người bình thường, mà là con ruột của lão vương thúc, là Bình Nam vương đại thắng quân Trần ở Lâm Nam, uy chấn thiên hạ, có công đắc lực phò tá tứ điện hạ lên ngôi! Hôn sự với Bình Nam vương đã chắc như đinh đóng cột, không còn nghi ngờ gì nữa.
Lúc này Lưu Giác đã vào đến cửa, chắc là đang lo lắng cho A La của chàng, nên ngữ khí của Lý tướng càng thêm thân mật và phỉnh nịnh: “Hiền tế à, con quả là tỏ rõ thần uy, trong trận Lâm Nam đã uy phong hiển hách, nghe nói quân Trần mới nghe danh đã tháo chạy! Lần này đôi mắt tinh tường lại lựa chọn đúng minh chủ, vương gia quả thực là phúc của Ninh quốc! Tiểu nữ có thể được đấng phu quân như thế, là phúc ba đời nhà ta!”. Lưu Giác vừa nghe khắp người đã nổi da gà, nhe răng cười: “Tướng gia quá khen, đó là do vương thượng anh minh, dụng binh như thần! Lại thêm nhạc phụ đại nhân và quần thần cúc cung tận tụy, mới sáng suốt vạch trần ác tâm cùng mưu đồ của họ Vương, để không khiến vương thượng ta rồng ẩn biển khơi!”.
Lý tướng giật mình, cười gượng, Bình Nam vương này thật có tài ăn nói.
Lại hàn huyên chuyện trên trời dưới bể một hồi, Lý tướng cuối cùng nhìn ra tâm trạng nôn nóng trong vẻ bề ngoài lịch duyệt cung kính của Lưu Giác, mới gõ vào đầu làm bộ nhớ ra: “Ôi chao, đầu óc ta, A Vân, mau đưa Bình Nam vương đến Đường viên thăm tam tiểu thư. Tiểu thư đã tỉnh chưa?”.
“Vâng, lão gia! Nhưng tam tiểu thư… tiểu thư…”. A Vân ấp úng, ngẩng đầu liếc Lưu Giác.
Lưu Giác bật dậy khỏi ghế, mắt nhìn Lý tướng. Lý tướng lòng thầm rên “ô chà”, bụng nghĩ, sao mình lại quên đi thăm A La? Rồi ông ta vội hỏi: “Rút cục thế nào, nói mau!”. Tay ông đã bắt đầu run.
“A Vân cô nương, xin đi trước dẫn đường”. Lưu Giác không chờ nghe nàng ta trình bày, lời vừa nói đã sải bước ra ngoài.
 
A Vân vẫn còn đứng chần chừ, Lý tướng sực tỉnh, vội đích thân dẫn đường đến Đường viên: “Đi thăm A La, trời ơi hôm nay trong cung nhiều việc, khi Thành Tư Duyệt đưa A La về, biết là không có chuyện gì lớn, lão phu sơ suất quá!”.
Lưu Giác trấn tĩnh, cười nói: “Tướng gia là trọng thần của Ninh quốc, hôm nay việc nhiều, Thành Tư Duyệt đã nói không có chuyện gì, chắc là ổn thôi”.
Vào Đường viên, Lưu Anh chắp tay hành lễ với Lý tướng và Lưu Giác: “Tiểu thư vẫn chưa tỉnh, nhưng mạch vẫn bình ổn”. Ánh mắt nhìn Lưu Giác lộ vẻ lo lắng.
Lưu Giác theo Lý tướng vào phòng, A La nằm thiêm thiếp trên gi.ường, như đang chìm trong giấc mộng, sắc mặt hơi xanh, hơi thở nhè nhẹ. Chàng vội đi đến cầm tay xem mạch, quả nhiên mạch bình ổn, không có bất kỳ biểu hiện khác thường. Chàng khẽ gọi: “A La tỉnh dậy đi, là ta đây, A La!”.
Dường như nàng không nghe thấy. Lưu Giác khẽ hỏi: “Thành Tư Duyệt đưa về phủ lúc nào?”.
Một nữ tỳ đáp: “Giờ Ngọ ba khắc. Lúc đó Thành thị lang nói, thái y đã xem rồi, tiểu thư chỉ bị mất sức, không có gì lớn”.
Mất sức? Bây giờ đã là giờ Dậu, ngủ liền hơn ba canh giờ vẫn chưa tỉnh? Lưu Giác thầm rên, hỏng rồi, không biết Vương Yến Hồi đã giở trò gì trên người A La. Chàng nhìn Lưu Anh, nói với Lý tướng: “Tướng gia xin cứ về nghỉ ngơi, ta sẽ vận công thử xem”.
Lưu Anh vội gọi Lý tướng và hai nữ tỳ ra ngoài, cẩn thận đóng cửa, đứng canh bên ngoài.
Lưu Giác nhẹ nhàng đỡ A La dậy, cả người nàng cũng như đang ngủ, dựa vào người chàng, toàn thân như không chút sức lực, như không hề có cảm giác. Chàng lặng lẽ vận huyền công, truyền chân khí vào cơ thể nàng, cảm thấy nội kinh mạch bình thường, chân khí sau khi lọt vào hồi lâu không có dấu hiệu gì bất thường.
“A La! Nàng có nghe thấy không? Nàng có cảm thấy không?”. Lưu Giác lại nhẹ nhàng hỏi.
A La không có phản ứng, Lưu Giác hoảng hốt, bất giác ôm nàng thật chặt. Tiếng tim đập và thân nhiệt áp vào khiến chàng hơi yên tâm, mới cảm thấy nàng vẫn còn sống. Lưu Giác hít nhẹ hơi ấm từ cơ thể nàng, nói nhỏ: “Đừng dọa ta, A La, nàng ngủ đủ rồi, dậy đi, tỉnh đi, nghe tiếng tim ta đập này, tim ta đập rất dữ, lòng ta rất bối rối, nàng tỉnh lại đi!”. Nói đến câu cuối chàng dường như đã lắc người nàng. Nhưng chỉ có mấy sợ tóc mai lay động, khuôn mặt ngọc của A La vẫn bất động.
 
Lưu Giác giật mình, lại lo sợ ôm nàng vào lòng, đầu óc đã rối loạn, tình trạng bây giờ của A La ngoài hơi thở, nhịp tim và nhiệt độ, hoàn toàn giống một người đã chết. Chàng không cam lòng, lại ép ra chân khí một lần nữa thăm dò kinh mạch trong cơ thể A La, vẫn không phát hiện có gì khác.
Chàng từ từ đặt nàng nằm xuống, nhìn một hồi lâu. A La rút cục bị làm sao? Chàng cau mày, khẳng định có chỗ nào đó không ổn. Chàng nhảy ra kéo cửa, Lưu Anh nhìn thấy sắc mặt chàng, giật mình hỏi: “Tam tiểu thư…”.
“Ngươi không được rời nửa bước, không được cho ai đến gần!”. Lưu Giác lạnh lùng lệnh cho Lưu Anh rồi đi đến đại sảnh nói với Lý tướng: “A La không phải đang ngủ, tình trạng nàng ấy rất giống trúng tà. Ta đã lệnh không được ai đến gần, tướng gia đừng lo, ta sẽ tìm được câu trả lời”. Nói xong chàng vội vã bỏ đi.
Trong Tùng phong đường, Tiểu Ngọc vẫn yếu ớt nằm trên gi.ường, nghe thấy tiếng động bên ngoài, vội lấy gối kê người ngồi dậy.
Lưu Giác bước vào, trầm giọng hỏi: “Sức khỏe Tiểu Ngọc đang phục hồi tốt chứ?”.
“Đa tạ vương gia quan tâm, Tiểu Ngọc không bị gì nghiêm trọng, nghỉ ngơi vài ngày là khỏe. Tiểu thư thế nào rồi ạ?”. Tiểu Ngọc mỉm cười nhìn chàng, nàng biết Lưu Anh đã đến Đường viên bảo vệ A La nên cũng yên tâm.
“A La vẫn chưa tỉnh, tình trạng rất lạ, trông thì như đang ngủ. Nhưng nếu đúng như thái y nói, nàng chỉ bị mất sức thì không thể ngủ liền bốn canh giờ không tỉnh, mà lay gọi cũng không tỉnh. Cho nên, Tiểu Ngọc, ta muốn ngươi kể lại chi tiết mọi chuyện xảy ra khi Vương Yến Hồi đưa A La đi!”. Chàng nhìn Tiểu Ngọc vẻ nghiêm túc.
Tiểu Ngọc kinh hoàng thất sắc: “Sao có thể như vậy? Khi Vương Yến Hồi gọi thị vệ đưa tiểu thư đi, không có gì khác lạ!”. Nàng bắt đầu nhớ lại tình hình lúc đó, “Khi trời sắp sáng, một tốp thị vệ xông vào mật thất. Vương Yến Hồi nói “Muốn chuyển chỗ khác cho tiểu thư, không biết tiểu thư có đồng ý không?”. Tiểu thư trả lời “Được, ở đây cũng có thói quen uống trà sáng!”. Khi tiểu thư đi ra không hề nhìn Tiểu Ngọc một cái. Sau đó lại qua hai canh giờ, có người vào, xưng là người của Ô y kỵ, đưa Tiểu Ngọc ra, hỏi tình hình của tiểu thư, rồi giao cho một người đưa Tiểu Ngọc ra khỏi cung, thật là không có gì khác thường!”.
 
“Ngươi đừng khóc, Tiểu Ngọc! Khóc cũng chẳng ích gì, nghỉ ngơi vài ngày, khỏe rồi, lại đi thăm A La”.
Lưu Giác không có được tin gì hữu ích, từ chỗ Ám Dạ cũng không, lòng như lửa đốt.
An Thanh vương trầm tư suy nghĩ: “Ở địa cung của Vương Yến Hồi có manh mối gì không?”.
Lưu Giác mắt sáng lên: “Trong cung đột nhiên có thêm năm nghìn binh mã, liệu có phải họ vào qua đường mật đạo?”.
“Rất có khả năng, ta gọi Ám Dạ cùng đi với con”. An Thanh vương quyết đoán, “Nhất thiết không được để ai phát hiện hai người, bây giờ là thời khắc đặc biệt, lúc này phát hiện hai người bí mật vào Đông cung, không khéo lại bị nghi là thích khách, khiến quân vương nghi ngờ, không phải chuyện hay”.
Việc không thể chậm trễ, Lưu Giác và Ám Dạ dùng khăn bịt mặt như nhau, lặng lẽ từ phía đông thâm nhập vào Đông cung. Vừa hạ xuống tường cung, họ đã phát hiện có một người đang đứng ở Ngọc Ly cung cách đó không xa. Hai người nín thở, Lưu Giác ra hiệu cho Ám Dạ, hai ngày nữa Tử Ly mới đăng cơ, bây giờ vẫn chưa vào Ngọc Long cung, vẫn ở Ngọc Ly cung.
Hai người lặng lẽ lui ra, nhờ bóng cây và bóng đêm, dựa vào trí nhớ âm thầm lọt vào Đông cung.
Đông cung lúc này không còn chút gì không khí phồn hoa náo nhiệt của ngày trước, mà im lìm như ngủ trong đêm, chỉ có hai thị vệ đứng gác, bên trong tĩnh lặng không một bóng người. Ám Dạ bay đến như một làn khói, Lưu Giác thầm thán phục khinh công của chàng ta cao hơn mình một bậc, thân thủ như thế rất thích hợp với nhiệm vụ của Cáp tổ. Thấy chàng ta bám lấy một góc mái hiên, lộn người nhảy xuống dưới với góc độ không thể tưởng tượng, quan sát bên trong nội điện từ kẽ hở của cửa. Nhờ ánh trăng lờ mờ, Ám Dạ thận trọng quan sát khung cảnh tĩnh mịch xung quanh, sau khi tin chắc không có người, mới ra hiệu với Lưu Giác. Lưu Giác nhón chân, lướt tới như con chim, nhanh nhẹn vọt đến. Sau đó một người quan sát động tĩnh, một người khẽ mở cửa sổ, cả hai né người lách vào tẩm điện của Đông cung thái tử phi.
Ám Dạ rõ ràng đã biết bố trí bên trong, mở lối vào địa cung một cách thành thạo, hai người theo bậc thềm đi sâu xuống dưới, sau khi vào bên trong, họ đóng cửa lối vào, tất cả lại trở về tĩnh lặng như chưa bị ai xâm phạm. Nền và mặt tường địa cung đều lóng lánh huỳnh quang, rõ ràng được xây bằng loại đá lân tinh. Hai người lướt nhanh về phía trước như bóng ma trong ánh lân tinh, suốt dọc đường không ai nói một câu, chỉ dùng tay ra hiệu, Ám Dạ liên tục đưa ra tín hiệu tay phức tạp, nói với Lưu Giác các loại bố trí khắp nơi. Hệ thống bẫy ở đây rất phức tạp, chỉ cần đi nhầm sẽ bị trúng bẫy mất mạng, khiến Lưu Giác vô cùng kinh sợ.
 
Vòng đông rẽ tây, không lâu sau hai người đã tìm được lối vào ngôi điện đá đó. Lưu Giác đại khái hiểu ra, địa đạo bên ngoài chằng chịt quanh co tựa mê cung bao bọc tòa điện, nếu không có người dẫn đường, những con đường lấp lánh lân tinh giống hệt nhau không thể phân biệt được, chỉ có thể quanh co chán chê rồi lại trở về vị trí ban đầu, chàng bất giác khâm phục Ám Dạ.
Ám Dạ cười nhìn chàng, nhẹ nhàng làm mấy động tác tay, ra hiệu bảo chàng, chàng ta ở Cáp tổ, phải thăm dò nắm tin tức, loại bỏ cạm bẫy là một trong những kỹ năng cơ bản.
Lưu Giác đứng trong ngôi điện đá, đưa mắt quan sát, thấy cách lối vào mấy trượng có một vũng máu lớn đã đông cứng, nhưng không thấy thi thể Vương Yến Hồi, liền ngoái đầu nhìn Ám Dạ. Ám Dạ cũng kinh ngạc, lẽ nào có người đã vào đây? Chàng lẳng lặng ra hiệu cho Lưu Giác dừng bước, cổ tay khẽ vẫy đã bắn ra sợi dây mảnh đến mức mắt thường không nhìn thấy, trong nháy mắt đã quấn vào cây cột đá đối diện lối vào ngôi điện, Ám Dạ khẽ giật dây thăm dò.
Lưu Giác đột nhiên cảm giác cách mười trượng có người đi đến, liền khẽ vỗ Ám Dạ. Ám Dạ vẫy tay thu lại sợi dây, hai người vọt lên như hai con dơi, không tiếng động lui khỏi tòa điện, ép chặt người vào một góc địa đạo.
Bên ngoài có năm người đi đến, hình như họ đều biết võ công, sau khi đi vào, họ kiếm khắp trong tòa điện. Hai người nín thở, vận nội công duy trì hơi thở. Một lát nghe thấy tiếng nói: “Vương thượng, không phát hiện địa cung có cửa ra”.
Hai người kinh ngạc, không ngờ người đến lại là Lưu Phi.
Tử Ly xem xét kỹ bên trong tòa điện, ngoài ba cây cột hai chiếc ghế đá thì không có vật dụng nào khác. Chàng thẫn thờ đứng gần vũng máu khô, ngẩng đầu nhìn sợi dây thừng lủng lẳng từ trên đỉnh trần, hình ảnh A La lúc đó lại hiện lên trong đầu. Lúc chàng nhìn thấy nàng, A La đã hôn mê, không còn sinh khí. Lòng chàng đau nhói, chỉ hận rằng người bị treo ở đó sao không phải là mình nhưng chàng không dám bước nửa bước đến gần, cuối cùng vẫn không thể không ôm người con gái đang sắp chết trong lòng mình, bây giờ muốn đi thăm A La, nhưng lại không thể ra khỏi cửa cung một bước. Nghĩ đến tình cảnh này, lòng chàng bừng bừng mối hận, trừng trừng nhìn vũng máu khô trên nền. Đột nhiên nhớ tới đôi mắt lưu luyến đau đớn của Vương Yến Hồi trước lúc chết, bất giác thở dài: “Thi thể của thái tử phi đã thu xếp chưa?”.
 
“Đã đưa về am Từ Thiện ở ngoại thành phía đông, chờ an táng”.
“Truyền chỉ, hậu táng, đưa vào phi lăng!”. Tử Ly thản nhiên hạ chỉ, “Đã không có lối ra, thì bịt chỗ này lại, hủy bẫy, san bằng lối vào mười trượng”.
“Tuân lệnh!”.
Tử Ly lại ngoái nhìn đoạn dây thừng lủng lẳng trên không, nói tiếp: “Vốn đã lệnh cho Thành thị lang thu xếp chuyện này, ngày mai Thành thị lang đến, nói với y, ở đây đã được niêm phong”. Nói đoạn chàng hất tay áo quay ra.
Nghe thấy tiếng chân xa dần rồi mất hẳn, Lưu Giác và Ám Dạ mới dám thở bình thường. Lưu Giác bỗng hốt hoảng, ở đây không có lối ra, Tử Ly muốn niêm phong địa cung, họ làm thế nào ra được? Hai người nhìn nhau nhảy lên, nhanh chóng vọt ra phía lối vào. Vừa rẽ khỏi địa đạo, Lưu Giác kéo Ám Dạ, trên bậc đá trước mặt, những sọt đất đá đã đổ xuống ầm ầm, lối ra sẽ bị bịt kín ngay tức khắc, rõ ràng trước khi vào địa cung Tử Ly đã cho chuẩn bị đất đá lấp lối vào.
Lưu Giác nhún vai, cười: “Được, có thể nói được rồi”.
Trong mắt Ám Dạ cũng không thấy sợ hãi, khẽ cười: “Thuộc hạ không tin, Vương Yến Hồi đã bỏ thời gian ba năm chỉ xây được mỗi cái hang đá này. Chúa thượng, xin mời đi theo Ám Dạ”.
Ám Dạ thận trọng đi vào trong địa đạo, tay rắc bột đen, rẽ mấy chỗ ngoặt, rồi lại trở về cửa vào tòa điện. Chàng lại từ một đầu khác đi ra, rắc bột màu đỏ đánh dấu, mấy lần như thế, cuối cùng họ vẫn quay trở về cửa tòa điện đó, mắt Ám Dạ đầy nghi hoặc: “Chúa thượng, địa đạo vòng vo, nhưng lại chỉ thông đến tòa điện đá này không hề có cửa ngầm khác”.
Lưu Giác cười sang sảng: “Ta cũng không tin Vương Yến Hồi kỳ công xây tòa điện đá như vậy, mà bên trong lại chẳng có thứ gì!”. Nói đoạn chàng quay trở vào nhà đá.
Tám cây cột chắc chắn trong tòa điện, không hoa mỹ, hai chiếc ghế đá có thể di chuyển, Ám Dạ gõ từng viên đá lát nền. Đến vũng máu của Vương Yến Hồi, chàng chợt nhún chân, trên hai bức tường phía sau mở ra hai cửa động đen ngòm, từ đó phát ra những tiếng gió “sì sì”, Lưu Giác hốt hoảng nhảy dựng, rồi vọt lên không, nhưng không thấy mũi tên nào bay ra, bất giác trợn mắt nhìn Ám Dạ.
“Đã làm chúa thượng kinh động, Lưu Phi dám ngang nhiên bước vào, hệ thống bẫy trong địa cung tất đã bị dỡ bỏ”. Ám Dạ nén cười.
Lưu Giác nhìn về hướng mũi tên nhằm vào, chính là vị trí chính giữa bức tường phía trái tòa điện đá, phía trên có một đoạn dây thừng lủng lẳng vẫn còn đung đưa bởi gió hút từ cửa động trên tường do vừa rồi Ám Dạ chạm vào chốt bẫy.
“Hình như là vết kiếm chặt đứt,” Lưu Giác vừa quan sát vừa lẩm bẩm, chợt hiểu ra: “Vương Yến Hồi đã treo A La trên đó, định dùng bẫy tên giết nàng ấy?”.
 
Ám Dạ cụp mi mắt: “Đằng nào người cũng đã được cứu, lão vương gia sợ chúa thượng lo lắng, bảo thuộc hạ không cần nói kỹ”.
Lưu Giác ngẩng đầu nhìn sợi dây thừng, vừa hận vừa đau. Không biết A La bị treo bao lâu mới kiệt sức như thế, không biết nàng còn trải qua những gì mà đến giờ vẫn hôn mê bất tỉnh.
Chàng thở dài một tiếng, tung người vọt lên, nắm lấy sợi dây thừng, chàng muốn biết A La bị treo ở đây, cảm giác thế nào. Cơ thể chàng vừa buông lỏng, đu đưa theo sợi dây thừng, gió hun hút từ những cửa động dày đặc đen ngòm trước mặt phả vào mặt giống như những con rắn đang phun độc khiến chàng lạnh người.
Lúc đó A La sợ hãi tuyệt vọng thế nào? Nếu Ám Dạ không đến kịp, trận mưa tên dày đặc bắn ra từ những cửa động trên tường… Lưu Giác rùng mình, không dám nghĩ tiếp.
Ám Dạ thở dài nhìn thân hình Lưu Giác treo lơ lửng, có lẽ do quá yêu thành ra loạn trí. Chỗ sơ suất duy nhất trong kế hoạch tính toán chu toàn của lão vương gia là không biết Vương Yến Hồi đã giở trò với A La lúc nào. Chàng cúi đầu, lại tiếp tục gõ tìm trên nền đá xem có manh mối gì có thể giúp họ thoát ra địa đạo đã bị bịt kín này.
Lưu Giác đột nhiên “a” một tiếng. Ám Dạ ngẩng đầu, nhìn thấy Lưu Giác tay nắm sợi dây thừng, mắt nhìn phía trước, sau đó vọt lên, lao thẳng đến phía trên khung cửa tòa điện đá, thò tay lấy ra một cây tiêu nhỏ. Lưu Giác cầm lên quan sát, một cây tiêu rất bình thường, không có gì đặc biệt. Nghĩ một lúc đưa lên miệng thổi, một mũi tên không đầu bay ra, bên trên buộc một mảnh lụa mỏng.
Ám Dạ cẩn thận cầm mũi tên, giở mảnh lụa ra xem, bên trong có mấy hàng chữ nét thanh thoát: “Đặt thân vào vị trí của nàng ta, trải nghiệm nỗi đau đớn của nàng ta, tất là trân trọng nàng ta, yêu nàng ta hết mực. Thanh La bị trúng Thất hồn ngọc dẫn hương của thiếp, cần được ngâm mình một canh giờ trong suối băng ở hoàng lăng trên đỉnh Ngọc Tượng mới có thể tỉnh lại. Bây giờ chỉ có mình chàng mới cứu được nàng ta, thiết nghĩ, trải qua kiếp nạn đó, Lưu Giác ắt không dám tranh giành với Tử Ly nữa”.
Ám Dạ đọc xong, lặng lẽ đưa cho Lưu Giác.
Lưu Giác đọc xong tái mặt vò mảnh lụa trong tay. Vương Yến Hồi giỏi lắm, đến trò này mà cũng nghĩ ra.
 
Muốn giải Thất hồn ngọc dẫn hương chỉ có dùng nước suối băng trong hoàng lăng, suối băng trong suốt, bắt nguồn từ sông băng vạn năm không tan. Di thể các đời hoàng đế Ninh quốc đều được quàn ở hoàng lăng, diện mạo vẫn bảo tồn muôn năm không đổi. Hoàng lăng do các thủ lăng nhân(2) truyền đời canh giữ, chỉ có Ninh vương được vào hoàng lăng, trừ khi băng hà được đưa vào hoàng lăng yên nghỉ, mỗi năm Ninh vương cũng chỉ được một lần vào thăm dung nhan liệt tổ liệt tông. Lúc này chỉ có Tử Ly có thể đưa A La vào tắm ở suối băng để giải Thất hồn ngọc dẫn hương. Như vậy, A La chắc chắn phải là phi tử của hoàng đế Ninh quốc. Nếu muốn Tử Ly đưa A La vào tắm ở suối băng, nhất thiết phải trao A La cho Tử Ly, trở thành hoàng phi của Ninh vương? Như vậy chẳng phải cố tình đẩy chàng và Tử Ly vào nghịch cảnh tranh giành một cô gái sao?
Ám Dạ thấy Lưu Giác toàn thân run rẩy, bất giác thở dài: “Chúa thượng, trên mảnh lụa còn có sơ đồ đường ra phải không?”.
Lưu Giác tức giận ngây người hồi lâu, mới nói: “Theo sơ đồ chỉ dẫn thoát ra ngoài hẵng hay!”.
Hai người theo ký hiệu trên sơ đồ, ấn vào một chốt bẫy, quả nhiên thấy một chiếc cột di chuyển, lộ ra một bậc thang. Ám Dạ né người nhảy xuống thăm dò trước, Lưu Giác theo sát sau, đi hai canh giờ mới đến một cái cửa bằng đá dày nặng trịch. Họ đẩy cửa bước ra, bên ngoài ánh trăng trong vắt như nước, dãy núi sừng sững nguy nga, có tiếng suối chảy rì rào, sau khi đi ra, cửa đá tự động đóng lại, đẩy lần nữa đã không hề nhúc nhích, thì ra cửa chỉ có thể mở từ bên trong. Sau khi cửa đá đóng lại, hoàn toàn lẫn vào núi, không hề nhìn thấy dấu vết cửa hang đâu.
Lưu Giác quay đầu nhìn, có thể thấp thoáng nhìn thấy cổng thành phía đông, thì ra họ đã ở ngoại thành phía đông. Chàng nhìn dòng suối, đột nhiên nghĩ đến có lần đã cùng A La cưỡi ngựa đến đây, bất ngờ bị đánh lén. Lúc đó chàng đã cảnh giác bố trí, đánh lui những sát thủ bịt mặt, đã nói với A La hãy tin vào chàng, trừ phi chàng chết, chàng sẽ bảo vệ che chở nàng suốt đời suốt kiếp. A La mở to mắt nhìn chàng, như ngây ngất, như cảm động, thời khắc đó… Lại nghĩ đến những lời viết trên mảnh lụa, lòng chàng đau như cắt. A La của chàng! Đôi mắt đó không bao giờ mở ra được nữa sao? Phải trao nàng cho Tử Ly ư?
Chàng không chịu nổi, lập tức nhảy xuống suối trầm mình trong nước. Nước suối mùa xuân vẫn còn lạnh khiến chàng nổi da gà, nghĩ đến lần đầu gặp A La cũng ở bên suối trong Đào hoa yến. Gió thổi tung mái bờm lộ ra đôi mắt lóng lánh như thủy tinh, nghĩ đến lúc nàng bỏ trốn, chàng buồn bã, cũng trầm mình xuống suối như thế này. Nhưng bây giờ, nước suối đầu xuân buốt thấu xương cũng không lạnh bằng trái tim chàng, cái buốt giá chích vào d.a thịt đau đến mấy cũng không bằng cơn đau từng trận vò xé lòng chàng. Tử Ly lưu luyến không quên A La, sao có thể bỏ qua cơ hội này, cho nên chàng ta nhất định sẽ cứu A La. Nhưng nếu cứu được A La, nghĩa là nàng sẽ trở thành hoàng phi của chàng ta! Hiện thực này quá tàn khốc! A La biết làm sao? Mình biết làm sao? Lưu Giác đằm mình trong nước suối, hai tay nắm chặt. Chàng mở mắt, cách làn nước trong xanh, ánh trăng trên đầu bàng bạc tròng trành như lòng chàng. Lần đầu tiên chàng thấy khó khăn như vậy, lần đầu tiên chàng bất lực như vậy.
Lưu Giác không chịu nổi, từ dưới nước nhảy lên, hai tay đấm mạnh vào mặt nước, đập nát ánh trăng. Hai tay chàng vẫn điên cuồng đấm, khuôn mặt tươi trẻ hồn nhiên của chàng thấm nỗi bi thương khôn xiết. Dần dần chàng kiệt sức, toàn thân bải hoải, ngồi rũ trong nước.
 
Ám Dạ quay đi không thể nhìn thêm nữa, ánh mắt chứa chan mối đồng cảm sâu sắc, lặng lẽ xoay lưng lại, đứng bên bờ suối, chờ đợi Lưu Giác bình tâm.
Không biết bao lâu, phía sau vọng đến giọng nói bình tĩnh của Lưu Giác: “Về thôi, Ám Dạ, không nên để cha ta lo lắng”.
“Cổng thành chưa mở, thuộc hạ nghĩ ta tìm chỗ nào hơ khô quần áo trước đã!”. Ám Dạ cung kính trả lời như không nhìn thấy mọi chuyện vừa rồi, lòng khâm phục Lưu Giác đã nhanh chóng bình tâm.
“Được!”.
Ám Dạ giơ tay bắn một ống pháo hiệu: “Sẽ có người báo bình an với lão vương gia”.
Trời đã tang tảng sáng, cổng thành mở ra, hai người trở về vương phủ.
An Thanh vương đã chờ rất lâu, nghe nói lại tình hình, ngồi lặng trầm ngâm.
“Cha, không còn cách nào ư?”.
“Có, chỉ có điều…”. An Thanh vương muốn nói lại thôi. Biện pháp chỉ có một, đó là Tử Ly chỉ cần lấy nước ở suối băng ra, dẫn đến nơi tích tuyết vạn năm trên đỉnh Ngọc Tượng, để A La ngâm mình ở đó. Chỉ e Tử Ly không chịu. An Thanh vương nhìn con trai.
Ánh mắt Lưu Giác kiên định: “Cha cứ nói đừng ngại, khó mấy con cũng làm được!”.
An Thanh vương quay lưng lại: “Nếu Tử Ly không đưa A La vào tắm ở suối băng trong hoàng lăng thì không cần phải nạp con bé làm phi, tiên hoàng tổ cũng từng lấy nước ở thác băng cứu người, nhưng theo tổ chế phải chịu hình phạt long biện(3), chuyện này con cũng biết”.
Hình phạt long biện… Lưu Giác giật mình. Hình phạt nặng nhất đối người trong hoàng tộc phạm tội chính là long biện. Chiếc roi bện bằng gân giảo long, được chôn sâu nhiều năm trong suối băng, hấp thụ đủ âm khí, hàn khí. Ba roi quất ra, người không có nội công, huyết mạch ngũ tạng lập tức đông kết, nếu người ra roi dùng nội lực, nội tạng có thể sẽ bị dập nát chết tại chỗ. Người có nội công mặc dù không chết, nhưng hàn khí thấm vào kinh mạch, mỗi độ mưa gió, trở lạnh hay tuyết rơi sẽ đau đớn cùng cực, mọi thuốc thang đều vô hiệu!
Long biện nhiều năm ngâm trong suối băng tỏa ra hàn khí người thường không chịu nổi, không cầm nổi roi. Tử Ly muốn lấy nước ở suối băng thì phải chịu ba roi của thủ lăng nhân võ công thâm hậu. Dù người chịu hình phạt có nội công tốt đến mấy, huyết mạch cũng bị tổn thương nặng nề mà sinh bệnh. Cho dù hoàng tộc có linh dược trị thương, không đến nỗi để hoàng đế bị hành hạ đau đớn vào mỗi độ đông hàn tuyết rơi, nhưng mỗi năm vào dịp Đại Tuyết, người chịu hình phạt long biện nhất thiết phải được xông hơi kháng hàn, nghe nói, tiếng kêu thảm thiết của tiên hoàng tổ trong ngày hôm đó vang vọng khắp trong ngoài cung, xuyên thấu tâm can, không ai chịu nổi. Tình trạng thủy hỏa tương khắc, nóng lạnh ép nhau, chỉ nghĩ cũng đã rùng mình.
 
Giọng An Thanh vương đầy hối hận: “Trăm thứ chu toàn vẫn không tránh khỏi một thứ sơ suất, nếu cha biết hai người đó có minh ước, dù nói gì cha cũng sẽ không đưa A La vào cung, cho dù vào cung, cũng sớm cứu nó ra, không đến nỗi xảy ra chuyện này. Tại cha đã dặn Ám Dạ lựa đúng thời cơ mới cứu người, không cần quá vội vàng. Đều là lỗi của cha”.
Lưu Giác trầm lặng rất lâu, An Thanh vương giục: “Con đi thăm A La đi!”.
Sau khi Lưu Giác đi khỏi, An Thanh vương cho gọi Xích Phong: “Thất hồn ngọc dẫn hương là thuốc bí truyền của vương thất Hạ quốc phía tây nam, làm sao Vương Yến Hồi có được? Ngươi mau đi tra rõ”.
Lý tướng và các phu nhân đang tụ tập ở Đường viên, đứa con gái thứ ba này hiện là hy vọng của cả nhà, vậy mà giờ lại dở sống dở chết thế này. Nữ tỳ lo lắng bẩm báo: “Chỉ làm ướt môi tiểu thư, không bón được thuốc vào miệng”.
Tiếng than, khóc lại ào lên.
Lưu Giác nghe vậy lòng như lửa đốt, sầm mặt nói: “Tướng gia cùng các vị phu nhân xin mời về phòng nghỉ ngơi, bản vương tự có cách”.
Nghe thấy thế tim Lý tướng cơ hồ nảy lên, Bình Nam vương sắc mặt đã sạm đen! Ông mếu máo gượng cười: “A La đành giao phó cho vương gia!”.
Trong phòng A La vẫn đang thiêm thiếp ngủ, sắc mặt càng trắng nhợt. Nếu cứ tiếp tục ngủ nữa, không ăn không uống, nàng chắc chắn sẽ đói khát chết dần chết mòn trong hôn mê.
Lưu Anh bưng lên một bát nước trắng, Lưu Giác đón lấy, hớp một ngụm, mở miệng A La đẩy vào, một tay vận nội công đẩy nước trôi xuống cổ họng, một bát nước nhỏ bón nửa canh giờ mới hết. Chàng nhẹ nhàng lau những giọt nước rớt bên khóe miệng nàng, chỉ bón nước như vậy nàng cũng không thể trụ được mấy ngày.
Lưu Anh lặng lẽ thu dọn bát, đóng cửa đi ra, nhìn Lưu Giác anh ta không chịu nổi.
Lưu Giác ngồi bên mép gi.ường, khẽ khàng vuốt ve khuôn mặt A La, chàng cầm tay nàng lên. Khuôn mặt này từng bướng bỉnh thách thức chàng, đôi tay này từng gảy khúc “Nhớ chàng mà say”. Đôi tay này cũng từng ôm chàng rất chặt, A La mới chủ động ôm chàng có một lần. Nghĩ đến đây chàng cảm thấy như có mũi kim chích vào lòng. Chàng không muốn trao nàng cho Tử Ly, A La đã nói nàng thích chàng, chàng cũng chỉ được nghe một lần. Nhưng sao đành ngồi nhìn nàng chết.
 
Quay lại
Top Bottom