Duyên kì ngộ-trang trang [hoàn]

A La vẫn ủ rũ, Lưu Giác đứng bên cửa sổ, lòng cũng rối như tơ vò. Ai cũng nhìn ra sự chân tình trong đáy mắt Tử Ly, Lưu Giác nghĩ, nếu không phải tiên vương có chỉ, ông già ra lệnh trợ giúp Tử Ly, chưa biết chừng họ sẽ thật sự đánh nhau một trận vì A La. Nghĩ lại cảnh tượng vừa xảy ra, chàng muốn mắng Tử Ly, khốn kiếp! Thật chẳng ra gì, mình và ông già tương trợ hắn là thế, hắn còn nhẫn tâm đẩy A La vào chỗ nguy hiểm, hình như hắn thực sự muốn có A La. Hắn không sợ làm mình tức giận đứng về phe thái tử thật? Còn A La nữa, nghĩ đến đây chàng quay đầu, A La vẫn ngồi ủ dột trên ghế, nước mắt chưa khô, chàng xông đến hét lên: “Lại còn khóc! Thật rồi chứ gì?”.
A La giật mình, nàng cũng buồn khổ vì thái độ vừa rồi của Tử Ly, hình dung lại bao chuyện cùng nhau. Từ lúc quen biết đến sự bộc bạch của Tử Ly đêm hôn lễ, nghĩ mãi vẫn không cảm thấy mình đã cho Tử Ly lời hứa hay hy vọng gì, cũng không tỏ ra bất kỳ dấu hiệu nào là đã yêu chàng. Bị Lưu Giác quát, nàng bỗng tủi thân vô cùng: “Khóc thì sao? Tử Ly là người đàn ông ưu tú như vậy, lại một lòng chân thật với thiếp, thiếp cảm động có gì lạ!”.
Câu nói như lửa đổ thêm dầu, Lưu Giác sải hai bước đến trước mặt nàng, trợn mắt: “Nàng, nàng, nàng là hạng đàn bà gì thế?”.
“Hạng đàn bà gì? Sáng nắng chiều mưa, sớm Sở tối Tần? Thiếp cũng là con người, sao không cảm động? Tử Ly đối với thiếp tình sâu như thế, thiếp không cảm động chút nào mới được hay sao?”. A La giọng đã hơi bực. Nàng chỉ cảm động một chút, nghĩ đến Tử Ly trước sau sẽ hiểu đây là tấn trò bày ra để giúp chàng, niềm si mê của chàng đối với nàng rút cục sẽ hụt hẫng, lại nghĩ đến những tình cảm ngày xưa, lòng buồn khôn tả, vậy mà Lưu Giác lại hét toáng như thế, tựa hồ nàng tư tình với người khác thật.
“Được, hắn đối với nàng tình sâu như biển, nàng cảm động, thế còn ta? Tấm lòng của ta với nàng, nàng đã quẳng xuống sông Đô Ninh rồi sao?”. Ghen tuông bùng lên trong lòng Lưu Giác, lời vừa nói ra lòng đã đau khôn xiết.
A La nhìn chàng, đau thương lắng đọng trong đôi mắt ấy nặng ngàn cân, khiến nàng lặng người. Nàng nhảy lên ôm lấy chàng, đây là lần đầu tiên A La chủ động ôm chàng, tim chàng đập rất nhanh, A La vùi mặt vào ngực chàng, hai tay ôm riết vồng ngực rắn chắc và mạnh mẽ, cơ hồ chỉ có ôm chàng như vậy mới có thể nén lại nỗi đau trong đó, không cho nó lan ra.
A La khẽ nói: “Thiếp thích chàng”.
Trong khoảnh khắc A La lao vào lòng chàng, Lưu Giác sững người, hai tay buông thõng, toàn thân cứng đờ, bên tai chỉ có tiếng tim đập, từng nhịp, từng nhịp. Ngực chàng phập phồng dữ dội, muốn nói câu gì. Nghe thấy giọng nói thanh thanh, đẹp như tiếng chim của nàng, chàng rùng mình, đẩy nàng ra.
Loạng choạng mấy bước, A La nhìn chàng, Lưu Giác trân trân nhìn nàng. Chàng không tin ư? Mắt hoa lên những quầng đỏ, A La cắn môi cố không bật khóc, cúi đầu chạy ra ngoài.
 
Lưu Giác đã sực tỉnh, vươn tay túm lấy vòng eo mảnh dẻ của nàng, A La hét một tiếng, đã bị chàng ép xuống gi.ường, Lưu Giác phục người lên trên, hôn như cuồng phong vũ bão, không cho nàng thở, thế như chẻ tre chiếm cứ mọi tư tưởng của nàng… cuối cùng gió giảm mưa dừng, A La lúc này mới có thể hít thở, hai tay chống lên ngực chàng thở từng cơn, Lưu Giác cười gian tà, kéo tay nàng ra, khi nàng còn chưa kịp hét lên thì môi chàng đã lại vít chặt môi nàng. Ba bốn lần như vậy, môi A La mọng đỏ, cuối cùng chàng thỏa mãn gục mặt vào cổ nàng cười.
Tỉnh táo lại, A La tức giận nghiêng đầu nhìn: “Dậy đi, nặng như hùm ấy!”.
“Không! Không chịu!”.
“Có tin không thiếp sẽ một chân đá bay chàng!”.
“Chân nàng còn động đậy được sao?”.
A La thầm mắng mình bất lực, từ từ đặt tay lên eo chàng, hít một hơi, ra sức cù thật mạnh, Lưu Giác nhột quá nhảy dựng lên: “A La, nàng…”.
“Ha ha, nhột không, sợ rồi chứ!”. Mẹo nhỏ thành công, A La đắc ý cười.
Lưu Giác không nhịn được cười: “Trò này mà nàng cũng dám làm?”. Chàng dịu dàng vén những sợi tóc xõa trên mặt nàng: “A La, nàng nói lại câu vừa rồi một lần nữa được không?”.
“Cù nhột chàng?”.
“Không phải câu đó, nàng nói lúc ôm ta ấy”.
“Thiếp đói rồi”.
“Cái gì?”.
“Sáng sớm từ lúc ngủ dậy đến giờ đã quá trưa, thiếp chưa ăn gì, thiếp đói rồi”.
Lưu Giác nghe vậy, bụng hình như cũng thấy đói, bèn nói to: “Tư Họa, ta đói!”.
Có tiếng Tư Họa cười bên ngoài: “Tiểu tỳ đã hâm thức ăn hai lần rồi, nhưng không dám quấy rầy chúa thượng”.
A La nghe vậy đỏ mặt tía tai. Nàng đẩy Lưu Giác ra, mím môi, lườm chàng, Lưu Giác cười khe khẽ, tiếp tục truy hỏi: “Nói lại lần nữa đi, thế nào?”.
“Thiếp quên rồi, đi ăn thôi!”.
(Hết tập 1)
 
Chương 26 Trong đại điện của Đông cung thái tử, Lưu Giám và các mưu sĩ đang phân tích cảnh tượng diễn ra ở phủ An Thanh vương.
Trong mắt Lưu Giám lóe sáng, vui mừng: “Ta thấy tứ hoàng đệ nhất định là tẩu hỏa nhập ma, hắn thật sự si mê Lý Thanh La!”.
Một mưu sĩ nói: “Tấn trò này, thần luôn cảm thấy rất kỳ lạ. Với tư cách con người của tứ hoàng tử, nhất định không thể ngang nhiên cướp hôn thê của Bình Nam vương ngay lúc vương thượng vừa băng hà, chuyện này, không đúng!”.
“Nhưng quả nhân đã tận mắt chứng kiến, biểu hiện đó của Lưu Phi không thể là giả!”.
Một người khác nói: “Điện hạ, thần cho rằng, cứ coi hai người đó cùng thích tam tiểu thư nhà Lý tướng, nhưng tám vạn binh mã ở Biên thành có dấu hiệu điều động, chứng tỏ tứ hoàng tử định tranh vương vị”.
“Hắn và Lưu Giác có tư thù, hôm nay lại bị hạ nhục trước mặt mọi người, An Thanh vương nhất định không đứng về phía Lưu Phi!”. Lưu Giám một mực tin Tử Ly và Lưu Giác trở mặt, những lời như vậy, cũng không mấy để tâm.
Vương Yến Hồi thong thả bước vào đại điện, nghĩ tới vẻ xúc động bất thường không thể kìm chế của Tử Ly khi nhìn thấy A La, thở dài: “Điện hạ, điện hạ cảm thấy tứ hoàng đệ liệu có đứng ra tranh giành vương vị?”.
“Ta đã nhận ra từ lâu hắn sẽ tranh giành với ta! Lần này trở về, thái độ của hắn với ta khác hẳn trước đây”.
“Vậy thì đúng rồi, vào lúc này sao Lưu Phi có thể gây thù địch với cha con An Thanh vương?”. Vương Yến Hồi nói.
Thái tử nghĩ một lúc, hơi băn khoăn: “Nhưng hôm nay trong phủ, hai người đó quả thật không phải là diễn kịch!”.
Vương Yến Hồi thong thả đứng lên, nhìn những chồi non vừa nhú trên đầu cành, những lá cờ tang hưu hắt cũng không che được sức xuân đang trỗi dậy, màu xanh của mùa xuân cuối cùng đã tìm được không gian đâm chồi nảy lộc trong mênh mông màu trắng lạnh của đất trời. Tử Ly chính là làn xuân xanh đó, cuối cùng đã giành được không gian và địa vị của mình với tâm thái thực mạnh mẽ. Nàng khẽ cười: “Chỉ có hai khả năng, một là tứ hoàng đệ đã có mưu kế chu toàn chờ chàng thay đổi thái độ, cũng không sợ thế lực của cha con An Thanh vương. Hai là, họ đã liên thủ với nhau. Bất luận là khả năng nào đều bất lợi đối với chúng ta. Nếu là khả năng thứ nhất, không biết sâu nông thế nào, muốn tránh cũng không tránh được; nếu là khả năng thứ hai, trong tay bọn họ nắm trọng binh, tình hình sẽ hết sức gay go. Hơn nữa, Phong thành đã do An Thanh vương khống chế”.
 
Các mưu sĩ trong đại điện nghe Vương Yến Hồi phân tích như vậy, ghé tai nhau bàn luận. Một vị nói: “Thần cho rằng, như thái tử phi vừa nói, nếu là khả năng thứ nhất, trong tay tứ hoàng tử tất có chuẩn bị mà chúng ta không biết. Còn nếu là khả năng thứ hai, nếu An Thanh vương và tứ hoàng tử liên thủ thì đây sẽ một cuộc chiến gay go”.
Lưu Giám hơi cau mày: “Các ái khanh có đối sách gì?”.
Bên dưới lần lượt lên tiếng.
“Thần cho rằng, nếu nghĩ theo hướng tốt, có thể được sự ủng hộ của An Thanh vương, ắt là nắm phần thắng!”.
“Đúng, nếu được An Thanh vương ủng hộ, tứ hoàng tử tất bại”.
“Điện hạ, mặc dù thế, cũng không nên tin hoàn toàn! Nếu bọn họ liên thủ với nhau thật thì cục thế Phong thành vô cùng nguy cấp!”.
“Thần cho rằng điện hạ trị quốc anh minh, An Thanh vương và điện hạ xưa nay quan hệ tốt, chưa hẳn đã đứng về phía tứ hoàng tử!”.
“…”.
Lưu Giám đã hiểu, các mưu sĩ đều mong có được sự ủng hộ của cha con An Thanh vương. Chàng trầm tĩnh nói: “Tình cảnh quả nhân chứng kiến hôm nay, mặc dù có hoài nghi, nhưng vẫn thấy không giống diễn trò, bất luận thế nào ta không thể khinh suất bỏ qua sự ủng hộ của cha con An Thanh vương!”.
“Điện hạ anh minh! Được sự ủng hộ của cha con họ, cuộc chiến này, phần thắng của chúng ta càng chắc chắn. Chỉ có điều thần cho rằng, ta không nên tin hoàn toàn”. Một mưu sĩ trầm ngâm.
Thái tử cau mày: “Phải tin, muốn mượn sức của họ, lại không tin họ hoàn toàn biết xử trí thế nào?!”.
Vương Yến Hồi cười nhạt: “Điện hạ chớ lo, cha thiếp đã định xong kế hoạch, thay hết thị vệ trong cung. Bình Nam vương khống chế được Phong thành, nhưng không khống chế được vương cung, nếu có biến, vương cung sẽ là tuyến phòng thủ cuối cùng của chúng ta. Chuyện này thần thiếp đã giao cho Thành thị lang đích thân lo liệu. Tấn công vương cung mãi không thành, Ninh quốc tất đại loạn. Như vậy, binh mã bố trí ở các nơi cũng sẽ chia thành hai phái, một ủng hộ chàng, một ủng hộ tứ hoàng đệ, lúc đó ai chết trong tay ai, đành dựa vào bản lĩnh của mỗi người”.
Nỗi do dự băn khoăn trong mắt Vương Yến Hồi dần dần thay bằng vẻ dứt khoát kiên định: “Ngày mười lăm tháng ba, nếu tứ hoàng tử và Bình Nam vương giao chiến thật, chính là cơ hội chúng ta quăng mẻ lưới bắt gọn, nếu bọn họ liên thủ, chắc chắn đã có bố trí, như vậy bất luận là khả năng nào, chúng ta cũng phải khiến bọn họ không thể thoát khỏi thung lũng”.
 
Thái tử trầm ngâm một lát: “Nàng đừng quên, mười lăm vạn đại quân Nam lộ của Bình Nam vương đang đợi chúng ta ra tay trước, chính là cho bọn họ cái cớ dấy binh, cách đại lễ đăng cơ chỉ có ba ngày, tiêu diệt tứ hoàng đệ và Bình Nam vương, quần thần trong triều ai phục?”.
“Điện hạ quên rồi sao, muốn xuất binh, tất phải điều động hai vạn Bắc quân của thiếp ẩn trong rừng Hắc sơn. Đội quân này không có quân chế, tra soát cũng không ra, thắng bại đều không can hệ gì tới Đông cung và vương thất”. Nét mặt Vương Yến Hồi lộ vẻ tự hào, “Hơn nữa, có thể đấu với tứ hoàng đệ và Bình Nam vương cũng là vinh hạnh của Yến Hồi!”.
Mưu sĩ vui mừng thần phục: “Thái tử phi nói chí phải”.
Lưu Giám thở phào: “Vậy cứ làm như kế đã định, lui cả đi!”.
“Chúng thần cáo lui!”. Các mưu sĩ thi lễ rời đi.
Thanh Lôi đi đến ngoài cửa điện, cung nhân vào báo thái tử và Vương Yến Hồi. Vương Yến Hồi cười cười nói với thái tử: “Lý lương đệ đối với điện hạ tình sâu nghĩa nặng, điện hạ chớ phụ nàng”. Nói đoạn quay người tựa tràng kỷ, tươi cười chờ Thanh Lôi.
Ánh mắt thái tử lay động, ý tứ sâu xa: “Kỳ thực có được tấm chân tình của Yến Hồi cùng Thanh Lôi, Lưu Giám này đã mãn nguyện rồi”.
Thanh Lôi thong thả bước vào, hành lễ xong đứng sang một bên: “Không biết tỷ tỷ gọi Thanh Lôi đến có việc gì?”.
“Lôi Nhi chắc không biết…”. Thái tử kể lại chi tiết sự việc nhìn thấy trong phủ An Thanh vương, lại thở dài, nói: “Ta đang bàn với Yến Hồi, nên hóa giải thế nào?”.
Thanh Lôi kinh ngạc: “Sao A La lại gây ra phiền phức lớn như thế! Phụ thân thiếp nói thế nào?”.
“Lý tướng chỉ kêu đau đầu, phủ An Thanh vương không chịu thả Thanh La về nhà, ôi chà chà!”.
“Ý điện hạ là…”. Thanh Lôi dè dặt hỏi.
Vương Yến Hồi giọng khoan thai: “Theo thiếp, tốt nhất đón Thanh La vào cung, đợi qua lễ đăng cơ, điện hạ đích thân ban tú cầu, ném tú cầu chọn rể là xong”.
Thanh Lôi cười khúc khích: “Tỷ tỷ thực thú vị, chưa biết chừng hai vị vương gia tranh giành, làm hỏng tú cầu cũng nên”.
 
“Còn không ư? Hôm nay nếu không có mặt điện hạ, hai vị đó suýt phá tan phủ An Thanh vương. Ta thấy tiểu muội Thanh La rất không muốn lưu lại phủ An Thanh vương, nhưng không cưỡng được Bình Nam vương, về nhà lại sợ nghe Lý tướng phàn nàn, thà vào cung chơi với Tâm Nhi cho khuây khỏa”. Vương Yến Hồi giọng vui vẻ, nhưng ánh mắt nhìn Thanh Lôi lạnh như băng, thầm nghĩ, nhất định phải khống chế Lý Thanh La trong tay.
Thanh Lôi hơi run, gượng cười: “Tỷ tỷ và điện hạ cũng suy nghĩ cho A La, thật là phúc của muội ấy. Tâm Nhi sau khi gặp A La, suốt ngày hỏi bao giờ được gặp di nương. Thiếp nghĩ, A La chắc cũng muốn gặp Tâm Nhi”.
Vương Yến Hồi cười tươi như gió xuân: “Muội nghĩ rất chu toàn, Bình Nam vương là tổ kiến lửa, đừng chọc giận y. À, ngày mười lăm tháng ba y còn giao đấu với tứ hoàng đệ. Chiến đấu vì hồng nhan, thật nghĩa hiệp!”.
Thanh Lôi cười: “Có hai vị vương gia như vậy chăm sóc, Thanh La cũng thực may mắn”. Mắt bất giác liếc trộm thái tử, thấy chàng vẫn trầm tư, thầm thở dài, miệng vẫn tươi cười, “Thanh Lôi cáo lui trước, còn đi báo tin vui với Tâm Nhi”.
Thanh Lôi cúi chào lui ra, thái tử ngồi trong điện, mắt nhìn thái tử phi. Vương Yến Hồi lơ đãng nói: “Yến Hồi hơi mệt, điện hạ đến thăm Tâm Nhi đi”.
Thái tử nắm tay nàng ta, nhưng trên khuôn mặt tuấn tú của chàng không giấu nổi vẻ chán ghét, chàng mỉm cười nói: “Ái phi nghỉ sớm đi”.
Vương Yến Hồi cười cười. Chàng đâu phải ý trung nhân của ta, lần này coi như ta giúp chàng ta lần cuối, nếu chàng không thắng được, ta cũng hết cách. Tại Thành phủ phía tây Phong thành, Thanh Phỉ đang khâu áo sơ sinh. Thành Tư Duyệt đẩy cửa vào, Thanh Phỉ ngẩng đầu, dịu dàng nhìn chàng, lại cúi đầu khâu tiếp: “Tướng công hôm nay về sớm vậy, còn mấy mũi nữa, chờ thiếp một lát!”.
Thành Tư Duyệt đi đến ngồi trước mặt Thanh Phỉ, chớp mắt nhìn nàng. Thanh Phỉ sắp làm mẹ mà vẫn đẹp như vậy. Chàng nhẹ nhàng đưa tay, vuốt ve cái bụng đang nhô lên của nàng, còn năm tháng nữa, chàng sẽ làm cha: “Hôm nay tình hình vẫn tốt chứ?”.
Thanh Phỉ thoáng đỏ mặt, mắt long lanh cười nũng nịu: “Vâng, vẫn tốt”. Nói đoạn cúi đầu cắn sợi chỉ, trải chiếc áo bé xíu ra, “Xinh không?”.
“Tốt, mọi thứ Phỉ Nhi làm đều đẹp, sau này bảo bối chúng ta mặc không biết sẽ đẹp thế nào!”.
Thanh Phỉ dẩu môi, “Nhưng chàng luôn bận rộn, mấy ngày không về nhà. Sau này nếu chàng cứ thế, bảo bối của chúng ta sẽ không nhận cha đâu”.
Thành Tư Duyệt cười dịu dàng: “Ta hứa với nàng, đợi ta bận rộn qua lễ đăng cơ, nhất định sẽ ở bên mẹ con nàng”.
 
Thanh Phỉ mãn nguyện dựa vào lòng chàng, những việc trong nhà nàng cũng đã nghe nói. Đại tỷ Thanh Lôi từ nhỏ đã thân với nàng, nàng hiểu nỗi khổ của tỷ ấy, còn đối với tiểu muội Thanh La tuy không thân, những cũng chẳng có ác ý. Trong bữa tiệc ở Đông cung, vì đại tỷ, cũng vì Thành Tư Duyệt, nàng đã làm chứng đổ tội cho Thanh La, lòng vẫn áy náy không yên, may mà Thanh La cũng không xảy ra chuyện gì, mọi chuyện cũng đã qua.
Đại tỷ ở trong cung, mặc dù đắc sủng, thực tế có trăm nỗi khổ, tiểu muội Thanh La bị hai vị vương gia tranh giành đến giờ vẫn chưa ngã ngũ. Chỉ có bản thân, từ ngày được gả vào Thành phủ, không hề bước chân ra ngoài, cùng với Thành Tư Duyệt ngâm thơ họa vần, sống rất hạnh phúc.
“Phỉ Nhi, nàng có biết, từ nhỏ ta là trẻ mồ côi, có gia đình như ngày nay, tình cảm trong lòng khác với mọi người. Nàng là thiên kim tướng phủ, lấy ta nàng sẽ khổ”. Thành Tư Duyệt than thở.
“Tướng công nói gì vậy, bất luận tướng công làm gì, thiếp đều ủng hộ. Chàng tốt với thiếp như thế, bây giờ chúng ta lại sắp có con, ngày xưa sống trong tướng phủ thiếp cũng không thấy thoải mái như bây giờ. Phỉ Nhi rất biết tự bằng lòng”.
Thành Tư Duyệt cười: “Ta biết vì ta, bảo nàng cầm dao giết người nàng cũng sẽ làm”.
Thanh Phỉ sung sướng, giơ tay bịt miệng chàng: “Nói gì thế, không được làm con chúng ta sợ”.
Thành Tư Duyệt đỡ nàng đứng dậy: “Ta đưa nàng đi dạo, đi bộ nhiều mới tốt”.
Trong sân nhỏ, mấy nhành nghênh xuân ra hoa rất đẹp, Thành Tư Duyệt hái một bông, nhẹ nhàng cài lên tóc Thanh Phỉ: “Phỉ Nhi đẹp thật, sắp làm mẹ rồi, mỗi lần nhìn nàng ta đều thấy hình như nàng lại đẹp hơn”.
“Ba chị em thiếp, đại tỷ là đẹp nhất”. Thanh Phỉ cười.
“Theo ta, luận về nhan sắc có lẽ Thanh La đẹp nhất”. Thành Tư Duyệt nói.
“Sao? Ba năm thiếp không gặp A La, bây giờ A La còn đẹp hơn đại tỷ hay sao?”. Thanh Phỉ kinh ngạc.
Thành Tư Duyệt cười: “Đúng thế. Có điều ta chỉ yêu một mình Phỉ Nhi của ta”. Chàng dừng lại, ánh mắt thâm trầm nhìn nàng, mỉm cười, “Bởi vì Phỉ Nhi đã vì ta mà vứt bỏ cả lương tâm của mình”.
Thanh Phỉ biết chàng đang nói chuyện xảy ra trong bữa tiệc ở Đông cung ba năm trước, bất giác vừa buồn vừa hối hận: “Chàng còn gợi chuyện cũ trêu thiếp!”.
Thành Tư Duyệt ôm nàng vào lòng, “Lúc đó ta đã biết có ẩn tình, nhưng Phỉ Nhi có thể vì ta bất chấp lương tâm để nói dối, mặc dù người khác chê cười nàng, nhưng trong lòng ta nàng vẫn là người hiếm có. Bắt đầu từ lúc đó ta đã quyết lấy nàng làm vợ”.
Thanh Phỉ bỗng đỏ mặt, bẽn lẽn: “Làm gì có lối thích người khác như thế!”.
 
Ta khác người thường. Phỉ Nhi, nàng là vợ ta, một lòng một dạ với ta, như vậy ta đã mãn nguyện rồi”. Thành Tư Duyệt trang nghiêm nói, chần chừ một lát, lại tiếp: “Phỉ Nhi, sắp tới tình hình rất căng thẳng, ta muốn nàng hứa với ta, không được rời phủ nửa bước. Bất luận là ai, cho dù mẹ nàng đích thân đến đón, nàng cũng tuyệt đối không được rời phủ!”.Sắc mặt trầm lặng, chàng nhìn Thanh Phỉ, vẻ rất nghiêm túc. Thanh Phỉ cười: “Thiếp hiểu, tướng công cần làm gì cứ đi, thiếp biết, lúc này càng gần lễ đăng cơ, tình hình càng căng thẳng”.
Mắt Thành Tư Duyệt lóe sáng: “Nhất thiết không được vào cung, bất luận là đại tỷ cầu khẩn thế nào, nàng đều không được đi. Trong cung rất nguy hiểm, không được giẫm vào vũng lầy đó, càng không nên vì ta làm bất cứ chuyện gì. Chỉ cần mẹ con nàng bình an, là ta không lo gì hết”.
Thanh Phỉ gật đầu, cười: “Tướng công, căng thẳng như vậy sao? Bình thường chàng bận đến đâu, mấy ngày không về nhà, cũng không thấy chàng nghiêm túc như vậy”.
“Con người ta luôn có điểm yếu, bây giờ điểm yếu của ta là mẹ con nàng”. Thành Tư Duyệt nói nhỏ. “Ta đã thu xếp người bí mật bảo vệ nàng, ngộ nhỡ có biến cố, sẽ đón nàng đi. Nhớ kỹ trừ phi có người đưa mảnh ngọc bội giống như mảnh nàng mang trong người, nếu không nhất định không được tin ai. Cho dù cha nàng đến đón, nàng cũng không được đi”.
Thanh Phỉ không nén nổi, bắt đầu lo lắng: “Chàng có gặp nguy hiểm không, tướng công? Thiếp sợ lắm!”.
Thành Tư Duyệt trầm giọng: “Phỉ Nhi của ta là người cứng rắn, cho dù ta có bất trắc gì, vì con của chúng ta nàng phải kiên cường sống tiếp, hiểu không?”.
Thanh Phỉ đỏ mặt, Thành Tư Duyệt khẽ thở dài, “Không có đâu, trên đời chẳng ai cần cái mạng của tướng công nàng”. Chàng lấy lại tinh thần, tươi tỉnh hẳn, ngây người nhìn Thanh Phỉ, cảm giác bình yên lại dâng trong lòng.
Theo bố trí của An Thanh vương, Thành Tư Duyệt bắt đầu tráo đổi người vào cung. Tương ứng, những quần thần trung thành với Tử Ly cũng bố trí tai mắt trong cấm vệ quân. Ngày mồng mười tháng ba, Cố tướng lấy cớ thăm con gái, sải bước dài đi vào phủ Ly Thân vương. Tổng hợp các nguồn tin ở Phong thành, điều động binh mã ở Biên thành khiến Tử Ly bận tối mắt, khi Cố tướng đến, chàng đang xem bản đồ địa hình khe núi Hoàng Thủy.
“Nhạc phụ đại nhân!”. Tử Ly cúi người hành lễ, bình tĩnh đỡ Cố tướng an tọa, “Chuyện ở An Thanh vương phủ đã làm nhạc phụ không vui”.
“Ôi dào, đàn ông năm thê bảy thiếp chuyện thường, huống hồ sau này con…”. Cố tướng thở dài, không muốn nhắc lại chuyện đó, nói đến là đau đầu, quên cả thân phận của Tử Ly.
Tử Ly nói thẳng: “Nhạc phụ hiểu lầm rồi, đó là mưu kế của Tử Ly và vương thúc, dù thái tử có tin hay không, cũng ít nhiều mê hoặc thái tử. Sau này bất luận thế nào Thiên Lâm đều là chính thê kết tóc xe tơ của con, con sẽ đối xử tốt với nàng”.
 
“Lão cáo già đó, ngay cả ta cũng giấu!”. Miệng nói vậy mà lòng nở hoa, Cố tướng nói, “Có An Thanh vương hỗ trợ, chuyện này sẽ thuận lợi vô cùng. Danh tính trong tờ kê này là người của chúng ta trong cung, điện hạ hãy thu nạp”.
Tử Ly trịnh trọng tiếp nhận: “Con và Bình Nam vương đã suy nghĩ kỹ, giao đấu ở khe núi Hoàng Thủy nên như thế nào, nhạc phụ có cao kiến gì không?”.
“Thế nào? Đánh cho Đông cung xem ư?”.
Tử Ly trầm ngâm rất lâu: “Vương thúc từng trải qua trăm trận, ý của vương thúc là, đây là kế trong kế, chúng ta định ra kế này, nhưng cũng đề phòng Đông cung tương kế tựu kế. Nghe đồn Vương Yến Hồi mưu lược hơn người, hành quân bố trận đều tinh thông, Vương thái úy từng nói, có đứa con gái này có thể địch với mười vạn tinh binh, không biết thủ pháp của nàng ta thế nào”.
“Thiên Tường thống lãnh thủy quân Nam quân đã lâu, khi luận đàm binh pháp với thống lãnh lục quân Nam quân, người này từng nói, Vương Yến Hồi tiểu thư bài binh bố trận đều thích lưu lại một nước cờ bất ngờ, trong mọi tình huống đều có một chiêu sau cùng, thông thường chính chiêu này mới là tinh binh tối hậu”. Cố tướng suy nghĩ rồi trả lời.
“Lời của nhạc phụ cũng tương tự dự đoán của vương thúc và Bình Nam vương, đây là khe núi Hoàng Thủy, phía bắc là phần kéo dài của dãy Ngọc Tượng, giấu binh ở thảo nguyên không thích hợp, muốn phục binh ở khe núi cũng rất khó, bởi vì trên đó chắc chắn có binh mã của chúng ta mai phục, cho nên họ đành từ bên này núi đánh sang khe núi đó. Nhưng cách này rất ngốc, bởi vì chỗ cao là người của chúng ta, từ trên cao nhìn xuống, đối phương nằm gọn trong tầm mắt chúng ta, họ bại là chắc. Chúng ta mai phục chặn cửa khẩu vào khe núi cũng dễ, cái khó là làm thế nào để dụ địch vào trong hẻm núi đó”.
Ngoài cửa có tiếng cười khẽ: “Ám Dạ cầu kiến”.
Tử Ly hơi bực mình, mỗi lần Ám Dạ đến đều nhẹ như cái bóng, chàng hạ giọng: “Mời vào!”.
Ám Dạ từ cửa sổ vọt vào, chắp tay chào Cố tướng nhưng không lên tiếng, lôi ra từ trong người một vật để lên án thư, nói khẽ: “Bản đồ bố trận chủ nhân giao cho”. Nói đoạn, chắp tay hành lễ, lại vọt ra ngoài.
Cố tướng kinh ngạc: “Ô y kỵ của An Thanh vương phủ ư? Sao ta chưa bao giờ biết bên cạnh Tử Ly cũng có Ô y kỵ?”.
Tử Ly cười: “Vương thúc rất tín nhiệm người này, con cũng coi trọng y”. Nói đoạn mở bản đồ bố trận, hít một hơi, cười phấn khởi: “Đúng là diệu kế, vương thúc bản lĩnh thực cao cường! Tử Ly khâm phục!”.
Cố tướng nghiêng đầu nhìn, vuốt chòm râu bạc trắng, cười khà khà: “Nếu kế này mà thành, sau trận này, Đông cung không còn khả năng tranh giành với chúng ta nữa. Lão cáo già đúng là cáo già”.
Tử Ly đốt tấm bản đồ, quay người hành lễ: “Như vậy, ngày mười lăm tháng ba mọi sự trong vương cung xin trông cậy vào nhạc phụ và quần thần tâm phúc. Nhạc phụ đừng lo cho Thiên Lâm, con đã để năm trăm thiết vệ quân trong vương phủ, binh mã còn lại đều giao cho vương thúc, An Thanh vương sẽ đích thân chỉ huy trấn thủ Phong thành, khống chế cục diện trong thành”.
 
Sau khi Cố tướng đi ra, Tử Ly mở cửa sổ, trong gió đêm vẳng lại tiếng đàn thấp thoáng, trong đó hàm ẩn một chút trách móc nhẹ nhàng. Sau khi trở về Phong thành, chàng chỉ gặp Cố Thiên Lâm hai lần, những ngày này luôn một mình trong thư phòng, nàng… Tử Ly thở dài, lặng lẽ đóng cửa sổ, tiếng đàn bị chặn lại bên ngoài, yếu dần rồi tắt hẳn.
Chàng lấy ra bình rượu từ Biên thành mang về, thong thả uống, cố gắng gạt đi những suy nghĩ lan man. Chàng tự nhủ, việc quan trọng lúc này không phải là tình cảm nam nữ, tuy nhiên khuôn mặt A La cứ hiện lên trước mặt chàng không thể khống chế, đôi đồng tử lóng lánh, sinh động. Chàng ngửa cổ tu cạn bình rượu, cuối cùng đầu hơi chếnh choáng. Chàng mỉm cười, như thế này có thể ngủ được rồi.
Mùa xuân bước nhanh chân, bảy ngày đại tế đã qua, quan tài bằng ngọc của Ninh vương được chuyển lên táng trên đỉnh núi, những lá phướn trắng trong cung được hạ xuống, núi Ngọc Tượng lộ ra một màu xanh nhung, dần dần khôi phục sinh khí ngày xưa. Cùng với lễ đăng cơ của tân vương đang tới, không khí cảnh giác trong vương cung càng tăng. Vương cung đồ sộ vắng tiếng tơ trúc do Ninh vương băng hà, đêm vừa xuống càng trở nên vắng lặng, im lìm.
Trong Ngọc Phượng cung, Vương hoàng hậu, thái tử, Vương Yến Hồi và Vương thái úy tề tựu tại chính đường. Ngày mai đã là ngày mười lăm, không khí bức bối trước cuộc giao chiến khiến thái tử nóng ruột, nhưng lại khấp khởi mừng thầm. Chàng hạ giọng hỏi: “Mẫu hậu, tại sao phụ hoàng vừa ra đi, tứ hoàng đệ cơ hồ biến thành một người khác hẳn? Không có phụ hoàng che chở, sao hắn dám to gan như vậy?”.
Vương hoàng hậu suy nghĩ hồi lâu nói: “Thực ra mẫu hậu luôn muốn trừ khử Lưu Phi, ai dè hắn ta bề ngoài cơ hồ chỉ có một mình, lại luôn có thị vệ lẩn quất xung quanh, bao nhiêu năm, chưa một lần đắc thủ. Chúng ta cũng không thấy di chiếu của phụ hoàng con, liệu có phải đã âm thầm hạ chiếu muốn truyền ngôi cho hắn?”.
“Lo lắng của muội không hẳn không có lý, thái tử còn nhớ chứ, khi tuyển lập thái tử phi, vương thượng một mực muốn ban con gái Cố tướng cho Ly Thân vương? Cố tướng là nguyên lão hai triều, môn sinh vô số, đích tử là Cố Thiên Tường nhiều năm trong quân ngũ, uy tín rất cao, Tử Ly nếu được Cố tướng ủng hộ, tất sẽ như hổ mọc cánh. Ta thấy lúc đó vương thượng đã có ý bồi dưỡng thế lực cho Tứ điện hạ”. Vương thái úy nói.
Thái tử quay sang Vương Yến Hồi: “Lúc đầu nếu không phải nghe kiến nghị của nàng, trong tay Lưu Phi đâu có binh quyền? Khống chế hắn trong thành, giết hắn dễ như giết kiến!”. Khẩu khí đã thoáng ý chỉ trích.
Vương Yến Hồi giật mình, nhưng vẫn bình tĩnh nói: “Nếu không tước Hữu quân trong tay An Thanh vương, cha con cùng dấy binh, chàng và tứ điện hạ đều không có cơ hội. Hiện nay ít nhất An Thanh vương bề ngoài tỏ ra ủng hộ Đông cung chúng ta, cho dù ông ta liên thủ với tứ hoàng đệ, lực lượng của bọn họ và chúng ta cũng tương đương! Nên biết Hữu quân trên danh nghĩa là do Ly Thân vương thống lĩnh, Ly Thân vương khi sử dụng cũng đâu có thuận lợi như An Thanh vương? Vì vậy sức chiến đấu cũng sẽ yếu vài phần. Nam quân trong tay Bình Nam vương cũng vậy, lực lượng của họ Vương chúng ta, cho dù bị bọn họ diệt bảy tám phần, cũng vẫn còn hai ba phần trong tay”.
 
Nàng từ từ liếc nhìn mọi người xung quanh, nhìn phụ thân Vương thái úy. Vương thái úy cười hà hà, thần sắc ngạc nhiên: “Nội ứng của chúng ta ở Nam quân cho biết, Nam quân trấn giữ bên ngoài cổng nam thành, ba vạn binh mã đã chia ra trấn thủ các cổng của Phong thành, không thể khinh suất điều động, vì vậy chỉ có một vạn quân sĩ điều về phía tây. Tin từ Biên thành cho biết, Ly Thân vương chỉ mang hai vạn Hữu quân, hai vạn quân này lập trại ở khe núi Hoàng Thủy”.
“Có nghĩa là có hai khả năng, một là hai người đó định giao chiến một trận thật sự, hai là hai người họ liên thủ bày trận định nuốt chửng một phần binh mã chúng ta. Nếu là khả năng thứ nhất, đợi hai người đánh nhau một chặp, chúng ta tiện thể cất một mẻ lưới bắt giết Ly Thân vương! Nếu là khả năng thứ hai, họ cũng giả bộ đánh một hồi, chúng ta cũng nhân lúc tình hình rối loạn mà ra tay. Hai người binh lực hợp lại cũng không quá ba vạn binh mã, đến lúc đó điện hạ lấy cớ sợ hai tiểu đệ bị tổn thương, mang năm vạn binh mã Đông quân của chúng ta đến, còn hai vạn tinh binh Bắc quân sẽ nấp phía sau, đợi lúc bọn họ không đề phòng sẽ ra tay”. Vương Yến Hồi thong thả nói kế hoạch.
Mắt thái tử sáng bừng, phấn khởi, không kìm được nắm tay Vương Yến Hồi: “Có ái phi định kế, coi như yên tâm”. Bất chợt lại lo lắng: “Nhưng nếu vậy, ta đi khỏi, chẳng phải vương cung bỏ trống sao?”.
Vương thái úy cười: “Thái tử yên tâm, binh sĩ cấm vệ quân trong cung, ta đã nắm trong tay tám, chín phần, Thành thị lang theo lệnh của ta đã sớm bố trí đâu vào đó. Bọn họ không động binh, không có nghĩa chúng ta không động, chỉ cần nhận được tin báo từ phía tây, Đông quân của ta lập tức từ cổng đông thành nghênh đón thái tử vào Phong thành. Binh sĩ thủ thành không quá ba vạn, cứ coi cộng thêm sáu vạn Nam quân, sao có thể địch nổi mười lăm vạn đại quân của ta? Hơn nữa, lại có Yến Hồi trấn thủ trong cung”.
“Chẳng lẽ sáu vạn Nam quân còn lại không có động tĩnh gì?”. Vương hoàng hậu hỏi.
Vương Yến Hồi đáp: “Mẫu hậu có lẽ không biết, sáu vạn Nam quân kia hiện đã rất khó điều động, họ còn lo đối phó mười lăm vạn Đông quân của ta đồn trú tại ngoại ô phía đông. Chỉ riêng binh lực, họ đã không bằng Đông quân. Nhưng chúng ta cũng không thể khẳng định Ly Thân vương đã liên thủ với cha con An Thanh vương, cho nên chỉ có thể phòng không thể đánh. Chúng ta biết hai người họ sẽ thực chiến ở khe núi Hoàng Thủy, nhưng họ lại không biết chúng ta có đến hay không, đến lúc này, chúng ta đã nắm chắc ưu thế”. Trong lòng Vương Yến Hồi thầm nghĩ, thực ra thái tử không đi mới là cách hay nhất, đã biết Nam quân và Hữu quân cộng lại vẫn chưa mạnh bằng Đông quân, đợi bọn họ thực sự tấn công Phong thành, triển khai chiến trận mới là kế hay. Chỉ có điều… nàng thở dài, ai bảo nàng là người đưa ra quyết định?
Thái tử nghĩ một lát, nở nụ cười thỏa mãn, chuyển hướng suy nghĩ, nói: “Bất luận hai người liệu có phải đánh nhau vì Lý Thanh La thật không, Lý Thanh La cũng là con bài vô cùng quan trọng đối với cục diện này, chúng ta phải nghĩ cách đưa nàng ta vào cung trước ngày mười lăm tháng ba”.
Vương Yến Hồi cười: “Điều đó còn phải xem thái tử có nỡ hay không!”.
 
Thái tử nghi hoặc nhìn nàng. Vương Yến Hồi nói: “Theo thiếp quan sát, Lý Thanh La cũng chẳng mấy thân thiết với đại tỷ và cả nhà Lý tướng, nhưng thiếp thấy cô ta thực lòng thích Tâm Nhi”.
“Không được! Tâm Nhi còn nhỏ, không được đưa vào chỗ nguy hiểm!”. Thái tử nói như đinh đóng cột.
Vương Yến Hồi vẫn tươi cười: “Thiếp biết điện hạ không nỡ mà, cho nên, thiếp chỉ đưa tỳ nữ của nàng ta vào cung. Thị vệ của nàng ta võ công cao cường, đả thương hơn mười cao thủ của thiếp, cũng được, để bọn họ trở về đưa thư”.
“Như vậy, chẳng phải rút dây động rừng hay sao?”.
“Thiếp thấy hai người đó có tình ý, thiếp chỉ nói với anh ta, chuyện này chỉ cần cho Lý Thanh La biết, thêm một người biết, coi như chờ nhận thêm một cái xác”.
Khi Vương Yến Hồi nói ra câu đó, Lưu Anh người đầy máu quỳ trước mặt Lưu Giác, kể lại chi tiết sự việc. Lưu Giác cau mày, hỏi: “Vậy tại sao ngươi không nói cho một mình A La biết?”.
Lưu Anh cười: “Chúa thượng đã dặn, nhất định phải bảo vệ tiểu thư, nói cho tiểu thư biết, tiểu thư không xông vào cung mới lạ. Lưu Anh đã trung thành với tiểu thư, sao có thể để tiểu thư biết mà hại tiểu thư!”.
Mắt Lưu Giác lộ vẻ cảm động: “Ngươi yên tâm, bản vương sẽ trả Tiểu Ngọc nguyên vẹn cho ngươi”.
“Tạ ơn chúa thượng, Lưu Anh không dám lộ mặt trước tiểu thư, bây giờ sẽ tìm chỗ dưỡng thương”.
“Nếu vết thương không quá nặng, ngươi hãy đến chỗ của Cáp tổ. Ám Dạ đang có việc phải làm, thời gian này Ô y kỵ do ngươi phụ trách”. Lưu Giác nói, ném cho Lưu Anh lọ thuốc trị thương.
Lưu Giác nhắm mắt chậm rãi suy nghĩ. Đông cung không thật sự tin mình và Tử Ly trở mặt, nhưng lại không thể khẳng định hai bên liệu có liên thủ hay không. Tình hình này đã nằm trong suy đoán của ta, mọi bố trí đều nỗ lực theo hướng này. Ngày mai đã là mười lăm tháng ba, tất thảy mọi thứ đều sẽ kết thúc trong ngày này. Chàng đột nhiên thấy hoang mang, đứng dậy đi về phía phòng ngủ.
Trong phòng, A La đang chơi đàn, miệng khẽ hát khúc hát đã hát ở Lâm Nam: “Chim bay mỏi cánh chạm chân sông, rồng vẫy chán vắt ngang lưng núi, non non nước nước muôn trùng gấm, hải đường diễm sắc nhớ chàng mà say”.
Lưu Giác đứng ngoài cửa ngây người nghe. Lúc này, trong lòng A La đã có chàng. Nụ cười ấm áp trên môi, chàng đẩy nhẹ cửa nói đùa: “Ta cũng say đây!”.
A La đỏ mặt, dừng tay. Hôm nay nàng đặc biệt bảo Tư Họa chải tóc cho mình thật kỹ, những sợi tóc mai bay bay, như sương như khói, đôi mắt lóng lánh thủy tinh, chan chứa tình cảm mà chàng không biết, Lưu Giác đột nhiên đứng ngây ra. A La mỉm cười nói khẽ: “Chàng đang định nói, ai bảo thiếp ăn vận thế này chứ gì? Không đẹp sao?”.
 
Lưu Giác hơi bất lực, vẻ sôi nổi bông lơn ngày xưa đã bay biến đi đâu, chàng ấp úng: “Không đâu, rất… rất đẹp mà”.
A La lườm chàng: “Đàn ông khi yêu đều rất ngốc!”.
Lưu Giác vẫn ngơ ngẩn, bất giác gật đầu. Lát sau mới định thần, nói: “Ý ta là nàng chỉ được mặc cho mình ta ngắm!”.
“Vậy, sau này thiếp ra ngoài cũng khỏi cần mặc trang phục nữa hay sao?”. A La nghĩ, đấy là nàng còn chưa mặc mấy kiểu hở hang, e rằng như vậy sẽ khiến chàng chết khiếp! “Hả, nàng dám! Những lời thương phong bại tục như vậy mà nàng cũng dám nói?”. Lưu Giác mặt đỏ bừng, nha đầu này trở nên to gan như vậy từ lúc nào?
“Thiếp không chỉ nói được, mà còn làm được!”. A La từ từ kéo giải áo, chiếc áo choàng bên ngoài tuột xuống, bên trong chỉ có chiếc váy mỏng và yếm ngực màu xanh nhạt, lộ ra đôi tay và bờ vai trần.
Lưu Giác hoảng hốt nhảy đến, nhặt chiếc áo choàng bọc lấy nàng: “Nàng làm gì vậy!”.
“Chàng không muốn sao? Chẳng may ngày mai chàng có mệnh hệ gì… thiếp không muốn hối hận!”. A La bình tĩnh nói. Nàng không có tư tưởng bảo thủ như người xưa, lại sợ nhỡ có chuyện gì sẽ không gặp được người đàn ông như Lưu Giác nữa.
“Không có chẳng may nào hết! Ta nhất định bình an trở về, đợi mọi sự hoàn tất, ta sẽ cưới nàng về phủ, ta muốn là của nàng vào đêm động phòng!”. Lưu Giác nói.
A La thở dài, hết cách. Người ở đây đầu óc bảo thủ, khi người ta không muốn lại dường như chỉ muốn ăn tươi nuốt sống, đến khi người ta muốn cho lại nghĩa hiệp chối từ. Xem ra mình vẫn đánh giá cao thân xác mình rồi, tưởng là chàng nhìn thấy là lập tức ngất xỉu. Lưu Giác khẽ khàng giúp nàng sửa lại trang phục, kéo nàng vào lòng: “A La, nàng phải hứa với ta, ở trong vương phủ đợi ta quay về. Bên ngoài rất loạn, không nên đi đâu. Hãy tin ta, được không?”.
A La nhìn chàng, khuôn mặt đó nàng càng nhìn càng thấy đẹp. Tất cả kể cả con người chàng và những thứ đang có đều đẹp đến nỗi khiến nàng bất giác hoài nghi, không biết sau này liệu còn gì trắc trở? Liệu có thể suốt đời sống yên ổn cùng chàng? Mặc dù Lưu Giác không nói với nàng tình hình chuẩn bị cho cuộc chiến ở khe núi Hoàng Thủy, nhưng nhìn vẻ bận rộn những ngày vừa qua của chàng, A La cũng đoán ra tình hình căng thẳng nguy hiểm trong đó. Đây là cuộc chiến tranh giành vương vị, chiến tranh thời kỳ vũ khí lạnh vô cùng thảm khốc, nghĩ đến cảnh chiến trường đầy xác chết, máu chảy thành sông, nàng bất giác tim đập chân run. Cũng muốn hỏi chàng tình hình, đưa ra chút ít kiến nghị, nhưng lại sợ mình không có tri thức quân sự, ngộ nhỡ nói sai làm hỏng việc, nhưng không hỏi lại không yên tâm: “Có thể cho thiếp biết tình hình ở khe núi Hoàng Thủy không?”.
 
Lưu Giác vốn không muốn cho nàng biết, sợ nàng lo lắng, chàng cảm thấy đánh trận là việc của đàn ông. Nghe nàng hỏi, chàng nghĩ một lát, nhân tiện rà soát lại lộ trình lần nữa, sau đó lấy bút vẽ tình hình đại khái, giảng cho nàng nghe.
A La nghe đến đoạn Lưu Giác nói, trên thảo nguyên chỉ có cỏ thấp, không có cách nào ẩn náu mai phục, đột nhiên nghĩ tới bộ phim từng xem, hỏi: “Nếu binh sĩ vận trang phục như màu cỏ, lấy cỏ làm y phục, bôi mặt màu xanh và màu đất, không mang theo cờ, mai phục trên thảo nguyên, chắc sẽ không bị phát hiện?”.
Lưu Giác ngẩn người, rồi kinh ngạc mừng rỡ: “Nàng luôn nghĩ ra kế vặt gì đó, nhưng lại rất hữu dụng”. Hôn nàng thật kêu rồi chàng quay người chạy đi.
 
Chương 27 Tại đại bản doanh ở ngoại ô phía đông Phong thành, thái tử điểm quân rồi dẫn năm vạn binh sĩ, đi về hướng khe núi Hoàng Thủy. Năm vạn Đông quân đều vận chiến giáp màu vàng, đi vào thảo nguyên chớm xuân xanh mởn, nhìn xa như một đóa hướng dương vàng rực. Thái tử mình vận giáp mềm khóa vàng, ánh nắng ban mai chiếu vào khiến thân hình chàng phát ra muôn ngàn tia óng ánh. Chàng đi rất thư thả, ung dung, như không phải đi đánh trận mà đang du xuân thưởng ngoạn, nhưng trong huyết quản chàng máu đang cuộn trào, sôi réo. Mắt chàng lướt về phía đội quân chỉnh tề, bước đều tăm tắp, chiến giáp màu xám phía sau lưng, lại nhìn sâu vào thảo nguyên phía trước, lần đầu tiên cảm nhận sự uy phong của tướng cầm quân ra trận, lần đầu cảm thấy nam nhi nên tòng quân, lần đầu tiên khao khát khoái cảm vung đao giết người. Nếu không phải Vương thái úy và Vương Yến Hồi mấy lần nhắc nhở nhất định phải hành sự theo kế hoạch thì chàng đã vung trường kiếm, năm vạn binh sĩ xông lên, cảnh tượng mới tráng lệ làm sao!
Hôm nay, mới sáng sớm thái tử đã rời cung, lát sau đã đến phủ An Thanh vương, sau khi lo lắng một hồi, chàng nói: “Hai bên cộng lại có ba vạn binh mã, chẳng may tứ hoàng tử và Doãn Chi đánh nhau thật, tình hình này… ôi chao, nên thế nào đây!”.
An Thanh vương đầy tin tưởng, vuốt râu: “Thái tử chớ lo, tiểu tử nhà ta khi cướp vợ chắc chắn không nương tay! Còn tứ hoàng tử…”.
“Vương thúc! Đây không phải là kịch, không phải là lúc giấu giếm bao che! Hai người đó đều là rường cột của Ninh quốc, sao có thể tàn sát lẫn nhau như vậy?!”. Thái tử buồn rầu. An Thanh vương ngây người, thái tử chắp tay sau lưng đi đi lại lại: “Hoàng huynh ta tuyệt đối không để bọn họ huynh đệ tương tàn như thế… Vương thúc đừng khuyên nữa, thúc đương nhiên phải hiểu nỗi khổ của quả vương!”.
Nói xong những lời đại nghĩa ấy, thái tử liền mang năm vạn binh mã đi khuyên can. Khi qua cổng nam thành, An Thanh vương đích thân hạ lệnh cho lính thủ thành nhường đường, ông thân chinh đứng trên thành, trịnh trọng nói với thái tử: “Điện hạ đi chuyến này nhất định phải khuyên can được hai người đó”.
Cách Cốc thành năm dặm, tướng sĩ áp tai xuống mặt đất nghe ngóng, lát sau hồi báo, phía trước có dấu hiệu bất thường, cơ hồ binh mã đang giao chiến. Thái tử cười hài lòng, đánh nhau thật sao? Chàng hạ lệnh: “Toàn quân nghỉ giải lao nửa canh giờ, sau đó tiếp tục cùng quả vương đi lên khuyên can!”. Năm vạn quân dừng lại trên thảo nguyên.
 
Khe núi Hoàng Thủy cách đó năm dặm được hình thành do những ngọn cuối cùng của dãy Ngọc Tượng kéo dài đến thảo nguyên. Tương truyền ngày xưa, trời và quỷ đánh nhau, một vị tướng nhà trời bị trọng thương, loạng choạng đi đến đây ngã gục mà chết, khe núi Hoàng Thủy là dấu chân cuối cùng của vị tướng đó. Tướng nhà trời mới giẫm ra một cái hố sâu rộng trên thảo nguyên đồng thời chia ranh giới mặt đất, vậy là chỗ hẹp nhất giữa hai đầu khe núi chỉ rộng có hai, ba trượng, bên trong khe lại bằng phẳng như bãi luyện binh, xung quanh vách đá sừng sững, nếu chặn hai đầu hẻm, chim cũng khó bay qua.
Hữu quân của Tử Ly giáp bạc sáng lóa, Nam quân của Lưu Giác giáp xám đen sì, hai quân chia nhau chặn hai đầu hẻm, trắng đen nổi bật. Hai người lúc này đều ngồi trên mình ngựa, nhìn bốn ngàn binh mã luyện tập chiến đấu. Tin thái tử dừng chân lập trại ở cách đó năm dặm, không lâu sau được báo lên, mắt Lưu Giác nhìn về dãy Ngọc Tượng một dải rừng xanh um tĩnh mịch phía xa. Chàng nhẩm thời gian, rút kiếm khỏi bao, mũi kiếm hướng về Tử Ly, thét lên sang sảng: “Mọi người nghe đây, hôm nay bản vương và tứ điện hạ giao chiến, không ai được xen vào!”.
Bốn ngàn binh mã bên dưới dừng đấu, mỗi bên tự quay về hàng ngũ, chừa ra một khoảng trống ở giữa. Tử Ly vận áo bào trắng giáp bạc, mang rọ che mặt, chỉ lộ ra hai mắt sáng quắc, vẻ giễu cợt, khinh khi nhìn Lưu Giác. Lưu Giác hét to, kiếm ra khỏi tay, trong chớp mắt đã thấy hai thân hình một đen một trắng quấn lấy nhau. Hai người lúc sáp gần, lúc lùi xa, rất đẹp mắt! Trong thung lũng giữa hai vách núi, ánh kiếm lóe loang loáng, tiếng va chạm xoang xoảng, khoảng hết hai tuần nhang, từ trên đỉnh vách núi vang lên một tiếng hô lớn: “Dừng tay!”.
Hai người đang hăng máu, ngẩn ra một lát, rồi lại lao vào nhau như không nghe thấy. Thái tử nhếch mép cười lạnh lùng, hô to: “Các người sao có thể vì một người đàn bà mà bất chấp đại nghiệp tổ tiên? Huynh đệ tương tàn, chẳng phải cớ hay cho lân bang ra tay! Nếu không dừng lại, quả vương sẽ không khách khí, quyết không để hai người u mê thêm nữa!”.
Lời vừa nói ra, bên dưới đội quân hai bên lại xông ra, hai nghìn binh mã giao chiến ác liệt trong thung lũng, hoàn toàn không coi lời Lưu Giám ra gì.
Mắt thái tử dõi theo hai bóng đen trắng ở giữa, quả quyết vẫy tay, ba hàng binh sĩ tay giương cung xuất hiện trên đỉnh núi, trong nháy mắt tên bắn như mưa xuống thung lũng. Hai quân bên dưới dùng lá chắn che đỡ, nhưng vẫn có người trúng tên, bắt đầu vang lên những tiếng kêu thảm thiết. Lưu Giác phẫn nộ, hét to: “Chư quân tướng sĩ đều chứng kiến rồi đó! Thái tử điện hạ đâu đến để khuyên can, rõ ràng muốn dồn ta và tứ điện hạ vào chỗ chết. Lưu Giám! Ngươi rắp tâm tàn sát huynh đệ, đạo trời không dung!”. Nói đoạn trong tay “phù” bắn ra một đám khói, tiếng nổ giòn tan, trong không trung nở ra một đóa hoa màu đỏ.
Thái tử sững người, cười lớn: “Không dừng tay đầu hàng, thung lũng này sẽ là nơi lấy mạng hai ngươi! Các ngươi đừng hòng thoát khỏi đây!”.
 
Lưu Giác nhìn thái tử, ánh mắt kỳ dị, khẽ lắc đầu thở dài. Thái tử chưa bao giờ ra trận, thật sự rất ấu trĩ, sao Vương Yến Hồi mưu lược lại bày kế cho thái tử như vậy?
Tên từ trên đỉnh núi lại bay xuống như mưa, cộng thêm đá tảng lăn xuống ầm ầm. Lưu Giác không động đậy, tên bay đến chỗ chàng, sức mạnh đã giảm, binh sĩ Ô y kỵ giương lá chắn chặn đỡ. Thái tử nhìn hai đội quân đen trắng bên dưới, bụng nghĩ mình chỉ có năm vạn binh mã, chỉ có thể trấn giữ hai đầu hẻm núi, vây chặt họ nhưng lại không thể tiêu diệt hết. Lúc này từ phía sau những tiếng hô “giết” vang lên, chàng ngây người, ngoái đầu nhìn thấy trận mưa tên từ phía xa bay đến, trong chớp mắt quân hậu vệ đã đổ rạp cả loạt.
Thái tử nhìn hẻm núi sâu trước mặt, hét lớn: “Hậu ứng trở thành tiên phong, xông lên!”. Năm vạn Đông quân quay lưng về sau, như nước thủy triều màu vàng trào bên bãi biển, không lâu sau lại bị trận mưa tên đen sì ép quay lại.
Thái tử ánh mắt trân trối, một lá cờ lớn màu trắng tung lên, lính cung tên tấn công đội quân của thái tử từ phía sau chính là Hữu quân của Tử Ly. Thái tử cuối cùng đã hiểu, hai người kia quả nhiên câu kết với nhau, bây giờ không thể trách chàng nhẫn tâm, chàng trầm giọng nói: “Dàn trận!”.
Trấn giữ hai đầu hẻm núi, Đông quân ỉ vào ưu thế địa hình, nhanh chóng triển khai thế trận. Không lâu sau trên thảo nguyên trước mặt tràn ra những đốm trắng màu bạc, rồi nhanh chóng quy tụ, tựa hồ những đám mây trắng, vây chặt đóa hoa hướng dương màu vàng. Tử Ly thúc ngựa xông ra: “Hoàng huynh, quả nhiên ta không đoán nhầm! Huynh đâu phải đến khuyên can, rõ ràng là đến giết ta!”.
Lưu Giám nhìn đăm đăm vào thung lũng, lúc này mới hiểu bóng người vừa rồi đấu với Lưu Giác không phải là Tử Ly. Thái tử sang sảng hét: “Ta là thái tử Ninh quốc, người kế vị ngôi báu, nhưng ngươi thèm muốn ngôi báu đó, âm thầm chuẩn bị binh mã, phụ hoàng nếu biết ngươi âm mưu sát hại huynh đệ ruột thịt, soán ngôi, dưới cửu tuyền cũng không yên!”.
Tử Ly cười ngất: “Di chiếu của phụ hoàng trong tay ta, họ Vương lũng đoạn triều cương, ta nhất định không phụ ủy thác của phụ hoàng, quyết trừ ngoại thích, chấn hưng Ninh quốc, chấn hưng vương tộc Lưu thị! Ngươi tưởng có thể dễ dàng phong tỏa hai cửa cốc, dồn chúng ta vào trong thung lũng tiêu diệt gọn hay sao?”.
 
Thái tử vừa nhìn hẻm núi sâu phía sau mình, trong đó chỉ có một vạn Nam quân của Lưu Giác, phía trước là thảo nguyên, Hữu quân của Lưu Phi cũng không quá hai vạn người, chàng đột nhiên cười ha hả ra lệnh: “Quân đâu, chúng ta người đông, dàn trận xông lên!”. Vạn người bên dưới đồng thanh: “Nguyện cùng thái tử điện hạ!”.
Nghe thấy tiếng trống thúc dồn dập, tiếng hô giết rợp trời. Năm ngàn quân tiên phong của hai bên rời đội ngũ xông lên, những ánh chớp vàng chói sáng xông vào những đám mây trắng, tựa như ánh mặt trời xuyên qua tầng mây, những quả cầu lửa lăn trên thảo nguyên, tiếng kêu thảm thiết chấn động không trung. Lưu Giác thét to: “Xông lên công phá hậu tuyến của Đông quân! Tiền hậu giáp công!”.
Nam quân áo giáp đen như mây đen cuồn cuộn vùng vẫy tung hoành rợp trời rợp đất, binh sĩ trùng trùng điệp điệp tràn về cửa thung lũng.
Thái tử sau lưng trước mặt đều có địch, Đông quân mặc dù quân đông, nhưng không tinh nhuệ bằng Nam quân và Hữu quân. Đông quân rút cục mấy năm không đánh trận, còn Nam quân của Lưu Giác đã qua trận chiến Lâm Nam, đã được rèn luyện thực tiễn. Lưu Giám nhìn thấy những đám mây trắng phiêu động, nuốt dần từng chút ánh mặt trời vàng rực, mắt chàng lộ vẻ lo lắng. Chính lúc đó, mặt đất rung chuyển, trên thảo nguyên phía khu rừng Hắc Sơn xuất hiện một đám đen, lao đến như một cơn lốc xoáy. Thái tử thở phào, vẫy cờ cười lớn: “Giờ chết của các người đã điểm!”.
Tử Ly căng mắt nhìn từ xa, chỉ thấy tiếng vó ngựa rậm rịch, giống như búa tạ nện xuống mặt đất. Khi cơn lốc xoáy màu đen đến gần, sau khi thái tử nhìn rõ, thất kinh, thì ra đó là hàng ngàn con bò đang kích động xông vào đội quân như chớp giật sấm rền. Thái tử lúc này đã chỉ huy Đông quân lui lên cao, Hữu quân hoàn toàn trơ trọi trên thảo nguyên. Trong chớp mắt, đội quân bị đàn bò húc tan tác, những binh sĩ không kịp tránh bị húc ngã, dưới móng bò đã được bịt sắt, máu thịt tơi bời, hàng vạn binh sĩ chưa kịp vung kiếm đã bị giẫm nát, kêu la thảm thiết. Thảm nhất là đội quân trong thung lũng, đàn bò bị kích nộ xông đến, nhưng phía trước lối ra hẹp, chúng không thoát ra được, quay trở lại xông vào trong thung lũng.
Lưu Giác tức sôi người, hét to: “Bắn tên, đội khiên dài đi trước, đội lá chắn đi sau!”. Bản thân chàng vận công lao lên, kiếm vung đến đâu máu vọt đến đó, đầu bò bị chém đứt ngổn ngang. Ô y kỵ tới tấp làm theo, tinh thần Nam quân đã phấn chấn trở lại, miệng hô vang, tay cầm khiên dài, xông lên, trong thung lũng mấy trăm con bò chết la liệt. Lưu Giác thở gấp, nhìn thấy đuôi bò bị buộc mồi lửa, chửi to: “Vương Yến Hồi, khốn kiếp! Ngươi không phải là đàn bà!”.
 
Chàng tập hợp đội ngũ điểm quân, quân của hai bên trong thung lũng tổng cộng hai vạn binh đã tiêu hao mất ba, bốn nghìn.
Phía Tử Ly tập hợp đội ngũ, hai vạn người cũng mất gần sáu nghìn, lòng vừa phẫn nộ vừa khâm phục Vương Yến Hồi. Mưu tính của người đàn bà này quả thực ngoài sức tưởng tượng, lúc này còn nghĩ ra sử dụng độc chiêu này, không mất một sĩ tốt đã có thể đả thương nghiêm trọng nguyên khí hai quân.
Những con bò kinh sợ đau đớn vì lửa đốt dưới đuôi, trong chớp mắt đã chạy sâu vào thảo nguyên. Hai quân chưa kịp hoàn hồn, đội quân giáp vàng chói lọi như ánh mặt trời lại xông ra. Lần này đấu giáp lá cà, trong những đám mây trắng dày đặc chen lẫn những điểm vàng lấp lánh, mây đen cuồn cuộn. Trong vạn dặm không hoàn toàn là ánh mặt trời, mây cũng không che được đến chân trời. Nụ cười trên mặt Tử Ly đã trầm xuống, chàng băn khoăn không hiểu ý Vương Yến Hồi. Nhìn chiến trường, sát khí tỏa ra, biến đám mây bên cạnh chàng ngưng thành băng lạnh. Chàng biết, đàn bò kinh động vừa xông ra, quân của chàng đã tổn thất nặng nề, hai quân chống cự vất vả, nếu lại không dẫn dụ ra được đội quân bí mật, trận này tất bại.
Lưu Giác lòng như lửa đốt, quân sĩ đều đỏ mắt, sĩ khí và số lượng Nam quân đều tổn thương nghiêm trọng, chỉ dựa vào hận thù trong lòng để thêm tinh thần đấu với Đông quân. Chàng nghiến răng, thúc ngựa lao về chỗ thái tử đứng, nếu bắt sống thái tử, chắc chắn đội quân bí mật kia phải lộ diện. Ba đội Ô y kỵ rời đội ngũ đi theo chàng, giống như con rồng đen phẫn nộ rùng rùng lắc mình xông vào đội quân của thái tử. Đội quân lao đến đâu sắc vàng tản ra đến đó, từ xa nhìn tựa như những đám mây đen được viền vàng, từ từ bay về chỗ ánh vàng chói mắt nhất. Lá quân kỳ ở phía thái tử vội phất lên, thế của Ô y kỵ như chẻ tre, loạt tên lao về trái tim của mặt trời – chỗ thái tử đứng.
Trong khu rừng sâu phía xa, cuối cùng bắt đầu có động tĩnh. Như tuyết mùa đông lặng lẽ buông trên thảo nguyên, không một tiếng hô giết, không thấy cờ hiệu, cả đội quân lao đến với tốc độ như cuồng phong.
Thái tử hưng phấn, vung thanh trường kiếm trong tay cười lớn: “Lần này cho các ngươi chứng kiến sự lợi hại của Bắc quân Ninh quốc!”. Đông quân thấy có viện binh phía sau, sĩ khí dâng cao, Nam quân đã ra khỏi thung lũng hợp với Hữu quân, vừa đánh vừa rút về hướng Phong thành. Thái tử thét lên: “Tăng tốc truy đuổi! Giết!”.
Hai đám mây hợp một, đen trắng đan xen, vô cùng kỳ dị. Đông quân giáp vàng tỏa ánh sáng rực, Bắc quân giáp xanh bay đến tỏa ra bảo vệ, giống như đóa hoa hướng dương nở xòe, cành lá xanh bay bay. Khi xông vào đám mây, chỉ thấy đám mây đen trắng đan xen kia đột nhiên phân tách, biến thành một sợi dây thừng xiết lấy đóa hoa, mặc cho đóa hoa lắc lư trên thảo nguyên.
Cờ trắng của hai quân đột nhiên phất lên, lá cờ đen bay phần phật. Thảo nguyên tựa hồ một bàn cờ bày sẵn bị một quả đấm mạnh, quân cờ nhảy lên, rùng lắc; lại như mặt biển đột nhiên dậy sóng, từng cơn sóng trồi lên, ầm ầm chuyển động.
Thái tử dụi mắt, khi đã nhìn rõ mới phát hiện trước mặt không phải là thảm cỏ lay động mà là binh sĩ mai phục. Đội quân này trên người trùm áo cỏ, tay cầm cung, bao vây chặt Đông quân. Bắc quân rõ ràng đã phát hiện có phục binh, hoảng sợ, hô to “Giết!” rồi thục mạng xông lên.
 
Mắt Tử Ly đanh sắt khác thường, nhìn vào mắt Lưu Giác, lá cờ lệnh phất xuống phía dưới, binh sĩ lắp tên vào cung. Ba vạn phục binh, dùng cung tên ngắn, cự ly gần độ sát thương lớn, bắn từng loạt, không nương tay, bắn nát từng cánh đóa hoa hướng dương. Hai quân xông lên, ánh đao lóe sáng chém đứt cành hoa màu xanh, các mũi tấn công đều hướng về đóa hoa đang bị bắn nát.
Thái tử không cam tâm nhìn bóng người dưới lá cờ trắng phía trước. Bảy vạn quân, chớp mắt mất sạch, tình thế đảo ngược nhanh chóng. Thì ra bọn họ lợi hại hơn, ba vạn người chống lại năm vạn Đông quân, lại bí mật mai phục ba vạn quân. Kế hoạch sắp đặt chu toàn như thế mà Đông cung hoàn toàn không hay biết, hơn nữa lại rất kìm chế: Khi chiến sự bắt đầu để cho Đông quân chiếm ưu thế, đưa ba vạn quân làm mồi nhử, sau khi dẫn dụ ra hai vạn Bắc quân, phục binh mới lộ diện. Lưu Phi, ngươi, ngươi thật lợi hại!
Vòng vây càng xiết chặt, thân binh và quân tinh nhuệ bên cạnh thái tử chỉ còn không quá tám nghìn. Tử Ly và Lưu Giác lạnh lùng nhìn chàng, lúc này, thái tử cười sằng sặc, chàng cười bản thân mình chưa một lần cầm quân ra trận, chí khí nam nhi nỗi gì! Chàng cũng cười phụ hoàng thiên vị, nếu không có ý chỉ của phụ hoàng, cha con An Thanh vương tuyệt đối không sống chết giúp đỡ Lưu Phi. Chàng cười đến chảy nước mắt: “Lưu Phi! Ngươi ra tay đi, hạ lệnh giết đại ca vô dụng của ngươi đi!”.
Thái tử và Tử Ly rút cục là huynh đệ, Lưu Giác không đành lòng, ngồi trên mình ngựa không động đậy, khóe mắt liếc qua Tử Ly. Người đó sắp trở thành hoàng đế Ninh quốc, mọi việc hôm nay là để chuẩn bị cho người đó đăng cơ, người đó sẽ quyết định. Lòng thầm thở dài, huynh đệ tương tàn, mặc dù chàng không muốn, nhưng thả hổ về rừng, chắc rằng không một đế vương nào làm vậy.
Tử Ly nhìn thái tử, nụ cười quen thuộc lại hiện lên: “Ta sẽ không giết huynh, huynh đầu hàng đi”.
Khuôn mặt như ngọc của thái tử co rúm, đầu hàng? Đầu hàng kẻ xưa nay luôn cúi đầu cung kính trước mình? Muốn mình phục dưới chân hắn, gọi hắn là vương thượng? Nỗi nhục sôi lên. Chàng mới là thái tử Ninh quốc, là người kế vị danh chính ngôn thuận! Chàng nhắm mắt, gió từ phía bắc thổi tới, thảo nguyên mùa xuân gió cát càng lớn, lúc này thổi lên mặt, rát rạt như tát vào mặt chàng. Chiến bào bay phần phật, mồ hôi vã lại khô, khô lại vã, chỉ lưu lại cái lạnh thấu tim. Chàng mở to hai mắt, ánh mắt lóe lên trong cái nhìn kiêu ngạo: “Thắng làm vua thua làm giặc! Ngươi âm thầm nhẫn nhịn bấy lâu, ta không còn gì để nói, xuống ngựa lại đây!”.
Tử Ly ngơ ngẩn nhìn chàng. Hoàng huynh đối với chàng thực ra vẫn tốt, chỉ có điều, đáng tiếc thân mẫu hoàng huynh vì muốn ngôi hoàng hậu đã hạ độc giết chết mẫu thân chàng, đáng tiếc huynh cũng là con cháu của hoàng tộc! Đáng tiếc… thù hận trong lòng lớn dần bao năm, tích tụ trong một góc sâu nhất, lạnh lẽo nhất, chàng đã lao tâm khổ tứ bao năm, mới từng ngày từng ngày xây được bức tường cao ngăn cản những dây leo tanh mùi máu trườn lên? Bao nhiêu năm cũng vì thời khắc này! Chàng thở dài, tự tay ẩy đổ bức tường, mắt nhìn những dây leo uốn khúc nhanh chóng lan ra trong không gian mới, mối hận chiếm cứ mọi ngóc ngách, mọi không gian. Chàng hét to: “Ta phải trả thù cho thân mẫu ta! Giết!”.
Cùng với tiếng hô, đội binh mã xông về phía tàn binh của thái tử.
 
Quay lại
Top Bottom