Duyên kì ngộ-trang trang [hoàn]

A La nhìn thấy phòng lớn ở dưới lầu không hề có bàn ghế, chỉ có vài quầy trà bằng gỗ mun. Trên tường treo mấy bức tranh chữ sơn thủy, rất văn hoa. Bụng nghĩ ông chủ đã lãng phí tầng một, món ăn lầu hai chắc là rất đắt.

Lên lầu, có những tấm bình phong ngăn cách các bàn, cũng có những phòng riêng. Tử Ly chọn một phòng riêng, đợi A La ngồi xong, nói: “Ở đây nói chuyện yên tĩnh hơn”.

A La gật đầu, ngồi bên cửa sổ ngắm cảnh bên ngoài. Nghe tiếng Tử Ly nói với tiểu nhị: “Nghe đồn Thiên phong lầu có ba món đặc sắc, ba loại rượu đặc sắc, hôm nay lần đầu đến đây, mong không để bọn ta thất vọng”.

Tiểu nhị cười hề hề gật đầu: “Công tử lần đầu đến đây sao? Vậy nhất định phải thưởng thức tài nghệ của đầu bếp chỗ chúng tôi".

Một lát sau, món ăn được đưa lên, A La nhìn, đậu phụ, rau cải, cà tím xào cay, không hề có thịt. Lại nhìn Tử Ly, chàng ta mỉm cười lắc đầu tỏ ý bản thân cũng chưa ăn. A La thầm nghĩ, càng chay tịnh càng khó làm, dùng đũa gắp miếng đậu phụ nếm thử, còn chưa kịp nhận xét đã thấy Tử Ly khen: “Ngon, đậu phụ rất mịn, vẫn giữ nguyên vị thuần khiết của đậu, nuốt xuống cổ vẫn còn thơm”.
 
A La vội nếm món rau cải và cà tím, thấy Tử Ly miệng khen hết lời, những là khoái khẩu mỹ vị, không nén nổi, hỏi Tử Ly: “Đại ca, món này có gì ngon?”. Nàng ăn thử lại thấy rất bình thường.

Tử Ly nói: “Lẽ nào khẩu vị của Sơn đệ khác người? Bữa ăn trong phủ món đậu phụ đâu còn vị nữa, thảo nào tiểu vương gia phủ An Thanh vương khoe rằng, muốn nếm vị đậu phụ thuần khiết, chỉ có đến Thiên phong lầu”.

A La vừa nghe thấy ba chữ “tiểu vương gia” tập tức bật ho, uống một ngụm trà cho bình tĩnh lại, mới nói: “Đại ca rất thân với Lưu Giác?”. Lòng bỗng sợ hãi vô cùng, sợ nhất vị đại ca mới quen này là bằng hữu thân thiết của Lưu Giác, mình cũng bị đưa đến ra mắt hắn ta.

Mắt Tử Ly thoáng vẻ hồ nghi, nhưng giọng vẫn bình thường: “Không thân lắm, có gặp vài lần. Sơn đệ quen hay sao?”.

“Có gặp ở Đào hoa yến”. Nhìn ba món ăn nổi tiếng của Thiên phong lầu trước mặt, A La vội chuyển chủ đề: “Đệ nghĩ chắc là Thiên phong lầu nhằm vào đám thực khách nhà giàu chán ngấy sơn hào hải vị, cho nên mới chế những món chay tịnh để thay đổi khẩu vị. Những thứ này, quả thật chẳng ra gì”.
 
Nghe A La nói vậy, một nụ cười hiện lên môi Tử Ly. Thấy nàng lắc đầu bĩu môi, ánh mắt lóng lánh, thật cuốn hút. Thầm nghĩ, nếu mình thích đàn ông, nhất định sẽ đưa tiểu tử này đi. Rồi bất chợt nghĩ đến tiếng sáo ngắn ngủi sáng nay. Dạo trước có lần ngẫu nhiên nghe thấy tiếng sáo bèn cùng hợp tấu, tiếng sáo ngày càng hay, kỹ năng cũng càng thuần thục, để cuối cùng như ẩn chứa bao tâm tư. Chàng thích dùng tiếng tiêu để giao lưu với tiếng sáo đó, để cảm nhận những biến thiên cõi lòng của người thổi sáo, cho nên, buổi sáng mỗi ngày chàng đều chờ ở bên sông. Không ngờ tiếng sáo hôm nay rất ngắn ngủi, rồi lại gặp tiểu huynh đệ dung mạo khôi ngô, hoạt bát mà tiếng sáo rất giống tiếng sáo bên trong bức tường kia, tự dưng thấy muốn thân thiện gần gũi.

Tử Ly ngẫm nghĩ, uống liền mấy chén tam tuyệt tửu. Lúc này lại nhìn A La, đột nhiên nghĩ đến con báo gấm có lần chàng bắn sổng, mắt cũng lóng lánh tinh ranh như vậy. Thầm nghĩ, tiểu tử này nếu nước da trắng hơn, e phụ nữ cũng phải ghen tỵ.

A La vừa nhận xét như vậy, lại thấy Tử Ly ngồi ngơ ngẩn, bèn hỏi: “Đại ca, nếu có cơ hội, tiểu đệ xuống phủ làm mấy món hầu đại ca, đảm bảo đại ca thấy ngon không nỡ ăn”.

Tử Ly như tỉnh mộng, cười: “Coi thường tam tuyệt của Thiên phong lầu, Phong thành này chỉ có tiểu đệ là một”.

A La kinh ngạc: “Thật không? Đệ thấy Phong thành phồn hoa như vậy, lẽ nào ẩm thực lại kém thế?”.

Tử Ly tò mò hỏi A La: “Đệ không phải là người Phong thành?”.

“Đây là lần đầu đệ xuất phủ, lần đầu dùng bữa ở tửu lầu. Cơm ở phủ nhà đệ ăn vẫn còn khá hợp khẩu vị”. Bữa ăn bình thường ở Đường viên, vú Trương và thất phu nhân thay nhau vào bếp. Thỉnh thoảng cũng cùng ăn với mọi người trong đại gia đình tướng phủ, nhưng tâm trạng nơm nớp không dám gắp nhiều, cảm thấy bếp lớn kém xa bếp nhà, cứ tưởng Lý lão gia lạnh nhạt với Đường viên, nên không chiêu đãi tử tế. Không ngờ hôm nay đến Thiên phong lầu, được nếm cái gọi là tam tuyệt lại nguyên sơ chay tịnh như vậy!

Tử Ly lại nói: “Thiên phong lầu lấy món chay là chính, cũng được coi là tửu lầu có tiếng nhất Phong thành. Có lẽ tài nấu ăn ở tư gia Sơn đệ rất cao minh?”.

A La nghĩ một lát, nói: “Đại ca, lần sau có thể đưa tiểu đệ đến những tửu lầu có tiếng khác được không? Thưởng thức món ăn là đệ nhất thú vui của tiểu đệ”.

Tử Ly nhìn đôi mắt sáng ngời, vẻ cầu khẩn trước mặt, không kịp nghĩ, gật đầu: “Sơn đệ, đệ có biết khi đệ nhìn người khác với ánh mắt như vậy, sẽ không một ai có thể từ chối đệ?".
 
A La đỏ mặt, cúi đầu. Tử Ly mỉm cười: “Nếu ta có một tiểu đệ như vậy, muốn gì ta cũng cho. Sơn đệ, Tử Ly này rất thích đệ gọi ta là đại ca”.

Dùng bữa xong, trả tiền, tiểu nhị nói: “Mười ba lạng”.

A La nhảy dựng lên, kinh ngạc “Ba... ba cái món này mà nhiều bạc thế ư?”.

Tử Ly nhìn nàng cười: “Không đắt, Sơn đệ!”. Đoạn móc túi đưa ngân lượng cho tiểu nhị.

A La đi khỏi tửu lầu, ngoái đầu nhìn. Coi như đã biết tại sao lầu một không bày bàn ăn, tầng hai khách ít cũng không sao. Một bữa ăn ở đây bằng chi ăn cả tháng của Đường viên, vậy mà còn kêu không đắt? Thật không thể hiểu được. Lại nghĩ, nếu mở một tửu lầu như thế, chẳng phải kiếm bộn tiền hay sao?

Ra khỏi Thiên phong lầu, Tử Ly đứng yên ngẫm nghĩ, đoạn cười nhạt: “Tam tuyệt tửu ngấm lâu, uống thêm vài chén vì đệ, hơi chếnh choáng, ta đi bộ cho tỉnh được không?”.

A La gật đầu. Tử Ly dắt ngựa, hai người tản bộ về hướng nam, vừa rẽ vào con ngõ, đột nhiên có mấy kẻ bịt mặt, tay cầm dao xông ra, không nói không rằng, tay dao lăm lăm xông vào hai người.
Tử Ly đẩy A La về phía sau lưng, tay phải không biết lấy ở đâu ra một thanh kiếm lao vào đấu với mấy kẻ bịt mặt. A La nhìn hoa cả mắt. Nàng tập Karate đã nhiều năm, nhưng chứng kiến cảnh đao kiếm đánh giáp lá cà như vậy cũng không quen, chỉ thấy tay mình bị Tử Ly xiết chặt. Chàng vẫn bảo vệ nàng. A La né phải né trái theo chàng; dần nhận ra đường kiếm, bỗng tay kia nắm lấy Tử Ly, mượn lực lấy đà vọt lên tung cú song phi khiến một tên đang cầm đao lao tới, ngã nhào.

Tử Ly nhìn nàng một cái, mắt lộ vẻ kinh ngạc, nhân cơ hội lao vào vung kiếm lia lịa, đoạn tránh một bên, kéo A La nói nhỏ: “Lên ngựa!”.
 
Chàng tung người nhảy lên lưng ngựa, đột nhiên thấy eo đau buốt, cả người đổ xuống, A La cũng ngã theo. Bất chấp mông đau ê ẩm, nàng chạy đến bên Tử Ly: “Đại ca, sao thế?”.

Tử Ly đột nhiên bật cười: “Tiểu đệ ngốc, sao không cưỡi ngựa đi đi?”. Trong hơi thở gấp, mặt đã xanh tái, chàng nói nhỏ: “Trên yên có cắm kim độc”.

Những kẻ bịt mặt lúc này từ từ áp sát, một tên cười sằng sặc: “Nếu không dùng kế đó, mấy người bọn này, sao địch nổi đại ca?”.

A La sợ hãi, nhưng bất chấp, nhảy ra đứng chắn trước mặt Tử Ly, phẫn nộ hét: “Bí ổi thế mà vẫn cười được? Đưa thuốc giải độc ra đây!”. Dù mạnh mồm như thế, nhưng bụng thầm cầu khấn: Đừng giết ta!

Mấy kẻ bịt mặt nhìn tiểu công tử áo gấm, cười nhạo: “Tiểu công tử kháu trai, lần này thu hoạch to rồi đây. Công tử lui ra, nếu không máu vọt ra công tử lại sợ chết khiếp!”.

A La ngoái nhìn Tử Ly, mặt chàng vẫn cười cười: “Đại ca, đại ca cố lên!”. Nói đoạn, dắt ngựa lại gần, giật yên ra, cố sức xốc Tử Ly lên: “Đại ca, đệ đỡ ca, đại ca cố lên ngựa đi!”.

Mấy kẻ bịt mặt càng cười to: “Tiểu công tử, công tử đỡ được sao? Có cần đại ca này giúp không?”.
 
A La lườm chúng, quay đầu nhìn Tử Ly, mặt chàng hơi xanh, nhưng vẫn như cười, người lại hơi nhũn ra. A La biết chàng không thể lên ngựa, bèn buông dây cương vỗ vào mông thả cho ngựa đi, hy vọng có kỳ tích xảy ra, kiểu như ngựa quen đường, dẫn cứu binh đến. Nàng dìu Tử Ly đến ngồi dựa vào chân tường, lúc đó một người bịt mặt cười, nói: “Ngõ cụt làm gì có ai qua, đây nói thật, hôm nay chúng mày có cánh cũng không chạy thoát”.

A La nhắm mắt, vọt người lên cao. Tên bịt mặt ngớ ra, không biết nàng định làm gì. A La khởi động mấy nhát dừng lại, cởi phắt áo choàng, lạnh lùng nhìn tên bịt mặt: “Đã lâu không đánh nhau, các người định lần lượt từng người hay cả đám?”. Trong bụng không dám chắc, nhưng không thể ngồi giương mắt chờ chết, cho nên quyết liều một phen.

Một trận cười rộ lên, có kẻ múa dao xông đến, cười to: “Không ngờ ta có phúc đến thế, nào để đại ca ôm công tử đã”. Không đợi gã lại gần, A La tung chân đá trúng đầu gã, rồi xoay người, tay phải chém vào lưng gã, chỉ nghe tiếng xương gãy rắc một tiếng, tên bịt mặt đổ xuống.

Nàng cố giữ cho thân người linh hoạt, nhảy sang phải, né sang trái, thỉnh thoảng vung tay chém một nhát, tự mình cũng thấy tay đã hết lực. Chỉ nghe thấy Tử Ly kêu lên, đứng dậy, đẩy nàng về sau. Lúc đó không biết từ đâu, tên bay đến rào rào, những kẻ bịt mặt kêu lên thảm thiết từ từ ngã gục.

Liền sau đó, mấy người từ trên tường nhảy xuống, quỳ sụp trước mặt Tử Ly, hoảng hốt: “Thuộc hạ đến chậm, xin chúa công trách tội!”.

Tử Ly nhìn họ: "Đứng lên đi!”.
 
Mấy người nhanh nhẹn khiêng những xác chết đi, lau sạch vết máu trên đất, tất cả đều làm nhanh chóng gọn gàng. Lát sau trong ngõ đã như không xảy ra chuyện gì. Ngay sau đó có tùy tùng dắt ngựa đến, đứng hầu một bên.

A La kinh ngạc nhìn cảnh tượng trước mặt, miệng thở hổn hển, tay vẫn còn run, trời ơi, chuyện gì thế này? Quay đầu nhìn thấy Tử Ly mặt như cười, bèn hỏi: “Đại ca không trúng độc sao?”.

Mắt Tử Ly cười: “Chút độc đó, một lát là hết. Huống hồ, kẻ mọc cánh cũng không thoát chính là bọn chúng!”.

A La mới hiểu tại sao vừa rồi Tử Ly không hề tỏ vẻ lo lắng, lòng hơi buồn, mình vẫn nghĩ về con người ở đây đơn giản quá. Băn khoăn hỏi Tử Ly: “Vậy đại ca còn đứng nhìn đệ bị đâm? Thật thiếu nghĩa khí! Không nhận là đại ca nữa! Sau này đừng nói chúng ta quen nhau, coi như ta ngốc nghếch một phen”. Nói xong nhặt áo choàng bỏ đi.

Tiếng Tử Ly vang lên đằng sau: “Vừa rồi sao đệ không cưỡi ngựa bỏ chạy?".

A La quay đầu lườm chàng: “Không phải không muốn cưỡi, mà ta bị ngã xuống!”.

Tử Ly mỉm cười: “Đệ có thể đi, bọn chúng đâu có muốn mạng của đệ!”.

A La càng giận: “Không nghe bọn chúng nói đệ là tiểu công tử xinh đẹp hay sao? Đệ muốn cũng không đi được! Cáo biệt, sẽ không gặp lại nữa!”.

Đi được mấy bước, Tử Ly đã đuổi kịp: “Có muốn học cưỡi ngựa không?”

A La không thèm nghe, Tử Ly lại tiếp: “Có muốn thử tất cả sơn hào hải vị của Phong thành không?”.
 
A La vẫn không thèm, Tử Ly lại than vãn: “Ta chỉ muốn xem võ công của đệ mà thôi. Đòn tung chân của đệ rất lợi hại, ta biết đệ có luyện công. Nếu đệ nguy cấp, ta nhất định ra tay, ta không ra tay, thị vệ của ta cũng ra tay. Thế này nhé, đệ cần gì nói đi, nếu làm được nhất định ta sẽ giúp”.

A La dừng lại, người này xem chừng chỉ có một mình, nhưng lại có thị vệ võ nghệ giỏi như vậy ngầm bảo vệ, thân thế chắc chắn không đơn giản, không thể đắc tội được. “Thật không?”.

“Thật”. Tử Ly mỉm cười.

A La lại hỏi: "Huynh rất giàu phải không?”.

Tử Ly cau mày: “Coi như thế đi!”.

A La cười: “Có tiền là được, liệu đệ có thể hỏi, cần bao nhiêu bạc có thể mua được Thiên phong lầu?”.

Tử Ly cười: “Đệ muốn Thiên phong lầu?”.

A La lắc đầu. Tử Ly ngẫm nghĩ, nói: “Một vạn ngân lượng”.

A La hỏi: “Nếu muốn mua một ngôi nhà ở Phong thành, cần bao nhiêu bạc thì đủ?”.

Tử Ly cười: “Mấy trăm lạng là có thể mua được một chỗ vừa vừa, thườngdân sống tằn tiện nhất, thì năm mươi đến một trăm lượng là có thể đủ chi trong vòng một năm”.

“Vậy mấy món vừa rồi đã ăn hết chi tiêu một tháng của thường dân!“, A La cảm thấy ở đây sự chênh lệch giàu nghèo quá lớn.
 
Tử Ly vẫn mỉm cười: “Mua một a đầu chỉ cần hai chục lượng”

A La nói: “Đệ cần một ngàn lượng, đại ca có thể cho đệ không?”

Tử Ly nhìn nàng vẻ lạ lùng: “Đệ cần một ngàn lượng để làm gì?”.

A La nói: “Để trả công cho đệ! Cứu mạng huynh, đệ đã suýt mất mạng! Mạng của huynh đáng giá một ngàn lạng chứ!”.

Tùy tùng đứng bên phẫn nộ: “Dám hạ nhục chủ nhân bọn ta?".

Tử Ly nhìn bọn họ, bọn tùy tùng cúi đầu không dám nói, nét mặt vẫn hậm hực. A La hỏi: “Chê ta mua rẻ chủ nhân các người sao? Vậy thì hai ngàn lượng vậy”.

Tùy tùng không dám mở miệng, nhưng mặt đỏ phừng phừng. Tử Ly cười: “Đệ muốn kinh doanh ẩm thực như Thiên phong lầu?”.

A La cười: “Đệ không tham lam, hai ngàn lượng, chúng ta ân oán rạch ròi, sau này không ai nợ ai”.

Tử Ly nhìn nàng chằm chằm: “Hay là đệ giận ta đã có chuẩn bị lại không ra tay?”.

A La cười: “Đệ biết võ công, lại vừa quen nhau, huynh nghi ngờ cũng không phải là lạ. Nhưng đệ không thích”.

Tử Ly vừa giơ ngón tay ra hiệu, tùy tùng đưa ra một bọc bạc, chẳng buồn nhìn trao ngay cho A La. A La mở ra đếm đủ hai ngàn lượng, trả lại số bạc thừa, xong xuôi quay người bỏ đi.
 
Khi sắp ra khỏi con ngõ, nghe thấy tiếng vó ngựa sau lưng, chưa kịp phản ứng, một cánh tay đã vung ra, nhấc bổng nàng lên ngựa. Tử Ly cười: “Ta tiễn đệ về, nhà đệ ở đâu?”.

A La lúc này đã kiệt sức, thấy của cho không, nên cũng không từ chối, nói: “Đưa đệ đến chỗ ta gặp nhau là được”.

Tử Ly không nói gì thêm, ra roi thúc ngựa đi về hướng đông, vòng đến bờ sông.

A La xuống ngựa đi thẳng, Tử Ly kéo lại, tháo miếng ngọc bội trên thắt lưng đưa cho nàng: “Sau này có chuyện gì, cứ đến Hưng Nguyên quán trong thành tìm chủ quán, đưa cái này nói là của Tử Ly công tử cho đệ”.

A La nghĩ ngợi rồi cầm miếng ngọc bội.

Tử Ly lẳng lặng lên ngựa, ra roi phóng đi. A La đi đến bên tường bao tướng phủ, nhìn quanh không thấy ai, bèn lấy sáo thổi ám hiệu. Lát sau Tiểu Ngọc xuất hiện ở đầu tường.

Trở về nhà toàn thân A La rã rời, chỉ muốn tắm nước nóng. Thất phu nhân thấy nàng mệt như vậy nên cũng không hỏi nhiều.

A La ngâm mình trong bồn nước nóng, thật dễ chịu, đầu óc bắt đầu hoạt động. Tử Ly công tử thân thế phi phàm, thủ đoạn ra tay cũng khác thường này rút cục là người thế nào? Nhìn cách quản thuộc hạ của chàng ta, có vẻ rất có tài quản !ý. Nghĩ lại nàng lại thấy tức khí, mất công đánh nhau một trận, để cho người ta đùa bỡn như con khỉ, nếu mình không biết karate, Tử Ly cũng không ngồi đợi chết. Người ở đây sao ai cũng cáo già thành tinh như vậy, không một ai đơn giản.
 
Điều mừng nhất là kiếm được hai ngàn lượng bạc, lại còn được tặng miếng ngọc bội khi cần sẽ được giúp đỡ. Đây đúng là bảo bối, chưa biết chừng có ngày phải đến cầu cứu Tử Ly. Chàng ta sẽ giúp mình, không biết tại sao, nàng rất tin lời Tử Ly.

Tắm xong, A La đưa bạc cho thất phu nhân giữ. Thất phu nhân kinh ngạc hỏi: “Sao đi có một ngày mà kiếm được nhiều bạc thế? Tam Nhi, không phải con lại đánh ngất người ta rồi cướp tiền chứ?”.

A La cười hớn hở: “Hôm nay đánh ngất mấy người. Con cứu được một người, đây là bạc người đó trả ơn, nguồn gốc tuyệt đối minh bạch. Mẹ à, chúng ta mua nhà bên ngoài được không? Con nghĩ bạc đủ rồi”. Nàng đã tính, định trốn khỏi tướng phủ, nhất định phải có chỗ nương thân.

Thất phu nhân cũng đồng tình: “Ý này rất hay, nếu có ngày chúng ta rời tướng phủ, phải có chỗ nương náu. A, nghe nói hoàng hậu đã hạ chỉ, triệu nội quyến ngày rằm vào cung thưởng nguyệt. Có lẽ là người muốn xem mặt Thanh Lôi, định rõ đã tuyển được thái tử phi”.
 
CHƯƠNG 6


Đại sảnh trong tướng phủ đèn đuốc sáng rực thâu đêm, chỉ những khi phủ có việc trọng đại mới thấy cảnh tượng long trọng linh đình như thế. Khi thất phu nhân đưa A La vào đại sảnh, mọi người đều đã tề tựu đông đủ. Nàng vẫn ngồi bên thất phu nhân ở cuối dãy ghế bên phải, lắng nghe bề trên chỉ giáo. Lý tướng hắng vài tiếng cho trong giọng rồi cất lời: “Rằm tháng tám này hoàng hậu có ý triệu nội quyến các quan tam phẩm trở lên vào cung thưởng nguyệt, lại còn nói rõ muốn xem tiểu thư các nhà trổ tài. A Lôi, A Phỉ, A La, các con thấy thế nào?”.

A La ngớ người, “các con thấy thế nào”, còn thế nào nữa, chẳng phải bề trên nói sao là vậy ư? Ông thân làm tả thừa tướng, không có người nối dõi, chẳng phải rất mong bán mỗi con gái sao cho thật đắt hay sao, mưu đã tính sẵn từ lúc các con còn nhỏ, tuyên bố là xong, hỏi như vậy là có ý gì? Nàng nhất thời không tìm ra ý đồ thật sự của Lý tướng. Ưu tú nhất nhà đương nhiên là đại tỷ, nhị tỷ, còn nàng vui lòng lên tiếng sau cùng.

Thanh Lôi nhẹ nhàng: “Cha không định để con tiếp tục chơi đàn nữa chứ? Khuê nữ mọi nhà mười người có đến tám người chơi đàn, ngón đàn của con ngang ngửa Cố tiểu thư. Những ngày vừa qua được thái tử điện hạ càng thêm mến mộ, si mê, không cần chơi đàn nữa cũng được”. Thấy tình cảm của thái tử đối với mình mười phần chắc chắn, khẩu khí của Thanh Lôi đã có vẻ kiêu kiêu tự đắc.
 
Mắt Lý tướng lộ ra nụ cười, xem ra ông cũng không định để Thanh Lôi lại thể hiện ngón đàn. Dù biết rõ tâm tư của thái tử đã đặt vào Thanh Lôi, hoàng hậu chẳng qua tức khí vì cháu gái Vương Yến Hồi chưa kịp đua tài đã bị loại. Lý tướng mỉm cười, nói: “Lần thưởng nguyệt này, hoàng hậu có ý để tiểu thư Yến Hồi vãn hồi một phen, chủ đề so tài có lẽ sẽ không phải là những trò giải trí như đàn, hát".

A La đột nhiên vỡ lẽ, Lý lão gia vốn đã tính đến điều này, triệu tập cả nhà là muốn mọi người cho ý kiến, để Thanh Lôi có thể thắng Vương Yến Hồi, danh chính ngôn thuận trở thành chủ nhân Đông cung.

Đại phu nhân chậm rãi lên tiếng: “Vương Yến Hồi ta đã gặp từ nhỏ, thường đi theo cha là Vương thái úy, lớn lên trong quân doanh, thông thuộc binh thư, am tường binh pháp. Năm xưa khi ta được gả vào tướng phủ không lâu có về thăm nhà, đúng lúc Vương thái úy mời, ta được cha đưa đến phủ thái úy. Khi đi dạo một mình trong hoa viên, không tìm thấy lối ra, lúc đó một nữ đồng ba tuổi từ trên cây nhảy xuống vỗ tay cười nói: “Mê hồn trận mà sách xưa nói thì ra cũng có cái hay”, ta hiếu kỳ hỏi, có phải hoa viên bố trí theo trận pháp, cô bé cười hớn hở nói, đọc sách thấy viết như vậy, bèn thử bày bố trong hoa viên xem sao. Ta không thể tin nổi, đứa trẻ mới ba tuổi, mà đã có thủ đoạn như vậy”.

Lý tướng tiếp lời: “Nay đã qua mười bốn năm, Vương Yến hồi đã mười bảy tuổi, nghe đồn mưu lược hơn người, thông minh tuyệt đỉnh, có lẽ không phải là lời đồn suông”.

Nghe xong câu chuyện, cả phòng lặng phắc như tờ. Nếu trong yến tiệc, hoàng hậu bảo Vương Yến Hồi hiến kế, thì đúng là không phải chuyện hay. Chưa biết chừng Ninh vương nghe vậy hiếu kỳ, muốn biết thái tử phi tương lai liệu có đầu to mà óc nhỏ. Bởi vì sau này thái tử đăng cơ, thái tử phi sẽ được tấn phong làm quốc mẫu. Thái tử sủng ái mỹ nhân nào có thể tùy tiện phong phi tử, nhưng quốc mẫu thống lãnh hậu cung, không mưu lược thủ đoạn e không được.
 
Lý tướng lại tiếp: “A Lôi, con chơi đàn rất hay, văn thơ cũng khá, bây giờ cũng không biết chuyện gì sẽ xảy ra trong yến tiệc, hôm nay cha chỉ nhắc con, khi đó phải linh hoạt cẩn trọng, vạn sự nên lấy hai chữ cẩn trọng làm đầu”. Ánh mắt chuyển đến Thanh Phỉ và Thanh La, “Mục đích vào cung lần này của hai con là giúp Thanh Lôi thuận lợi vượt qua cửa ải, luôn đi theo sát đại tỷ, cần ra tay vẫn nên ra tay, chỉ có điều nên thận trọng đừng để bị phát hiện! Phải ghi nhớ một điều, vinh cùng vinh, nhục cùng nhục! Cha già rồi, mọi hy vọng của Lý gia bây giờ đều trông cậy vào đại tỷ các con, hiểu chưa?”.

Mọi người đồng thanh “Rõ”, A La muốn cười không được, mối quan hệ xã hội của Trung Quốc mấy nghìn năm trước là thế, mấy nghìn năm sau vẫn thế. Dựa vào một con nhện nhả tơ dệt mạng, thêm mấy con khác liên kết thành mạng lớn, bè phái liên minh. Chỉ có điều mình ở trong đó chỉ muốn vùng ra, không muốn cùng họ mưu cầu vinh lợi, điều này cũng khác quan điểm tư tưởng hiện đại. Những thứ mà người trong tướng phủ cần không giống những thứ nàng cần.

Lại thấy Lý tướng hỏi Thanh Phỉ: “A Phỉ, bà mối của Thành thị lang đã đánh tiếng dạm hỏi, nhưng tỷ tỷ con chưa xuất giá, con đi trước cũng không hay, cha nghĩ nên đợi chuyện của tỷ tỷ con định đoạt xong xuôi rồi hãy tính”.

Tứ phu nhân vội trả lời: “Lão gia nói chí phải, nhà chúng ta dòng dõi thư hương, tuyệt đối không nên có chuyện thất lễ như vậy”.
 
A La thấy mắt Thanh Phỉ sáng lên rồi lại tối đi, biết ngay mẹ con họ bị Lý lão gia thừa cơ đánh vào điểm yếu. Thành thị lang kia hào hoa phong lưu, văn tài xuất chúng, tuổi còn trẻ mà đã làm quan cao, Thanh Phỉ gả cho chàng ta xem ra cũng xứng đôi vừa lứa. Chỉ có điều nhanh quá, nhanh chóng thành thân như vậy, trong thời hiện đại vẫn còn có người yêu đến chết đi sống lại, ở đây bỏ qua giai đoạn yêu đương, lấy nhau rồi có hối cũng không kịp. A La đã quyết rời khỏi tướng phủ, tuyệt đối không để cho Lý lão gia biến hôn nhân đại sự của mình thành cuộc buôn bán trao đổi, cho nên bây giờ vẫn nên ít tiếp xúc với những bậc anh tài thì hơn. Nghĩ đến những bậc anh tài, nàng đột nhiên nghĩ đến tiểu vương gia của phủ An Thanh vương và Tử Ly công tử thân thế bí hiểm. Người trước nàng trốn còn không kịp. Còn người sau, nàng lại thầm thở dài, chẳng phải đã được trả công sòng phẳng rồi sao?

Lý tướng cười khà khà: “Thành thị lang nói, kết thân với Lý gia ta quả thật là đã với cao. Khi nói như vậy vẻ mặt Thành thị lang rất phấn chấn, có thể cùng cánh với thái tử, tiền đồ của người ta cũng hanh thông”.

Vậy là điều đó đã được nói rõ ra rồi. Nếu Thanh Lôi được gả cho thái tử là Thanh Phỉ có thể thành thân với Thành Tư Duyệt, vận mệnh vẫn còn ở chỗ đại tỷ có đắc sủng hay không. Sao lại có một người cha đem con gái ra toan tính như Lý tướng chứ?
A La đang mãi nghĩ, thì nghe thấy Lý tướng cười nói với nàng: “A La tháng sau con đã mười ba tuổi rồi, đi xem xét mở rộng tầm mắt cũng tốt, con sớm muộn cũng được gả cho một đám tốt”.

Kế hoạch đã nhanh chóng chuyển sang nàng vậy sao? A La cúi đầu trả lời: “Con còn nhỏ, vẫn muốn sống với cha mẹ vài năm nữa”.

Lý tướng cười: “Cha cũng không muốn xa con, nhưng cứ định sẵn hôn sự, đến tuổi cập kê tính chuyện cũng không muộn”.

A La cúi đầu ra bộ xấu hổ, sự phẫn nộ trong lòng lại bùng lên. Nàng sẽ không nghe theo sắp đặt của ông ta, tuyệt đối không!
 
Mấy ngày liền, A La không đến rừng trúc thổi sáo. Nghe tiếng tiêu vẳng lại, ngẫm nghĩ một hồi vẫn quyết định không lên tiếng. Tiếng tiêu mỗi lúc càng thêm âu sầu. Có một hôm cuối cùng không chịu nổi, nàng trèo qua tường nấp vào một chỗ nhìn ra, từ xa thấy bóng dáng tiêu sơ của Tử Ly công tử ngồi bên gốc liễu ven sông. A La cảm thấy không nỡ, nhưng vẫn không chịu ra. Mục tiêu hiện nay của nàng là cuộc sống tự do ngoài phủ, kiểu đàn ông ưu tú bí hiểm này vẫn nên ít tiếp xúc thì hơn.

Lại qua mấy ngày, không thấy tiếng tiêu nữa. Liền mấy ngày A La nằm mơ, trong mơ nàng bay bổng trên bầu trời trong tiếng tiêu du dương của Tử Ly. Sau đó nàng ra khỏi phủ nhưng không đến bờ sông, miếng ngọc bội Tử Ly tặng nàng cũng cất vào một chỗ.

Sinh nhật mười ba tuổi của A La thoắt cái đã qua, nàng vẫn lén trốn khỏi phủ, đã tìm mua được hai gian nhà ở đông nam kinh thành, hai nhà chỉ cách nhau một bức tường, thuê người lén xây một cái cửa bí mật thông nhau. Ngôi to hơn nàng đã thuê quản gia, mua mấy thứ đồ dùng, nàng có thể lộ mặt với tư cách tiểu thiếu gia, chỉ dặn họ, nói là để có chỗ nghỉ ngơi mỗi khi vào thành buôn bán. Ngôi nhà nhỏ hơn, nhờ một đôi vợ chồng hiền lành trông coi, để cho vú Trương đứng ra giao dịch, nói là của một người bà con sinh sống ở phương nam muốn sau này trở về cố hương, nên đã chuẩn bị trước.

Lại một tháng nữa trôi qua, trời thu xanh thẳm. Dạ yến thưởng trăng do hoàng hậu mời đã đến.
 
Lý phủ, người trên kẻ dưới đều tất bật quay quanh Thanh Lôi, bàn tính nên vận trang phục thế nào, dùng đồ trang sức gì, trang điểm ra sao. Lý tướng đã dặn, bữa tiệc này hết sức đặc biệt, không thể ăn vận giản dị, nhưng cũng không được quá hào nhoáng cầu kỳ. Lý tướng định vời một sư phụ may y phục nổi tiếng nhất Phong thành của phường Ngọc cẩm đến tận nhà cắt may y phục cho Thanh Lôi. Sau lại nghe tin các nhà khác hầu như cũng mời vị sư phụ này, nên lại thôi. Đang lúc bối rối, nhị phu nhân, ngũ phu nhân, lục phu nhân lại mủm mỉm cười, bê ra một bộ y phục lộng lẫy, nói đó là chút lòng của ba người.

Giở ra xem, chất liệu bằng lụa hương la, có thêu những bông hoa mai Thanh Lôi yêu thích nhất bằng những sợi chỉ tơ óng ánh, trong nhụy mỗi đóa hoa đều đính một hạt đá hồng bảo. Không đặc biệt hào nhoáng nhưng tỏa sáng rực rỡ dưới ánh dèn. Thanh Lôi mặc lên người rất mực yểu điệu phú quý, kiều diễm vô song. Lý tướng mừng đến độ mấy ngày liền lần lượt đến phòng các phu nhân kia để tỏ ý khen ngợi.

Thất phu nhân đưa đồ trang sức gia truyền cho Thanh Lôi đeo. Tứ phu nhân sợ mình lạc hậu, cẩn thận vẽ mấy kiểu trâm cài để Thanh Lôi tham khảo.

Trở về Đường viên, thất phu nhân cười nói với A La: “Con có muốn ngày mai đẹp hơn đại tỷ không?”. A La xua tay: “Con còn đang tiếc không được hóa trang theo kiểu a hoàn lần nữa để nâng váy cho đại tỷ. Mẹ à, chúng ta cũng nên làm chút gì, nếu không cha và mấy phu nhân kia sẽ không vui. Lúc này không nên làm bất cứ chuyện gì để ông ấy nghi ngờ”.

Thất phu nhân cười, nói: “Đương nhiên rồi, những gì cần làm mẹ sẽ làm”. Thất phu nhân tự tay chải đầu đeo đồ trang sức cho Thanh Lôi theo mẫu vẽ đã chọn. Dưới bàn tay khéo léo của thất phu nhân, khi Thanh Lôi bước ra, mọi người trong Lý phủ đều ngây người sửng sốt. Thái tử phi lý tưởng có lẽ nên có dáng vẻ như Thanh Lôi, đoan trang quý phái mà vẫn yểu điệu dịu dàng. Khuôn mặt trái xoan của Thanh Lôi như tỏa hào quang, A La nghĩ, một Thanh Lôi như thế này cũng xứng với phong độ của thái tử. Không biết Cố Thiên Lâm và Vương Yến Hồi trang điểm thế nào, nàng quả thật rất hiếu kỳ.
 
Để làm nền cho nhân vật chính, Thanh Phỉ và Thanh La không trang điểm nhiều, chỉ đủ xứng với thân phận, cũng xiêm y mới, đồ trang sức mới. A La ngồi trước gương nói với thất phu nhân: “Mẹ à, không nên chải hất mái bờm của con, cứ để như mọi ngày là được”.

Thất phu nhân thở dài: “Tam Nhi, mẹ rất muốn trang điểm cẩn thận cho con”.

A La cười: “Sau này còn nhiều cơ hội, hôm nay không được. Con cũng muốn xem mình trang điểm tử tế trông sẽ thế nào. Mẹ của con đẹp thế này, A La có lẽ cũng không đến nỗi nào đâu”.

Thất phu nhân đột nhiên trở nên trẻ trung: “Mẹ thử trang điểm cho con, sau đó lau đi cũng được, để chúng ta tự ngắm thôi mà”.

A La cười hi hí: "Gọi Tiểu Ngọc ra cửa canh chừng, nhỡ có ai vào”. Hai người nhìn nhau cùng cười.

A La nghĩ đến đêm dạ hội với bạn bè ngày nàng mới vào đại học, cả khu ký túc nữ bận tíu tít, ai cũng thử váy áo, son phấn, trang điểm, náo nhiệt vô cùng. Bây giờ bọn họ, người ra nước ngoài, kẻ lấy chồng, có lẽ đều sống rất tốt. Đột nhiên nghĩ đến cha mẹ, bảy năm rồi, có lẽ họ cũng đã quen cuộc sống không có mình. Nghĩ vậy, hai hàng nước mắt ứa ra. Thất phu nhân thấy vậy thở dài hỏi: “Tam Nhi, con khóc ư?".

A La vội lau nước mắt: “Không có gì, chỉ không muốn đi dự tiệc mà vẫn phải đi”. Nói đoạn nhìn vào gương, sửng người. Sau khi chải hất mái bờm, vầng trán trong ngần, rờ rỡ tỏa sáng của nàng lộ ra hoàn toàn, một khuôn mặt hoàn mỹ như tạc bằng ngọc, cặp mắt to, rạng ngời long lanh ngấn nước. Khuôn mặt vẫn còn nét thơ trẻ nhưng đã lay động vô ngần, nàng không nén nổi giơ tay chạm vào người trong gương.
 
Thất phu nhân lại thở than: “Tam Nhi, bây giờ con đã khiến người ta nhìn không muốn rời, mấy năm nữa sẽ thế nào, đẹp quá cũng không phải chuyện hay”.

“Cho nên vừa rồi con mới bảo mẹ cứ để mái bờm che nửa mặt, con không muốn là hồng nhan bạc phận, rất khổ”. Nói xong lè lưỡi, khuôn mặt trong gương sinh động hẳn lên. A La nhìn mãi, quay đầu nói với thất phu nhân: “Mẹ à, sửa đi nào”.

Thất phu nhân chải lại đầu giúp nàng, hỏi: “Tam Nhi, sau này con muốn tìm một phu quân như thế nào?”.

A La ngẫm nghĩ, đáp: “Ít nhất cũng không phải là người thích con chỉ vì khuôn mặt này. Sau đó, là người có thể bảo vệ con, chỉ có một mình con, và không có quá nhiều phép tắc. À, có lẽ yêu cầu này quá cao rồi, ở đây không có đâu. Nhưng bây giờ con vẫn chưa nghĩ nhiều, giờ đây cả ngày con chỉ nghĩ một điều, làm sao không bị người ta ức hiếp là tốt rồi. Con sợ nhất là chết, động tý là chém đầu, đúng là xã hội phong kiến vạn ác”.

Thất phu nhân băn khoăn hỏi: “Xã hội phong kiến? Là cái gì thế?”.

A La cười: “Chính là cái đất nước này, mọi thứ xung quanh. Đại khái là như thế”. Nàng cười thầm, không thể dùng những từ ngữ hiện đại, kẻo lại phải giải thích mệt lắm.

Sau khi chải đầu, thay trang phục, A La lại ăn khá nhiều đồ ăn vặt, thấy sắp đến giờ, mới cùng đại phu nhân, Thanh Lôi, Thanh Phỉ lên xe ngựa vào cung dự tiệc.

Văn hào Victor Hugo đã từng miêu tả nhà thờ Đức bà Paris là một dàn nhạc giao hưởng bằng đá đồ sộ, kiến trúc là âm nhạc lắng đọng, mỗi phiến đá được lắp ghép tinh tế tạo nên kiến trúc đều là một âm phù tuyệt diệu, những tổ hợp kết phối khác nhau tấu nên những khúc nhạc khác nhau. Trình Tinh từng đến Cố cung ở Bắc Kinh, Cố cung ở Thẩm Dương, cung điện Bangkok ở Thái Lan, bảo tàng Louvre của Pháp, cũng đã nhìn thấy trường quay mô phỏng Tần cung, Hán cung, nhưng nhìn thấy vương cung Ninh quốc xây dựa vào núi lúc này vẫn không khỏi kinh ngạc thán phục. Từ quảng trường mênh mông dưới chân núi nhìn lên, cổ ngửa hết cỡ, mà dường như vẫn không thể nhìn hết vương cung trên núi.
 
Người sống trên đó, lên xuống không mệt hay sao? Nàng hỏi đại phu nhân: “Mẹ cả, vương cung nơi cao nhất là bao nhiêu? Người lên xuống núi liệu có mệt lắm không? Hơn nữa hình như lại còn có tuyết”.

Đại phu nhân nhìn nàng: “Cao nhất là lãnh cung, người trong đó khỏi cần xuống núi. Bây giờ nói cho các con biết, để các con vào cung không chạy lung tung. Kim điện chỗ vương thượng nghị sự tọa lạc dưới chân núi, lên một chút thực ra là một khe núi, hậu cung đều ở đó, chỉ hơi cao hơn một chút. Lên chút nữa là khu lưu trữ thư tịch, giặt giũ trang phục của vương cung, tiếp đến là ty tông nhân và lãnh cung, đỉnh của dãy Ngọc Tượng chính là hoàng lăng. Ngự hoa viên ở khe núi hơi chệch về phía tây nam, hôm nay hoàng hậu nương nương mở tiệc ở đó. Ngự hoa viên rộng vô chừng, các con nhất định không được chạy lung tung, đề phòng lạc đường gây họa, nhớ chưa?”.

Ba cô gái vội đáp: “Rõ ạ”.

Vào cửa cung, tất cả chuyển sang kiệu nhỏ. A La lén vén rèm nhìn ra, bầu trời một màu lam xám đang dần tối. Trong vương cung đèn thắp sáng như ban ngày. Đến cổng ngự hoa viên, mọi người xuống kiệu, A La kinh ngạc phát hiện mặt đường nhấp nháy phát sáng, giống như đèn ngầm dưới mặt đường thời hiện đại. Nàng lén lùi lại một chút, nhìn quanh không ai để ý, nhanh tay cúi xuống sờ, toàn là đá. Thầm nghĩ chắc là được lát bằng loại đá lân tinh, phát sáng mà không chói mắt, nàng bất giác thầm khen Ninh quốc đúng là biết hưởng thụ. Nhìn ra xa, toàn bộ ngự hoa viên như chìm trong biển ánh sáng.

A La nheo mắt, bỗng nhận ra những con đường trong vương cung tạo nên hình chim đại bàng. Khách được dẫn đến vị trí đã định dành cho từng phủ, nàng vừa nhìn hình họa thì phát hiện chỗ họ ngồi vừa đúng bộ phận đầu chim. Vừa rồi họ từ phía móng vuốt đại bàng tiến vào. Vậy hai bên đông tây đương nhiên là phần cánh chim. Đầu đại bàng rộng như vậy, hai cánh giương lên, ngự hoa viên thực sự rộng khủng khiếp.
 
Quay lại
Top Bottom