Duyên kì ngộ-trang trang [hoàn]

Lúc ra đi A La quan sát xung quanh, không thấy ai chú ý đến mình, mới vững dạ lên xe ngựa.

Trở về đến phủ, từ xa đã thấy thất phu nhân đang đứng ngóng, trong lòng thấy ấm áp, cười hớn hở gọi: “Con về rồi, mẹ!”.

Ánh mắt thất phu nhân rất dịu dàng, phu nhân vẫn đứng tựa cổng chờ, lần đầu tiên xa A La có một ngày đã thấy nhớ. Nhìn trời, thất phu nhân lại cau mày: “Tam Nhi, sao chưa đến tiệc tối con đã quay về? Chỉ có một mình ư?”.

A La nói to: “Có thể vừa ăn vừa kể không? Con đói lắm rồi”.

Thất phu nhân lắc đầu cười sai vú Trương dọn cơm, nói với A La: “Mẹ biết, ra ngoài ăn không no, nào lại đây ăn với mẹ”.

A La mệt suốt một ngày, quả thực rất đói, cảm thấy cơm nhà mình vẫn ngon hơn: “Tiệc trưa của công chúa chỉ có bánh và đồ điểm tâm, con lại không dám ăn nhiều, nếu không lại bị đại phu nhân trách là không ý tứ, không chú ý thân phận. Tiệc tối thịnh soạn như thế lại không thể ăn”.

Thất phu nhân hỏi: “Tại sao không thể ăn?”.
 
A La sợ phu nhân lo lắng, không dám kể chuyện mình đã gây sự với tiểu vương gia của phủ An Thanh vương, nghĩ mãi mới kể chuyện đánh đàn thay Thanh Lôi. Thấy thất phu nhân mặt tái nhợt, nàng vội an ủi: “Trong trướng chỉ có năm người của phủ mình, chúng ta không nói ra, không ai biết đâu”.

Thất phu nhân chảy nước mắt: “Tam Nhi, con gây họa lớn rồi! A đầu Quyên Nhi e là là không thể mở miệng nữa”.

A La kinh ngạc: “Chúng ta không nói, sao có thể gây họa! Đại phu nhân không xấu thế đâu? Quyên Nhi đã thề không nói lộ nửa câu”.

Thất phu nhân lại thở dài: “Có câu, trời biết, đất biết, ta biết, người biết, bây giờ đại phu nhân biết, đại tiểu thư, nhị tiểu thư biết, Quyên Nhi biết, con và mẹ biết, khi họ trở về lẽ nào lão gia không biết? Tam phu nhân, tứ phu nhân không biết? Thanh Lôi và mẹ nó đương nhiên không dám nói, lão gia và đại phu nhân tuyệt đối không nói, nhưng còn Thanh Phỉ và mẹ nó? Hai người ấy vốn từ lâu đã khó chịu vì tam phu nhân dựa vào con gái để được lão gia sủng ái, ngộ nhỡ họ nói ra, thì biết làm sao?".

A La sững người: “Mẹ à, lúc đó con thấy Thanh Lôi tội nghiệp quá. Mặc dù không qua lại nhiều, nhưng cũng chẳng hận thù, tỷ ấy mới mười sáu tuổi”.

Thất phu nhân ngẫm nghĩ rồi nói: “Chuyện đã thế này, đành chờ xem ý tứ lão gia".
 
A La nghĩ bụng, lúc đó mình đâu có nghĩ sẽ có hậu quả thế này! Xem ra kinh nghiệm chưa đủ, suy nghĩ chưa chín chắn, sáu năm nay không ra ngoài, đã xem thường tư duy của người cổ đại rồi. Chỉ là thay Thanh Lôi chơi khúc đàn cho xong, không ngờ nhờ vậy nàng ta lại được thái tử say mê, như vậy là lừa dối, đại bất kính, không khéo vì thế mà chuốc tội chém đầu cũng nên. Lòng hơi sợ hãi, xem ra chế độ pháp chế xã hội chủ nghĩa vẫn tốt hơn! Thi đại học có quay cóp, nhiều nhất cũng chỉ bị hủy tư cách thi, ở đây làm giả coi như phải lấy mạng mà đền, mình vẫn chưa nghĩ kỹ điều này. Sáu năm không tiếp xúc với xã hội bên ngoài, giam mình trong mảnh trời cỏn con như ếch ngồi đáy giếng. Hình pháp ở đây không giống xã hội hiện đại, giai cấp đặc quyền cũng khác, một người thợ ở đây dù khéo tay nếu không cẩn thận cũng bị mất mạng như chơi. A La hầu như không có niềm tin tiếp tục ở lại thế giới này, cảm thấy mình hoàn toàn bất lực, đành để cho người khác h.ãm hại.

Thất phu nhân thấy sắc mặt A La xanh xám, vội an ủi: “Dù gì cha con cũng là tả thừa tướng đương triều, nếu chuyện bại lộ, có thể nói thác là đại tỷ bị bệnh đột ngột, con còn nhỏ, thay tỷ tỷ đánh đàn, một là tình nghĩa chị em, hai là sợ tướng phủ mất mặt”.

A La nhìn đăm đăm thất phu nhân, nói: “Vậy còn Quyên Nhi, liệu có bị làm sao?”.

Thất phu nhân sợ A La lo nghĩ, lại an ủi: “Mẹ chỉ lo xa vậy thôi, chưa chắc đã có chuyện gì”.

A La hỏi nhỏ: “Con không biết quý tộc Phong thành có thế lực đến đâu, nếu họ muốn một a hoàn, người khác không cho, họ có đi cướp không? Nếu thấy ai ngứa mắt liệu có giết không”. Nàng bỗng lại nghĩ tới những lời Lưu Giác nói muốn tìm nàng, đưa về phủ, buộc nàng vào khuôn phép.

Thất phu nhân lại thở dài: “Không cướp công khai, nhưng bí mật thì ai biết? Năm xưa mẹ...”. A La ngạc nhiên nhìn thất phu nhân: “Năm xưa mẹ thế nào?”.

Thất phu nhân nhìn ra khóm hải đường trước sân, ánh trăng đổ bóng hải đường xuống mặt đất, lốm đốm lay động, cô quạnh như đời bà: “Năm xưa mẹ nổi tiếng nhất Uyển hoa lầu, gặp một khách nhân, hai bên tâm đầu ý hợp đã hẹn ước vào mùa hoa nở chàng sẽ bỏ tiền chuộc mẹ ra, hai người cùng sống bên nhau... Cuối cùng chàng đã chuộc được mẹ, nhưng lại bị đột tử ngay trong đêm đó, mẹ cũng bị đánh thuốc mê... tỉnh lại đã là thất phu nhân trong Lý phủ... thậm chí kẻ thù là ai mẹ cũng không biết. Cha con sủng ái mẹ ít ngày, thấy mẹ lạnh lùng cũng không hứng thú... Cứ như vậy mẹ thui thủi trong khu nhà này mười bốn năm”. Thất phu nhân giọng bình tĩnh, không còn xúc động, nhưng nỗi oán hờn vẫn không thể che giấu.
 
A La nghe vậy buồn nản vô chừng, đột nhiên nghĩ đến số ngân lượng lấy được của Lưu Giác, vội đưa ra cho thất phu nhân: “Chúng ta có thể bỏ trốn không, chỗ bạc này đủ để cho chúng ta sống chứ?”.

Thất phu nhân kinh ngạc nhìn số ngân phiếu: “Tam Nhi, ở đâu ra số bạc này, sao lại nhiều như vậy?”.

A La đành phải kể đầu đuôi câu chuyện gây sự với Lưu Giác thế nào. Thất phu nhân càng nghe mặt càng tái nhợt, đến đoạn A La xé áo chùng của Lưu Giác trói vào gốc cây, lấy bạc của người ta, mắt vừa đảo liền ngất xỉu. A La sợ hãi mặt trắng bệch, vội ấn mạnh đầu ngón tay vào huyệt Nhân Trung của phu nhân. Hôm nay nếu không ra khỏi phủ thì đã không xảy ra chuyện gì, nếu không thấy vẻ tội nghiệp của Thanh Lôi đã không đánh đàn, tướng phủ mất mặt, Lý Thanh Lôi mất mặt không can hệ đến mình. Còn nữa, nếu không gây chuyện với Lưu Giác có phải tốt không. Nhưng hối hận thì ích gì?

Thất phu nhân một lúc lâu sau mới từ từ mở mắt, thấy ánh mắt lo âu của A La nhìn mình, choàng tay ôm chầm nàng bật khóc: “Tam Nhi, phải làm thế nào bây giờ?”.

A La nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, phân tích tình hình với thất phu nhân: “Mẹ à, tiểu vương gia của An Thanh vương không biết con là ai. Đào hoa yến hôm nay cũng không ai biết tam tiểu thư của Lý phủ cũng đến, con vẫn cải trang thành tỳ nữ. Con nghĩ sau khi cha suy tính lợi hại, quyết không để con làm hỏng ý đồ bấy lâu của cha, rắp tâm gả Thanh Lôi cho thái tử, ông ấy sẽ tìm mọi cách giấu nhẹm mọi sự. Thanh Phỉ hôm nay cũng nói chuyện rất vui vẻ với Thành Tư Duyệt, một trong năm công tử Phong thành, nếu Lý phủ xảy ra chuyện xấu, tiền đồ như gấm của tân nương trạng nguyên liệu có còn? Cho nên Thanh Phỉ và tứ phu nhân cũng sẽ không nói ra. Còn con, rút cục vẫn là con gái ông ấy. Chỉ lo cho Quyên Nhi không trụ nổi, hôm nay con phải nhắc nó mới được, tốt nhất nên bỏ trốn”.

Thất phu nhân kéo tay A La: “Tam Nhi à, Quyên Nhi cũng chạy không thoát, gia nô bỏ trốn nếu bị bắt lại càng thê thảm, đa phần đều bị đánh chết”.
 
Đánh chết? A La kinh ngạc, vô cùng hối hận. Do sự xúc động và bất cẩn nhất thời của mình làm hại Quyên Nhi, chưa bỉết chừng Quyên Nhi sẽ mất mạng, mà mình lại không thể nào ngăn cản. Nàng thầm quyết tâm, sau này phải bớt nôn nóng bớt kiêu ngạo, nhất định không được đem quan điểm của người hiện đại áp dụng ở xứ này, làm việc gi cũng phải suy tính thận trọng.

Lúc đó Tiểu Ngọc vào báo, đại phu nhân và hai tiểu thư đã về, lão gia mời thất phu nhân và tam tiểu thư qua đó. A La nhìn thất phu nhân, nói: “Mẹ nhất định phải tỏ ra không biết chuyện gì, thêm một người biết là không hay”.

Thất phu nhân lại rơi lệ: “Tam Nhi, con mới mười hai tuổi, những chuyện lớn như thế này sao mẹ có thể để mình con đứng ra gánh vác?”.

A La lau nước mắt cho mẹ: ‘‘Con có thể giả bộ ngây ngô, vì con còn nhỏ, họ cũng không đề phòng nhiều. Nhưng nếu mẹ biết, họ sẽ cảnh giác với mẹ, vì vậy, mẹ càng thêm nguy hiểm. Mẹ cứ nói con về nhà kêu đau đầu đi ngủ ngay, vừa rồi mới đánh thức”.
 
Khi vào đến phòng lớn, chỉ có Lý tướng và đại phu nhân. Thất phu nhân cùng A La cúi chào. Lý tướng thở dài: “Ngọc Đường, nàng giấu ta làm ta khổ sở! Ta vốn rất ngạc nhiên, năm xưa ngón đàn của nàng nức tiếng Phong thành, tại sao không dạy được con gái?”.

A La đang định nói, thất phu nhân đã tranh trả lời: “Lão gia, là thiếp không muốn A La bộc lộ, để còn dạy thêm, mong có ngày vừa ra mắt đã thành danh”.

Đại phu nhân lao như tên về phía trước, tay vung lên, một cái tát vào mặt thất phu nhân: “Tiện nhân! Thế nào là vừa ra mắt đã thành danh! Hôm nay A La đã thành danh, nổi tiếng rồi đấy”.

Thất phu nhân ôm mặt cười: “Con gái bọn họ được tìm đám tốt, sao con gái tôi không thể!”. Thất phu nhân cười, quay người lườm A La lúc này đang hận run người, nhất định không cho nàng nói.

A La quỳ sụp xuống: “Là con đã sai, hôm nay con không nên đánh đàn giúp đại tỷ!”. Bây giờ chỉ có thể tỏ ra nhún nhường, nhưng lòng nàng bừng bừng uất hận, hận là không thể xông ra quật đại phu nhân và Lý tướng xuống đất.

Lý tướng nãy giờ vẫn mặt lạnh quan sát, bỗng cười ha hả: “Ai bảo con sai? Nếu con không đàn khúc đó, thái tử có thích Thanh Lôi không, A La công con lớn lắm!”. Đoạn giơ tay đỡ A La đứng dậy, rồi ôm vào lòng, nhẹ nhàng xoa đầu nàng: “Cha chỉ giận mẹ con giấu cha mà thôi, cha rất vui, thì ra A La của cha cũng là giai nhân có tiếng đàn tuyệt mỹ vô song!”.
 
Lưng A La dựng chân lông, da gà nổi từng đám, lòng bừng bừng phẫn hận. Biểu hiện của Lý tướng có khác nào cái mặt hỉ hả của gã lái buôn phát hiện món hàng trong tay mình có thể bán được giá hơn? Mình quyết không làm một món hàng để Lý tướng cầu vinh! Chủ ý đã định, nàng nén nước mắt ngẩng đầu nhìn Lý tướng nói: “Mẹ cũng chỉ nghĩ cho A La thôi, cha đừng trách mẹ. Huống hồ A La chỉ biết chơi đàn, thi họa thơ từ không học nổi một phần của mẹ, nếu cha vui, A La sẽ nhờ mẹ dạy từng thứ một”. Giọng A La rất dịu dàng, nước mắt đã đầm đìa.

Lý tướng nhìn đôi mắt đẫm nước của nàng, cười ha hả: “Thế mới là con ngoan của cha. Sau này không được giấu cha điều gì biết không! Rất tốt!”.

Đại phu nhân thừa cơ mới nói: “Thiếp sợ nhất công chúa và thái tử biết chuyện sẽ trách tội. Thất muội à, lúc đó A Lôi không có ý tranh giành, A La cũng chỉ vì không muốn tướng phủ mất mặt ở hội yến, cũng là tốt, nhưng nếu chuyện lộ ra phải làm sao!”.

“A La từ nay sẽ không chơi đàn nữa, đằng nào cũng không ai biết nó biết chơi đàn. Các thứ khác sẽ học thêm ít nhiều, tin là cũng không đến nỗi”. Thất phu nhân lập tức tiếp lời.
Lý tướng gật đầu: ‘‘Cũng được, có Thanh Lôi giỏi đàn, Thanh Phỉ giỏi thư họa là được rồi. A La, vậy con hãy theo mẹ học ngâm thơ đi”.

A La thấy ánh mắt gian giảo của Lý tướng nhìn bàn tay mình, liếc đảo lia lịa, bỗng dưng sợ hãi vô cùng, mới bật lên tiếng: “A La còn biết thổi sáo! Mẹ nói con cũng có năng khiếu về nhạc lý, đang định dạy con”.
 
Ánh mắt Lý tướng cuối cùng dịu đi: “Tốt, biết ngâm thơ, biết thổi sáo, cũng tốt”.

Cuối cùng A La đỡ thất phu nhân ra khỏi phòng, lại nghe giọng Lý tướng lạnh lùng: “Ngọc Đường, nàng nhớ dạy A La cho tốt, nó còn nhỏ nhiều chuyện chưa hiểu, nhưng nàng thì hiểu”.

Thất phu nhân cúi đầu vâng lời.

Trở về Đường viên, A La ứa nước mắt, bất luận trong thời hiện đại hay cổ đại chưa bao giờ nàng khiếp sợ như hôm nay. Ngay cả khi lúc bỗng dưng bị quay trở về quá khứ kỳ dị này, nàng cũng chưa từng cảm thấy nỗi sợ hãi rõ ràng khủng khiếp như vừa rồi. Nếu không nói ra là mình biết thổi sáo, đôi tay này liệu có bị Lý tướng làm cho tàn phế? A La càng nghĩ càng thấy kinh sợ, liên tục tự nhủ, mình phải động não suy nghĩ tìm cách thay đổi cục diện bị động này.

Trong ngôi lầu ba tầng ở vạt rừng góc đông bắc phủ An Thanh vương đèn thắp sáng trưng, phòng yên ắng không một tiếng động. Nghe nói trong vương phủ từng có một a đầu tò mò, khi đi qua vạt rừng ở Tùng phong đường, nhìn thấy một con thỏ chạy vào đó, bèn đuổi theo, rồi không thấy ra. Người trong phủ coi nơi đây là cấm địa, thường đi đường vòng, không dám qua đó.

Tiểu vương gia từng vời Hồng Ngọc vốn là đào nương nổi tiếng nhất Vân hoa lầu đất Phong thành vào Tùng phong đường ca hát. Hồng Ngọc trở về kể, tiểu vương gia đãi khách rất mực hào phóng lịch thiệp, lầu gác thanh tĩnh trang nhã. Vậy là Tùng phong đường trở thành giấc mộng đẹp của biết bao thiếu nữ Phong thành mơ tưởng cuộc sống lứa đôi ở đó cùng với tiểu vương gia.
 
Lúc này tiểu vương gia đang vẽ, tỳ nữ Tư Họa chăm chú mài mực, hoàn toàn để tâm vào thỏi mực và đài nghiên, tay đưa đều đều, chậm rãi, cố không để một tia mực bắn ra ngoài, không để phát ra một tiếng động dù nhỏ.

Lưu Giác đang phác họa một thiếu nữ, tà váy dài bay bay, một phần tà váy bị chặn bởi miếng ngọc bội với những tua rua đeo trên eo. Một thân hình uyển chuyển, cổ cao thon thả, bờ vai mảnh dẻ, mái tóc cuốn cao như mây khói, cài chiếc trâm ngọc hình đóa hoa lan, phong tư trác việt, chính là dung mạo của Cố Thiên Lâm, thiên kim của Cố gia.

Lưu Giác hài lòng ngắm nghía, lại nâng bút trầm ngâm, vẽ đôi mắt trên khuôn mặt mỹ nhân. Người ta bảo họa long điểm nhãn, dưới nét bút của Lưu Giác, Cố tiểu thư sống động như sắp bước ra từ bức họa. Trong đầu chàng không hiểu sao vụt hiện lên một đôi mắt lóng lánh như nước mùa thu, chàng khẽ chớp mắt lại hình dung ra đôi mắt Cố Thiên Lâm, lập tức hạ bút. Khi bức họa hoàn thành, ngắm nghía hồi lâu, tay cầm bút ngẩn ngơ, sao mình lại vẽ mắt a đầu đó nhỉ?

Nữ tỳ Tư Họa liếc trộm bức vẽ, thầm nghĩ, một cô nương thật kiều diễm, chỉ có đôi mắt sao lại có phần hoang dã, long lanh như biết nói, cứ như không phải sinh ra trên khuôn mặt đoan trang hiền thục như vậy của tiểu thư Cố Thiên Lâm.

Khóe mắt Lưu Giác bắt gặp cái nhìn của Tư Họa, thấy bức vẽ như vậy lại bị đôi mắt làm cho thiếu hài hòa, chàng giơ tay định vò nát, ánh mắt lại chạm vào đôi mắt lóng lánh trong đó, bèn dừng lại, ngắm nhìn hồi lâu, đoạn sai Tư Họa: “Hồ giấy lại cho cẩn thận..”.

Tư Họa cúi đầu vâng lời.
 
Ngón tay Lưu Giác gõ nhẹ trên án thư hồi lâu, bỗng nói: “Tân khách đến dự Đào hoa yến có bao nhiêu nhà mang theo a đầu, tỳ nữ? Hả?”.

Lưu Anh đã quỳ bên ngoài đúng một canh giờ, vừa thấy tiểu vương gia mở miệng, lập tức trả lời: "Công chúa mời bảy hộ thân vương, bốn hộ nội quyến của đại thần trong triều, a đầu, tỳ nữ mang theo tổng cộng năm mươi bảy người, còn mời thêm hai mươi ba công tử Phong thành, ai cũng mang theo a đầu, tỳ nữ. Tổng cộng có năm mươi bảy người đi theo, thuộc hạ đã tra kỹ từng người, không có cô nương đó. Công chúa có tám nô tỳ theo hầu, biệt uyển có một trăm bốn mươi sáu nữ tỳ cả thảy, cũng không có người nào như thế ”.

Lưu Giác càng nghe mặt càng khó chịu, trong một ngày nàng ta hai lần ra tay với chàng, vậy mà không sao tìm ra? Đường đường là tiểu vương gia của An Thanh vương mà bị nàng ta đánh ngất trói vào cây, còn cướp mất ngân lượng, chuyện mà đồn ra chẳng thà nhảy xuống sông Đồ Ninh chết cho rồi.

Lưu Anh nhìn những đường gân nổi lên trên bàn tay tiểu vương gia, lòng biết đây là nỗi nhục lớn của chúa thượng, vậy mà lúc đó mình lại đứng một chỗ nghi ngờ chúa thượng có tà ý, nhưng mà cũng không thể trách mình, với thân thủ của chúa thượng, sao có thể bị một tiểu cô nương đánh ngất? Bây giờ lại không tìm ra người. Lưu Anh suy nghĩ đắn đo, đoạn mạnh dạn nói: “Bẩm chúa thượng, liệu có phải là con gái các phường săn ở thôn bản quanh đây?”.

Lưu Giác trợn mắt: “Tra xem!”.

Lưu Anh cúi đầu vội vàng đi ra.
 
CHƯƠNG 5



Tiền chi tiêu hàng tháng của thất phu nhân và A La cộng lại không quá mười lạng bạc, tằn tiện mới đủ trang trải cho cả Đường viên. Từ khi Lý tướng biết Thanh La không phải hạng bất tài, tiền chi tiêu tháng tăng vọt lên đến hai chục lượng. Thất phu nhân xem kỹ tấm ngân phiếu lấy được của Lưu Giác, không có ký hiệu gì đặc biệt, liền giao cho vú Trương lén tìm người đổi tiền, được hơn bốn trăm lượng, so ra thật là một trời một vực, công tử nhà giàu giắt túi sơ sơ cũng mấy trăm lạng bạc, đủ cho bốn người của Đường viên ăn trong vài năm. A La nhất quyết cho rằng, có tiền mới dám mạnh mồm, đi đến đâu, đồng kẽm có ô vuông cũng là quan ngoại giao tốt nhất, vậy là quyết chí ra khỏi phủ tìm cơ hội kiếm tiền.

Thất phu nhân buồn rầu nhìn A La: “Tháng sau con mới tròn mười ba, ngày thường không ra khỏi nhà, sao mẹ có thể yên tâm?”.

A La đáp: “Những ngày qua con cũng được nghe nhiều về phong thổ nhân tình của Phong thành, cũng lén đọc khá nhiều thư tịch, không đến nỗi chẳng biết gì về Ninh quốc, huống hồ, đầu óc của A La đâu có giống đứa trẻ mười ba?”.
 
Thất phu nhân vẫn không yên tâm, A La cũng hết cách, bèn kéo phu nhân đến rừng trúc. Khi nàng vận nội công dùng tay chẻ toác một cây tre to ngay trước mặt bà. Lại tung một loạt quyền cước, đòn ra đến đâu, lá trúc bay rào rào, trông rất khí thế, thất phu nhân mới sửng sốt. A La cười kéo tay mẹ: “Lúc nhỏ có lần không ngủ được, con chạy ra vườn chơi, gặp một đại thúc tinh thông quyền cước, ông ấy dạy con, dạy xong thì đi, dặn không được nói với bất kỳ ai. Mẹ à, trong phủ này cũng chỉ có mình mẹ biết. Lần trước, tiểu vương gia của phủ An Thanh vương đã bị con một chưởng đánh ngất xỉu”.

Thất phu nhân giơ tay bịt miệng A La, nhìn vẻ dương dương đắc ý của nàng, vừa bực vừa buồn cười vừa vui: “A La, thế này được rồi, nếu quả thực không ổn, con rời tướng phủ xem ra cũng có thể một mình bỏ trốn”.

A La ôm mẹ: “Đã đi thì cùng đi, con quyết không để mẹ một mình ở đây”. Trong thế giới kỳ dị này thất phu nhân là hồi ức ấm áp nhất của nàng. Con người không phải cỏ cây, bảy năm chung sống, A La đã coi thất phu nhân, vú Trương và Tiểu Ngọc là người thân.

Tiểu Ngọc đã mười bốn, thất phu nhân đưa cho một trăm lạng bạc, để sau này rời phủ có chút lưng vốn, rồi tìm người tử tế xây dựng gia đình, Tiểu Ngọc không chịu, quỳ khóc nói: “Tiểu Ngọc không người thân thích, năm xưa thất phu nhân cho ngân lượng để Tiểu Ngọc mai táng cho mẹ, bây giờ phu nhân bảo con đi đâu?”.

Thất phu nhân nói: “Ở mãi trong phủ sẽ lỡ dở chuyện cả đời”.

Tiểu Ngọc chỉ lắc đầu: “Phu nhân, tiểu thư đã coi Tiểu Ngọc như người nhà, cứ cho con ở lại, tiểu thư vẫn còn nhỏ”.

A La đỡ Tiểu Ngọc đứng dậy: “Sau này Tiểu Ngọc là tỷ tỷ của ta, chúng ta là người một nhà, ta đi đến đâu cũng không bỏ tỷ”. Từ hôm đó, thất phu nhân bắt đầu dạy Tiểu Ngọc thổi sáo, đề phòng có ngày A La ra khỏi phủ, Tiểu Ngọc có thể đứng trong rừng trúc thổi sáo đánh lừa tai mắt của mấy bà phu nhân.
 
Sau khi hứa với Lý tướng sẽ chuyên tâm học thổi sáo, A La thường dậy sớm vào rừng trúc tập luyện. Rừng trúc vắng vẻ, không khí thanh tĩnh trong lành, chim chóc ríu rít, không ai quấy rầy.

Hôm đó, nàng vừa thổi một lúc chợt nghe có tiếng tiêu từ bên ngoài vọng vào, hòa tấu với tiếng sáo của nàng. A La giật thót, tiếng tiêu vẫn tiếp tục. Nàng chầm chậm thổi hết một khúc, buông cây sáo, tiếng tiêu bên ngoài cũng nhỏ dần, rồi dứt hẳn .

Tiếng tiêu đó xuất hiện khoảng một tháng sau khi A La đến rừng trúc tập sáo. Sau đó sáng sớm mỗi ngày khi nàng đến đây luyện sáo, tiếng tiêu lại cất lên hòa tấu. Lúc đầu tiếng sáo của A La chưa thành thục, dần dần càng hòa hợp với tiếng tiêu. Thất phu nhân an ủi nàng: “Tam nhi, tiêu sáo đều cùng một họ, con chơi đàn đã vượt qua mẹ năm xưa, sáo cũng học rất nhanh, đủ để đối phó với cha con rồi”.

Từ đó A La không bỏ nhiều công sức luyện sáo nữa, chỉ cần có thể giao lưu là được. Nàng nghĩ, phải ra ngoài xem xét mới nhanh chóng thông thuộc Phong thành, mới dễ tìm lối thoát.
 
Tường bao quanh tướng phủ cao tám thước, xây bằng gạch xanh, không hề có kẽ hở. Tiểu Ngọc đứng canh bên ngoài rừng trúc, hai bên thỏa thuận nếu có tình hình sẽ dùng tiếng sáo làm hiệu. A La thong thả đi về phía bức tường bao sau rừng trúc. Thận trọng men theo tường đi một vòng, không phát hiện thấy lối ra, rủa thầm giá lúc này gặp công trình rởm như thời hiện đại có phải tốt không! Đang lúc thất vọng, đột nhiên nhìn thấy bên cạnh tường có mấy đống đá chỏng chơ, đoán là chỗ đá thừa khi xây tường. Đá chất đống đã lâu, bên trên rêu cỏ mọc đầy.

Nàng xắn tay thử bẻ một phiến, đá vỡ dù bé, nhưng phiến to cứng hơn năm chục ký. A La hít một hơi cố sức nhấc, phiến đá chỉ hơi nhúc nhích. Lòng mừng thầm, nhớ kỹ vị trí, đi ra khỏi rừng trúc, mỉm cười với Tiểu Ngọc.

Ngày hôm sau, thất phu nhân đích thân đứng canh bên ngoài rừng trúc, A La và Tiểu Ngọc đem theo hai cái gậy đến chỗ đống đá hôm trước. Tiểu Ngọc nhìn đống đá không biết làm gì: “Tiểu thư, chỗ đá này phải mấy người đàn ông khỏe mới chuyển đi được, chúng ta có làm được không?”.

A La cười: “Chúng ta bẩy, không cần dùng quá nhiều sức lực. Archimedes nói, cho tôi một điểm tựa tôi sẽ nâng cả trái đất, mấy hòn đá này có là gì”.

Tiểu Ngọc nghe mù tịt: “Trái đất gì? Archimedes gì, tiểu thư nói gì vậy?”.

A La cười khanh khách: “Không cần phải hiểu, cứ làm theo ta”. Sau đó dạy Tiểu Ngọc dùng gậy tre luồn dưới tảng đá, tìm một hòn đá khác kê dưới gậy, A La ra sức ấn cây gậy, bẩy tảng đá lên, Tiểu Ngọc ở phía trước đẩy, tảng đá nhích dần từng tý tới bên tường.
 
Tiểu Ngọc vui mừng vỗ tay, A La suỵt một tiếng, hai người chuyển một hòn đá nhỏ hơn bắt đầu kê xếp.

Mấy ngày sau, khi thất phu nhân đến bên tường, chỉ nhìn thấy mấy khóm trúc và đám dây leo, không có đường ra ngoài phủ. Đang buồn, A La đã kéo bà quay ra sau, đống đá đã được xếp từng bậc cao dần sát tường, đi theo các bậc đó, dễ dàng trèo lên mặt tường.

Thất phu nhân và A La thử ngó ra. Bên ngoài có một con đường nhỏ, tiếp nữa là một dòng sông. Xung quanh không có ai, hai người cười thầm từ trên mặt tường nhảy xuống, vòng ra phía trước. Thất phu nhân thốt lên: “Đứng ở chỗ này chẳng thấy dấu vết gì”.

A La đắc ý cười: “Con và Tiểu Ngọc đã mất bao nhiêu công sức lấy dây leo che lên đấy”.
Trở về phòng, thất phu nhân bắt đầu vẽ sơ đồ trong phủ, phán đoán con sông bên ngoài là từ núi Ngọc Tượng trong vương cung chảy ra, ra khỏi đông môn, nhập vào sông Đô Ninh. Thất phu nhân còn vẽ cả bản đồ Phong thành theo trí nhớ.

A La kết hợp sơ đồ do thất phu nhân vẽ và những điều đọc được trong sách, mới có sơ đồ toàn cảnh của Phong thành.

Phía nam ngoài Phong thành là sông Đô Ninh. Phía tây là bình nguyên, đi thẳng mãi về phía tây sẽ đến Khởi quốc. Phía đông là núi Ngọc Thúy, biệt uyển Thập Thúy sơn trang của Hộ quốc công chúa xây dưới chân núi, lâm viên của hoàng gia cũng ở đó. Vượt qua núi Ngọc Thúy là khu rừng rậm Hắc Sơn bạt ngàn, tiếp đến là bình nguyên Mãng Độ, cũng chính là biên giới giữa Ninh quốc và An quốc, đi tiếp về đông là biển Nguyệt Ly mênh mông.
 
Phía bắc Phong thành là dãy Ngọc Tượng. Vương cung xây dựa vào núi, các đỉnh núi thuộc dãy Ngọc Tượng cao chót vót chạm mây, quanh năm tuyết phủ, tuyết tan tạo thành suối Toái Ngọc, bốn mùa không bao giờ cạn, chảy qua vương cung ra ngoài, lại phân lưu thành những nhánh nhỏ chảy vào thành làm nguồn nước, phía sau dãy Ngọc Tượng cũng là rừng rậm, đi tiếp là biên giới với An quốc.

Phía nam qua sông Đô Ninh, qua mười ba trấn là đến Hán Thủy, tiếp đến là Trần quốc. Phía tây nam cách Hán Thủy là Hạ quốc.

Phong thành chỉ có ba cổng lớn, tựa núi kề sông vững chãi. Cách An quốc một khu rừng rậm, là không còn phải lo gì nữa. Phong thành là tuyến phòng thủ cuối cùng của Ninh quốc. Ninh quốc phồn thịnh thanh bình, mấy chục năm không xảy ra chiến tranh.

Từ vương cung có một con đường thẳng tắp dẫn tới cổng bắc Phong thành, đoạn đường trong thành lại gặp con đường thông với cổng đông bắc. Phong thành tự nhiên được chia thành bốn khu. Phía tây bắc là khu cung thất và công đường; đông bắc là cung thất của hoàng thân, đại thần và công quán của sứ thần các nước, đây là khu vực giàu sang; tây nam là khu thường dân; đông nam là khu thương mại.

Trong các khu chỗ nào cũng trà quán, tửu lầu, quán cơm chi chít như bàn cờ. Khu thương mại là nơi ăn chơi giải trí phong lưu, ở đây có dinh thự lộng lẫy của thương gia, các tửu quán, lầu xanh, ngoại thương quán xa hoa cao cấp nhất. Ra khỏi cửa nam, trên sông Đô Ninh thuyền hoa dày đặc. Tóm lại, đây chính là đô hội quốc tế lớn sầm uất náo nhiệt, được phân chia chức năng rõ ràng.

A La ra ngoài, đầu tiên đi tham quan khu thương mại. Nàng cần kiếm tiền, cần thu thập thông tin, cần tìm hiểu phong tục tập quán của một nơi xa lạ. Những nơi chưa phát triển luôn tàng ẩn thể giới đào viên. A La tin là nàng nhất định tìm được. Lúc này nàng không mong lập nên nghiệp lớn ở thế giới cổ đại, chỉ muốn sống yên ổn, có thể tự quyết định mọi chuyện của mình.

Hôm đó Thanh La dậy sớm, bên trong mặc áo ngắn bó sát, bên ngoài choàng áo chùng rộng màu bạc, tóc cột chặt, thắt đai lưng gọn gàng, soi gương thấy một tiểu nam nhi mặt mày khôi ngô, ngũ quan rạng ngời như ngọc.

Thất phu nhân giúp nàng dùng bột nâu bôi những chỗ lộ d.a thịt, tô đậm lông mày. A La ép cho giọng nói thấp trầm, sải bước dài, sao cho dáng điệu cử chỉ không còn vẻ yểu điệu của một tiểu thư khuê các. A La rất vừa ý, thất phu nhân tạm yên lòng, cười nói: “Nếu không phải là người quen, nhất định không nhận ra con là gái”.
 
Lần đầu hành động cảm giác có chút xúc động, căng thẳng, A La nhẹ nhàng vượt qua tường, rồi rút thang dây giấu kỹ, bụng nghĩ, như thế này đơn giản hơn cả leo núi. Nếu biết khinh công nữa thì tốt, bay đi bay lại tự do quá. Nghĩ đến tài khinh công của Lưu Giác, A La bất giác thấy ngưỡng mộ vô cùng, nếu không có chuyện với nhau, tìm chàng ta làm sư phụ thì tốt quá.

Sau khi tiếp đất bình an, xác định phương vị, A La rảo bước đi về khu thương mại, nhìn con sông nhỏ phía xa, lại đổi ý. Đi đến một góc vắng của tường viện, lấy sáo thổi khúc bình an thường ngày vẫn hòa tấu với tiêu. Tiếng sáo vừa vang lên, A La chú ý nhìn quanh, lát sau đã thấy tiếng tiêu vọng đến. Nghiêng tai lắng nghe, chính là từ phía sông vọng lại, bèn cất sáo đi về phía đó.

Tiếng sáo vừa dứt, tiếng tiêu liền ngập ngùng, cơ hồ cảm thấy lạ hôm nay sao tiếng sáo lại ngắn ngủi như vậy, sau đó lại tiếp tục vang lên.

A La đến gần bờ sông mới đi chậm lại, làm ra vẻ nhàn tản vãn cảnh. Không lâu sau nhìn thấy dưới rặng thùy liễu ven sông có một chàng trai đang ngồi, mình vận áo chùng màu tím, tay cầm cây ngọc tiêu. Thì ra người thổi tiêu là chàng ta, vì sao ngày nào cũng đến đây thổi tiêu? Chỉ vì muốn họa xướng với tiếng sáo của mình ư?

Cảm thấy phía sau có người, chàng trai quay đầu, thấy một tiểu công tử tuấn tú đang nhìn cây tiêu trong tay mình, bỗng bật cười: “Tiểu đệ đệ, đệ cũng thích tiêu ư?”.

A La nhìn chàng công tử tuổi chừng đôi mươi, lông mày dài hình lưỡi mác vếch đến tận tóc mai, ánh mắt thâm trầm, khóe môi thấp thoáng nụ cười mơ hồ, lại là một chàng thượng lưu. Nhìn diện mạo không phải hạng tiểu nhân, lại thêm chàng ta đã hòa tấu với mình lâu như thế, A La bỗng có thiện cảm, trả lời: “Tại hạ đi dạo bên sông, nghe tiếng tiêu du dương, lần theo tiếng ngọc đến đây, làm phiền công tử rồi”.

Chàng trai cười khe khẽ: “Đừng ngại, đừng ngại, hôm nay cũng chỉ một lát này thôi”.
 
A La cảm thấy chàng ta có gì buồn bã, biết đó là do không có tiếng sáo xướng họa, liền cười nói: “Tại hạ thích thổi sáo, liệu có thể cùng công tử hợp tấu một khúc?”.

Mắt công tử sáng lên vui mừng: “Tiểu huynh đệ cũng biết thổi sáo ư? Tốt quá!”.

Ngay lúc đó hai người lấy tiêu và sáo hòa tấu, hợp khúc vừa dứt, tình đã thêm phần gắn bó. Chàng công tử nhìn A La hỏi: “Gặp được tri kỷ lòng mừng khôn xiết, nhìn tiểu huynh đệ rất thân thiện, liệu có thể mời tiểu huynh đệ vào Thiên phong lầu hàn huyên chút đỉnh?".

A La nghĩ, Thiên phong lầu có lẽ là những nơi có trà quán, tửu lầu, vừa hay đang muốn đi, có người bạn đường càng tốt. “Đệ tên La Sơn, còn quý danh đại ca?”. A La tự nhiên thắt chặt chêm quan hệ.

Công tử cười nói: “Tốt, hôm nay không chỉ gặp tri kỷ lại quen thêm một huynh đệ, ta họ Trần, đệ cứ gọi Tử Ly cũng được, đại ca cũng được”.

A La thân thiết gọi đại ca. Hai người vừa đi vừa trò chuyện, A La vui mừng phát hiện vị đại ca mới quen này rất thông thạo Phong thành, theo chàng ta coi như có người hướng dẫn, có một tấm bản đồ sống, tự chúc mừng đã gặp vận may. Ở nơi lạ nước lạ cái này, có một người bạn quý biết bao, hơn nữa người bạn này xem ra cũng là một anh chàng đẹp trai đứng đắn. A La che miệng, cười thầm.

Hai người men bờ sông theo hướng đông, lên mặt đê, đã thấy quán trà, A La lần đầu tiên đi trên đường phố của Phong thành, nhìn gì cũng mới lạ, cái gì cũng hiếm gặp, đầu ngó nghiêng hai bên, không muốn bỏ sót thứ gì, quay đầu nhìn, hai người đã cách khá xa khu lầu gác cao cấp. Đột nhiên Tử Ly gọi nàng: “Sơn đệ, cứ đi thế này, tối mịt cũng không đến được Thiên phong lầu”.
 
A La đỏ mặt, ngẩng đầu nhìn: “Đại ca, Thiên phong lầu còn xa không?”.

Tử Ly đáp: “Cưỡi ngựa không đến hai khắc, đi bộ phải một canh giờ”.

A La bụng nghĩ, đi mất hai tiếng đồng hồ? Phong thành lớn thật, xem ra có ngựa là tốt nhất. Nói ngựa là ngựa đến, một tiếng ngựa hý vang, A La nhìn ra, thấy cái đầu ngựa to đùng đã thò ra trước mặt.

Tử Ly nói: “Ta cho gia nhân dắt ngựa đứng chờ ở đây, Sơn đệ có biết cưỡi ngựa không?”.

“Ngồi trên lưng ngựa để người khác dắt, có gọi là biết cưỡi không?”.

Tử Ly thấy ánh mắt lóng lánh, tinh anh nhìn mình không chớp, lòng thầm thốt lên, quả là một đôi mắt đẹp. Chàng nhanh nhẹn nhảy lên lưng ngựa, chìa tay cho A La: “Nào cùng cưỡi với đại ca”.

A La ngần ngừ nắm bàn tay chàng, thấy một luồng lực lớn xộc đến, người đã được kéo lên ngựa nhẹ tênh. Chàng ta cũng biết võ công? A La bất giác nhướn mày, hiệp khách giang hồ thời cổ đại sao mà nhiều đến thế.

Tử Ly cười: “Ngồi cho vững!”. Khẽ huýt một tiếng, con ngựa tung vó lao đi. A La nhắm mắt cố không để tiếng hét vọt ra khỏi miệng, tay nắm chặt cương, người hơi ngả về sau, cả người đã rơi vào lòng Tử Ly. Hơi thở nóng hổi trên đỉnh đầu, một giọng trầm dịu vang lên: “Đừng sợ, có đại ca ở đây, không rơi được đâu”.

A La dở khóc dở cười, huynh nói không sợ là không sợ hay sao. Nàng vẫn cứng người, toát mồ hôi lạnh, mỗi lần ngựa lồng lên là nàng hồn siêu phách lạc. Nhìn mọi thứ bên đường như bay về phía sau, cuối cùng nàng hét lên: “Đại ca, chậm một chút có được không!”.
 
Tử Ly nghe giọng nàng run run, biết đây là loại công tử nhà giàu được nuông chiều, nhát gan chưa bao giờ cưỡi ngựa. Nhìn thấy đã vào cửa thành phía đông, liền cho ngựa đi chậm lại: “Sơn đệ, bây giờ tốt rồi, để ngựa đi nước kiệu, đệ có thể cưỡi ngựa ngắm phố phường”.

Lúc này A La mới ngồi thẳng người, nhìn thấy con đường trước mặt có lẽ rộng đến hai, ba chục thước, thỉnh thoảng có cỗ xe ngựa đi qua cũng không cần tránh, dưới chân, mặt đường phẳng phiu, lát đá tảng xanh trơn nhẵn. Từ chỗ này có thể nhìn thấy khí thế của Phong thành. Hai bên đường vô cùng náo nhiệt, các quán ăn, bán đồ vặt, chỗ xem bói, chỗ vui chơi, tiếng hò reo không ngớt. Nhà cửa nhìn chung đều là lầu gác hai, ba tầng, dựng men theo mặt đường, san sát chen nhau. Dưới lầu là cửa hiệu, trên lầu hầu như đều là tửu quán hoặc trà quán, trên đường nam thanh nữ tú, tốp năm tốp ba qua lại tấp nập.

Tử Ly thúc ngựa đi về hướng nam, vào một con phố hẹp. Ở đây toàn những tòa lầu biệt lập, cây cối xanh um bao quanh một tòa lầu nhỏ. Đi đến trước một tòa lầu, A La ngước mắc nhìn thấy ba chữ màu đen nổi bật - “Thiên phong lầu”, biết là đã đến nơi. Tử Ly xuống ngựa, đón A La. Đi vài bước, cảm thấy mông hơi mỏi, không chịu nổi lấy tay khẽ xoa, thấy Tử Ly nhìn mình nửa cười nửa không, cảm thấy có phần tủi thân: “Đại ca phóng ngựa nhanh quá”.

Tử Ly nén cười: “Là đại ca không phải, xin lỗi tiểu đệ”.

A La bạo dạn, nói: “Tha cho huynh, ai bảo đệ không biết cưỡi ngựa”. Trước đây nàng chỉ ngồi lên ngựa có người dắt đi dạo trong những khu vui chơi, đương nhiên khó thích nghi khi ngựa phi như bay. Nghĩ tới sau này có thể có nhiều cơ hội cưỡi ngựa, bèn nói: “Hôm nào đại ca dạy đệ cưỡi ngựa được không?”. Tử Ly gật đầu, cảm thấy Sơn đệ này tính tình xởi lởi, lại thêm phần quý mến.

Hai người đi vào Thiên phong lầu. Tiểu nhị mắt sáng lên. Hàng ngày đón khách ở đây, dần dần cũng biết nhận định con người. Khách đến Thiên phong lầu đa phần thuộc hạng giàu sang. Hai người này, người cao phong độ quý phái, người thấp hơn có lẽ cũng là tiểu công tử nhà giàu. Vậy là tiểu nhị bước lên ân cần chào hỏi: “Xin mời hai vị công tử lên lầu”.
 
Quay lại
Top Bottom