Đại Việt du ký

Nhã Quân

Thành viên thân thiết
Thành viên thân thiết
Tham gia
17/8/2014
Bài viết
195
Thể loại: vượt thời gian, cảm hứng lịch sử

Tác giả: Hoa Tre aka Nhã Quân

Nhân vật chính: Các nhân vật không thuộc về tôi

Ai Haibara (nhân vật này không thuộc về tôi, cô ấy thuộc về Gosho Aoyama)

Công chúa An Tư, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật, tướng quân Nguyễn Khoái: Họ thuộc về lịch sử Việt Nam.

Warning: Câu chuyện này chủ yếu là hư cấu đến 90% dựa trên các sự kiện lịch sử có thật, vì vậy xin đừng đánh đồng nội dung truyện với những gì thực sự xảy ra cách đây mấy trăm năm. Do lịch sử là vấn đề nhạy cảm ở Việt Nam vì vậy để tránh gây phiền phức cho tác giả mong độc giả không tự ý post ở những trang khác mà chưa hỏi ý kiến của tôi. Xin chân thành cảm ơn! Tôi không viết chuyện này cho các sử gia, câu chuyện không có giá trị về mặt tra cứu.

Bối cảnh: Thời Trần (vua Trần Nhân Tông), từ năm 1280 đến năm 1288, thời gian xảy ra cuộc kháng chiến chống quân Mông- Nguyên lần thứ hai và lần thứ ba của Đại Việt

Mở đầu:

Bố mẹ nàng đều là những nhà khoa học tài ba xuất chúng nhưng họ lại lầm đường lạc bước phục vụ cho một tổ chức tội phạm độc ác bao trùm cả thế giới ngầm. Nàng và người chị gái từ lúc chào đời đã được mặc định phải đi tiếp con đường của cha mẹ. Nàng trưởng thành trong tổ chức đầy tội ác và bùn đen đó với mật danh Sherry. Sau cái chết của chị gái, nàng đã phản bội và chạy trốn khỏi tổ chức tội ác đó. Số phận sắp đặt, vận mệnh run rủi nàng gặp một người đồng cảnh ngộ và cũng chính là nạn nhân của loại thuốc độc mà nàng đã điều chế. Nàng có một cuộc sống mới với những người bạn nhỏ ngây thơ nhưng trong tâm, nàng vẫn chưa lúc nào ngừng lo sợ việc bị tổ chức phát hiện và truy sát, từng cơn ác mộng cứ ám ảnh nàng từng đêm từng đêm khiến nàng hoang mang. Tổ chức đó quá lớn mạnh, quá độc ác, nàng quá nhỏ bé không thể đấu lại với bọn chúng, đưa bọn chúng ra ánh sáng và bắt chúng chịu sự trừng phạt với những gì chúng đã gây ra. Nàng đã từng nghĩ như vậy.

Và rồi trong một lần đi cắm trại cùng bác Agasa và nhóm thám tử nhí, nàng không may ngã xuống vực thẳm sâu hun hút, nhưng nàng không chết mà vô tình trở về một trong những thời đại lịch sử của Việt Nam – thời Trần, cách đây hơn 700 năm. Tại đây nàng đã tận mắt chứng kiến một dân tộc nhỏ bé nhưng quật cường bất khuất đã anh dũng chiến đấu để bảo vệ đất nước trước vó ngựa tàn bạo của quân xâm lược như thế nào, đánh bại kẻ thù hùng mạnh là quân Mông – Nguyên – quân đội hùng mạnh nhất thế giới bấy giờ đã bành trướng chiếm lĩnh gần hết lục địa Âu Á khiến cho người người khiếp sợ phải thối lên rằng “vó ngựa quân Mông đi đến đâu, cỏ ở đó không mọc nổi”. Cái gì mà sử sách hay văn chương vẫn gọi là hào khí Đông A, cái gì là khí phách mây ngàn năm rung chuyển đất trời, nàng cuối cùng đã thấy.


Một công chúa thân phận cao quý, sinh ra và lớn lên trong nhung lụa gấm góc, kim chi ngọc diệp nhưng khi đất nước lâm nguy, vó ngựa quân thù sắp giày xéo tới kinh thành Thăng Long thân yêu, nàng gạt đi những giọt lệ vương nơi khóe mắt, nuốt nỗi đau từ bỏ mối lương duyên với người thương, tự nguyện chấp nhận đem tấm thân ngàn vàng làm một vật cống nạp cho Thái tử Thoát Hoan – kẻ chỉ huy quân đội sang xâm chiếm Đại Việt hòng kéo dài thời gian, làm chậm trễ việc kéo quân tấn công Thăng Long của quân giặc. Nàng ra đi vì nợ nước, một đi không trở lại, chấp nhận nhẫn nhục sống bên kẻ thù của dân tộc. Đằng sau vóc dáng mình hạc xương mai, liễu yếu đào tơ là một lòng yêu nước nồng nàn, một tinh thần kiên trung bất khuất, một nghị lực ý chí mạnh mẽ vận dời sao đổi khó có thể lay chuyển. Bởi:”Ta không chỉ là công chúa mà còn là con dân của Đại Việt”.
 

Đính kèm

  • tải xuống.jpg
    tải xuống.jpg
    7,7 KB · Lượt xem: 0
CHƯƠNG 1: Như cánh chim trời

Bầu trời trong xanh cao lồng lộng, chan chứa ánh nắng, những đám mây trắng bồng bênh lững lờ trôi phiêu đãng. Làn gió thổi nhè nhẹ len lỏi qua những tán lá cây tạo nên khúc nhạc đệm cho tiếng chim hót líu lo. Thật là một ngày đẹp trời để đi cắm trại. Sau một hồi loay hoay căng bạt, buộc dây, dựng cột, cuối cùng ông tiến sĩ béo tròn cùng Conan đã dựng xong lều tại một khu đất bằng phẳng giữa cánh rừng. Trong khi đó, như mọi lần đi cắm trại trước đây, Haibara cùng ba đứa nhóc đi kiếm củi khô
- A, các cậu ơi, có một cây cầu treo bắc sang bờ bên kia kìa. Bên đó có hang động kìa, Chưa biết chừng trong đó có kho báu đó – Thằng bé tham ăn nhất trong nhóm Genta reo lên thu hút sự chú ý của ba đứa trẻ.
- Chúng ta sang bên đó khám phá đi – Cô bé đeo bờm đỏ Ayumi và cậu bé mặt tàn nhang lên tiếng đồng tình.
Haibara nhíu đôi mày thanh tú, bọn nhóc này dường như trong đầu lúc nào cũng chỉ có hai từ kho báu, mà cũng phải chúng là trẻ con mà, đâu có giống mình. Nàng chưa kịp lên tiếng can ngăn thì thằng nhóc Genta bướng bỉnh đã đặt trên lên chiếc cầu treo chênh vênh giữa vực sâu. Chiếc cầu đơn sơ, cũng đã cũ kỹ mục nát bởi nắng gió mưa bão khắc ngiệt và phũ phàng của thiên nhiên và có lẽ do trọng lượng đáng kể của cậu mập nên bước thứ nhất Genta làm cây cầu kẽo kẹt lung lay, bước thứ hai dây thừng buộc ở cọc gỗ bên bờ vực dần dần nói lời chào tạm biệt với cái cọc, bước thứ ba dây thừng tuột hẳn một rơi không trở lại khiến một đầu chiếc cầu mất điểm tựa rơi xuống vực. Ơn trời. trước khi Genta rơi tự do theo một đầu của chiếc cầu treo kia, Haibara đã kịp túm lấy tay áo của cậu ta. Có lẽ do nhà Genta tích được nhiều phúc đức nên cậu mới gặp may như vậy. Hai đứa trẻ thấy tình thế nguy hiểm ngàn cân treo sợi tóc như vậy, vội vã buông đống củi khô vừa gom được xuống đất, hò nhau chạy đến hỗ trợ Haibara kéo bạn lên. Cậu nhóc cuối cùng an toàn, gương mặt tròn xoe tái xanh, mặt cắt không còn hột máu do vẫn chưa kịp hoàn hồn khi vừa thoát chết trong gang tấc. Có lẽ hôm nay là một ngày xui xẻo với bọn nhóc, khi mà chỗ bờ vực Haibara đang đứng bị sụt lở một cách bất ngờ khiến không ai kịp trở tay. Haibara chỉ cảm thấy đất dưới chân mình hẫng đi, chưa kịp hết ngỡ ngàng, thân hình nhỏ bé của nàng đã đang rơi xuống vực một cách chóng mặt. Những cành cây gai góc mọc nhô ra từ vách núi quệt vào người nàng đau buốt như xé ra xé thịt. Bọn trẻ hoảng hốt trước tai nạn xảy ra bất ngờ không kịp trở tay, chỉ còn biết trân trân nhìn bất lực vào thân ảnh đang bé dần của Haibara, rồi biến mất trong làn sương trắng mờ ảo dưới đáy vực.
- Haibaraaaaaaaaaaaaaa/Ai-channnnnnnnnn- Lũ trẻ gào khóc trong vô vọng.
Đúng lúc đó bầu trời đang trong xanh bỗng nhiên tối sầm lại, mặt trời bị che khuất. Nhật thực, là nhật thực toàn phần.
………………………………………..
Kinh thành Thăng Long, Đại Việt vào năm Canh Thìn (1280), niên hiệu Thiệu Bảo năm thứ hai dưới sự trị vì của vua Trần Nhân Tông[1].
Trên con đường lát đá xanh óng ánh từ chùa Diên Hựu[2] dẫn về Long Phượng thành[3] nổi bật một cỗ xe song mã sang trọng. Đôi tuấn mã thong thả bước dưới sự điều khiển khéo léo của phu xe, chiếc bờm tuyệt đẹp lắc lư theo nhịp bước chân. Đi song song hộ tống hai bên xe là một toán người mặc võ phục màu lục nai nịt gọn gàng, ngườu nào người nấy sắc mặt trang nghiêm, khí giới đầy đủ. Ngoài ra còn có hai tỳ nữ chừng mười tám đôi mươi mặc áo tứ thân màu hồng phấn. Người phu xe nhanh nhẹn kìm dây cương khiến đôi tuấn mã dừng lại khi thấy con đường trước mặt đang bị chặn. Không hiểu sao dân chúng đang hiếu kỳ vây quanh xem xét chuyện gì đó ngay giữa đường đi lối lại như thế này. Bằng một giọng kính cẩn, anh ta thưa với vị chủ nhân đang ngồi khuất sau tấm rèm cửa màu điều:
- Bẩm công….tiểu thư, không biết có chuyện xảy ra ở phía trước, người ta bu lại xem đông quá làm xe ngựa không đi được nữa. Để chúng thuộc hạ hỏi người dân xem có chuyện gì?
Đoạn nói rồi, một người trong đoàn hộ tống tên Trần Mạnh rảo bước đến đám đông nhốn nháo. Sau một hồi gắng sức len lỏi qua đám người hiếu kỳ, mồi hôi mồ kê nhễ nhại, cuối cùng anh ta cũng đã tường tận người ta đang xem cái gì. Ở giữa đám đông là một chiếc xe đẩy chất đầy tơ lụa quý giá và sa mỏng loại đắt tiền nhưng có điều một số cuộn đã bị nhàu nhĩ và trải dài vung vãi ra đất tạo nên một mỡ hỗn độn với những màu sắc sặc sỡ. Bên cạnh đó là một hán tử cao to mặc áo nâu sồng, mặt mày đang đỏ tía tai giống như gà chọi vì tức giận, hắn đang hung hãn nắm cổ áo một cô bé có mái tóc ngắn chừng 7 tuổi ăn mặc kỳ quái, miệng không ngớt chửi rủa. Không hiểu đầu cua tai nhiêu ra làm sao, Trần Mạnh quay sang hỏi một thiếu phụ đầu chít khăn mỏ quạ, vận áo tứ thân màu cánh gián bên cạnh:
- Có chuyện gì vậy thím?
- Chả là, vừa rồi trời hãn còn trong xanh rồi đột nhiên tối sầm lại, giữa bầu trời có một thứ đốm sáng kỳ quái lóe lên, rồi sau đó, cô bé kia không biết từ đâu rơi xuống, ngã đúng vào xe tơ lụa của gã này làm hỏng lụa của hắn, cho nên hắn đang rất tức giận đòi bồi thường. Đứa trẻ này lại làm như không hiểu lời hắn, còn trả lời bẳng tiếng gì đó xì xà xì xồ, quanh đây chẳng ai hiểu nổi. Gã kia tưởng cô bé cố tình trêu tức mình nên càng tức giận – Người thiếu phụ vừa bỏm bẻm nhai trầu vừa đáp. – Mà cũng may cho nó ngã đúng xe lụa này chứ ngã xuống đường thì không thiệt mạng thì cũng tàn…
Câu nói của người thiếu phụ bị cắt ngang bởi một tiếng rống giận giữ của gã hán tử nọ:
- Con ranh này, mày tính đùa với ông phỏng? Có đền tiền cho ông không thì bảo?
Biết mình càng nói càng khiến hắn nộ khí xung thiên, lửa giận phừng phừng như Hỏa Diệm Sơn nên Haibara đành theo phương châm im lặng là vàng. Nàng thực sự không hiểu chuyện gì đang xảy ra với mình. Nàng chắc chắn một điều là mình bị rơi xuống vực do bờ vực bị sụt lở bất ngờ. Cứ tưởng phen này chắc chắn bỏ mạng dưới vực sâu nhưng không biết là ông trời thương xót cứu giúp hay muốn trêu đùa nàng, lại khiến nàng rơi vào xe tơ lụa này. Sau giây phút thở phào nhẹ nhõm vì nhận ra mình vẫn bình an vô sự, chưa bị thịt nát xương tan thì nàng chợt ngơ ngác khi nhận ra kiểu kiến trúc cổ xưa với những mái ngói cong cong như mũi hài của nhà cửa đường phố xung quanh, người dân thì quần là áo lượt thướt tha. Mà khoan rõ ràng nàng rơi xuống vực sao giờ lại đang ở giữa phố xá đông đúc tấp nập người như chảy hội thế này. Còn chưa hết kinh ngạc và hoang mang cũng như hiểu chuyện gì xảy ra thì trái tim nhỏ bé của nàng suýt nữa bắn ra ngoài vì tiếng hét giận giữ của một người đàn ông. Ông ta nói bằng thứ tiếng nàng không hiểu nhưng nhác thấy những cuộn vải nhàu nhĩ, một số còn rơi xuống và vương vãi trên đất nàng cũng lờ mờ đoán được nguyên nhân. Nàng trèo xuống khỏi xe hàng, những vết thương do quệt phải cành cây lúc rơi xuống vực nhói lên đau buốt nhắc nhở nàng một điều những gì xẩy ra trước mắt là thật không phải mơ. Cố gắng trấn tĩnh bản thân, nàng cân nhắc việc trước mắt là cần giải quyết ổn thỏa chuyện với người chủ của đống tơ lụa đắt tiền đã bị nàng vô tình làm hỏng hàng rồi sau đó mới tìm hiểu xem rốt cục việc gì đang xảy ra: Rốt cục thì nàng đang ở đâu? Sao ở đây người ta lại ăn mặc như vậy? vân vân và mây mây, hàng chục câu hỏi đang xoay trong tâm trí nàng. Nàng nói tiếng Nhật, ông ta không hiểu, rồi nàng dùng tiếng Anh – thứ tiếng phổ biến được sử dụng rộng rãi trên thế giới nhưng ông ta vẫn không hiểu. Haibara rối bời, chẳng biết làm gì trong hoàn cảnh trớ trêu này, trên người nàng cũng chẳng có gì đáng giá để đưa cho kẻ đang bừng bừng lửa giận đến mức khói bốc trên đầu trước mặt. Muốn thương lượng một chút thì lại bất đồng ngôn ngữ.
Về phần gã chủ xe tơ lụa, do quá nóng giận, lại vốn là kẻ vũ phu thô lỗ cục tính, hắn giơ tay toan cho một cái tát trời giáng vào gương mặt cô bé đáng thương. Haibara chắc mẩm phen này mình không sái quai hàm thì cũng hộc máu mồm, nhưng vào lúc cánh tay to lớn kía chuẩn bị giáng xuống thì không biết từ đâu một sợi xà tích bạc xé gió bay vút đến, linh động như một con linh xà, sợi xà tích cuốn lấy cánh tay cuồn cuộn cơ bắp lực lưỡng của gã hán tử khiến cánh tay của hắn bị níu lại giữa không trung, dù cố gắng giẫy giụa vẫn không thể thoát được sự khống chế của sợi xà tích.
- Là kẻ nào xen vào chuyện của ta – Hắn gầm lên.
- Là ta – Đáp lại hắn là một giọng nói nhẹ nhàng trong trẻo như sương mai.
Đoàn người hộ tống chiếc xe song mã nọ dẹp đám đông sang hai bên để nhường đường cho một thiếu nữ mắt phượng mày ngài, dung nhan mỹ lệ chừng mười ba mười bốn tuổi, mặc bộ áo tứ thân màu trắng như tuyết điểm xuyết vài bông hoa sen thêu ngân tuyến, cổ đeo chiếc kiềng bạc chạm trổ hoa văn tinh xảo, mái tóc mây buộc trễ sau gáy bằng một dải lụa hồng. Trần Mạnh nhận ra người vừa ra tay nghĩa hiệp không phải ai xa lạ mà chính là chủ nhân của mình liền ngay lập tức tiến đến bên nàng để cùng những người khác bảo vệ nàng nếu có chuyện không hay xảy ra. Thiếu nữ vung nhẹ tay, điêu luyện thu sợi xà tích lại, chỉ trong nháy mắt, sợi xà tích đã ngoan ngoãn nằm yên vị trong lòng bàn tay búp măng trắng trẻo mịn màng của thiếu nữ. Nàng hướng về gã hán tử đang xoa xoa vết đỏ lằn lên trên cánh tay, thong thả nói:
- Ta sẽ thay cô bé này đền tiền cho ngươi. Bao nhiêu tiền?
- Một trăm lạng bạc. Ta nhân từ chỉ bắt đền tiền số vải hỏng thôi . – Hắn sẵng giọng.
Xung quanh đám đông rộ lên những tiếng xì xào về cái giá cắt cổ mà gã hán tử vừa đưa ra. Trước yêu cầu quá quắt của hắn, thiếu nữ nét mặt không đổi, nàng không có vẻ gì là tức giận, trên bờ môi đỏ mọng xinh đẹp như cánh hồng nhung còn khẽ điểm một nụ cười nhẹ:
- Thứ nhất, ta và cô bé này chẳng có quan hệ gì, không họ hàng thân thích, không bạn bè, không quen biết, vì vậy ta không đủ tốt bụng tới mức bỏ ra một số tiền lớn như vậy cho một người xa lạ. Thứ hai, ngươi đã nói chỉ phải đền chỗ vải hỏng, chỗ vải này của ngươi tuy đắt tiền nhưng không phải hàng thượng hạng, giá tơ lụa như thế nào không phải ta không biết. Thứ ba, nếu bây giờ ta đổi ý, không đền tiền thay cô bé này nữa, ta e rằng ngươi sẽ khó mà lấy lại tiền, ngươi có thể đánh cô bé cho hả giận nhưng cũng chỉ là để hả giận mà thôi, bán cô bé làm nô lệ ư, cũng không ổn, ai sẽ mua một đứa trẻ mình đầy thương tích thế kia, ngoài ra luật pháp của triều đình cũng không dung túng cho hành động buôn bán người của ngươi. Những gì cần nói ta đã nói hết rồi, vậy cuối cùng ta phải đền cho ngươi bao nhiêu tiền?
- Hai mươi lượng bạc – Hắn trù trừ suy tính một lúc cân nhắc thiệt hơn, rốt cục cũng ra giá. Thực ra ban đầu hắn cũng không có ý định hét giá cao như vậy nhưng chẳng qua do đang bực tức lại thêm bị tiểu cô nương trước mặt làm bẽ mặt bơi chỉ bằng sợi xà tích bạc một cánh tay to khỏe đã bị khống chế giữa không trung, muốn cử động cũng không được, càng giãy giụa trông hắn càng giống một con rối. Biết bản thân mình không phải đối thủ của thiếu nữ vận bạch y trước mặt dù nàng trông có vẻ liễu yếu đào tơ như vậy nhưng chỉ qua việc vừa rồi hắn cũng biết đây là cao thủ, hơn nữa đi theo nàng còn cả một đoàn người hộ vệ, ai nấy đều đeo trường kiếm bên hông chắc chắn không phải chỉ để làm cảnh. Thiếu nữ này ăn mặc sang trọng, lại có người đi theo hộ vệ, chắc hẳn thân phận không tầm thường, hắn không cẩn thận biết đâu lại đắp tội với vị tai to mặt lớn nào đó thì cái mạng nhỏ này cũng khó mà giữ được. Những lời nàng ta vừa nói ngẫm ra không phải không có lý. Nhưng dẫu vậy hắn cũng không thể để mình bị thiệt quá.
Dù cái giá hắn đưa ra tuy không còn cao chín tận tầng mây nữa nhưng vẫn ở trên trời nhưng thiếu nữ cũng gật đầu bởi nàng biết đôi co thêm sẽ gây ra phiền phức. Nàng lấy bạc từ túi gấm đeo bên ruột tượng ra và đưa cho Trần Mạnh để anh ta trả cho gã hán tử.
- Giờ thì ngươi có thể bỏ bàn tay đang nắm cổ áo cô bé ra được rồi chứ - Thiếu nữ mỉm cười ôn hòa, ngữ điệu dịu dàng nhưng không hiểu sao hắn cảm thấy đây giống như một lời ra lệnh đầy uy quyền.
Mọi việc giải quyết xong, cũng không còn gì để xem, đám đông dần tản ra trả lại sự thông thoáng cho con đường. Thiếu nữ quấn sợi xà tích quanh dải lụa thắt lưng buộc nơi eo thon, sợi xà tích vừa nãy còn giống như thứ vũ khí lợi hại nay trông chỉ giống như một thứ đồ trang sức thông thường của các thiên kim tiểu thư. Haibara không ngờ giữa nơi lạ nước lạ cái này, một kẻ bơ vơ xứ người tứ cố vô thân như nàng lại có người giúp đỡ. Cảm kích trước lòng tốt của thiếu nữ áo trắng nên khi nàng tiến lại gần mình, Haibara quên mất khoảng cách ngôn ngữ mà buột miệng nói:
- Arigato (cảm ơn)
Thiểu nữ nghe lời Haibara vừa nói thì đôi mày lá liễu đẹp như nét xuân sơn khẽ nhíu lại rồi nàng chú ý đến màu tóc cũng như y phục kỳ lạ của cô bé trước mặt. Lời cô bé vừa nói chẳng phải là tiếng Phù Tang sao? Cô bé không phải người Đại Việt. Nàng chỉ biết tiếng Hán, còn tiếng Phù Tang thì không, nàng chỉ nhận ra được thôi vì có mấy lần nàng đã thấy một trong những ông anh của mình nói chuyện với người Phù Tang.
- Bẩm công….tiểu thư, trời cũng không còn sớm, thỉnh tiểu thư sớm hồi cu…phủ kẻo trễ - Một người hộ vệ chắp tay cung kính thưa với thiếu nữ.
- Ta biết rồi – Nàng nhẹ nhàng trả lời nhưng trong lòng vẫn chưa yên tâm bỏ lại đứa trẻ đang bị thương không nhẹ này mà rời đi, muốn hỏi thăm cô bé xem nhà rồi bố mẹ cô bé ở đâu cũng không thể. Đang loay hoay chưa biết làm thế nào khi trời đã nhá nhem tối, nàng mà hồi cung muộn nếu mà bị phát hiện thì chắc chắn sẽ bị ông anh là Thái thượng hoàng [4] trách phạt. Đúng lúc đó thì nàng nghe thấy một giọng nói trầm ấm vô cùng quen thuộc bên tai:
- An Tư, em làm gì ở đây? – Chủ nhân của giọng nói vừa rồi là một chàng trai tuấn tú mặc áo the màu lam sẫm, tóc búi củ hành, đầu đội khăn xếp, phong nhã với triết phiến bằng trúc vàng óng trên tay.
- A, anh Chiêu Văn, sao anh lại ở đây, đúng lúc em có việc cần nhờ anh? – Thiếu nữ, giờ là An Tư quay lại, đôi mắt đẹp sáng lên rạng rỡ như hai vị tinh tú trên bầu trời khi nhìn thấy chàng trai nọ.
- Anh có hẹn với một người bằng hữu Ẩm Nguyệt các. Sao có chuyện gì muốn nhờ anh? – Chàng trai tao nhã xòe triết phiến ra phe phẩy, mỉm cười tự mãn – Giờ mới nhận ra giá trị của ông anh này đúng không?
- Không phải, tại mấy anh ấy đều bận bịu phải lo công to việc lớn cả, chỉ có mỗi anh là vô công rồi nghề rảnh rỗi nên em mới chiếu cố nhờ anh. – An Tư bướng bỉnh nhăn mũi lém lỉnh đáp.
Mấy người hộ vệ quanh đấy nghe vị tiểu công chúa đối đáp với Chiêu Văn vương – vị vương gia tài hoa, tinh thông cầm kỳ thi họa, học rộng hiểu nhiều, văn võ song toàn, tài cao bắc đẩu như vậy liền bấm tay nhau cố nén cười. Lại nói cho rõ thì An Tư là con gái út của tiên đế Trần Thái Tông Trần Cảnh và là cô ruột của đương kim hoàng thượng Trần Nhân Tông. Trên nàng hiện có 7 ông anh đầy tài hoa và quyền lực cùng 1 người chị gái là công chúa Thụy Bảo đã xuất giá. Trừ người anh khác cha khác mẹ là Tĩnh Quốc vương Trần Quốc Khang[4] thì Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật là người anh thứ sáu của nàng, năm nay chàng vừa tròn 25 tuổi. Nhật Duật thông thạo không chỉ tiếng nói mà còn phong tục tập quán của nhiều dân tộc thiểu số và ngôn ngữ của các nước lân bang.
- Em nói cũng đúng, có lẽ mấy anh ấy bận rộn thật nên mới không có thời gian quản em, để em giờ này vẫn còn lang thang ngoài đường thế này. Không được, anh phải báo chuyện này lại cho họ đẻ họ quản thúc em mới được. – Trước lời lẽ đầy “xúc phạm” của cô em bé bỏng, Nhật Duật giả vờ nghiêm giọng.
- Tùy anh thôi, em không sợ đâu – An Tư lè lưỡi, đoạn nàng kéo tay ông anh biết nhiều thứ tiếng vùng miền cũng như tiếng các nước lân bang của mình lại trước mặt Haibara – Cô bé này hình như là người nước Phù Tang, anh hãy thông ngôn[6] cho em.
Trong lúc An Tư nói chuyện với Nhật Duật, Haibara đang suy tính, cân nhắc xem mình phải làm gì bây giờ. Nàng đã tự hành hạ bản thân bằng véo vào tay mình và cái cảm giác đau điếng giúp nàng chắc chắn một điều rằng nàng không mơ và nếu mơ thì đây thực sự là một giấc mơ kỳ quái. Nơi nàng đang đứng có vè như thuộc về rất rất nhiều năm trước, không phải thế kỷ 21 hiện đại. Kiến trúc nhà cửa hai bên đậm chất cổ kính, đường tuy rộng rãi đủ để cho hai cỗ xe ngựa chạy song song nhưng lại lát đá chứ không trải bê tông, loại phương tiện giao thông chủ yếu ở đây theo như nàng quan sát từ nãy đến giờ là xe ngựa, ngựa, lừa, kiệu, võng lọng,…Nàng nhìn đỏ mắt cũng chẳng thấy bóng dáng của chiếc ô tô, xe buýt hay xe mô tô nào. Hai bên đường cũng chẳng có nổi một cây đèn cao áp. Đây cũng không phải phim trường vì những nhân vật chủ chốt như đạo diễn, diễn viên, rồi máy quay đều chẳng thấy. Và hơn nữa chỗ này hình như không phải Nhật Bản vì người dân nói không phải tiếng Nhật, kiểu kiến trúc nhà cửa rồi trang phục nơi này cũng không giống như mấy phim cổ trang vẫn chiếu trên truyền hình. Nếu nàng đoán không lầm thì họ nói tiếng Việt Nam – một nước thuộc khu vực Đông Nam Á. Chả là hồi còn du học bên Mỹ trước khi về Nhật phục vụ tổ chức áo đen, trong lớp học đại học của nàng cũng có một số du học sinh là người Việt Nam, nàng đã từng nghe họ dùng tiếng mẹ đẻ khi nói chuyện với người đồng hương. Cách phát âm của những người ở đây giống như vậy. Nàng biết đến đất nước Việt Nam thông qua những bài học lịch sử về cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Việt Nam đã được học bên Mỹ hồi du học. Đến khi về Nhật, thỉnh thoảng nàng xem bản tin thời sự cũng thấy đưa tin về việc giao lưu văn hóa Việt – Nhật, rồi Nhật hỗ trợ vốn ODA cho Việt Nam,…. Sau một hồi phân tích, với tư duy của một nhà khoa học nàng dù không muốn tin và không thể tin nhưng vẫn phải chấp nhận sự thật phũ phàng rằng trong lúc rơi xuống vực nàng đã vô tình vượt không gian và cả thời gian để trở về một thời đại nào đó của Việt Nam. Tuy trước đây nàng chẳng còn ai là người thân, cũng chẳng có nhà để về, nhưng ít ra vẫn còn đội thám tử nhí và bác Agasa rộng lượng cưu mang. Nay ở xứ người, không rõ năm nào, không tiền bạc, đến ngôn ngữ cũng không biết, trong hình dạng và sức lực của một đứa trẻ 7 tuổi, nàng thấy tương lai phía trước mình mù mịt như bị sương giăng kín. Một kẻ tứ cố vô thân như nàng phải làm gì để kiếm chỗ dung thân, để có thể sinh tồn nơi đất khách quê người này. Mải trầm tư suy nghĩ đến thất thần, nên khi Nhật Duật lên tiếng lần thứ hai, Haibara mới biết. Nàng thấy bất ngờ khi ở thời cổ đại - thời kỳ mà việc học ngoại ngữ chưa phát triển mạnh mẽ như hiện đại này lại gặp được người có thể nói tiếng Nhật lưu loát như vậy.
- Này cô bé, nhóc có phải người Phù Tang không? – Nhật Duật ân cần hỏi trong khi An Tư đứng bên cạnh đang chống hai tay lên đầu gối, chăm chú quan sát Haibara bằng đôi mắt dịu dàng đen láy như làn thu ba lấp lánh ánh nắng của mình.
- Vâng. – Haibara gật đầu, gặp được người không bất đồng ngôn ngữ, nàng phải nhanh chóng hỏi ngay những mong các thắc mắc của mình có thể giải quyết được – Chú cho cháu hỏi, đây là đâu, năm bao nhiêu? – Nhìn gương mặt baby cute của chàng trai trước mặt, Haibara đoán anh ta chắc cũng chỉ bẳng tuổi thật của nàng, tầm 18, 19 tuổi. Nhưng dù sao nàng cũng đang ở trong hình dáng của một đứa trẻ 7 tuổi, vả lại người ta gọi mình là cháu thì mình cũng nên gọi người ta là chú.
- Đây là kinh thành Thăng Long của nước Đại Việt, năm Thiệu Bảo thứ hai – Vì cho rằng Haibara là người từ xa lưu lạc đến đây nên Nhật Duật không thấy làm lạ trước câu hỏi của nàng.
- Đây là năm một nghìn bao nhiêu ạ? – Haibara hỏi lại, nàng muốn xác dịnh được cụ thể đây là vào khoảng thời gian nào, thế kỷ thứ mấy.
- Năm 1280 – Do thời này chưa có dương lịch và khi nhắc đến năm thì người ta thường nói năm kèm theo niên hiệu của vị vua đang trị vì và theo hệ can chi, nên sau một hồi nhẩm tính, Nhật Duật trả lời Haibara mà lòng gợn lên chút thắc mắc khi thấy câu hỏi của cô bé hơi kỳ lạ.
Nghe Nhật Duật nói, tuy trước giờ là người điềm tĩnh và lãnh đạm, lúc nào cũng tỏ ra thờ ơ với mọi việc xung quanh nhưng trong tinhh cảnh này, Haibara không thể nén nổi sự sửng sốt. Phải mất một lúc nàng mới bĩnh tĩnh lại được.
- Nhóc tên gì, bố mẹ cháu đâu, sao nhóc lại chỉ có một mình ở đây? – Nhật Duật hỏi những gì An Tư nhờ
Câu hỏi của Nhật Duật nhắc cho Haibara nhớ đến hoàn cảnh hiện tại của mình. Nàng cần phải tìm cách để có thể sinh tồn tại nơi này. Cảm giác của nàng bây giờ giống hệt như cái đêm mưa gió định mệnh ấy khi nàng đã bỏ trốn khỏi nơi giam cầm của tổ chức, chạy thục mạng dưới màn mưa trắng xóa, lúc ấy dù không biết sẽ đi đâu về đâu, tương lai rồi sẽ như thế nào, nhưng có sức mạnh vô hình nào đó thôi miên đôi chân trần nhỏ bé của nàng guồng nhanh, đạp lên cả những vũng nước đọng trên đường mà chạy.
Ngầm quan sát hai người trước mặt, cả hai người họ đều toát ra khí chất cao quý, chắc hẳn thân phận không bình thường. Gương mặt sáng sủa, phong thái đĩnh đạc, có vẻ là người đàng hoàng. Thôi thì đành liều nhắm mắt đưa chân, nghĩ cách để họ đưa nàng theo, trước mắt giải quyết được vấn đề cái ăn chỗ ở đã rồi tính sau. Ở đây không có tổ chức áo đen, chẳng có ai truy sát nàng vì thế nàng không sợ họ vì cưu mang mình mà bị liên lụy như bác Agasa và đội thám tử nhí. Cân nhắc một hồi và nhanh chóng lên sẵn kịch bản trong đầu, Haibara liền nhập vai. Gì chứ diễn kịch nàng tuy chưa đạt đến cảnh giới diễn mà như không diễn nhưng chí ít cũng đến đến trình độ diễn như thật, đến tến thám tử đại tài Shinichi – con trai của đại minh tinh màn bạc một thời còn phải công nhận nữa là.
- Cháu tên là Haibara Ai. Bố mẹ cháu đều là thương buôn trên biển. Vì không có ai trông nom nên bố mẹ cháu lần nào có chuyến hàng cũng mang cháu theo. Chẳng may đợt ra khơi lần này thuyền gặp phải bão biển lớn nên bị đánh chìm, cháu trôi dạt vào đất liền, rồi cũng chẳng biết mình đã lưu lạc đến nơi nào. Bố mẹ giờ ở đâu còn sống hay đã…- Nói đến đây Haibara nức lên nghẹn ngào, đôi mắt to tròn trong veo ngân ngấn nước, giọng lạc hẳn đi, cũng nhờ khi rơi xuống vực nàng va quệt phải những cành cây mọc nho ra từ sườn núi nên mình mẩy bị thương, quần áo rách nát nên hoàn toàn thích hợp để nhập vai một đứa trẻ bơ vơ không nơi nương tựa. Lòng nàng tự nhủ giờ mới phát hiện một khả năng mới của bản thân đó là khả năng lường gạt. Nhưng cũng do hoàn cảnh ép buộc, dòng đời xô đẩy, nàng cũng muốn nói sự thật nhưng e rằng họ sẽ cho nàng là một đứa trẻ ba hoa nói dối hoặc đầu óc có vấn đề. Mà hoàn cảnh thật sự của nàng còn đáng thương ấy chứ, bố mẹ qua đời từ nhỏ không rõ nguyên nhân, chị gái là người thân duy nhất còn lại cũng đã chết vì bị thanh trừng, còn nàng thì luôn phải sống trong nơm nớp lo sợ bởi sự truy sát của tổ chức áo đen.
- Tại sao vừa rồi đám đông lại nói nhóc không biết từ đâu rơi xuống và ngã vào xe lụa của gã hán tử mặc áo nâu vừa rồi – Sau khi phiên dịch lại những lời Haibara vừa nói, Nhật Duật tiếp tục hỏi những thắc mắc của An Tư.
- Cháu đói quá nên mới lên mấy ngôi lầu này hỏi xin thức ăn, sau một hồi cố dùng tay để ra hiệu biểu đạt những gì mình muốn nói, chủ quán cũng đồng ý cho cháu nhận lau giúp lan can để đổi lại thức ăn, nhưng chẳng may trượt chân lại đang với người ra ngoài nên mới ngã xuống – Nhìn những tòa lầu bằng gỗ sang trọng sừng sững tuyệt đẹp hai bên đường, Haibara nhanh trí trả lời.
- Vậy bây giờ nhóc định sẽ như thế nào?
- Cháu cũng không biết – Haibara nhìn một cách trống và vô định vào khoảng không trước mặt – Cháu không có nơi nào để đi cũng không có nơi nào để về.
- Nhóc có muốn trở về Phù Tang không? Nếu muốn chúng ta có thể giúp nhóc – Câu hỏi của Nhật Duật làm Haibara băn khoăn. Có thể về Nhật nhưng không thể về thế kỷ 21 mà vẫn ở thời kỳ phong kiến này, dù ở đó hay ở đây nàng cũng đều một thân một mình, về Nhật có thể tốt hơn ở đây chăng, ít nhất ở đó không bất đồng ngôn ngữ. Và dù mang trong mình hai dòng máu, nhưng dù sao Nhật Bản cũng vẫn là quê hương của nàng.
- Cháu có. Chú có thể giúp cháu ư? – Haibara quyết định, trước mắt nếu có thể thì nàng sẽ đến Nhật Bản.
- Ta có một số bằng hữu là người Phù Tang đang ở đây, khi nào họ về nước ta sẽ gửi nhóc theo – Nhật Duật gật đầu khẳng định. Sau đó chàng thuật lại mọi chuyện với An Tư.
- Bây giờ ở bên Phù Tang đang có nạn can qua [5], giặc Thát chuẩn bị cất quân xâm lược nước đó, em e rằng để cô bé về đó một thân một mình ngay không ổn. Nếu không có chuyện đó thì cũng phải đợi bao giờ bằng hữu của anh về nước thì mới đưa cô bé theo được. Trong thời gian đó, em tính hay cho cô bé nương tựa trrong phủ của anh có được không vì anh biết tiếng Phù Tang. Những lúc rảnh anh có thể dạy cô bé nói tiếng An Nam để cho cô bé có thể nói chuyện với mọi người trong lúc còn lưu lại Đại Việt, anh cũng có cơ hội để trau dồi thêm vốn tiếng Phù Tang của mình. Mà Chiêu Văn đại vương, đỉnh đỉnh đại nhân, nổi tiếng vang danh bốn phương là người hào hiệp, rộng rãi, có cưu mang một chứ mười cô bé cũng không vấn đề gì, đúng không nào? – An Tư tính lên tính xuống, cuối cùng thấy chỉ có cách này là vẹn toàn nhất. – Anh đồng ý nhé – Nàng lắc lắc tay ông anh làm nũng.
- Thôi được rồi. – Nhật Duật gật đầu, mỗi khi cô em út láu cá này tung tuyệt chiêu làm nũng thì không chỉ chàng mà cả sáu ông anh kia cùng Thụy Bảo đều khó lòng mà từ chối nàng, hơn nữa những gì mà nàng muốn các anh chị mình đồng ý đều là chuyện chính đáng nên làm cả. Nhật Duật dùng cán quạt gõ nhẹ vào vầng trán của An Tư – Anh sẽ đưa cô bé về phủ, còn em trời cũng không còn sớm nữa, mau hồi cung đi.
- À anh nhớ đưa cô bé đi khám đại phu và xin thuốc để bôi vào mấy vết thương trên người nhé. – Nói rồi, An Tư ngoan ngoãn trèo lên xe ngựa sau khi đưa tay vẫy chào Haibara. Nụ cười của thiếu nữ áo trắng làm Haibara ngẩn người không phải vì nó là “nhất tiếu khuynh nhân thành, tái tiếu khuynh nhân quốc” mà là vì nụ cười này thực sự giống hệt nụ cười của chị gái nàng, Akemi Miyano. Cũng ấm áp như mặt trời tỏa nắng như thế, cũng dịu dàng như thế, cũng thân thiện gần gũi như thế, cũng trong sáng thuần khiết đến thánh thiện như thế, cũng làm lòng người đang ngổn ngang chồng chất trở nên thanh thản và bình yên lạ thường như thế.
- Suýt quên, tên cô bé là gì vậy anh? – Sực nhớ ra chưa hỏi tên cô bé, An Tư vội hỏi ông anh của mình
- Haibara Ai – Nhật Duật xòe rộng triết phiến phe phẩy.
- Dịch ra tiếng An Nam có nghĩa là gì – An Tư tò mò
- Nghĩa là An Tư vừa xấu vừa kiêu vừa điêu vừa điệu – Nhật Duật toét miệng cười hì hì, hớn hở như trẻ con được quà khi trông thấy gương mặt phụng phịu của An Tư.
- Em hỏi thật mà anh cứ đùa. – An Tư chu môi vờ làm mặt giận
- Nghĩa là cánh đồng xám – Vì muốn nhanh nhanh chóng chóng tống khứ cô em út được mấy ông anh “đáng sợ” kia coi như báu vật này về cung nên Nhật Duật cũng không đùa dai nữa.
- Tên lạ quá và nghe có vẻ buồn – An Tư chép miệng – Thôi em về đây, khi nào được em sẽ đến phủ anh thăm cô bé – Nói rồi, nàng buông tấm rèm xe màu điều xuống, nhẹ giọng nhưng dứt khoát hạ lệnh –Hồi cung. Người phu xe vung roi quất nhẹ vào đôi tuấn mã ra hiệu đi. Những người hộ vệ đã đứng xếp hàng ngay ngắn hai bên xe. Chiếc xe ngựa từ từ chuyển bánh, nhằm thẳng hướng Long Phượng thành mà tới.
- Đến phủ anh mà không đến thăm anh là sao? – Nhật Duật “tủi thân” gọi với theo.
- Anh thì còn phải xem xét – Đáp lại là tiếng cười khúc khích trong trẻo của An Tư.
- Bẩm công chúa, thuộc hạ vâng lời người đã lén đi theo gã hán tử chủ xe lụa. Xác minh hắn thực sự chỉ là kẻ vận chuyển thuê cho chủ hiệu vải Xuân Khánh. Vụ việc xảy ra trên đường vừa rồi là sự thật, không phải màn kịch, cũng không phải lừa đảo. Vậy còn cô bé kia có phải điều tra không, thưa công chúa? – Trần Mạnh lên tiếng báo cáo về việc thực hiện chuyện An Tư phân phó lúc cỗ xe ngựa đã đi được một đoạn khá xa. Khi nãy lúc gã hán tử thu xếp lại đống lụa và rời đi, anh ta đã được nàng nhờ đi theo dõi hắn và xác minh một số chuyện.
- Không cần, việc đó ắt sẽ có người làm thay chúng ta, ngươi chỉ cần đợi người đó làm xong rồi đến lấy kết quả về cho ta là được – An Tư đáp lời Trần Mạnh với nụ cười thoáng qua trên môi.
Có những chuyện xảy ra khiến người ta bị tổn thương sâu sắc, cái giá phải trả khi đặt niềm tin sai chỗ quá đắt, lòng tốt bị lợi dụng khiến cho con người ta dần dần trở nên đa nghi. Sinh ra và lớn lên trong gia đình đế vương quyền thế khuynh đảo thiên hạ, có những việc thân bất do kỷ, không muốn nhưngvẫn phải làm, không muốn hoài nghi mà vẫn phải hoài nghi. Cẩn tắc vô ưu. Dù không tin nhưng nàng vẫn phải đề phòng cô bé kia là gián điệp của nước khác cố tình tiếp cận nàng, rồi từ đó thâm nhập đường hoàng vào hoàng cung thăm dò tin tức nội bộ của Đại Việt. Đứa trẻ này có nhiều điểm không bình thường. Ngoài đầu tóc, y phục còn có thái độ. Một đứa trẻ bình thường sẽ khóc lóc hoảng sợ khi đối mặt với sự giận dữ của gã hán tử to lớn như hộ pháp nhưng cô bé này rất bình tĩnh. Đặc biệt là đôi mắt của cô bé khiến An Tư thấy lòng gờn gợn, đôi mắt đẹp nhưng không thể nhìn thấu, nó không đơn thuần trong veo và ngây thơ như những đứa trẻ cùng tuổi. Đó là một đôi mắt biết che giấu nội tâm không để lộ cảm xúc, không cho người ta dò xét tâm can mình. Lúc cô bé khóc khi kể về hoàn cảnh bất hạnh của mình, không hiểu sao bằng trực giác và sự nhạy cảm của mình, nàng cảm thấy có cái gì đó rất chân thật nhưng cũng có một cái gì đó không thật. Nàng có cảm tình với cô bé này nên hi vọng cô bé không phải gián điệp. Còn nếu cô bé thật sự là gián điệp thì…Những người mang trong dình dòng máu hoàng gia cần có cả sự nhẫn tâm.
Những vạt nắng vàng vắt ngang bầu trời nhạt dần, tấm màn hồng thơ mộng của hoàng hôn dần buông xuống bầu trời của đất kinh kỳ hoa lệ, phủ lên những mái ngói cong vút nhấp nhô. Trên nền trời đang tối dần, thấp thoáng những cánh chim đang sải cánh vội vã bay về tổ. Chiếc xe ngựa sang trọng khuất dần.

Chú thích:

[1] Trần Nhân Tông: Là vị vua thứ 3 của đời Trần, húy là Trần Khâm, con của Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông Trần Hoảng[2] Chùa Diên Hựu: chùa Một Cột[3] Long Phượng Thành: Hoàng thành Thăng Long được thiết kế theo cấu trúc Tam trùng thành quách. Vòng ngoài cùng gọi là La thành hay kinh thành, là nơi dân cư sinh sống, vòng thứ hai gọi là hoàng thành là nơi ở của các quan, vòng thứ ba là Cấm thành hay Long Phượng thành là nơi ở của vua.[4] Trần Quốc Khang: vị này là con của An Sinh vương Trần Liễu – anh trai của Trần Cảnh và công chúa triều Lý húy là Lý Ngọc Oanh – chị ruột của Lý Chiêu Hoàng. Lý Ngọc Oanh bị Trần Thủ Độ buộc lấy Trần Cảnh khi bà đang mang thai ba tháng. Sau này bà trở thành Thuận Thiên Hoàng hậu của triều Trần. Còn Lý Chiêu Hoàng bị giáng xuống làm Chiêu Thánh công chúa, sau này bà được gả cho tướng quân Lê Tần[5] Năm 1281, quân Mông – Nguyên xâm lược Nhật Bản.

Ngoài ra, trong sử không có nhắc đến Trần Nhật Duật biết tiếng Nhật Bản, nhưng đẻ phục vụ cho sự hợp lý của fic nên trong đây tác giả cho nhân vật này biết tiếng Nhật dựa trên sự thật là ông nổi tiếng biết nhiều ngoại ngữ vào thời Trần
 
CHƯƠNG 2: Hương thảo

Sau khi yên tâm vì cuối cùng cũng “tống khứ” được cô em út về cung, Nhật Duật quay sang Haibara thì thấy nàng đang mệt mỏi đứng dựa lưng vào tường, đôi mắt nhung sâu hun hút đen thẳm như trời đêm thẫn thờ nhìn những cánh chim mải miết bay về tổ trên nền trời vương sắc hồng của hoàng hôn. Mái tóc nâu đỏ đặc biệt giống ánh chiều tà bay bay trong gió, những sợi tóc cài vào khóe môi xinh xắn khiến nàng phải đưa tay lên để cài chúng qua vành tai. Không hiểu sao hình ảnh ấy khiến Nhật Duật cảm giác rằng cô bé đang đứng trước mặt mình là một cô nương chứ không phải một đứa trẻ. Lắc đầu để xua đi ý nghĩ buồn cười vừa lướt qua trong đầu đó, Nhật Duật lên tiếng:

- Ai-kun này, tiểu cô nương áo trắng đã giúp nhóc là em gái của ta. Nó nhờ ta cho nhóc lưu lại trong phủ cho đến khi cháu có thể về Phù Tang. Ý nhóc thế nào?
- Cháu có thể không? – Haibara ngần ngừ, ban đầu nàng nghĩ thiếu nữ vận bạch y kia sẽ mang nàng theo nhưng cuối cùng không phải. Tại sao cô ấy lại phải nhờ người này?
- Tất nhiên là có thể. Ta đã nhận lời với nó. Quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy. Vả lại nếu ta để nhóc bơ vơ tiếp tục lang thang, e rằng nó mà biết được thì sau này ta sẽ khó sống. À mà quên giới thiệu, em gái ta tên An Tư, còn ta là Chiêu Văn – Nói đến đây, Nhật Duật ra chiều ngán ngẩm khi nghĩ tới cô em gái trông thì hiền mà không dịu của mình. Vẻ mặt đó của chàng khiến Haibara thấy buồn cười.
- Nếu chú có lòng thu nhận cháu, ơn trời bể này cháu xin ghi lòng tạc dạ. Cháu sẽ không ăn nhờ ở đậu đâu. Cháu có thể làm tiểu tỳ, nấu cơm giặt quần áo gánh nước chẻ củi, cháu đều làm được. – Haibara nhớ lại mấy lời thoại kinh điển hay xem trên phim và đem ra ứng dụng.
- Mấy việc đó trong phủ ta có người làm rồi, ta cũng không muốn mang tiếng là bóc lột sức lao động của trẻ con. – Nhật Duật ra chiều nghĩ ngợi, đưa tay xoa xoa cằm – Có điều ta đang thiếu một thư đồng, nếu nhóc làm được thì ta không phải tìm người nữa. Nhưng chuyện đó để sau, giờ “vâng lời” bà cô trẻ, ta phải đưa nhóc đi khám đại phu đã.
- Vâng. Nhưng cháu không có tiền trả tiền thuốc – Haibara đưa tay vân vê vạt áo sơ mi.
- Không sao – Nhật Duật tươi cười và buông một câu khiến nàng chưng hửng – Ta sẽ bảo An Tư trả lại cho ta sau.

Tiểu nhị của Ẩm Nguyệt các dắt con ngựa ô với bộ lông đen bóng ra cho Nhật Duật. Chàng vuốt ve chiếc bờm dày và dậm của nó. Dù không rành về ngựa lắm nhưng Haibara đoán rằng đây chắc hẳn là giống ngựa quý bởi đôi mắt sáng quắc và rất có thần của nó.

- Tiểu cô nương, xin đắp tội. – Nhật Duật bông đùa

Trong lúc Haibara chưa hiểu gì thì đã thấy mình bị bế thốc lên, lúc nàng định thần lại thì thấy mình đã yên vị trên lưng con tuấn mã to lớn từ lúc nào. Sau đó, Nhật Duật cũng nhảy phốc lên lưng ngựa. Cầm chắc dây cương trong tay, chàng thúc nhẹ vào bụng ngựa, con tuấn mã hí lên và bắt đầu bước đi. Do đang đi trên đường phố tấp nập người qua lại, nên Nhật Duật để chú ngựa đi chậm. Đây là lần đầu tiên Haibara cưỡi ngựa nên nàng không quen, thân hình nhỏ bé bị lắc lư, đôi lúc người nàng còn vô tình ngả ra sau chạm vào bở ngực rông lớn vững chãi của Nhật Duật. Mùi hương bạc hà thanh mát dìu dịu từ áo chàng phảng phất nơi cánh mũi thanh tú của Haibara. Hầu như những con đường nàng đi qua đều được lát đá ong hoặc gạch Bát Tràng bằng phẳng. Nàng không khỏi tò mò xen lẫn hiếu kỳ mà đưa mắt ngắm nhìn khung cảnh cách đây 700 năm của một đất nước khác. Nhìn cảnh kinh thành trù phú hoa lệ sầm uất với những tòa nhà sững sững nối tiếp nhau hai bên đường, hẳn đây đang là lời kỳ thịnh trị.

- Này nhóc, năm nay nhóc bao nhiêu tuổi – Nhật Duật hỏi.
- Cháu 7 tuổi ạ. – Haibara lễ phép đáp. Trong lòng không khỏi ấm ức một chút khi một người tên Chiêu Văn mặt búng ra sữa này chắc cũng chỉ tầm tuổi thật của nàng gọi nàng là nhóc
- An Tư bảo ta dạy nhóc tiếng An Nam trong thời gian nhóc lưu lại phủ ta, nhóc có muốn học không.
- Tất nhiên là cháu có, nhưng liệu có làm phiền chú không – Chưa biết lúc nào về được Nhật, trong thời gian còn ở lại Đại Việt này không sớm thì muộn nàng vẫn phải học tiếng rồi thích nghi với cuộc sống ở đây, nay có người dạy tội gì không nhận lời. Nhưng bằng trực giác nàng cảm nhận thân phận của thiếu nữ mặc áo trắng và chàng trai đang cưỡi chung ngựa với mình đây chắc hẳn không chỉ là dân thường, hơn nữa ai cũng có công việc của mình, đâu thể rảnh rỗi mà dành thời gian dạy tiếng cho nàng.
- Chỉ cần nhóc chịu bái sư và nộp học phí cho ta đầy đủ là không có gì phiền cả - Nhật Duật tươi cười – Nhưng nhóc yên tâm nếu không có tiền trả, ta sẽ bảo An Tư trả hộ cho.

Đến đây thì Haibara lờ mờ đoán được chắc hằng ngày người này bị em gái “bắt nạt”, “chèn ép” hoặc “bóc lột” nhiều quá, nên mới muốn thông qua nàng trả đũa cô em. Hình như anh em nhà này có vẻ “không bình thường” cho lắm. Ngẫm nghĩ, nàng thấy thiếu nữ tên An Tư ấy thật tốt với nàng. Cũng thật may mắn khi nàng gặp được nàng ấy, không thì nàng cũng chẳng biết xoay xở ra sao giữa chốn xa lạ này.

- Cháu không muốn làm phiền chị…à không cô ấy. – Thiếu nữ kia chắc khoảng tầm 14 tuổi, còn ít hơn tuổi thật của nàng, gọi chị là hợp lý rồi, nhưng gọi anh là chú mà gọi em là chị nghe có vẻ hơi mâu thuẫn nên nàng sửa lại - Nhưng cháu cũng không có tiền trả học phí. Chú dạy cháu tiếng An Nam, cháu dạy lại chú tiếng Anh, có được không? – Dù sao nàng cũng không muốn mang ơn An Tư quá nhiều, lại thêm chẳng biết được ông anh tinh quái này sẽ “yêu sách” gì ở cô em, rồi một tia sáng chợt lóe qua trong đầu nàng.
- Nhóc cứ gọi An Tư là chị cũng được, nó còn chưa đến tuổi cài trâm mà nghe nhóc gọi mình là cô chắc phải khóc ròng suốt mấy ngày mấy đêm. Không có nhóc gọi là cô, hiện giờ nó cũng đang có rất nhiều người gọi là cô rồi. Tiếng Anh là tiếng của nước nào vậy, ta chưa nghe bao giờ - Vốn là người ham học hỏi, lại có hứng thú trong việc học tiếng các nước nên khi nghe thấy Haibara nhắc đến thứ tiếng lạ lùng ấy, Nhật Duật hỏi ngay.
- Đó là tiếng của một nước thuộc châu Âu à không là một trong những nước của người Tây Dương, cách rất xa nơi này và Nhật…Phù Tang. – Haibara cũng không biết giải thích sao để một người cổ đại có thể hiểu được.
- Nhóc nói thử một đoạn tiếng nước đó cho ta nghe được không? – Nhật Duật hứng thú.
Sau khi nghe Haibara nói một đoạn khá dài một cách trôi chảy lưu loát như thể đó mới là tiếng mẹ đẻ của nàng, Nhật Duật nhíu mày ngạc nhiên:
- Sao cháu lại biết thứ tiếng này?
- Thực ra chỉ có bố cháu là người Phù Tang, còn mẹ cháu là người nước Anh, vì vậy màu tóc cháu không phải màu đen – Haibara chần chừ không biết có nên nói điều này ra không, cái thời cổ xưa này có khi người ta còn chẳng biết đến khái niệm con lai là gì nhưng cũng chẳng có cách giải thích nào khá hơn, nói nàng đã từng sống bên đó một thời gian còn mù mịt khó hiểu hơn.
- Được đấy nhóc, ta dạy nhóc tiếng An Nam, nhóc dạy ta thứ tiếng nhóc vừa nói. – Thực ra Nhật Duật nói bắt Haibara trả tiền học phí chẳng qua chàng vốn nghịch tính lại thấy cô bé con này có vẻ chững chạc chín chắn, già trước tuổi như bà cụ non nên muốn trêu cô bé một chút để cho cô bé lúng túng bối rối chơi, chứ có cho vàng chàng cũng chẳng dám đòi tiền của An Tư, không khéo lại bị sáu ông anh kia hùa nhau vào xâu xé chàng. Nào ngờ cô nhóc trông thế mà cũng chẳng vừa, đòi trao đổi với chàng, nhưng không thể không công nhận, tuy chàng thông thạo thứ tiếng của các man người thiểu số trên lãnh thổ Đại Việt, rồi tiếng Hán, tiếng Chiêm Thành và tiếng của một số nước lân bang khác nhưng thứ tiếng mà cô bé nói chàng chưa nghe qua bao giờ.
- Chú hơn chị An Tư có nhiều tuổi không – Haibara cứ thắc mắc nên buột miệng trong khi chàng trai này kêu nàng cứ gọi An Tư là chị, trong khi gọi nàng là nhóc như đúng rồi.
- 11 tuổi. Nhóc hỏi để làm gì? Có phải trông ta quá trẻ không?– Nhật Duật cười tự đắc.
Nhẩm tính thì chàng trai này đã 25 tuổi, nhìn gương mặt trẻ con của anh ta, Haibara thấy thật khó tin. Vậy là anh ta thực sự hơn nàng 7 tuổi. Rồi nàng cũng chợt nhận ra từ nãy đến giờ nàng nói chuyện nhiều hơn bình thường, mọi ngày nàng kiệm lời, ít nói. Người này cũng thật biết gợi chuyện.
- Tại cháu phân vân không biết nên gọi chú là chú hay là bác? – Câu nói của Haibara làm Nhật Duật có cảm giác bị cả thùng nước lạnh dội vào đầu giữa mùa đông giá rét.

Con tuấn mã đi vòng vèo một hồi qua những con phố khiến Haibara phải thật chú ý để cố gắng nhớ đường, cuối cùng nó dừng lại trước một cửa của tòa dinh thự rộng lớn. Phủ đệ của Chiêu Văn vương tại kinh thành được lập gần cửa Đại Hưng. Đưa mắt nhìn tấm biển bằng gỗ bóng loáng với dòng chữ thiếp vàng thanh thoát như rồng bay phượng múa, Haibara không biết là chữ gì. Thì ra thời kỳ này, Việt Nam vẫn còn dùng Hán tự, sau mới đổi sang dùng chữ quốc ngữ với bảng chữ cái La tinh. Một người gác cổng nhanh nhẹn chạy ra cung kính vái chào Nhật Duật làm Haibara đoán được là người này ắt hẳn rất có vai vế. Sau đó người gác cổng dắt con ngựa cho chủ nhân. Còn Nhật Duật ung dung bước vào phủ. Haibara đi theo chàng. Tòa phủ này rộng lớn và đặc biệt thu hút người khác phải ngắm nhìn với màu xanh tươi ngút ngàn của cây cối. Thấp thoáng đằng sau những tán cây xanh mượt, những khóm tre ngà vàng óng, những khóm hoa khoe sắc rực rỡ là những lầu son gác tía nhấp nhô, ẩn hiện. Những hòn non bộ xinh đẹp, những dãy hành lang trải dài bằng gỗ quanh co uốn lượn, những tiểu đình sừng sững hiên ngang giữa mặt hồ ngát sen khiến Haibara mải miết ngắm nhìn. Một nhóm tỳ nữ đi tới mặc quần áo giống nhau, đều là áo tứ thân màu quan lục, tóc vấn đuôi gà. Họ trông thấy vị vương gia liền cúi chào:

- Bẩm, đức ông đã về.
Nhật Duật gật đầu mỉm cười đáp lại, rồi chàng chỉ vào Haibara bảo cô gái đứng đầu nhóm tỳ nữ bảo:
- Dương Đông [1], cô bé này là người của công chúa An Tư gửi tại phủ ta, cô hãy đưa cô bé đi tắm rửa, thay quần áo, sau đó gọi Lý đại phu đến để kiểm tra vết thương cho cô bé. Tiện thể sắp xếp cho cô bé một chỗ ở.
- Vâng lệnh đức ông, tiểu tỳ sẽ đi làm ngay. – Tỳ nữ tên Dương Đông lễ phép đáp.
Rồi chàng quay sang Haibara dặn dò:
- Nhóc cứ đi theo cô gái này, cô ấy sẽ lo việc ăn ở cho nhóc. Chuyện học tiếng thì phải đợi ta có thời gian. Nếu nhóc làm thư đồng cho ta thì sẽ tiện lợi hơn. Nhưng có điều phải xem nhóc có vượt qua thử thách của ta không đã. – Nói đến đây, trên bờ môi kiên nghị của Nhật Duật phảng phất nụ cười bí hiểm mà trong mắt Haibara nó khiến nàng thấy “khó chịu” y như khi nhìn thấy nụ cười nửa miệng tự mãn “khinh người” của Shinichi.
- Vâng, cháu biết rồi. – Nàng đáp.

Vì Nhật Duật hay đưa khách là người nước ngoài về phủ chơi nên đám tù nữ cũng đã ở trong phủ lâu năm không lấy làm ngạc nhiên mấy khi thấy vương gia và cô bé ăn mặc kỳ quái mình đầy vết thương này bằng một thứ tiếng họ không hiểu. Nhưng trong những vị khách Nhật Duật từng đưa về, đây là lần đầu tiên có một cô bé con như thế này. Tuy không biết quan hệ ra sao, nhưng vương gia đã nói đây là người của công chúa An Tư nên họ cũng không dám thất lễ hay tùy tiện đắp tội bởi đến ngay cả vị vương gia đầy uy quyền, cao cao tại thượng đang đứng trước mặt còn phải “nể” vị công chúa được Thái thượng hoàng và 5 vị vương gia khác cưng như cưng báu vật ấy huống chi các nàng chỉ là những tỳ nữ bé nhỏ.
Khi bóng dáng nhỏ bé của Haibara cùng Dương Đông khuất dần sau dãy hành lang, Nhật Duật gập chiếc quạt trúc đang phe phẩy lại, chàng bảo một nàng tỳ nữ khác:

- Minh Tri[2], bảo Ly Sơn[3] đến thư phòng của ta.
- Vâng, thưa đức ông.
Sau khi trịnh trọng gõ cửa, một người tráng sĩ vai hùm lưng gấu, dáng người vạm vỡ dày dạn sương gió đẩy cánh cửa gỗ trạm trổ hoa văn tinh xảo bước vào thư phòng của Nhật Duật khi nghe được tiếng đáp của chàng:
- Mời vào.
- Bẩm đức ông cho gọi thuộc hạ có việc gì giao phó ạ? – Ly Sơn chắp tay cung kính thưa
- Ta muốn nhờ ngươi điều tra giúp ta một chuyện – Nhật Duật không ngẩng lên, vẫn chăm chú thảo những nét trên tờ giấy trải rộng trên thư án. Từng nét mực tàu đen nhánh óng ánh dưới ánh nến lần lượt hiện ra, dần dần trên tờ giấy trắng tinh hiện lên là gương mặt của một cô bé chừng 7 tuổi với mái tóc ngắn ngang vai, người đó không ai khác chính là Haibara. Cẩn thận đặt chiếc bút lông còn ướt mực lên giá treo, Nhật Duật đợi cho nét mực khô rồi cuộn bức tranh lại đưa cho Ly Sơn.
- Người muốn thuộc hạ điều tra người này – Ly Sơn nhận lấy bức tranh từ tay Nhật Duật.
Đáp lại anh ta là một cái gật đầu nhẹ nhàng cùng gương mặt bình thản với đôi mắt yên tĩnh thâm thúy khó dò của vị vương gia.

…………...........

Khi An Tư về đến cung cũng là lúc hoàng cung đã lên đèn, những dãy đèn lồng đung đưa theo gió làm cả hành lang rực sáng. Nàng trở về Tân Nguyệt điện. Hôm nay nàng xuất cung đi dâng hương ở chùa Diên Hựu một cách danh chính ngôn thuận, được sự cho phép của Thái Thượng hoàng chứ không phải lén trèo tường vượt rào như mọi khi vì vậy mới có cả một đoàn người hộ tống rình rang, cỗ xe ngựa sang trọng, bản thân nàng tuy không mặc cung trang nhưng cũng quần áo cũng thuộc loại sang trọng. Còn mỗi lần trốn khỏi cung nàng chỉ mặc đồ đơn giản như bao thiếu nữ thường dân khác với váy lĩnh đen, áo yếm màu cánh đào cũng áo cánh và áo tứ thân màu nâu, tóc vấn đuôi gà bằng khăn lượt đen, chân đi guốc mộc. Mọi lần chốn khỏi cung nàng thường chỉ mang theo “tứ hà”. “Tứ Hà” là 4 thị nữ thân cận của nàng, cả 4 người họ đều là những người võ công cao cường. Cũng giống như Nhật Duật, trong khi chàng đặt tên cho gia đinh và tỳ nữ trong phủ mình dựa theo tên của tam thập lục kế trong binh pháp Tôn Tử, thì An Tư đặt tên cho 4 nàng thị nữ của mình theo tên những dòng sông mà tại nơi đó đã diễn ra những sự kiện lịch sử của dân tộc: Nàng thứ nhất và cũng là thủ lĩnh của “Tứ Hà” tên Bạch Đằng – Đây là nơi hai lần[4] các tiền bối mà nàng kính trọng và ngưỡng mộ đã đánh tan thủy quân hùng mạnh của Bắc quốc, lần thứ nhất là tiêu diệt quân Nam Hán vào năm 938 do Tiền Ngô Vương Ngô Quyền chỉ huy, lần thứ hai là chống quân Tống xâm lược lần thứ nhất do vua Lê Đại Hành Lê Hoàn lãnh đạo, nàng thứ hai tên Như Nguyệt[5] – đây là nơi tướng quân Lý Thường Kiệt xây dựng phòng tuyến kháng chiến chống quân Tống Xâm lược lần thứ hai vào thời vua Lý Nhân Tông và nhiếp chính là Linh Nhân Hoàng thái hậu Ỷ Lan, nàng thứ ba tên là Lô Giang[6] – trên dòng sông này tại bến Đông Bộ Đầu, các bậc cha anh của An Tư đã oanh oanh liệt liệt chiến thắng quân Thát Đát xâm lược lần thứ nhất vào năm 1258, khi ấy An Tư nàng vẫn chưa chào đời, nàng cuối cùng tên là Hát Giang – đây là nơi hai vị nữ trung hào kiệt Trưng Trắc và Trưng Nhị mà dân gian thường gọi là hai Bà Trưng đã trẫm mình xuống để bảo toàn khí tiết. Bạch Đằng múa song kiếm, Như Nguyệt dùng trường côn, Lô Giang điêu luyện với roi thừng làm vũ khí, còn Hát Giang thành thục với đại đao. Hai nàng thị nữ hôm nay theo nàng ra ngoài là Lô Giang và Hát Giang.

Tân Nguyệt điện là cung của An Tư. Nơi này không rộng lớn và khá yên tĩnh. Trong cung cũng có ít tỳ nữ, thường thì chỉ có “Tứ Hà” kề cận bên cạnh nàng và một nhũ mẫu. Còn những nàng cung nữ khác chỉ đến dọn dẹp rồi lui bởi nàng không thích có quá nhiều người hầu hạ mình. Vừa về đến cửa cung, An Tư cùng Lô Giang và Hát Giang đã trông thấy bóng dáng quen thuộc của người nhũ mẫu đứng đợi ở trước cửa điện. Lục Thảo năm nay cũng tầm ngoài tam tuần, nàng đã chăm sóc cho An Tư từ nhỏ từ sau khi mẫu thân của An Tư qua đời vì bạo bệnh. An Tư và “Tứ Hà” thường gọi nàng bằng cái tên thân mật là dì Thảo.

- Công chúa, sao giờ này người mới về làm nhũ mẫu lo quá đi mất, cứ tưởng có chuyện gì.- Lục Thảo khẽ vuốt những sợi tóc mai bị gió làm cho lòa xòa của An Tư qua vành tai nàng
- Dì Thảo, đâu có trễ lắm đâu. – An Tư cười trừ trước sự quan tâm lo lắng của nhũ mẫu.
- Lô Giang, Hát Giang hai người đi chuẩn bị nước tắm và quần áo cho công chúa, còn Bạch Đằng và Như Nguyệt hai người xuống ngự thiện phòng kêu họ dọn thức ăn lên.- Lục Thảo lên tiếng nhắc nhở khi thấy bốn nàng cung nữ đang tíu tít kể chuyện cho nhau nghe như những chú chim non.
- Vâng, chúng con biết rồi thưa dì Thảo. – Bốn nàng đồng thanh đáp.
- Công chúa vào ngồi nghỉ đi, để nhũ mẫu đi pha trà cho người – Sau khi “xua” được bốn con vịt giời đi làm nhiệm vụ, Lục Thảo quay sang An Tư.
- Cảm ơn dì Thảo – An Tư mỉm cười tươi tắn rồi bước qua bậu cửa sơn son tiến vào trong tẩm cung.

Khi bóng dáng của người nhũ mẫu đã khuất, nụ cười trên môi nàng liền vụt tắt rồi sau đó bờ môi hồng lại nhếch lên, lần này là một nụ cười buồn phảng phất chua xót. Đôi mắt nàng thẫm dần mông lung nhìn ra những khóm hoa đủ màu sắc rực rỡ đang runh rinh múa hát theo nàng gió ngoài sân. Không thể trách người cũng không thể trách ta, bởi vì quê hương mỗi người chỉ có một.

…………………..........................
Nhạc nền: https://mp3.zing.vn/bai-hat/Futari-N...i/ZWZDZ0U7.html

Haibara trằn trọc lăn qua lăn lại trên chiếc gi.ường tre mà mãi vẫn không ngủ được. Có lẽ do lạ gi.ường lạ chiếu. Đến bây giờ nàng vẫn cảm giác những gì mình đang trải qua chỉ như một giấc mơ nhưng giấc mơ này cũng quá chân thực. Nàng ngồi dậy, xỏ đôi chân nhỏ bé vào đôi guốc mộc rồi đứng dậy mở cửa bước ra ngoài sân. Cái váy lĩnh đen dài, tà tứ thân tha thướt cùng dải lụa màu hoa hiên làm thắt lưng làm nàng chưa quen lắm. Bộ đồ của nàng đã rách chẳng thể mặc được nữa, vả lại nhập gia thì tùy tục, nàng cũng không muốn tự biến mình thành sinh vật lạ để cho người ta chú ý rồi nhòm ngó như xem thú trong vườn bách thảo. Vuốt nhẹ mái tóc bị gió đùa nghịch, hương nước gội đầu mà nàng cung nữ tên Dương Đông gội cho nàng vẫn còn vương trên từng sợi tóc. Thời này tất nhiên chưa có dầu gội đầu. Họ dùng bồ kết nướng cùng hương nhu, lá sả, vỏ bưởi phơi khô để đun nước gội đầu. Thứ nước gội đầu từ thảo mộc có màu vàng sóng sánh và tỏa ra hương thơm khiến người ta thư thái dễ chịu lại giúp tóc mềm mượt đen bóng. Haibara thích cái hương thơm này.

Như một thói quen nàng dựa lưng vào cây cột gỗ trước cửa phòng, hai tay khoanh trước ngực, đưa mắt nhìn xa xăm. Trời về đêm yên tĩnh như tờ, vạn vật chìm trong giấc ngủ chỉ có nàng là còn thao thức. Nàng thấy những người trong phủ đi ngủ từ rất sớm. Mà cũng phải ở đây chẳng có phương tiện giải trí gì cả, không đi ngủ sớm cũng chẳng biết làm gì, không ti vi, không máy tính, không internet. Tối muộn chắc quán xá ngoài đường cũng đóng cửa hết chứ không như thế giới hiện đại sống cuộc sống không có ban đêm. Nghĩ đến hoàn cảnh của mình, hiện tại nàng cũng đã có chỗ dung thân, tương lai chưa biết ra sao nhưng trước mắt thì cũng khá tốt. Cái ăn cái mặc chỗ ở phải được giải quyết thì mới có thể nghĩ đến cái khác. Như lời Chiêu Văn đã hứa, khi có thể sẽ đưa nàng đến Phù Tang. Rồi nàng cũng phải tìm cách để trở về thế kỷ 21. Trở về??? Ở đây nàng không có nhà, không người thân, nàng cô đơn nhưng trở về nàng cũng thế. Ở đây ít ra nàng sẽ không phải sống trong nơm nớp lo sợ một ngày nào đó mình sẽ bị tổ chức phát hiện và truy lùng ra, một ngày nào đó những người đã cưu mang giúp đỡ nàng, những người mà nàng yêu quý và trân trọng sẽ vì nàng mà bị liên lụy. Ở đây không có tổ chức áo đen, không có Sherry. Nhưng nếu có cơ hội mà không trở về thì có khác gì chạy trốn. Nàng vốn không thuộc về nơi này, mà cũng phải trước giờ chẳng có nơi nào để nàng có thể thuộc về. Nhưng đây là quá khứ, nàng dù vô tình hay cố ý cũng đã lội ngược dòng thời gian. Hơn ai hết nàng hiểu những kẻ chống lại dòng thời gian sẽ bị trừng phạt. Nàng phải trở về để còn điều chế thuốc giải. Nàng có thể mang hình dáng trẻ con suốt đời cũng không sao nhưng cậu ta thì không. Nàng nợ cậu ta, đã nợ thì phải trả. Không biết giờ này đám nhóc thám tử nhí sao rồi, chắc bác Agasa cùng tên thám tử bốn mắt đó đã gọi người đến xuống vực cứu hộ.

Những cơn gió mát rượi đem theo hương hoa lan mơn man d.a thịt Haibara khiến nàng dù cảm thấy hơi lành lạnh nhưng cũng thật dễ chịu. Đúng là 700 năm trước có khác, môi trường chưa bị tàn phá nặng nề như hiện đại nên không khí thật trong lành, khí hậu không biết là do đặc thù của vùng đất này hay do trái đất chưa bị nóng lên bởi hiệu ứng nhà kính mà dù đang là mùa hè cũng thật mát mẻ. Mà khoan, theo như lời Chiêu Văn nói thì nàng đã lạc về năm 1280, trong trí nhớ và dựa vào kiến thức lịch sử của nàng thì thời gian này tại Nhật Bản là thời mạc phủ Kamakura dưới sự trị vì của dòng họ Hojo, năm 1281 đế quốc Mông Cổ bấy giờ là Đại Nguyên đã đem 15 vạn quân vượt biển sang xâm lược Nhật Bản lần thứ hai. Nếu nàng đến Nhật Bản ngay bây giờ thì sẽ vướng vào nạn binh đao. Vào giai đoạn này, khắp lục địa Á-Âu đều bị vó ngựa quân Mông Cổ bành trướng, vậy thì đất nước Đại Việt có biên giới giáp ranh Đại Nguyên này e rằng cũng khó tránh khỏi sự nhòm ngó của quân Mông Cổ. Nhưng chiến tranh xảy ra ở Nhật Bản vào năm nào nàng có thể nắm rõ thậm chí cả diễn biến còn ở mảnh đất nàng đang đứng đây thì chịu. Nàng chỉ biết năm 1283 vua của Đại Nguyên là Hốt Tất Liệt muốn đem quân viễn chinh xâm lược Nhật Bản lần thứ ba để phục thù cho hai lần thất bại trước nhưng do yếu tố khách quan là những sự kiện diễn ra tại Việt Nam vào giai đoạn đó đã giúp Nhật Bản thoát được cuộc xâm lược mới của quân Mông-Nguyên. Hiện tại, nàng thấy Đại Việt vẫn đang hưởng thái bình nhưng sắp tới thì sao. Nàng đã bị lạc về đoạn thời gian đầy binh đao khói lửa rồi. Nếu không tìm được cách về thế kỷ 21 ngay, có lẽ nàng sẽ lưu lại tại Đại Việt cho đến khi chiến tranh ở Nhật kết thúc rồi mới lên đường sang đó.
Đồng hồ bác Agasa cho nàng vẫn đeo ở tay nhưng xem giờ ở đây không khớp với nơi này, chẳng biết bây giờ là mấy giờ, đã khuya lắm chưa. Nàng cũng nên đi ngủ sớm, người ở đây ngủ sớm chắc cũng dậy sớm, mà nàng thì thuộc dạng thức đêm ngủ ngày nên theo như lời Conan thì nàng lúc nào mắt cũng lờ đờ và miệng cũng ngáp. Nàng đang ăn nhờ ở đậu vì vậy trong khi người ta dậy sớm thì mình cũng không thể nằm ườn ra đến trưa được. Nghĩ vậy, Haibara đóng cửa về phòng. Hương hoa cau thoang thoảng nơi chiếc gối dần dần đưa nàng vào giấc ngủ. Một giấc ngủ không có ác mộng bởi nơi này không có tổ chức áo đen.

Nàng chẳng thề ngờ hai người hôm nay mình gặp, một người là vị công chúa với sự hi sinh thầm lặng và cao cả đã đang và sẽ để lại trong lòng những thế hệ mai sau của Việt Nam niềm kính trọng và thương xót vô bờ và cho đến giờ cuộc đời của nàng công chúa “hồng nhan bạc mệnh” ấy vẫn còn là một bí ẩn lớn với các nhà sử học, một người là ông hoàng nổi tiếng tài hoa của thời Trần đồng thời cũng là một trong những vi tướng quân kiệt xuất được lưu danh thiên cổ trên những trang sử vàng chói lọi của Việt Nam.

Chú thích:

[1], [2], [3]: Nhật Duật đặt tên cho gia đinh và tỳ nữ trong phủ mình theo tên của 36 kế trong binh pháp tôn tử. Dương Đông trong dương đông kích tây, Minh Tri trong minh tri cố muội (nghĩa là biết rõ nhưng cố tình làm như không biết), Ly Sơn trong điệu hổ ly sơn.
[4]: Quân ta 3 lần chiến thắng đánh bại quân xâm lược trên sông Bạch Đằng, lần thứ ba là trong cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên lần thứ ba, trong khi tại thời điểm câu chuyện này xảy thì chưa có chiến thắng đó ra tức trước cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên lần thứ hai 5 năm. Nên An Tư đặt tên chỉ dựa trên hai lần chiến thắng đó.
[5] Sông Như Nguyệt là sông Cầu ngày này

[6] Sông Lô là sông Hồng ngày nay.
 
CHƯƠNG 3: Thư đồng.

Tiếng gà gáy ò ó o vang vọng chói tai vào sáng sớm tinh mơ lúc mặt trời còn chưa lên quá ngọn tre còn có tác dụng báo thức hơn bất kỳ chiếc đồng hồ báo thức nào khiến Haibara tỉnh giấc. Rạng đông hửng sáng cả chân trời. Nàng nghe đâu đây tiếng vun vút gì đó. Tò mò vì không biết là tiếng gì, Haibara mở cửa, đi dọc theo dãy hành lang gỗ uốn lượn như mình rồng. Càng đi thì tiếng động nàng nghe được càng rõ. Cuối cùng nàng dừng chân trước một cái sân rộng lát gạch, trên sân có các giá gỗ để đầy binh khí đủ các loại từ giáo, thương đến đao, kiếm đủ cả. Ngoài ra còn có bao cát treo lủng lẳng, những hình nhân gỗ cũng những hồng tâm có lẽ để tập bắn cung. Giữa sân, Nhật Duật đang chăm chú luyện kiếm nên không biết đến sự có mặt của Haibara. Thân thủ của người trước mặt nhanh nhẹn quá khiến nàng không nhìn rõ mặt người. Chỉ thấy bóng dáng người đó cùng tà áo màu nguyệt sắc ẩn hiển giữa những đường kiếm ảo diệu loang loáng ánh bạc. Có lẽ nàng đã đi đến khoảng sân dùng để tập võ. Haibara quay lưng đi tính men theo lối cũ trở về phòng mình vì không muốn làm phiền người ta thì Nhật Duật đã lên tiếng gọi:

- Ê nhóc đứng đây từ lúc nào thế?
- Xin lỗi vì đã làm phiền chú. – Nghe tiếng nói quen thuộc, Haibara quay lại thì nhận ra người luyện võ nãy giờ không ai khác chính là Chiêu Văn. Nàng không ngờ người nhìn dáng vẻ thư sinh nho nhã trói gà không chặt như anh ta lại võ công đầy mình như vậy, so với bạn trai của Suzuki Sonoko chỉ có hơn chứ chẳng thể kém.


Lúc này Nhật Duật đã tra kiếm vào vỏ, bộ võ phục thấm đẫm mồ hôi.
- Nếu nhóc muốn làm thư đồng của ta thì giờ Mão hãy đến thư phòng của ta. Còn thư phòng của ta ở đâu thì xem như thử thách thứ nhất. – Nhật Duật xoa đầu Haibara rồi bỏ đi. Không hiểu sao chàng cảm giác giữa mùa hè mà không biết từ đâu có gió lạnh ớn sống lưng thổi tới và một ánh mắt đầy sát khí đang nhìn theo chàng. Đến lúc ngó tứ phía thì chẳng có ai, bé con có lẽ cũng đã về phòng.


Nếu hôm nay kẻ xoa đầu nàng đến tóc tai rối bù như gà bới là Conan thì chắc hẳn cậu chẳng thể toàn mạng với cô bạn từng là cựu mafia của mình. Haibara vừa đi vừa vuốt lại mái tóc của mình cho vào nếp. Làm thư đồng cho Chiêu Văn ít nhất cũng không phải mang tiếng ăn nhờ ở đậu nữa, chính anh ta cũng bảo nàng như vậy thì sẽ có nhiều thời gian để dạy nàng học tiếng An Nam hơn. Công việc của thư đồng chắc cũng hao hao giống với một osin cao cấp, chắc không mấy nặng nhọc. Vậy thì trước mắt cứ nhận làm đã. Nàng nhẩm tính thứ tự 12 con giáp trong lịch Trung Quốc để tính giờ: Tí, Sửu, Dần, Thố, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Trong 12 con giáp làm gì có con nào là con Mão. Hay ở đây họ tinh khác. Nhẩm lại lần nữa, nếu nàng đoán không lầm thì giờ Thố chính là giờ Mão vì chỉ có hai con này là lệch nhau. Giờ Mão tương đương với 8 giờ sáng. Nhưng bây giờ là mấy giờ à không giờ gì. Còn phải tìm thư phòng của kẻ vừa dám cả gan xoa đầu nàng nữa. Nếu có thể hỏi được những người trong phủ thì đơn giản quá nhưng vấn đề ở đây là nàng nói người ta không hiểu, người ta nói nàng cũng không hiểu. Nhìn mặt trời đang lên cao, rồi nhìn độ dài của bóng mình dưới mặt đất, Haibara nghĩ bây giờ khoảng tầm 5 hoặc 6 h sáng. Nghĩa là nàng có khoảng 2 tiếng để tìm ra thư phòng của Nhật Duật trong cái phủ rộng lớn mà đường đi lối lại như mê cung này, nàng còn chưa thuộc đường.


………..
Sau khi dùng bữa sáng ở đại sảnh, Nhật Duật trở về thư phòng đọc sách và chuẩn bị một số thứ cho việc tuyển chọn thư đồng. Hôm nay chàng không phải vào triều nên có phần rảnh rỗi. Khi trở về thư phòng thì Ly Sơn đã chờ chàng ở cửa. Biết người này đến để báo cáo về việc mình đã nhờ hôm qua nên không cần anh ta mở miệng trình bày Nhật Duật gật đầu ra chiều hiểu ý rồi mời anh ta vào phòng. Tự rót cho mình chén trà Long Tĩnh rồi thư thái nhấp từng ngụm trà trong khi nghe Ly Sơn báo cáo:

- Bẩm đức ông, thuộc hạ bất tài không điều tra được bất cứ manh mối gì về đứa trẻ người Phù Tang tên Haibara Ai này, như thể nó không có quá khứ. Thuộc hạ đã hỏi những người bán hàng gần chỗ xảy ra vụ ồn ào chiều qua. Đa số họ nói là cô bé này từ trên trời rơi xuống. Còn chủ quán các tửu lâu quanh đấy họ bảo chẳng có đứa bé nào như miêu tả đến quán họ xin được lau lan can để đổi lấy thức ăn cả. Việc có người từ trên trời rơi xuống, đức ông nghĩ sao ạ?
- Ta nghĩ trên trời ngoài sao ra còn có trăng, mây, mặt trời – Trước câu hỏi nghiêm túc của Ly Sơn, Nhật Duật trả lời không hề nghiêm túc tí nào, chàng mỉm cười – Được rồi, chuyện này gác lại tại đây, ngươi cứ lui đi.
Dù trong lòng vẫn còn nhiều trăn trở, nhưng Nhật Duật đã bảo vậy nên Ly Sơn cũng đành cáo lui. Định bước đi sực nhớ ra có chuyện chưa nói, anh ta liền quay lại:
- Thưa đức ông, lúc điều tra xong, về đến cửa phủ thì thuộc hạ gặp Trần Mạnh, hộ vệ của công chúa An Tư đứng đợi sẵn để hỏi về kết quả của việc điều tra thân phận cô bé tên Haibara Ai như thế nào rồi.
- Tá đao sát nhân (mượn dao giết người) đây mà. – Nhật Duật lắc đầu, chàng không biết nói gì với cô em út này nữa. Nó biết chắc chắn chàng sẽ cho người đi điều tra nên ung dung ngồi ôm cây đợi thỏ, còn cho người “trơ trẽn” đến để hỏi kết quả.


………
Tiễn Ly Sơn rồi chuẩn bị xong những thứ cần thiết, Nhật Duật đẩy cửa thư phòng bước ra ngoài thì thấy Haibara đã đứng trước cửa phòng không biết từ bao giờ. Một tia sáng ngạc nhiên xen lẫn thích thú lướt qua đôi mắt trong suốt điềm tĩnh của chàng rồi nhanh chóng biến mất như chưa hề tồn tại. Chàng không ngờ nhóc con này lại tìm ra thư phòng của chàng sớm như vậy. Trông thấy Nhật Duật, Haibara biết nàng đã tìm đúng nơi, một nụ cười nửa miệng thấp thoáng trên bờ môi như cánh hoa anh đào ấy in vào đáy mắt của Nhật Duật. Nhìn thái độ cung kính của những người trong phủ đối với Nhật Duật, Haibara tin rằng người này có thân phận cao. Vì vậy chắc chắn nơi ở và làm việc phải là chỗ tốt nhất trong phủ. Từ nơi sân tập võ nàng đi theo dãy hành lang lớn nhất vì suy luận nó sẽ dẫn đến khu viên chính. Trên đường nàng tới đây có gặp một nhóm tỳ nữ ngăn cản có lẽ vì nàng là người mới họ chưa biết mặt lại thấy đi lung tung trong phủ nhưng sau đó có một người đàn ông trung niên mà nàng đoán là tổng quản của phủ ra nói gì đó với họ và họ để cho nàng tự do đi lại. Nhưng lạ là trước đó lúc đi lại tìm đường nàng cũng gặp những nhóm tỳ nữ khác mà không bị ngăn cản, có lẽ vì nàng đã đi vào nơi quan trọng trong phủ không phải ai cũng có thể tùy tiện ra vào nên họ mới như vậy. Nàng thấy các tỳ nữ đang tất bật lau chùi dọn dẹp những nơi khác chỉ có một khu viên mà nàng cho là đẹp và lớn nhất phủ là không vậy. Có thể là do chưa được sự cho phép của chủ nhân nên không được tùy ý vào quét dọn. Trước cửa còn có một hồ nước trong vắt nuôi cá và ngát hoa sen cùng một tiểu đình để hóng mát. Cảnh trí nơi này cũng được bày bố thật đẹp tựa như một bức tranh thủy mặc trữ tình với liễu xanh yểu điệu thướt tha như nàng thiếu nữ e ấp rue xuống mặt hồ, với hoa thơm khoe sắc. Trong những dãy lầu son gác tía thuộc khu viên thì dãy nhà này nằm về hướng nam, mùa hè thì mát màu đông thì ấm lại yên tĩnh. Haibara tính đi gõ cửa từng phòng một trong dãy nhà thì vừa vặn gặp Nhật Duật mở cửa phòng bước ra.

- Khá lắm – Nhật Duật dùng cán quạt vỗ vỗ vào lòng bàn tay không rõ tán thưởng hay chế giễu.- Nhóc theo ta vào đây.


Haibara theo Nhật Duật bước vào thư phòng. Bước chân lên bậc tam cấp nàng lúng túng kéo váy áo thướt tha lòe xòe do chưa quen với kiểu ăn mặc quần là áo lượt không được gọn gàng thuận tiện như quần áo hiện đại này lắm. Bộ dáng ấy của nàng khiến Nhật Duật buồn cười. Thư phòng khá rộng với những kệ toàn sách là sách đồ sộ kê sát nhau làm Haibara liên tưởng đến những chiếc kệ gỗ vòng toàn truyện trinh thám có thể đè chết người của Shinichi ở ngôi biệt thự đã bỏ hoang từ lâu à không bây giờ thì ở đó có một người là sinh viên cao học tên Subaru đang sống. Trên tường treo dăm đôi câu đối, tranh tứ bình bốn mùa xuân mai, hạ lan, thu cúc, đông trúc. Các cửa sổ mở rộng thông thoáng đón ánh nắng mai cùng những làn gió thoang thoảng hương hoa vào căn phòng. Trước cửa sổ ngoài treo những giỏ hoa lan còn có những chiếc giỏ đan bằng dây, bên trong đựng thứ quả có màu vàng đẹp mắt tỏa ra hương thơm khiến lòng người xao xuyến. Đó là trái thị, loại quả đã quá thân thuộc với người Việt và đi vào câu chuyện cổ tích Tấm Cám dạy con người ta về luật nhân quả ác giả ác báo, ở hiền gặp lành mà con nít đứa nào cũng thuộc.

Thư phòng trước giờ ngăn nắp gọn gàng của Nhật Duật nhưng hôm nay bừa bộn sách vở, giấy tờ vương vãi trên mặt bàn uống trà, án thư, dưới đất, lộn xộn như một bãi chiến trường. Đây chính là thành quả của chàng trong lúc đóng cửa thư phòng vừa rồi mà gia nhân tưởng là vương gia hôm nay muốn tĩnh tâm.
Ung dung ngồi xuống bàn uống trà, Nhật Duật thư thái bốc một nắm cốm làng Vòng ở chiếc đĩa bày trên bàn cho vào lòng bàn tay và ngồi nhấm nháp từng hạt một:

- Thử thách thứ hai, nhóc hãy dọn dẹp thư phòng này ngăn nắp gọn gàng trong thời gian một nén nhang.


Trước thử thách thứ hai mà Nhật Duật đưa ra, đôi mắt Haibara vẫn tĩnh lặng như cũ. Nàng nhìn cây nhang dài chừng 20 cm trên bàn, không biết nó sẽ cháy trong bao lâu thì tàn. Vừa tận hưởng cái hương thơm của sen, cái vị ngọt bùi thanh khiết tinh túy của trời đất được kết tinh trong từng hạt cốm xanh dẻo thơm xanh như ngọc bích, Nhật Duật vừa đưa mắt quan sát bóng dáng nhỏ bé đang thoăn thoắt dọn dẹp sắp xếp lại đống sách vở giấy tờ của Haibara. Không hiểu sao chàng lại có ý thích bắt nạt cô bé con chững chạc như người lớn này. Có lẽ cái sự tĩnh lặng, vô cảm, lạnh lùng và có phần bí ẩn trong đôi mắt đẹp nhưng man mác buồn, chất chứa u hoài của Haibara mà đáng lẽ ra phải trong veo ngây thơ như những đứa trẻ khác làm Nhật Duật nảy sinh “ý xấu” trong lòng. An Tư em gái chàng cũng có đôi mắt đẹp, rất đẹp, đẹp đến ma mị với rèm mi dày rậm cong vút, sóng mắt lưu chuyển linh động như triều thủy làm rung động lòng người. Những người khác nói em gái chàng có đôi mắt biết nói nhưng riêng chàng thì không nghĩ vậy. Nhìn vào đôi mắt long lanh tưởng chừng vui buồn đều lộ rõ của An Tư cũng khó dò tâm ý như nhìn vào đôi mắt hồ thu tĩnh lặng phảng phất làn sương mỏng hư ảo như có như không của cô nhóc trước mặt. Càng nghĩ chàng càng thấy hài lòng với ý nghĩ “xấu xa” là phải bắt nạt cô bé này, dù sao từ trước đến giờ chàng chưa bao giờ nhận mình là người tốt cả mà chỉ là người cực tốt thôi. Nếu Shinichi mà biết được ý định bắt nạt Haibara của chàng hẳn cậu ta sẽ vô cùng khâm phục chàng vì có can đảm và dũng khí chọc vào tổ kiến lửa. Cái vụ bị cô nàng cho ớt bột vào quần chỉ vì lỡ lời, đến giờ cậu ta vẫn còn nhớ mãi.

Trong đống giấy tờ vương vãi nàng sắp những tờ giấy trắng chưa có chữ vào một tập, những tờ giấy bị vo tròn lăn lóc dưới đất, nàng vuốt thẳng rồi xếp vào một tập, những tờ giấy đã kín chữ vào một tập, những tờ đang viết dở vào một tập. Còn sách, căn cứ vào lỗ hổng trên giá sách cũng như những điểm tương đồng giữa những cuốn sách trên từng ngăn với những quyển đang nằm ngổn ngang, Haibara sắp dần chúng lên những khoảng trống trên giá sách. Thôi ngừng ăn cốm, Nhật Duật nhấp ngụm trà rồi…chuyển sang ăn bánh đậu xanh. Haibara không hề biết có người vừa đang thưởng thức cái vị thơm ngọt mang hương hoa bưởi, béo ngậy nhưng không ngán của đậu xanh xen lẫn vị mỡ màng của mỡ lợn dần trong miệng vừa đưa đôi mắt tinh quái dõi theo nàng khi thấy nàng đang bắc ghế rồi khệ nệ bê chồng sách để xếp lên cái ngăn trên cao. Đến lúc sắp xong bước xuống do gấu váy lĩnh dài quá vướng vào chân nàng làm nàng mất thăng bằng ngã xuống. Không thấy cái cảm giác đau đớn như mình tưởng, Haibara mở mắt thì thấy mình đã nằm trong vòng tay vững chãi của Nhật Duật. Mùi hương bạc hà thanh mát lại vương nơi cánh mũi thanh tú của nàng. Nhật Duật đặt Haibara xuống đất, không quên ăn nốt miếng bánh đậu xanh cắn dở đang cầm trên tay:

- Cẩn thận chứ nhóc, ta muốn làm anh hùng cứu mỹ nhân cơ chứ không muốn cứu một nhóc tì như nhóc đâu.
- Cảm ơn. – Haibara đáp – Cháu thu dọn xong rồi. Nén nhang vẫn chưa cháy hết.
- Không cần cảm ơn, ta là người thi ân bất cầu báo. Tại sao những tờ giấy ta đã vo tron vứt lăn lóc xuống đất, nhóc không vứt đi mà lại làm thế này – Nhật Duật cầm tập giấy dù đã được vuốt phẳng nhưng vẫn còn hằn những nếp nhăn nhúm lên.
- Vứt hay không là quyền của chú quyết định. Đừng nhìn bề ngoài mà đánh giá, có những thứ tưởng là đồ bỏ đi nhưng lại là đồ hữu dụng và ngược lại cũng như đừng trông mặt mà bắt hình dong. Nhiệm vụ của cháu là khiến căn phòng này trở nên gọn gàng ngăn nắp chứ không phải tùy tiện quyết định số phận của những đồ đạc trong này mà chưa có sự đồng ý của chú. Nếu thực sự những tờ giấy này là đồ bỏ thì cháu cũng đã xếp gọn vào một tập, nếu chú bảo vứt đi thì cũng sẽ nhanh chóng được thực hiện. – Nàng thản nhiên đáp, sau thấy chút hối hận vì mình đã không trả lời giống trẻ con một chút khi nhìn thấy những tia sáng kỳ lạ lướt qua trong đôi mắt tinh anh của Nhật Duật dù rất nhanh gần như không có nhưng nàng vẫn nhận ra. Conan thường ghen tỵ lẫn thắc mắc là tại sao nàng không cố tỏ ra trẻ con mà vẫn không bị nghi ngờ, đơn giản là vì nàng kiệm lời, ít khi thể hiện hiểu biết và ra vẻ ta đây cái gì cũng biết như hắn, vậy thôi.


Lướt qua kệ sách, Nhật Duật gật đầu hài lòng khi thấy nó không thay đổi mấy trước khi bị chàng lục tung lên. Lúc Haibara sắp xếp sách , chàng đã quan sát nàng nên cũng biết cách nàng làm nên không hỏi nữa. Cái đã biết câu trả lời, chàng không muốn mất thời gian vì nó.

- Nhóc ngồi xuống. Ăn đi – Chỉ vào một chiếc ghế trống cạnh bàn trà, rồi đẩy đĩa cốm và đĩa bánh đậu xanh về phía Haibara đồng thời rót cho nàng một chén trà, Nhật Duật thong thả nói – Thử thách thứ hai nhóc vượt qua. Giờ là thử thách thứ ba. Ta hỏi nhóc mấy câu. Nhóc hãy trả lời.
- Ăn đi, không có độc đâu, nhóc không thấy ta ăn từ nãy đến giờ à? – Thấy Haibara chỉ ngồi không, Nhật Duật bông đùa rồi chàng lơ đãng nhìn ra rặng liễu xanh nơi hồ nước – Câu thứ nhất, có 10 ngọn nến đang cháy, một trận gió thổi qua làm tắt 8 ngọn nến, hỏi còn mấy ngọn nến?
- Còn 8 ngọn – Nhật Duật vừa dứt lời, Haibara đáp ngay.- Hai ngọn nến không bị gió thổi tắt nên vẫn cháy cho đến hết, còn 8 ngọn nến kia lửa đã tắt nên vẫn còn nguyên.
- Đúng – Nhật Duật hứng thú rồi chàng chỉ vào đĩa bánh đậu xanh trên bàn– Câu thứ hai, ta có 17 cái bánh đậu xanh, ta muốn chia cho nhóc 1/9 số bánh, cho An Tư 1/3 số bánh và giữ lại cho mình 1/2 số bánh. Nhóc hãy chia thử cho ta xem.
- Chú được 9 cái bánh, chị An Tư được 6 cái, cháu 2 cái. – Lần này cũng vậy, Nhật Duật vừa đưa câu hỏi xong thì Haibara không cần suy nghĩ đến nửa giây trả lời luôn, mấy câu hỏi đố kiểu này nàng bị tổ chức bắt làm suốt hồi 4 tuổi để kiểm tra chỉ số IQ-Đây là câu đố mẹo, 17 không thể chia hết cho 9, 3 và 2. Vì vậy cháu phải mượn thêm chú một cái bánh nữa là 18 rồi mới chia, sau khi chia xong cộng lại là 17 cái, thừa một cái bánh trả lại chú.
- Giỏi – Nhật Duật vỗ tay tán thưởng– Hôm nay dừng ở đây, thử thách cuối cùng để vào ngày mai – Giờ ta bắt đầu dạy nhóc học tiếng An Nam. Học mấy câu đơn giản trước. Có câu “nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. Nhóc phải gọi ta là thầy, xưng trò ta mới nghe. – Nhật Duật e hèm cố lấy giọng nghiêm trang
………………..
Sáng nào cũng vậy, khi lá cây hãy còn đọng những giọt sương đêm tinh khiết, An Tư đã thức dậy. Nàng ra khoảng sân rộng rãi thoáng mát trước Tân Nguyệt điện để luyện võ. Vung sợi dây xích vun vút trong không khí và khéo léo điều khiển khiến nó lợi hại như một con linh xà dũng mãnh mà uyển chuyển, mềm mại mà uy vũ uốn lượn trong không trung. Sợi dây xích này chính là sợi xà tích bạc nàng vẫn đeo ở thắt lưng. Sau khi luyện thành thục những chiêu thức Lô Giang mới dạy, nàng thu sợi dây lại. Hồi nhỏ nàng đã xin phụ hoàng cho nàng học võ và người đã đồng ý. Dựa vào người khác không bằng dựa vào bản thân mình, chỉ có tự đứng bằng sức lực và trên đôi chân mình mới có thể vững vàng và bền bỉ nhất. Ai nói là nữ nhi thì phải khêu môn bất xuất, tự túc cầm thân, chỉ được biết đến tam tòng tứ đức. Lại bàn đến việc học tam tòng tứ đức nàng đã khiến nữ quan dở khóc dở cười không nói lên lời vào năm nàng lên 8 tuổi Lúc giảng đến đây thấy nàng lơ đãng, nữ quan hỏi lại thì nàng thấy nàng nhắc lại y nguyên lời mình vừa nói nhưng còn chưa kịp hài lòng thì nàng đã lên tiếng bày tỏ suy nghĩ của bản thân: Công có nghĩa là nữ nhân được ưu tiên làm những công việc nhẹ nhàng, dung là nữ nhân phải được tạo điều kiện để chăm sóc sắc đẹp, ngôn là nữ nhân phải được nói lên ý kiến quan điểm của mình, còn hạnh là nữ nhân phải được hạnh phúc. Tam tòng nghĩa là tại gia tòng kỷ, xuất giá tòng kỷ, phu tử tòng kỷ. Nàng còn nói tại sao cuộc đời người con gái lại bị ràng buộc bởi những thứ đó, họ cũng có thể làm nên nghiệp lớn như Nhụy Kiều tướng quân hay Lệ Hải bà vương mà dân gian thường gọi là bà Triệu đã từng khảng khái: ”Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp cho người” khi có người hỏi bà về chuyện chồng con năm bà 19 tuổi. Nghe chuyện này, Trần Thái Tông cũng đành bó tay với suy nghĩ kỳ quái về đạo tam tòng tứ đức của cô con gái út, mấy ông anh nàng cũng há hốc mồm trợn tròn mắt đến mức trông rất mất thân phận và hình tượng. Như công chúa Thụy Bảo khi được vua cha hỏi về ước mơ, nàng trả lời rằng lớn lên sẽ lấy được một đức lang quân như ý hết lòng yêu thương mình, có một gia đình hạnh phúc. Âu cũng là lẽ thường phụ nữ thời phong kiến thường coi chồng như trời. Còn An Tư khi vua cha hỏi tới, nàng trả lời:”Ước mơ của con là vì có sự hiện diện của con mà cuộc đời này khác đi một chút”. Khẩu khí của nàng làm Thái Tông ngạc nhiên. Đứa trẻ này đáng tiếc lại mang phận nữ nhi không thì cũng sẽ chẳng thua kém gì các anh mình.

Những lúc ở trong tẩm cung, buổi sáng sớm tinh mơ nàng thường luyện võ, sau đó nghe nữ học sĩ giảng bài, chiều đến nàng thường ngồi luyện đánh đàn không thì chơi cờ, tối lại đọc sách. Các anh nàng đều là những bậc kỳ tài, tài hoa xuất chúng, là nhân trung long phượng. Nàng vì thế mà cố gắng chăm chỉ học hỏi, rèn luyện, nàng không muốn mình quá kém cỏi so với các anh. Cầm, kỳ, thi nàng đều tinh thông. Nàng chơi độc huyền cầm[1], đánh đàn tranh, gảy tỳ bà. Tiếng đàn làm cho trời đất có thể hân hoan nở hoa, nhưng cũng có thể khiến lòng người đổ lệ sầu muộn thê lương. Nàng làu thông kinh sử, am tường điển tích, ca từ thi phú đều tường tận, binh pháp cũng thuộc lòng, ca vũ ít người sánh kịp. Nói nàng tương lai khi trưởng thành sẽ là tài nữ kinh thành cũng không phải là không có căn cứ.

Còn riêng khoản họa thì nàng vẽ phụng hoàng người ta lại tưởng đó là một con gà trụi lông xấu xí, nàng vẽ hoa sen thì trông giống nải chuối, nàng vẽ liễu rủ mặt hồ chẳng khác rắn lục là bao, nàng vẽ rồng lại hóa giun. Nhật Duật đã từng hào hứng lẫn hớn hở làm người mẫu để nàng họa chân dung nhưng sau đó nhìn tác phẩm của An Tư, chàng thấy dung nhan tuấn mĩ hơn người của mình bị hủy hoại một cách không thương tiếc đến mức vô cùng phũ phàng dưới ngòi bút tài hoa của cô em, đáng ra chàng nên nghe lời hoàng huynh là Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc. Trong số các anh em thì Trần Ích Tắc có tài năng về hội họa nổi trội hơn cả và xuất chúng hơn cả, đến họa sư cung đình cũng phải cam bái hạ phong. Chàng đã tốn công sức chỉ bảo cho An Tư nhưng kết quả chẳng khả quan là bao. Vì vậy khi nghe Nhật Duật kể chuyện là được An Tư nhờ làm người mẫu cho nàng vẽ, Ích Tắc đã hết lời khuyên ngăn đứa em chớ dại dột giao trứng cho ác, bởi tài năng của An Tư như thế nào chàng đã được thọ giáo qua. Nhưng Nhật Duật đã không tin lời anh. Công chúa Thụy Bảo cũng có chung số phận với Nhật Duật, nhan sắc của Thụy Bảo tuy không đến mức nghiêng nước nghiêng thành nhưng cũng đủ để khiến “hoa cười ngọc thốt đoan trang” và”mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”[2]. Vậy mà dưới ngòi bút lông của An Tư, dung nhan nàng chẳng khác Chung Vô Diệm[3] là bao. Hội họa bỏ qua, đến khoản thêu thùa may vá, An Tư có thể múa đao kiếm cả ngày mà không mảy may xước xát nhưng nàng cầm kim chỉ chốc lát là 10 ngón tay thon bị kim đâm chảy máu, tấm khăn thêu lấm tấm những chấm đỏ tươi. Ngoài ra, các hoàng huynh nàng tuy mỗi người một tính nhưng đều có tư tưởng lớn gặp nhau rằng thà uống thuốc độc còn dễ chịu hơn ăn thức ăn do nàng đích thân nấu.

Cuộc sống quanh quẩn trong bốn bức tường của cung cấm đôi lúc khiến nàng nhàm chán. Thi thoảng nàng cũng được hoàng huynh Trần Hoảng cho phép ra bãi cưỡi ngựa, bắn cung. Nàng là người hiểu chuyện, biết suy nghĩ cẩn thận trước khi hành xử, cân nhắc trước sau, cương nhu đúng lúc, không nóng nảy bốc đồng nên để nàng ra ngoài Thái Thượng hoàng cũng lấy làm yên tâm.

Chú thích:[1] Độc huyền cầm: đàn bầu

[2] Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du


[3] Chung Vô Diệm: là một trong ngũ xú Trung Hoa, Hoàng hậu của Tuyên Vương Điền Tịch Cương nước Tề. Bà là người có dung mạo xấu xí nhưng có tài, Vô Diệm trong tên bà nghĩa là không đẹp. Bà được tả rằng “sinh ra trán cao, mắt sâu, bụng dài, chân thô, mũi hếch, xương cổ lòi ra, lưng gù, da đen đúa…”


 
CHƯƠNG 4: Tri tâm

Một ngày mới khác lại bắt đầu, hôm nay Haibara theo chân một người tỳ nữ tên Băng Tâm [1] trong phủ Nhật Duật đến cửa hàng mua giấy bút nghiên mực. Băng Tâm có cha làm quan thông ngôn cho triều đình nên nàng ta cũng biết chút ít tiếng Phù Tang. Vì vậy mà Nhật Duật mới để nàng ta đi cùng Haibara. Vừa bước chân vào cửa hàng giấy bút, Haibara đã thấy phảng phất hương mực tàu cùng mùi giấy mới. Băng Tâm nhìn nàng:

- Em có biết chọn giấy mực như thế nào là tốt không? Nếu chọn loại dở về e sẽ bị tổng quản khiển trách.
- Em không. – Haibara lắc đầu – Hỏi người bán thì bao giờ họ cũng nói tốt cho hàng của mình. Chị ở trong phủ đã lâu chắc cũng biết trong phủ hay dùng loại giấy nào, e nghĩ mình cứ mua loại ấy là được chị ạ.
- Giấy tốt là giấy khi soi lên nắng có độ dàn trải đều, khong được có chỗ dày quá, chỗ mỏng quá. Độ trắng vừa phải, mặt giấy mịn. Còn mực khi cho nước vào mài không được vón cục, có độ sóng sánh và màu đen giống như thế này, khi viết lên giấy dưới ánh sáng sẽ thấy nét mực óng ánh. Đầu bút lông làm bằng lông chồn mềm như thế này là thích hợp dùng để vẽ - Băng Tâm tận tình chỉ vào đống giấy mực bày bán trong hàng, những điều căn bản cho Haibara.

Sau đó Băng Tâm cùng nàng đi vòng quanh cửa hàng và mua 10 thếp giấy dọc rồi, 3 cuộn giấy lớn dùng để vẽ tranh và 30 bút lông các loại. Đến lúc ra quầy đưa ông chủ tính tiền, Băng Tâm kêu đau bụng phải đi cầu tiêu, nàng đưa cho Haibara túi tiền trong đó có 100 quan, kêu Haibara trả tiền cho ông chủ.

- Của cháu là 30 quan – Ông chủ gảy lách cách trên cái bàn tính bằng gỗ nhỏ có những hạt đầy màu sắc.
- Đây ạ - Haibara lấy từ trong túi tiền ra 3 xâu tiền đưa cho chủ quán. Hôm qua Nhật Duật tính chỉ dạy nàng một số câu như chào hỏi, tên tuổi thôi nhưng chàng không ngờ nàng lại học nhanh như vậy nên dạy được cả số đếm, đủ để hôm nay Haibara hiểu được lời ông chủ quán và trả lời ông ấy, dù phát âm của nàng chưa hoàn toàn giống như người An Nam được. Đơn vị tiền tệ ở đây, sáng nay trước khi đi, Băng Tâm cũng đã chỉ qua cho nàng.

Khi Băng Tâm trở lại, thì ông chủ đã cho người đóng gói hàng rồi cho một người sai vặt giúp hai nàng đem đồ về nhà. Băng Tâm bảo ông ta, đây là số đồ Chiêu Văn vương sai nàng đi mua, ông ta hãy cho người đưa đến phủ Chiêu Văn Vương trước cho nàng khiến ông ta há hốc mồm ngạc nhiên vì không ngờ hôm nay lại có nhân vật lớn như vậy mua hàng của mình. Hàng của vương gia, em của Thái thượng hoàng, chú ruột của đương kim hoàng thượng, nào ai dám sơ sẩy.

Trên đường về, Haibara cùng Băng Tâm đi qua khu chợ. Những quầy hàng bày dưới các lán lá đầy màu sắc. Các bà các cô chít khăn mỏ quạ, mặc áo mơ ba mơ bảy dập dìu tấp nập cắp rổ đi chợ. Tiếng chào mua gọi bán rôm rả cả một góc trời. Cái nắng vàng như mỡ gà của mùa hè làm Băng Tâm phải đội cái nón quai thao. Đi qua quán hàng của một bà lão trong góc chợ, Băng Tâm níu tay áo Haibara:

- Vào đây uống miếng nước cho đỡ khát đã em.
- Nhưng em thấy chú đã sai em và chị đi làm việc thì nên đi đến nơi về đến chốn, không nên để chú ấy phải đợi – Nhật Duật dặn Băng Tâm đừng nói cho Haibara biết thân phận của mình nên nàng không ngạc nhiên khi thấy Haibara chỉ là một thư đồng nhỏ bé mà lại gọi vương gia quyền cao chức trọng như vậy.
- Ôi dào, lo gì. Nếu em sợ cứ về trước đi. Người của cửa hàng sẽ đem đồ về phủ, chỉ cần nhìn thấy thứ mình cần là đức ông hài lòng rồi – Băng Tâm phẩy tay, đoạn nàng kéo tay Haibara rồi ấn nàng ngồi xuống chiêc ghế con trước cái bàn che bầy trầu thuốc của của bà lão tóc bạc phơ như cước.

Haibara tần ngần rồi cũng ngồi im, nàng không biết đường về thôi thì đành đợi cô nàng này ăn vặt xong vậy.

- Hai cháu ăn gì – Bà lão đon đả, bàn tay lốm đốm đồi mồi nhiệt dùng phe phẩy cái quạt mo cau cho khách, nở nụ cười đôn hậu để lộ hàm răng đen nhánh như hạt na của mình khiến Haibara ngạc nhiên. Nhuộm răng đen là một tập tục lâu đời của người Việt, trong suốt hơn 1000 năm Bắc thuộc, tập tục này vẫn chẳng hề bị phai nhòa hay mất đi.
- Cho cháu hai bát tào pha (phớ)[2] - Băng Tâm nhanh nhảu.
- Có ngay – Bà lão mở vung cái niêu đất lớn rồi dùng cái vỏ trai to óng ánh lớp xà cừ hớt từng lớp tào pha cho vào hai cái bát chiết yêu, rồi rót nước đường ướp hoa nhài đựng trong một cái ấm cho ngập những miếng tào pha trắng ngà, đoạn đẩy hai cái bát trước mặt hai người khách, tươi cười – Hai cháu ăn đi.
- Ăn đi em, ăn cho mát. – Băng Tâm giục Haibara.
Haibara nhìn món ăn dân dã trước mặt, những miếng trông gần giống như caramen hay thạch trắng mịn trong nước đường. Nàng ăn thử thì thấy cái vị ngọt thanh phảng phất hương hoa nhài của nước đường hòa cùng với vị bùi của miếng tào pha mềm mại tan ra trong miệng, khiến người ta ăn rồi lại muốn ăn nữa. Hôm qua, cái món cốm dẻo thơm từng hạt như hạt ngọc và bánh đậu xanh mà Nhật Duật mời cũng làm nàng thầm tấm tắc khen ngon. Genta mà có ở đây chắc phải ăn mấy món này đến không ních nổi mới thôi mất.

Băng Tâm lấy tiền trong chiếc túi gấm mà nàng đã đưa cho Haibara để trả tiền giấy bút để gửi bà cụ. Mua thêm mấy cái kẹo lạc với hai bát tào pha, bà cụ chỉ lấy một hào.

- Khi về, tổng quản có hỏi mua đồ hết bao nhiêu tiền thì em nói mua hết 40 quan nhé, số dư chị em mình chia nhau, chị 7 quan, em 3 quan – Trên đường từ quán bà lão về phủ, Băng Tâm dụ dỗ Haibara.

Cô nàng này không những la cà quán xá lại còn muốn bòn rút tiền rồi lôi kéo nàng theo. Nếu nàng nói không thì e rằng sẽ sợ gây thù với cô ta, sau này cũng khó sống bình yên, còn nếu có thì nàng cũng không thể. Cô ta sống trong phủ đã lâu dĩ nhiên có được lòng tin hơn nàng, giả nàng từ chối chống lại ý cô nàng, túi tiền tổng quản giao cô ta đang giữ, cô ta có thể lấy đi một ít rồi đổ nàng ăn cắp. Người ta sẽ tin người lâu năm trong phủ hơn là mọt kẻ chân ướt chân ráo mới đến lại lai lịch bất minh như nàng. Thấy Haibara im lặng thì Băng Tâm tưởng nàng đồng ý, ngoài mặt vui vẻ nhưng đôi mắt Băng Tâm đang thẫm dần lại.
Về đến phủ, Băng Tâm đưa lại túi tiền cho lão tổng quản, lễ phép thưa:

- Tiểu tỳ mua hết 40 quan ạ
- Có đúng vậy không – Tổng quản nhìn Haibara hỏi.

Băng Tâm đinh ninh Haibara sẽ gật đầu nhưng không ngờ nàng lấy trong người ra một tờ giấy gấp tư:

- Chủ cửa hàng đưa cho cháu tờ giấy này nhưng cháu không biết chữ, ông xem hộ cháu được không – Haibara đưa tờ giấy cho tổng quản.

Ông tổng quản xem tờ giấy rồi gật đầu bảo Haibara về phòng. Nàng vâng lời yên tâm rời đi, tờ giấy đấy không phải chủ cửa hàng cho nàng mà nàng đã yêu cầu ông ta viết tên, số lượng rồi giá cả và tổng tiền các mặt hàng vào đó, nó giống như hóa đơn ở hiện đại. Trên tờ giấy có chữ ký và dấu tay cũng như ấn ký của cửa hàng để làm chứng. Nhìn tờ giấy đó, tổng quản khắc biết nên làm gì. Còn nàng chưa từng gật đầu hay đồng ý với đề nghị của Băng Tâm, lại thêm nàng không biết chữ do đó không biết bên trong viết gì nên mới nhờ tổng quản đọc hộ, Băng Tâm cũng chẳng thể đổ lỗi cho nàng làm cô ta bị lộ chuyện bớt xét.
Khi Haibara đã đi khuất, lão tổng quản bảo Băng Tâm:

- Trong tờ giấy này ghi số tiền phải trả chỉ có 30 quan, tiểu thư đến thư phòng thưa kết quả cho đức ông được rồi.
- Tờ giấy này là do cô bé đó chủ động xin chủ cửa hàng, lúc đó tôi giả vờ ra hậu sảnh rồi lấp sau tấm mành trúc mà quan sát. - Băng Tâm mỉm cười.

Giờ cơm trưa, Haibara ăn cùng những gia nhân trong phủ ở một căn phòng rộn lớn, khoảng 5 người một bàn. Trên bàn có một bát canh to. Ấy là canh cáy với cái màu xanh của rau đay và màu nâu pha trắng của gạch. Thêm bát cà pháo cùng món cá bống kho tộ, đĩa thịt ba chỉ luộc và rau muống xào tỏi. Đối với nàng những món ăn này hết sức lạ lẫm. canh không phải ăn riêng mà chan vào cơm để ăn cùng. Món canh ăn vào đến đâu mát ruột đến đấy với vị ngọt bùi của gạch cáy, vị thanh mát của rau đay ăn cùng cái món cà pháo cay cay chua chua ngọt ngọt giòn tan. Cá kho mềm đậm đà, miếng rau muống xào tỏi vừa thơm vừa đằm.

Chiều đến. Nhật Duật giản dị trong chiếc áo sồi nâu, ngồi trên chiếc chõng tre kê trước cử thư phòng, vừa thưởng trà hoa mai vừa đọc cuốn Binh thư yếu lược của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Vốn định sắp tới sẽ về thăm thái ấp ở Quảng Xương, Thanh Hóa ra sao nhưng có lẽ không được, sáng nay thiết triều, các quan báo lên quan gia[3] rằng vùng người Man phía Tây Bắc đang có biến. Có lẽ sắp tới thể nào cũng có nổi loạn không yên, gây hấn với triều đình.

Nghe tiếng guốc mộc lạch cạch trên nền gạch, Nhật Duật không rời mắt khỏi trang sách cũng biết người đang đến là học trò nhỏ mới nhận hôm qua của mình. Chiều qua rảnh rỗi, chàng đã dẫn Haibara đi xem một lớp học củ thầy đồ trong kinh thành. Ở đó bọn trẻ rất lễ phép và cung kính với thầy giáo. Thầy đồ áo the khăn xếp đạo mạo cầm chiếc roi ngồi trên sập gỗ giảng bài, bọn trẻ tóc chỏm đào ngồi dưới ê a đọc theo. Chúng một điều bẩm thầy, hai điều bẩm thầy, đều khoanh tay cúi đầu thưa rất lễ phép. Ấy là truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc Việt. Không phải không có lý do mà Nhật Duật dắt nàng đi xem, bởi vậy hôm nay khi đến trước mặt Nhật Duật, Haibara phải khoanh tay cúi đầu nói:

- Bẩm thầy, trò đã đến rồi ạ - Qua sông thì phải lụy đò, từ nhỏ nàng đang hưởng nền giáo dục từ Mỹ một đất nước ưa chuộng tự do nên thực sự ngạc nhiên khi thấy ở đây vào thời này, thầy đồ lại được nể trọng như vậy, bọn trẻ có thể không sợ bố mẹ nhưng đều nghe lời thầy dạy một phép, lại hết sức cung kính. Nhập gia tùy tục, Nhật Duật đã nói rõ một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy, nếu Haibara đã theo học tiếng An Nam chàng dạ thì phải đối đáp ứng xử theo lễ nghĩa sư trò ở đây. Chắc Conan có nằm mơ cũng chẳng thể có ngày tin được cô bạn ăn nói “xấc xược” của mình có ngày lại ăn nói nghe có vẻ cung kính với người khác như vậy. Tại sao lại nghe có vẻ bởi lời nói là vậy, lễ phép đó nhưng ngữ điệu của nàng thì vẫn như cũ từ trước đến giờ, lãnh đạm thờ ơ.

- Thầy sẽ nhận trò vào làm thư đồng cho thầy, mỗi tháng trò lĩnh 10 quan, không kể ăn ở. Thế nào? – Nhật Duật buông cuốn binh thư xuống…và bóc kẹo lạc nhấm nháp. Vị ngọt thanh của mạch nha cùng vị bùi bùi giòn giòn của lạc quấn quýt nơi đầu lưỡi. Nhấp ngụm trà để làm tan cái ngọt trong miệng, Nhật Duật hỏi.

- Chẳng phải hôm qua thầy nói còn một thử thách cuối cùng nữa sao? – Haibara ngạc nhiên, rồi một chuyện lướt qua trong tâm trí nàng – Có phải chuyện sáng nay chính là thử thách đó.

- Thông minh – Nhật Duật vừa tiếp tục công cuộc nhai kẹo lạc cồng cộc vừa nói – Băng Tâm vốn dĩ không phải tỳ nữ trong phủ, vì cô ấy cũng biết chút ít tiềng Phù Tang nên ta nhờ cô ấy đi cùng trò, cô ấy bảo trò biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, trả tiền thành thật, không bớt xén, không la cà quán xá, không bị dụ dỗ ăn bớt tiền. Có điều ta ấn tượng với cái cách trò nói sự thật với tổng quản.

- Vậy là thầy chính thức nhận trò làm thư đồng – Nàng khẳng định
- Nhất ngôn cửu đỉnh – Nhật Duật nhấp ngụm trà.
- Vâng. Vậy thầy hãy làm hợp đồng lao động – Haibara trả lời.
- Hợp đồng lao động ? – Nhật Duật không hiểu hỏi lại

- Nghĩa là một tờ cam kết có nội dung ghi rõ về việc thầy thuê trò làm thư đồng. Trong đó ghi cụ thể những công việc mà một thư đồng phải làm, tiền lương phải trả trong một tháng, trả vào ngày nào, thuê trong bao lâu, nếu ai vi phạm hợp…cam kết sẽ bị phạt như thế nào – Haibara giải thích cho rõ ý kiến của mình.

- Được thôi – Đôi mắt yên tĩnh trong suốt của Nhật Duật ánh lên những tia sáng khác lạ trong chốc lát rồi biến mất, có điều nụ cười thản nhiên điềm tĩnh trên bờ môi kiên nghị của chàng mà theo Haibara là phớt đời vẫn không đổi - Nhưng nhóc thực sự bao nhiêu tuổi vậy – Nhật Duật đột ngột nhìn xoáy thẳng vào đôi mắt tĩnh lặng như mặt hồ soi bóng mây của Haibara. Cái nhìn tinh anh đó giống như đôi mắt của con hổ sáng quắc, đầy uy quyền và ngạo khí lấn át người khác, cái nhìn xuyên thấu tâm can như muốn đọc rõ nội tâm người đối diện, khiến người đó vô thức cúi đầu. Người thanh niên có gương mặt trẻ con trước mặt nàng sao lại có thể thay đổi nét mặt nhanh đến như vậy chưa đầy cái chớp mắt. Cái nhìn của chàng làm cho đôi mắt mênh mang như làn thu thủy ấy xao động.

- Nhóc thông minh nhưng không phải là cái thông minh của trẻ con, cũng không phải của thần đồng. Cách cư xử và ứng phó càng không. – Ngừng lại, cầm quyển binh thư lên tiếp tục đọc, Nhật Duật nói tiếp mà không nhìn Haibara, ngữ điệu không đổi bình thản nhưng mang sắc thái lạnh lẽo – Giống như là một người lớn trong lốt trẻ con. Ta đã cho người điều tra những lời nhóc nói về việc lên lầu xin lau lan can đổi thức ăn rồi bị ngã xuống. Là nói dối. Ngoài ra người của ta cũng chẳng điều tra được bất cứ thông tin gì về nhóc. Lúc nhóc kể về hoàn cảnh của mình cho ta và An Tư trong lần đầu gặp mặt, sự đáng thương và đau khổ trên mặt nhóc là diễn kịch. Không chỉ ta nhận ra mà An Tư cũng vậy. – Nói xong, Nhật Duật chú tâm vào những dòng chữ màng như không cần câu trả lời hay giải thích của Haibara, gương mặt vẫn điềm tĩnh như cũ chỉ có điều phảng phất làn sương lạnh khiến người ta nhìn nét mặt chàng mà khó đoán tâm ý.

Trước giờ nàng vẫn luôn tự tin vào khả năng diễn xuất y như thật của mình nhưng lần này lại bị người khác phát hiện dễ dàng đến vậy. Nhật Duật thì thôi, không nói làm gì, anh ta cũng đã 25 tuổi, sự đời chắc cũng nếm trải không ít, nhưng ngay cả một thiếu nữ non trẻ mới 14 tuổi như An Tư cũng có thể nhận ra nàng đã diễn kịch ư?

- Tôi nói anh sẽ tin chứ. – Sau một thoáng xao động, làn thu thủy ấy lại yên ả như cũ. Haibara cân nhắc, suy nghĩ kỹ, nếu không nói những gì thực sự xảy ra nàng cũng không biết phải giải thích thế nào. Sự thật cũng chẳng có gì phải giấu vì ở đây không có tổ chức áo đen, thân phận của nàng người ta có biết cũng chẳng nguy hiểm, nhưng chỉ là quá khó để người ta có thể tin, đến bản thân nàng còn chẳng thế tin được nữa là người khác. Vì vậy nàng mới phải nghĩ ra một lý do, bịa ra một hoàn cảnh khác để nói.

Trước cách thay đổi xưng hô đột ngột của Haibara, Nhật Duật vẫn im lặng không đáp, chẳng rõ không quan tâm hay đang chờ đợi câu trả lời.

- Tôi sẽ rời khỏi đây. Cảm ơn anh và An Tư đã giúp đỡ mấy ngày qua. – Haibara quay lưng rời khỏi, tà áo tứ thân màu anh đào phất phơ lay động trong gió.Tiếng guốc mộc nện trên nền gạch xa dần.

Nhật Duật không giữ lại. Thực ra từ trước đến giờ và sau này cũng thế, chàng vốn dĩ không cần thư đồng. Những việc như cắt giấy, mài mực, dọn dẹp thư phòng chàng muốn tự mình làm. Việc tuyển chọn thư đồng chẳng qua chỉ là một cái cớ để chàng kiểm tra và thử Haibara mà thôi.

Khi bóng nàng khuất hẳn, từ trong thư phòng của chàng, có 4 thiếu nữ bước ra. Một mặc áo tứ thân mau thủy lam tóc vấn đuôi gà, ba mặc võ phục màu tím hoa sim, tóc búi cao gọn gàng sau gáy. Đó là An Tư, Hát Giang, Lô Giang và Như Nguyệt.

- Như Nguyệt và Lô Giang, hai cô hãy đi theo cô bé đó – Nhật Duật lên tiếng.
- Thuộc hạ hiểu – Hai nàng chắp tay thưa.

An Tư ngồi xuống chõng tre cạnh Nhật Duật. Chàng mỉm cười:

- Đứa trẻ này cũng dễ tự ái quá.
- Là tự trọng – An Tư sửa lại.
- Thưa, liệu có phải đức ông và công chúa đa nghi quá không. Thuộc hạ thấy đó chỉ là một đứa bé sao có thể là gián điệp được. – Hát Giang đứng bên cạnh thắc mắc.
- Cẩn tắc vô ưu. Phù Tang và Đai Nguyên sắp có chiến tranh, họ có thể cho người sang bên này để gây mâu thuẫn giữa Đại Việt và Đai Nguyên nhằm phân tán sự chú ý của quân xâm lược vào nước họ. Nếu giữa Đại Việt và Đại Nguyên có biến, chẳng phải họ sẽ có lợi hơn sao. – Nhật Duật đáp.
- Vì là trẻ con nên sẽ ít người khác đề phòng. Một đứa trẻ dù có thông minh đến đâu thì cũng chẳng thể mạo hiểm dùng nó làm gián điệp được, nhưng nào ai dám chắc đằng sau nó không kẻ giật dây chỉ dẫn. Lại thêm cô bé này quá kỳ lạ – An Tư vuốt lọn tóc đuôi gà lắc lư trên vai. – Anh, lần này phiền anh rồi.
- Lâu lâu mới thấy em nói được một câu tử tế với ông anh này – Nhật Duật sau một hồi cố tình trưng ra bộ mặt ngạc nhiên sửng sốt hết sức khoa trương liền “cảm kích” quá mà run run nói ra một câu.
- Khi nào cô bé dùng được tiếng An Nam, em sẽ đón vào cung, không làm phiền anh nữa – An Tư vỗ bốp một cái vào vai anh.

Rời khỏi phủ của Chiêu Văn, Haibara lạc lõng nhìn tứ phía không biết đi đâu về đâu. Nàng mặc lại bộ quần áo hiện đại cũ, không một xu dính túi. Người tên Chiêu Văn đó thật khó hiểu. Nàng vốn không thích nói cho người khác quá nhiều chuyện của mình. Hồi đầu, khi mới ở nhà bác Agasa, ông bác cũng có hỏi tên và tuổi thật của nàng nhưng nàng không nói. Đến lúc ở sân vận động bóng đá, Conan có hỏi thật ra thì nàng bao nhiêu tuổi, lúc đó nàng đã trả lời là 84 tuổi khiến cậu ta choáng váng.
Haibara đi lang thang qua các con phố và cứ tiếp tục đi trong vô định. Nàng phải làm gì để tiếp tục sinh tồn ở nơi này bây giờ trong khi tiếng nói ở đây mới chỉ bập bõm biết được vài câu. Bản năng sinh tồn trong nàng chính nàng cũng không biết nó có mãnh liệt hay không nữa. Nàng đã từng nhiều lần nghĩ đến việc tự tử và đã tự tử nhưng hình như Diêm vương không thèm đón nhận nàng đến quỷ môn quan. Có lẽ nàng sẽ xin vào làm ở một quán ăn nào đó, còn việc học tiếng, ở một thời gian thì con người ta sẽ tự thích nghi được, việc học ngoại ngữ quan trọng nhất là phải có môi trường giao tiếp. Sống, nàng sẽ sống, cố gắng sống. “Đừng chạy trốn số phận” Việc nàng lạc đến nơi này phải chẳng cũng do bàn tay của số phận sắp đặt. Nếu thực sự như vậy nàng có muốn cũng không thể chạy trốn được rồi mà phải đối mặt với nó.

Xưa nay trực giác của nàng vốn rất nhạy cảm vì vậy mỗi lần có người của tổ chức ở gần, nàng đều cảm nhận được sát khí từ chúng. Và giờ đây nàng đang cảm giác có người đi theo mình. Nhưng nhìn chung quanh thì chẳng thấy ai cả. Có lẽ nàng nhầm rôi, nơi này nàng chỉ có một mình, lại trông bộ dạng quần áo thê thảm thế này thì chắc chẳng có ai thừa hơi mà đi theo nhằm cướp giật gì của nàng. Nàng dừng chân ngồi nghỉ chân ở bậc tam cấp của một cửa tiệm đóng kín. Mây đen vần vũ trên bầu trời, gió bắt đầu nổi lên mang theo cái hơi ẩm của nước và mùi ngai ngái của đất. Sấm rền lên từng hồi kèm theo vài tia chớp nhay nháy phía đông. Mưa, mưa rào. Cơn mưa lớn nặng hạt trút xuống bất ngờ không báo trước, khiến hàng quán hai bên đường vội vã thu dọn, người người cũng nhanh chóng rảo bước tránh mưa. Haibara cứ ngồi nguyên ở chỗ cũ bởi nàng chẳng biết phải đi đâu. Trận mưa lớn quá, gió rít lên từng hồi tạt cả màn mưa trắng xóa đang giăng kín con đường lát đá ong. Mái hiên của cửa tiệm nơi nàng đang ngồi không đủ để che mưa cho nàng. Thời tiết nơi này thật thất thường quá đi, rõ ràng trời đang đổ nắng như lửa đốt, chớp mắt một cái đã lại mưa ngay được, không những thế lại còn mưa to là đằng khác. Không thấy mưa hắt vào người mình từng đợt từng đợt nữa, Haibara ngẩng lên nhìn. Người đang che ô cho nàng không ai khác chính là thiếu nữ áo trắng như tuyết hôm nào tên An Tư. Hôm nay nàng ấy mặc y phục giản dị màu thủy lam nhàn tĩnh như nước, vấn tóc đuôi gà giống các tỳ nữ trong phủ của người anh. Theo sau là hai thiếu nữ khác mặc võ phục màu tím cũng đang cầm ô. An Tư một tay cầm ô, một tay chìa ra có ý bảo Haibara nắm lấy. Nàng đứng đó dịu dàng nhìn Haibara mỉm cười trìu mến, tà áo phất phơ lay động trong gió. Hình ảnh đó khiến Haibara nhớ đến bóng dáng người chị thân thương của mình. Ngần ngừ, cuối cùng nàng từ từ đưa bàn tay nhỏ bé của mình ra, đặt vào lòng bàn tay búp măng đang đưa ra của An Tư. Khi đó nụ cười trên môi An rạng rỡ hơn nữa như ánh nắng mặt trời át cả màn mưa. Bàn tay của An Tư ấm, thực sự ấm áp nhưng nó lòng bàn tay không hoàn toàn mịn màng và mềm mại như Haibara tưởng, nó có những vết chai. Những vết chai ấy là do An Tư không chỉ biết đến kim chỉ bút mực như bào nàng công chúa cành vàng lá ngọc hay thiên kim tiểu thư xuất thân danh môn khuê các khác mà nàng còn chăm chỉ cùng quyết tâm luyện võ, cưỡi ngựa, bắn cung từ nhỏ đến giờ. An Tư dắt tay Haibara trở về phủ đệ của Chiêu Văn vương. Khác với cái đêm chạy trốn khỏi nơi giam giữ của tổ chức, lần này cũng đi trên con đường bị màn mưa giăng trắng xóa, nhưng nàng không chỉ có một mình mà còn có một người ân cần nắm lấy tay nàng, dù rằng đây mới là lần thứ hai nàng gặp An Tư và nàng cũng chưa biết gì về người thiếu nữ này nhưng không hiểu sao nàng cảm thấy người này thật quen thuộc, thật gần gũi, nhất là nụ cười ấy. Khoảnh khắc này làm Haibara nhớ lại rất nhiều năm về trước, khi ấy chị Akemi cũng nắm tay nàng đi dưới bầu trời tuyết rơi như ông trời đang rải những cục bông trắng tinh khôi xuống thế gian. Giây phút này, Haibara thực sự là một đứa bé 7 tuổi, thực sự nhỏ bé cần sự dìu dắt của người chị, nàng để mặc cho ký ức của những ngày thơ ấu, những ngày thơ ấu đúng nghĩa trở về, tưới mát và xoa dịu trái tim khô cằn lẫn băng giá của mình. Mưa vẫn rơi, gió vẫn thổi nhưng lòng người như đang có mặt trời chiếu rọi. Hai chữ bình yên đôi khi cũng chỉ đơn giản như vậy mà thôi.

Chú thích:

[1]Nàng này vốn không phải tỳ nữ trong phủ Nhật Duật nên không được đặt tên theo 36 kế trong binh pháp Tôn Tử.
[2] Tào pha hay tào phớ: đây là cách gọi một món ăn từ đậu nành của người miền Bắc, còn trong miền Nam gọi là đậu hũ.

[3] Quan gia: cách gọi vua của thời Trần
 
Chương 5: Khách không mời.

Chuyện là trước đó, Như Nguyệt và Nhị Hà đi theo Haibara, đến khi thấy nàng ngồi rất lâu trước cửa tiệm thuốc Nam Dược và không có ý định rời đi, Như Nguyệt ở lại tiếp tục theo sát nàng còn Lô Giang thì quay lại báo cáo tình hình với hai vị chủ nhân, một người thì khó hiểu một người thì khó dò của mình. Nghe lời Lô Giang báo lại, Nhật Duật xòe chiếc quạt trúc….để quạt cho mát do trời oi bức lại lặng gió, rồi chàng nhìn sang An Tư đang ngồi “săm soi” từng câu từng chữ trong cuốn Binh thư yếu lược bên cạnh, mỉm cười hỏi:

- Em nghĩ sao?
- Em nghĩ là cô bé đó không có vấn đề gì. Cô bé không đến gặp ai, lại đi lang thang bơ vơ như thế có lẽ tuy là hoàn cảnh của cô bé không thật sự như gì đã nói với chúng ta, nhưng có vẻ tứ cố vô thân, không nơi nương tựa là thật. Mỗi người đều có bí mật và chuyện riêng của mình, nếu cô bé có chuyện khó nói thì chúng ta cũng nên tôn trọng. Có câu tiễn Phật thì tiễn đến tận Tây thiên, đã giúp thì giúp cho trót, em sẽ đi đưa cô bé về vương phủ. – An Tư buông quyển binh thư xuống, điềm đạm nói.

Rồi nàng đứng dậy, vuốt lại tà áo cho phẳng phiu. Nhìn sắc trời, Nhật Duật ôn tồn căn dặn Lô Giang:

- Cô nhớ mang theo ô đi, trời này chắc sẽ mưa to.
- Vâng, thưa đức ông – Lô Giang nhẹ nhàng đáp rồi rảo bước theo công chúa.

Trông theo tà áo thủy lam mềm mại bay bay trong gió khuất dần, Nhật Duật trầm ngâm. An Tư mới 14 tuổi nhưng so những thiếu nữ đồng trang lứa thì suy nghĩ có phần già dặn và chín chắn hơn. Bởi vì cũng giống như chàng và các anh chị em khác, nàng mang trong mình dòng máu của gia đình đế vương. Sinh ra đã được bọc trong vải điều, lớn lên trong nhung lụa nhưng trên vai phải mang gánh nặng với đất nước, không thể lúc nào cũng vô lo vô nghĩ mà an nhàn sống như bách tính được.
……………..

An Tư dắt Haibara trở về phủ Chiêu Văn vương, Khi đến trước ngạch cửa dẫn vào phủ, bước chân Haibara chững lại, nàng ngập ngừng. Theo như lời Nhật Duật nói thì ngay cả An Tư cũng đã biết nàng nói dối nhưng nàng ấy vẫn tìm nàng quay trở về. Có lẽ họ đã bỏ qua việc nàng gạt họ hay họ muốn nàng giải thích rõ mọi việc. Thấy Haibara chậm bước lại, An Tư nắm chặt tay nàng hơn, nụ cười dịu dàng như đóa cúc mùa thu vẫn nở trên bờ môi đào. Lưỡng lự và có nhiều phân vân trong lòng nhưng Haibara vẫn đi theo An Tư. Con đường quen thuộc dẫn đến thư phòng của người đó hiện ra trước mắt mờ ảo sau làn mưa mịt mùng.

Nhật Duật chấm đầu bút lông mềm mại vào nghiên mực bằng đá khảm trai, từng con chữ vừa thanh thoát mềm mại uốn lượn như rồng bay phượng múa, vừa cứng cáp mạnh mẽ hiên ngang ân tàng khí phách dần dần hiện lên trang giấy trắng tinh. Khi chàng buông bút xuống cũng là lúc gấu váy lĩnh màu thủy lam của An Tư lướt qua bậu cửa sơn son của thư phòng. Theo sau nàng không ai khác chính là cô nhóc người Phù Tang. Nhật Duật đưa tờ giấy vừa viết xong cho Haibara rồi xoa đầu nàng:

- Đây là tờ cam kết mà nhóc cần. Ta đã ký tên. Nhóc giữ một bản, ta giữ một bản.

Sự ngạc nhiên xen lẫn khó hiểu cùng khó chịu vì lại bị xoa đầu và hoài nghi hiện lên trong đôi mắt lạnh lùng và sắc sảo của Haibara khiến một lần nữa Nhật Duật lại phải âm thầm tự hỏi rốt cục đứa nhóc này có thực sự mới 7 tuổi hay không.

- Chuyện này…là sao? – Haibara thận trọng hỏi.
- Ta đã nói nhận nhóc làm thư đồng là sẽ nhận. Quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy. Về việc của nhóc, ta chỉ hỏi nhưng không quan tâm đến câu trả lời, dù nhóc chỉ là nhóc con nhưng chuyện riêng của nhóc ta nghĩ cũng cần được tôn trọng. Nhóc không thích nói, ta cũng không miễn cưỡng ép buộc là gì. Hơn nữa ta còn nhiều công to việc lớn phải lo, làm gì có thì giờ và tâm trí quan tâm những chuyện vụn vặt làm gì. Nhóc đọc bản cam kết đi, rồi ký tên hoặc điểm chỉ vào. – Nhật Duật vừa rót cốc trà gừng nóng đưa cho em gái, vừa nói.

Nhìn vào bản cam kết, bên trên được viết bằng Hán tự, bên dưới viết bằng chữ Kanji, Haibara không ngờ người thanh niên này không những nói tiếng Nhật lưu loát trôi chảy lại còn biết chữ viết của Nhật. Bằng lòng với những gì Nhật Duật viết trong tờ giấy, Haibara đồng ý ký tên. Nhưng trước giờ nàng chưa bao giờ cầm cây bút lông với đầu bút mềm oặt thế này nên không thể viết dễ dàng được nên đành điểm chỉ.

………..
Mưa rào mùa hạ là vậy, đến và đi thật nhanh. Trời mưa như trút nước ào ào, ngỡ chẳng biết bao giờ tạnh, chỉ lát sau mặt trời lại vén màn mây chiếu những tia nắng vàng xuống nhân gian. Chỉ cón sót lại những hạt nước mưa đọng lại trên tán lá xanh long lanh như những hạt ngọc. Do trốn đi chơi, nên An Tư cũng chẳng thế nấn ná lâu, vì vậy khi trời quang mây tạnh, nàng liền cáo từ Nhật Duật về cung. Vuốt ve cái bờm trắng tuyệt đẹp của con tuấn mã tên Tuyết Ảnh, An Tư nhảy phốc lên lưng ngựa rồi nhoẻn miệng cười đầy ẩn ý với Nhật Duật:
- Em về đây. Anh đừng có mà bắt nạt cô bé ấy đấy.
Bị cô em tinh quái nói trúng tim đen, Nhật Duật liền ho húng hắng vài tiếng và ngó lơ sang chỗ khác. Ba nàng tỳ nữ xá Chiêu Văn vương một cái rồi cũng nhanh chóng leo lên lưng ngựa. Hi vọng An Tư trở về cung trót lọt không bi hoàng huyng phát hiện nếu không chàng cũng sẽ bị vạ lây vì tội chứa chấp tội phạm.

…………………………..
Thời tiết xứ sở này nóng ẩm, mưa nắng thất thường, lại thêm buổi chiều mắc mưa nên Haibara bị cảm, đầu cứ nhưng nhức. Trước giờ nàng vốn hay bị cảm cúm. Uể oải bê bát cơm lên, miệng nàng nhạt thếch, từng miếng trôi xuống cổ họng chẳng đọng lại vị gì. Một bàn tay mát lạnh đặt lên trán nàng, Haibara ngước lên nhìn. Thì ra đó là Dương Đông, nàng tỳ nữ mà ngày đầu tiên nàng đến phủ đã sắp xếp chuyện ăn ở cho nàng. Nhìn sắc mặt tái nhợt xanh xao của Haibara, Dương Đông đoán chừng cô bé này bị cảm. Sau bữa cơm, Haibara trở về phòng. Nơi này làm gì có thuốc cảm cúm, mà nàng thì không thích uống thuốc lá sắc lên vì vị đắng ngắt của nó. Lại thêm nàng chỉ là một gia nhân nhỏ nhoi, lần trước là có lời của Nhật Duật nên Lý đại phu mới đến khám bệnh cho nàng. Có tiếng gõ cửa phòng, Haibara mở cửa thì thấy cô gái tên Dương Đông đang đứng trước mặt, trên tay cô gái bưng một nồi nước lớn đang tỏa khói nghi ngút mang theo mùi hương của thảo mộc. Dương Đông mỉm cười khi nhìn thấy ánh mắt ngạc nhiên của Haibara. Nàng bê nồi nước vào đặt dưới gầm chiếc gi.ường tre, rồi giũ tung chiếc chăn mỏng đang được gấp ngay ngắn để trên đầu gi.ường. Vì nói Haibara không hiểu được nên Dương Đông chỉ có thể dùng tay ra hiệu cho Haibara ngồi lên gi.ường để nàng trùm chăn lên, tranh thủ lúc nồi nước còn nóng xông hơi trị cảm mới hiệu quả. Nhưng Haibara không rõ ý của Dương Đông, đôi mày liễu của nàng hơi nhíu lại.

- Cô ấy bảo nhóc ngồi lên gi.ường và trùm chăn lên. Đây là cách chữa cảm dân gian ở nước ta.

Nghe tiếng nói trầm ấm cất lên ngoài ngạch cửa, Haibara và Dương Đông quay lại nhìn thì thấy Nhật Duật đang lười biếng đứng tựa lưng vào cửa. Lúc nãy từ đại sảnh trở về thư phòng, Nhật Duật thấy Dương Đông khệ nệ bưng nồi nước lá xông đi về phía phòng Haibara, đoán chừng cô nhóc đã bị cảm do buổi chiều mắc mưa và vì…tò mò nên chàng đi theo. Đến nơi thì thấy ông nói gà bà nói vịt. Nghe lời Nhật Duật nói, Haibara mới biết thì ra Dương Đông muốn trị cảm cho mình. Rời lưng khỏi cánh cửa, Nhật Duật thong thả bước vào trong phòng:

- Đưa tay đây, ta bắt mạch cho nhóc.
- Chú biết y thuật? – Haibara nhướn đôi mày thanh tú tỏ ý nghi ngờ.

Không trả lời câu hỏi mang ý “xúc phạm” kia , Nhật Duật cầm lấy cổ tay bé nhỏ của Haibara và xem mạch

- Chỉ là cảm nhẹ thôi, không có gì nghiêm trọng, xông lá xong sẽ khỏi, ngày mai nhóc vẫn có thể làm việc được. – Nhật Duật mỉm cười đầy hàm ý
- Cháu không có ý định trốn việc. – Nàng lạnh lùng đáp rồi trèo lên gi.ường và trùm chăn kín đầu. Khi hết thời gian xông, bỏ chăn ra thì chỉ còn Dương Đông ở trong phòng, trên chiếc bàn con đầu gi.ường có tô cháo nóng hổi vẫn còn đang bốc khói nghi ngút, một cái trứng gà vàng ươm trong bát cháo trắng cùng hành lá, tía tô để giải cảm.
- Cảm ơn chị - Haibara khẽ nói với Dương Đông, mấy câu đơn giản như xin lỗi, cảm ơn, nàng đã học được từ ngay buổi đầu tiên.
- Không có gì – Dương Đông tươi cười lắc đầu, hai lúm đồng tiền duyên dáng hằn sâu trên đôi má hây hây hồng, lọn tóc đuôi gà lí lắc trên vai.

Có phải con người ở đây ai cũng tốt bụng, thân thiện và cởi mở như vậy không. Không chỉ Dương Đông mà những người khác trong phủ đối xử với nàng cũng như đối xử với nhau đều rất chân thành, tình cảm và nồng ấm, “thương người như thể thương thân”. Từng miếng cháo đậm đà thơm mùi tía tô mang theo cả ấm áp vào trái tim nhỏ bé khô cằn của Haibara.
……………………..

Hôm nay, khi An Tư trở về hoàng cung thì tấm màn hoàng hôn mới giăng xuống, những dải nắng hồng cam vắt ngang bầu trời mềm mại uốn lượn như tấm lụa đào. Không thấy bóng dáng Lục Thảo đứng đợi trước cửa như mọi khi, An Tư cảm giác có chuyện chẳng lành. Một là việc nàng trốn đi chơi đã bị phát hiện, hai là đã đến lúc…đến lúc phải hạ màn kịch rồi. Chậm bước chân lại, nàng chỉnh trang lại y phục, vuốt lọn tóc đuôi gà ngay ngắn trên vai, rồi mới uyển chuyển cất bước đúng phong thái cao quý, đoan trang, nhu mì hiền thục cần có của một công chúa kim chi ngọc diệp. Đến trước ngưỡng cửa điện, đập vào mắt nàng là hình ảnh 3 ông anh không dễ bắt nạt như Nhật Duật đang “ngả ngón” chơi cờ trong cung điện của nàng. Đứng bên cạnh châm trà là Lục Thảo và Bạch Đằng. Thôi xong rồi, chuyện nàng trốn đi chơi lần này sao lại bị nhiều người phát hiện đến vậy, không chừng sắp tới sẽ bị các hoàng huynh cấm túc mất.

- Đã về rồi sao còn không vào đây, đứng đó làm gì – Thái thượng hoàng Trần Hoảng[1] lên tiếng, chất giọng không mang uy nghiêm bức người của bậc đế vương đứng đầu thiên hạ chỉ nghe ra khiển trách xen lẫn yêu thương.
- Hoàng muội xin tham kiến tam vị hoàng huynh. Thái thượng hoàng thiên tuế, thiên thiên tuế – An Tư bẽn lẽn tiến vào trong điện rồi nghiêng người thi lễ, bao nhiêu quy tắc cung đình mà nữ quan đã dạy giờ nàng cố nhớ để lôi ra sài.
- Chiều trời đã mưa to lắm rồi, em còn cố đóng vai thục nữ nữa thì trời sẽ bão mất, chỉ khổ cho bách tính lại phải chịu cảnh lầm than thôi – Chiêu Minh vương Trần Quang Khải vừa thảnh thơi nhấp ngụm trà vừa liếc nhìn cô em út đang tỏ vẻ hối lỗi, ra vẻ ta đây ngoan ngoãn kia.
- An Tư, đây là lần thứ bao nhiêu anh bắt gặp em trốn ra khỏi cung rồi – Trần Hoảng nghiêm giọng. – Sao không đếm nổi nữa phải không? – Thấy cô em im re không ho he tiếng nào, chàng tiếp lời – Anh đã nói rồi, bên ngoài cung rất nguy hiểm, không phải ai cũng là thiện nam thánh nữ…….
- Chiều nay, em có đi đâu đâu, em chỉ đến phủ anh Chiêu Văn thôi mà – Trước khi Trần Hoảng kịp ca hết bài ca trù mà nàng nghe đến thuộc lòng từng câu từng chữ và cả ngữ điệu nhấn nhá, An Tư liền sà đến ôm cổ ông anh có chòm râu dài đen nhánh của mình phụng phịu.
- Em đến phủ Chiêu Văn làm gì? – Quang Khải nghi ngờ
- Tất nhiên là thăm anh ấy rồi – An Tư hồn nhiên như cô tiên đáp, sau bắt gặp ánh mắt tràn đầy ngờ vực và hai chữ không tin được viết rõ ràng trên gương mặt cũng được xem là anh tuấn của 3 ông anh, nàng mới thỏ thẻ - Anh Chiêu Văn mới có thư đồng nên em tò mò đến xem cho vui.
- Chuyện này thú vị à nha – Quang Khải “phấn khích” vỗ cán quạt bốp một cái vào vai đứa em trai đang ngồi bên cạnh, hai mắt sáng rực lên như đuốc cháy khiến An Tư ngầm than thở trong lòng. Có lần nàng lờ mờ nghe được người ta nói xấu sau lưng rằng tất cả mấy ông anh của nàng đều “không được bình thường” cho lắm, ngẫm lại cũng đúng, chẳng phải có câu lắm tài nhiều tật hay sao?. Chỉ việc Chiêu Văn huynh có thư đồng mà có thể khiến anh Chiêu Minh thích thú đến vậy sao??? Vừa suy ngẫm, An Tư vừa tiện tay vuốt vuốt, sờ sờ, nghịch nghịch, xoắn xoắn chòm râu của Trần Hoảng và tiện thể tết bím cho nó luôn mãi đến khi chàng tét một cái vào bàn tay nhỏ nhắn đang nghịch loạn kia thì nàng mới thôi.
- Đauuuu – An Tư rụt tay lại, ai oán rên rỉ kêu la, rồi nàng thẽ thọt năn nỉ - Em chỉ đến phủ anh Chiêu Văn thôi rồi về cung ngay, anh đừng phạt em nhé.
- Em chơi cờ thắng được Chiêu Quốc thì anh sẽ không phạt – Trần Hoảng lạnh lùng phán một câu khiến An Tư mất hứng.
Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc nãy giờ ngồi im lặng ăn vàng, giờ đây khi nghe thấy tên mình được nhắc đến, khóe môi thanh tú nhếch lên thành một nụ cười gian xảo:
- An Tư, hôm nay anh xin được thọ giáo kỳ nghệ của em.

Quân vô hí ngôn, Thái thượng hoàng nói thế nào là thế ấy, trái lời là khi quân, không còn cách nào khác, nếu không muốn bị phạt thì chỉ còn cách thắng anh Chiêu Quốc. Nhưng ai ai cũng biết Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc thông hiểu lục nghệ, cầm kỳ thi họa vô cùng xuất chúng ít ai sánh kịp, kỳ nghệ tinh thông ảo diệu biến hóa khôn lường. Nàng liệu có thể thắng được ông anh chơi cờ rất giỏi nổi tiếng khắp chốn kinh kỳ này không đây??? Rõ ràng anh Trần Hoảng muốn làm khó nàng.

- Chiêu Quốc đại đại đại vương, mong ngài nương tay, giơ cao đánh khẽ - An Tư chắp tay cúi đầu thưa, đồng thời nở một nụ cười nịnh nọt nhưng nụ cười liền vụt tắt khi giọng nói nghiêm túc của Trần Hoảng cất lên:
- Chiêu Quốc, nếu em cố tình nhường An Tư, em sẽ chịu phạt thay nó đấy. An Tư, em cũng đừng trách anh quá khắt khe, nghiêm khắc, anh đã cho em cơ hội rồi đó, có làm được hay không là do em, tiên trách kỷ hậu trách nhân – Nói rồi, Trần Hoảng ung dung đưa miếng bánh cốm xanh màu ngọc bích lên miệng tính ăn, đến lưng chừng thì khựng lại, chàng hỏi Bạch Đằng – Khoan đã, bánh này có phải do công chúa làm không?
- Bẩm Thái thượng hoàng, bánh này do ngự trù làm ạ - Bạch Đằng nghiêng mình kính cẩn thưa.

Đến đây, Trần Hoảng mới yên tâm tiếp tục ăn bánh uống trà, phớt lờ gương mặt ra vẻ ta đây đang bị xúc phạm ghê gớm lắm của ai đó, chàng ung dung cất lời tiếp:

- Nói cũng phải, bánh An Tư làm chưa nói đến mùi vị, chỉ cần làm được hình dáng màu sắc như thế này cũng phải dụng tâm lương khổ lắm rồi. Trẫm có lẽ tuổi đã cao sức đã yếu nên lẩn thẩn mất rồi, một chiếc bánh xinh xắn đẹp đẽ như thế này làm sao công chúa có thể làm được. Cũng không còn sớm nữa, Chiêu Quốc, hiếm khi em mới được thọ giáo kỳ nghệ của An Tư đấy, bắt đầu đi thôi, nhớ lấy nếu em nhường nó thì đừng trách anh vô tình.
- Em gái nghe hoàng huynh nói rồi đó, thông cảm cho anh nhé, người không vì mình trời chu đất diệt em ạ – Ích Tắc ung dung đặt quân cờ bằng ngọc tinh xảo đầu tiên xuống bàn cờ.
……………………………

Thời gian êm đềm trôi như dòng sông phẳng lặng, mới đó mà Haibara đã lạc đến Đại Việt và lưu tại phủ của Chiêu Văn vương được nửa tháng. Nàng đã quen với công việc của một thư đồng: nào là cắt giấy, mài mực, sắp xếp sách vở bút lông. Công việc tưởng đơn giản nhưng cũng thật nhiều tiểu tiết và yêu cầu, mài mực phải như thế nào, trước khi cho mực vào nghiên phải như thế nào, loại mực nào thì hợp với loại giấy nào, bút lông gồm những loại nào…Giờ đây những điều đó nàng đã thông thuộc như lòng bàn tay. Nửa tháng đủ để vốn tiếng An Nam của nàng có chuyển biến, không còn ù ù cạc cạc, một tiếng cũng không hiểu như ngày đầu, đã có thể giao tiếp được với mọi người trong phủ. Vì vậy nàng đã biết thân phận của An Tư và Nhật Duật, dẫu trước đó nàng cũng cảm nhận được rằng họ không đơn giản chỉ là thường dân, nhưng cũng không ngờ đến thân phận của họ lại cao như vậy.

Từ khi ở đây, nàng cũng bị cuốn theo thói quen sinh hoạt của họ, dậy sớm, ngủ sớm. Mà có muốn ngủ dậy muộn cũng không được vì ai đó sáng nào không múa kiếm vun vút thì cũng đấm đá huỳnh huỵch ở mảnh sân gần phòng của nàng, lại thêm nơi này sao mà nuôi lắm gà đến thế, cứ đến hẹn lại lên đến giờ lại đồng thanh gáy ò ó chói lói cả một góc trời, trong phủ có, từ tứ phương vọng lại cũng có. Haibara đã nhiều lần từng nhìn thấy Nhật Duật mặc quan phục đi thiết triều vào sớm tinh mơ khi trời mới tờ mờ sáng lúc mà những giọt sương tinh khiết còn đọng trên tán lá xanh, cũng có lần nàng thấy chàng mặc y phục chỉ dành cho thân vương quý tộc thuộc hoàng thất. Khi ấy trông chàng rất khác với lúc chỉ giản dị trong tà áo nâu ngồi đọc sách trên chiếc chõng tre mộc mạc kê trước cửa thư phòng vào mỗi buổi chiều, có cái gì đó xa cách, khó gần, lạnh lùng, uy nghiêm khuôn phép đạo mạo hơn mọi khi.

Buổi sớm chiều hôm ấy cũng như mọi ngày đẹp trời khác, Nhật Duật ngồi đọc sách trong thư phòng, à có khác đôi chút là bên chiếc bàn uống trà có một cô bé đang tỉ mẩn dùng bút lông luyện những chữ Nhật Duật vừa mới dạy. Hôm nay ngoài học thêm được mấy câu An Nam mới, nàng còn học viết chữ nữa. Vốn định chỉ học tiếng thôi, nhưng vì không biết mình sẽ lưu tại nơi này bao lâu, nên Haibara muốn biết đọc biết viết chữ dùng ở đây nữa. Ở nơi xa lạ này, biết nhiều một chút cũng tốt. Dù sao từ nhỏ đến lớn luôn được coi là thần đồng với chỉ số IQ cao ngất, đến nơi này nàng không muốn bị mù chữ vì vậy nên đã nhờ Nhật Duật dạy thêm. Haibara âm thầm tự hỏi tại sao người ta có thể dùng thứ bút mềm oặt như thế này để viết chữ. Nàng đưa tay lên quệt những giọt mồ hôi lấm tấm trên vầng trán mịn màng, vô tình vết mực ở tay lem nhem ra trán.

Đọc xong thư của lão tổng quản gửi từ phủ đệ tại thái ấp ở Quảng Xương, Thanh Hóa lên, Nhật Duật mới liếc nhìn cô nhóc đang luyện chữ kia. Gương mặt vốn nghiêm túc, lạnh lùng nay giống chú mèo hoa của Haibara khiến chàng buồn cười.

- Giờ ta mới biết nhóc có tài vẽ giun đấy. Nhóc viết chữ Kanji có xấu như vậy không – Nhìn những con chữ xiêu vẹo, nét dọc nét ngang loằng ngoằng chằng chịt trên tờ giấy lem nhem mực, Nhật Duật lắc đầu.
Mải đánh vật với những con chữ, không nói chính xác hơn là với cái bút lông cùng nghiên mực, Haibara không biết Nhật Duật đã đứng sau lưng mình từ lúc nào dù rằng trước nay trực giác của nàng vốn rất nhạy bén.
- Bây giờ cháu viết xấu nhưng không có nghĩa là sau này sẽ không đẹp được – Bỏ qua lời trêu chọc của Nhật Duật, Haibara thờ ơ trả lời, trước giờ chỉ có nàng hay mỉa mai châm biếm người khác chứ ít khi bị người ta mỉa mai lại – Những chữ này cháu thuộc nét rồi, chú dạy chữ khác được không.
- Chưa học bò đã lo học chạy– Nhật Duật nắm lấy bàn tay trẻ thơ nhỏ bé đang cầm bút của Haibara, chàng chỉnh lại những ngón tay đang cầm bút của nàng, vừa chỉnh chàng vừa ôn tồn – Cầm bút đừng nắm chặt quá, hãy thả lỏng, thoải mái nhất. Hai đầu ngón cài và ngón trỏ kẹp lấy quản bút, đầu ngón giữa áp vào quản bút, móng tay ngón áp út chạm vào quản bút, ngón út áp sát vào ngón áp út. Đây là cách cầm bút tên ngũ chỉ chấp pháp do Lục Hy Thanh đời Đường sáng tạo. Khi cầm bút, nhóc hãy nhớ khẩu quyết “chỉ thực, chưởng hư” nghĩa là đầu ngón tay áp vào bút, còn lòng bàn tay thì trống rỗng, Nhìn nghiêng, ngón cái và ngón trỏ tạo thành mắt phượng như thế này. Có câu “thư pháp khả dĩ tu tâm dưỡng tánh, đào dã tâm tình” [2], dù nhóc chỉ muốn dừng lại ở biết viết thì cũng nên tôn trọng nó, học viết chữ đâu chỉ đơn giản là thuộc nét, nhóc không cần viết đẹp nhưng ít nhất cũng phải để người khác đọc được mình viết chữ gì.

Bàn tay to lớn chai sần nhưng ấm áp của Nhật Duật bao trọn bàn tay bé xíu của Haibara, chàng bắt tay nàng viết lại những chữ đã dạy nàng. Hơi thở nóng ấm rất gần cùng mùi bạc hà thanh khiết từ cánh áo Nhật Duật khiến hai vành tai nhỏ nhắn của Haibara bất giác nhuộm hồng.

- Viết các nét phải có thứ tự, không thể tùy tiện muốn viết nét nào trước thì viết, chữ Kanji của Phù Tang chẳng phải cũng vậy sao. – Nhẹ nhàng nắm bàn tay Haibara di chuyển trên tờ giấy, Nhật Duật tiếp lời – Mà chẳng phải ta đã bảo nhóc phải kêu thầy, xưng trò hay sao? – Chợt nhớ ra chuyện quan trọng, chàng phải đính chính ngay.
- Làm gì có thầy giáo nào cứ gọi học trò là nhóc bao giờ, thầy không mẫu mực sao bảo được học sinh – Haibara đáp lại bằng một cái nhếch môi.

Bộp bộp. Có tiếng vỗ tay xen lẫn tiếng cười thích thú vang lên nơi ngưỡng cửa:

- Cô bé này nói đúng quá. Chiêu Văn, em có sở thích nhận học trò từ bao giờ vậy, sao anh không biết. À nghe An Tư nói, em còn có thư đồng mới nữa. Hôm nay anh đến đây xem người nào mà xui xẻo vậy bị lọt vào mắt xanh của em.
Haibara ngẩng lên nhìn thì thấy chủ nhân của giọng nói vừa rồi là một người đàn ông tầm ngoài 30 tuổi, mặc áo gấm màu thanh thiên, gương mặt phong sương mang vẻ lãng tử phảng phất ngạo khí, trên tay là chiếc quạt giấy tao nhã. Đi cùng còn có 5 người đàn ông mày kiếm mắt sao, ăn mặc sang trọng, phong độ ngời ngời. Cả 6 người này đều mang trên mình khí chất vương giả cao quý giống như Nhật Duật và An Tư, trong đó có một người trông đứng tuổi chững chạc hơn cả, dáng vẻ oai nghiêm quắc thước với chòm râu đen nhánh, khí chất uy quyền từ người này nổi bật hơn cả, và một người khác có gương mặt giống người vừa lên tiếng y như đúc từ một khuân ra. Cũng giống như người đàn ông vừa lên tiếng, 5 người còn lại đang dùng ánh mắt thích thú, lấp lánh những tia sáng kỳ quái chiêm ngưỡng cảnh Nhật Duật ân cần bắt tay Haibara viết chữ như người ta xem thú trong vườn bách thảo. Người vừa lên tiếng là Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, 5 người còn lại gồm có Thái Thượng hoàng Trần Thánh Tông, Tĩnh Quốc vương Trần Quốc Khang, Bình Nguyên vương Trần Nhật Vĩnh – vị này là anh em sinh đôi của Quang Khải, Chiêu Đạo vương Trần Quang Xưởng và tất nhiên không thể thiếu Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc.

Nhận ra những vị khách không mời mà đến chẳng phải ai xa lạ mà chính là các ông anh quý hóa của mình, Nhật Duật không khỏi ngạc nhiên. Hôm nay có chuyện gì mà tất cả các ông anh bận rộn trăm bề với công to việc lớn lại tụ họp đông đủ đến phủ của chàng thế này. Sắp tới ngày giỗ phụ hoàng[3] nên để chuẩn bị cho lễ tế tại Chiêu Lăng phủ Long Hưng, do đó các vị vương gia dù đang ở thái ấp hay nơi khác lo việc quân việc nước đều trở về kinh thành. Điều đó Nhật Duật biết, nhưng vinh hạnh được các hoàng huynh đến thăm đường đột như thế này chàng thật không dám nhận. Nhờ An Tư quảng cáo nên việc Nhật Duật có thư đồng đều được các hoàng huynh của chàng biết đến, lại thêm mấy khi anh em được tụ họp đông đủ nên ý kiến đến phủ Chiêu Văn chơi của Quang Khải được nhiệt liệt hưởng ứng.

Trước cái nhìn soi mói có phần giống như hổ rình mồi của các anh, Nhật Duật vội buông tay Haibara ra rồi hắng giọng bảo nàng:
- Giờ thầy phải tiếp khách, trò lui đi.
- Vâng, chào ch…thầy. – Haibara đáp rồi nhanh chóng thu dọn giấy mực trên bàn để còn rời khỏi thư phòng của Nhật Duật. Những đôi mắt tò mò của mấy gã trong phòng làm nàng không được thoải mái dù rằng nó không có áp lực đáng sợ xuyên thấu tim can như người của tổ chức áo đen nhưng cái khí chất cao sang bức người toát ra từ họ khiến nàng thấy nghẹt thở. Cũng phải, họ đều là người của hoàng thất cả mà. Nếu nàng đoán không lầm thì họ là các anh trai của Chiêu Văn. Đếm đếm, tính cả người tên Chiêu Văn-người mà nàng bất đắc dĩ phải gọi là thầy ấy, thì cô bé An Tư có những 7 ông anh, không hiểu sao Haibara lại thấy thương cảm thay cho chàng trai nào sau này yêu An Tư, chắc chắn chàng ta phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới vượt qua được những cửa ải quái đản của 7 ông anh quyền lực không thiếu, tiền tài có thừa, tật xấu chẳng ít này. Thật là khổ thân!

Trong lúc đó, 6 ông anh không mời mà đến của Nhật Duật tiếp tục không mời mà thong thả bước vào thư phòng. Nhìn người tự động châm trà, người tự ý ăn bánh, người thản nhiên xem tranh, người vô tư lấy sách đọc mà Nhật Duật chóng hết cả mặt, hoa cả mắt.

- Chẳng hay hôm nay có chuyện gì mà rồng lại đến nhà tôm, tệ xá của hiền đệ hôm lại được vinh hạnh các hoàng huynh lại đại giá quang lâm hạ cố đến thăm như thế này – Nhật Duật niềm nở tươi cười tiếp khách quý, rồi chàng quay sang bảo Dương Đông, Minh Tri đang đứng đợi phân phó ở ngưỡng cửa:
- Hai cô thật là, sao các hoàng huynh đến không báo ta ra cổng tiếp đón, thật là thất lễ. Mau đi pha trà, dâng bánh – Chàng giả vờ nghiêm giọng khiển trách.
- Vâng, tiểu tỳ tuân mệnh – Hai nàng đồng thanh thưa rồi lủi mất. Lời của Thái thượng hoàng và các vị vương gia quyền cao chức trọng, nào ai dám cãi, họ bảo các nàng không cần thông báo chỉ cần dẫn đường thì các nàng cũng chỉ biết vâng dạ rồi y lệnh.
- Em thì là “đệ” là đúng rồi, nhưng không phải “hiền. – Vừa tóp tép nhai bánh một cachs tao nhã, vừa hất cằm về phía Haibara đang chuẩn bị rời đi, Quang Khải vừa hỏi Nhật Duật - Đứa trẻ này có phải con rơi con vãi của em không đấy.

Lời vừa thốt ra trong phòng có bao nhiêu cặp mắt đều dồn về phía Nhật Duật, háo hức có, chờ đợi có, thích thú có, nghiêm khắc có, khiển trách có, vô thưởng vô phạt cũng có khiến chàng cảm thấy dở khóc dở cười trước câu hỏi oái ăm của anh Quang Khải. Không hiểu ông anh này hằng ngày ăn gì mà trong đầu có thể chứa những ý nghĩ kỳ quái như vậy. Về phần Haibara tuy không hiểu hết những từ lóng mà Quang Khải nói, nhưng thấy chàng hất cằm, gương mặt đầy vẻ cợt nhả về phía mình, cũng lờ mờ đoán được người đàn ông này hỏi nàng có phải là con của Chiêu Văn hay không khiến gương mặt lạnh băng của nàng sa sầm xuống. Vốn không tính ở lại đây lâu làm gì, ôm tập giấy bút vừa thu dọn xong, nàng cúi đầu chào mấy người trong phòng rồi tiến ra cửa, nhưng có một gã chạc tuổi Nhật Duật nãy giờ lười biếng đứng tựa cửa liền đưa tay chặn nàng lại với gương mặt điềm nhiêm không cảm xúc, đôi mắt người này sâu, rất sâu như đáy vực thẳm u tối, thâm trầm khiến nàng không mấy có thiện cảm. Người ấy là Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc.

Để giải thoát bản thân khỏi những ánh mắt hiếu kỳ đang đổ dồn về phía mình, Nhật Duật tất nhiên phải đính chính lại lời cáo buộc của Quang Khải:

- Chiêu Minh, anh nói như vậy làm tổn hại đến danh dự của em quá. Cô bé người Phù Tang này là do An Tư thích lo chuyện bao đồng rồi nhờ em cho lưu lại trong phủ, giờ là thư đồng của em. Số em phận hẩm duyên ôi, nào dám sánh với người hào hao phong nhã đa tình như anh, có cả một hậu cung thu nhỏ trong phủ, mỹ nhân như mây, người nào người nấy ngư trầm lạc nhạn, quốc sắc thiên hương, còn chưa kể đến các bông hoa đồng nội ngoài phủ, người có con rơi con vãi là anh nghe có vẻ hợp lý hơn.

Trước lời đối đáp có ý “xấc mé” của Nhật Duật, Quang Khải vẫn tươi cười:

- Em nói rất đúng.
- Chiêu Văn, có phải em hay dung túng cho An Tư trốn ra ngoài chơi không – Trần Hoảng lên tiếng.
- Nào có, em đâu dám lớn gan như vậy – Nhật Duật chối phắt. Nhắc mới nhớ, nửa tháng nay chàng không thấy An Tư ló mặt đến phủ mình. Mà nếu nàng ló mặt đến thì chàng phải mắng nàng một trận. Chuyện là hôm đó, chàng kêu người dắt con ngựa Hắc Phong yêu quý ra cho mình thì thấy cái đuôi của nó cụt lủn chỉ còn một đọa bằng độ dài ngón giữa, theo lời gia nhân thì công chúa An Tư đã cắt đuôi ngựa để về làm dây đàn. Hắc Phong đang từ tuấn mã nay vì mất đuôi mà nhan sắc giảm đi một nửa, chàng cưỡi ngựa đi ngoài đường cũng bị người ta chỉ trỏ này nọ, bảo làm sao không tức cho được.
- Vậy thì tốt. Hôm trước nó bị ta bắt gặp trốn đi chơi về nên giờ đang bị phạt – Như hiểu được ý nghĩ trong lòng Nhật Duật, Trần Hoảng tiếp lời đồng thời chiếu ánh mắt răn đe nghiêm khắc của mình về phía Nhật Duật ngụ ý chàng đừng tiếp tay cho giặc nữa, nếu không thì đừng trách anh vô tình với em, mà từ cổ chí kim, có ai vô tình bằng đế vương gia. Đang bực mình và đau xót thay cho con người, nghe hoàng huynh nói An Tư đang bị phạt, mặt Nhật Duật tươi hẳn lên. Anh em với nhau mà thế đấy!
- Nhóc có biết làm món ăn của Phù Tang không – Trong khi đó, Quang Khải đang xoa đầu Haibara, rồi không hiểu sao giữa mùa hè chàng lại cảm thấy gió lạnh từ đâu thổi tới ớn cả sống lưng.
- Tôi có. Giờ ông có thể bỏ tay khỏi đầu tôi, còn anh thì bỏ cánh tay đang chắn cửa ra để tôi đi được không – Haibara lạnh lùng trả lời Quang Khải, rồi nàng hướng đôi mắt sắc sảo lạnh như băng xen lẫn khó chịu của mình về phía Ích Tắc.
- Chiêu Văn, anh thấy em nên dạy dỗ lại thư đồng của mình, ăn nói vô phép quá, tiên học lễ hậu học văn – Tĩnh Quốc vương Trần Quốc Khang nhíu đôi mày rậm có vẻ phật lòng. Trong đám anh “nhí nhố” của Nhật Duật thì Quốc Khang là người nghiêm khắc và có phần nguyên tắc nhất. Trước chuyện này, mấy vị vương gia còn lại cũng tỏ ý đồng tình với Quốc Khang, nhưng Nhật Duật biết là họ muốn cố tình chọc chàng và Haibara, chuyện chàng có thư đồng hình như lầm họ thích thú hơn mức cần thiết.
- Vâng, em sẽ dạy bảo lại – Nhật Duật lễ phép thưa, rồi chàng đánh mắt về Haibara nghiêm giọng – Trò mau xin lỗi Chiêu Minh vương và Chiêu Quốc vương đi.

Thế nhưng Haibara vẫn dửng dưng, bờ môi nhếch lên cười khẩy khiến đôi mày rậm của Quốc Khang càng nhíu chặt hơn khi không hiểu tại sao Nhật Duật bỗng nhiên lại muốn có thư đồng, rồi chọn ai không chọn lại đi chọn một đứa trẻ lầm lì khó bảo, vô pháp vô thiên như thế này, không phải chàng muốn nói đến chuyện thân phận cao hay thấp, chủ hay tớ mà chỉ riêng về tuổi tác, một đứa trẻ không thể xưng hô nói chuyện với người lớn hơn mình như vậy được. Vốn định mở miệng nói rằng:”Trước khi muốn người khác đối xử có phép với mình, thì hãy tôn trọng người ta. Một người tùy tiện xoa đầu, một người vô cớ chặn cửa làm sao khiến người khác ăn nói nhã nhặn với mình được”, nhưng vẻ năn nỉ dù là giả tạo thoáng qua trong đôi mắt của Nhật Duật khiến Haibara trùng xuống, trong ánh mắt chàng nhìn nàng khi ấy còn có cả ý răn đe, là răn đe nhắc nhở chứ không phải là đe dọa, không phải ra oai. Nàng đang mang ơn người ta, cũng nên biết điều, thực ra Nhật Duật có thể lớn tiếng quát tháo nàng bằng cái uy của một vương gia quyền cao chức trọng thay vì dùng ánh mắt vờ vịt năn nỉ nhìn nàng, nhưng chàng đã không làm vậy. Hơn nữa ở đây nàng là một kẻ thấp cổ bé họng, tránh voi chẳng xấu mặt nào, tốt nhất không nên đắp tội với những người quyền lực không thiếu như thế này. Có lẽ vừa rồi nàng đã quá nóng nảy rồi, đây không phải là nơi có quyền bình đẳng, có quyền tự do ngôn luận, từ nay về sau cần phải cẩn trọng lời ăn tiếng nói, biết kiềm chế cái tôi của mình hơn. Phải biết mình biết người, hiểu rõ mình là ai và đang đứng ở đâu, đạo lý này nàng hiểu. Đi dưới mái nhà người ta thì phải cúi đầu. Trước giờ với Nhật Duật, nàng ăn nói có xấc xược nhưng chàng đều bỏ qua, không chấp nhất làm gì, nhưng không phải ai cũng vậy. “Tính cách của nhóc nói thẳng tính cũng không phải, nhưng nếu nói cứng đầu thì đúng, tính cách này dễ đắp tội và làm mếch lòng với người khác. Bớt một kẻ thù, thêm một người bạn là điều tốt. Nên sửa”, Nhật Duật đã từng nói với nàng như vậy. Mười mấy năm trời lớn lên trong tổ chức áo đen đã hình thành nên một Sherry, nàng chưa trở thành một kẻ máu lạnh tàn nhẫn và khát máu người cũng đã là một điều may mắn. Sống trong môi trường nào phải dung hòa với môi trường đó, sống với những kẻ máu lạnh khiến nàng trở nên lạnh lùng, khô cằn và lúc nào cũng phải xù mình lên như con nhím, luôn cảnh giác để bảo vệ bản thân. Nếu nàng giống một người bình thường thì trong tổ chức đó sẽ trở thành một người không bình thường trong mắt bọn chúng. Nàng đứng đầu tổ thí nghiệm lại có tài năng vượt trội vì vậy hồi đó nàng có nói năng gì những kẻ cấp dưới cũng không phản kháng. Nhưng nơi này không như vậy!

- Tiểu tỳ dùng tiếng An Nam chưa được thông thạo, nếu có ăn nói vô phép, mong các ngài thứ tội – Haibara nhỏ nhẹ nói, rồi hướng về Nhật Duật ra vẻ ngoan ngoãn lễ độ như thỏ non, đôi mắt long lanh hối lỗi làm cho Nhật Duật nổi hết da gà, da vịt, da ngỗng, da ngan và da của những loại gia cầm khác, cả gai ốc nữa do chàng trước giờ chưa biết trình độ giả nai của nàng cao thâm cỡ nào. – Thưa thầy, câu vừa rồi thầy nói với hai vị vương gia, trong tiếng An Nam phải nói thế nào mới đúng lễ phép. Mong thầy chỉ giáo để trò lần sau không tái phạm nữa ạ.
- “Bẩm đức ông, tiểu tỳ cũng có biết nấu vài món đơn giản. Nếu đức ông không còn gì dạy bảo, tiểu tỳ xin phép được cáo lui” – Nhật Duật trả lời, trong lòng thầm nghĩ nhóc con này cũng khéo đối đáp lắm, tuy nhận lỗi về mình nhưng lại không phải, tất cả là do chưa thông thạo tiếng An Nam nên mới ăn nói vô lễ chứ bản thân không dám thất kính với bề trên.
- Ta vốn cũng không phải người hẹp hòi mà đi chấp một kẻ trẻ người non dạ như ngươi. Tuy nhiên có tội thì phải đoái công chuộc tội. Vừa nãy mọi người nghe rõ rồi đó, cô bé này bảo biết làm món ăn của Phù Tang đấy – Quang Khải vui vẻ nói, nụ cười trên môi đầy hàm ý.
- Vậy tối nay chúng ta sẽ ở lại dùng bữa ở phủ đệ của Chiêu Văn vương – Mấy người còn lại trong phòng đồng thanh nói.

Đến đây thì ý của mấy ông anh đã quá rõ ràng, rõ như ban ngày luôn, họ muốn Haibara nấu bữa tối nay cho họ, tất nhiên là những món ăn của Phù Tang. Vừa vặn lúc đó Dương Đông, Minh Tri cùng mấy nàng tỳ nữ khác dâng trà và bánh lên.

- Trò hãy xuống bếp nấu bữa tối nay để ta đãi Thái thượng hoàng và các vị vương gia. Các cô hãy bảo người trong bếp phụ giúp cho Ai. – Nhật Duật phân phó.

………………………………………
Trong bếp của phủ Chiêu Văn vương hôm nay trở nên tất bật hơn cả. Haibara bắt lươn trong chậu để làm shushi, thế nhưng khi nàng vừa định làm thì ông đầu bếp già đã ngăn lại:

- Đừng làm con đó, nó là rắn độc đấy, không hiểu sao lại lẫn vào đây, may mà lão phát hiện kịp không thì nguy to – Rồi ông nói lớn– Hôm nay đứa nào chuẩn bị lươn đấy.
- Dạ, là con. Con mua của một người bán ngoài chợ, hắn ta kêu đây là lươn mình bắt được ngoài suối, muốn đem đổi lấy tiền. – Một gia nhân tên Lý Ngư lên tiếng.

Lươn ở nơi này khác với lươn nàng hay ăn lúc còn ở hiện đại, ở Nhật hay ăn lươn biển, còn lươn ở đây chỉ bắt ngoài sông suối. Đến giờ nàng mới biết có loại rắn giống lươn đến vậy. Haibara nhìn con rắn trong tay rồi nhìn những con trong con lươn đang bò trong chậu và thấy chúng giống nhau y hệt, nàng liền hỏi Dương Đông đang đứng gói chả nem bên cạnh:

- Em thấy chúng giống nhau hết mà.
- Nhiều người cũng bị nhầm lẫn như em vì sự giống nhau của chúng. Con này được gọi là hoàng xà hoặc rắn lươn, ăn vào sẽ bị trúng độc sủi bọt mép mà chết. Những người làm nông thì quen rồi, nhìn cái phát hiện ra ngay. Khi bò trong chậu, lươn thường chúi đầu chỉ bò quanh thành để tìm lối ra, còn rắn lươn thì thường ngóc cao đầu. – Vừa thoăn thoắt gói chả nem, Dương Đông vừa trả lời.

Nhìn con hoàng xà, mày liễu của Dương Đông nhíu lại. Là vô tình hay hữu ý, là tình cờ hay sắp đặt, chuyện có rắn độc lẫn trong lươn dùng để nấu bữa tối vào đúng ngày Thái thượng hoàng và các vương gia đến thăm và ở lại dùng cơm tại phủ Chiêu Văn vương. Nếu như không phải đầu bếp phát hiện kịp thì hậu quả khó lường. Nếu món ấy dâng lên, dù ai mất mạng thì cũng lớn chuyện, Chiêu Văn vương không tránh khỏ liên lụy, các vị vương gia nắm trọng trách trong tay quay sang nghi kỵ nhau, triều đình một phen nháo nhào là điều khó tránh khỏi. Chuyện này nàng phải báo lại cho vương gia biết.

…………………………………………….
An Tư nhăn mặt, nhắm mắt, chun mũi, vẻ mặt vô cùng khổ sở, hít sâu một hơi rồi lấy hết dũng khí sau đó mới từ từ dè dặt cắn một miếng từ chiếc bánh…do chính bản thân mình vừa làm. Khi miếng bánh trôi xuống cổ họng, nét mặt nàng mới dãn ra. Thành công rồi, khổ tận cam lai, có công mài sắt có ngày nên kim. Ván cờ ngày hôm đó, nàng thua Ích Tắc 5 quân cờ vì vậy phải chịu phạt. Hoàng huynh đưa ra hình phạt cho nàng rất đơn giản, đơn giản nhưng lại không giản đơn, đó là nàng phải nấu một món ăn, nấu đến bao giờ chính bản thân nàng có thể nuốt nổi mới thôi, hay nói cách khác món ăn đó đúng nghĩa là dành cho người ăn. Trứng luộc cũng được coi là một món, vì vậy khi nàng trả bài cho Trần Hoảng cùng với nụ cười tinh quái trên mặt, ông anh lạnh lùng chỉ đĩa bánh cốm trên bàn bảo:

- Cái này không thể tính, để tránh em ăn gian lần nữa, em hãy làm bánh cốm đi, nhớ là đừng nhờ ai làm hộ, nếu không số phận họ sẽ thê thảm lắm đấy, khi quân là tội chu di tam tộc, cũng đừng nghĩ đến nhờ Thụy Bảo, đừng quên phu quân của em ấy tướng quân Trần Bình Trọng - thần tử của anh. Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung. Với em gái, anh có thể hạ thủ lưu tình, nhưng với em rể thì chưa chắc. Còn nữa, hãy nhớ cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, đều từ tiền thuế tức mồ hôi nước mắt, công sức của con dân mà ra, không được phung phí. Làm được cái nào thì phải ăn hết cái đó, dù có nuốt nổi hay không, tuyệt đối không được bỏ đi. Bao giờ chưa hoàn thành hình phạt thì em không được rời chân khỏi Long Phượng thành nửa bước. Vua không nói chơi.
- Nhưng anh nhường ngôi cho cho con rồi mà. – An Tư không phục đáp lại
- Cha của vua càng không nói chơi. – Trần Hoảng ung dung trả lời – Nếu em không phục thì ta sẽ bảo bé Khâm[4] ra một tờ thánh chỉ là được.

Vì vậy suốt nửa tháng qua, nàng tự túc cầm thân, bế môn tư hóa, chỉ ngoan ngoãn, an phận ở trong Tân Nguyệt điện dùi mài…làm bánh. Mãi đến hôm nay mới có thể công thành danh toại. Hình phạt này của hoàng huynh thực sự quá phũ phàng, bắt nàng phải đối mặt với sự thật không thể chối cãi rằng nàng nấu ăn quá dở, nếu nói nàng nấu ăn dở thứ hai trên đời thì không có ai dám nhận thứ nhất. Những sản phẩm ban đầu mặc dù chính bàn tay xinh xắn của mình làm ra nhưng mỗi khi phải nuốt chúng, An Tư cảm giác chẳng khác nào đang chịu cực hình, tra tấn. Có hôm, Lục Thảo đã phải vội cho người đi mời thái y đến để chữa bệnh cho công chúa vì bị ngộ độc. Sau nửa tháng, cuối cùng những chiếc bánh cốm nàng làm ra không những có thể nuốt trôi mà còn rất ngon là đằng khác.

- Dì Thảo, Bạch Đằng, Như Nguyệt, Lô Giang, Hát Giang, mọi người mau mau lại đây ăn thử bánh ta làm – An Tư nhiệt tình mời mọc.

Đáng tiếc thay, trước lời mời ăn bánh của An Tư, những người có mặt trong tẩm điện đều tìm cớ thoái thác, mỗi người một lí do nhưng tựu chung lại là không dám ăn bánh do nàng làm.

- Nhũ mẫu vừa ăn cơm xong, no lắm, không nhét nổi nữa, để bao giờ đói thì ăn bánh mới thấy ngon được – Lục Thảo cười hiền.
- Tiểu tỳ đang bị đầy bụng đau quằn quại từ hôm qua đến giờ, ăn gì cũng không tiêu – Bạch Đằng nhăn mặt, ra vẻ khổ sở ôm bụng.
- Tiểu tỳ bị dị ứng với … cốm, công chúa thông cảm, mỗi lần ăn vào là người tiểu tỳ lại nổi mẩn – Như Nguyệt nghiêng người thi lễ, gương mặt ngây thơ tỏ vẻ hối lỗi, đồng thời nhanh tay nhét sâu gói lá sen chứa cốm đang ăn dở vào sâu trong tay áo
- Tiểu tỳ vừa mới khỏi bệnh đau răng, đại phu căn dặn nên kiêng đồ ngọt – Lô Giang ra vẻ dè dặt nói.
- Tiểu tỳ đang ăn kiêng để giảm béo – Hát Giang cười trừ.

Trước thái độ đó của các cung nữ, trên bờ môi thắm sắc hồng của An Tư nở một nụ cười ôn hòa thân thiện, ngữ điệu nhẹ nhàng dịu dàng hiền thục đến nhu mì, nàng bình thản cất lời, trong đáy mắt đen như nhung ấy còn ánh lên ý cười hòa nhã:

- Mọi người ăn hết đĩa bánh này cho ta, đây là mệnh lệnh, ai không ăn ta cho người cắt lưỡi, khâu mồm.

Nhắc đến chuyện cắt lưỡi, khâu mồm người khác, mà công chúa vẫn điềm nhiêm như không, lại còn tươi cười như thể chỉ vừa mới mới nói:”Bông hoa này rất đẹp”. Có điều đây không phải lời nói đùa. Năm người họ đều hiểu, đều hiểu đằng sau nụ cười rất đỗi trong sáng kia, thuần khiết kia ẩn tàng đao. Thức thời mới là trang tuấn kiệt, vì vậy họ không thể không thức thời:

- Chúng tiểu tỳ cung kính không bằng tuân mệnh.

Họ không còn cách nào khác là phải ăn những chiếc bánh cốm trông khá đẹp mắt nhưng không biết có ngon miệng hay không kia. Đến khi vị ngọt đậm của đường và mứt sen, vị bùi của đậu xanh giã nhuyễn và dừa nạo vương nơi đầu lưỡi thì họ đồng loạt giương ánh mắt ngạc nhiên và sững sờ nhìn An Tư, trên mặt hiện rõ lên mấy chữ không thể tin bánh này do chính tay nàng làm ra vì rất ngon, không thua gì bánh của ngự trù.

- Thế nào? Thế nào? – An Tư đôi mắt long lanh chờ đợi, háo hức hỏi.
- Bẩm công chúa, bánh rất ngon ạ.
- Thật không? – An Tư hỏi lại.
- Chúng tiểu tỳ không dám lừa dối công chúa.
- Vậy thì tốt – Dứt lời, An Tư quay người kéo váy chạy đi, trông rất mất thân phận.
- Công chúa người đi đâu vậy, không lẽ vừa hết hình phạt người muốn xuất cung luôn, e rằng Thái thượng hoàng biết được lại tiếp tục khiển trách. – Lục Thảo gọi với theo.
- Ta đi làm bánh. – Nàng đáp gọn.
………………………………………………

Ánh nến lung linh chập chờn làm chiếc bóng to lớn của Nhật Duật trên tường lay động. Sau khi bữa tối kết thúc, các anh chàng còn cao hứng ra đình hóng mát ngoài hồ sen để đối ẩm, nói đi nói lại, hết ôn lại những kỉ niệm đáng nhớ thời thơ ấu trong tôi là, quanh co một hồi rồi cuối cùng lại quay về chuyện quốc gia đại sự, về việc cuộc chiến tranh giữa Đại Việt và Đại Nguyên đang như ngọn lửa âm ỉ cháy, có thể diễn ra bất cứ lúc nào. Quân Nguyên như hổ đói rình mồi, lúc nào cũng lăm le thôn tính miếng mồi ngon là Đại Việt. Mối giao hảo giữa hai nước chỉ bằng mặt mà không bằng lòng suốt 22 năm qua, từ sau cuộc kháng chiến chống quân Mông xâm lược lần thứ nhất vào năm 1258, và giặc Thát đã phải chuốc lấy thất bại ê chề, kéo tàn quân về nước. Chiến tranh xảy ra vẫn khổ nhất là lê dân bách tính. Vì vậy mối lo cho vận nước lúc nào cũng canh cánh trong lòng không chỉ Nhật Duật mà các hoàng huynh rồi trăm quan cũng vậy.

Tiễn các ông anh ra về, Nhật Duật mới thư thả trở về thư phòng thì thấy Dương Đông đã đợi sẵn. Biết là nàng có chuyện bẩm báo, rảo mắt nhìn xung quanh rồi Nhật Duật gật đầu. Theo chân Nhật Duật vào thư phòng, Dương Đông cẩn thận đóng cửa lại.

- Bẩm đức ông, trong chỗ lươn hôm nay dùng để nấu cơm cho Thái thượng hoàng và các vương gia có lẫn hoàng xà. Theo người chuyện này có gì khuất tất đằng sau không?
- Ai là người chuẩn bị chỗ lươn ấy? – Nhật Duật thong thả hỏi.
- Bẩm, là Lý Ngư.
- Hắn là kẻ mới đến? – Nhật Duật trải giấy trên mặt bàn, rồi tự mình mài mực.
- Thưa vâng.
- Cho người điều tra từ hắn, người nhận hắn vào trong phủ, người bán lươn, cả người trong cung biết hôm nay Thái thượng hoàng di giá đến phủ của ta nữa. Có hai khả năng, một là do gián điệp của Đại Nguyên ở Đại Việt bày ra vụ này, hai là do tôn thất còn sót lại của triều Lý, làm vậy để báo thù.
- Thuộc hạ đã rõ. – Dương Đông thưa rồi rời khỏi thư phòng Nhật Duật quỷ không biết thần không hay.

Nhật Duật ngừng mài mực, chàng nhấc bút viết thư hồi đáp cho lão tổng quản ở thái ấp Quảng Xương, Thanh Hóa và Trinh Túc phu nhân – chính thất của mình.

Những bông sen trắng như bạch ngọc cắm trong lọ lục bình để trên án thư bị nhuộm vàng bởi ánh nến. Bông hoa sen màu trắng, bức tường cũng trắng, tại sao bóng hoa trên tường lại đen???[5]

Chú thích:
[1] Tức vua Trần Thánh Tông
[2] Nghĩa là thư pháp có thể giúp ta tu tâm, dưỡng tính
[3] Vua Trần Thái Tông Trần Cảnh
[4] Vua Trần Nhân Tông
[5] Lấy ý từ bài thơ “Hoa huệ” của Bế Kiến Quốc:
Hoa huệ trắng và bức tường cũng trắng.
Sao bóng hoa trên tường lại đen.
Em đừng nhìn đi đâu thế em.
Anh không biết vì sao, ai có lỗi.
Nhưng mãi mãi vẫn còn câu hỏi.

Sao bóng hoa trên tường lại đen?
 
CHƯƠNG 6: Thân bất do kỷ.

Ngày vô tình vượt thời gian và không gian về đây, ngoài chiếc đồng hồ của bác Agasa vẫn đeo ở tay, trong người Haibara còn có cái điện thoại cùng thuốc giải tạm thời của APTX 4869. Điện thoại thì vẫn còn dùng được chỉ có điều không có sóng, đó là điều tất nhiên, nàng đã tắt nguồn để giữ cho pin không bị hao tốn, phòng khi có lúc phải dùng đến, còn thuốc giải tạm thời thì đó là vật bất ly thân của nàng. Cũng nhờ nàng mang theo nó mà nàng và đám nhóc mới không bị chết cháy trong căn nhà gỗ đó, cái lần vô tình nhìn thấy hung thủ chôn xác người phi tang và bị hắn truy đuổi để giết người bịt đầu mối.

Treo chiếc đèn hồ kiêm đèn pin của bác Agasa lên cao để sao cho ánh đèn chiếu sáng được mặt bàn, Haibara mới trải giấy mực ra bàn để luyện chữ. Ở hiện đại đèn điện sáng chưng, dù ban đêm cũng như ban ngày chứ không như ở thời xa xưa này, ánh nến tù mà tù mù, mặt người còn chẳng rõ, thắp nến lại còn làm cho không khí trong phòng nóng lên. Thế mới biết điện đúng là phát minh vĩ đại của loài người. Cũng may cái đồng hồ này mới được cải tiến dùng pin mặt trời nên nàng không phải lo nếu nó hết pin thì cũng chỉ trở thành thứ đồ vô dụng. Ban đầu nàng định sẽ kiếm một cục than chì mài gọn thành thanh dài làm bút chì viết cho thuận tiện, nhưng nghe lời khích bác của Nhật Duật, nàng quyết tâm sẽ viết chữ bằng bút lông thật đẹp để cho người ta hết coi thường mình. Trước kia, phần lớn thời gian của nàng dùng để nghiên cứu, suốt ngày vùi đầu vào hóa chất, vào đám chai lọ lỉnh kỉnh, không thì cũng cặm cụi trước màn hinh máy tính. Còn ở đây thì trừ thời gian làm chân sai vặt linh tinh cho Nhật Duật thì nàng cũng được là rảnh rỗi. Thôi thì luyện chữ bằng bút lông cộng học tiếng ở đây để giết thời gian vậy. Không biết bây giờ những người ở hiện đại ra sao rồi, chắc họ nghĩ nàng đã chết vùi thây dưới đáy vực, nàng…nàng thấy nhớ họ, nhớ tiếng nói của Ayumi, tiếng than đói của Genta, sự tỏ vẻ người lớn của Mistu, cái dáng ục ịch của ông tiến sĩ, nụ cười nửa miệng ngạo mạn khinh đời của Conan. Trước giờ nàng chỉ nghĩ nàng và họ chẳng qua là bèo nước tương phùng, chẳng thể ngờ khi xa cách lại nhớ đến vậy.

Nhac nen (ban nhac Nhat Duat thoi)
https://soundcloud.com/tamhoa/t-i-t-m
Trong đêm khuya thanh vắng, chỉ có tiếng lá cây xào xạc trong gió hòa lẫn tiếng côn trùng kêu rả rích, bỗng đâu có tiếng tiêu cất lên, văng vẳng vọng lại khiến ngòi bút đang định hạ xuống của Haibara ngừng lại trong chốc lại rồi lại tỉ mẩn kiên nhẫn viết tiếp từng nét từng nét một. Tiếng tiêu kia khi gửi vào gió vào đất trời hết một khúc tâm tình thì ngưng lại, không gian lại tĩnh mịch, một quãng thời gian trôi qua, tiếng tiêu ấy lại cất lên. Thấy cũng đã mỏi tay, Haibara liền nghỉ, không luyện nữa. Nàng thu gọn giấy tờ rồi định đi ngủ nhưng tiếng tiêu vẫn đang vang lên tuy rất hay và mượt mà nhưng lại mang âm sắc buồn bã, có phần day dứt xen lẫn chút gì không can tâm, luyến tiếc, lãng đãng trong đó làm nàng tò mò. Nàng không nghĩ trong phủ này lại có người thổi tiêu hay như vậy. Trước kia, nàng cũng đã từng xem một số màn trình diễn độc tấu tiêu của các nghệ sĩ nổi tiếng nhưng cái nỗi lòng gửi được vào trong những âm thanh tuyệt diệu được tạo ra từ cây tiêu thì nàng chưa từng cảm nhận thấy như khúc nhạc dang văng vẳng bên tai nầy, hoặc cũng có thể do tâm hồn nàng chai sạn, không biết lãng mạn là gì. Nhưng tiếng tiêu này thì khác, ngoài cái âm hưởng trầm buồn ra, nó còn mang trong mình cái hào sảng, cái chí tung hoành bốn phương, cái khí chất sáng ngời vững như bàn thạch từ tâm hồn của người thổi.

Tiếng tiêu dẫn Haibara đến một tiểu đình trên mặt hồ gần nơi phòng ngủ của nàng. Ánh trăng sáng vằng vặc soi rõ bóng người nam tử đang ngồi trên lan can, tựa lưng vào cột, một chân gác lên lan can, người đang thả hồn theo khúc nhạc do chính bản thân mình tấu lên không ai khác chính là Nhật Duật. Ánh trăng dát bạc xuống mặt hồ tĩnh lặng như gương, nhuộm vàng tà áo trắng đang phiêu diêu trong gió của Nhật Duật, trong đôi mắt chàng đượm ưu tư và buồn phiền, những ngón tay điêu luyện lướt trên thân tiêu. Nhận ra kẻ đã phá hoại giấc ngủ của mình là vị vương gia đứng đầu vương phủ, Haibara cũng không muốn làm phiền người ta nên định rời bước trở về phòng, bản thân nàng cũng thế mỗi khi trong lòng có tâm sự thường chỉ muốn ở một mình, để cho những nỗi đau gặm nhấm con tim và sự cô đơn bủa vây lấy bản thân, nàng thích thế bởi vì đã thành thói quen, cô đơn mãi cũng quen rồi.

- Lại đây – Giọng nói trầm ấm quen thuộc của Nhật Duật cất lên khiến đôi chân đang định rời đi của Haibara dừng lại.

Haibara ngập ngừng rồi cũng bước về phía tiểu đình, bước qua bậc tam cấp rồi ngồi xuống ghế ngựa được bày sẵn ở đấy. Nhật Duật thổi tiếp khúc nhạc đang dang dở.

- Chú đang thất tình à? – Nhìn vẻ đăm chiêu, rất phiêu trên gương mặt anh tuấn khí phách bất phàm của Nhật Duật - vẻ mặt có thể khiến biết bao nhiêu thiếu nữ không ngả nghiêng vì say nắng thì cũng ôm mộng tương tư, không hiểu sao Haibara lại thấy buồn cười nên buột miệng trêu một câu. Giang sơn dễ đổi, bản tính khó rời, từ hồi lạc về đây không được đá xoáy, mỉa mai, trêu tức Shinichi như vẫn hay làm khiến nàng thấy cũng bứt rứt trong lòng đâm ra ngứa mồm ngứa miệng. Có lẽ ưa mỉa mai người khác là một tật xấu khó sửa đồng thời là cá tính của nàng. Hồi còn ở trong tổ chức áo đen, “nạn nhân” chính của nàng là Gin và Vodka.

Câu nói của Haibara làm Nhật Duật dừng lại. Trước ánh mắt khác lạ của chàng nhìn mình khiến Haibara bất an, biết mình lỡ lời, nàng liền nhún vai nói:

- Just kidding

Đôi mày kiếm của Nhật Duật nhíu lại vì chẳng hiểu cô nhóc quái đản trước mặt mình vừa nói gì.

- Chỉ đùa thôi. – Nàng sửa lại.

- Khuya rồi, nhóc chưa ngủ sao, trẻ con không nên thức muộn – Nhật Duật đưa bàn tay vuốt ve thân tiêu bằng bạch ngọc trong suốt tuyệt đẹp, trên đó còn khắc bốn chữ tinh xảo “Chiêu Văn đồng tử”.

- Cháu cũng định vậy nhưng tại tiếng tiêu của chú ồn ào quá nên không ngủ được – Nàng “thật thà” đáp, nói về việc thức muộn thì ở hiện đại, nàng làm thường xuyên, có khi còn thâu đêm không ngủ, một phần là do mải miết nghiên cứu thuốc giải APTX 4869, một phần do những ác mộng ám ảnh về tổ chức áo đen, về họng súng lạnh lùng của Gin, về sự đeo đuổi của Vermouth, vì vậy một trong những thói quen của nàng nữa là ngáp ngủ. Nhưng từ hồi ở đây, sinh hoạt điều độ nên mắt nàng đỡ lờ đờ hơn, cũng ít ngáp hơn.

- Ta thổi tiêu dở đến vậy sao? – Nhật Duật hỏi.

- Cũng tạm được – Nàng đáp, nàng thường rất ít khi mở miệng khen hay ngưỡng mộ người khác mà chỉ để sự cảm phục ấy trong lòng, còn khi cất lời nàng thường không khen đểu thì cũng nói móc. Nạn nhân thường xuyên của nàng trong trường hợp này không ai khác ngoài thám tử đại tài Conan. Vì vậy đối với vị vương gia tinh thông âm luật, nổi tiếng tài hoa, làm trái tim biết bao thiếu nữ ngưỡng mộ, si mê, cuồng vọng đang ngồi trước mặt, nàng cũng không ngoại lệ.

- Nhóc biết thổi không?

- Cháu chỉ biết thổi một bản.

- Vậy thổi ta nghe đi, vừa rồi nhóc nghe ta thổi mà chưa xin phép, ta tha không bắt trả tiền rồi đấy – Nhật Duật nói giọng thật như đếm, rồi đưa một cây tiêu khác làm bằng … trúc cho Haibara. – Đừng nghĩ ta keo kiệt, cây tiêu ngọc này chỉ có người con gái ta yêu mới được động vào. Mẹ ta dặn vậy.

- Cháu có nghĩ gì đâu, chẳng qua có người chưa khảo đã xưng – Nàng đáo để đáp rồi đưa tay nhận lấy cây tiêu.

Trước giờ nàng chưa thổi tiêu trúc bao giờ. Âm thanh vang lên làm mặt hồ xao động, mái tóc nâu đỏ cùng gương mặt trẻ thơ bầu bĩnh của nàng dưới ánh trăng như tỏa sáng, những ngón tay thon dài lướt trên thân tiêu. Nhật Duật không hiểu sao khi ấy mình lại chăm chú ngắm nhìn cô bé con ấy như vậy, đến khi nhận ra thì chính chàng cũng giật mình. Công bằng mà nói, nàng thổi chỉ thành bản nhạc đúng giai điệu thôi chứ không hay. Có điều bản nhạc nàng thổi tuy giai điệu lạ lẫm nhưng lại mang đến cho con người ta cảm giác thanh thản, bình yên, muốn quên hết hờn giận, lo âu, phiền muộn. Khi bản nhạc kết thúc, Nhật Duật hỏi:

- Khúc này tên là gì?

- Amazing grace – Nàng đáp. – Nghĩa là ân điển kỳ điệu.

- Ân điển kỳ diệu – Nhật Duật nhắc lại tên rồi chàng hỏi – Khúc nhạc này có lời không?

- Có – Nàng gật đầu.

- Giờ ta thổi lại khúc đó, nhóc hát cho ta nghe có được không?- Nhật Duật đề nghị.

- Một cái khăn tay lụa Vạn Bảo, cháu chỉ cần chú trả công có vậy thôi – Haibara ra giá. Nàng tuy không phải là tín đồ cuồng hàng hiệu nhưng không thể phủ nhận cảm giác thỏa mãn dễ chịu khi bắt người khác mua món đồ hàng hiệu cho mình khi người ta nhờ nàng giúp gì đó. Nàng đã từng ra giá với Conan một chiếc ví hiệu Fusae khi cậu ta nhờ nàng đóng kịch đau ruột thừa phải cấp cứu để tìm ra ai là người giấu dây điện thoại trong một vụ án. Về đây nàng phải từ bỏ sở thích xem tạp chí thời trang vì đơn giản là ở nơi này không có. Lụa Vạn Bảo [1] là một loại lụa thượng hàng nổi tiếng ở Đại Việt có lịch sử đã mấy trăm năm nay. Thực sự rất đẹp từ màu sắc cho đến hoa văn, chất vải tốt, mùa đông mặc thì tốt mùa hè thì mát, lại là đồ handmade. Nơi này không có những hiệu như Channel, Levis, Guicci, Helmet,…, thôi thì lụa Vạn Bảo cũng được xem như hàng hiệu nên Haibara mới yêu cầu với Nhật Duật.

- Nhóc tính may áo mới? – Nhật Duật nhướn mày – Lụa Vạn Bảo được chọn để may y phục cho triều đình, nhóc cũng có mắt thẩm mĩ ghê, nhưng ta đi nghe đào nương nổi tiếng tài sắc kinh thành hát cũng không phải trả cái giá cao như vậy đâu.

- Đấy là cháu tính cả công nấu bữa ăn tối nay vào đó rồi, trong tờ cam kết chú thuê cháu làm việc không có công việc nấu nướng đó. Khoan nói đến chuyện vi phạm thì sẽ bị phạt, chú vẫn thường nói cái gì mà quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy, nhưng nay giấy trắng mực đen rành rành thế này mà còn làm sai, một vương gia tôn quý như chú sao có thể nói lời mà không giữ lấy lời. – Nàng cười và dùng ánh mắt “khinh thường” nhìn Nhật Duật.

Đến bây giờ thì Nhật Duật đã lờ mờ hiểu ra nhóc con này không dễ bắt nạt như chàng đã nghĩ. Mồm miệng sắc sảo, đáo để ghê! Mà chuyện bữa tối là do chàng bị các hoàng huynh ép đó chứ.

- Được rồi. Nhóc cũng cơ hội gớm – Nhật Duật xuôi xị, gương mặt trẻ con hờn dỗi khiến Haibara chẳng thể tin được người ngồi trước mặt mình là một vị vương gia quyền cao chức trọng, người trong phủ vẫn hay bảo vương gia vui buồn đều không lộ ra mặt. Nàng thấy cũng đúng, như tên thám tử kiêu ngạo ấy mỗi khi hắn nở nụ cười nửa miệng khinh đời là nàng biết hắn đã tìm ra chìa khóa vụ án, còn với Nhật Duật thì nàng thực sự không nắm bắt nổi người này, một người lúc nào đôi mắt cũng yên tĩnh trong suốt, trên môi điểm nụ cười nhẹ thản nhiên. Thế nhưng cũng có lúc anh ta mang gương mặt mà theo như nàng nghĩ thì nhìn trông rất tức cười như bây giờ. Nếu có máy ảnh ở đây chắc nàng phải chụp lén lại, rồi rửa ra chục tấm đem bán cho gia nhân trong phủ chắc cũng kiếm được khối tiền.

- Cảm ơn chú đã khen ngợi – Nàng thờ ơ đáp.

Trước câu trả lời của Haibara, Nhật Duật thấy cũng không lạ lắm, tính cách cô nhóc này thế nào nửa tháng qua đủ để chàng nắm được vài phần, nhóc con “khẩu thị tâm phi” [2]. Các anh trai chàng, rồi em gái chàng đều có cá tính đặc biệt khác người, chàng tiếp xúc nhiều rồi quen do đó đối với sự lập dị, kỳ lạ của Haibara, chàng cũng thấy bình thường thôi à. Không biết có người đang nghĩ mình là lập dị, Haibara vô tư đưa tay lên che miệng ngáp.

Nhật Duật dùng cây tiêu ngọc thổi lại khúc Amazing grace. So với với Haibara thì khúc nhạc của chàng mượt mà và điêu luyện thanh thoát cao siêu hơn, khiến nàng ngạc nhiên. Nàng nghĩ anh ta chỉ nói chơi vì không tin chỉ mới nghe một lần lại có thể thổi lại được đúng âm điệu giai sắc của cả một bản nhạc tuy không dài nhưng cũng không phải ngắn này.

Amazing grace, how sweet the sound

That saved a wretch like me!



But God, who call’d me here below,

Will be forever mine.

Haibara cất tiếng hát. Giọng hát trẻ thơ trong trẻo, cao vút, ngân vang hòa cũng tiếng tiêu bay lên tận trời đêm thăm thẳm lấp lánh những vị tinh tú giống như một tấm nhung khổng lồ thuê ngân tuyến.

- Nhóc có thể chép lời bài này cho ta được không, nếu không viết được tiếng An Nam thì viết tiếng Phù Tang cũng được để ta hiểu. – Nhật Duật nghe lời ca mà Haibara hát chẳng hiểu mô tê răng rứa chi hết, nhưng âm nhạc không cần ngôn ngữ, chỉ cần giai điệu, nên khi người tấu kẻ hát kết thúc rồi, chàng mới hỏi.

- Cháu có viết chú cũng chẳng hiểu đâu – Nàng đứng dậy, sở dĩ nàng trả lời như vậy vì bài hát này là thánh ca của Cơ Đốc giáo [3], ca ngợi Chúa trời, trong khi nơi này họ sùng Phật giáo còn Thiên chúa giáo thì chưa được truyền bá tới – Cháu về phòng ngủ đây.

- Thì nhóc cứ viết cho ta, hiểu được hay không là chuyện của ta – Nhật Duật cười, rồi chàng ném cây tiêu trúc về phía Haibara – Bắt lấy, cái này cho nhóc, trả công chép lại lời bài hát.

Theo phản xạ, Haibara đưa tay ra bắt lấy cây tiêu, cho thì nàng nhận. Rồi nàng tính rời khỏi đình để trở về phòng thì nhớ ra có chuyện quan trọng cần nói, nàng liền quay lại:

- Đúng rồi, hôm nay ở trong bếp, chỗ lươn dùng để chuẩn bị bữa tối có rắn lươn lẫn vào, nghe nói ăn nhầm con đó sẽ trúng độc mà chết, trong những người đàn ông hôm nay đến tìm chú, chú đã bảo có một người là Thái thượng hoàng còn những người khác đều là vương gia, chỗ lươn dùng để chuẩn bị bữa tối đãi họ lại có vấn đề, cháu nói chuyện này để chú cân nhắc.

Nàng tuy không rành mấy chuyện đấu đá quan trường hậu cung hay những việc liên quan đến chính trị của thời cổ đại này nhưng nàng đủ thông minh và nhạy cảm để nhận biết được những ẩn tình khúc mắc đằng sau những vẫn đề tưởng chừng đơn giản. Dù từ nhỏ đến lớn thế mạnh của nàng là hóa dược nhưng khi gặp Shinichi và bị dính dáng đến các vụ án mạng, suy luận giải đố, nàng cũng chẳng bỡ ngỡ và đôi khi còn trở thành một cộng sự giúp Shinichi phá án.

- Cảm ơn nhóc, nhưng ta nghĩ chỉ là vô tình thôi, đúng là trẻ con hay nghiêm trọng hóa vấn đề - Nhật Duật có đôi chút ngạc nhiên khi Haibara nói với chàng chuyện này, lúc trở về thư phòng chàng đã nghe Dương Đông báo cáo, ngạc nhiên vì không ngờ một đứa trẻ lại có thể suy nghĩ sâu như vậy, việc này đôi khi người lớn còn bỏ qua chẳng để tâm đến. Để tránh đả thảo kinh xà và an toàn cho Haibara khi mà thủ phạm vẫn còn trong bóng tối, Nhật Duật chỉ mỉm cười xoa đầu nàng.

Nàng gật đầu rồi rời đi, Nhật Duật đã nói vậy thì nàng cũng chẳng biết nói gì thêm. Nhật Duật là một người tâm tư khó dò, dù mới tiếp xúc với chàng được nửa tháng nhưng nàng đã nhận ra điều đó, có thể chàng không tin lời nàng nói cũng có thể đã tin và trong lòng đã có những tính toán riêng. Người giống như Shinichi lại dễ đoán biết hơn, chỉ quen biết cậu ta mấy tháng mà nàng đã hiểu rõ tính cách của cậu. Hoặc là nàng đã quá đa nghi, trưởng thành trong một môi trường mà ở đó được chứng kiến những mặt xấu xa nhất của con người khiến nàng luôn nhìn đời bằng một màu xám, Conan từng than thở rằng nên đặt tên cho nàng là sầu đời mới đúng. Trăng bị mây mù che khuất, đêm cũng sắp tàn, ai về phòng người nấy. Vừa đi Haibara vừa mân mê cây tiêu trên tay, người ta có sầu còn biết gửi vào tiếng tiêu để trải nỗi lòng với đất trời cảnh vật, còn nàng những nỗi đau chỉ giữ kín trong lòng để nó gặm nhấm con tim, đến rơi lệ cho vơi bớt thương đau cũng là chuyện hiếm hoi. Có điều không hiểu sao nàng cảm giác nói chuyện với Nhật Duật rất thoải mái.

Tiếng tiêu tiếng hát đã dứt, chỉ còn tiếng đùa giỡn của gió với lá, tiếng côn trùng tấu nhạc rả rích là vẫn còn văng vẳng suốt đêm trăng thanh gió mát.

………………...………….

Trở về thư phòng, Nhật Duật ngần ngừ rồi mới gấp lá thư viết cho người vợ cả của mình là Trinh Túc phu nhân vào phong thư để gửi về thái ấp ở Thanh Hóa. Ngoài Trinh Túc, chàng còn 2 người thiếp nữa. Trinh Túc là con gái của Tướng quốc Thái úy Trần Nhật Hiệu [4]. Trần Nhật Hiệu là chú ruột của Nhật Duật vì thế nên Trinh Túc chính là em họ của chàng. Nhưng hoàng tộc họ Trần có quy định chỉ được lấy con gái trong họ làm chính thất để cho quyền lực không bị ngoại tộc thâu tóm giống như những gì họ đã làm với triều Lý vì vậy chàng không thể không tuân theo. Các hoàng huynh chàng cũng vậy. Trần Hoảng lấy chị họ là Thiên Cảm Nguyên Thánh Hoàng Thái Hậu, Quang Khải lấy Phụng Dương công chúa – con gái của thái sư Trần Thủ Độ, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lấy cô ruột của mình là Thiên Thành công chúa, Trần Khâm [5] lấy Quyên Thanh công chúa nay là Bảo Thánh Hoàng Hậu – con gái của Quốc Tuấn. Hôn nhân để ràng buộc chính trị. Tình cảm vợ chồng của những người khác như thế nào chàng không biết nhưng đối với riêng chàng đó là một cuộc hôn nhân sắp đặt không có tình yêu. Vợ chồng chỉ tương kính như tân. Chàng chẳng thể miễn cưỡng bản thân mình đối xử với Trinh Túc nồng thắm ân ái như những đôi vợ chồng bình thường vì bản thân chẳng có chút tình ý nào với người con gái này, nhưng cũng chẳng thể lạnh nhạt vô tình với nàng ấy. Thân phận tôn quý nhưng thân bất do kỷ. Hai người thiếp còn lại của chàng đều là con gái quan lại tướng quân nắm trọng trách trấn thủ ở vùng Thanh Hóa [6]. Chàng đã từng trêu hoàng huynh Quang Khải rằng trong phủ anh có cả một hậu cung thu nhỏ mỹ nhân như mây, quả thật Quang Khải có nhiều thê thiếp nhưng phần lớn trong số họ đều là con gái của các tù trưởng hoặc quan viên ở các vùng miền của đất nước, vì duy trì mối quan hệ với họ nhằm khiến họ tận tậm dốc lòng dốc sức phục vụ triều đình, Quang Khải cũng khó lòng từ chối việc họ dâng con gái cho chàng để làm tì thiếp. Nhật Duật cũng vậy, thái ấp được vua ban của chàng ở Thanh Hóa, chàng lại không thường xuyên lúc nào cũng có mặt ở đó để quản lý nên giao hảo với quan lại nơi đó không thể không giữ. Vì việc nước việc quân, chàng thường đi lại giữa kinh thành và thái ấp.

Khác với chàng, Trinh Túc ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy Nhật Duật 5 năm trước đã đem lòng yêu mến sâu sắc. Trong thư của lão tổng quản gửi từ phủ đệ ở thái ấp tới, ngoài việc báo cáo về các việc trong phủ, tình hình ruộng đất rồi dân chúng ở thái ấp làm ăn sinh sống ra sao thì còn nhắc đến việc Trinh Túc phu nhân do lâu ngày thấy chàng không về liền giận cá chém lung tung sinh ra gắt gỏng, nóng nảy, thường hay mắng mỏ nặng lời với gia nhân trong phủ, điều này khiến chàng buồn lòng phiền muộn và thấy tội lỗi của mình lại nặng thêm. Thực ra Trinh Túc không phải không tốt, chỉ có điều nàng ta yêu Nhật Duật nên sinh ra tính hay ghen tuông quá đáng. Hồi nạp thêm hai người thiếp, Nhật Duật cũng tôn trọng hỏi ý kiến của nàng. Chẳng có người đàn bà nào muốn chồng mình có thêm vợ trừ khi người đó không yêu chồng, nhưng Trinh Túc cũng hiểu ý nghĩa của việc nạp thiếp nên đành phải đồng ý. Trước giờ “chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai” [7], vì vậy sợ Trinh Túc ở nhà gây khó dễ cho hai người thiếp nên khi viết thư về thái ấp, Nhật Duật thường chỉ viết cho Trinh Túc. Mà chàng cũng yên tâm hai người thiếp kia không tủi thân, vì hai người họ tuy mỗi người một vẻ nhưng đều có “cá tính đặc biệt khác người” giống như các anh trai và em gái của chàng. Nàng thứ nhất có cái tên tương đối mỹ miều: Hiền Thục, tuy là thiên kim tiểu thư nhưng lại có sở thích vô cùng quái đản. Nàng ấy không yêu thích hoa, không đam mê thêu thùa, chán ghét cái gọi là cẩm kỳ thi họa mà chỉ thích ham hố nghiên cứu độc dược, vì vậy nàng ấy bôn tẩu giang hồ, ngao du bốn phương, tiêu dao tự do tự tại tìm cỏ lạ rắn độc bọ cạp vân vân và mây mây những thứ cần thiết để điều chế độc dược. Có khi cả năm, cả tháng, người trong phủ chẳng thấy mặt nhị phu nhân đâu, nàng đi hay về phủ lúc nào chẳng ai biết. Ngay đêm tân hôn, nàng lén bỏ thuốc độc vào chén rượu của Nhật Duật, đợi cho chàng uống cạn rồi nói:

- Cuộc hôn nhân này cả hai chúng ta chẳng ai thích, và cũng biết rõ tại sao lại có nó, vì vậy mạnh ai nấy sống, nước sông không phạm nước giếng, ta không cần ngài làm gì cho ta cả, hi vọng cả đời này ngài đừng động vào người ta, hứa với ta điều đó, ta cho ngài thuốc giải, còn nữa đừng gọi ta bằng cái tên Hiền Thục đó làm ta nghe xong mà nổi hết da gà.

Vốn đang bối rối khi không biết làm sao đối diện với tân nương, bắt chàng làm chuyện vợ chồng với người con gái chàng không yêu chàng không làm được. Chuyện viên phòng giữa chàng và Trinh Túc là do Thiên Cảm Hoàng Thái Hậu thúc ép, vả lại trong ba tội thì không có con nối dõi tông đường là tội bất hiếu lớn nhất, đêm viên phòng với Trinh Túc hôm ấy chàng đã mượn rượu, đã uống đến say mèm không biết trời trăng gì nữa, tất cả còn lại phó mặc cho bản năng. Không động phòng với tân nương nhưng nếu để nàng ấy cô đơn quạnh quẽ trong phòng một mình vào đêm tân hôn thì quả thật tàn nhẫn, chàng còn chưa biết lựa lời làm sao để nói cho phải để không làm tổn thương người ta thì Hiền Thục đã chủ động hành động trước vô tình giải thoát cho chàng khỏi tình thế khó xử. Dằn cơn đau bụng do thuốc độc hành hạ xuống, chàng ngạc nhiên hỏi:

- Vậy cô muốn tôi gọi bằng gì?

- Gọi là Huyết Lệ đi, ta thích cái tên đó – Rồi nàng chỉ vào con chim bồ câu mập ú đang quẹt mỏ xoen xoét trên gi.ường tân hôn bảo – Nếu trong phủ có chuyện gì cần có sự có mặt của ta thì hãy dùng con chim bồ câu này đưa thư, ví dụ như cha ta đến thăm chẳng hạn, vì thân phận của ngài cao quý như thế nên ông ấy sẽ không đường đột mà đến, tất có báo trước. Ta sẽ trở về vương phủ đề trình diện kịp thời.

- Cô định đi đâu? – Nhật Duật khó hiểu.

- Đó là chuyện của ta, đã nói việc ai nấy lo, kể cả ta đi tìm tình lang, ngài cũng chẳng quản được. Nếu muốn thuốc giải độc thì đừng hỏi nữa. – Hiền Thục đáp.

- Tôi chỉ sợ cô gặp nguy hiểm ở bên ngoài, như vậy tôi sẽ có lỗi với nhạc phụ - Nhật Duật ôn tồn đáp.

- Yên tâm, bổn cô nương võ nghệ đầy mình, ám tiễn không thiếu, không thông minh nhưng đủ xảo quyệt – Hiền Thục tung viên thuốc giải cho Nhật Duật.

- Con chim này liệu có bay được không? – Nhìn cái dáng ục ịch, mập ú đến béo tròn của con chim bồ câu, chàng ái ngại hỏi.

- Sao lại không bay được – Hiền Thục bức xúc thay cho con bồ câu yêu quý của mình khi nó bị người ta xúc phạm

Đó là người thiếp thứ nhất của Chiêu Văn vương. Người thiếp thứ hai tên Thùy Mỵ lại mang một cá tính khác. Người giống như tên, nàng này đúng là hình mẫu chuẩn nhất cho một vị tiểu thư khuê các. Cả ngày tam phu nhân đa sầu đa cảm chỉ ở trong khuê phòng làm thơ viết chữ, vẽ tranh đánh đàn, thuê thùa may vá, trồng hoa cắt cỏ, không quan tâm đến thế sự xoay vần bên ngoài, có khi đến mặt vương gia tròn méo xấu đẹp thế nào cũng chẳng biết. Tại sao lại vậy, đêm tân hôn, Nhật Duật lại một lần nữa bối rối chẳng biết phải lựa lời ra làm sao khi nghe người ta nói vị tiểu thư này vốn mỏng manh dễ vỡ, nhưng chẳng khác gì một gáo nước lạnh khi chàng bước vào phòng tân hôn, vị tiểu thư còn chẳng thèm ngẩng mặt lên nhìn. Chàng ân cần hỏi nàng không thèm đáp, chàng dịu dàng nói nàng không thèm nghe, tâm hồn nàng còn mải treo ngược cành cây để ngắm trăng nhìn hoa đếm lá rơi, rồi nàng ấy làm thơ vịnh con ruồi đang bị con nhện ăn thịt với sự thương xót khiến cho Nhật Duật cảm thấy bản thân mình vốn trước giờ được người người trọng vọng nhưng trong mắt nàng ấy chẳng đáng giá bằng loài ruồi bọ. Sau một hồi đứng độc thoại như một kẻ tâm thần có vấn đề kiểu tàu hỏa nhập ma, chàng đành ngậm ngùi trong sung sướng nhảy chân sáo về phòng ngủ yêu dấu của mình.

Nếu là người khác có lẽ sẽ rất giận các quan viên đã gả cho mình hai cô gái không bình thường cho mình, nhưng Nhật Duật lại cảm thấy may mắn bởi bì trút được gánh nặng và món nợ với hai cô gái này. Vì chàng không thể miễn cưỡng bản thân cho họ cuộc sống phu thê hạnh phúc đúng nghĩa tình nồng ý đượm vì chàng không yêu họ, đó là một món nợ tình cảm. May mắn hơn là khi có nhà ngoại đến thăm, hay có khách đến phủ, hai nàng đều tỏ ra bình thường, trong mắt người ngòai họ là người vợ hiền lễ độ. Ai cũng phải tấm tắc khen chàng thê thiếp hòa thuận, nhưng nào ai biết được sự thể thực sự là như thế nào.

Vì vậy trong ba người vợ chỉ có Trinh Túc là làm chàng phiền lòng. Chàng vẫn thường xuyên hỏi han quan tâm đến nàng, dặn dò người trong phủ chăm sóc nàng chu đáo, thăm nom khi nàng đau ốm. Những gì chàng làm được và có thể làm chỉ có thế, chàng cũng đã cố gắng làm tất cả những gì có thể. Bản thân chàng chỉ coi nàng như em gái và muốn duy trì mối quan hệ tương kính như tân, giới hạn của một cuộc hôn nhân chính trị cũng chỉ đến vậy. Có những thứ chàng không thể cho nàng được. Mặc dù chàng không lạnh nhạt chán ghét nhưng sự xa cách tưởng như nghìn dặm trong ánh mắt chàng nhìn mình, khách sáo, giữ lễ của chàng đủ để Trinh Túc hiểu được rằng chàng không yêu nàng. Điều đó làm nàng đau khổ, yêu một người và làm vợ một người đó nhưng lại không có được tình yêu của người ấy là một điều thống khổ. Đêm tân hôn, Nhật Duật vờ uống rượu say đến mức vừa bước vào phòng tân hôn đã lăn ra ngủ, nàng biết chàng cố tình trốn tránh. Những ngày sau đó, chàng đều tìm cớ thoái thác không bận việc quân thì cũng mệt trong người sợ lây bệnh cho nàng hay kinh thành có việc gấp phải đi một thời gian mới về. Nàng đã phải đến khóc lóc kể lể với Thiên Cảm Hoàng thái hậu, lời của Hoàng thái hậu lại thêm Thái thượng hoàng, Nhật Duật không thể không nghe. Chuyện đó, Nhật Duật biết, nhưng không trách nàng, sự đau khổ của nàng đối với chàng là một món nợ tình cảm, một sự phiền muộn, một tội lỗi khiến lương tâm chàng day dứt. Nhưng tình cảm chẳng ai có thể miễn cưỡng được.

Vuốt ve cây tiêu ngọc, đưa ngón tay khẽ miết theo từng nét chữ tinh xảo được khắc trên đó, đây kỷ vật của mẹ chàng để lại, vì vậy chàng rất trân trọng nó. Mẹ chàng là cung phi thứ năm của phụ hoàng, được phong là Vũ phi. Cây tiêu này là quà phụ hoàng tặng mẹ vào ngày mẹ chàng chính thức trở thành cung phi. Bốn chữ “Chiêu Văn đồng tử”, sau khi chàng ra đời, Vũ phi mới cho người khắc lên thân tiêu. Chuyện là khi chàng mới sinh, trên cánh tay chàng có bốn chữ ấy. Vì vậy vua cha mới lấy đó mà đặt vương hiệu cho chàng là Chiêu Văn. Chiêu Văn nghĩa là đón gọi cái đẹp. Khi chàng bắt đầu học về âm luật, Vũ phi đã tặng chàng cây tiêu ngọc này. Khi ấy chàng đã giương đôi mắt to tròn ngây thơ hỏi mẹ:

- Cây tiêu này là của phụ hoàng tặng mẹ, chẳng phải mẹ rất quý sao lại cho con.

- Vì mẹ rất quý nó nên mới cho con, Duật à. Để sau này con lớn sẽ tặng lại nó cho cô gái mà con yêu, giống như ngày xưa quan gia đã tặng cho mẹ - Vũ phi dịu dàng xoa đầu đứa con nhỏ.

Ám ảnh suốt thời thơ ấu của chàng là đôi mắt hạnh của mẹ u buồn khắc khoải chờ mong mỗi khi phụ hoàng không ghé thăm mà nghỉ lại ở tẩm cung của phi tử khác, lúc đó chàng đã nghĩ nếu phụ hoàng chỉ có duy nhất một người vợ là mẹ chàng thôi thì trong đôi mắt đẹp của mẹ sẽ không còn nỗi u bồn nữa. Khi ấy, Nhật Duật đã tự nhủ lớn lên sẽ chỉ lấy người con gái mình yêu, chỉ lấy duy nhất một người, một vợ một chồng toàn tâm toàn ý yêu thương nhau mà sống đến đầu bạc răng long. Nhưng thế sự xoay vần chẳng thể lúc nào cũng theo ý mình được. Chàng đã từng thử cố ép mình mở cửa trái tim để đón nhận Trinh Túc nhưng không thể, nên đành để nàng tổn thương. Một cuộc hôn nhân nhuốm màu chính trị, một cuộc hôn nhân sắp đặt tuân theo quy định của hoàng tộc sao có thể hạnh phúc???

“Chú đang thất tình à?”, nghĩ đến câu hỏi cắc cớ ban nãy của Haibara, bờ môi kiên nghị của Nhật Duật bất giác mỉm cười, gần đúng rồi đấy nhóc con, nói chính xác là ta làm người khác thất tình, còn chàng từ trước đến giờ đã có mảnh tình nào vắt vai đâu mà bị cô nào đó đá nên chẳng biết thất tình là cảm giác như thế nào? Không biết chuyện buồn phiền, nỗi ray rứt của chàng về Trinh Túc có được coi là thất tình không ta?

………………………………………………………

Mở cửa phòng bước ra, Haibara khoan khoái hít thở không khí trong lành còn ẩm hơi sương của sớm mai. Thực hiện vài động tác khởi động đơn giản, nàng bắt đầu tập bài tập thể dục tập thể quen thuộc mà trước kia vẫn hay cùng bác Agasa và đội thám tử nhí tập ở công viên vào mỗi sáng. Nhớ lúc đó nàng đã nói nếu không chăm tập thể dục lúc về già sẽ mắc các bệnh như máu nhiễm mỡ, huyết áp cao, đái tháo đường khiến ông bác sợ xanh mặt, vội thực hiện các động tác mạnh mẽ siêng năng tích cực hơn cả.

Trong khi đó, Nhật Duật đang đứng nhìn nàng với ánh mắt khó hiểu khi không biết nàng đang làm gì mà hươ tay múa chân loạn hết cả lên giống như mấy ông đạo sĩ làm phép trừ ma.Thói quen của chàng là sáng sáng luyện võ, khi luyện xong bài quyền, chàng định đến đại sảnh, đi ngang qua phòng Haibara, thấy nàng đang làm những động tác kỳ cục nên tò mò lẫn thích thú đứng lại xem. Cảm giác được đang có người nhìn mình, Haibara ngó quanh thì thấy Nhật Duật đang đứng đó nhìn mình bằng con mắt dành cho sinh vật lạ.

- Nhóc đang làm gì mà giơ tay giơ chân loạn lên thế? – Nhật Duật tròn xoe mắt hỏi.

- Tập thể dục – Haibara trả lời, hơi khó chịu khi Nhật Duật nhìn nàng với ánh mắt cứ như thể nàng đang làm trò gì điên khùng lắm.

- Tập thể dục??? – Nhật Duật không hiểu – Nghĩa là sao.

- Vậy hàng sáng chú đấm đá huỳnh huỵch ồn ào như vậy để làm gì – Nàng hỏi lại.

- Để rèn luyện võ nghệ và sức khỏe. – Chàng vô tư đáp.

- Thì tập thể dục cũng để rèn luyện sức khỏe, những động tác cháu làm này là nằm trong một bài tập – Nàng nói ngắn gọn đủ để cho Nhật Duật hiểu để khỏi thắc mắc.

- Ra vậy, nhưng những động tác này kỳ lạ quá, ta chưa thấy bao giờ - Nhật Duật gật gù – Nhóc chuẩn bị đi, lát nữa bưng tráp theo hầu ta ra phố - Nói rồi chàng phủi áo rời đi, không quên nói thêm với nụ “cười cực đểu” trên môi – Việc này trong tờ cam kết nhóc yêu cầu có ghi rõ đấy.

Biết chàng xỏ mình vụ hôm qua, khi nàng đòi chiếc khăn lụa Vạn Bảo với lí do trả thêm công nấu nướng cho bữa tối qua. Vì hay xiên xỏ mỉa mai người khác nên với vấn đề này, nàng nhạy cảm lắm, người ta nói cái nàng hiểu ngay.

……………….

Nhật Duật thong dong đi ngoài phố, trên tay phe phẩy cây quạt, dáng điệu ung dung nhàn nhã, Haibara bưng tráp lẽo đẽo theo sau. Trên đường đi, chàng thấy quán hàng hay hay thú vị cũng sà vào nghiêng nghiêng ngó ngó, vẻ băn khoăn lắm.

- Chú đang chọn quà cho cô nào hả - Ngán ngẩm vì lết đến mỏi cẳng đi theo Nhật Duật từ sáng đến giờ, lại bị mấy người bán hàng đốt vía vì vào xem mà không mua, Haibara lên tiếng.

Chàng cũng đã vốn định sẽ về thái ấp thăm Trinh Túc và nhân dân ở đó nhưng trong triều chàng được giao đặc trách những công việc về các dân tộc có liên quan. Gần đây vùng núi phía Tây Bắc đang không được ổn định, sắp tới sợ rằng có biến nổi loạn, chàng cần phải ở lại kinh thành nên chẳng thể về được. Vùng núi Tây Bắc là nơi các man người thiểu số sinh sống, là nơi tập trung nhiều châu phên dậu của Đại Việt, do có biên giới ráp gianh với đất Bắc nên có vị trí địa lý hết sức quan trọng. Một mai quân Nguyên có sang xâm lược Đại Việt, nếu chúng chọn đường thủy để tiến công thì chỉ có một con đường là từ Khâm Châu qua Vĩnh An, đường này đi mất 5 ngày, còn về đường bộ thì từ Ung Châu đến kinh thành Thăng Long có 3 đường. Con đường nhanh nhất và ngắn nhất để tiến đến Thăng Long là đường chính từ trại Vĩnh Bình theo sông Ô Bì, sông Đào Hoa rồi sông Phú Lương, đi đường này mất bốn ngày. Bốn ngày là có thể tiến đến kinh thành nhưng đấy là nếu mọi điều đều thuận lợi. Những muốn đi qua những đường đó bắt buộc quân địch phải đi qua những vùng do các dân tộc vùng thiểu số Đại Việt sinh sống, các tù trưởng luôn trung thành và dốc hết lòng phục vụ triều đình, họ sẽ lãnh đạo dân chúng của mình xả thân đánh giặc báo hoàng ân cũng là bảo vệ mảnh đất thiêng liêng nơi chôn rau cắt rốn của mình. Do đó quân giặc muốn vượt qua vùng rừng núi âm u hiểm trở trùng trùng điệp điệp này cũng không dễ dàng. Vì vậy, việc ổn định các châu phên dậu, động ở vùng Tây Bắc luôn luôn được coi trọng. Thời nhà Lý trước đây, các vua Lý thực hiện chính sách gả công chúa cho các tù trưởng và cho họ tự cai quản vùng đất của mình để duy trì khối đại đoàn kết dân tộc bền vững. Nhà Trần thì không dùng cách này. Hiện tại, việc giao hảo với các dân tộc thiểu số ở đây là do Nhật Duật nắm trọng trách. Vì chắc sắp tới, chàng chưa về thái ấp được ngay, nên tính mua một món quà cho Trinh Túc gửi kèm thư về cho nàng ấy nguôi giận. Trong phủ chẳng thiếu thứ gì nên chàng chẳng biết nên gửi quà gì về. Mấy khoản liên quan đến phụ nữ, chàng không rành lắm. Mà hỏi các tỳ nữ trong phủ thì thấy ngài ngại làm sao ấy, hỏi An Tư thì còn nhỏ chưa hiểu chuyện người lớn, hỏi Thụy Bảo thì không sớm thì muộn chuyện cũng đến tai các hoàng huynh rồi mấy ông anh sẽ lôi ra để trêu chọc chàng.

- Sao nhóc biết – Nhật Duật bối rối, cái mặt ngố không thể tả.

- Đoán. – Nàng nhún vai – Nhìn vẻ mặt chú thì chắc không phải mua cho người yêu rồi. Là mua quà cho em gái, vợ , hay bồ nhí?

- Cho em gái – Hơi méo mặt khi nghe đến hai chữ bồ nhí nhưng Nhật Duật lưỡng lự rồi cũng đáp, trên danh nghĩa là vợ chồng nhưng thực lòng chàng chỉ coi Trinh Túc như em gái thôi, quà tặng cho vợ và em gái khác nhau.

- Là chị An Tư ? – Haibara hỏi nhưng nhận được cái lắc đầu của Nhật Duật – Vậy là công chúa Thụy Bảo?

Nhật Duật tiếp tục lắc đầu.

- Chú nói thật đi, mua quà tặng cho bồ nhí chứ gì? – Haibara nhìn Nhật Duật bằng đôi mắt lấp lánh những tia sáng châm trọc chế giễu – Chú chỉ có hai em gái là công chúa Thụy Bảo và chị An Tư, làm gì có em gái nào khác, nếu mua quà cho ba bà vợ ở thái ấp thì cần gì nói dối, vậy thì chỉ có mua quà cho bồ nhí thôi.

- Sao nhóc biết rõ hoàn cảnh gia đình nhà ta thế? – Nhật Duật trố mắt.

- Dù ở đâu, thời nào thì con gái vẫn thích buôn chuyện như nhau, trong phủ lại có nhiều tỳ nữ như vậy – Nàng đáp, trên môi thấp thoáng nụ cười nửa miệng mỉa mai – Thấy chú từ sáng đến giờ chưa chọn được quà nên cháu định tư vấn cho một chút, nhưng từ trước đến giờ cháu ghét nhất là mấy gã đàn ông đã năm thê bảy thiếp lại còn quen thói trăng hoa lăng nhăng trêu hoa ghẹo nguyệt bên ngoài.

- Ta…ta chọn quà cho…vợ nhưng… chỉ muốn chọn một món quà nào đó như dùng để tặng cho em gái thôi – Nhật Duật ngập ngừng nói, nén tiếng thở dài.

Đến đây, Haibara không thắc mắc tại sao lại như vậy, đó là chuyện riêng của Nhật Duật, nàng chỉ hỏi:

- Tặng bà cả, bà hai hay bà ba, hay cả ba bà? Bao nhiêu tuổi, sở thích, sở ghét, nhân dịp gì.

- Cho vợ cả. – Nhật Duật bẽn lẽn đáp, rồi chàng lờ mờ nhận ra hình như từ nãy đến giờ mình giống đày tớ hơn là ông chủ - 23 tuổi, cô ấy yêu sự lãng mạn ghét màu hồng, yêu sự thủy chung ghét màu tím, yêu sự hòa bình ghét màu thanh thiên. Lâu rồi ta chưa về thái ấp, mà sắp tới cũng chưa về được, nên muốn gửi quà về để cô ấy nguôi giận.

Đưa cái tráp cho Nhật Duật cầm, rồi chắp hai tay sau lưng, Haibara vừa đi vừa phân tích:

- Xem nào, mua mỹ phẩm à không son phấn, nước hoa à không dầu thơm à? Phụ nữ thời phong kiến cổ hủ này coi chồng như trời, có trang điểm đẹp xức dầu thơm cũng chỉ để chồng ngắm. Chú lại đang không có ở thái ấp, có tặng những thứ ấy chưa chắc vợ chú đã dùng. Bỏ qua.

- Khoan đã, nhóc vừa nói “thời phong kiến cổ hủ này” nghĩa là sao? – Nhật Duật ngoan ngoãn nhận cái tráp Haibara đưa rồi lẽo đẽo đi theo sau nàng, thắc mắc.

- Không có gì quan trọng cả, chú không cần để ý. – Haibara nói tiếp – Chú là vương gia chắc trong phủ chẳng thiếu gì lụa là gấm vóc ngọc ngà châu báu.

- Cái khó là ở chỗ đó – Nhật Duật gật gù rồi thầm nghĩ “May mà nhóc vẫn nhớ được ta là vương gia” khi nhìn cô nhóc ra vẻ người lớn đang chắp hai tay sau lưng đi trước mặt.

- Chú đặt thợ kim hoàn làm một sợi dây chuyền, mặt dây chuyền là chữ viết tên của vợ chú ghép lại với nhau, vẽ hình sợi dây chuyền ra rồi đưa cho thợ kim hoàn để người ta làm theo mẫu. Thế nào được không?– Haibara nhớ đến một thời đã từng rộ lên mốt làm mặt dây chuyền bằng chữ ghi tên mình hay từ nào đó đặc biệt, hoặc mặt nhẫn bằng chữ cái ở hiện đại nên mới gợi ý cho Nhật Duật, chắc chắn hàng độc, lại thấy được thành ý của người tặng quà.

- Nghe mới lạ đấy – Nhật Duật gật gù – Cảm ơn nhóc.

- Nhưng còn hai người vợ còn lại có sợ họ tủi thân không – Nàng liếc nhìn Nhật Duật trêu chọc.

- Cái đó nhóc yên tâm, một người thì cả năm không thèm ló mặt về vương phủ, một người thì còn chẳng quan tâm gì sự đời đến mặt mũi ta như thế nào cũng không thèm biết. – Nhật Duật ung dung đáp – Chuyện hôm nay nhóc đừng nói với ai đấy – Trả cái tráp cho Haibara, chàng dặn dò – Giờ thì về phủ. – Nói rồi chàng rảo bước.

- Sao chú đã cầm rồi không cầm luôn đi – Nàng ôm tráp lon ton theo sau

Nhật Duật không đáp trên bờ môi bất giác nở nụ cười khi nhìn gương mặt hậm hực của Haibara. Đang đi Nhật Duật bỗng nhiên dừng lại không báo trước khiến Haibara đầm sầm vào người chàng.

- Sao tự dưng chú đứng lại? – Nàng bực mình hỏi.

- Tối hôm qua chẳng phải có người đòi khăn lụa Vạn Bảo đó sao? – Nhật Duật chỉ vào một cửa hàng bán vải bề thế và sang trọng – Vào đây đi.

Tối qua, nàng nói vậy chỉ là đùa Nhật Duật thôi, ai ngờ chàng vẫn còn nhớ. Lần đòi Conan trả công chiếc ví hiệu Fusae, nàng nói rồi cũng để đấy, đến giờ đã thấy mặt mũi chiếc ví ra sao đâu. Nàng tính bảo không cần nhưng Nhật Duật vừa trông thấy cô chủ hàng lụa xinh đẹp nõn nà đã vội nhanh chân bước vào cửa hàng. Vừa thấy một vị khách ăn mặc sang trọng lại khôi ngô tuấn tú xuất hiện, cô chủ trẻ đẹp má thắm môi son có đôi mắt lúng liếng đa tình liền tươi cười đon đả chào mời:

- Công tử chẳng hay muốn mua gì ạ? Cửa hàng chúng tôi có tất cả các loại vải tốt nhất, công tử đến đây thật là đúng đắn đấy. Công tử là khách tới lần đầu, tôi sẽ giảm giá cho. – Chất giọng ngọt như mía như mật của cô bán hàng khiến Haibara thấy mình nổi gai ốc.

- Tôi muốn mua khăn tay bằng lụa Vạn Bảo, cô bé này sẽ chọn giúp tôi – Chàng tao nhã xòe cây quạt trúc phe phẩy, mục đích chính là muốn xua bớt mùi son phấn từ cô bán hàng.

- Công tử thật sáng suốt, khăn tay ở đây rất đa dạng, loại nào cũng có – Cô bán hàng tươi cười, rồi vẫy một cô gái khác lại gần, dặn dò – Em dẫn bé gái xinh xắn này đi chọn khăn tay Vạn Bảo nhé.

Trong lúc đứng đợi Haibara, Nhật Duật đưa mắt nhìn các loại vải đủ màu sắc hoa văn bày trong cửa hàng. Cô chủ nhiệt tình quan tâm tới khách:

- Công tử còn muốn mua thêm gì không? Ở đây có nhiều loại vải dùng để may y phục cho nam nhân đẹp lắm, giá cả lại phải chăng.

Chàng mỉm cười lắc đầu.

- Tôi không.

Khi Haibara quay lại trên tay là một chiếc khăn tay màu trắng loại vân quế hồng diệp thêu hoa xanh, nhìn đơn giản mà thanh lịch.

Trả tiền cho cô chủ “điệu chảy nước” theo như suy nghĩ của Haibara, Nhật Duật cùng nàng tiếp tục về phủ.

- Chú rời đi hình như cô bán hàng đó lưu luyến lắm – Nàng trêu

- Cô ấy lưu luyến túi tiền của ta thì đúng hơn – Chàng thản nhiên đáp.

…………………………………………..

- Nhóc thấy như thế này đã được chưa – Nhật Duật đưa cho Haibara xem hình sợi dây chuyền mà chàng vừa mới vẽ theo như ý tưởng và sự mô tả của nàng.

- OK. – Nàng gật đầu - Chú có tư chất làm nhà thiết kế trang sức đấy.

- Âu cây là gì? Nhà thiết kế là gì? – Nhật Duật khó hiểu.

- OK nghĩa là được. Còn nhà thiết kế là người làm công việc như chú vừa làm đó – Haibara giải thích, nàng tự nhủ lần sau không nên buột miệng nói mấy thứ chỉ hiện đại mới có, mắc công tên này thắc mắc rồi lại hỏi nhiều, nàng cũng không biết giải thích ra sao.

- Bẩm đức ông, lúc sáng người đi vắng, có bằng hữu của người xưng là Jaien Hojo ghé qua phủ tặng quà ạ - Lão tổng quản trên tay bê một hộp gỗ trơn láng, đứng trước cửa thư phòng cung kính thưa, rồi tiến vào trong thư phòng, cẩn thận đặt chiếc hộp lên bàn rồi cáo lui.

Nhật Duật mở hộp ra xem thì thấy bên trong là một chiếc vỏ ốc biển to, lòng xoắn rất đẹp, dưới ánh nắng mắt trời sáng lấp lánh trông như ngọc. Chàng cầm lên ngắm nghía, rồi liếc sang nhìn cô nhóc đang lau chùi giá sách với ánh mắt lấp lánh những tia sáng tinh nghịch:

- Này, nhóc rất thông minh đúng không?

- Đương nhiên – Với chỉ số IQ là 180, từ nhỏ đã được coi là thần đồng, lớn lên là một trong những bộ não hàng đầu của tổ chức áo đen đủ để nàng tự tin đáp

- Vậy ta nhờ nhóc một chuyện, nhóc hãy xỏ một sợi chỉ mảnh xuyên qua lòng con ốc xoắn này. Ngày mai nhóc đưa câu trả lời cũng được, giờ thì tiếp tục lau dọn đi – Nhật Duật đưa con ốc cho Haibara, trên bờ môi kiên nghị là một nụ cười hàm ý.

Trước yêu cầu của Nhật Duật, đôi mày thanh tú của Haibara nhíu lại khi bỗng dưng không hiểu sao chàng lại đưa ra yêu cầu quái lạ này.

………………………………..

Ngày hôm sau, Haibara mang trả con ốc chưa có sợi chỉ xuyên qua lòng cho Nhật Duật. Việc này khó hơn nàng đã nghĩ, nàng đã thử nhúng sợi chỉ vào sáp nến nóng chảy rồi đợi nhấc ra, đợi cho sáp khô sợi chỉ trở nên cứng rồi mới xỏ thử qua lòng ốc nhưng không được vì lòng ốc xoắn.

- Cháu không làm được – Nàng nói.

- Nhóc nói gì cơ, ta không nghe rõ – Nhật Duật vờ vịt.

- Cháu không làm được – Biết Nhật Duật cố tình trêu mình, nàng hậm hực nhắc lại.

- Nhóc nói nhỏ quá, ta vẫn chưa nghe được – Cố nén cười, Nhật Duật tỏ vẻ ta đây đã chú ý lắng nghe lắm rồi nhưng tại Haibara nói nhỏ quá nên chàng mới không nghe được.

- CHÁU KHÔNG LÀM ĐƯỢC – Haibara hét lên vào cái tai đang chìa ra cho Nhật Duật rồi cười mỉa khi Nhật Duật nhăn nhó ngoáy ngoáy tai – Giờ thì chú nghe rõ rồi nhé.

- Vậy thì nhóc cũng đâu có thông minh lắm đâu – Nhật Duật tủm tỉm cười khi nhìn vẻ mặt không cam chịu của Haibara.

- Đây rõ ràng là một yêu cầu vô lý, làm sao mà xỏ được sợi chỉ mềm oặt lại mảnh qua lòng con ốc xoắn mình vặn như thế này, rõ ràng là không có cách, chú cố tình đánh đố làm khó cháu, có giỏi thì chú làm đi – Nàng không phục đáp, khó chịu khi nhìn thấy vẻ mặt trêu ngươi đắc thắng của Nhật Duật.

- Tang tình tang tính tình tang/Bắt con kiến càng/Buộc sợ chỉ ngang lưng/Bên thì lấy giấy mà bưng/Bên thì bôi mỡ kiến mừng kiến sang/Tang tình tang tính tình tang – Có tiếng hát trong trẻo vang lên ngoài cửa khiến Nhật Duật và Haibara đồng loạt ngoái ra nhìn. Nhật Duật nhìn xem là kẻ nào phá đám mình, còn Haibara thì tò mò bởi khi nghe bài hát vừa rồi nàng biết đó chính là đáp án của câu đố, nàng muốn xem ai là người đã nghĩ ra đáp án đó. Cách này thực sự rất thông minh và có lẽ cũng là cách làm duy nhất.

- Nếu không biết trước câu trả lời, chắc gì anh đã nghĩ ra được đáp án của câu đố oái ăm này mà đòi đố cô bé – An Tư cười khúc khích, rồi bước vào thư phòng, trên tay nàng cầm một con kiến càng to có buộc một sợi chỉ mảnh ngang lưng cùng một bát sành đựng mỡ và một cái giỏ đựng bánh cốm.

Trong khi đó ở Tân Nguyệt điện, “Tứ hà” và Lục Thảo đang ngồi bóp đôi chân mỏi nhừ của mình. Tất cả cũng chỉ tại công chúa bé bỏng nổi hứng làm bánh rồi đem biếu Thái thượng hoàng, hoàng thái hậu, quan gia, hoàng hậu, các cung phi, các vị vương gia làm họ phải đi theo cùng để tặng bánh, đi từ cung này sang cung khác, phủ này sang phủ khác từ hôm qua đến giờ đến mệt nhoài người. Đến lúc không thấy công chúa đâu họ mới tá hỏa khi nàng lại chốn khỏi cung rồi, mà đi một thân một mình. Nhưng dù sao thì họ cũng không cần quá lo lắng vì công chúa của họ võ công đầy mình, lại thêm nói dễ nghe là đa mưu túc trí, nói khó nghe là ranh ma xảo quyệt, nên công chúa không ức hiếp người khác thì thôi, ai dám bắt nạt công chúa

Vì thấy “tứ hà” cũng mệt rồi nên An Tư để họ lại trong điện nghỉ ngơi, còn nàng thì một mình cưỡi ngựa xuất cung đến phủ Chiêu Văn vương để tặng bánh, chỉ còn sót lại mỗi ông anh quý hóa này là chưa nhận được, vả lại nàng cũng muốn đến thăm cô bé có mái tóc nâu đỏ đặc biệt đó. Phủ của Chiêu Văn vương lập gần cửa Đại Hưng thuộc hoàng thành, an ninh tương đối tốt nên An Tư thấy cũng không cần nhất thiết phải đem theo người hộ vệ.

Đoán chừng ông anh yêu quái à không yêu quý của mình đang ở thư phòng nên nàng đến đó, trên đường đi thì gặp một tỳ nữ đang cầm một con kiến càng cùng một bát sành đựng mỡ đi về phía thư phòng. Thấy tò mò, An Tư liền gặng hỏi thì nàng tỳ nữ thưa là làm theo lời dặn của vương gia. Không biết ông anh định giở trò gì, nàng liền bảo nàng tỳ nữ đó đưa mình mang đến thư phòng hộ cho. Ban đầu nàng ta cũng ngần ngừ lắm, một là sợ vương gia trách tội, hai là ai dám làm phiền công chúa nhưng không đưa thì là trái lệnh công chúa, nếu chọn đắp tội thì nàng chọn đắp tội với vương gia hơn vì từ trước đến giờ vương gia dối xử với gia nhân rất ôn hòa, nhã nhặn, không bao giờ đánh mắng, còn công chúa thì nàng ta chưa biết như thế nào, vậy nên An tư mới xuất hiện trước cửa thư phòng Nhật Duật với những thứ đó trên tay.

Tận mắt chứng kiến con kiến càng đánh hơi thấy mùi mỡ thơm, bò từ đầu bên này sang đầu bên kia con ốc, mang theo cả sợi chỉ mảnh như tơ nhện buộc ngang lưng, Haibara không thể không phục. Nàng nghĩ bao giờ trở về hiện đại được, sẽ đem câu này đố tên thám tử kiêu ngạo đó, nhớ làn đi cắm trại nàng và bác Agasa đã ra câu đố cho đội thám tử nhí bằng cách lấy chữ trong gương ghép lại với nhau, vẻ mặt đắc ý khi giải được câu đó sau nửa ngày suy nghĩ của hắn làm nàng khó chịu dù rằng nàng đoán trước được hắn sẽ tìm ra đáp án.

- Chị An…công chúa thông minh quá – Haibara định nói chị An Tư, sau nhớ ra thân phận không tầm thường của cô bé trước mặt nên sửa lại.

- Em cứ gọi chị là chị được rồi – An Tư vui vẻ - Thực ra cách này không phải do chị nghĩ ra, còn câu đố tất nhiên cũng không phải của anh Chiêu Văn – Nói đến đây nàng liếc nhìn ông anh đã bị mình làm cho mất hứng đang giận dỗi đằng kia, trong đôi mắt đẹp ánh lên ý cười, ông anh này của nàng trông thế nhưng tính tình vẫn còn trẻ con lắm., rồi nàng kể - Vào thời tiên đế Trần Thái Tông phụ hoàng chị, sứ giả Trung Hoa đã đưa ra một con ốc xoắn và nhờ xâu qua ruột nó bằng một sợi chỉ mảnh. Khi ấy, vị trạng nguyên mới 12 tuổi tên Nguyễn Hiền của Đại Việt chẳng cần suy nghĩ lâu đã đưa ra lời giải bằng bài hát chị vừa hát ngay sau khi nghe câu đố.

- Nhưng tại sao, sứ giả của Trung Hoa lại đưa ra câu đố này – Việc đi sứ ngày xưa cũng tương đương với việc ngoại giao bây giờ giữa các nước trên thế giới, thủ tướng nước này sang thăm nước kia, nhưng đâu có mấy chuyện các vị ấy đem những câu đố oái ăm như thế này đố nhau nên khiến Haibara thắc mắc.

- Là vì họ muốn thăm dò xem nước Nam này có nhân tài hay không – An Tư trả lời. – Đây cũng không phải là lần đầu tiên, càng không phải là lần cuối cùng. – Không muốn nói mấy chuyện này nữa với Haibara, An Tư quay trở lại với việc đang nói dở về vị trạng nguyên tài không đợi tuổi - Đến lúc vị trạng nguyên ấy qua đời và được phụ hoàng truy phong là “Đại vương thành hoàng” thì anh Chiêu Văn lúc đó mới có 4 tháng tuổi thôi và vẫn đang phải quấn tã bú sữa mẹ – Nàng tươi cười nhìn ông anh đang sa sầm mặt của mình.

- Giỏi nhỉ - Nhật Duật nhéo tai An Tư – Còn em thì lúc đó vẫn còn ở ngoài bờ tre chưa được cha mẹ nhặt về, cái nhéo tai này là anh thay Hắc Phong đòi lại công đạo cho cái đuôi của nó đã bị ai đó cắt về làm dây đàn.

- Em cắt đuôi nó chứ có cắt tóc anh đâu. – An Tư ấm ức.

- Chú cứ cậy lớn bắt nạt bé – Haibara lên tiếng nhắc nhở khiến Nhật Duật tự tủi phận mình, đã bị em gái coi không ra gì bây giờ đến thư đồng cũng vậy.

- Thôi mà anh trai, tha cho em đi, có mấy cái đuôi ngựa mà cũng so đo, uổng công em mang bánh cốm đến cho anh – An Tư năn nỉ.

Vốn định chưa buông tha cho An tư dễ dàng như vậy, nhưng nghe tiếng của lão tổng quản vang lên ngoài ngạch cửa.

- Bẩm đức ông, có Trần công công vâng lệnh quan gia có việc gấp đến xin gặp ngài ạ - Lão tổng quản thưa.

- Nô tài tham kiến vương gia – Trần công công thi lễ, rồi ông ta ngạc nhiên khi nhận ra An Tư – Nô tài tham kiến công chúa.

- Ngươi cứ coi như không có công chúa ở đây là được. – Nhật Duật ôn hòa nói nhưng trong ngữ điệu đầy hàm ý vừa trêu chọc An Tư vừa kín đáo nhắc nhở viên hoạn quan về cung chớ bép xép nhiều lời vì chắc chắn cô em út này lại trốn khỏi cung chứ chẳng có sai, mà việc này đến tai Trần Hoảng thể nào chàng cũng bị liên lụy– Quan gia sai ngươi đến đây có việc gì không?

- Bẩm đức ông, có sứ thần của nước Sách Ma Tích [8] sang tiến cống, nhưng triều đình không tìm được người thông ngôn, quan gia đã cho triệu tập những người thông ngôn giỏi nhất kinh thành lại để nói chuyện với sứ thần nhưng không một ai nói được tiếng Sách Ma Tích, nên quan gia cho nô tài đến đây để hỏi cao kiến của ngài – Trần công công cung kính thưa.

- Ngươi cứ về trước báo rằng quan gia cứ yên tâm, ta sẽ thay mặt triều đình tiếp sứ - Nghe viên hoạn quan trình bày xong, Nhật Duật thong thả đáp. – Ta sẽ vào cung ngay.

- Chúc anh thượng lộ bình an – An Tư cười nhăn nhở đưa tay vẫy vẫy khi Nhật Duật rời đi để chuẩn bị quan phục đí tiếp sứ thần. Chính vì biết hôm nay triều đình bận rộn tiếp sứ nên chẳng ai để ý tới mình, An Tư mới có thể xuất cung dễ dàng.

Nhật Duật rời đi rồi, trong thư phòng chỉ còn lại An Tư và Haibara.

- Cảm ơn chị lần trước đã cứu em ngoài phố - Haibara lên tiếng trước, nàng muốn cảm ơn An Tư lâu rồi nhưng đến bây giờ mới nói được tiếng An Nam và gặp lại An Tư.

- Vậy em định cảm ơn thế nào đây. – An Tư nháy mắt tinh nghịch.

“Chị rất ổn”, trước khi rời khỏi quán cà phê, chị Akemi cũng nháy mắt và cười nói với nàng như vậy rồi để lại trong lòng nàng bao nỗi bất an. Nào ai ngờ được đó là lần cuối cùng, lần cuối cùng nàng gặp chị gái, lần cuối cùng được nghe giọng nói và nụ cười dịu dàng của chị. Sau đó nàng đã vĩnh viễn không thể gặp lại chị gái nữa vì hai người đã âm dương cách biệt, là người của hai thế giới khác nhau. Chị nàng đã chết, chết vì bị tổ chức thanh trừng, chết dưới họng súng tàn nhẫn của Gin, chết vì muốn cứu nàng thoát khỏi cái địa ngục trần gian đó. Hình ảnh chị gái đôi mắt nhắm nghiền sẽ chẳng bao giờ mở nữa, nằm bất động giữa vũng máu đỏ lênh láng hiện lên trong những cơn ác mộng hàng đêm nàng mơ, nó khiến tim nàng như có lưỡi băng sắc lạnh tàn nhẫn xuyên qua.

Tuy dung mạo khác nhau nhưng mỗi lần nhìn An Tư, hình ảnh người chị gái thân thương lại hiện lên trong tâm trí nàng.

- Chị Akemi, em có thể gọi chị như vậy được không?

[1] Lụa Vạn Bảo: nay là lụa Hà Đông, hay lụa Vạn Phúc.

[2] Khẩu thị tâm phi: nói một đằng nghĩ một nẻo, theo như lời ông Agasa thì là Tsundere.

[3] Cơ đốc giáo: Kito giáo

[4] Trong chính sử không có ghi chép về thân thế người vợ cả này của Nhật Duật chỉ có cái tên Trinh Túc phu nhân, cũng không có ghi chép về hậu duệ của Trần Nhật Hiệu nên những chi tiết về xuất thân của Trinh Túc trong truyện đều là hư cấu.

[5] Trần Khâm là tên húy của vua Trần Nhân Tông

[6] Trong sử chỉ ghi Nhật Duật có một số người thiếp là người Thanh Hóa, ngoài ra không có gì khác, vì vậy những chi tiết liên quan đến hai người thiếp trong truyện đều là hư cấu

[7] Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du

[8] Sách Ma Tích: tên cổ của Singapore. Sự kiện sứ thần nước này sang và triều đình không tìm được người phiên dịch cùng Nhật Duật tiếp sứ vào thời vua Trần Nhân Tông nhưng không rõ năm nào có được ghi chép trong “Đại Việt sử ký toàn thư”.
 
×
Quay lại
Top Bottom