Chuyện vui khoa học !!!

linh d2t

Tôi yêu hoa lộc vừng!
Thành viên thân thiết
Tham gia
4/6/2011
Bài viết
1.570
1. PHÁT MINH DO... NGỦ QUÊN

Một đêm Carothers – nhà hóa học Mĩ, sau nhiều ngày đêm làm việc căng thẳng, đinh chợp mắt ít phút. Nhưng... ông đã ngủ liền tới sáng. Tỉnh dậy, ông hốt hoảng lo cho tất cả công sức thí nghiệm: Có lẽ đã tan thành mây khói? Ai ngờ, khi vừa nhấc chiếc đũa thủy tinh ở trong bình phản ứng lên, ông thấy chiếc đũa mềm nhũn và kéo theo một hỗn hợp có dạng sợi nhỏ mỏng manh óng ánh rất đẹp. Đó là sợi tổng hợp poliamit đầu tiên trên thế giới – sợi nilon ngày nay.

2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHÍNH XÁC

Người phát minh ra phương pháp lưu hóa cao su là Ch.Goodyear. Ông là người nghèo túng nhưng kiên trì theo đuổi công việc của mình.

Một hôm có một chủ xưởng máy hỏi người bạn của mình làm thế nào tìm gặp được Goodyear, người này bèn bảo:

- Anh cứ tìm người nào mặc quần cao su, áo cao su, đi giày cao su, độ mũ cao su, có một cái ví bằng cao su nhưng không có lấy một đồng xu thì... đó chính là Goodyear.”

3. CHỈ ĐƠN GIẢN LÀ TÔI ỨNG DỤNG HÓA HỌC

Năm 1943 Niels Bohr – nhà vật lý học người Đan Mạch, để thoát khỏi tay bọn Đức quốc xã, ông phải rời khỏi Copenhangen. Nhưng trong tay ông còn có hai huy chương Nobel bằng vàng của các bạn đồng nghiệp là James Franck (Mỹ) và Max Laue. (Huy chương Nobel của Bohr đã được đưa ra khỏi Đan Mạch trước đó).

Không muốn liều mang các huy chương này theo mình, nhà bác học bèn hòa tan chúng trong nước cường toan (hỗn hợp của HNO3 và HCl) vào các chai “không có gì đáng chú ý” và đặt chúng vào một xó trên sàn nhà – nơi có nhiều chai lọ bụi bặm bám đầy.

Sau chiến tranh, khi trở lại phòng thí nghiệm của mình, trước tiên Bohr tìm cái chai quý báu đó và theo yêu cầu của ông, những người cộng sự đã tách vàng ra rồi làm lại hai tấm huy chương.

Đáp lại sự cảm kích của các chủ nhân của hai tấm huy chương, Niels Bohr chỉ nói: “Đơn giản là tôi ứng dụng hóa học mà thôi”.

4. NGƯỜI LẤY VÀNG TỪ MẶT TRỜI

Nhà vật lý học Kirchhoff trong một buổi nói chuyện khoa học, ông thuyết giảng về quang phổ của mặt trời. Ông nói rằng những vạch đen trong quang phổ mặt trời chứng tỏ rằng trên mặt trời có vàng. Một ông chủ nhà hàng cũng có mặt trong buổi nói chuyện nghe vậy liền hỏi: “Thưa ngài! Liệu vàng ấy có ý nghĩa gì nếu ta không lấy được chúng”. Kirchhoff không nói gì cả.

Ít lâu sau, Kirchhoff được nhận huy chương vàng nhờ phát minh phân tích phổ mặt trời. Ông bèn đưa cho nhà tư bản nọ xem và nói: “Ông thấy sao! Dù sao tôi vẫn lấy được vàng từ mặt trời”.

5. CHUYỆN VỀ MENDELEYEV

Sau khi vợ nhà bác học Mendeleyev qua đời, ông cưới một phụ nữ khác. Nhưng luật pháp của nước Nga dưới thời Nga hoàng bấy giờ không cho phép lập gia đình khi vợ hoặc chồng vừa chết trong vòng ba năm. Ông đã nhờ một giáo sĩ làm lễ cho mình mà không sợ luật pháp hà khắc. Và người mục sư ấy sau khi giúp Mendeleyev đã bị khai trừ khỏi giáo hội.

Một vị tể tướng của Sa Hoàng cũng trong hoàn cảnh của Mendeleyev và cũng đã làm lễ cưới. Nhưng Sa Hoàng đã hủy bỏ hôn ước của ông ta. Vị tể tướng thắc mắc tại sao hôn ước của Mendeleyev lại được nhà vua chấp nhận. Sa Hoàng trả lời ông ta: “Bởi vì người như khanh ta có rất nhiều, còn người như Mendeleyev ta chỉ có một”.

6. HIDRO

Thế kỷ XVIII, nhà hóa học Pilatrơ Rôzơ người Pháp đã quan tâm đến vấn đề nếu hít khí hidro vào phổi thì cái gì sẽ xảy ra. Trước ông chưa ai từng thử hít hidro bao giờ. Và câu chuyện bắt đầu:

Thoạt đầu, chẳng lưu tâm đến là liệu có hậu quả gì không nên Rôzơ quyết định thử hít hidro vào phổi. Ông ta lại liên tục hít hidro vào thật sâu hơn nữa, ông thở khí đó hướng vào ngọn nến đang cháy. Tất nhiên, hidro là thứ khí khi hỗn hợp với không khí sẽ gây nổ! Về sau Rôzơ đã viết lại rằng: “Tôi tưởng là tôi đã bị bay toàn bộ hàm răng và cả lợi nữa”. Chí ít thì ông cũng thỏa mãn với kết quả thí nghiệm mà với nó ông đã coi thường tính mạng của chính mình.

7. NHÀ HÓA HỌC THỬ KHÍ HIDRO XIANUA HCN

Các nhà hóa học đã làm thế nào để có thể nhận ra được HCN trong một hỗn hợp khí?

“Ta chỉ cần ngửi hỗn hợp đó. Nếu chúng ta chết ngay lập tức, chứng tỏ hỗn hợp chứa khí HCN”.

8. SỐ PHẬN TRỚ TRÊU

Nhà bác học người Anh nổi tiếng Giô-det Giôn Tôm-xơn cũng giống như đa số các nhà bác học khác ở thế kỷ 19, tin tưởng mãnh liệt rằng nguyên tử là những phần tử nhỏ bé của vật chất không thể có cấu tạo nào bên trong hết.

Một hôm người trợ giáo của Tôm-xơn hỏi ông: “Ông nghĩ gì về cấu tạo bên trong nguyên tử...

- Anh bạn trẻ ạ! Tôi nghĩ rằng – nhà bác học tức giận ngắt câu hỏi – Nếu anh biết tiếng Latinh thì anh sẽ không hỏi như thế. “Nguyên tử” dịch từ tiếng Latinh có nghĩa là “không thể chia cắt được”.

Nhưng chẳng bao lâu sau, vào năm 1903 chính Tôm-xơn đã đưa ra mô hình đầu tiên giải thích cấu tạo bên trong của nguyên tử.

9. NHẦM LẪN KIM CƯƠNG VỚI THỦY TINH

Một lần vào năm 1820 ở London đã xảy ra một chuyện om sòm. Trong một buổi tối chiêu đãi các nhân vật quyền quý, một người thợ kim hoàn nổi tiếng đã nói với bá tước phu nhân (chủ nhân): “Thưa quý bà, trên ngón tay bày không phải là kim cương mà là đồ giả”.

Vào năm 1790, Straxơ – thợ kim hoàn người Viên, lần đầu đã điều chế được thủy tinh pha chì, còn gọi là phalê, với thành phần chì oxit PbO đến gần 50%. Tính chất quang học của thủy tinh này và kim cương khá giống nhau: Đều có “tia sáng” và “ánh kim cương”. Những mẩu vụn pha lê làm ta liên tưởng đến các hột xoàn. Những cục pha lê nhỏ gọi là “stras” theo tên Straxơ. Nhìn dạng bên ngoài của stras khó phân biệt với kim cương nhưng nếu tìm hiểu kỹ nó thì thấy độ cứng của nó không đạt: Nó không làm xước thủy tinh. Rõ ràng những hạt giả kim cương này đã được đem bán cho bá tước phu nhân và vì thế bà đã đeo hột xoàn lớn nhất.

Để nhuộm lại “Stras”, người ta thêm vào phối liệu nóng chảy một lượng nhỏ (0,0001%) vàng Au dưới dạng hợp chất bất kỳ của kim loại này và nhận được ngọc rubi giả màu đỏ rực. Cho coban oxit CoO vào thì sẽ biến “stras” thành thủy tinh xanh đẹp, giống như ngọc xaphia. Còn thêm vào phối liệu khi nấu pha lê một ít crôm (III) oxit (Cr2O3) thì làm cho “stras” giống như ngọc rubi (lumzud).

10. CHẾ TẠO MÁU NHÂN TẠO

Trong máu có mọi thành phần chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể: Có chất kích thích, men, kháng thể. Máu vận chuyển oxi, thải khí CO2 trong toàn bộ cơ thể. Máu gắn liền với sự sống con người. Nguồn máu chủ yếu dựa vào sự hiến máu nhân đạo của những người khỏe mạnh nhưng số người hiến máu có hạn.

Vậy tại sao không chế ra máu nhân tạo?

Năm 1966, tại Đại học Y Cincinati ở Mỹ, giáo sư Clank đã tiến hành thí nghiệm: Đem một con chuột thả vào dung dịch cacbon florua trong bình khí dung. Con chuột bị chìm xuống đáy bình khí dung. Sau một thời gian dài nó không bị chết ngạt mà vẫn sống khỏe mạnh, còn con chuột mà ngâm nước như thế sẽ chết ngạt nhanh chóng. Ông đã kết luận rằng: Cacbon florua có khả năng phân giải cho oxi lớn hơn nước 20 lần. Chuột sống trong dung dịch đủ oxi nên không chết ngạt.

Tháng 4/1979, lần đầu tiên trên thế giới công bố việc chế tạo máu nhân tạo: Gồm các thành phần sau:

Cacbon florua.
Glixerol.
Natri clorua.
Kali clorua.
Canxi clorua.
Natri cacbonat.
Máu nhân tạo có đặc điểm là:

- Tính chất của cacbon florua rất ổn định nên có khả năng hòa tan rất nhiều oxi. Khả năng vận chuyển oxi so với protein màu đỏ trong máu lớn hơn và có thể thải được CO2 ra ngoài.

- Máu nhân tạo có những tính chất lí, hóa ổn định, bảo quản từ 1 đến 3 năm có thể tùy ý sử dụng cho bất kỳ loại máu nào.
Song máu nhân tạo cũng có những nhược điểm:

- Không có bạch huyết cầu, không có tác dụng đề kháng.

- Không có khả năng phòng bệnh.

- Không có khả năng đông khi bị chảy máu.
Để khắc phục vấn đề này các nhà y học và hóa học tương lai có thể làm được không?

Nguồn: vn.360plus.yahoo
 
×
Quay lại
Top