Charlie Bone

Để thực hiện chuyến đào thoát khỏi Học viện Bloor, Ollie chọn một cánh cửa mà không mấy đứa trẻ biết tới.
Trước khi mất đi lòng háo hức trước tình trạng vô hình đầy mới lạ, Ollie đã kịp tận dụng sự tự do mà vô hình mang lại để thỏa mãn trí tò mò khôn cùng của mình. Một đêm nọ nó đã khám phá ra cánh cửa sau lâu đài này. Nhưng cửa khóa, mà cho dù cửa không khóa đi chăng nữa, chắc chắn nó cũng chẳng rời khỏi tòa nhà. Trời tối là một chuyện, và con một chuyện nữa là nó sẽ đi đâu?
Cánh cửa đó tọa lạc ở phía sau nhà bếp xanh lá cây, nơi bà vợ Bertha của gã Weedon trấn giữ. Những khi Bertha không phải nấu nướng, bà ta sẽ ngồi trong một chiếc ghế bành sờn tưa, đọc truyện kinh dị. Bà ta đặc biệt mê những tiểu thuyết của Agatha Christie. Nhưng ngay cả khi có vẻ như đắm chìm hoàn toàn vô cuốn sách, thì chắc chắn Bertha Weedon vẫn để nửa con mắt của mình vô cánh cửa. Bà ta rất thích để ý chính xác xem ai đang đi vô và đi ra.
Bên ngoài cánh cửa đó có một mảnh sân nhỏ làm nơi đặt những thùng rác. Những người lấy rác thường khua những thùng rác ấy ầm ĩ cả lên. Làm sao mà họ lại không làm như thế cho được? Để ra được tới ngoài phố, họ cần phải đẩy những thùng rác nặng chịch lên một đoạn dốc, và sau đó đi qua hai cánh cổng cao, được trang trí bằng đinh mũ.
Tất cả hàng hóa được giao tới Học viện đều đi qua cánh cổng đôi này, rồi xuống đoạn dốc, hoặc xuống mấy bậc thang đá vốn được chú đưa thư ưa thích (có lần chú ấy đã té lộn nhào từ trên dốc, thủ phạm là một trái chuối mốc meo).
Sáng thứ Ba, Ollie đi xuống nhà bếp xanh lá cây. Con nhện của Emma vừa khít ngón cái bàn chân phải của nó, và nó khoái chí dòm con nhện búng lên trước mặt mỗi khi nó đặt bàn chân phải về phía trước.
Học viện Bloor yên ắng lạ thường, và Ollie cứ tưởng chưa có ai khác thức giấc, cho tới khi nó đi tới nhà bếp xanh lá cây… Bà Weedon đứng ngay bên cạnh cánh cổng sau, trong khi người bán cá và người phụ việc của ông ta ì ạch đi qua với những khay cá đông lạnh thật lớn.
“Vô đó đó! Vô đó!” Bà Weedon la lớn, tay chỉ chiếc tủ đông khổng lồ. “Lẹ lẹ giùm coi.”
Ollie chờ cho tới lúc hai người đàn ông đẩy trượt những khay cá vô trong chiếc tủ đông thì nó liền chớp thời cơ. Nhưng khi nó vừa đặt bàn chân phải nơi bậu cửa, bà Weedon liền phát hiện ra ngay con nhện, và… “PHỤP”… Bà ta đạp lên.
“ÚI!”
Ollie ré lên. Và gần như không suy nghĩ, nó giơ bàn chân trái lên và đá cho bà Weedon một cái, đúng chỗ đau nhất.
“Áááá!” Bà Weedon rú vang.
“Chuyện gì đó?” Người bán cá, tên là Crabb, hỏi.
“Con nhện chết toi đó… nó đang chạy mất kìa!” Bà Weedon gào như bị bóp họng. “Bắt lấy nó… Lẹ lên… Tôi ngạt thở rồi!”
“Bà giỡn chắc,” ông Crabb nói, giọng vui vẻ.
“TÔI KHÔNG GIỠN!” Người phụ nữ cáu tiết rít lên. “Tôi bị thương rồi.”
“Không. Ý tôi là bà đang giỡn về con nhện kìa,” ông Crabb nói.
“TÔI KHÔNG GIỠN!” Bà Weedon gào lên. “BẮT LẤY NÓ!”
“Cái gì… Bắt một con nhện bé xíu hả?” Ông Crabb nói, vẻ ngờ vực.
“Nó không NHỎ! Nó biết đá hẳn hoi,” bà Weedon gào lạc cả giọng.
“Ra vậy,” ông Crabb đã nghiêm nghị hơn. “Ê, Brian. Chúng ta đi thôi.”
Hai người bán cá leo lên những bậc cấp bằng đá, mau hơn bình thường, nhưng không đủ mau để trông thấy một con nhện lớn phóng qua cánh cổng sắt và bắn vọt ra ngoài đường.
Ollie đã không ra khỏi Học viện suốt hơn một năm trời. Giờ, nó không thể nhịn nổi, cứ nhảy chồm chồm và búng mình lên khi vội vã băng qua thành phố. Nó được tự do rồi. Mặt trời đã lên và mái vòm của nhà thờ lớn rực rỡ trong ánh ban mai.
“Ra rồi!” Ollie hát vang. “Ra mãi mãi. Và ta sắp lại là ta!”
Khi tới được nhà thờ lớn, nó ngước nhìn chằm chằm vô tòa nhà cổ kính; choáng ngợp trước độ cao và đám tượng đá chi chít từ cái cổng vòm đồ sộ cứ ngó ra trừng trừng.
“Mình tự do rồi!” Ollie hét lên.
Chẳng có ai ở quanh đấy cả, cho nên nó nhảy nhót khắp quảng trường rải sỏi, hát vang:
“Chẳng bao lâu nữa ta sẽ là ta, ta, TA!”
Ánh mặt trời chiếu cho nó thấy một cửa sổ bày hàng nhỏ, nơi trưng bày những cuốn sách bìa da tựa vô nền một bức màn nhung đỏ.
“Tiệm sách Ingledew.”
Ollie đọc tên tiệm ở bên trên cánh cửa. Nó lượn qua và nhấn chuông.
Một phụ nữ nhìn ra từ một cửa sổ trên tầng hai. Cô nhìn vô khoảng không chỗ Ollie đứng. Ngay cả ở khoảng cách xa như vậy, cô vẫn có thể thấy một con nhện đen to bự mà đứa cháu gái của cô đã làm cách đây vài ngày.
“Ollie đó hả?” Cô gọi.
“Xin chào cô!” Ollie lên tiếng. “Vâng. Là con đây ạ.”
“Chờ ở đó nhé! Một giây nữa cô xuống liền,” cô Ingledew nói.
Một thoáng sau, cánh cửa mở ra, kèm theo một tiếng kính coong vui tai, và cô Ingledew xuất hiện trong chiếc áo choàng màu xanh da trời. Cô có gương mặt xinh đẹp và tươi cười, và Ollie lập tức cảm thấy dễ chịu.
“Vô đi, Ollie,” cô Ingledew mời con nhện, vì không còn thứ gì khác để cô có thể nhìn vô.
Ollie bước vô cửa hàng và ngó chăm chăm quanh những kệ sách. Trông chúng thật thích mắt với những bìa sách êm ái, đắt tiền cùng những gáy sách ép nhũ vàng.
“Một nơi tuyệt diệu!” Nó trầm trồ.
“Cảm ơn con,” cô Ingledew nói.
Cô lo lắng nhìn quanh căn phòng và thấy con nhện nép mình sát bên quầy.
“Cô nghĩ là con muốn dùng điểm tâm,” cô bảo.
“Vâng ạ!” Ollie thở dài. “Cô có chút mứt nào không?”
“Có nhiều chứ. Emma bảo cô mua một ít mứt cho con đấy. Nhưng có lẽ con cũng muốn ăn cả trứng và thịt xông khói nữa nhỉ.”
“Thịt và trứng!” Ollie reo lên sung sướng. “Con chưa hề được ăn một bữa ăn nóng nào hơn một năm nay.”
“Ôi trời ơi,” cô Ingledew nói. “Chúng ta sẽ phải sửa lại ngay lập tức.”
“Và ăn sáng xong con sẽ được chữa chứ?” Ollie nói. “Con gặp con trăn xanh da trời được không? Nó có làm cho con hiện hình lại được không?”
“Cô nghĩ chúng ta nên để việc đó tới tối nay,” cô Ingledew nhỏ nhẹ. “Ban ngày thành phố rất đông đúc và cô không muốn con bị đạp bẹp hoặc bị… bị lạc mất.”
“Con cũng không muốn,” Ollie đồng ý. “Dạ. Để đêm nay vậy. Giờ, con thưởng thức món mứt đó được chứ?”
Trong khi Ollie đang xơi bữa ăn nóng đầu tiên của mình sau bao nhiêu tháng trời, thì bọn trẻ và các giáo viên ở Học viện Bloor vừa mới thức giấc.
Trên đường đi ăn sáng, Charlie quan sát thấy một bầu không khí bối rối trong số những giáo viên đi vụt qua nó. Bầu không khí này thậm chí càng rõ rệt hơn nữa ở trong nhà ăn, khi ban giám hiệu bước bốn bậc thang lên ngồi quay quanh Bàn Danh Dự, trước sự chứng kiến của toàn trường.
Giáo sư Bloor cứ liên tục hắng giọng, như thể sắp sửa thuyết giảng điều gì đó. Nhưng không một lời nào tuôn khỏi môi ông. Trong ông ta thật thê thảm. Mái tóc xám dựng lên nom thật kỳ dị, và gương mặt ông ta ngày thường đã nhợt nhạt thì nay thật tái mét.
Những cái nhìn hoang mang, ngơ ngác hình như đã lan tràn khắp trường. Nơi này vừa trải qua một đêm vô cùng kỳ lạ, nhưng không ai muốn bàn luận về nó. Sự thật là hầu hết mọi người đều cảm thấy hoặc là xấu hổ vì cái sự hèn nhát của mình, hoặc là, như giáo sư Bloor, nhục nhã vì không thể ngăn chặn được cuộc xâm lăng của những hoạt động bất tự nhiên và kinh khủng như thế.
Bầu không khí lạ lùng ấy kéo dài suốt cả ngay. Các giáo viên không thể nhìn vô mắt học trò mình. Bọn trẻ nhìn nhau rồi lại vội vã quay đi. Tất cả mọi người đều đi đứng gấp gáp, không phải là như kiểu để mau chóng tới nơi mình cần tới, mà hình như là để mau mau trốn khỏi cái gì đó ở đằng sau lưng.
Charlie đoán việc này giống như là có bom gài trong tòa nhà. Không ai biết trái bom ở đâu, hay khi nào thì nó phát nổ. Cuối cùng, mọi thứ lên tới cao trào ở phòng Nhà Vua sau bữa tối.
Tancred đúng là tia lửa, nếu có thể gọi đó là tia lửa. Mặc dù nó mệt nhoài sau một đêm hao tốn khá nhiều năng lượng, nhưng không ai không nhận thấy rằng nó rất ư hài lòng về bản thân.
Charlie có quả đủ lý do chính đáng để mà mãn nguyện, nhưng nó biết, sẽ thật là nguy hiểm nếu bộc lộ ra.
Mười một đứa trẻ được ban phép thuật đang ngồi chỗ thường lệ của chúng quanh chiếc bàn, thì vẻ hơn hớn của Tancred bỗng trở nên quá sức chịu đựng đối với Belle.
“Dẹp cái vẻ hí hửng đó ra khỏi mặt mày đi, Tancred Torsson!” Belle giật giọng. “Mày tưởng mấy cơn gió vờ vịt của mày là tài giỏi lắm sao. Mày chẳng là cái quái gì cả. CHẲNG LÀ CÁI QUÁI GÌ!”
“Thế sao?” Tancred nói, ngoác miệng cười rộng hơn. “Ồ, thành thực mà nói, tôi không biết tại sao bà còn mất công đeo cái bộ mặt xinh đẹp đó làm chi nữa. Tất cả chúng tôi đều biết bà thật ra là cái gì rồi, mụ phù thủy già kia!”
Một hơi thở hốt hoảng do sợ hãi phả ra quanh chiếc bàn, Asa đứng bật lên, gầm gừ:
“Rút lời đó lại, thằng khốn!”
“Giờ thấy can đảm rồi à, con thú tí nị kia?” Tancred châm chọc.
Asa đang định xông hẳn qua bàn thì Manfred túm lấy phía sau cổ áo nó:
“Câm ngay, tất cả bọn bây!” Nó thét. “Torsson, xin lỗi mau.”
“Tôi? Tại sao tôi phải xin lỗi?”
“Cô ta kiếm chuyện trước,” Lysander lên tiếng bằng một giọng chừng mực.
“Mày có nghe không,” Manfred rít lên. “Ý tao là, Torsson, mày không tài giỏi tới mức không thể bị trừng phạt, mày biết đấy, XIN LỖI MAU!”
“Quên đi!”
Tancred dựng mái tóc nhiễm điện thẳng đơ của nó lên. Nếu xét về gió thì nó đã kìm được mình một cách đáng nể, nhưng bây giờ, để cho đỡ chán, nó phóng ra một loạt thời tiết mới. Vài hạt mưa rớt lộp bộp lên bàn, và cả bọn vội vã rút sách che lên đùi.
“Lộp bộp, lộp bộp,” Zelda Dobinski cười khẩy. “Tội nghiệp quá. Thế mà cũng gọi là mưa hả?”
Tất cả đều ước gì con nhỏ đừng phun ra câu đó. Phút sau, đụn mây đen nhỏ nãy giờ trôi lêu bêu ở dười trần nhà thình lình vỡ bục ra, và một núi nước trút ào xuống. Nước bắn vô mắt bọn nhỏ, làm ướt sạch quần áo chúng, và ướt sũng hết sách vở.
“Thằng ngu!| Belle rít lên bằng một giọng đùng đục đầy đe dọa. “Mày nghĩ mày là ai kia chứ?”
Bị làn mưa che lờ mờ, Charlie thấy cái điều mà nó hy vọng mình đừng bao giờ thấy một lần nữa. Những nét thanh tú của Belle chuyển thành màu nâu và giống như chó. Hai cái tai phòi ra từ đầu và hai cái cánh to đùng trụi lông bắt đầu tòe ra khỏi vai. Belle đang biến thành một con dơi khổng lồ.
Con dơi giang đôi cánh trần trụi của nó ra, và rú lên một tiếng sôi máu, nó bổ nhào tới Tancred. Thằng bé hét lên “Ááááá”, rồi chui thụp xuống gầm bàn. Tất cả bọn còn lại cũng vậy – ngoại trừ Asa, nó ngồi yên chiêm ngưỡng con dơi với một vẻ sùng bái vô bờ.
Con vật kệch cỡm đó bắt đầu lượn vòng quanh căn phòng, đôi cánh của nó quệt vô những kệ sách và những bức tranh. Chiếc đồng hồ treo tường đâm nhào xuống sàn, nguyên một hàng sách bị gạt bay lên, và rồi, khi Charlie hé mắt nhìn ra từ dưới gầm bàn, nó trông thấy bức tranh Vua Đỏ rung lắc dữ dội, đập thình thình vô tường. Charlie vội nhổm người lên và chạy ra chụp bức tranh đúng lúc nó rớt xuống.
“BỎ NÓ ĐÓ!” Cái giọng dơi kinh khủng vang rền.
Nhưng Charlie không đời nào chịu để cho Vua Đỏ rớt. Nó vừa chụp được bộ khung vàng nặng chịch thì con dơi đạm bổ về phía nó.
Chính giáo sư Bloor là người đã vô tình cứu Charlie. Cánh cửa độtngột bật mở toang ngay trước mặt Charlie, và con dơi tông sầm vô đó. Một tiếng rú kinh khiếp rú lên, bà dơi rớt độp xuống chân ông hiệu trưởng.
“Ôi trời… cái gì… ai?” Giáo sư cà lăm.
“Đồ ngu!” Con dơi rít lên.
“Ô. Nó là…? Tôi thiệt tình hy vọng đã không…”
“Tôi không ngủm đâu, đừng lo,” con dơi the thé. “Ông yêu cầu tôi giúp đỡ, nhưng ông đã không làm gì nhiều để tự giúp mình, đúng không? Ông cứ thế để mọi việc mất hết.”
Trước sự khó chịu khôn cùng của giáo sư Bloor, con dơi bò lên chiếc áo chùng của ông ta, cho tới khi lên tới tận vai, và rồi mụ ta quăng mình bắn ra cửa, hét lên:
“Có người sẽ mang tới một sự ngạc nhiên khủng khiếp.”
Khi con dơi vừa đi khỏi, ông hiệu trưởng lắc lắc vai, vuốt lại chiếc áo chùng, và nói với bọn trẻ, giơ đang lồm cồm chui từ dưới gầm bàn lên.
“Tiếng động phát ra từ trong phòng này ồn không thể chịu nổi. Manfred, con không thể kiểm soát mọi việc hay sao?”
“Được chứ, thưa ngài,” Manfred nói, bỗng đỏ tím tai lên, “Đây là trường hợp ngoại lệ, thưa ngài.”
“Trời đất quỷ thần, con ướt nhẹp hết kìa!” Giáo sư Bloor nhận ra.
“Thằng Torsson,” Manfred nói.
“Torsson, đi lấy nùi giẻ. Bọn còn lại lau dọn phòng. Và phải IM LẶNG!”
Khi ông hiệu trưởng đi ra thì đã 8 giờ. Và những đứa lớn không hề có ý định sẽ lau chùi đống lộn xộn ấy. Billy cáo lỗi là nó bắt đầu ngủ gật rồi, và Dorcas than van là bị nhức đầu. Lực lượng lao động teo lại chỉ còn năm đứa.
“Luôn luôn là tụi mình nhỉ?” Emma vừa nói vừa xắn tay áo lên.
“Mình tự hỏi ai sẽ tới để gây ngạc nhiên khủng khiếp vậy,” Charlie lẩm bẩm.
“Anh chắc chắn là không lâu nữa tụi mình sẽ biết thôi,” Lysander nói.
Vào lúc tám giờ rưỡi, cô Ingledew quyết định là đã tới giờ đưa Ollie tới quán Cà Phê Thú Kiểng. Đường phố lúc đó sẽ vắng và sẽ ít có nguy cơ thằng bé bị dẫm phải hay bị húc ngã. Cô đã được báo chắc chắn là tất cả mọi việc ở quán cà phê đã sẵn sàng.
“Sẵn sàng như không còn gì để làm, cô thân mến,” giọng nhẹ nhàng của ông Onimous trên điện thoại.
Khi cô Ingledew đóng cửa tiệm sách, cô không nhận thấy một con dơi bự cồ đang treo mình bên trên cửa nhà thờ lớn.
“Cô nghĩ tốt nhất là con nắm lấy tay cô,” cô Ingledew ân cần bảo Ollie. “Cô không muốn lạc mất con. Con có phiền không?”
“Không, phiền gì đâu cô,” Ollie nói. “Cô làm con nhớ tới mẹ con. Đã lâu lắm rồi con không được nắm tay mẹ con.”
Cô Ingledew hơi hốt hoảng khi thầy những ngón tay mình biến mất khi được bàn tay nhỏ bé của Ollie nắm lấy. Nhưng cô tự nhủ rằng cô phải biết đón nhận những việc đại loại thế này chứ, bởi vì cô đã là một phần trong thế giới kỳ lạ của Emma.
Họ vội vã ngược lên đường chính, và rồi xuôi về phía hẻm Con Ếch, và mặc dù không trông thấy con dơi bự cồ đang quạt cánh trong những khoảng tối đằng sau lưng, nhưng cả Ollie lẫn cô Ingledew đều cảm thấy hơi tê tê ở sau gáy, như kiểu người ta vẫn hay thấy mỗi khi cảm giác có cái gì đó không minh bạch đang ở ngay đằng sau mình.
Có tới mấy lần cô Ingledew ngoái lại nhìn, nhưng đó là một con dơi ranh ma, và nó liên tục ngụy trang thành một túi rác dựng bên một cột đèn, thành một tấm bảng hiệu, hay một bậu cửa sổ im lìm. Nên nhớ là, đã có vài người trông thấy rõ ràng một con dơi to bất thường vụt ngang qua cửa sổ nhà họ. Một người đàn ông gọi điện tới sở thú; và một người khác gọi cho Đội Cứu Hộ Thú Kiểng. Nhưng kích thước con dơi mà họ mô tả lại quá lớn nên không ai tin cả. Không có sinh vật nào như vậy tồn tại cả, người ta bảo họ như vậy; và chắc chắn đó là một khinh khí cầu, một con diều, hay thật táo tợn khi dám nói ra, rằng đó là do thị lực quý vị kém.
Khi cô Ingledew và người đồng hành vô hình tới nơi quán Cà Phê Thú Kiểng, cô nhấn chuông. Cửa sổ tối om, và mất một phút, tim Ollie như rớt tuột xuống. Rồi cánh cửa cái mở ra, Ollie trông thấy một người đàn ông cực kỳ nhỏ bé, và người đàn ông này đang nhìn thẳng vô mắt nó. Thật là dễ chịu. Bao nhiêu lâu nay Ollie chưa hề được ai nhìn vô mắt cả. Sự việc đó mở đường cho Ollie cảm thấy mình đã là người trọn vẹn trở lại.
“Đây là Ollie,” cô Ingledew nói, giơ những ngón tay bị biến mất của mình lên.
“Đúng rồi,” ông Onimous nói. “Rất vui được gặp cậu, Ollie. Vô đi, cả hai người!”
Ông Onimous dẫn đường băng ngang quán cà phê tối mù, tới một nhà bếp ấm cúng ở phía sau, tại đây Ollie ngạc nhiên trông thấy ba con mèo rực rỡ đang ngồi trên một tủ đông, một con chó vàng đang ngủ gà gật trong một cái ổ, va2mot65 người phụ nữ cao nghều đang làm bánh bột nhào, trong khi một con chuột đen từ trên vai bà ngó xuống coi.
“A ha!” Người phụ nữ cao nhìn kia nói, bà có cái mũi cực dài. “Kẻ biến mất! Chào mừng cậu, Ollie Sparks. Tên bác là Onoria, cậu nhỏ à, là bác Onimous gái.”
Mắt bà hơi dao động một tí khi kiếm điểm để tập trung nhìn. Rõ ràng bà không xuất sc81 bằng chồng trong việc đoán xem người vô hình đang đứng ở đâu. Nhưng su đó thì bà đã làm được tốt.
Ollie không thể không tự hỏi làm sao mà một người đàn ông nhỏ như thế lại chọn một người phụ nữ cao như vậy làm vợ. Trong những dịp thông thường, ắt hẳn Ollie đã hỏi rồi, nhưng đây không phải là dịp thông thường. Thay vào đó, nó nói:
“Nó ở đây à… con trăn ấy?”
“Phải, cậu nhỏ,” bà Onimous chỉ một cái giỏ to ở gần sát chân bà. “Bác luôn phải hát cho nó nghe. Con vật tội nghiệp đó đã sống một cuộc đời chẳng dễ dàng gì.”
“Tôi tự hỏi,” cô Ingledew rụt rè nói, “Có thể uống một tách trả trước khi chúng ta… à… trước khi việc này xảy ra được không?”
“Tôi nghĩ sao mà lại thế này?” Ông Onimous thốt lên. “Phép lịch sự, Orvil, phép lịch sự. Xin mời ngồi, cô thân mến.”
Ông đưa ra một chiếc ghế, và cô Ingledew ngồi xuống với vẻ biết ơn.
Ollie nói nó nên đứng để “chữa trị” thì tốt hơn. Nó nghĩ con rắn sẽ thấy cách đó dễ dàng hơn.
“Con có thể gặp nó bây giờ được không?” Nó hỏi.
Bà Onimous nhấc nắp của chiếc giỏ ra, và Ollie chong mắt ngắm con trăn dễ sợ mà trước kia đã quấn nó thành vô hình. Con trăn này không hoàn toàn giống như Ollie nhớ. Bộ da màu ngọc bích sáng tươi của nó đã nhạt đi, và bây giờ nó có màu xanh da trời óng ánh bạc, dịu mắt. Và hình như nó cũng hơi co lại, có cái gì đó trong dáng điệu của nó tỏ ra thân thiện hơn và nhẹ nhàng hơn.
Cái đầu óng ánh bạc của con trăn đột ngột ngóc lên, và nó kêu chiếp chiếp như chim. Ollie bật lùi lại.
“Con vật dễ thương quá hả?” Bà Onimous thở dài. “Các quý vị dùng trà với sữa và đường nhé?”
“Vui lòng cho sữa thôi,” cô Ingledew nói.
Còn Ollie thì bảo:
“Không ạ, cảm ơn. Hồi nữa con mới khát kìa.”
Trong khi cô Ingledew và gia đình Onimous nhâm nhi trà, Ollie bước đi loanh quanh cái giỏ mây. Con rắn dõi theo thằng bé bằng đôi mắt đen, tí rị của nó. Rõ ràng là nó có thể trông thấy thằng bé. Khi Ollie đứng im, con trăn uyển chuyển trườn ra khỏi cái giỏ mây và bắt đầu quấn quanh hai mắt cá vô hình của thằng bé. Ollie nín thở.
“Ông có nghĩ là nó biết phải làm gì không?” Bà Onimous thì thầm.
“Thì cứ hy vọng đi,” ông chổng nói. “Cậu đã sẵn sàng rồi chứ, Ollie?”
“Dạ rồi. Rất sẵn sàng,” Ollie đáp. “Con đang nghĩ tới chuyện gặp lại anh của con. Con cũng nghị tới chuyện con sẽ về lại Lâu dài Lấp Lánh. Lâu đài có luôn sáng lấp lánh vì anh và ba của con có thể thắp lửa từ đá, hai bác có biết chuyện đó không?”
“Còn con có thể làm được gì?” Bà Onimous hỏi.
Bà Onimous nghĩ tới Ollie như một bệnh nhân, cần phải được chia trí cho quên đi cái công việc đau đớn đang được thực hiện trên th.ân thể.
“Con chỉ biết chơi sáo thôi,” Ollie nói, vào lúc này nó chẳng cảm thấy đau đớn gì hết.
“Bác rất mong được nghe con chơi,” bà Onimous nói.
Con trăn đang quấn mình thành từng vòng, từng vòng trong không khí. Tuy nhiên, không thấy một cái gì ở bên trong vòng cuốn của nó.
“Giờ con sẽ nhắm mắt lại,” Ollie nói. “để nếu rủi mà không được gì thì con không bị thất vọng, hai bác với cô biết đó.”
“Đương nhiên,” những người lớn nói.
Cô Ingledew đặt tách trà của mình xuống. Cô không thể quan sát. Thật quá sức. Cuộc thí nghiệm sẽ không thành. Ollie tội nghiệp sẽ vô hình vĩnh viễn. Nhưng cô đã quyết định mình có thể làm được gì. Cô sẽ đưa Ollie trở lại tiệm sách và gọi điện cho cha mẹ nó. Dẫu sao thì một cậu bé vô hình vẫn tốt hơn là không có cậu bé nào cả. Và rồi cô trông thấy bàn chân. Trước tiên là bàn chân có con nhện ở ngón cái. Sau đó là chân kia. Chân đất, coi bộ lạnh, hết sức cần có vớ và giày.
“Hai cẳng chân kìa,” ông Onimous nói khẽ.
Đáng ra ông phải la lên kìa, bởi vì con Hạt Đậu, bị xúc động trước những việc tưởng không thể xảy ra được lại đang diễn ra, cứ nhảy chồm lên và bắt đầu sủa.
“Hấp, anh chàng ngoan coi nào,” bà Onimous nói.
Hạt Đậu rừ rừ và nằm xuống, cứ trợn mắt thao láo dòm cái quá trình mà Ollie mỗi lúc mỗi hiện ra rõ. Những con mèo lửa tỏ thái độ như thể trước kia chúng đã từng chứng kiến mấy vụ này rồi. Chúng vẫn im lặng, nhưng cảnh giác.
“Ôi, tội nghiệp thằng bé, trông cái quần nó kìa,” bà Onimous nói, chú ý tới mảnh vải rách te tua gần như không che được hai đầu gối của Ollie.
Con rắn đang leo lên cao hơn, và bây giờ họ có thể thấy một cái áo len chui đầu màu xám sờn tưa, nhỏ hơn cỡ người của chủ nhân ít nhất là hai cỡ, những cổ tay gầy guộc lòi ra thật xa cái ống tay áo mòn xơ xác.
“Trời ơi!” Ông Onimous thốt lên khi cái cổ con trăn cuộn quanh một cái đầu tóc nâu rối tung. Một gương mặt hiện ra giữa những món tóc nâu; nó có hai con mắt to, màu xanh da trời, thâm quầng, một cái miệng nhỏ nhắn, và một cái mũi phờ phạc, trông rất tọc mạch.
“Ôi!” Cô Ingledew thở hắt ra. “Ollie!”
Con trăn bao quanh đầu Ollie cho tới khi trông nó giống như một cái khăn xếp(1) sáng loáng, và lông mày Ollie nhướn lên đầy ngạc nhiên, phấn khích.
“Con trở lại rồi hả?” Nó hỏi. “Con cảm thấy như mình đã trở lại rồi.”
“Chính thế,” ông Onimous nói. “Cậu rất khỏe mạnh và hiện hình thật rồi, Ollie Sparks. Chúc mừng!”
Có vẻ nên vỗ tay mừng, và thế là, tất cả mọi người đều vỗ tay, kể cả Ollie, tuy rất nhẹ, do nó sợ con trăn.
Con trăn có vẻ kiệt sức sau những cố gắng của mình. Quả đúng là kiệt sức, nó nhắm mắt lại và rút vô một vị trí thoải mái ở trên đầu Ollie.
Bà Onimous nhấc con vật ra khỏi Ollie và đặt nó trở vô trong chiếc giỏ.
“Chúng ta phải ăn mừng thôi,” bà nói. “Orvil, pha thêm một bình trà nữa đi. Để tôi đi kiếm một ít bánh.”
Sau một giờ thật đáng hài lòng, với rất nhiều quyết định được đưa ra, cô Ingledew rời quán Cà Phê Thú Kiểng và bươn bả trở về tiệm sách của mình. Cô biết Ollie đang ở trong những vòng tay chăm sóc tốt – nó đang tắm cữ đầu tiên của mình sau hơn một năm. Bà Onimous đã lo trước hết mọi việc. Thằng bé tội nghiệp sẽ có những bộ quần áo mới. Nó sẽ được cắt tóc, và nó sẽ được tẩm bổ, được nghỉ trước cuộc hành trình dài trở về Lâu đài Lấp Lánh, nhà của nó.
Cô Ingledew rất mãn nguyện về kết cục của mọi việc. Cô bắt đầu ngâm nga một bài hát ưa thích nhất của mình. Khi tới ngã tư, suýt nữa thì cô quẹo vô đường Filbert, Chắc chắn cô muốn chia sẽ niềm vui này với Paton Yewbeam, nhưng việc này không thể được, lời buộc tội của nội Bone vẫn còn làm cô lấn cấn.
“Mình không phải là kẻ theo đuổi,” cô Ingledew khẽ lẩm bẩm. “Và mình sẽ không để bị coi là kẻ theo đuổi.”
Cô tiếp tục bước đi, giờ có hơi chậm bước một chút, và hơi nguôi giận, hoàn toàn không nhận thấy con dơi lớn vẫn đang bám theo cô. Ẩn mình vô bóng tối, nó cứ bay đằng sau cô, tới phố Nhà Thờ, và rồi nó bám vô một ống thoát nước, quan sát cô Ingledew bước vô tiệm sách và khóa cửa lại.
Con dơi bay tiếp, xuôi xuống Vòng Cung Ụ Xám, và vô hẻm Ngách Tối. Nó lượn loanh quanh và vỗ cánh phầm phập phía mặt ngoài mái nhà, rồi chui tọt vô một cửa sổ để mở ở tầng trên căn số 13 thứ ba.
Một loáng sau, mụ Yolanda Yewbeam, không còn là con dơi nữa, bước vô phân xưởng may dưới tầng hầm của bà Venetia, chắt gái của mụ.
“Tuyệt,” mụ lẩm bẩm khi chiêm ngưỡng những bộ quần áo nằm rải trên chiếc bàn dài của Venetia. Có những chiếc áo chùng xanh da trời và xanh lá cây, những áo đầm lụa, áo khoác và quần chẽn nhung, những đôi vớ da đủ màu, vòng đeo cổ, áo lót, áo sơ-mi diềm đăng ten, khăn len đội đầu, cùng tất cả những dây nịt và giày thật đỏm dáng.
Bà cô Venetia đang bận đính những khoen xê-quin quanh vạt một chiếc váy đen, dài. Phía bên kia, ở mép bàn, là một đống những hộp thiếc, hũ với hộp. Thỉnh thoảng bà ta lại nhúng những ngón tay vô một trong những đồ chừa đó, bốc ra ít hạt bột màu, một chút thảo mộc, hay vài chấm chất lỏng. Bà ta sẽ bôi những thứ đó vô mặt trái của những khoen xê-quin trước khi đơm chúng vô.
“Làm xong áo chùng chưa?” Mụ Yolanda hỏi.
“Chưa ạ.” Bà Venetia ngước lên, hơi giật mình.
“Tao đoán nếu tao là con bé xinh đẹp đó thì mày thích hơn,” my Yolanda nói, tuổi tác và tâm địa ác độc của mụ đã phơi bày rõ rệt trong đêm nay.
“Không phải, thưa cụ. Cụ làm con ngạc nhiên, thế thôi.”
“Tao mệt quá,” mụ Yolanda nói. “Tao bám theo cái con mẹ chõ mũi đó suốt mấy tiếng đồng hồ. Nó đang giữ thằng bé, tao chắc chắn điều đó. Nó đã nấu mất con ngỗng của bọn ta. Grizelda nói đúng, con đó phải đi đời. Và cả đứa cháu gái khốn kiếp biết bay của nó nữa.”
“Cụ gắn dây nịt chưa?”
“Đứa bạn nhỏ Dorcas của chúng ta đang lo liệu việc đó.”
“Tốt. Cụ ngồi xuống đi. Bỏ mệt nhọc qua một bên nào,” bà Venetia kéo ra một chiếc ghế.
“Tao muốn làm cái áo chùng,” mụ Yolanda gằn giọng.
Mụ ngồi xuống đằng sau chiếc máy may và kéo chiếc áo chùng xanh lá cây về phía mình.
“Cái thằng du côn, cái con thú ranh đó nó tưởng nó quáááá… tài giỏi. Hừ, rồi nó sẽ phải suy nghĩ khác cho coi.”
“Ai vậy, thưa cụ?”
“Cái thằng Torsson. Dám gọi ta là mụ phù thủy xấu xí. PHÙ THỦY!” Mụ Yolanda thét lên.


(1) Khăn xếp: loại khăn đội đầu của người Hồi giáo.
 
Đứa con gái tên là Belle Donner đã biến mất khỏi Học viện Bloor. Đối với hầu hết bọn trẻ, điều này quả là một cái thở phào nhẹ nhõm.
Nhưng Charlie biết, nó vẫn chưa gặp mụ Yolanda Yewbeam lần cuối cùng đâu. Nó được tin từ bà bếp trưởng là cuộc gặp gỡ giữa Ollie với con trăn đã thành công mỹ mãn. Tin này quả là tốt lành, nhưng Ollie cứ không ngừng hỏi về anh trai mình. Trong khi đó, không một ai biết chuyện gì đã xảy ra với Samuel Sparks.
Charlie đem vấn đề của Ollie ra bàn luận với Fidelio, thằng này đang cảm thấy mình bị gạt ra rìa trong mọi việc kể từ cái đêm đầy gió và linh hồn.
“Từ đây cho tới cuối tuần tụi mình không làm được gì nhiều đâu,” Fidelio nói. “Với lại ba anh đã đăng ký cho anh chơi đàn vĩ cầm trong đám cưới ông anh họ anh rồi. Anh chịu thua, không giúp em được, Charlie. Mấy người kia hình như cũng đều bận bịu cả.”
Quả đúng vậy. Khi Tancred và Lysander nghe tin mừng về Ollie, bọn chúng cảm thấy như mình đã hoàn tất mọi phần việc cần đến chúng rồi.
Gabriel có rất nhiều bài tập dương cẩm phải luyện tập cho kịp, còn Billy thì chắc chắn không thể mong chờ nó trợ giúp được rồi. Nó cứ thơ thẩn đi loanh quanh, ngầy ngật về cuộc hạnh ngộ với con trăn, và mong ngóng được đoàn tụ với con Rembrandt.
Nhưng chính Emma mới là đứa trở nên thê thảm nhất. Dorcas đã trói hai bàn tay nó bằng thứ dây mạnh mẽ khác thường, và kể từ đêm hôm đó, những ngón tay đã biến lẹ thành lông chim cứ đau nhức mãi. Đau đến nỗi mà Emma gần như không cầm viết nổi. Nhưng nó đã hứa là sẽ làm cho Olivia một sợi dây nịt vô cùng đặc biệt, và không gì thuyết phục được nó từ bỏ nhiệm vụ ấy.
Cô Marlowe, giáo viên khoa kịch, cô ấn tượng tốt về diễn xuất của Olivia trong những buổi diễn tập, đến nỗi cô đã quyết định giao cho con bé đóng vai nàng công chúa chính. Và Emma, quá phấn khởi trước tin vui của Olivia, liền hứa sẽ làm cho đứa bạn nó bộ trang phục đẹp nhất từ trước tới nay.
Cái váy đầm dài đã hoàn tất và đang treo trên mắc ở phía sau lớp may trang phục. Nó được may bằng lụa đỏ, với những rẻo vải nối đen bóng. Ống tay áo dài và bó sát, với cổ tay áo bằng vải lưới đen óng ánh, và vạt váy được đính những khoen xê-quin đen nhỏ li ti. Tất cả mọi người đều trầm trồ chiếc đầm ấy, và Olivia cứ thường xuyên ghé thăm lớp của Emma chỉ để đứng nhìn mê mải bộ đồ xinh đẹp của mình. Giờ cái đầm chỉ cần một sợi dây nịt.
Lúc này Emma đang tiến hành làm dây nịt, nhưng nó sợ rằng mình sẽ không bao giờ làm xong. Hôm nay nó mới đính được có hai hột cườm đen vào sợi dây, thế mà tất cả các khớp ngón tay của nó đã nhức nhối dữ dội rồi.
“Tôi có thể giúp bạn chút nào không?” Dorcas hỏi, nó đang ngồi đối diện với Emma bên một chiếc bàn làm việc lớn.
“Không, cám ơn, cứ để tôi ráng,” Emma nói.
Nó đính vô thêm giọt hạt huyền sáng bóng. Mỗi hạt huyền gắn vô một cái móc kẽm nhỏ xíu. Mỗi móc lại được may hẳn lên sợi dây nịt, để cho từng hạt huyền đều chuyển động độc lập được, lóe sáng và lấp lánh khi ánh đèn sân khấu chiếu lên. Kết quả thật ngoạn mục: một sợi dây nịt kết hạt huyền.
Emma giơ tay lên:
“Thưa cô, em đi uống nước được không ạ?” Nó hỏi cô Singerlee, giáo viên lớp thiết kế thời trang.
“Ừ. Em bị sao vậy, Emma?” Cô Singerlee lo lắng. Emma trông thậm chí còn nhợt nhạt hơn thường ngày và công việc của nó tiến triển rất chậm.
“Em không sao, chỉ khát nước thôi,” Emma nói.
Nó rời lớp học và bắt đầu một đoạn đường xa tới phòng để áo khoác. Khi uống nước xong, nó dựa người vô dãy bồn rửa mặt và xoa bóp những ngón tay. Liệu mình có bao giờ bay được nữa không, nó tự hỏi.
Emma không biết nó đã rời lớp học trong bao lâu, nhưng khi quay trở lại, nó thấy ai đó đã đính hết cả một hàng hột cườm vô sợi dây nịt rồi.
“Tôi nghĩ bạn cần có người giúp,” Dorcas nói.
“Cám ơn.”
Emma không biết phải nghi ngờ hay biết ơn. Dorcas trở nên thân thiện khác thường kể từ khi Belle đi khỏi.
Chuông reng, Emma cẩn thận gấp sợi dây nịt lại và cất vô giỏ sách. Nó sẽ còn phải làm tiếp cho xong vào cuối tuần, cho nên nó gói nắm hột cườm vô chiếc khăn tay và thảy chúng vô trong giỏ xách chung với sợi dây nịt.
Hôm đó là thứ Sáu, và Emma ao ước mong ngóng được về để ngủ một giấc thật lâu trong căn phòng thoải mái của nó ở phía trên tiệm sách.
Charlie không thể chờ nổi để gặp Ollie. Thật ra tất cả những người đã góp phần vô việc giải cứu Ollie đều nôn nao muốn gặp thằng bé. Thậm chí cả Tancred và Lysander cũng sẵn sàng liều mạng với dơi và nhện (nếu chúng xuất hiện) để tận mắt nhìn thằng bé vô hình nay đã trở thành hữu hình.
“Con dơi gài ấy chắc chắn đã bay tới tận Transylvania rồi,” Gabriel nói khi chúng chạy ra xe buýt trường.
“Đừng có chủ quan như thế,” Charlie lẩm bẩm.
Có một điều ngạc nhiên đang chờ Charlie ở nhà. Ngoại Maisie đã trở về. Bà đang dùng bữa trà với Ông cậu Paton thì Charlie bước vô.
Sau bao nhiêu là cái ôm và nước mắt (về phía ngoại Maisie), bà ngoại yêu quý của Charlie ấn nó ngồi xuống và nó xơi một dĩa cá với khoai tây chiên trong khi bà kể cho nó nghe một điều rất thú vị.
“Nghe đi, Charlie,” Ông cậu nói nghiêm trang. “Việc này có lẽ sẽ giải thích được vài điều.”
“Dạ. Nói đi ngoại Maisie,” Charlie nói.
Ngoại Maisie kéo ghế của mình lại gần nó.
“Thế này, Charlie, con biết đấy, ta vừa mới ở chỗ chị Doris của ta về.”
“Bà ấy có đỡ bệnh không ạ,” Charlie hỏi.
“Khỏe hơn nhiều rồi, cảm ơn con, Charlie. Bà ấy già hơn ta và biết nhiều về gia đình hơn ta. Ta không hiểu tại sao bà ấy lại đợi cho tới khi kề cận cửa thần chết mới nói cho ta biết điều này, nhưng…”
Đúng lúc đó, mẹ Charlie bước vô và một quy trình ôm ấp dài khác lại diễn ra.
“Hãy kiên nhẫn, Charlie,” Ông cậu Paton nói. “Đáng phải đợi lắm.”
Không phải đợi đến khi mẹ Charlie đã yên vị với dĩa cá và khoai tây chiên của mình thì ngoại Maisie mới thấy thích hợp để kể tiếp câu chuyện của mình.
“Ngoại đang nói tới đâu rồi nhỉ?” Bà hoi.
“Chị của bà lúc đang kề cận cửa thần chết,” Charlie nhắc.
“À phải. Bất thình lình bà ấy bảo. ‘Maisie à, nếu tôi chết thì hãy cứu lấy những giấy tờ ở trên bàn giấy của tôi. Đừng để họ đốt chúng đi.’ ‘Đương nhiên tôi sẽ không để như thế,’ ngoại vừa đáp vừa vỗ vỗ bàn tay trắng tội nghiệp của bà ấy. Thế rồi bà ấy khăng khăng đòi ngoại lấy giấy tờ ra, và bà ấy bắt đầu phân loại chúng ngay tại chỗ. Thiệt là bừa bộn! Bà ấy đã tích trữ đống giấy vô dụng đó suốt bao nhiêu năm. Hầu hết chúng nằm vương vãi dưới sàn nhà gần gi.ường của bà ấy, và khi ngoại lượm một túi giấy cũ lên thì thấy rớt ra cuộn giấy cũ này.”
Ngoại Maisie ngừng lại và nhìn Charlie đăm đăm.
“Đó là gia phả, Charlie à, và con đoán được nó ghi cái gì không?”
“Không ạ,” Charlie nói.
“Ừm, ở trên ngọn cây gia phả, là một người có cái tên lạ, rất khó phát âm. Khi ngoại hỏi chị của ngoại về cái tên ấy, bà bảo, ‘Ồ, ông ấy đấy. Ông là một thầy pháp, theo như mọi người nói. Một thầy pháp xứ Wales. Chính vì vậy mà ông có cái tên rất lạ.’”
“Một thầy pháp?” Charlie nói, nhổm người lên. “Bà có chắc không?”
“Chắc chứ!” Ngoại Maisie nói, sáng rỡ lên. “Vậy, rốt cuộc dòng họ Jones không hề là vớ vẩn chút nào. Chúng ta cũng đặc biệt không kém gì dòng họ Yewbeam. Thế đấy!”
Mẹ Charlie trầm tư khuấy tách trà của mình:
“Nhưng như vậy là Charlie được thừa hưởng ở cả hai dòng họ,” cô nói. “Sức mạnh… hay phép thuật… hay bất cứ cái gì đó.”
“Chính xác,” Ông cậu Paton nói, khoái chí đập bàn đánh rầm. “Mày biết đấy, Charlie. Cây gậy phép đúng là thuộc về mày, chính vì thế mà nó chỉ hiệu nghiệm với mày thôi, không với ai khác. Chắc chắn ông thầy phù thủy già đầy mưu mô đã đánh cắp nó từ tổ tiên của mày. Ta đã tra cứu ngày tháng. Skarpo trẻ hơn nhiều… cho nên hắn có thể là đệ tử tập sự của thầy pháp đó… Có lẽ hắn đã ăn cắp cây gậy phép khi ông thầy già qua đời.”
“Có lẽ chính vì vậy mà lần này Skarpo đã không cố lừa phỉnh con, nhờ cây gậy phép và mối liên hệ của con với ông thầy pháp kia.”
“Cũng có thể do hắn lo ngại không biết con làm được gì với cây gậy phép ấy,” Ông cậu Paton nói.
Charlie cáo cào mớ tóc hàng rào của nó.
“Chà!” Nó lẩm bẩm. “Chà! Vậy là con được ban phép thuật gấp đôi.”
Nó không còn chắc được cảm giác của mình nữa, nhưng chắc chắn là rất sửng sốt.
“Ông cậu nghĩ nội Bone có biết chuyện này không?” Nó hỏi.
“Có lẽ bà ấy đã đoán ra,” Ông cậu Paton nói. “Đừng quên tài tiên tri của bà Eustacia. Có lẽ bà ta đã có điềm báo.”
Charlie nhìn trân trân vô món cá và khoai tây chiên.
“Mọi người không nói về vụ này một thời gian có được không ạ?” Nó nói. “Con muốn nghĩ thêm về nó.”
“Dĩ nhiên, con,” ngoại Maisie nói. “Có lẽ hơi sốc một chút, đúng không? Nhưng ngoại đưa cho con tờ gia phả này để con coi. Dù gì thì con cũng là nhánh cuối cùng của dòng họ Jones.”
Charlie cầm cuộn giấy da dê nhăn nheo lên phòng ngủ của nó. Mất một lúc lâu, nó nhìn trừng trừng vô những cái tên lạ, những ngày tháng năm sinh, những cặp vợ chồng, tự hỏi ai trong số những tổ tiên đó có phép thuật. Họ có sử dụng cây gậy phép không? Và nếu có, thì họ dùng để làm gì?
Nó vừa trải qua một tuần lễ bận rộn, ít ra là thế. Và giờ thì nó nắm xuống, nhắm mắt lại. Ngay bây giờ mà phải nghĩ thêm nữa thì là quá nhiều.
Vào sáng thứ Bảy, cô Julia Ingledew đang định mở cửa tiệm, thì mắt cô chợt dừng lại ở một sợi dây nịt kết cườm tuyệt đẹp. Nó đang nằm trên bàn, ngay chỗ Emma đã bỏ lại hồi đêm hôm trước.
Cô Julia Ingledew không phải là một phụ nữ tự cao, nhưng cô có một vòng eo cực nhỏ, và ai có thể trách khi cô tự hào về nó nào? Cô cầm sợi dây nịt lên. Những viên đá màu đen lấp lánh. Nó là cho con nít, nhưng nếu cô đeo thử thì sẽ ra sao nhỉ? Chắc là nó sẽ vừa vặn với cô.
Cô Julia ướm sợi dây nịt quanh vòng eo của mình. Nó hơi chật nhưng… cô hóp bụng vô… rồi vừa rồi. Cô gài móc khóa lại và ra đứng trước gương soi. Sợi dây nịt trông thật tiệp với chiếc đầm xanh ngọc bích cô đang mặc. Cô Julia xoay nhẹ người và những viên đá chói lóa kêu lóc xóc một cách huyền bí.
“Ôôô!” Cô ồ lên. Chưa bao giờ cô thấy mình đẹ hơn thế.
Cô hít một hơi thật sâu nữa… vì sợi dây nịt rất chặt… nhưng hình như cô không thể hít đủ không khí vô phổi. Cô ho rũ người. Đầu cô tưởng như bị ép chặt trong một cái bàn kẹp. Cảm giác đó chạy khắp xương sống, và cô Julia lảo đảo vì đau đớn. Cô cố tháo sợi dây nịt ra, nhưng móc khóa không thể mở ra được. Tim cô Julia bắt đầu đập loạn xạ.
“Emma,” cô rên rỉ. “Emma, giúp dì với!”
Charlie đang ăn sáng thì chuông cửa reng. Chuông cứ kêu mãi, kêu liên hồi. Ai đó đã đè cả nắm đấm lên nút chuông, hoặc là nó bị kẹt rồi.
“Từ từ!” Charlie gọi với ra, vẫn đang nhai bánh mì nướng. “Ra ngay đây.”
“Cứu! Cứu! Cứu với!” Một giọng thét lên.
Charlie mở cửa ra và Emma suýt nữa thì té nhào vô hành lang.
“Ối, Charlie!” Con bé la lên. “Có chuyện rất khủng khiếp xảy ra với dì mình.”
“Khủng khiếp thế nào?” Charlie nói, quệt miệng.
Chiếu nghỉ phía trên nó lập tức đầy kín bà nội, bà ngoại, cả hai bà cùng hét to:
“Có chuyện gì xảy ra vậy?”
“Ai làm sao?”
“Gì mà ồn ào vậy?”
“Bồ có muốn uống chút nước không?” Charlie hỏi Emma. Hình như nó chưa thấy tình huống khẩn cấp cho lắm.
“Không,” Emma rên lên. “Mình muốn ai đó tới ngay bây giờ. Mình muốn ai đó giúp với. Mình đã chạy tới phòng khám của bác sĩ, nhưng mình không biết phải nói gì, và chắc họ không coi đây là một vụ nghiêm trọng.”
“Có chuyện gì thế?” Giọng Ông cậu Paton.
“Ôi, ông Yewbeam. Dì của con,” Emma thét lên. “Con nghĩ dì ấy sắp chết.”
“Cái gì?”
Với bốn bước nhảy, Ông cậu Paton đã xuống hết cầu thang.
“Đi nào,” Ông cậu nói.
“Ồ, cảm ơn!” Emma lao bắn ra ngoài cửa.
Khi con bé xuống đến vỉa hè thì Ông cậu đã đi phăm phăm trước nó một quãng rồi.
Charlie đứng nhìn theo và lắc đầu. Mọi việc diễn ra quá nhanh đối với nó. Nhưng nó không quá bàng hoàng để đến nỗi không nhận thấy nụ cười ác nghiệt trên gương mặt nội Bone ngay trước khi nội quay trở vô phòng mình.
“Con đi tới tiệm sách đây,” nó bảo ngoại Maisie.
“Tốt lắm,” ngoại Maisie đáp.
Charlie phóng lên lầu và chộp lấy cây gậy phép dưới gầm gi.ường. Nó không biết tại sao đột nhiên cây gậy phép lại có vẻ quan trọng đến như vậy, nhưng kể từ khi nó biết được về lịch sử của cây gậy phép này, nó cảm thấy rằng, có lẽ cây gậy sẽ đóng một vai trò nào đó trong tình huống tuyệt vọng này.
Khi nó ra tới bậc cấp cửa trước thì Ông cậu Paton và Emma đã biến mất. Charlie lao vù trên đường Filbert, dọc theo đường chính, cho tới khi nó va phải ba con chó chồn. Chủ nhân của ba con chó giận dữ quát.
“Coi chừng cây gậy kìa!”
Cánh cửa tiệm sách vẫn để mở, bị gió đập sầm sầm. Charlie gài chốt lại cẩn thận sau lưng, và nhớ treo thêm tấm biển ĐÓNG CỬA lên.
Nó gặp Ông cậu Paton trong phòng cô Ingledew, và đang làm hô hấp nhân tạo cho cô. Bối rối khi trông thấy Ông cậu nó đang làm… cái việc ông đang làm, Charlie nhìn lên trần nhà.
“Làm ơn đừng để dì chết!” Emma khóc. “Ôi, làm ơn.”
Charlie tiến lại gần. Cô Ingledew đang nằm trên ghế trường kỷ. Mặt cô tái xanh, mắt trợn trừng, miệng cô ngáp ngáp như con cá.
Việc hô hấp nhân tạo của Ông cậu Paton rõ ràng là không có tác dụng, và giờ ông dùng đến chiêu ấn hai bàn tay thật mạnh vô ức cô Ingledew.
“Tháo sợi dây nịt đó ra, Emma!” Ông cậu nói.
“Con không làm được!” Emma kêu lên. “Con đã thử rồi.”
“Cái gì?”
Ông cậu Paton kéo cái móc khóa và một tia lửa xanh da trời xẹt ngang qua những ngón tay ông.
“Úi! Cái quỷ gì thế này?”
Ông lôi cái móc khóa một lần nữa, kết quả vẫn vậy. Ông chụp lấy sợi dây nịt bằng cả hai tay và cố dứt nó ra.
“Không được,” ông làu bàu. “Cái này làm bằng gì vậy? Chúng ta cần một con dao… loại dao cắt dây điện… Loại có thể cắt xuyên qua thép.”
“Vô ích thôi,” Emma nói bằng giọng lạc đi, sợ hãi. “Con nghĩ nó bị ếm bùa rồi. Con đã để nó lại để đi uống nước. Tất cả là lỗi tại con.”
Ông cậu Paton nhìn Emma trừng trừng, vẻ kinh hoàng.
“Đây là cách chúng trừng phạt người ta,” ông gằn giọng. “Nếu Julia…”
Những lời tiếp theo, ông nghẹn lại. Và rồi, ông quỳ xuống, cầm lấy bàn tay lạnh tím của cô Ingledew, đặt nó lên miệng.
“Ôi, em yêu,” ông thở dài. “Ta xin lỗi.”
Charlie nhìn chết trân. Nó sững sờ khi thấy Ông cậu rơi vô tình trạng tuyệt vọng như vậy. Chỉ thế thôi mà Ông cậu chịu bỏ cuộc sao? Hay cô Ingledew chết rồi? Nó không thể tin nổi.
Nó cảm thấy cái gì đó đang động đậy trong bàn tay phải của nó và những ngón tay nó tê lên âm ấm. Charlie nhìn vô cây gậy phép. Tại sao nó lại mang cây gậy phép tới đây, nếu không phải để sử dụng?
“Con nghĩ con có thể giúp,” nó nói.
Ông cậu Paton nhìn nó.
“Mày à, Charlie?”
“Dạ phải,” Charlie nói tự tin.
Nó bước lại gần cơ thể xuội lơ của cô Ingledew và chạm đầu cây gậy phép vô sợi dây nịt kết đá. Một luồng sáng nhá lên. Trong một giây, toàn bộ sợi dây nịt cháy lắc rắc như một cây pháo bông.
“Nó cháy kìa!” Emma thét lên.
“Không phải,” Charlie nói rành rọt. “Torri! ” Nó ra lệnh.
Đầu bịt bạc của cây gậy bùng lên như một ngọn lửa, và sợi dây nịt bay vọt đi, vút thành một cơn mưa bụi sáng, băng vèo qua căn phòng.
“Trời ơi, Charlie!” Ông cậu Paton nói với giọng khiếp đảm. “Làm sao mà mày biết phải nói cái gì?”
Charlie không thể trả lời Ông cậu. Có lẽ cái từ đó đã nằm chờ trong đầu nó suốt bao nhiêu năm, chưa bao giờ có dịp vọt ra, cho tới bây giờ.
Một phút sau, cô Ingledew thở hắt ra một hơi thật dài và ngồi dậy.
“Lạy Chúa,” cô nói. “Hình như tôi vừa mới xỉu hay sao đó?”
“Ôi dì. Con tưởng dì chết rồi chứ!” Emma bật khóc. Nó vòng cánh tay ôm chặt lấy cổ cô Ingledew.
“Chết!” Cô Ingledew nói, coi bộ hoang mang.
“Ôi, em yêu, Julia yêu dấu. Tôi không thể nói với em…”
Không thể nói được điều mình muốn nói, Ông cậu Paton đành hỉ mũi ầm ĩ.
“Paton, anh cứu em đó à?” Cô Ingledew hỏi.
“Ô không. Charlie đã cứu em đó.”
Cô Ingledew nhìn cây gậy phép đang nằm trên đùi.
“Thật à? Việc tệ đến thế sao?” Cám ơn, Charlie.”
“Không có chi ạ,” Charlie nói, lấy lại cây gậy phép. “Không phải chỉ mình cháu. Mà là… chúng cháu. Cháu và cây gậy phép.”
“À ra vậy. Cám ơn cả hai nhé.” Cô Ingledew mỉm với Charlie một nụ cười tuyệt vời.
“Em thấy khỏe hơn rồi chưa, Julia?” Ông cậu Paton vừa nói vừa đứng lên.
“Rồi,” cô Julia vui mùng nói. “Em xin lỗi đã gây ra rắc rối này.”
“Đừng lo, Julia,” Ông cậu Paton nói rõ. “Không có gì phiền hết. Nhưng nếu em đã khỏe rồi thì tôi đi thôi. Có việc phải làm.”
Ông sải bước ra cửa nói:
“Chăm sóc dì con nhé, Emma. Tôi sẽ trở lại sau.”
Charlie phóng theo Ông cậu, ông đã đi hết nửa đường Phố Nhà Thờ.
“Ông cậu đi đâu vậy?” Charlie gọi.
“Mày biết rõ mà!” Ông cậu Paton la lớn.
Charlie biết thật. Giữa thanh thiên bạch nhật, nhưng Ông cậu Paton chẳng thèm để ý gì. Không hề cẩn thận trước những cửa sổ bày hàng hay những đèn sau xe ô-tô, đôi chân dài đưa ông đi qua thành phố như một cơn gió lốc đen. Có một tai nạn nhỏ ở chỗ đèn giao thông, nhưng hên là chỉ có một bóng đèn trang trí bị nứt bể, và trước khi ai đó kịp nghĩ xem cái gì đã gây ra điều đó, thì Ông cậu Paton đã khuất một đoạn xa rồi.
Charlie thoáng thấy Ông cậu quẹo vô Vòng Cung Ụ Xám, nhưng nhoáng một cái ông đã biến mất. Phải tới tận Ngách Tối nó mới thấy lại ông, và ở đó, Ông cậu đứng bên ngoài cánh cửa nhà số 13 thứ ba. Không gõ cửa hay nhấn chuông. Thay vào đó, ông giơ bàn chân lên và đạp. Cánh cửa gỗ cũ nứt toác ra, kêu rắc rắc. Ông cậu Paton lại đạp nữa và cả cánh cửa đổ ập vô trong.
Charlie phóng vèo lên những bậc cấp và lướt qua ngưỡng cửa để mở. Ông cậu đang đi xuống cầu thang phía sau nhà. Charlie chạy theo, xuống những bậc thang, băng qua một hành lang hẹp và vô phòng may của bà cô Venetia.
Mụ Yolanda đang ngồi sau một chiếc máy may ở phía bên kia chiếc bàn lớn, chất la liệt những khúc vải màu và những phụ liệu. Có một tấm vải dài màu xanh lá cây đang nằm dưới mũi kim may.
“Paton, cuối cùng chúng ta cũng gặp lại nhau,” mụ già nói. “Ta hy vọng ngươi tới để van xin.”
Ông cậu Paton trừng mắt nhìn mụ ta, gần như không tin nổi.
“Mụ hy vọng à?” Ông cậu nói.
“Dĩ nhiên. Sau vụ từ trần đáng buồn của bạn gái ngươi. Cô ta chết rồi chứ, ta chắc chắn thế? Ngươi không có duyên may với phụ nữ nhỉ, thầy Pilgrim Paton? Trước tiên là mẹ ngươi, và bây giờ là bạn gái ngươi. Tốt hơn ngươi hãy làm việc cho bọn ta đi, ngươi biết đấy.”
“CÁI GÌ?” Ông cậu Paton gầm vang.
“Ngươi nghe ta nói rồi đó, cả cái thằng nhãi ranh đang đứng núp bóng ngươi nữa.”
Charlie nắm chặt cây gậy phép. Nó tự hỏi khi nào thì nó sẽ cần phải sử dụng cây gậy phép, nhưng rốt cuộc lại không cần phải dùng đến. Nó nhìn ra chỗ mà tia nhìn giận dữ điên cuống của Ông cậu Paton đang hướng tới, và thấy ngay trong chớp mắt, cái mà mụ Yolanda chưa kịp nhận ra tiếp theo.
Một vẻ sửng sốt kinh hoàng hiện lên trên gương mặt của người đàn bà già khú, khi mụ nhấc hai bàn tay khỏi chiếc máy mfay… Quá trễ.
Ngọn đèn bên trên bàn máy may nổ tung, và nguyên bộ máy may bùng sáng, trắng xóa và tỏa hơi nóng. Thét lên khiếp đảm, mụ già bị điện giật ở sau máy may bay thẳng lên không. Mụ quay tít nhơ con bông vụ, và một chuỗi những sinh vật giống như hồn ma đổ tràn ra khỏi người mụ. Chúng bay dật dờ trên trần nhà – dơi, chim, nhện, chó, mèo, cá, quái vật… và cả Belle xinh đẹp, quơ quào hai cánh tay dài nghều ngào – và biến mất.
“Có chuyện gì vậy?”
Một giọng thét ầm, và bà cô Venetia xộc bắn vô phòng. Bà ta nhìn trối chết vô chiếc máy may đang cháy, cái bàn bị bén lửa, vải vó cháy sém.
“Mày vừa làm gì vậy?” Bà ta quát Ông cậu Paton. “Bà cô của ta đâu?”
“Chứ bà nghĩ mụ ta đang ở đâu?” Ông cậu hỏi lại.
“Làm sao mà mày…?” Bà ta thét lên, chạy ra xa khỏi Ông cậu. “Sao mày dám? Đồ bạo tàn, quỷ sứ, ác độc. Đồ… đồ ngu!”
“Đáng lý ra ta phải làm điều này từ lâu lắm rồi.”
Ông cậu Paton nói, quệt hai bàn tay làm điệu bộ như đang chùi sách một vết nhơ tưởng tượng nào đó.
Lúc này, một vệt lửa nhỏ đang liếm vô những thứ quần áo ở trên bàn. Lửa bắt vô những tấm rèm nhung, và căn phòng tràn ngập mùi đồ vật cháy, khủng khiếp, cay xè.
“Đi nào, Charlie. Ra khỏi đây,” Ông cậu Paton nói.
Họ phóng ào lên cầu thang và bươn ra ngoài trời thoáng đãng. Hai người ho sặc sụa vì khói. Liền ngay đó, bà cô Venetia bổ ra theo.
Xe cứu hỏa phải vất vả lắm mới chui được vô Ngách Tối, nhưng cuối cùng họ cũng xoay sở được. Lúc đó thì nhà số 13 đã cháy dở hai tầng lầu. Một đám đông tụ tập lại coi cảnh tượng kinh hoàng. Người ta chỉ trỏ và bàn tán về sự cố chập điện và gỗ mục. Không ai ngạc nhiên khi thấy ngôi nhà cũ bốc cháy.
Bốn chị em nhà Yewbeam đứng tách xa ra, nhìn mọi việc trong im lặng ảm đạm. Họ thậm chí không thèm ngó tới mặt của ông em trai.
Khi những người lính cứu hỏa sắp sửa kiểm soát được ngọn lửa, thì có người phát hiện ra một người đàn ông đang đứng ở cửa sổ lầu trên cùng. Một cái thang nhỏ được nâng lên, và giữa những tiếng reo hò “Giỏi lắm!” “Ổn thôi!” “Anh ta còn sống!”, khung cửa sổ gãy sụp xuống và kẻ sống sót bước ra cái thang. Đó là thầy Boldova.
Những bà cô nhà Yewbeam giải thích với xung quanh rằng người này vẫn làm cố vấn cho họ về thiết kế trang phục.
“Anh ta là họa sĩ mà,” bà cô Eustacia nói.
Thầy Boldova được cứu sống kịp thời. Vài phút sau khi thầy được cứu, mái nhà của bà cô Venetia bốc cháy, những bức tường ở lầu trên cùng rớt xuống. Trong tích tắc, những người đang há hốc miệng chứng kiến hình thù của một chiếc dương cầm lớn đen, đậu chót vót trên điểm cao nhất của tòa nhà đang cháy. Và rồi, khối nhạc cụ ấy rớt lộn nhào, những phím đàn cháy sém tạo nên một chuỗi âm thanh rợn người khi nó đâm nhào xuống những bậc thang tầng hầm.
“Tôi nhớ rồi,” thầy Boldova nói. “Có ai đó đang chơi đàn dương cầm.”
Nhưng không còn ai sót lại trong tòa nhà cháy rụi đó. Những người lình cứu hỏa đoan chắc điều đó. Vì vậy, bất cứ ai đang chơi cây đàn khuất dạng đó hẳn đã thoát được ra khỏi ngôi nhà trước khi quá trễ.
“Lạ thật,” thầy Boldova nói. “Tôi chưa bao giờ trông thấy người nghệ sĩ dương cầm, chỉ nghe những điệu nhạc. Thế thôi, những giai điệu mê hồn.”
Charlie nghĩ về ba nó. Có lẽ nào ông bị nhốt ở đó, trong gác mái nhà bà cô Venetia, với chỉ một cây đàn dương cầm? Nếu thế thì bây giờ ông đang ở đâu?
Ông cậu Paton vỗ vai Charlie.
“Mày có điều gì muốn nói với quý ông này, đúng không Charlie?”
“Con hả?” Charlie mơ màng. “Dạ phải. Đúng rồi.” Và nó kể cho thầy Boldova về Ollie.
“Đây là tin tốt lành nhất tôi từng nghe trong cuộc đời mình,” thầy dạy vẽ nói. “Cậu đưa tôi đến gặp nó được không? Ngay bây giờ? Và cậu vui lòng gọi tôi là Samuel được không? Hãy bỏ phần đời mang tên Boldova của tôi lại phía sau.”
“Dạ được, thưa thầy Sparks,” Charlie nói. “Ollie đang ở không xa đây. Ông cậu của con…”
Nó nhìn quanh, nhưng Ông cậu Paton đã đi mất. Charlie đoán là ông đã quay trở lại tiệm sách cô Ingledew.


Vào Chủ nhật, bảy đứa trẻ cùng với bầu đoàn thú cưng của chúng gặp nhau ở quán Cà Phê Thú Kiểng. Tất cả bọn đều muốn gặp cậu bé vô hình. Mặc đồ mới, tắm rửa sạch sẽ, cắt tóc gọn gàng, trông Ollie hoàn toàn bình thường. Bọn trẻ hình như hơi thất vọng. Nhưng nỗi thất vọng không kéo dài lâu.


“Tôi muốn tất cả các bạn tới chơi Lâu đài Lấp Lánh,” Ollie nói. “Anh Samuel bảo kỳ nghỉ giữa học kỳ sắp tới rồi, vì vậy các bạn có thể đi một tuần. Lâu lắm rồi tôi không có bạn tới chơi, và nếu không có tất cả các bạn thì tôi đã không có mặt ở đây.”


Ai còn màng đến học lời thoại, tập hòa âm hay vẽ phông nền nữa, khi mà cả một tuần lễ sẽ được trôi qua trong một tòa lâu đài.
“Nó không hẳn là một lâu đài,” Ollie nói. “Nhưng có rất nhiều phòng. Và có cả núi, cả suối, cả rừng, và cánh đồng nữa.”
Nghe sao mà hấp dẫn quá.


Lời ước của Charlie đã được thực hiện. Ông cậu Paton thuê một chiếc xe tải nhỏ. Ông cậu sẽ không mua một chiếc như thế đâu, ông nói, bởi vì nó không hợp với gu của Ông cậu. Nhưng để chở tám đứa trẻ và một thầy giáo dạy vẽ, một cô bán sách, và một con chó… thì đúng là rất cần đến xe tải.


Tất cả mọi người hẹn gặp nhau ở tiệm sách vào thứ Bảy sau đó. Sau khi trời tối, Ông cậu Paton xuát hiện trong chiếc xe tải dài màu bạc. Hành lý và những túi ngủ được gói ghém gọn gàng sau xe, bánh mì và nước uống được tống dưới gầm ghế và tất cả mọi người dồn vô trong xe.


Cô Ingledew ngồi bên cạnh Ông cậu Paton ở đằng trước. Charlie và Fidelio ngồi với anh em nhà Sparks ở hàng ghế kế tiếp, với Hạt Đậu nắm vắt ngang đầu gối họ. Năm đứa còn lại chen chúc nhau ở đằng sau.
Khi họ rời khỏi thành phố lấp lánh ánh đèn phía sau và đi vô những con lộ nhỏ tối, Ollie nói:
“Còn cậu bé kia đâu rồi? Cậu bé làm cho con trăn thay đổi ấy?”
Charlie cảm thấy tội nghiệp Billy.
“Họ không cho nó rời khỏi Học viện,” Charlie nói. “Nhưng một ngày nào đó tụi mình sẽ đưa nó ra. Mọi người biết đấy, Billy có khi còn dũng cảm hơn bất cứ ai trong chúng ta.”


Có tiếng râm ran đồng ý từ mấy đứa kia, nhưng trước khi tâm trạng cả bọn trở nên quá ủy mị, Gabriel bảo:
“Thật ra ngay lúc này Billy rất vui. Anh đã ráng mang Rembrandt vô khu nhà bếp. Anh bảo đảm là chúng đang vui vẻ với nhau. À mà này, May Phúc đã có đuôi trở lại rồi. Bà bếp trưởng đã đem nó tới gặp con trăn.”
Thầy Samuel Sparks nói thầy rất vui khi biết Rembrandt đã có người để chuyện trò. Trước kia thầy không bao giờ biết chắc là con chuột đó có hạnh phúc hay không.


“Thầy nghĩ là nó không thích những cái này,” thầy Samuel nói.
Rồi thầy lôi hai viên sỏi ra khỏi túi và để cho chúng lóe sáng trong lòng bàn tay mình.
“Thú vật không thích phép thuật,” Gabriel nói.
Lập tức, con Hạt Đậu nhổm đứng lên đầu gối Charlie và tru lên một tràng dai.


“Mày đồng ý hả?” Gabriel nói, và tất cả mọi người cùng cười.
Đó là một cuộc hành trình dài, và bao nhiêu lần Charlie ngủ thiếp đi. Nó choàng tỉnh dậy mỗi khi Hạt Đậu liếm mặt nó hoặc thay đổi tư thế. Nhưng lần cuối cùng Charlie thức giấc, chiếc xe nảy một cái thật mạnh và dừng lại. Họ đến một ngã ba đường. Có hai cái tên ở trên cùng. Mũi tên bên trái đề: ĐÁ LẤP LÁNH và mũi tên bên phải đề: ĐƯỜNG YOR.
“Đường Yor?” Charlie nói gà gật. “Nghĩa là gì?”
“Là con đường dẫn tới Lâu đài Yewbeam,” Ông cậu Paton nói nghiêm trang.


Charlie cảm thấy cái gì đó sợ hãi, ớn lạnh chạy dọc theo sống lưng. Yorath đã nói gì với Ông cậu? “Nếu mày làm hại con gái yêu của ta thì mày phải trả giá bằng mạng sống của mày.” Và Ông cậu Paton đã làm hại mụ Yolanda. Vậy lão Yorath sẽ làm gì? Tốt hơn không nghĩ đến chuyện đó vội, Charlie quyết định.


Cô Ingledew đặt một bàn tay mình lên những ngón tay rắn chắc của Ông cậu Paton, và ông quay qua cô, mỉm cười.
“Đó là con đường chúng ta sẽ không tới,” Ông cậu nói.
Chiếc xe tròng trành tiến lên trước và đi theo mũi tên tới Đá Lấp Lánh. Con đường trở nên dốc và ngoằn ngoèo, nhưng họ chỉ phải đi thêm một chút, Ollie đã thét lên:
“Kia rồi! Chúng ta đã về nhà!”


Và đúng là nó, sừng sững ngay trên đồi dốc đứng trước mặt: lâu đài Lấp Lánh. Và nó sáng lấp lánh thật. Trong mỗi cửa sổ của ngôi nhà lạ kỳ, nhấp nhô đầy những tháp nhỏ ấy đều có một dãy đèn lóe sáng, nhấp nháy.


Một cậu bé bị mất tích đang về nhà, và người cha đã tìm lại được tài phát sáng đá của mình.



Hết tập III
 
Tập 4 - Lâu Đài Gương

Tác giả: Jenny Nimmo


Vua Đỏ cùng hoàng hậu đang cưỡi ngựa bên bờ biển. Ấy là thời điểm trong năm mà gió lại cuốn theo chút hơi sương. Những đám mây chiều bắt đầu hiện ra; và nơi nào mặt trời tìm được đường len qua màn sương dày, thì nơi ấy nó rắc xuống mặt biển những chùm tia sáng lấp lánh.


Vua và hoàng hậu thúc ngực quay về, nhưng bất thình lình, hoàng hậu bỗng ghìm cương lai, ngồi bất động trên yên ngựa, nhìn trân trân qua khắp mặt nước. Nhà vua, dõi theo ánh mắt bà, liền chú ý thấy một hòn đảo đẹp mê hồn. Nằm gọn trong vầng sáng mặt trời, nó rực lên hàng ngàn mảng biếc xanh da trời.
“Ôi” Hoàng hậu thở dài, với giọng sợ hãi.
“Chuyện gì vậy, ái khanh?” Nhà vua bèn hỏi.


Trong những vấn đề liên quan đến con cái, linh cảm của hoàng hậu thường sắc bén hơn trực cảm của nhà vua. Và khi trông thấy hòn đảo tỏa sáng hàng ngàn dải màu xanh da trời, bà cảm thấy như có một bàn tay băng giá bóp chặt lấy tim mình. "Các con”, giọng bà gần như một tiếng thì thầm.


Nhà vua hỏi vợ xem đứa nào trong chín đứa con của họ khiến bà lo lắng, nhưng hoàng hậu không trả lời được. Thế nhưng, khi họ trở về Lâu đài Đỏ và hoàng hậu trông thấy hai người con trai, Borlath và Amadis, bà liền cảm nhận ngay có điềm gở khủng khiếp. Bà nhìn thấy khói đen nổi lên từ hòn đảo xanh da trời kia, và lửa cháy biến đất đá thành tro bụi. Bà thấy một lâu đài thủy tinh sáng lóa hiện ra giữa một cơn bão tuyết; và khi nội nhãn của bào đảo khắp các bức tường thủy tinh của tòa lâu đài, bà trông thấy một thanh niên tóc trắng như tuyết đang leo lên khỏi một cái giếng. Anh ta nhắm chặt mắt cho khỏi thấy sự chết chóc đang vây bủa xung quanh mình.


“Chúng ta tuyệt đối không bao giờ được cho các con mình trông thấy hòn đảo ấy,” hoàng hậu nói với nhà vua. “Chúng ta tuyệt đối không được để cho chúng đặt chân lên mảnh đất xanh da trời bị ếm bùa ấy”.
Nhà vua hứa sẽ làm theo. Nhưng chưa đầy một năm sau, hoàng hậu qua đời, và nhà vua, chim đắm trong đau thương, đã rời bỏ lâu đài và các con của mình. Hoàng hậu mất chín ngày sau khi hạ sinh người con thứ mười của bà, một bé gái tên là Amoret. Một bé gái mà không ai có thể bảo vệ được.
Nằm ở ngoại vi thành phố, Học viện Bloor đứng sừng sững và im lìm dưới bầu trời sao. Ngày mai, ba trăm đứa trẻ sẽ leo lên những bậc thang giữa hai tòa tháp, băng qua mảnh sân gạch, và chen nhau đi qua cánh cửa đôi to lớn bằng gỗ sồi. Nhưng vào lúc này, tòa nhà cổ ấy đang hoang vắng tựa như sa mạc.


Nhưng cũng không hẳn thế, nếu quý vị đứng ở trong khu vườn, nơi đầu đằng kia của học viện, thì quý vị sẽ không thể không nhận thấy những đốm sáng lạ lùng, thỉnh thoảng lập lòe từ những cửa sổ nhỏ trên mái nhà. Và nấu quý vị có thể nhìn qua được một trong những cửa sổ ấy, hẳn quý vị sẽ trông thấy Ezekiel Bloor, một lão già khú khụ, đang thành thục đẩy chiếc xe lăn xa xưa của lão vào một căn phòng quái di.


Phòng thí nghiệm, như lão Ezekiel thích gọi như thế, là một căn phòng áp mái dài, với những miếng ván lót sàn rộng, bám đầy bụi, và một mái trần lòi hết cả rui(*) nhà. Những chiếc bàn đủ kiểu – chất đầy vỏ chai lọ, sách vở, thảo mộc, xương và vũ khí – dựng tựa vào các bức tường; trong khi ở dưới những gầm bàn, một đống ngăn kéo bẩn thỉu thòi ra, xốc xệch, đe dọa sẽ ngáng ngã bất cứ ai đi ngang.


Những nhánh cây thân thảo khô và phai màu thòng xuống từ rui nhà, và những mảnh áo giáp, treo lơ lửng trên những thanh xà ngang to bự, khua xủng xoảng thật ghê rợn mỗi khi có một làn gió quét qua. Lúc này, chúng đang kêu lên xủng xoảng khi lão Ezekiel Bloor di chuyển qua sàn nhà.


Thằng chắt đích tôn của lão già, Manfred, đang đứng bên cạnh một chiếc bộ ngựa kê ở ngay chính giữa căn phòng. Qua một kỳ hè, Manfred đã lớn bộn, và lão Ezekiel cảm thấy tự hào rằng thằng chắt của lão đã chọn làm việc chung với lão, chứ không học lên tiếp đại học như những cựu học sinh năm thứ sáu khác. Nên nhớ là, tuy cao đấy, nhưng Manfred lại có một bộ vó gày guộc, da vàng ệch, nổi đốm, và một gương mặt lồi hết cả xương và hóp họp.


Vào khoảnh khắc này, mặt Manfred nhăn xoắn lại, tập trung cao độ khi hắn bày một đống xương ra bàn, ngay trước mặt. Phía trên đầu hắn, treo đung đưa bảy ngọn đèn khí được gá vô một vòng sắt, ánh sáng xanh lét của chúng phụt ra tiếng rù rù yếu ớt. Khi trông thấy ông cố, Manfred buông một tiếng thở dài tức tối và rồ lên, “Quá sức tôi rồi. Tôi ghét mấy trò đố mẹo”.
“Đó không phải là đố mẹo,” lão Ezekiel quặc lại. “Mà là xương của Hamaran, một con ngựa chiến có sức mạnh và lòng can đảm phi thường.
“Thế thì sao? Làm soa mà dăm ba cục xương vô tích sự này có thể làm sống lại tổ tiên của ông cố chớ?” Manfred phóng thẳng một tia nhìn khinh miệt vào lão Ezekiel, lão già vội cụp mắt xuống ngay lập tức. Lão không muốn bị chính thằng chắt của mình thôi miên.


Dán chặt mắt vô đống xương, lão già đẩy xe lăn đến gần bàn hơn. Lão Ezekiel Bloor đã một trăm lẻ một tuổi, nhưng những người khác ở vào độ tuổi ấy có lẽ trông vẫn còn d.a thịt hơn lão nhiều. Đằng này, mặt của lão Ezekiel chỉ khá hơn cái đầu lâu một chút. Mớ răng còn sót lại của lão đều mẻ sứt và đen xỉn cả, và một vài nhúm tóc trắng, thưa rinh ló ra dưới chiếc mũ trùm đầu bằng vải nhung đen. Tuy nhiên, đôi mắt lão vẫn phừng phực sức sống – đen và trợn quắc lên, phóng ra những tia dữ tợn cực độ.


“Chúng ta có đủ rồi,” lão già vừa nói vừa chỉ những món đồ khác trên bàn: bộ áo giáp có xích sắt, chiếc mũ giáp, cái áo chùng lông thú màu đen, và chiếc ghim kẹp áo thụng bằng vàng. “Chúng là của ngài Borlath đấy. Ông nội của ta đã tìm thấy chúng trong lâu đài này, tất cả được bọc bằng da, bên trong ngôi mộ. Khung xương không còn nữa, thật đáng tiếc. Chắc chắn là tại lũ chuột,” lão ta vuốt vuốt chiếc áo lông thú đen với vẻ gần như là âu yếm.


Borlath là thần tượng của lão Ezekiel ngay từ khi lão còn là một cậu bé. Những câu chuyện về bậc tổ tiên hiếu chiến ấy đã dần hun đúc trí tưởng tượng của lão, cho đến mức lão tin rằng ngài Borlath có thể giải quyết được tất cả mọi vấn đề cho mình. Dạo gần đây, lão hay mơ thấy ngài Borlath xốc lão ra khỏi xe lăn và cả hai cùng nhau khủng bố thành phố. Rồi đây Charlie Bone và Ông cậu đáng ghét của nó phải coi chừng.


“Thế còn nguồn điện, ông cố biết đấy, cho lúc sống lại thì tính sao đây? Ở đây chẳng có tí điện nào,” Manfred ngước nhìn lên mớ đèn khí.
“Ô, cái đó !” Ezekiel phẩy tay ra điều không có gì quan trọng. Lão tự xoay bánh xe tới một chiếc bàn khác và lấy một hộp thiếc nhỏ có hai cái ngạnh chĩa từ nắp chĩa ra. Lão vặn cái núm ở bên hông hộp và một tia lửa xanh da trời xẹt ra giữa hai cái ngạnh.


“Ối chà! Điện!” Lão sung sướng thông báo. “Nào, tiếp tục đi. Ngài mai tụi nhóc sẽ trở lại đây, và chúng ta không muốn bất kỳ đứa nào xộc vô cuộc thí nghiệm nho nhỏ này của chúng ta đâu.”
“Đặc biệt là thằng Charlie Bone,” Manfred gầm gừ.
“Hừ! Charlie Bone!” Lão Ezekiel thiếu điều là khạc ra cái tên đó. “Bà nội nó nói nó sẽ là đứa có ích, nhưng ngược lại thì có. Ta tưởng ta sắp dụ được nó về phe mình hồi học kỳ vừa qua rồi chứ, vậy mà rồi nó lại nhai nhải về thằng cha biệt dạng của nó và đổ lỗi cho ta.”
“Nó nói cũng đâu có sai,” Manfred nói, gần như chỉ với riêng mình.
“Nghĩ coi bọn ta có thể làm gì với tài phép của nó,” lão Ezekiel tiếp tục. “Nó ngó vô một bức tranh và đùng một cái, nó đã ở trong đó, nói chuyện với người chết tứ tám hoánh. Đừng hòng mà tao cho phép… ” Lão Ezekiel lắc đầu. “Nó mang dòng máu của gã phù thủy xứ Gan cô hồn thất đảng đó. Và cây gậy phép nữa.”
“Tôi có kế hoạch cho vụ đó rồi,” Manfred nói khẽ. “Chẳng bao lâu nữa nó sẽ thuộc về tôi cho coi, ông cố cứ chờ xem.”
“Thật hả?” Lão Ezekiel cười khùng khục. Lão bắt đầu lăn xe đi trong khi thằng chắt tập trung vô công việc gắn xương tỉ mi.


Khi lão Ezekiel dịch tới mảng tối mù ở cuối căn phòng, ý nghĩ của lão bổng chuyển sang Billy Raven, thằng bé mồ côi tóc trắng, bị lợi dụng làm gián điệp theo gõi Charlie Bone. Billy gần đây đã trở nên nổi loạn, bất trị. Nó không chịu hé cho lão Ezekiel biết Charlie và lũ bạn đang mưu tính gì. Hậu quả, lão Ezekiel và gia đình Bloor có nguy cơ không kiểm soát được những đứa trẻ có phép thuật trong trường. Cần phải làm điều gì đó ngay.
“Ba mẹ,” lão Ezekiel bật nói một mình. “Cần phải làm sao cho Billy được nhận làm con nuôi. Ta đã hứa tìm ba mẹ cho thằng nhóc mồ côi đó mà chưa bao giờ thực hiện. Nó đã từ bỏ ta. Hừ, Billy sẽ có ba mẹ tử tế, tốt bụng.”
“Đừng quá tử tế,” Manfred nói, nãy giờ hắn đang nghe lõm.
“Sợ gì. Ta biết một cặp rồi. Ta không hiểu tại sao trước đây lại không nghĩ đến chúng nhỉ,” lão Ezekiel quay đầu lại, ngóng đợi. “A, bọn này sắp có tiếp viện kìa.”


Có tiếng những bước chân lộp cộp từ xa; vài giây sau, cửa mở và ba phụ nữ ùa vô phòng. Người đầu tiên già nhất. Mái tóc xám xịt của bà ta được búi chót vót trên đỉnh đầu như một củ hành khổng lồ, quần áo của bà ta đen và mắt ba ta cũng đen như thế. Bà Lucretia Yewbeam là giám thị trong trường và là bà cô của Charlie Bone. “Tôi đem mấy bà em của tôi tới đây,” bà ta nói với lão Ezekiel. “Ngài nói là ngài cần sự trợ giúp.”
“Thế người thứ tư đâu?” Lão Ezekiel hỏi. “Bà Grizelda đâu?”
“Lúc này nên để bà ấy tránh xa mọi chuyện là tốt nhất,” bà Eustacia, người em thứ hai nói. “Nói cho cùng, bà ấy phải sống với thằng em thổ tả của chúng tôi… và thằng oắt đó. Bà ấy có thể vô tình… làm lộ bí mật, tất nhiên rồi.”


Bà Eustacia, một nhà tiên tri, bước lại gần cái bàn. Mái tóc xám của bà ta vẫn còn vài sợi đen, nhưng phần lớn các đặc điểm còn lại thì bà ta giống hệt bà chị kế của mình. Đôi mắt hí rị của bà ta lia khắp các đồ vật trên bàn và bà ta nhếch một nụ cười gian xảo. “Ra là lão đang mưu tính với đống này, đồ quỷ già. Người ấy là ai vậy?”


“Tổ tiên của ta, ngài Borlath,” lão Ezekiel đáp. “Người vĩ đại nhất trong tất cả những người con của Vua Đỏ. Oai phong nhất, mạnh mẽ nhất và thông thái nhất.”
“Ghê tởm nhất và khát máu nhất thì chính xác hơn,” bà em thứ ba vừa nói vừa dộng một cái túi da to xụ lên bàn. Mái tóc bết bệt của bà ta xõa xuống vai thành từng dải màu nhọ nồi và những quầng thâm viền quanh đôi mắt đen như than. So với mấy bà chị thì bà ta trông thật luộm thuộm. Áo khoác ta quá khổ, và áo cánh xam xám bên trong trông cấp thiết phải được giặt ngay. Chắc chắn không ai đoán được cái sinhv ật ăn mặc lôi thôi lếch thếch này đã từng là một quý bà kiêu hãnh và chưng diện không chê vào đâu được.
“Venetia lâu nay vẫn mong chờ có cái gì đó như thế này,” bà Eustacia nói. “Từ khi thằng Charlie Bone chết tiệt đó thiêu trụi nhà cô ấy.”
“Tôi tưởng em trai của bà làm điều đó chứ,” Manfred chen vô.
“Phải,” bà Venetia rít lên, “nhưng Charlie phải chịu trách nhiệm, đồ sâu bọ nhãi nhép. Ta muốn nó phải tiêu tùng. Ta muốn nó phải ú ớ vì sợ hãi, phải bị dằn vặt, khổ sở… và chết.”
"Bình tĩnh, Venetia,” lão Ezekiel lăn lẹ đến cạnh bà ta. “Bọn ta không muốn mất hẳn thằng bé mà…”
“Chi vậy? Nó thì được cái tích sự gì? Ông có tưởng tượng được việc mất tất cả là gì không? Có biết đứng ngó cơ nghiệp của ông – thành quả của đời ông – tan thành mây khói thì thế nào không?”
Lão Ezekiel vụt mạnh cây ba toong của lão vô bàn.
“Đừng xúc động thế, bà kia. Thằng Charlie này có thể xài được. Tôi có thể ép nó phải đem tôi về lại quá khứ. Tôi có thể thay đổi lịch sử. Nghĩ coi!”
“Ông không thể thay đổi lịch sử, ông cố à,” Manfred nói huỵch toẹt.
“Sao mày biết?” Lão Ezekiel sủa. “Chưa ai thử cả”.


Kéo theo sau là một sự im lặng ngột ngạt. Không ai dám xa gần nói rằng việc đó đã có người thử biết bao lần rồi, mà không thành công. Bà cô Venetia cắn môi, vẫn nung nấu chuyện trả thù. Bà ta có thể chờ, nhưng một ngày nào đó bà sẽ tìm ra cách trừ khử Charlie Bone – trừ khử vĩnh viễn.


Bà Lucretia phá tan sự im lặng bằng câu hỏi:
“Tại sao lại là ngựa?”
“Vì ta có xương,” lão Ezekiel dấm dẳn. “Con ngựa này, ngựa Hamaran,” lão hất đầu về phía đống xương, “theo sử sách truyền lại, là một sinh vật oai phong lẫm liệt. Và kỵ sĩ cưỡi trên mình nó cũng phải rất uy mãnh, mấy người không đồng ý sao?”
Những người kia lầm rầm một tiếng tán thành.
“Thằng nhóc đó sẽ sợ chết khiếp,” lão Ezekiel hớn hở tiếp. “Nó sẽ làm bất cứ điều gì bọn ta yêu cầu.”
“Và lão định sẽ điều khiển sinh vật quái đản ấy như thế nào?” Bà Venetia nói.


Lão Ezekiel vốn ky vọng đừng ai hỏi lão điều ấy, bởi vì lão chưa có câu trả lời thỏa đáng.
“Ngài là tổ tiên của ta,” lão nói với một nụ cười tự tin. “Hà cớ gì ngài lại không giúp ta? Nhưng trước hết, bọn ta hãy đánh thức nó dậy, vì phi, như nó từng phi trước đây. Ha! Ha!”


Trong lúc bà Lucretia ngồi trên một chiếc ghế bành bị mối ăn, thì hia bà em dỡ đồ trong chiếc túi da ra. Những lọ chất lỏng bắt đầu xuất hiện trên bàn; rồi những muỗn bạc, và túi thảo mộc, những mảnh thạch anh nhỏ xíu, óng ánh, một cái chày và một cái cối bằng đá đen và năm cây nến. Lão Ezekiel dòm quy trình diễn ra bằng đôi mắt hau háu.


Một tiếng đồng hồ sau, phần xương chân của một con ngựa đang phi nước đại được xếp trên bàn. Bộ áo giáp được chà bóng loáng bằng một thứ chất lỏng bốc mùi tanh hôi và chiếc áo choàng lông hú đã được kết đầy những hạt huyền nhỏ xíu.


Năm cây nến hắt những chiếc bóng nhảy múa lên tường. Một cây đặt phía trên chiếc mũ giáp, hai cây ở hai bên cổ tay cái áo giáp, hai cây cuối cùng đặt vô chỗ móng guốc hai chân trước bị khuyết của con ngựa.


Bà Venetia mê mẩn với công việc, quên cả bản thân. Thật là hay, bà ta một lần nữa lại được nhúng mũi vào một công việc có tính phá hoại. Lúc bà ta vuốt nhẹ cái áo lông đen, những tia lửa nhỏ xíu kêu lép bép ở các đầu ngón tay bà.
“Sẵn sàng rồi chứ?” Bà ta hỏi.
“Chưa đâu,” nhá một nụ cười xảo quyệt, lão Ezekiel thò tay xuống dưới đống mền bùng nhùng trên đùi lão và rút ra một cái tráp nhỏ bằng vàng. Ở chính giữa cái nắp nạm đá quý, một chùm đá hồng ngọc xếp thành hình trái tim, chiếu rực căn phòng tối lờ mờ bằng thứ ánh sáng lóa mắt.
“Trái tim,” lão Ezekiel nói, giọng ùng ục sâu trong họng. “Asa, thằng quái thú, đã tìm thấy nó trong tòa lâu đài đổ nát. Nó ra đó đào xới, theo thói quen xấu xa của nó, và tìm thấy một bia mộ có khắc chữ B. Nó đào thêm nữa và tìm thấy cái này,” lão ta vỗ nhẹ cái tráp, “bị chôn sâu dưới bia mộ.”


Từ cái ghế của mình trong bóng tối, bà Lucretia hỏi:
“Tại sao? Tại sao?” Lão Ezekiel buột ra một tràng ho vật vã nơi cuống phổi. “Để giữ bí mật, chắc vậy. Nhưng đó là tim của ngài . Ta biết chắc. Ngài Borlath là người con duy nhất của nhà vua có tên bắt đầu bằng chữ B.”


Lão mở cái tráp ra.
“Aaaah!” Bà cô Eustacia nhảy xa khỏi bàn, vì bên trong tráp là một túi da nhỏ hình trái tim mà, quả thật, hình như có đựng… một thứ gì đó.
“Thấy chưa? Một trái tim,” lão Ezekiel đắc thắng nói. “Giờ, bọn ta hãy tiếp tục nào!”


Xúc cái túi da ra khỏi tráp, lão đặt nó lên bộ giáp, chệch tâm trái một chút, nơi lão phán quyết là trái tim hẳn phải nằm ở đó. Rồi lão gỡ một sợi dây điện từ chiếc hộp điện của lão ra và quấn đầu dây một vòng, hai vòng, ba vòng, quanh cái túi da.


Một bầu không khí thinh lặng, thấp thỏm chờ đợi đổ ụp xuống căn phòng khi lão già bắt đầu xoay cái núm của chiếc hộp bạc. Càng lúc càng nhanh dần. Bàn tay cong queo của biến thành một vật mờ mờ, bay bay, đôi mắt đen của lão rực cháy lên đầy kích động. Một tia lửa nhá lên giữa hai cái ngạnh thép và chuyền qua sợi dây tới trái tim của Borlath. Lão Ezekiel phát ra một tiếng gừ chiến thắng và bàn tay lão bất động.


Ba chị em chỉ chực biểu lộ ngay niềm hân hoan, nhưng họ biết im lặng là cần thiết trong khoảnh khắc như thế này. Những khúc xương của ngựa Hamaren bắt đầu chuyển động.


Lão Ezekiel và chị em nhà tb đang chăm chú nhìn vào bàn đến độ không để ý Manfred rút ra một chiếc khăn tay và ấn chặt vào mũi. Mặt nó chuyển thành đỏ rần khi nó đấu tranh để cố kìm một cái hắt hơi.
“HẮT XÌ!”


Lão Ezekiel bật nảy người như thể bị đấm một đấm. Lão bịt chặt hai tai và ré lên “Không,” khi Manfred cố kìm một cái hắt hơi khác. Mấy chị em nhà Yewbeam kinh hãi nhìn gã trai trẻ nhăn xoắn mặt lại, và…
“HẮT XÌ!”


Đống xương ngừng chuyển động. Hơi nước màu đen, gớm ghiếc bốc lên từ chiếc áo lông thú và bộ áo giáp oằn oại bên dưới cái túi da đang cháy âm ỉ.
“HẮT XÌ!”


Một tiếng nổ như sấm và một màn khói nồng nặc mùi tỏa khắp căn phòng. Trong lúc những kẻ chứng kiến nghẹt cả thở và líu cả lưỡi, thì một hình thù khổng lồ nâng lên khỏi bàn và biến mất vào đám khói đen cuồn cuộn. Trốn dưới gầm một chiếc bàn ở cuối phòng, một con chó mập thù lù, lùn tịt nhắm mắt lại và run lẩy bẩy.


Một tiếng nổ dữ dội thứ hai làm rung chuyển toàn bộ căn phòng, và bà cô Lucretia thét lên:
“Gì vậy?”
“Cái thằng ngu chết dẫm đó hắc xì,” lão Ezekiel rít chìn chịt.
“Xin lỗi, xin lỗi. Không thể nén được,” Manfred rên rỉ. “Bụi quá.”
"Bụi, bụi cái gì,” bà cô Venetia mắng nhiếc. “Đáng ra cậu phải vứt cái mũi đáng nguyền rủa của cậu ở ngoài chớ. Hư hết việc rồi. Thiệt uổng công.”
“Có lẽ không uổng đâu,” bà Eustacia cắt ngang. “Nhỉn cái bàn kìa. Xương biến hết rồi.”


Đám khói đang tan đi nhanh chóng do một luồng khí lạnh thình lình thổi qua, và tất cả bọn họ đều thấy rằng xương của ngựa Hamaran, quả thật, đã biến mất. Nhưng áo giáp, mũ sắt, áo chùng và chiếc kim kẹp bằng vàng của Borlath vẵn nằm nguyên chỗ cũ, trông thảm hại hơn vì thứ bùa mà chúng vừa phải chịu.
“Khốn kiếp!” Lão Ezekiel gầm gào. Lão dộng nắm đấm xuống bàn và đống trang phục bị cháy sém kia rung lên. “Không được gì rồi.”
“Nhưng tôi lại được việc đấy,” Manfred nói. “Con ngựa ra ngoài rồi kìa.” Hắn chỉ vào một cái lỗ toang hoác ở trên tường.
“Chó thật!” Lão Ezekiel rít lên. “Phòng thí nghiệm của tao bị lùng, còn con ngựa chiến thì sổng ra ngoài.”
“Con ngựa chiến với trái tim của bạo chúa,” bà Venetia nói. “Coi, nó biến rồi!”


Chỗ trái tim nằm hồi nãy, giờ chỉ còn lại một cái lỗ cháy đen trong bộ áo giáp đang âm ỉ.
“Vậy nghĩa là sao?” Manfred hỏi, giọng nghẹn lại.
Lão Ezekiel xoa cái mũi dài của lão.
“Nghĩa là không phải tất cả đã mất. Nhưng ta sẽ cần sự giúp đỡ. Ta nghĩ ta sẽ phải cần đến một người bạn của ta, một người có món nợ cần giải quyết.”
Tất cả mọi người nhìn lão, chờ nghe một cái tên, nhưng lão già chưa săn sàng làm thỏa lòng cả đám.
“Ngựa chiến có thể rất có ích,” bà Venetia nói, đầy ưu từ, “Miễn là có người cưỡi được nó.”


Tất cả đều nhìn chằm chặp vào khoảng không do đống xương để lại, như thể bắt nó phải lên tiếng, và rồi Manfred nói:
“Billy Raven giỏi nói chuyện với thú vật.”


Trong phòng ngủ chung dài hút, bên dưới gác mái của lão Ezekiel ba tầng, Billy Raven choàng tỉnh giấc, đột nhiên thấy sợ hãi. Nó quay mặt ra cửa sổ, định tìm mặt trăng hầu tự trấn an mình, thì thấy một con ngựa trắng bay lướt qua những đám mây rách nát – và biến mất.

Chú thích:

*Rui nhà: thanh tre hay gỗ, đạt theo chiều dốc của mái nhà để đỡ thanh mè, theo Từ Điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng 2000.
 
Vào ngày đầu tiên của học kỳ mùa thu, Charlie Bone phóng ào xuống ăn sáng với một chiếc lược thòi ra từ đám tóc.
“Mày nghĩ mày giống cái gì hả?” Từ chỗ ngồi của mình kế lò sưởi, nội Bone nói vọng ra.
“Chắc giống khủng long ạ?” Charlie gợi ý. “Con đã kéo, kéo mãi rồi mà cái lược không chịu ra.”
“Tóc thì như hàng rào,” bà nội xương xẩu của nó càu nhàu. “Chỉnh tề lên coi, cái thằng. Ở Học viện Bloor người ta không ưa thứ bê bối đâu.”
“Lại đây, cún cưng,” một người bà khác của Charlie, hiền hậu hơn, đặt tách trà xuống và giật mạnh cái lược ra. Cái lược bứt ra cùng với một túm tóc của Charlie.
“Ngoại Maisie! Ui da!” Charlie thét lên.
“Xin lỗi, cún cưng,” ngoại Maisie nói. “Nhưng phải làm thế thôi.”
“Dạ,” Charlie xoa xoa cái đầu đau của mình. Nó ngồi xuống bên bàn bếp và tự trúy ra cho mình một tô cốm bắp.
“Trễ rồi. Mày lỡ xe buýt trường cho coi,” nội Bone làu bàu. “Giáo sư Bloor là người cực khắt khe về vụ đúng giờ.”
Charlie ấn muỗng cốp bắp vô miệng, nói, “Vậy thì sao ạ?”
“Đầy một miệng như thế thì đừng có nói,” nội Bone rầy.
“Cứ mặc nó, Grizelda,” ngoại Maisie nói. “Nó cần phải được ăn sáng ngon lành. Chắc chắn nó sẽ không có được một bữa nào ra hồn trong năm ngày tới.”


Nội Bone khịt mũi và đớp phập vô trái chuối. Đã ba tháng nay bà chưa hề cười; kể từ khi căn nhà của bà em Venetia của bà bị cháy rụi.
Charlie uống gấp ca trà, lẹ làng tròng cái áo khoác và phóng ù lên lầu để vơ mấy cái túi đi học của nó.
“Áo chùng!” Nó tự nói một mình, nhớ ra áo vẫn còn treo trong tủ. Nó kéo cái áo ra và một tấm hình nhỏ bay xuống sàn nhà.
“Benjamin,” nó mỉm cười nhặt tấm hình lên. “Bồ đang ở đâu?”
Trong hình là một cậu bé tóc vàng nhạt đang quỳ bên cạnh một con chó vàng thiệt bự. Chính Charlie đã chụp tấm hình này, ngay trước sinh nhật thứ mười của Benjamin. Lúc này Charlie dùng tài phép để đi vô tấm hình hoàn toàn không phải để thăm thú cảnh trí ở đó. Cảnh trí cũng chẳng nói lên được điều gì cả.


Những lúc nôn nóng sử dụng tài phép lạ lùng của mình, Charlie thường quên khuấy rằng những người mà nó thăm đấy cũng có thể trông thấy nó. Cho dù họ đang ở nơi nào, khi Charlie nhìn vào tấm hình chụp họ, họ cũng có thể thấy gương mặt nó trôi lềnh bềnh ở đâu đó gần đấy. Chính vì vậy mà Benjamin, đang uống nước ở Hồng Kông, đã nhìn thấy gương mặt mỉm cười của Charlie trong ly nước cam của mình.


Benjamin đón nhận những cú xuất hiện ma thuật của Charlie một cách dễ dàng, nhưng Hạt Đậu, con chó của Benjamin, xem ra không bao giờ có thể quen được với những cú xuất hiện ấy.


Con chó bự đang tính xơi bữa sáng trong quán quán Cà Phê Thú Kiểng, thì khuôn mặt Charlie bỗng ngó lên từ tô Chappimix.


Hạt Đậu hoảng hốt nhảy vọt lên, tru dài một tiếng; vụ việc khiến một con rắn xanh, xanh da trời trườn vội xuống dưới tủ đựng chén dĩa, và một phụ nữ rất cao tên là Onoria Onimous đánh rớt mẻ bánh mới nướng. Nhưng ba con mèo rực rỡ nằm trên nóc tủ lạnh thì chỉ ngáp và nhắm mắt lại.


Charlie đút tấm hình vào túi quần, nhét chiếc áo chùng xanh da trời vào giỏ, rồi chạy xuống lầu.
“Đừng quên…” ngoại Maisie la lớn, nhưng Charlie đã nhào ra khỏi cửa trước và chạy tới đầu đường Filbert.


Chiếc xe buýt đưa đón học sinh màu xanh da trời sắp khởi hành thì cửa xe thình lình bật mở, và một cậu bé có chỏm tóc quăn màu hạt dẻ thò đầu ra ngoài. “Anh thấy em chạy tới,” cậu bé nói. “Bác tài nói không thể đợi được nhưng anh bắt bác ấy phải đợi.”
“Cảm ơn anh Fido,” Charlie đưa một trong mấy cái túi xách của nó cho anh bạn Fidelio, và leo lên những bậc xe buýt.
“Có mang áo chùng không?” Fidelio hỏi.
Charlie lôi tấm áo nhàu nhĩ ra khỏi giỏ.
“Em ghét mặc áo lúc đi bộ ngoài đường Filbert lắm. Bị mọi người cười. Có một thằng ở nhà số 20 cứ gào lên: ‘Nó kìa, Thàng Xanh Da Trời kìa, tới Học viện Bloor, giống con két mào bảnh chọe!’ Nhưng em đâu có xin ai cho đến Học viện Bloor, đúng không?”
“Em không phải là con két mào bảnh chọe,” Fidelio bật cười. “Anh cá là sáng nay em lại quên chải đầu.”
“Em chải rồi.”


Xe buýt dừng lại và hai đứa nhập vào đám đông đang nhảy xuống quảng trường rải sỏi. Chúng đi ngang một vòi phun nước hình đàn thiên nga bằng đá và tiến đến những bậc cấp dẫn vào Học viện Bloor.


Khi Charlie bước chân dưới bóng râm của tháp nhạc, nó thấy mình chợt ngước lên nhìn đỉnh chóp dốc đứng của tòa tháp. Điều này vốn đã trở thành thói quen và nó tuyệt nhiên không biết tại sao mình lại làm vậy. Có lần, mẹ nó bảo với nó, là cô cảm thấy ai đó đang nhìn mình từ ô cửa sổ nhỏ dưới mái hiên nhô ra… Charlie bất giác rùng mình và theo Fidelio băng qua cổng vòm rộng.


Chìm giữa đám con nít áo chúng xanh da trời, tím và xanh lá cây, Charlie nhóng tìm Emma Tolly và Olivia Vertigo. Nó trông thấy Emma mặc áo chùng xanh lá cây, mái tóc dài vàng óng thắt thành hai bím gọn gàng, nhưng nó thoáng ngỡ ngàng về đứa con gái đi cạnh Emma. Nó rành gương mặt ấy nhưng… phải đó là Olivia không? Cô nàng mặc áo chùng tím, như mọi đứa khác của khoa Kịch, nhưng mặt Olivia thường ngày vốn hay tô vẽ, và tóc tai luôn luôn nhuộm màu sặc sỡ. Còn cô bé này lại có vẻ ngoài láng lẩy: má hồng, mắt xám và tóc nâu cắt ngắn.


“Đừng nhìn chằm chằm vậy chớ, Charlie,” con bé tóc nâu vừa nói vừa bước đến chỗ Charlie.
“Olivia hả?” Charlie thốt lên. “Chuyện gì vậy?”
“Tớ sắp thử vai cho một bộ phim,” Olivia nói với nó. “Trông phải nhỏ hơn tớ.”


Chúng leo lên một dãy bậc thang đá nữa, và rồi bước qua cánh cửa đôi khổng lồ chạm trổ những hình thù bằng đồng. Ngay khi tất cả bọn trẻ đã vào trong trót lọt, thì Wendy, gã gác cổng và lo việc lặt vặt, liền đóng ập cổng và khóa lại. Cổng sẽ khóa chặt như vậy cho đến tân chiều thứ Sáu, khi lũ trẻ được phép về nhà nghỉ cuối tuần.
Charlie bước vô tiền sảnh rộng mênh mông, lát đá phiến của Học viện Bloor. “Phim gì vậy?” Nó hỏi Olivia.
“Sssh!” Có tiếng suỵt đâu đó bên tai Charlie.
Charlie ngước lên, thấy một đôi mắt đen như than đá và giật bắn cả người. Nó tưởng Manfred Bloor đã ra trường rồi chứ.
“Anh hy vọng mày chưa quên luật, Charlie Bone!” Manfred gừ.
“Kh… Không, anh Manfred,” Charlie coi bộ không quả quyết lắm.
“Vậy thì…” Manfred bật ngón tay một cái tách và ngó Charlie trừng trừng, còn Charlie thì đang ngó xuống bàn chân mình. Mới sáng sớm thế này, nó không hề muốn phải chống trả lại tia thôi miên của Manfred chút nào.
“Coi, luật như thế nào hả?” Manfred tra hỏi.
“Ờm…


Im lặng trong hành lang
Không được nói lan man
Không được khóc hay la
Ngay cả khi bị ngã.


“Ờm…” Charlie không thể nhớ ra câu cuối cùng.
“Viết câu đó ra một trăm lần và mang đến văn phòng của anh sau giờ uống trà!” Manfred nhe răng cười nham hiểm.
Charlie không biết là Manfred có văn phòng riêng, nhưng nó không định kéo dài cuộc đối đáp.
“Thưa vâng, anh Manfred,” nó làu bàu.
“Mày phải tự biết xấu hổ về bản thân mày. Bây giờ mày lên năm thứ hai rồi. Chẳng nêu gương tốt cho học sinh năm nhất gì cả, đúng không, Charlie Bone?”
“Dạ,” Charlie bất chợt nhìn thấy Olivia, đang tròn mắt dòm nó, và nó cố nén để đừng phì cười. Hên là Manfred vừa phát hiện ra có đứa nào đó không mặc áo chùng và đã tất tưởi vọt đi.


Olivia đã biến mất vào biển áo chùng tím. Đám chủ nhân của những chiếc áo đó đang chen lấn nhau đi qua cánh cửa bên dưới hai chiếc mặt nạ bằng đồng. Bên trong cánh cửa đang mở ấy, Charlie loáng thấy một đám nhốn nháo đủ màu, đang đông dần lên trong phòng để áo chùng tím. Nó vội vã đi tiếp đến tấm biển có hai cây kèn trumpet bắt chéo nhau.


Fidelio đang chờ nó ngay cửa, bên trong phòng để áo khoác xanh da trời. “Chu cha! Thiệt động trời!” Fidelio thở hì hụi. “Anh tưởng Manfred rời trường rồi chứ.”
“Em cũng tưởng thế,” Charlie nói. “Được vậy thì quay lại Học viện Bloor là ngon rồi. Tưởng đâu ít ra cũng thoát được Manfred ở đây chớ.”
Vậy vai trò mới của Manfred là gì? Liệu hắn có vĩnh viễn bám đuôi, theo dõi, nghe ngóng và thôi miên bọn nhóc không?
Hai đứa bàn tán về vấn đề Manfred trên đường đến Hội trường. Vào ngày đầu tiên của mỗi năm học, buổi tập trung đầu năm được tổ chức trong nhà hát, không gian duy nhất đủ rộng cho toàn thể ba trăm học sinh. Mãi đến giữa học kỳ mùa thu vừa qua, Charlie mới nhập học ở Học viện Bloor; cho nên đây là một trải nghiệm mới mẻ đối với nó.
“Thôi chết! Anh phải lẹ lên mới được,” Fidelio nói, nhìn đồng hồ đeo tay. “Đáng lẽ giờ này anh phải chơi nhạc rồi.”
Giáo sư Saltweather, trưởng khoa Nhạc, gật đầu một cách nghiêm khắc với Fidelio khi nó leo lên sân khấu và ngồi vào chỗ trong dàn nhạc giao hưởng. Charlie chui vào cuối hàng ghế thứ hai và nhận ra mình đang đứng ngay sau lưng Billy Raven. Thằng nhóc bạch tạng quay lại với cái nhăn mày lo lắng.
“Em phải ở lại năm thứ nhất thêm mười hai tháng nữa,” nó thì thầm với Charlie, “nhưng em đã phải ở lại hai lần rồi.”
“Xui vậy! Nhưng em mới có tám tuổi mà.”
Charlie quét một lượt hàng học trò mới trước mặt. Tất cả bọn chúng trông đều khá bình thường, nhưng ai mà biết chắc được. Một số trong bọn chúng có thể cũng được ban phép thuật giống như nó và Billy – những hậu duệ của Vua Đỏ.
Suốt thời gian còn lại của buổi sáng, Charlie loay hoay đi khắp tòa nhà rộng lớn đầy gió lùa để kiếm phòng học mới của nó, lấy sách vở và tìm thấy Paltry (người được phân công dạy kèm trumpet cho nó.)
Đến khi tiếng tù và đi săn rúc lên báo hiệu giờ ăn trưa thì Charlie đã hoàn toàn kiệt sức. Nó khật khừ đi xuống khu căn-tin, cố lái mắt khỏi những bức chân dung treo trong hành lang sáng lờ mờ - đề phòng một người trong số họ muốn nói chuyện – và đến căn tin xanh da trời.
Charlie bước vào hàng, đợi lấy phần ăn. Một phụ nữ thấp người, hơi đẫy đà sau quầy thức ăn nháy mắt với nó.
“Mọi việc tốt cả chứ, Charlie?” Bà hỏi.
“Dạ, cảm ơn bà bếp trưởng,” Charlie đáp. “Nhưng chắc phải một thời gian con mới quen được với năm thứ hai.”
“Tất nhiên,” bà bếp trưởng nói. “Nhưng con biết la ở đây rồi đấy, nếu con cần đến ta. Ăn đậu nhé, Charlie?”
Charlie nhận lấy một dĩa mì macaroni phó mát với đâu và thơ thẩn dạo quanhc ác bàn ăn cho đến khi nó tìm thấy Fidelio, đang ngồi với Billy Raven và Gabriel Silk. Mái tóc nâu rũ rượi của Gabriel che gần hết khuôn mặt, và miệng nó hơi bễu ra, có vẻ buồn ủ ê.
“Vụ gì vậy, anh Gabe?” Charlie hỏi. “Lũ chuột kiểng của anh vẫn ngon chớ?”
Gabriel rầu rĩ ngước lên:
“Học kỳ này tôi không học piano được nữa rồi. Thầy Pilgrim đi rồi.”
“Đi rồi?” Charlie tự dưng hốt hoảng. “Sao? Đi đâu?”
Gabriel nhún vai.
“Tôi biết thầy Pilgrim lập dị, nhưng, ừm, thầy thiệt… tài giỏi.”
Hẳn là không ai phủ nhận điều này. Ai cũng từng nghe tiếng đàn dương cầm của thầy vọng xuống từ Tháp Nhạc. Charlie chợt nhận ra là nó sẽ nhớ tiếng đàn ấy lắm. Và nó sẽ nhớ những khi thầy Pilgrim nhìn đăm đăm vào khoảng không, mái tóc đen của thấy luôn rủ xuống mắt.
Fidelio quay sang Billy.
“Vậy kỳ nghỉ của em thế nào, Billy?” Nó thận trọng hỏi. Bởi lẽ làm thế nào mà không phát điên lên được khi phải trải qua cả kỳ nghỉ trong Học viện Bloor cơ chứ?
“Tốt hơn mọi khi,” Billy vui vẻ nói. “Bà bếp trưởng chăm sóc con Rembrandt đúng như đã hứa, và em gặp nó hàng ngày. Và anh Manfred đi vắng một thời gian nên ở đây khá yên ổn, thiệt vậy, chỉ trừ… chỉ trừ…”
Một mảng tối thoáng hiện trên mặt Billy…
“Có chuyện xảy ra hồi tối qua. Một chuyện thiệt quái lạ.”
“Chuyện gì?” Cả ba đứa kia cùng hỏi.
“Em trông thấy một con ngựa trên trời.”
“Ngựa?” Fidelio nhướn cặp chân mày. “Ý em là một đám mây trông giống hình con ngựa?”
“Không. Một con ngựa đàng hoàng.” Billy gỡ mắt kiếng ra và chùi vô tay áo. Đôi mắt đỏ đậm của nó dán chặt vào Charlie. “Kiêu như nó lơ lửng trên trời, bên ngoài cửa sổ, và sau đó tan đi.”
“Mấy ngôi sao cũng làm vậy được mà,” Gabriel nói, giờ đã tươi tỉnh hơn một chút. “Chúng có thể tạo ra ảo ảnh hình thú hay đồ vật.”
Billy lắc đầu.
“Không! Nó là một con ngựa .”
Nó đeo kiếng trở lại và nhăn nhó với dĩa đồ ăn của mình.
“Không xa em đâu. Ngay ngoài cửa sổ. Con ngựa rướn người lên và đá đá không khí, làm như nó đang chống trả đề được tự do vậy, xong rồi nó… tan đi.”
“Giống như nó đang lùi vào một thế giới khác,” Charlie vuột miệng nói.
“Đúng rồi,” Billy hồ hởi nói. “Anh tin em, phải không anh Charlie?”
Charlie thủng thỉnh gật đầu.
“Anh thắc mắc giờ nó đang ở đâu?”
“Lang thang quanh lâu đài hoang vói lũ ma khác chắc?” Fidelio nhận xét một cách bông phèng. “Thôi nào, tụi mình ra hít thở chút không khí thoáng đãng đi. Không chừng cả đám sẽ thấy một con ngựa đang phi nước đại quanh vườn đó.”
Tất nhiên là nó chỉ giỡn thôi, nhưng ngay khi bốn thắng bé bước qua cổng vườn, Fidelio chợt nhận ra lời nói của mình hóa ra lại thực một cách ma quái. Nó là đứa duy nhất trong bống đứa không có phép thuật. Fidelio có thể là một nhạc sĩ thiên tài, nhưng tài năng của nó không thuộc dạng được xếp vào hàng phép thuật.
Charlie chính là đứa chú ý đến vật ấy trước tiên: một tiếng thịch yếu ớt trên bãi có khô ráo.
“Anh có nghe thấy không?” Nó nhìn Gabriel.
Gabriel lắc đầu. Nó chả nghe thấy gì, nhưng có cái gì đó hiện diện trong không khí mà nó không thể xác định được.
Billy bị tác động mạnh nhất. Cu cậu đột ngột lùi phắt lại, nhùm tóc trắng dựng lên theo một làn gió phớt qua mà ngoài nó ra, không đứa nào cảm nhận được. Thằng bé giơ một bàn tay lên tựa như đỡ một cú đấm.
“Nó vừa sượt qua,” Billy thì thào.
“Tụi em tính đánh lừa anh đó hả?” Fidelio nói.
“Không lừa đâu,” Charlie nói. “Giờ nó đi rồi. Có lẽ nó chỉ muốn cho tụi mình biết là nó đang ở đây.”
Chúng bắt đầu băng qua thảm cỏ rộng mà giáo sư Bloor thích gọi là khu vườn của ông ta. Thực ra nó không khác gì một cánh đồng, bao quanh là có rừng cây râm rạp, gần như không thể chui vô được. Ở cuối sân, những phiến đá đỏ của tòa lâu đài cổ thấp thoáng giữa những hàng cây: lâu đài của Vua Đỏ. Bốn thằng bé đi về phía những bức tường đỏ cao vọi ấy, hầu như theo bản năng.
Ông cậu Paton của Charlie đã kể cho nó nghe chuyện năm người con của Vua Đỏ đã bị ép buộc phải rời vương quốc của vua cha mãi mãi như thế nào khi hoàng hậu Berenice qua đời. Tan nát cõi lòng, nhà vua biến mất vào những khu rừng phương bắc, và Borlath, cont rai cả của nhà vua, chiếm giữ lâu đài. Hắn ta trị vì vương quốc bằng sự bạo tàn, man rợ, đến nỗi hầu hết các cư dân hoặc là chết hoặc là bỏ trốn trong kinh hoàng.
“Hử?” Fidelio nói. “Mấy người nghĩ là con ngựa ma đó ở đây sao?”
Charlie ngước nhìn lên những bức tường lừng lững.
“Em không biết,” nó ngó Billy.
“Phải,” thằng bé thì thầm. “Nó ở đây.”
Mấy đứa kia lắng nghe thiệt chăm chú. Trên mảnh sân phía xa, tiếng đám học trò hò hét và nói cười huyên nào, tiếng một trái banh chạm đất, tiếng chim bồ câu rừng gù, nhưng ngoài ra không nghe được tiếng gì khác.
“Em chắc chứ, Billy?” Charlie hỏi.
Billy co rúm người lại. Nó đang run lẩy bẩy.
“Em nghĩ nó muốn nói chuyện, nhưng nó bị kẹt ở phe kia.”
“Phe kia là phe nào?” Fidelio hỏi.
Billy nhăn nhó. “Em không thể giải thích được.”
Charlie chợt cảm giác có ai đó đang đứng đằng sau chúng. Nó quai lại, đúng lúc thấy một bóng người nhỏ choắt vụt đi và lẫn vào đám nam sinh mới đang chơi banh với nhau.
“Ai vậy?”Gabriel hỏi.
“Nhóc mới,” Charlie nói.
Không thể nói được thằng nhóc kia ở khoa Hội họa, khoa Kịch hay khoa Nhạc vì nó không mặc áo chúng. Hôm nay trời ấm áp và nắng đẹp. Mùa hè vẫn chưa hết.
Tiếng tù và rúc vang khắp sân và bốn thằng bé chạy trở vô trường.
Với Charlie, buổi chiều hôm ấy cũng chẳng khá gì hơn buổi sáng. Cuối cùng nó cũng tìm thấy thầy Paltry, nhưng quá trễ cho buổi học.
“Đi học mà không đem theo kèn trumpet thì nói làm gì hả?” Ông thầy giá cấm cẳn. “Trò chỉ tổ làm mất thời gian, Charlie Bone. Được ban phép thuật, hừ, vớ vẩn. Sao trò không sử dụng cái gì gọi là phép thuật của trò để xác định coi cây kèn trumpet của trò ở đâu? Giờ, ra khỏi lớp và đừng có trở lại cho đến chừng nào trò tìm thấy kèn.”
Charlie hấp tấp ra đi. Nó không biết ở đâu mà tìm.
“Tháp nhạc có không?” Charlie tự hỏi. Dám một trong những người lao công đã tìm thấy kèn của nó và đem cất vô phòng thầy Pilgrim trên đỉnh tháp.
Đường đến Tháp Nhạc phải xuyên qua một cánh cửa nhỏ, trong cổ xưa, gần lối ra vườn. Charlie gồng mình, mở cửa ra và bắt đầu bước vào một hành lang dài, ẩm ướt. Trời tối đến nỗi Charlie gần như chẳng thấy bàn chân mình đâu. Nó cứa dán mắt vô một khung cửa sổ đằng xa trong căn phòng nhỏ hình tròn ở cuối hành lang.


Khi đến gần căn phòng hơn, nó bỗng nghe thấy những tiếng nói, những giọng nói giận dữ - những người đàn ông đang cãi nhau.


Có tiếng bước chân khua. Charlie đứng im thin thít cho đến lúc có ai đó xuống đến chân dãy cầu thang xoắn ốc, dài. Một bóng hình xuất hiện ở cuối hành lang. Cái bóng đó lừng lững tiến về phía Charlie và nâng đôi cánh màu tím lên, che khuất hết ánh sáng.
Bị ngập chìm trong bóng tối, Charlie thét lên thất thanh.
 
“Im!” Một giọng rít lên.
Charlie co rúm người ép vào vách tường khi người đó, hay vật đó, lướt vù qua và vút ngang cánh cửa ra tiền sảng.


Charlie không biết phải làm gì. Nó nên quay lại quãng đường nó vừa đi qua, hay là tiếp tục lên tháp? Cái người rít lên hồi nãy có thể đang ở trong tiền sảnh, chờ nó. Nó chọn cách đi lên tháp.


Ngay khi chui vô căn phòng hình tròn tràn ánh mặt trời ở cuối hành lang, Charlie cảm thấy định thần lại. Đôi cánh màu tím kia là đôi cánh tay của một chiếc áo chùng, nó suy luận. Và cái người giận dữ nọ chắc hẳn là một giáo viên của trường, đang tranh cãi với ai đó. Nó bắt đầu leo cái cầu thang dài, xoắn ốc lên đỉnh tháp. Học viện Bloor có năm tầng lầu, tuy nhiên phòng dạy nhạc của thầy Pilgrim lại ở trên một dãy cầu thang khác.


Charlie lên đến chiếu nghỉ nhò, chỗ có những quyển sách nhạc được cất trên kệ, trong thùng và chất thành đống bừa bộn dưới sàn nhà. Ở giữa các dãy kệ, có một cánh cửa nhỏ bằng gỗ sồi dẫn vô phòng nhạc. Một tờ tin nhắn được ghim ngay chính giữa cánh cửa. Thầy Pilgrim đi rồi.


Charlie lục lọi đám thùng và hộp, nhấc những chồng bản nhạc lên, rồi tìm kiếm đằng sau những cuốn sách nặng nề trên kệ. Nó tìm được một cây sáo, một nắm dây đàn violin, một hộp bánh yến mạch và một cây lược, nhưng không có kèn trumpet.


Thử tìm ở phòng kế bên liệu có ích lợi gì không? Charlie nhớ là trong ấy chỉ có một cây đàn dương cầm lớn và cái ghế đàn, không còn gì khác. Nó nhìn lại tờ tin nhắn. Thầy Pilgrim đi rồi. Trông như báo điềm chẳng lành, như thể có lời nhắn khác ẩn sau bốn con chữ in mỏng manh kia, rằng: Cấm vào, không ai cho các người vào đây.


Nhưng Charlie là một thằng bé vốn thường không thể ngăn mình làm những điều mà tất cả các biển báo bảo nó đừng làm. Tuy nhiên, lần này nó chú ý gõ cửa trước khi bước vào. Thiệt ngạc nhiên, nó nhận được câu trả lời.
“Gì,” một giọng nói mệt mỏi vang lên.
Charlie bước vào.


Giáo sư Saltweather đang ngồi trên chiếc ghế đàn. Hai cánh tay thầy khoanh lại bên trong chiếc áo chùng xanh da trời, mái tóc dày bạc trắng của thầy dựng đứng lên theo một phong cánh rối bời, hờ hững. Thầy mang một vẻ mặt mà trước giờ Charlie chưa từng thấy ở thầy: lo lắng và bơ phờ.
“Con xin lỗi thầy,” Charlie nói. “Con đang tìm cây kèn trumpet của con.”
“Ừ,” thầy Saltweather liếc nhìn Charlie.
“Con nghĩ là nó không có ở đây,”
“Ở đây chẳng có gì cả,” thầy Saltweather nói.
“Con xin lỗi, thưa thầy.”
Charlie toan đi thì chợt có điều gì đó xui khiến nó hỏi:
“Thưa thầy, thầy Pilgrim hiện ở đâu ạ?”
“Ở đâu?” Giáo sư Saltweather nhìn Charlie như thể thầy vừa mới trông thấy nó tức thì. “À, Charlie Bone.”
“Dạ phải, thưa thầy.”
“Ta không biết thầy phù thủy đi đâu. Đó là điều bí ẩn.”
“Ồ,” Charlie định quay đi một lần nữa nhưng lần này nó lại nói tiếp:
“Lúc nãy con va phải ai đó ở ngoài hành lang, con nghĩ đó có thể là thầy Pilgrim.”
“Không phải, Charlie,” ông thầy dạy nhạc nói hơi gằn giọng. “Đó chắc là thầy Ebony, thầy chủ nhiệm mới của trò.”
“Thầy chủ nhiệm mới của con?” Charlie nuốt nước miếng khan. Nó nghĩ đến đôi cánh tím, giọng nói rít chìn chịt.
“Ừ. Nói không ngoa thì cũng hơi đang lo.”


Giáo sư Saltweather thảy cho Charlie một cái nhìn soi mói, như thể thầy đang tự hỏi xem có nên nói thêm gì nữa không.


“Ông Ebony đến đây để dạy môn lịch sử,” thầy tiếp tục, “nhưng ông ấy lại xuất hiện với một lá đơn xin từ nhiệm của thầy Pilgrim. Ta không biết ông ấy kiếm được tờ đơn đó bằng cách nào. Và bây giờ người… người đàn ông này… muốn dạy piano.” Giáo sư Saltweather cao giọng. “Ông ta mò lên đây, đính một tin báo lên cánh cửa, cố đuổi ta ra khỏi một phòng học thuộc chính khoa của ta… Thật không thể chịu nổi! ”
“Đúng đấy, thưa thầy,” Charlie tán đồng. “Nhưng thầy ấy mặc áo chùng tím mà, thầy.”
“À, đúng, thế đấy!” Giáo sư Saltweather đan một bàn tay vô mái tóc bạc của mình. “Hình như ông Tantalus Ebony ở khoa Kịch, nên mới mặc màu tím.”
“Ra là vậy,” Charlie nói, mặc dù bây giờ nó rất hoang mang. Nó chưa bao giờ nghe nói tới một giáo viên dạy ba khoa một lúc.
“Tất cả đều là sự sắp xếp của giáo sư Bloor, nên ta có thể làm được gì nào?” Giáo sư Saltweather xòe rộng hai bàn tay ra. “Giờ, tốt hơn trò nên đi đi, Charlie. Rất tiếc về cây kèn trumpet của trò. Thử tìm ở một trong những phòng của khoa Hội họa coi. Họ vẫn hay vẽ các nhạc cụ của chúng ta mà.”
“Khoa Hội họa. Con cám ơn thầy,” Charlie nói đầy vẻ biết ơn.
Các phòng của kho Hội họa chỉ có thể đến được bằng lối cầu thang chính và Charlie mới vừa đặt bàn chân lên bậc thang đầu tiên thì Manfred xồ ra từ một cánh cửa trong tiền sảnh.
“Mày chép phạt xong chưa?” Manfred lạnh lùng hỏi.
“Ờm, chưa.”
Manfred tiến đến gần Charlie.
“Đừng quên đấy, không thì mày sẽ phải chép thêm một trăm câu nữa.”
“Ừ, quên, Manfred. À… ý em là không quên đâu.”
Manfred thở dài bực bội và bước đi khỏi.
“Xin lỗi,” Charlie bất ngờ nói, “nhưng anh vẫn còn là… ừm… học sinh, anh Manfred?”
“Không. Hết rồi!” Gã thanh niên cáu kỉnh sủa. “Anh là trợ giảng. Và hãy gọi anh là thầy.”
“Dạ, thưa thầy.” Từ “thầy” nghe thật tức cười khi áp dụng cho Manfred, nhưng Charlie mỉm cười, hy vọng là rốt cuộc nó đã đáp đúng.
“Và đừng quên đấy.” Manfred huỳnh huỵch bước trở lại phòng Huynh Trưởng và đóng sầm cửa lại.


Charlie vẫn chưa tìm ra phòng làm việc của Manfred. Bây giờ nó đang đắn đo giữa việc tìm kiếm cây kèn và việc chép phạt một trăm dòng. Nhưng rồi nó sực nhớ ra là nó không thuộc câu cuối của Luật Tiền Sảnh. “Emma sẽ cho mình biết,” nó tự nhủ và bắt đầu bước lên cầu thang.


Emma thường có ở trong phòng triển lãm của khoa Hội họa, một căn phòng dài, thoáng đãng, nhìn ra vườn. Nhưng, hôm nay căn phòng có vẻ trống không. Charlie lục soát kho đựng màu vẽ và xem xét kỹ các kệ ở cuối phòng, sau đó nó băng qua phòng triễn lãm và đi xuống cầu thang xoắn bằng sắt dẫn xuống xưởng điêu khắc.
“Chào, Charlie!” Có tiếng gọi to.
“Ê, lại đây nè,” một giọng khác nữa.


Charlie ngó quanh, thấy hai cậu bé đeo tạp dề xanh lá cây đang cười toét với nó từ hai bên của một khối đá lớn. Một cậu có gương mặt nâu và mặt cậu kia thì tái xanh. Hai người bạn của Charlie hiện đang học năm thứ ba. Cả hai đều lớn phổng lên qua một kỳ nghỉ hè, và cả tóc của chúng cũng vậy. Lysander, cậu bé người châu Phi, giờ có một mái đầu xoăn dài, tươm tất, được tô điểm bằng những hột cườm đủ màu, trong khi Tancred vuốt keo lên mái tóc cứng đơ, vàng nhạt của mình thành một rừng chông tua tủa.
“Cái gì lôi em xuống đây vậy, Charlie?” Tancred hỏi.
“Em đang kiếm kèn trumpet của em. Chà, em gần như không nhận ra hai anh.”
“Em chẳng thay đổi gì,” Lysander nói với nụ cười rộng ngoác. “Em thấy năm thứ hai thế nào?”
“Em không biết. Em hơi rối một tí. Em đi lộn lớp hoài. Em bị mất kèn trumpet. Em gặp rầy rà với Manfred và có một… à… ừm, một thứ ở trong vườn.”
“Một thứ, ý em là sao?” Mái tóc vàng của Tancred nổ lép bép.
Charlie kể cho chúng nghe về con ngựa mà Billy đã nhìn thấy trên trời, và về tiếng vó ngựa trong vườn.
“Hay ghê,” Lysander nói.
“Quái gở,” Tancred bảo. “Anh thì không ưa cái vụ đó.”
Hai ống tay áo sơ mi của nó giật giật. Tancred khó mà che giấu được phép thuật của mình. Nó giống như một cái hàn thử biểu biết đi, tâm trạng của nó ảnh hưởng đến không khí chung quanh đến mức ta có thể nói rằng nó có thời tiết của riêng nó.
“Em phải kiếm cây kèn trumpet tiếp đây,” Charlie nói. “À mà, câu cuối của Luật Tiền Sảnh là gì nhỉ?”
“Dù bạn thấp hay cao,” Lysander nhau nhảu nói.
“Cám ơn anh Sander. Em phải viết hết ra một trăm lần trước bữa tối, và phải nộp cho Manfred – nếu em có thể tìm ra văn phòng của hắn. Các anh có biết nó ở đâu chứ?”
Tancred lắc đầu và Lysander nói, “Không hề.”
Charlie định quay trở ra lối cũ thì Tancred đề nghị nó thử tìm ở nơi khác xem sao.
“Tìm ở đằng đó coi,” Tancred vừa nói vừa chỉ một cánh cửa ở cuối xưởng điêu khắc. “Tụi mới tới đang học bài vẽ đầu tiên của chúng. Anh nghĩ anh có thấy một đứa gầm kèn trumpet.”
“Cám ơn anh, Tanc!”


Charlie bước vô một căn phòng mà trước giờ nó chưa hề thấy. Chừng mười lăm đứa trẻ đang yên lặng ngồi quanh một chiếc bàn dài, vẽ ký họa. Mỗi đứa có một tờ giấy khổ lớn và một đồ vật trước mặt. Tất cả bọn chúng đều đang tập trung hết mức vào tác phẩm của mình, và không đứa nào ngẩng lên khi Charlie xuất hiện.


“Trò muốn gì?” Một người đàn ông gầy gò, tóc vàng nhạt, mặt tàn nhang cất giọng từ đầu bàn. Một giáo viên dạy vẽ mới, Charlie đoán.
“Kèn trumpet của em, thưa thầy,” Charlie nói.
“Và tại sao trò nghĩ nó ở đây?” Ông thầy hỏi.
“Bởi vì, nó kia ạ!” Charlie vừa nhìn thấy một cây trumpet giống y chang kèn của nó. Món nhạc cụ đang được một thằng bé loắt choắt, dính đầy vụn giấy trên tóc, vẽ theo. Thằng bé ngước nhìn Charlie.
“Joshua Tilpin,” thầy giáo gọi, “trò lấy cây trumpet đó ở đâu vậy?”
“Nó là kèn của con, thưa thầy Delf.” Joshua Tilpin có đôi mắt ti hí màu xám nhạt. Nó hơi nheo mắt lại và nhăn mũi với Charlie.
Charlie không thể kèm mình nổi. Nó chồm về trước, giật lấy cây trumpet và lật ngược lên coi. Học kỳ trước nó đã khắc chữ Charlie Bone thiệt nhỏ gần miệng kèn. Cây trumpet này là của nó.
“Cây kèn có ghi tên viết tắt của em, thưa thầy.”
“Đưa tôi coi nào,” thầy Delf chìa bàn tay ra.
Charlie đưa cây trumpet cho thầy.
“Tên em là Charlie Bone, thưa thầy. Thầy coi này, đó là tên viết tắt của em.”
“Trò không nên làm xấu nhạc cụ như thế này. Nhưng xem ra nó đúng là kèn của trò. Joshua Tilpin, sao trò lại nói dối?”
Tất cả lớp đều nhìn Joshua. Nó không đỏ mặt, như Charlie mong đợi. Thay vào đó, nó toét miệng cười hết cỡ, phô hàm răng nhỏ xíu, khấp khểnh.
“Con xin lỗi thầy. Thành thực, thành thực xin lỗi anh, Charlie. Giỡn thôi mà. Làm ơn, tha lỗi cho em!”
Cả Charlie lẫn thầy giáo đều không biết phải trả lời nó thế nào. Thầy Delf đưa trả cây trumpet cho Charlie, nói:
“Trò nên trở về lớp của trò đi.”
“Dạ, cám ơn thầy.”


Charlie nắm chặt cây kèn của mình và quay ra cửa. Nó ngoái nhìn thiệt kỹ Joshua Tilpin khi bước ra. Nó có cảm giác kỳ kỳ là thằng bé mới vô này có phép thuật. Hai ống tay áo của Joshua phủ đầy mảnh giấy vụn và những mẩu gôm nhỏ li ti. Đúng lúc Charlie nhìn, một mẩu ruột viết chì gãy đột nhiên bật khỏi bàn và dính vào ngón tay cái của thằng bé. Nó ngoác miệng cười ranh mãnh với Charlie và búng mẩu chì đi. Charlie cảm thấy như có một sợi chỉ vô hình đang kéo giật nó về phía thằng bé xa lạ.


Nó lật đật rời khỏi phòng và sợi chỉ kia đứt rời.


Xưởng điêu khắc rộn vang tiếng thép chạm vào đá. Tancred và Lysander không phải là những người duy nhất đang đục đẽo những khối đá. Charlie vung vẩy cây kèn của nó lên không.
“Em thấy rồi nè,” nó la lớn.
“Biết mà,” Tancred nói.


Mối ưu tiên kế tiếp của Charlie là một trăm dòng chép phạt. Nó nên viết ở đâu vậy? Nó quyết định viết tại phòng học mới của nó. Khi băng qua tiền sảnh, nó bị chìm lỉm trong từng đám con nít – một số ùa vô sau khi vừa chơi ngoài vườn xong, số khác chạy rầm rập từ cầu thang xuống, số nữa thì túa ra từ những phòng để áo khoác. Dường như đứa nào cũng biết đích xác mình đang đi đâu, ngoại trừ Charlie. Hình như có sai sót khùng khiếp gì đó trong thời khóa biểu của nó. Nó dấn bước lên, hy vọng ít ra sẽ tìm thấy vài đứa học cùng niên học với nó ở trong lớp.
Có một tờ thông báo ghim trên cửa lớp. Thông báo được in bằng kiểu chữ theo lối cổ, giống như những chữ trên tờ thông báo ở cửa phòng thầy Pilgrim.


Tantalus Ebony
Nhạc, Kịch Câm và Lịch Sử Trung Đại


Charlie áp tai vào cánh cửa. Không một tiếng động phát ra từ phía bên kia. Nó bước vào. Không có học sinh nào trong phòng, nhưng có một thầy giáo đang ngồi bên chiếc bào cao trước cửa sổ; một thầy giáo có khuôn mặt dài, mỏng quẹt, và chân mày đen giao nhau ở sống mũi. Mái tóc đậm màu che khuất lỗ tai, và mảng tóc dày trước trán chấm ngang ngay trên chân mày. Ông thầy mặc áo chùng tím.
“Gì đó?” Thầy giáo nói, ngẩng đầu lên khỏi cuốn sách.
Charlie nuốt nước miếng. “Em đến để chép phạt, thưa thầy.”
“Tên gì?” Giọng của người đàn ông này ồ ồ như phát ra từ dưới lòng đất.
“Charlie Bone, thưa thầy.”
“Lại đây!” Thầy giáo ngoắc nó bằng một ngón tay trắng, dài thoòng.
Charlie bước đến bên bàn. Người đàn ông nhìn nó chòng chọc mất trọn một phút. Tròng mắt trái của ông ta màu xám, còn mắt phải thì màu nâu. Đó là điều đáng ngại nhất. Charlie bị thôi thúc phải nhìn đi chỗ khác, nhưng nó đứng tấn chặt chân xuống đất và nhìn vào một mắt trước, và rồi nhìn qua con mắt kia. Một cái câu mày giận dữ sượt qua trên gương mặt của người đàn ông và ông ta ngả người ra sau, gần như là ông ta sợ Charlie đã thấy được phần nào đó của con người ông ta mà ông ta quyết giữ bí mật. Cuối cùng, thầy giáo nói:
“Tôi là Tantalus Ebony.”
“Em đoán thế, thưa thầy.”
“Đồ kiêu ngạo. Đứng yên đó.”
Charlie định nói là nãy giờ nó không hề nhúc nhích nhưng thầy Ebony đã tiếp:
“Tại sao trò không đi chung với các bạn cùng lớp trò?”
“Em bị nhầm lẫn một chút, thưa thầy.”
“Nhầm lẫn? Nhầm lẫn chỉ dành cho bọn năm thứ nhất. Một khởi đầu không hề hứa hẹn cho năm thứ hai của trò, đúng không, Charlie Bone? Và tró nói là mới thế trò đã bị chép phạt rồi. Ta tự hỏi là vì sao vậy?”
“Em nói chuyện trong tiền sảnh, thưa thầy.”
Phản ứng của thầy Ebony thật đáng kinh ngạc. Ông ta bỗng cười rú lên. Toàn thân rung lắc với những tràng cười không sao kìm nén được.
“E hèm,” ông thầy ho khẽ một tiếng. “Thế thì, đi và chép phạt đi. Và chớ quấy rầy ta. Ta ngủ đây.”


Thầy Ebony kéo nón áo chùng tím trùm lên đầu và nhắm mắt lại. Vẫn ngồi thẳng người tại chỗ, thầy bắt đầu ngáy.


Có thể nào có người không nhìn mình mà lại đang theo dõi mình không? Charlie có cảm tưởng là ông thầy lạ vẫn còn thức. Hay chính xác hơn, rằng một người khác, đằng sau khuôn mặt đang ngủ kia, vẫn còn đang canh gác.


Sau khi chờ vài giây, Charlie nhón chân đi đến bàn của nó, lấy ra một cuốn vở bài tập và bắt đầu chép luật tiền sảnh. Nó vừa mới viết xong dòng cuối cùng thì chuông báo giờ uống trà reng lên. Thầy Ebony mở mắt ra, hất cái nón ra sau, và quát:
“ĐI!”
“Vâng, thưa thầy.” Charlie thu gom giấy bút của nó và hấp tấp rời khỏi phòng.
“Nãy giờ em ở đâu vậy?” Fidelio hỏi khi trông thấy Charlie trong căn-tin.
“Còn anh nãy giờ ở đâu?” Charlie nói.
“Anh học tiết tiếng Anh, rồi ra chơi.”
Charlie thấy một cuối tuần bị cấm túc hiện ra trước mặt. Thầy Carp, giáo viên tiếng Anh, hẳn sẽ không tha thứ cho nó việc cúp một tiết học.
“Em chép phạt cho Manfred,” nó rầu rĩ nói. “Và em vẫn chưa tìm thấy văn phòng của hắn ở đâu.”
Fidelio chả giúp được gì, cả Gabriel cũng không nốt khi thằng này đến nhập bàn của chúng.
“Có chuyện gì với thằng đuôi ngựa thế?” Nó vừa nói nhằn thanh kẹo Choclix. “Ý tôi là, Manfred được giao làm cái gì thế? Hắn không còn là Thủ lĩnh Nam sinh nữa, và hắn cũng không phải là giáo viên. Vậy hắn là cái gì?”
“Hắn là kẻ thôi miên,” Charlie nói nghiêm trang. “Trước nay vẫn thế và sẽ luôn luôn là thế. Hắn chắc chắn sẽ ở đây hoài hoài, để hoàn thiện kỹ năng cho tới khi nào thành một lão phù thủy già mốc meo như ông cố của hắn.”
“Miễn là hắn tránh khỏi đường tôi, tôi không quan tâm hắn là cái gì.” Gabriel nuốt chửng phần Choclix còn lại và chùi chùi ngón tay vô ống tay áo. “Mà này, tôi đã quyết định học piano với thầy Ebony rồi. Tôi không thể bỏ học đàn được, và thiệt tình, thầy ấy cũng khá giỏi.”
Không hiểu vì sao việc này bỗng khiến Charlie lo lắng.
“Nếu em là anh, em sẽ học lớp cô Crystal,” nó khuyên Gabriel. “Thầy Ebony… thầy nhìn vậy mà không phải vậy đâu. Em nghĩ thầy ấy nguy hiểm lắm.”


Mấy đứa kia dòm nó đầy thắc mắc, nhưng Charlie không thể giải thích được cảm giác của nó.


Sau bữa trà, Charlie xách kèn trumpet của nó đến phòng thầy Paltry. Ông thầy già đang yên lặng dùng một tách cà phê.
“Lúc này ta không thể dạy trò được,” ông thầy cáu kỉnh gắt. “Đặt kèn lên kệ và để cho ta yên.”
“Vâng, thưa thầy.” Charlie cất kèn trumpet của nó lên kệ cùng với năm cây kèn khác, hy vọng cây kèn sẽ không bị thất lạc hay bị đánh cắp lần nữa.
“Nhưng thưa thầy, thầy có biết văn phòng của anh Manfred Bloor ở đâu không ạ?”
“Ta làm sao biết hết các phòng trong tòa nhà này, đúng không nào?” Thầy Paltry phất nhẹ một bàn tay đầy tàn nhang. “Giờ thì, xùy.”
Bọn trẻ được dặn là bỏ áo chùng trong nhà vào những ngày nắng, bởi vì, tin hay không thì tùy, trong học viện tối tăm này lạnh hơn ngoài trời. Cho nên, bỏ áo chùng ở trong phòng để áo khoác, Charlie ra vườn và hỏi hết những ai mà nó có thể níu lại được coi họ có biết văn phòng của Manfred ở đâu không. Chưa có ai từng nghe nói về căn phòng đó cả. Charlie lại chạy vô nhà. Khi mặc cái áo chùng xanh da trời lên, nó thọc mấy ngón tay vô túi áo. Ba trăng giấy chép phạt đã biến mất.
“Không!” Charlie ré lên, ngay lúc Gabriel bước vô.
“Gì đó?” Gabriel hỏi.


Charlie kể lại sự tình, và mưới lăm phút tiếp theo Gabriel giúp nó lục soát phòng để áo khoác, nhưng ba trang giấy không thấy đâu cả. Fidelio xuất hiện và tham gia cuộc truy lùng. Chúng tìm trong các phòng học trống và thậm chí xuống cả căn-tin. Và rồi tiếng tù và báo hiệu giờ ăn tối.
“Có ai đó quyết tâm làm em bị rắc rối,” Charlie rên rỉ. “Em mất tất cả mọi thứ, kèn trumpet, giấy chép phạt… Tiếp theo là gì nữa đây?”
“Đi ăn tối cái đã,” Fidelio nói. “Đồ ăn giúp ích cho bộ não.”
“Hừm!” Charlie ậm ừ.


Ba đứa đi xuống sảnh ăn lớn dài hun hút như hang động và ngồi vào chỗ của chúng ở cuối bàn khoa Nhạc.


Đám giáo viên ngồi bên một cái bàn kê trên bục cao ở cuối sảnh đường, và Charlie chú ý thấy Manfred đang ngồi kế bên cha hắn. Vậy là, bây giờ hắn đã chính thức là thành viên trong giáo ban. Ít nhất thì hắn sẽ không làm bài tập chung với tụi nó nữa, Charlie nghĩ thầm.


Bữa tối gần xong thì giáo sư Bloor đứng dậy và vỗ vô tay. Cả căn phòng im lặng ngay tắp lự. Người đàn ông vạm vỡ bước ra phía trước bục và dò xét những hàng trẻ con ở phía dưới. Dáng ông ta oai vệ trong chiếc áo chùng đen, vai rộng, tóc xảm tỉa tót gọn gàng và ria mép thẳng như một cây thước. Mắt ông ta gần như khuất hẳn dưới đụn mí thịt dày, và thiệt khó mà nói chúng màu gì. Bây giờ trông chúng là màu đen, nhưng Charlie biết chúng màu xám.


Phải một lúc sau vị hiệu trưởng mới mở lời. Lũ trẻ ngóng nhìn ông ta, chờ đợi. Cuối cùng ông ta nói:
“Có vài lời với những trò được ban phép thuật mới vô. Các trò biết mình là ai rồi, vì thế tôi sẽ không nêu tên các trò ra nữa. Các trò sẽ làm bài tập về nhà trong phòng Nhà Vua. Sẽ có người chỉ đường cho các trò. Các trò hiểu rồi chứ?”
Charlie nghe có ba giọng nói nhẹ hều cất lên:
“Dạ, hiểu ạ.” Nó không thể thấy những giọng nói ấy phát ra từ đâu, nhưng chúng chắc chắn không thuộc về bất cứ ai đang ngồi bên bàn khoa Nhạc.


Giáo sư Bloor thình lình thét vang, “GIẢI TÁN!”


Bọn trẻ rầm rập hành động một cách chính xác tuyệt đối. Ghế ngồi cạ rít trên sàn đá, dĩa được thu dọn và xếp thành chồng, ly uống nước va lách cách, dao nĩa xô vào nhau xủng xẻng, và rồi tất cả cùng đổ dồn ra cửa. Khi Charlie leo hết tầng lầu đầu tiên, nó có thêm Gabriel và Billy nhập bọn; Emma Tolly đi đằng trước, còn Tancred và Lysander đang bay vọt ngang một dãy cầu thang khác, lên lầu hai.


Emma chờ cho Charlie bắt kịp, nó nói:
“Mình tìm thấy đám này dưới sàn nhà phòng để áo khoác của khoa mình,” con bé vừa nói vừa chìa ra ba tờ giấy nhàu nhì. “Mình nghe nói mấy bồ đang đi tìm.”
“Giấy chép phạt của mình,” Charlie kêu lên, chụp lấy xấp giấy. “Cám ơn bồ, Emma. Nhưng làm sao chúng lại lọt vô phòng để áo khoác khoa Hội họa được?”
“Chịu, không biết,” Emma nói.


Charlie dúi mấy tờ giấy vô cặp xách của nó. Có tiếng bước chân nặng nề sau lưng khiến nó quay lại nhìn và thấy Dorcas Loom đang chầm chậm bước lặc lè lên cầu thang. Đó là một đứa con gái phục phịch, tóc xoăn màu vàng nhạt và làn da khỏe mạnh. Dorcas là kẻ ái mộ cuồng nhiệt bà cô của Charlie, bà Venetia – bà này với tài phép của mình có thể may nên những bộ quần áo có ma thuật chết người.
“Ngó cái gì mà ngó?” Con bé sưng sỉa.
“Con mèo cũng có thể nhìn nữ hoàng kia mà,” Charlie đáp.
Dorcas “Hứ” một tiếng kinh tởm, và tiếp tục ì ạch lên cầu thang.
Charlie và lũ bạn nó bước vô phòng Nhà Vua – căn phòng hình tròn, lạ lùng với chiếc bàn tròn và những bức tường cong, sách xếp hàng hàng.


Manfred đang đứng ở cạnh bàn đằng kia, dòm thẳng ra cửa. Tim Charlie lộn nhào, và rồi nỗi thất vọng dội khắp người nó như một cơn sóng bệnh hoạn khi nó trông thấy một dáng người gập cong đang ngồi cạnh Manfred. Đó là Asa Pike, kẻ nô lệ trung thành của Manfred – thằng bé có thể biến thành thú khi trời tối. Thằng đó phải ra trường rồi mới đúng, sao nó vẫn còn ở đây? Ngoài ra còn có ba đứa học trò mới ở trong phòng. Joshua Tilpin là một trong số đó.
“Lẹ lên! Lẹ lên,” Manfred sốt ruột ra lệnh. “Đừng có đứng chùm nhum ở cửa thế. Tôi có một thông báo quan trọng đây.”


Charlie rụt người lại và bước vòng quanh bàn đến một chỗ bên cạnh Tancred. Từ chỗ này nó có thể nhìn thấy bức chân dung Vua Đỏ. Một bức tranh cổ vẽ một hình người mờ ảo mặc áo chùng đỏ và đội vương miện vàng thanh mãnh. Gabriel, Billy và Emma theo sau Charlie, trong khi Dorcas lăn vô phòng và dùng chân đóng cửa lại.
“Hãy tỏ ra chút tôn trọng nhà của ba tôi chớ!” Manfred mắng.
Dorcas trừng mắt, nhưng không dám nhìn thẳng vào mắt Manfred.
“Có người ngồi chỗ của em rồi,” nó càu nhàu.
“Đừng có ngớ ngẩn, Dorc,” Manfred nói.
“Dorc. Hay lắm,” Asa cười khụt khịt.
Manfred lờ nó đi. “Ngồi đâu cũng được, trò kia, lẹ lẹ lên.”


Nếu Dorcas muốn ngồi một bên Manfred thì quả là nó không còn cơ hội. Chèn vô giữa Manfred và Joshua Tilpin là hai con bé trông rất quái đản. Cả hai đều có tóc đen láng, cắt cụt ngay dưới tai, với một mớ tóc dày rủ trước trán; nước da nhợt nhạt và mướt trông như đồ sứ.


Chị em sinh đôi, rõ ràng, Charlie nghĩ thầm. Nếu chúng là người thật. Bởi vì gương mặt ngây đờ, và cơ thể bất động, đến nỗi rất có thể chúng là búp bê.


Dorcas lết bết đi quanh bàn và đặt sách vở của nó cạnh sách vở của Joshua. Thằng này đãi con bé một nụ cười rạng rỡ, phô hàm răng khập khiễng, và thực tình thì Dorcas cũng cười đáp lễ.
“Giờ mọi người có mặt ở đây cả rồi,” Manfred nói, liếc xéo Dorcas, “Tôi muốn giải thích một vài điều. Trước tiên, chắc hẳn các trò không ngờ lại gặp lại tôi. Ừm, các trò sẽ luôn gắn liền với tôi.”
Không đứa nào hó hé một tiếng, trừ Asa khịt mũi.
“Bây giờ tôi là thầy trợ giảng,” Manfred tiếp, vẻ trịnh trọng. “Công việc cụ thể của tôi là giám sát bài tập về nhà của các trò, kiểm soát sự phát triển của các trò, gác thi, và giúp đỡ trong bất cứ vấn đề nào liên quan đến cá nhân hay công việc.”


Hắn dừng lại để lấy hơi và Charlie tự hỏi cái người quỷ quái nào trên đời này mà lại muốn nhờ cựu huynh trưởng giúp đỡ không biết.


“Giờ là phần giới thiệt,” Manfred gọi tên tất cả những đứa ngồi quanh bàn cho đến khi tới lượt hai đứa con gái bí hiểm ngồi cạnh hắn.
“Và đây là hai chị em sinh đôi, Inez và Idith Branko.”
Ngay khi nghe tên mình được xướng lên, cặp sinh đôi cúi đầu và nhìn chằm chằm vào đống sách trước mặt chúng. Với tốc độ kinh hoàng, đám sách bay xẹt qua bàn. Một chồng đáp oạch xuống đùi Charlie, và chồng kia hạ xuống đùi Tancred.
“Ối, không!” Tancred gầm gừ. “Siêu năng di chuyển đồ vật.”
Hai ống tay áo chùng của nó đột nhiên phồng lên, mái tóc vàng nhạt kêu lắc rắc và một làn gió thổi rung những xấp giấy nằm hớ hênh trên bàn.
“Tôi thấy mấy kỳ nghỉ hè rồi vẫn chưa cải thiện được khả năng tự chủ của trò, Tancred à,” Manfred nói bằng giọng móc mỉa.
Tancred và Charlie đứng dậy và đẩy mấy chồng sách của cặp sinh đôi trở về bên kia bàn. Hai con bé tịnh không nói một lời nào, và mặt chúng vẫn hoàn toàn lạnh băng.
Charlie không cưỡng nổi, nhận xét:
“Lịch sự thì phải cám ơn chớ.”
Idith và Inez vẫn im lặng, nhưng một trong hai đứa, chả biết là đứa nào, bắn cho nó một cái nhìn cực gớm ghiếc.
“Hãy cố mà dễ chịu với các nữ sinh mới, Bone,” Manfred nói. “Chị em sinh đôi có họ hàng với Zelda Dobinsky, người đã rời chúng ta. Rõ ràng cô ta là một thiên tài toán học, cho nên cô ta đã đi học đại học ở tuổi còn rất nhỏ. Rủi thay, Asa đây là sự trái ngược với thiên tài. Anh ta vẫn còn học với chúng ta vì thi rớt tất cả các kỳ thi.”


Cáu tiết vì xấu hổ, Asa càng sụ xuống hơn trong cái ghế ngồi của nó, và Charlie đột nhiên có một cảm giác hiếm thấy là thông cảm cho nó. Bị người mình ngưỡng mộ chế giễu chắc hẳn là rất đau đớn.
“Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, chúng ta có Joshua Tilpin,” Manfred loan báo.


Nghe thấy tên mình, Joshua bật dậy và cúi chào. Ai đó có thể nghĩ nó là một hoàng tử. Tuy nhiên nó trông thật lôi thôi. Áo chùng xanh lá cây bết đầy bụi, lá cây và cỏ lẫn với tóc, và một mẩu mạng nhện lòng thòng ở một bên tai.
“Ngồi xuống, Joshua,” Manfred nói. “Trò không phải là ngôi sao nhạc pop.”


Joshua cười tươi roi rói với hắn và, trước sự kinh ngạc của mọi người, Manfred cười lại. Nhận được một nụ cười từ Manfred tựa như lấy được mứt từ một hòn đá vậy.
Gì tiếp đây? Charlie nghĩ. Nó toan bắt đầu làm bài tập về nhà thì Manfred nói:
“Charlie Bone, trò chưa nộp bài chép phạt cho tôi.”
“Ồ, xin lỗi, thưa thầy Manfred. Em có đem theo đây,” Charlie lục lạo túi xách.
“Tôi yêu cầu trò đem đến văn phòng của tôi mà.”
“Nhưng… Em không biết văn phòng ở đâu,” Charlie thú nhận.
Manfred thở dài. Hắn nhìn lên trần nhà và dõng dạc:

“Tôi ở đằng sau từ ngữ
Trên đường đến âm nhạc
Dưới một chái nhà
Và trước kèn trumpet, mặt nạ và cọ vẽ.”


Hắn dừng lại để tạo hiểu quả và lái tia nhìn trở lại Charlie:
“Tôi diễn đạt rõ rồi chứ?”
Trong bất kỳ tình huống nào khác, Charlie chắc hẳn sẽ nói, “Rõ như nước ao tù,” nhưng vì tình cảnh này đã căng thẳng rồi, nên nó quyết định nói:
“Thưa vâng, thầy Manfred.”
“Tốt. Vậy thì đem bài phạt của trò đến văn phòng của tôi trước giờ ngủ, nếu không thì trò sẽ bị cấm túc.”
 
Charlie thật may mắn có một người bạn như Lysander Sage. Lysander luôn làm bài tập về nhà xong sớm, và hôm nay, ngay khi đã hoàn tất phần việc của mình, cậu chú tâm vào giải câu đố của Manfred.
Khi Charlie ra khỏi phòng Nhà Vua, Lysander chộp lấy cánh tay nó.
“Anh nghĩ anh biết văn phòng của Manfred ở đâu rồi,” nó thì thầm. “Đi tìm phòng ngủ chung của tụi mình đi rồi anh sẽ giải thích.”
Billy Raven đã bám kịp chúng.
“Cho em đi cùng với được không?” Nó hỏi Charlie.
“Billy Raven, tôi có lời với trò,” Manfred đứng bên ngoài phòng Nhà Vua, nhìn ba đứa.
Billy nhún vai vẻ cam chịu và bước trở lại chỗ Manfred.
“Tội nghiệp thằng bé,” Lysander nói khẽ như hơi thở. Nó bắt đầu giải thích làm cách nào mà nó giải được câu đố của Manfred.
“Anh bắt đầu từ phía dưới lên,” nó nói. “Kèn trumpet, mặt nạ và cọ vẽ chắc chắn ám chỉ những biển báo trên các phòng để áo khoác. Vậy, văn phòng của Manfred phải là trước khi em đến đó. Nếu nó ở trên đường đến âm nhạc thì chắc chắn nó phải ở đâu đó dưới hành lang dài dẫn đến Tháp Nhạc, và đó là bên dưới chái phía tây – đúng không?”
"Ừm,” Charlie nói. “Nhưng còn từ ngữ thì sao? Đằng sau từ ngữ , hắn đã nói vậy.”
“Từ ngữ ở trong sách,” Lysander nói. “Anh suy luận là nếu em có thể tìm được một kệ sách ở trong hành lang ấy thì văn phòng của Manfred sẽ nằm đằng sau cái kệ. Kệ sách thường được dùng như những cánh cửa dẫn vô các căn phòng bí mật.”
“Chao! Anh đã giải được rồi, Sander. Em có thấy một kệ, sách ở dưới đó. Tài thiệt! Cám ơn anh!”
“Không có chi. Hy vọng nó đúng.”
Chúng đi đến những phòng ngủ chung đầu tiên và bắt đầu dò danh sách tên gắn trên mỗi cánh cửa. Lysander thấy mình vẫn ngủ chung phòng với Tancred, và Charlie thở phào nhẹ nhõm khi thấy tên nó ở cùng danh sách với tên của Fidelio. Tên của Billy nằm dưới chót.
Fidelio đang dỡ đồ ra khỏi túi xách. Nó đã xí chiếc gi.ường bên cạnh cho Charlie. Phòng ngủ chung gần như vẫn y chang năm ngoái. Sáu cái gi.ường hẹp kê ở mỗi bên của căn phòng dài, lạnh lẽo, chỉ có độc một bóng đèn tròn tù mù treo giữa phòng.
Charlie lẹ làng ấn tất cả đồ đạc của mình vô cái tủ nhỏ ở đầu gi.ường và treo áo chùng lên móc.
“Em đi tìm văn phòng của Manfred đây,” nó bảo Fidelio. “Anh bao che giùm em nếu bà giám thị đến, được không?”
“Anh sẽ nói là em ở trong phòng tắm,” Fidelio nói. “Chúc may mắn.”
Charlie đi được một nửa hành lang thì nó gặp một Billy Raven phấn khởi đang xuôi theo hướng ngược lại.
“Em được nhận làm con nuôi rồi,” Billy nói. “Anh Manfred vừa mới báo cho em.”
“Tuyệt!” Charlie reo lên. Billy luôn ao ước được nhận làm con nuôi.
Thằng bé còn sờ lên mái tóc trắng của mình:
“Em thắc mắc tại sao họ lại muốn em. Ý em là, họ có thể chọn bất cứ thằng nhỏ nào khác. Một đứa trông dễ coi hơn em, một đứa nào đó khác em.”
“Họ là ai vậy?” Charlie hỏi, bỗng dưng thấy lo lắng cho Billy.
“Họ được gọi là gia đình de Grey. Ông và bà de Grey. Thực tình thì họ già hơn em tưởng. Anh Manfred cho em coi một tấm hình. Nhưng anh ấy nói họ dễ mến, và rất tử tế. Và họ có một ngôi nhà xinh xắn. Em sẽ có phòng riêng của em với tất cả mọi thứ em muốn, kể cả một cái T.V, anh ấy nói vậy. Tưởng tượng coi, một cái T.V của riêng em.”
Charlie muốn coi tấm hình gia đình de Grey đó. Chắc chắn nó sẽ có thể biết thêm đôi chút về họ, nếu nó nghe được giọng nói của họ.
“Manfred có đưa tấm hình đó cho em không?” Nó hỏi.
Billy lắc đầu.
“Ừm, tin tốt đấy, Billy.”
Charlie định vù đi tiếp thì Billy bất ngờ hỏi:
“Anh có mang cây gậy phép của anh đến trường không?”
“Có, anh…” Charlie ngừng lại. “Sao em lại muốn biết điều đó?”
“Em chỉ nghĩ là, anh biết đó, thiệt tốt nếu anh có nó bên cạnh… để bảo vệ anh, đại khái vậy. Anh cất nó trong tủ đầu gi.ường phải không?”
“Không,” Charlie giấu cây gậy phép quý giá của nó dưới nệm gi.ường, nhưng nó sẽ không nói cho Billy biết. Nó đã nói đủ rồi.
“Không. Tủ đầu gi.ường thì dài quá.” Billy nói. “Vậy thì dưới nệm phải không?”
Charlie cảm thấy bất an. Phải chăng Billy vẫn làm gián điệp cho gia đình Bloor?
“Anh phải đi gấp, Billy,” nó vội nói. “Anh phải đem bài chép phạt đến văn phòng của Manfred. Gặp lại em sau.”
Charlie quầy quả đi tiếp. Mọi hoạt động trong trường đều đã chuyển vào các phòng ngủ chung, và khu tiền sảnh rộng rinh, lát đá phiến dội dang tiếng những bước chân đơn độc của Charlie. Lần thứ hai trong ngày, nó mở cánh cửa cổ dẫn tới Tháp Nhạc. Nó bước vô hành lang tối tăm và lần mò theo những bức tường đá thô nhám. Được chừng nửa đường, về phía tay phải, nó thấy một hốc tường nhỏ. Charlie nhích từng tí một trong bóng tối cho tới khi đến một dãy kệ hẹp, nhét đầy những cuốn sách trông buồn tẻ và nghiêm nghị.
“Hừ, mày phải là cái cửa không đó?”
Charlie đẩy một bên kệ sách, rồi lại đầy phía bên kia. Không có gì chuyển động. Có lẽ đó không phải là cửa gì cả. Lần lượt, Charlie bắt đầu rút từng cuốn sách ra, lục soát tìm quả đấm hay một cái tay cầm để mở cái cửa giả định. Nhưng không có gì.
“Trò đang làm gì vậy?”
Charlie giật bắn người. Một hình thù trong áo chúng tím lướt về phía nó.
“Sao trò lại ở đây?” Ông thầy Tantaluc Ebony hỏi.
“Em đang tìm văn phòng của thầy Manfred,” Charlie lắp bắp.
“Ra vậy,” ông Ebony quẳng cho nó một cái nhìn căm ghét tột độ, đến mức Charlie phải lùi lại, chết điếng vì kinh ngạc. Một mùi hổ lốn ngột ngạt lắp đầy lỗ mũi nó: mùi không khí tù túng, sáp đèn cầy, đồ mục ruỗng, nấm mốc và nhọ nồi.
“Trò cũng biết sợ là tốt đấy, Bone,” ông thầy lạnh lùng nói. “Trò là thằng quỉ nhỏ chuyên gây rắc rối, đúng không?”
Trước khi Charlie có thể trả lời, nét mặt người đàn ông ấy dường như tiêu đi, thay vào bằng một chuỗi những biểu cảm hoàn toàn khác nhau lướt qua trên khuôn mặt xanh xao của ông. Trong chừng một phần mười giây, Charlie cảm thấy, đằng sau những mặt nạ biến đổi đó, có một người nhìn ra nó, hiền từ. Tuy nhiên, nó chắc chắn là mình chỉ tưởng tượng ra điều đó, khi vẻ ơ hờ ngạo mạn trở lại trên gương mặt ông thầy giáo.
“Trò muốn tìm văn phòng,” thầy Ebony ấn vô một mắt gỗ ở trên nóc kệ sách. Ngay lập tức cái kệ vung qua một bên, để lộ nội thất tối lờ nhờ của một thư phòng nhỏ.
“Em cám ơn thầy,” sợ sệt, Charlie bước vô phòng.
“Ta để trò ở lại nhé. Cúc cu,” giọng nói của ông thầy quái dị thay đổi một trời một vực. Ông vẫy những ngón tay dài ngoẵng và vọt đi mất, miệng ngâm nga một giai điệu hơi quen quen.
Charlie nhìn quanh quất căn phòng. Rất ngăn nắp. Một tấm hình giáo sư Bloor trông trẻ hơn, với một cậu bé và một phụ nữ tóc đen, tero phía bên lò sưởi. Manfred và ba mẹ hắn. Dưới cửa sổ có một cái bàn làm việc, và một ghế bành xoay bọc da quay mặt ra mảnh sân gạch ngoài kia. Charlie bước tới cái bàn và đặt bài chép phạt của nó lên một chồng giấy tờ. Nó vừa dợm quay đi thì có thứ gì đó đập vô mắt nó. Một bức hình in hình một con ngựa để bên cạnh chồng giấy. Charlie cầm bức hình lên. Bên dưới còn có những tấm hình khác hình in những bộ xương ngựa.
Lúc này, đáng ra Charlie nên rời khỏi phòng, nhưng nó lại chú ý đến một gói hình nằm ở cuối bàn. Charlie không thuộc loại nhóc con chịu rút lui khi đang thấy thứ gì đó thú vị. Và nó luôn không quan tâm đến những hình chụp. Khi cẩn thận cầm gói hình lên, nó đã không nghe được tiếng “soạt ” nhỏ ở sau lưng.
Mấy tấm hình thiệt đáng thất vọng. Chỉ có hai người trong hình: một ông và một bà. Cả hai đều ở tuổi trung niên và trông hơi tuềnh toàng. Người đàn ông tóc thưa rỉnh và đeo mắt kiếng, người phụ nữ mặt tròn, tóc ngắn và thẳng, răng rất dài. Bà ta luôn cười trong tất cả các tấm hình. Không, không phải mỉm cười, Charlie khẳng định. Đúng hơn, có vẻ như bà ta đang cắn một vật vô hình giữa hai hàm răng.
Trong hầu hết các tấm hình, hai ông bà này đều ngồi cạnh nhau trên ghế xô phe. Nhưng có hai tấm chụp trong vườn và hai tấm nữa chụp trong nhà bếp. Charlie đang xem kỹ căn bếp có vẻ trống trơn thì đột nhiên nó nghe tiếng người phụ nữ nói.
Cười lên coi, Usher. Chúng ta muốn làm thằng bé hài lòng mà.
Tôi không thích con nít. Người đàn ông eo éo và nói như giọng mũi. Không bao giờ thích.
Sẽ không lâu đâu mà.
Chừng bao lâu?
Đến chừng nào thằng bé làm những gì họ muốn. Ông phải dùng phép thuật của mình, ông biết đó… để ngăn nó trốn.
Phép thuật? Người đàn ông rên rỉ. Cái khỉ…
Charlie nghe có tiếng bước chân. Nó vội vàng đút những tấm hình trở vô bọc và đặt lại chỗ cũ ở cuối bàn. Nhưng khi nó đi ra cửa, nó thấy cửa đã đóng chặt. Không tay nắm, không lỗ khóa, không chốt. Nó đã bị nhốt.
Charlie đập mạnh cửa.
“Chào! Có ai ngoài đó không? Tôi, Charlie Bone đây.”
Không có tiếng đáp lại.
Charlie lại đập cửa.
“Hây, thầy Ebony ơi! Thầy có ở đó không? Thầy Manfred ơi?”
Charlie tiếp tục gõ cửa và gọi suốt mấy phút, sau đó nó thôi không gọi nữa.
Trời bắt đầu tối. Charlie ngồi trong ghế bành và nghĩ về mấy tấm hình. Đột nhiên, điều này nảy ra trong đầu nó. Rằng họ là ba mẹ mới của Billy Raven. Billy đã luôn ao ước có ba mẹ tử tế và dễ mến và một mái ấm thực sự. Làm sao Charlie có thể nói cho biết sự thật này?
Khi Charlie đang ngồi trong bóng tối, phân vân trước tình thế tiến thoái lưỡng nan của mình, thì đèn ngoài sân vụt tắt, từng ngọn một, cho đến khi Charlie bị bỏ lại trong màn đem đen kịt. Nó đi quanh phòng, sờ soạng tìm công tắc đèn. Xem ra không có cái nào. Nó đẩy cửa. Nó gõ cửa và gọi, nhưng không ai đến. Đồng hồ nhà thờ lớn điểm 9 giờ. Charlie ngồi bệt xuống sàn nhà và ngủ gà ngủ gật.
Có tiếng động từ ngoài sân khiến nó thức giấc. Cộp! Cộp! Cộp! Charlie lắc cái đầu ngái ngủ của nó. Vó ngựa. Có một con ngựa trong mảnh sân gạch. Charlie đứng dậy. Nó chỉ có thể nhìn thấy cái khung sáng lờ mờ hình chữ nhật của cửa sổ, nhưng tuyệt nhiên không thấy gì ngoài sân.
Đồng hồ nhà thờ lớn điểm 10 giờ và tiếng vó ngựa mờ dần. Charlie định het lên lần nữa thì cánh cửa bật mở và một luồng sáng chói lói chiếu phực vô mặt nó.
“Mày làm cái quái gì ở đây, hả?”
Charlie nhận ra giọng nói trầm của giáo sư Bloor.
“Con đến để nộp bài chép phạt cho thầy Manfred, thưa ngài, và rồi cửa đóng sập lại.”
“Làm sao mày vô đây được?”
"Thầy Ebony đưa con vô, thưa ngài.”
“Vậy à?”
“Vâng, thưa ngài,”
Charlie chỉ mong giáo sư Bloor chĩa cây đuốc ra khỏi mắt nó.
“Hừm, mày bị cấm túc, Charlie Bone. Mày sẽ ở lại trường thêm một đêm nữa. Giờ thì về phòng ngủ chung của mày đi.”
Giáo sư Bloor lôi Charlie ra khỏi phòng và lẳng nó ra hành lang. Charlie về gần đến phòng ngủ chung của nó thì bà giám thị lù lù hiện ra từ một góc khuất và túm lấy vai nó.
“Ui da!” Charlie hét lên. “Nếu bà tính cấm túc con thì bà khỏi phải mất công. Con đã bị cấm túc rồi.”
Charlie nghe thấy tiếng bà cô Lucretia Yewbeam nghiến răng trèo trẹo.
“Im miệng, cho tới khi tao hỏi mày. Nãy giờ mày ở đâu?”
“Bị kẹt trong văn phòng của Manfred,” Charlie thở dài nói. “Thầy ấy yêu cầu con nộp bài chép phạt.”
“Chép phạt à? Ngay ngày đầu của học kỳ. Mày thiệt vô vọng. Tao không thể tin là chúng ta có họ hàng với nhau.”
“Con cũng vậy,” Charlie nói khẽ.
Sáng hôm sau, trên đường xuống ăn sáng, Charlie kể cho Fidelio nghe mọi chuyện xảy ra tối hôm trước. Thằng bạn nó chăm chú lắng nghe cho tới khi Charlie bắt đầu nói đến mấy tấm hình.
“Và em lại lắng nghe,” Fidelio nói một cách châm biếm.
“Em không thể nhịn được,” Charlie thú nhận. “Họ là một cặp ác ôn, anh Fido à. Nhưng emc ó thể nói với Billy thế nào đây?”
“Tụi mình hãy hy vọng là em sai, và mấy người đó không phải là ông bà de Grey.”
Hai đứa bước vô nhà ăn lớn và ngồi vô chỗ của chúng bên bàn khoa Nhạc.
“Mấy tấm hình ngựa thú vị đấy,” Fidelio nói khi quết bơ lên miếng bánh mì khô.
Billy Raven ngỏng cổ lên khỏi món cốm bắp.
“Anh vừa nói ngựa hả?”
“Nói với em sau, Billy,” Charlie nói. “Nhân tiện nói luôn, cuối tuần này anh bị cấm túc, vì thế anh sẽ bầu bạn với em.”
“Ba mẹ mới sẽ đến đón em vào thứ Bảy,” Billy nói.
“Sớm vậy sao?”
“Em sẽ có mái nhà của riêng em!” Billy nhảy cẫng lên ngay tại chỗ. “Dzeee!”
Charlie cười nhe răng. Nó không muốn làm tan nát hy vọng của Billy, nhưng chắc chắn là việc nhận con nuôi thực sự không diễn ra như thế. Làm sao gia đình Bloor lại không bị trừng phạt nhỉ? Họ giấu con nít khỏi họ hàng của chúng, họ trao chuyển trẻ mồ côi lòng vòng mà không cho chúng được lên tiếng, họ thậm chí còn làm các ông bố biến mất.
“Charlie!” Fidelio thúc khuỷu tay vô nó. “Nếu em không muốn ăn phần em thì để anh ăn cho.”
Charlie lùa nốt chỗ cốm bắp vô miệng, ráng lẹ hết sức.
“Em nghĩ là anh không muốn bị cấm túc cùng với em đâu hả?” Charlie hỏi.
Fidelio lộ vẻ bối rối.
“Xin lỗi. Không được rồi. Anh đã hứa sẽ chơi đàn trong ban nhạc của anh trai anh vào sáng thứ Bảy.”
“Ít nhất thì em cũng được thấy ba mẹ của Billy. Vụ đó chắc sẽ thú vị,” Charlie nói.
Trong giờ nghỉ giải lao đầu tiên, Charlie thấy Emma và Olivia đang chạy quanh sân.
“Ê, hai bồ!” Charlie la to, vừa thở hổn hển chạy tới bên cạnh bọn con gái. “Mấy bồ… ờ… có bận vào thứ Bảy không?”
“Tiệm sách!” Emma nói. “Đó là ngày bận rộn của dì Juia.”
“Ừ. Thế, bồ có bận không?”
Olivia ngừng chạy, và Emma dừng lại bên cạnh Olivia.
“Có không?” Charlie nói, hít một hơi thiệt sâu.
“Thực tình,” Olivia nghiêm trang nói, “thứ Bảy này chắc chắn sẽ là ngày quan trọng nhất đời tớ.”
“Đúng thế,” Emma xác nhận.
“Tớ sẽ thử vai cho một bộ phim. Đó là một bộ phim hoành tráng thực sự. Có ít nhất ba ngôi sao vĩ đại tham gia, và tớ sẽ là con gái của Tom Winston, hay ít ra tớ nghĩ mình sẽ đóng vai đó.”
“Tom Winston?” Charlie hỏi.
“Đừng nói với tớ là đằng ấy chưa bao giờ nghe nói đến Tom Winston à nhe,” Olivia nói, nhíu mày. “Ông ấy là một ngôi sao VĨ ĐẠI!”
“Ờ. Thôi. À, chúc may mắn. Ê, bồ dám sẽ nổi tiếng lắm, Livvie!”
“Dám chứ sao,” Emma trung thành nói.
“Có thể ,” Olivia nói với nụ cười tự tin.
“Vậy, bồ có còn nói chuyện với tụi này khi bồ nổi tiếng không?” Charlie hỏi.
“Đằng ấy nghĩ sao?” Nụ cười của Olivia nở rộng hơn.
Tiếng tù và đi săn rúc lên và Charlie không thể trả lời Olivia được, bởi vì hai con bé đã lao vụt đi và phóng tới cửa vườn trước Charlie thiệt lâu. Charlie kết luận là tụi ấy hẳn đã tập luyện suốt kỳ nghỉ vừa qua.
“Đoán thử chuyện gì coi!” Charlie nói khi ập vô phòng để áo khoác xanh da trời. “”Olivia Vertigo sắp trở thành một minh tinh màn bạc.”
Fidelio ngồi trên băng ghế, đang thay giày.
“Là sao?” Nó nói, đánh rớt luôn một chiếc giày thể thao.
Nhiều đứa khác hao hức nhìn Charlie, và Gwyneth Howells, đứa chơi đàn hạp, nói:
“Cái con Olivia Vertigo ấy lúc nào mà chả nghĩ mình là thiên tài.”
"Nhưng nó tài thiệt,” Rosie Stubbs nói một cách độ lượng. “Ý mình là, mình dám cá là nó sẽ nổi tiếng.”
Gwyeth ném cho con bạn thân của nó một cái nhìn khinh khỉnh, và Rosie nói:
“Dào, thôi mà, Gwyn, bồ phải chấp nhận rằng nó là một nữ diễn viên xuất sắc.”
“Nó sẽ thử vài vào thứ Bảy này,” Charlie bảo bọn chúng. “Để chọn một vai trong bộ phim hoành tráng. Nó sẽ là con gái của Tom Winston.”
“Nếu nó được nhận vai đó,” Gwyneth khịt mũi.
“Nó sẽ nhận được,” Fidelio nói. “Không bàn cãi.”
Chẳng mấy chốc toàn trường đã tràn ngập những lời xì xào, bàn tán về tiếng tăm sắp nổi như cồn của Olivia Vertigo. Và Olivia bắt đầu ước gì nó giữ bí mật việc thử vai của mình.
Rốt cuộc Charlie cũng xoay sở được để không gặp rầy rà trong thời gian còn lại của tuần, và khi thứ Sáu đến, nó nhận thấy mình không lo sợ về một đêm phải ở lại thêm tại trường như nó tưởng.
Nó đi xuống tiền sảnh chính để chúc Olivia may mắn trước khi con bé ra về, nhưng con bé không cám ơn Charlie.
“Phải chi đằng ấy đừng có rêu rao với quá nhiều người như thế,” nó cằn nhằn. “Xúi quẩy hết sức.”
Và nó sải bước đi lẹ, không thèm liếc lại đằng sau.
“Nó lo lắng ấy mà,” Emma giải thích. “Rất tiếc về vụ cấm túc của bồ, Charlie. Tụi mình sẽ gặp nhau vào Chủ nhật, nha?”
“Ở quán Cà Phê Thú Kiểng lúc hai giờ,” Charlie nói.
“Đồng ý.” Emma phóng theo sau Olivia, mấy bím tóc vàng, dài của nó nảy lưng tưng trên áo chùng.
Một mùi quen thuộc xộc lên mũi Charlie khi nó bước vô phòng ngủ chung, và nó chẳng hề ngạc nhiên khi thấy con chó của bà bếp trưởng, con May Phúc, đang ngồi dưới chân gi.ường Billy. Hôm nay con chó già trông ủ rũ hơn bình thường. Charlie nghĩ là do nó đã quá già và sức khỏe kém (May Phúc mập ú nu), nhưng Billy lẹ làng đính chính cho con chó.
“Nó đang buồn bực,” Billy nói, thằng bé đang cố sắp đồ đạc vô cái va ly cũ mèm. “Một phần vì em sắp được nhận làm con nuôi, nhưng chủ yếu là do nó đã trông thấy một việc kinh khủng xảy ra.”
"Hả?” Charlie chìm xuống chiếc gi.ường sát bên gi.ường của Billy. “Nó đã thấy gì?”
Billy liếc May Phúc, con chó vừa phụt ra một tiếng rên nhỏ.
“Thiệt khó giải thích. Em cứ nghĩ là mình hiểu sai và nó có ý gì đó khác cơ, nhưng rồi nó nói, ‘Thật! Thật! Ngựa bay qua tường.’”
“Cái gì?” Chân mày Charlie dựng đứng lên.
Billy ngưng sắp xếp đồ và ngồi xuống gi.ường.
“Nó nói nó đã ở tầng cao nhất của tòa nhà trong một căn phòng dài thật dài. Có Manfred ở đó, có lão Ezekiel, và ba bà cô của anh, Charlie. Nó nói có những thứ ở trên bàn: lông thú, đồ kim loại và… những mẩu xương rất, rất xa xưa.”
Da đầu của Charlie như bị kim châm.
“Loại xương gì?”
“Xương ngựa.”
May Phúc bất thình lình gù một tiếng trong họng.
“Nó nói rằng những mẩu xương đó biến thành một con ngựa.” Billy nói rất chậm rãi, như thể nó đang chờ Charlie ngăn nó lại. Nhưng Charlie chỉ lắng nghe, há hốc miệng.
“Hai trong số các bà cô của anh thao tác với các thứ trên bàn,” Billy tiếp, “và lão Ezekiel có một hôp thiếc tạo ra tia lửa. Có một tiếng nổ và nhiều khói và một con ngựa nhảy ra khỏi bàn rồi đâm xuyên qua tường.”
“Họ đang mưu tính cái quái gì vậy? Anh không biết là mấy bà cô của anh có thể làm được những trò như thế.”
“Có bốn người bọn họ, nhớ chưa? Tính luôn cả anh Manfred và lão Ezekiel. Có lẽ như vậy thì quyền phép của họ mạnh hơn.” Billy nhíu mày và lắc đầu. “Chắc chắn đó là con ngựa em đã thấy trên trời.”
Charlie nhận thấy sự việc kỳ lạ này đã rõ lên rất nhiều: những tấm hình trên bàn của Manfred chẳng hạn, sự hiện hữu ma quái trong vườn, và tiếng vó ngựa Charlie nghe thấy trong mảnh sân gạch.
“Nhưng mục đích của tất cả những việc này là gì?” Nó lẩm bẩm.
Billy nhún vai:
“Có lẽ tụi mình sẽ không bao giờ biết được.”
“Ơ, anh nghĩ tụi mình sẽ biết chứ. Thậm chí còn chắc chắn kìa.”
“Nếu em gặp con ngựa, em có thể nói chuyện với nó,” Billy nói.
“Có lẽ đằng nào em cũng sẽ nói chuyện với nó,” Charlie suy đoán.
Billy ngó Charlie trân trân qua hai tròng kiếng tròn dày.
“Ừ,” Billy nói vẻ tư lự. Nó nhảy khỏi gi.ường và trở lại việc sắp xếp đồ đạc. Đống quần áo lèo tèo nằm trên gi.ường chỉ chiếm phân nử chiếc va-li rộng.
“Em không có gì hơn nữa. Chỉ vậy thôi.” Billy đóng va-li lại và kéo lết va-li trên sàn nhà.
“Không có gì nữa sao?”
Charlie chạnh lòng. Đồ chơi, sách truyện, trò chơi games, giày thể thao, quần áo mặc cuối tuần của Billy đâu? Ở nhà, chiếc tủ trong phòng Charlie chứa đủ thứ. Nhiêu đây là tất cả tài sản Billy có trên đời này sao?
“Còn một thứ,” Billy lôi từ trong tủ đầu gi.ường ra một cái bịch ni lông và dốc ngược bịch ra gi.ường. Ngoài những cuốn sách nhỏ mà bà bếp trưởng cho nó, có một bộ bài, một con gấu nhỏ một tai, và một thứ bọc trong giấy mềm ố vàng.
“Gia đình Bloor thường cho em đồ ăn để làm quà,” Billy vừa nói vừa cẩn thận mở gói giấy ra, “vậy nên của cái của em bị ăn gần hết rồi.” Nó toét miệng cười bẽn lẽn. “Nhưng em giữ kỹ những cái này.”
Nó lột lớp giấy cuối cùng ra, để lộ bốn cây đèn cầy trắng.
“Em tìm thấy chúng trong tủ buýp-phê của cô em trước khi em được gởi vô Học viện Bloor. Con chó của cô em nói với em là mấy cây đèn cầy đi chung với một ổ bánh sinh nhật, nhưng cô em không bao giờ cắm chúng lên bành, và em không bao giờ biết ai đã gửi bánh cho em.”
Charlie nhìn săm soi bốn cây đèn cầy đang nằm trong tay Billy. Mỗi cây trông như thể được làm từ lông chim cuộn lại. Những sợi sáp mỏng manh cuốn quanh thân nến theo hình xoắn ốc khiến chúng có vẻ huyền bí và đầy ma thuật.
“Em không bao giờ đốt chúng,” Billy nói nhỏ.
“Anh thấy rồi,” Charlie nheo mắt lại và cúi sát hơn vào mấy cây đèn cầy. “Anh thắc mắc không biết ai đã gửi chúng cho em.”
“Ước gì em biết được điều đó.” Billy cẩn thận xếp mấy cây đèn cầy lên tờ giấy mềm và đút chúng vô túi áo.
Thiệt sáng suốt là nó đã làm như vậy, bởi vì ngay phút kế tiếp, bà cô Lucretia Yewbeam xông vô phòng ngủ chung và bắt đầu xem xét việc gói ghém đồ đạc của Billy.
“Bừa bãi quá,” bà ta nói, quăng tất cả mọi thứ xuống sàn nhà. “Xếp quần áo cho ngay ngắn lại coi, Billy Raven. Ba mẹ mới của mày không chấp nhận việc đóng gói cẩu thả đâu.”
“Ba mẹ mới của Billy là ai vậy?” Charlie hỏi.
“Không phải việc của mày,” bà cô của nó quát.
“Nhưng đó là việc Billy,” Charlie cãi. “Nó chỉ biết tên của họ, không biết họ gốc gác ở đâu, hay họ có gia đình không, hay họ có sống…”
“Mày không cần biết mấy thứ đó,” bà giám thị nói. “Billy sẽ biết ngay thôi. Giờ thì chải đầu rồi hẵng đi ăn tối , thằng kia. Trông mày như mới bò ra khỏi gi.ường vậy.
Charlie khịt một tiếng kinh tởm. Thế nào bà cô Lucretia Yewbeam cũng nhắc đến đầu tóc nó mà. Chắc hẳn bà ta đã đoán được là nó quên đem theo lược chải đầu.
Khi bà giám thị đi khỏi, Charlie giúp Billy sắp xếp lại va-li. Lần thứ hai, nhưng trông cái va-li cũng chẳng gọn gàng gì hơn.
“Vậy được rồi,” Billy hớn hở nói. “Nghĩ coi, em có nhà để về rồi.”
Charlie tự hỏi liệu thằng bé này có hạnh phúc như nó làm ra vẻ như thế này không. Đêm đó, Billy cứ lăn lộn mãi trong tấm khăn trải gi.ường của mình. Bắt đầu cuộc dống mới với ba mẹ lạ hoắc hoàn toàn không phải là một việc vẫn xảy ra mỗi ngày được nữa.
 
Ông bà de Grey đến ngay trước giờ ăn trưa hôm thứ Bảy. Billy và Charlie đã trải qua cả buổi sáng làm bài tập về nhà trong phòng Nhà Vua. Hên là Manfred không có ở đó để trông chừng chúng, nên chúng không phải làm bài quá vất vả. Billy không nhắc gì đến cây gậy phép nữa, và Charlie cảm thấy rằng, có lẽ, những câu hỏi của Billy là ngây thơ.
Vào lúc mười hai giờ, Manfred thò đầu qua cửa và nạt:
“Billy, mang va-li của trò xuống tiền sảnh.”
“Thưa vâng, thầy Manfred,” mắt Billy căng bự như cái dĩa để tách. Trông nó vừa sung sướng lại vừa sợ sệt.
“Để em giúp nó một tay,” Charlie đề nghị.
“Không cần mày. Đây là việc của Billy.”
Charlie theo Billy lên lầu khi thằng bé đi lấy va-li.
“Tạm biệt,” Billy nói. Mặt nó đỏ hồng lên vì phấn khích, nhưng thiệt khó mà biết nó đang nghĩ gì.
“Có lẽ em sẽ gặp anh vào Chủ nhật.”
"Hay quá. Bảo ba mẹ em đưa em tới nhà anh, rồi anh sẽ dẫn em tới quán Cà Phê Thú Kiểng,” Charlie nói.
“À,” Billy đặt va-li xuống. “Còn con Rembrandt sẽ ra sao đây? Anh có nghĩ là họ sẽ cho em nuôi nó trong nhà không?”
“Có lẽ không. Nhưng đừng lo. Anh sẽ nhờ bà bếp trưởng lo liệu cho em. Bà ấy sẽ đem nó đến quán cà phê.”
Billy mỉm cười:
“Vậy thì gặp anh vào Chủ nhật.”
Vài phút sau khi Billy rời khỏi phòng, Charlie nghe có tiếng người nói ở ngoài mảnh sân gạch. Nó nhìn ra và thấy một người đàn ông và một phụ nữ đang nói chuyện với giáo sư Bloor. Không còn nghi ngờ gì nữa, họ là những người trong mấy tấm hình của Manfred. Ông hiệu trưởng dẫn họ qua cánh cổng chính, nhưng ngay trước khi họ biến khỏi tầm mắt, người đàn ông nhìn lên cửa sổ của Charlie. Charlie vội núp ra sau tấm rèm.
Từ vẻ mặt không cười của ông de Grey, Charlie có thể khẳng định là ông ta được ban phép thuật rất hùng mạnh, một phép thuật mà sẽ gây rắc rối cho Billy Raven.
“Nhưng mà là phép gì nhỉ?” Charlie tự hỏi.
Lúc một giờ trưa, nó thơ thẩn đi xuống căn-tin. Không có ai ở đó, kể cả Manfred. Charlie đứng sau cái quầy trống không. Không thấy một cái dĩa, hay một bộ dao nĩa nào.
Dáng người tròn nhỏ của bà bếp trưởng bươn ào qua cửa nhà bếp.
“Charlie, Charlie, Charlie!” Bà rối rít. “Ta không biết là con ở đây. Con muốn ăn trưa chứ hả?”
“Dạ, có,” Charlie hấp tấp nói. “Con sắp chết đói rồi.”
Bà bếp trưởng ra hiệu cho nó vô nhà bếp.
“Nếu chỉ có mình con, Charlie, thì chúng ta cùng ăn chung… ở chỗ của ta.”
Charlie theo bà bếp trưởng đi qua cánh cửa đóng tự động bên hông quầy, và năm phút sau Charlie đã được húp một chén xúp củ cải vàng ngon tuyệt.
“Ta nấu gần năm lít xúp, cho gia đình Bloor,” bà bếp trưởng nói. “Ta e là không còn bò rô-ti nữa, nhưng có bánh trừng đường sô-cô-la.”
Bánh mì vòng tự tay bà bếp trưởng làm, nóng và giòn, và bà bảo Charlie muốn ăn bao nhiêu bơ là tùy ý. Sau hai chén xúp, bốn cái bánh mì vòng quết bơ và một lát bánh trứng đường đặc biệt thiệt to của bà bếp trưởng, nó cảm thấy mình đã ăn đủ để sống tới Chủ nhật.
“Đây là món xúp ưa thích nhất của Billy,” bà bếp trưởng buồn bã nói. “Ta với nó luôn ăn trưa cùng nhau vào cuối tuần.” Bà rút một chiếc khăn mùi xoa lớn màu trắng ra và hỉ mũi ầm ĩ.
“Bà bếp trưởng, bà không lo lắng khi Billy được nhận làm con nuôi quá đột ngột như vậy sao?” Charlie hỏi.
“Ta nghĩ là có. Ta không thích bộ dạng của mấy người de Grey đó.” Bà lắc đầu. “Họ không có vẻ là những bậc cha mẹ, Charlie à. Nhìn là thấy liền.”
“Bà nghĩ họ có để Billy nuôi Rembrandt không?”
“Ta cho là không. Nhưng ta sẽ đem chàng tí bé bỏng đó đến quán Cà Phê Thú Kiểng. Ông bà Onimous sẽ giữ nó an toàn, và Billy có thể đến thăm nó vào cuối tuần.”
Bà bếp trưởng là một trong số ít hg người lớn trong trường mà Charlie biết chắc chắn đã được thừa hưởng một phần quyền phép huyền bí của Vua Đỏ. Tuy nhiên, đến nay gia đình Bloor vẫn không biết bà thực sự là ai, và bà quyết tâm giữ như thế. Bà đã chọn việc dành cả đời mình để trông nom những đứa trẻ có phép thuật ở Học viện Bloor, nhưng không phải lúc nào ba cũng bảo vệ được chúng, và điều này khiến bà vô cùng buồn phiền.
Thình lình, bà bếp trưởng nhoài người sát lại gần Charlie và thì thào:
“Ta nhận được một là thư từ một người gần gũi với Billy.”
“Ai vậy?” Charlie nghiêm trang hỏi.
Bà bếp trưởng ngoái nhìn ra sau:
“Ta chưa thể nói cho con biết tên ông ấy được, Charlie. Ông ấy là một người họ hàng xa của Billy và khi ba mẹ của thằng bé tội nghiệp mất, người… người này… cố nhận thằng bé làm con nuôi. Nhưng ông ấy và gia đình Bloor, à, nói sao cho sòng phẳng nhỉ, cực kỳ không thuận với nhau. Với gia đình con cũng y như vậy. Nhà Yewbeam suýt nữa thì ám sát được người đàn ông đó, cho nên ông ta phải rút lui, chuyện là vậy.”
Quai hàm của Charlie xệ xuống.
“Ám sát? Bà nói là gia đình con…?”
“Con ngạc nhiên lắm sao, Charlie?”
“Dạ không.” Charlie thú nhận, nghĩ đến mấy bà cô của nó. “Con nghĩ là không. Nhưng làm sao gia đình Bloor có được Billy?”
“Cô của nó đã ký giấy trao nó, đơn giản thế thôi.” Bà bếp trưởng vuột ra một tiếng “hứ”, vẻ khinh thường. “Một phụ nữ yếu đuối. Chắc hẳn họ đã mua chuộc bà ta.”
"Nhưng tại sao họ lại muốn thằng bé dữ vậy?”
“Do phép thuật của nó, Charlie. Mặc dù phép thuật đó không lộ ra cho mãi đến khi thằng bé sáu tuổi, nhưng họ đã nghi ngờ rồi. Dòng họ Raven là một dòng họ rất tài phép. Người họ hàng của Billy đó nói với ta rằng Billy là chủ nhân hợp pháp của Lau Đài Gương.”
“Lâu Đài Gương?” Charlie sốt sắng nói. “Chà! Bà kể cho con nghe nữa đi.”
“Charlie, cái vẻ háo hức hiện ra trong mắt con kìa. Đừng có nhúng mũi vô những chuyện không liên quan đến con.”
“Con chỉ muốn biết nó ở đâu thôi mà,” Charlie nói, vẻ ngây ngô.
“Nói thiệt, ta không biết,” bà bếp trưởng thú nhận. “Có lẽ Ông cậu Paton của con có thể chocon biết. Theo như ta biết, ông ấy là một quý ông hiểu biết thâm sâu.”
Đáng lý ra Charlie còn nghe được thêm nữa, nhưng họ bị gã đàn ông giúp việc vặt, gã Weedon, cắt ngang một cách thô lỗ. Thò cái đầu trọc qua cửa nhà bếp, gã rống lên:
“Ra là mày ở đây, thằng Bone kia. Mày có cả thảy năm phút để chuẩn bị.”
“Sao vậy? Con tưởng con được ở đây tới giờ uống trà.”
“Sao vậy? Sao vậy?” Gã Weedon nhái lại bằng giọng rỉa rói. “Bởi vì sẽ tiện cho bà cô mày tới đón mày, chứ còn sao nữa. Xem ra mày không để ý là xe buýt trường không chạy vào cuối tuần, và hình như không ai khác trong gia đình mày biết lái xe… ít nhất là vào ban ngày.”
“Ồ,” Charlie cảm thấy xấu hổ cho Ông cậu của mình…
“Vậy thì, tạm biệt bà bếp trưởng. Cám ơn bà về bữa trưa.”
“Tạm biệt, Charlie. Ngoan nhé,” bà bếp trưởng nháy mắt với nó.
Charlie theo gã Weedon đi ngang qua những quầy bếp, những bồn rửa trống rỗng, những kệ chén dĩa bằng sứ và những dãy xoong nồi sáng lóa.
“Lẹ lên,” gã Weedon giục. “Bà ấy không thể chờ mãi được đâu.”
Họ ra tới tiền sảnh, nơi Charlie thấy bà cô Eustacia đang đi đi lại lại trước cổng chính. Một cảm giác kinh tởm, muốn phát bệnh chộn lên trong bụng Charlie. Bà cô Eustacia chuyên lái xe như điên. Bà là tài xế duy nhất có thể khiến nó say xe.
“Lẹ lẹ coi! Lẹ!” Bà cô Eustacia nóng nảy. “Bọn tao đã kiếm mày khắp nơi.”
“Cháu phải đi lấy đồ đã,” Charlie nói, nghe đến cây gậy phép giấu dưới nệm gi.ường của nó.
“Ở đây cả rồi!” Bà cô Eustacia đá cái túi xách nằm dưới chân. “Bà Lucretia đã tốt bụng gói ghém cho mày đó.”
“Nhưng… nhưng… cháu có thứ phải cho vô đó,” Charlie nói một cáh tuyệt vọng.
“Vậy thì lẹ lên,” bà cô của nó buông một tiếng thở dài bực dọc, rõ to.
Charlie giật lấy cái túi của nó và vọt lên phòng ngủ chung. Nhấc mép nệm gi.ường lên, nó rờ tay xuống dưới. Cây gậy phép không có ở đó. Hoảng hồn hoảng vía, nó nhấc cả hai đầu và hai bên tấm nệm lên. Cuối cùng, nó đẩy hẳn cái nệm ra khỏi gi.ường. Cây gậy phép đã biến mất.
Charlie lôi tấm nệm về lại chỗ cũ, và xếp gọn chăn mền. Cái cảm giác bồn chồn trong bụng nó càng trở nên tệ hại hơn.
“Nãy giờ mày làm cái khỉ gì vậy, hả?” Bà cô Eustacia hạch hỏi khi Charlie cuối cùng cũng kéo lết cái túi trở xuống tiền sảnh.
“Cháu không tìm thấy,” Charlie đâu khổ nói. “Đồ của cháu.”
“Chậc! Ta không thể chờ được nữa,” bà cô nó dòm đồng hồ. “Ta đã nói với bà Venetia là sẽ quay về lúc hai giờ. Lại đây và lẹ lẹ cho xong đi.”
Gã Weedon, lấp ló gần cổng chính nãy giờ, nói:
“Sẵn sàng chưa? Một, hai, ba.”
Bà cô Eustacia tặc lưỡi một cách sốt ruột khi gã Weedon rút chùm chìa khóa móc ở sợi dây xích gắn với dây lưng của gã ra. Chọn lấy một chiếc chìa khóa sắt khổng lồ, lão tra nó vô ổ khóa, xong rồi tháo hai cái chốt dài ra. Cánh cổng bật mở.
“Xin kính mời quý bà,” gã Weedon vừa nói vừa cúi đầu.
“Dẹp trò đó đi,” bà cô Eustacia la quang quác.
Khi Charlie theo bà ta ra ngoài, nó nhận thấy vali của Billy Raven đang dựng ở một góc tiền sảnh. Vậy là thằng bé vẫn còn ở trong học viện. Liệu nó có bị giải đi mất trước khi có thể nhìn ông bà Grey rõ hơn?
Chiếc xe hơi màu đen của bà cô Eustacia đậu chình ình cạnh vòi phun nước hình đàn thiên nga. Ngay khi Charlie vừa leo vô băng ghế sau, bà ta vọt đi liền, cắt xẹt các góc đường và đụng bùm bụp vô lề đường, rú ầm ầm sai chiều trên con đường một chiều, bóp còi inh ỏi vào mặt khách bộ hành đang băng qua lối dành cho người đi bộ, vù vù qua mặt những người đi xe đạp hết sức nguy hiểm, vượt quá giới hạn tốc độ và né được những chiếc xe hơi đang đậu chỉ trong gang tấc. (À không, hình như có đụng bể ba chiếc kính chiếu hậu.”
Trước nỗi kinh hoàng của Charlie, bà cô Eustacia lái xe đến Ngách Tối, một con hẻm tối mò nơi ba bà cô của nó sống trong những căn nhà liên kế, tất cả đều mang số 13. Căn nhà thứ ba được bao bọc trong giàn giáo, nhưng đằng sau những miếng ván và thép xếp chồng chất ấy, có thể thấy thấp thoáng một tòa nhà không mái, đen đủi – những gì còn sót lại của căn nhà bà cô Venetia.
“Nhìn cho kỹ đi, Charlie,” bà cô Eustacia nói, dừng xe lại đánh két bên ngoài căn nhà ở giữa. “Mày phải chịu trách nhiệm cho đống điêu tàn đó.”
“Không đúng,” Charlie phản đối.
“Không hoàn toàn trực tiếp,” bà ta thừa nhận, “nhưng mày đi cùng với thằng em quỷ sứ của tao khi nó gây ra vụ này, mày về hùa với nó, đừng có chỗi cãi.”
“Thế bà muốn Ông cậu làm gì nào?” Charlie bướng bỉnh nói. “Tại bà Venetia định giết cô Ingledew.”
Bà cô Eustacia mở cửa xe ra và vung chân đáp xuống vỉa hè.
“Đi ra,” bà ta quát, rồi đóng sầm cửa lại.
Charlie chẳng sung sướng gì để mà vâng lời ngay. Nó ì ạch bước ra khỏi xe, kéo theo đằng sau là cái túi.
“Giờ thì cút,” bà cô Eustacia nói, chỉ tay xuống con hẻm. “Mày có chân có cẳng. Mày có thể đi bộ về nhà.”
Charlie quay đi và chạy ra ngõ hẻm. Nó không mất công cám ơn bà cô đã chở nó về được nửa đường. Nhưng khi nghe tiếng cửa trước của nhà bà đóng cái rầm, nó đứng sựng lại và ngoái nhìn ngôi nhà đổ nát. Nó chợt nhớ tới cây đàn piano trông thấy trên cao chót vót khi bức tường của căn nhà đang bốc cháy đổ ập xuống, và nó nhớ lại cứ rơi khủng khiếp của cây đàn, đến giai điệu kỳ quái khi cây đàn rớt sầm vô những cầu thang tầng hầm và bể tan thành hàng ngàn mảnh.
Ai chơi đàn piano bị giấu trong gác mái của nhà bà cô Eustacia? Đó có phải là ba nó, bị cầm tù, bị thôi miên, bị mất trí nhớ? Và nếu thế thì, ba Lyell Bone của nó hiện giờ ở đâu?
“Về với con, ba ơi!” Tiếng thì thầm của Charlie vang dội trong con hẻm vắng tanh. “Cố lên, ba.”
Trong khi Charlie đang trên đường về nhà, thì Billy Raven dùng bữa đầu tiên với ông Usher và bà Florence de Grey. Họ thích Billy gọi tên thánh của họ hơn, bà Florence nói với Billy, vì họ cảm thấy đã quá trễ cho họ để được gọi là Ba, Mẹ. Họ không bao giờ quen với cách gọi đó. Billy hằng mong chờ được gọi ai đó là “mẹ”, nhưng nó quyết định chấp nhận tất.
Phòng ăn của gia đình Bloor cách thư phòng của giáo sư Bloor hai phòng ở chái phía tây. Đó là một căn phòng hẹp có cửa sổ dài nhìn ra vườn. Các bức tường được dán bằng giấy sọc đỏ vang, và trần nhà cao đến nỗi Billy hầu như không thể nhận ra những hình thù kỳ lạ phủ xuống quanh những đồ đạc. Nó nghĩ có lẽ đó là những máng xối hình đầu thú.
Một bộ đèn chụp treo phía trên chiếc bàn gỗ mật hình bầu dục, và mặc dù hôm nay trời ấm áp, nhưng một đống củi đốt vẫn cháy trong vỉ lò sưởi bằng đá hoa cương sậm màu. Ngay cả mùa hè, lão Ezekiel cũng bọc mình trong tấm mền len kẻ ô vuông. Lão ta già nua và lạnh lẽo thấy tận linh hồn.
Hôm nay, lão già ngồi ở vị trí quan trọng nhất bàn, lưng quay ra cửa sổ. Lão nhai với cái miệng há to, và thỉnh thoảng, những mẩu đồ ăn rớt xuống đùi. Ở đầu bàn bên kia, giáo sư Bloor cứ nói chuyện thật lớn với ông bà de Grey hoài, ráng làm trệch hướng chú ý của mọi người khỏi cái thói ăn uống kệch cỡm của ông nội ông ta.
Billy bị ép chặt giữa bà giám thị và Manfred, đối diện với cha mẹ tương lai của nó. Đồ ăn từ dãi của nó bốc hơi làm mờ cả mắt kiếng, và khi nó cố lau chúng bằng khăn ăn thì bà giám thị rít lên:
“Khăn tay!”
Billy không có khăn tay. Nó hấp háy ngó những cái dĩa chất ngồn ngộn thịt và rau. Rõ ràng là gia đình Bloor đang cố tạo ấn tượng với khách khứa của họ. Billy bất đầu ngán ngẩm cuộc trò chuyện tẻ nhạt giữa họ vói nhau. Nó lén nhìn “mẹ” mới của mình ở bên kia bàn, và bà ta đáp lại ánh nhìn của nó bằng những nụ cười xẹt qua, lộ cả răng, nhưng không bao giờ lên được tới mắt bà ta.
Việc mỉm cười đối với ông de Grey còn hơn cả một cuộc đấu tranh gian khổ. Ông ta chỉ có thể cười được xệch mép. Billy tự hỏi không biết nó có gây thất vọng cho “ba” mới của nó hay không. Có lẽ người đàn ông trông khinh khỉnh này đã hy vọng về một cậu bé tóc nâu bóng mượi và một làn da khỏe mạnh – một cậu bé có đôi mắt bình thường không cần đeo kiếng.
Nếu đúng thực là ông bà de Grey từ lâu đã muốn nhận nuôi một đứa bé, theo như họ nói, vậy thì tại sao trước đó họ không tranh thủ đi kiếm một đứa? Và tại sao trước đây gia đình Bloor lại không nghĩ Billy là một ứng viên thích hợp?
“Ăn hết đi Billy,” bà cô Lucretia nói. “Chúng ta muốn ăn bánh pút-đinh.”
Billy ấn một miếng khoai tây nữa vô miệng và cố nuốt. Dường như có một bức tường ở bên trong bao tử nó, không để cho thức ăn đi xuống. Nó thôi ăn và đặt dao nĩa gọn gàng lên dĩa.
Bà giám thị thở dài và thu dọn dĩa của nó.
“Thằng bé hồi hộp quá đấy mà,” bà ta nói vơi ông bà de Grey. “Tối nay cho nó một quả trứng. Nó thích trứng lắm.”
Billy tự hỏi điều gì khiến bà giám thị nói như vậy. Làm sao bà ta biết nó thích cái gì? Bà ta và nó thậm chí còn chưa bao giờ ngồi ăn cùng bàn nữa là.
Bà cô Lucretia dọn sạch các dĩa ăn và “ồ” lên một tiếng thích thú khi gã Weedon xuất hiện với ổ bánh trứng đường sô-cô-la thiệt to. Billy vốn thích sô-cô-la, nhưng nó không sao ăn nổi món bánh trứng đường ấy. Một miếng cũng không. Nó nhìn chằm chằm vô phần bánh bự mà bà giám thị đặt phịch xuống trước mặt nó. Nó ước ao có thể cho Rembrandt phần bánh ấy, nhưng nó không dám nhắc đến chuột. Nó không được phép nuôi chuột. Gia đình Bloor nhất định sẽ giết chuột của nó mất.
Bà giám thị lấy đi phần bánh trứng đường không hề được đụng tới của Billy với cái nhìn quạy quọ. Và rồi chiếc bàn được dọn dẹp sạch bong. Mọi người đứng lên và ngồi xuống trong khi Billy vẫn ở nguyên chỗ nó đang ngồi, bức tường trong bao tử nó nặng dần lên từng phút.
Bà de Grey đặt một chiếc giỏ xám lên bàn. Bà ta rút ra ba tờ giấy và đặt chúng trước mặt Billy.
“Bây giờ là lời tuyên thệ của trò, Billy,” giáo sư Bloor nói bằng giọng nghiêm nghị.
“Lời tuyên thệ?” Billy nói, yếu xìu.
“Đúng,” giáo sư Bloor gầm vang. “Việc nhận con nuôi đâu phải cứ thế mà xảy ra. Chúng cần phải được sắp đặt. Lời giao hẹn phải được thực hiện.”
Lão Ezekiel nhoài người về phía trước, hai cùi chỏ để lên bàn, hia nắm tay chụm vô má.
“Bà de Grey là người giữ lời tuyên thệ, Billy. Biết nó là gì không?”
Billy lắc đầu.
“Bà ấy giữ giấy tờ!” Lão Ezekiel cười he hé một cách khiếm nhã. “Trước khi mày về ngôi nhà mới xinh xắn của mày, mày phải ké một bản tuyên thệ, thề sẽ làm những điều cụ thể được ghi trong những tờ giấy trước mặt mày đó. Hiểu chưa?”
“Dạ hiểu, thưa ông.”
“Hãy đánh dấu kiểm vô những ô ghi ‘Có’, và ký tên ở cuối,” bà de Grey nói với giọng thạo việc.
Thò một móng tay dài, bà ta ấn một hành kẻ chấm chấm ở cuối một trong những tờ đơn, và rồi bà ta nở nụ cười.
“Con buộc phải làm thế ạ?” Billy đánh bạo hỏi.
"Nếu mày muốn được nhận làm con nuôi,” Manfred nói, đôi mắt đen của hắn xoáy vô mặt Billy.
Bà de Grey trao cho Billy một cây viết và nó bắt đầu đọc mẫu đơn đầu tiên:
1.Tôi hứa luôn luôn nói sự thật.
2.Tôi hứa im lặng sau 7 giờ (Ba mẹ bạn cần 10 tiếng đồng hồ để ngủ.)
3.Tôi hứa mặc những bộ quần áo đã được chọn cho tôi (Và chúng cũng rất đẹp.)
4.Tôi hứa không bao giờ đòi ăn (Vì tôi sẽ được cho nhiều đó ăn.)
5.Tôi hứa không bao giờ bàn tán với những đứa trẻ khác về những gì xảy ra trong Ngôi Nhà Bất Chợt.
6.Tôi hứa trả lời, một cách thành thực, bất cứ câu hỏi nào liên quan đến những hậu duệ của Vua Đỏ, đặc biệt là Charlie Bone.
Billy ngỏng lên.
“Tại sao?” nó hỏi. “Tại soa con phải trả lời những câu hỏi về Charlie, lại còn ‘đặc biệt là’?”
“Đó là một điều kiện, Billy,” giáo sư Bloor nói, không giải thích. “Đánh dấu vô ô đi.”
Billy đánh dấu.
7.Tôi hứa tắm vào ngày thứ Sáu, thứ Bảy và Chủ nhật.
“Con không phải đọc hết danh sách,” bà de Grey nói. “Chỉ cần đánh dấu thôi… cưng.”
Tờ giấy mang lại cảm giác rất lạ. Các cạnh giấy đều cứng và khá nóng khi đụng vào.
Billy đã hoàn thành nhiệm vụ của nó và đẩy mấy tờ giấy ra xa. Bà Florence de Grey lẹ làng đút chúng vô giỏ xách của bà ta, cái giỏ mà, Billy thấy, đã ních căng những tờ giấy giống như những tờ của nó. Bà ta vỗ nhẹ cái giỏ một cách mãn nguyện. “Bình an vô sự,” bà ta nói và rồi, chồm người ra trước, bà ta bảo Billy:
“Ta giữ lời tuyên thệ,
Vậy chúng được lưu trữ
Cấm phá vỡ lời thế
Mà ta, người cất giữ.”
Và lần này nụ cười đã lên tới mắt bà ta.
“Mày nên coi chừng, Billy,” lão Ezekiel nói và cười một cái khịch. “Người ta đã thử phá vỡ những lời tuyên thệ được cất trong cái túi đó và, ôi trời ơi, họ đã phải trả giá cho điều đó mới kinh chứ.”
“Thiệt hả?” Billy sợ hãi hỏi.
Mọi việc diễn ra chóng vánh sau đó. Mọi người đứng dậy, trừ lão Ezekiel cứ nằng nặc đòi bắt tay Billy và chúc mừng nó.
“Đi nhé, cháu trai của ta,” lão nói, đẩy Billy một cái.
Giáo sư Bloor dẫn đường đi xuống tiền sảnh, ở đó ông ta vỗ lưng Billy và bảo với nó rằng nó cực kỳ may mắn khi tìm được ba mẹ tốt như vậy. Gã Weedon lại mở cánh cổng chính, và Manfred nhấc chiếc vali to, đưa cho Billy, thằng bé theo ba mẹ mới của nó băng qua quảng trường tới một chiếc xe hơi nhỏ màu xám.
Billy leo vô đằng sau xe cùng với vali của nó, và ngay khi bà Florence ngồi vô ghế bánh khách, ông de Grey cho xe chạy. Ông Usher là một tài xế cẩn thận và cuộc hành trình băng ngang thành phố của Billy thoải mái hơn nhiều so với cuộc hành trình Charlie vừa trả qua.
Họ đậu xe ở cuối một ngõ hẻm tối tăm rải sỏi cuội. Sương mù dày đặc đổ xuống và Billy gần như vuột mất ông bà de Grey khi họ xuống xe và bước lẹ lên ngõ hẻm dốc. Billy tất tả đi theo họ. Nó đi ngang một tấm biển gỉ sét ghi NGÕ QUANH CO. Đi tiếp, thấy một bảng lưu ý to gắn vô một khung cửa, đề: “Bọn vô gia cư không nên lảng vảng ở đây.”
Ngõ Quanh Co mỗi lúc một dốc hơn. Thỉnh thoảng Billy chúi nhủi vì bước hụt chân và chiếc vali to kềnh đập bụp xuống sỏi. Bây giờ xem ra chiếc vali đã nặng hơn nhiều và Billy bắt đầu kéo lê nó đằng sau, kịch, kịch, kịch. Ông bà Grey dường như không để ý gì.
Bức tường trong bao tử Billy đã trồi lên tới ngực. Nó đã tưởng tượng ngôi nhà mới của mình là một ngôi nhà ngập ánh nắng, có bãi có rộng, chứ không phải một nơi tối hù và bí ẩn như thế này. Một tấm biển gỗ kêu cọt kẹt ở trên đầu và nó bước lùi lại để đọc. Hàng chữ NGÔI NHÀ BẤT CHỢT, 10 MÉT được sơn màu đen trên nền đỏ. Mười mét đó dốc nhất trong toàn bộ đoạn đường. Hơi thở của Billy chuyển thành tiếng rên rỉ nho nhỏ khi nó cố kéo chiếc vali lên một cánh cửa, nơi ba mẹ mới của nó đang đứng dòm nó.
“Chúng ta tới rồi, Billy,” bà Florence nói.
Phía trên cánh cửa, dòng chữ Ngôi Nhà Bất Chợt được khắc hẳn vào đá. Ông Usher tra một chiếc chìa khóa kim loại to sụ vô một ống khóa to tương xứng với chìa khóa. Có tiếng “tạch” thật to và cửa bung vô trong. Billy leo lên hai bậc cấp và bước vô nhà.
Hành lang rộng một cách đáng kinh ngạc so với ngôi nhà mở đầu cho một ngõ hẻm tối tăm. Nó được lát đá hoa cương đen và trắng, và những bức tường xám của nó được trang trí bằng những hình nhân bằng thạch cao. Một chiếc gương khổng lồ có lồng khung mạ vàng vào chiếc gương ấy, nó chỉ thấy một nùi trắng. Tóc nó chăng? Phần thân người còn lại của nó bị nuốt chửng trong một màn sương xám. Sương mù đã theo họ vào nhà, hay luôn luôn có sương trong nhà?
“Lẹ coi, Billy,” bà Florence gọi to. Bà ta vẫy tay từ một dãy cầu thang đá.
Billy lộp cộp bước trên nền đá lát. Chiếc vali của nó lê ngoằn ngoèo và rít lên sau lưng. Nó bước đi giữa hai cây cột đá hoa cương cao và bắt đầu leo lên cầu thang. Một, hai, ba. Nó dừng lại để thở, tì mạnh vô thanh vịn cầu thang bằng kim loại. Ông Usher de Grey đã biến mất sau một cánh cửa ở tầng trệt.
“Lẹ lên! Lẹ lên!” Bà Florence gọi từ chỗ chiếu nghỉ. “Con sẽ thích phòng của con cho coi.”
Billy thở phù phù suốt những bậc thang còn lại và theo bà Florence đi qua một hành lang dài. Khi họ đến mút cuối hành lang, bà ta mở cửa, hô:
“Tới rồi!”
Billy bước vô phòng của nó: căn phòng đầu tiên trong đời là của nó thực sự chứ không phải của ai khác. Căn phòng thậm chí còn đẹp hơn nó mong đợi. Nó đặt vali xuống và nhìn lom lom ra chung quanh.
Chiếc gi.ường lớn hơn thứ gi.ường chật chội trong Học viện Bloor nhiều. Trên gi.ường có chăn nhồi lông mềm và áo gối đều là ca rô xanh da trời, thành đầu gi.ường bằng gỗ thông. Có một tủ gỗ thông cao và một tủ ngăn kéo tiệp màu, nhưng Billy gần như không để ý đến những chi tiết này. Nó đang nhìn chằm chằm chiếc TV kê trên bệ đen, và rồi tới chiếc máy vi tính trên một chiếc bàn gỗ thông. Của nó đấy sao?
“Là của con à?” Billy hỏi, như hết hơi.
“Của con tất,” bà Florence nói. Bà ta vẫn cầm khư khư chiếc giỏ xách và bà ta vỗ nhẹ vô cái giỏ, thiệt nhanh, trong khi bắn cho Billy một nụ cười lạ lùng:
“Miễn là con giữ lời hứa.”
“Lời tuyên thệ ấy ạ?” Billy nói.
“Chính xác. Giờ thì cứ thoải mái như ở nhà, Billy nhé. Có bồn rửa trong phòng con, thấy chưa, đằng sau bức bình phong ấy,” bà ta chỉ một tấm bình phong trắng trong góc, “Vậy nên, chẳng có cớ gì để đi ăn với đôi tay dơ. Hiểu chứ?”
Billy gật đầu.
“Bữa tối vào lúc 6 giờ.” Bà ta chỉ chiếc đồng hồ phía trên máy tính. “Thế nên, cũng không có lý do gì để trễ nải cả.”
Bà Florence quay gót và bước ra ngoài, đóng cửa lại sau lưng.
Billy ngồi trên gi.ường của nó. Có quá nhiều sự việc phải tiếp nhận. Nó muốn nói với ai đó về việc này. Charlie. Có lẽ Charlie sẽ đến chơi. Anh ấy chắc sẽ ngạc nhiên lắm.
Mới bốn giờ. Còn khối thì giờ mới tới bữa tối. Billy quyết định hỏi bà Florence, ngay bây giờ, xem nó có thể mời bạn tới chơi được không. Nó chạy xuống lầu và nhìn vô các phòng dưới tầng trệt: nhà bếp, phòng ăn, phòng khách rất sang trọng và phòng làm việc. Chẳng thấy tăm hơi ông bà de Grey đâu cả.
“Mọi người ơi!” Billy gọi to.
Không có tiếng trả lời.
Billy rón rén đi về phía cửa trước. Có lẽ nó nên ra ngoài và đi tìm Charlie. Khi nó đi đến chỗ chiếc gương ở hành lang, có một điều gì đó rất kỳ lạ xảy ra. Nó thấy mình không thể di chuyển xa hơn chút nào nữa. Một thanh chắn vô hình cản nó lại. Hết lần này đến lần khác, Billy cố trượt bàn chân về trước, nhưng chúng đụng phải một bức tường rắn… không có gì cả. Không thể nào ra tới được cửa trước. Nó cố đẩy hai tay qua thanh chắn vô hình, nhưng cứ như đẩy phải một bức tường sắt vậy.
Billy lùi lại và ngồi lên chiếc ghế cạnh cái tủ trống không. Nó không thể tin nổi điều đang xảy ra. Nó băn khoăn tự hỏi, nếu nó chờ vài phút nữa thì liệu thanh chắn ma quái kia có biến đi hay không.
Khi nhìn dáo dác quanh hành lang, nó nhận thấy không có áo khoác treo trên các mắc dựng ở ngoài hành lang, không có nón trên mắc, không có ba-toong, không có dù, không có ủng hoặc túi xách được nhét dưới khoảng không của mắc. Hầu như không có ai sống trong Ngôi Nhà Bất Chợt này. Và rồi, Billy chợt nhận ra một cái gì đó màu đen ở dưới chân mắc áo.
Nó đứng dậy và đến xem. Đó là một con mèo nhỏ xíu, mõm xám và đuôi ốm tong. Cuối cùng, đã có cái cho Billy nói chuyện với. Nó quì xuống cạnh sinh vật bé nhỏ và nói:
“Chào! Ta là Billy. Ta đến sống ở đây.”
“Chào mừng Billy,” con mèo nói bằng giọng yếu ớt. “Tôi là Vuốt Sắc. Về phần tôi, tôi rất vui vì cậu ở đây, nhưng với cậu, tôi rất lấy làm tiếc.”
 
Khi Charlie rời Ngách Tối, nó không về thẳng nhà mà rẽ vô một con đường dẫn tới tiệm sách Ingledew.
Tiệm sách Ingledew lọt thỏm trong một dãy nhà xây bằng đá ốp và sườn gỗ, bao quanh quảng trường nhà thờ lớn. Khi Charlie bước trên những lối rải sỏi cổ xưa về phía tiệm sách, nó nghe có tiếng đàn organ trầm lắng vẳng ra từ bên trong tòa nhà đồ sộ có mái vòm. Ba của nó trước kia từng là người chơi đàn organ cho nhà thờ, cho đến khi, vào một ngày nọ, ông biến mất tại chỗ này.
Có lẽ Charlie đang đứng ở chính cái nơi mà lần cuối cùng người ta còn nhìn thấy ba nó. Ông Lyell Bone đã cố ngăn gia đình Bloor không được bắt cóc Emma Tolly, và chính vì hành động này mà ông đã bị trừng phạt thật khủng khiếp: bị thôi miên, bị gài bẫy, bị giấu nhẹm và biến mất hẳn khỏi vợ con ông. Họ bảo rằng ba Lyell đã chết, nhưng Charlie biết rõ hơn nhiều.
Nó chợt nhún vai thật mạnh, tự nhủ rằng đừng có suy nghĩ u ám quá nhiều, rồi bước hăng hái về phía tiệm sách.
Emma đang đứng đằng sau quầy, chăm chú xem một chồng sách lớn, đóng bìa da. Nó ngẩng lên khi cửa tiệm kêu kính koong và Charlie bước vô.
“Chào Charlie. Bồ hết bị cấm túc sớm qua ha.”
"Họ không muốn mình luẩn quẩn ở đó. Hôm nay là ngày Billy được nhận làm con nuôi.”
“Ồ, dĩ nhiên rồi. Bồ có thấy cha mẹ mới của nó không?”
“Thấy. Và mình không thích bộ dạng của họ. Họ không thật lòng muốn có Billy. Mình đã trông thấy mấy tấm hình ở trên bàn của Manfred và… ừm… mình lo quá, Emma à. Mình chắc chắn cái kiểu họ chỉ tạt tới và lôi Billy đi như vầy là không bình thường.”
“Thì gia đình Bloor vẫn làm khối chuyện không bình thường mà,” Emma nghiêm mặt nói. “Nhưng họ không bị trừng phạt bởi vì họ là gia đình lâu đời nhất thành phố này, và ai cũng sợ họ, kể cả ngài thị trưởng và những ủy viên hội đồng.”
“Họ nghĩ Manfred và lão Ezekiel có thể làm bất cứ điều gì, nhưng họ lầm,” Charlie lẩm bẩm. “À mà, có ai đó đã đánh cắp cây gậy phép của mình rồi.”
“Cái gì?” Emma đánh rớt một cuốn sách. “Charlie, bồ tính làm gì đây?”
“Mình cũng chưa biết nữa. Lẽ ra mình không nên đem nó tới trường, nhưng mình nghĩ mình có thể cần nó để… để giúp mình học bài.”
“Nhưng mà…” Emma lắc đầu. “Charlie à, chuyện này nghiêm trọng đó.”
“Mình đồng ý với bồ! Nhưng nó là cây gậy phép của mình mà, Emma. Của mình thật sự. Nó chẳng dính dáng gì đến gia đình Yewbeam hay gia đình Bloor cả và nó sẽ chẳng có tác dụng gì cho họ đâu.”
"Nhưng nếu họ không thể sử dụng được nó thì họ sẽ hủy hoại nó.”
“Đó là điều mình sợ.”
Trước khi Charlie có thể nói thêm gì nữa thì một người đàn ông cao lớn, tóc đen, mang mắt kính đen bước ra khỏi khung cửa che rèm ở đằng sau quầy.
“À Charlie. Ta nghĩ ta nghe tiếng mày.” Ông đột ngột nhìn sững vô ngọn đẻn treo bên trên quầy, vuột miệng nói, “Khốn kiếp”, và bắt đầu lùi trở vô.
Emma phóng lẹ ra công tắc đèn bên cạnh tấm rèm, nhưng nó đã quá trễ. Một tiếng “bụp” thật đanh và cái bóng đèn bể vụn, trút một cơn mưa thủy tinh xuống những cuốn sách cổ.
“Ôi, anh Paton, thiệt tình!” Một giọng nữ bức bối vọng ra từ phía sau tấm rèm.
“Xin lỗi, Julia! Xin lỗi!” Ông cậu Paton Yewbeam nói. “Làm sao mà anh biết đèn đang sáng chớ? Mặt trời chiếu rực ngoài đó mà.”
“Con bật lên để đọc sách cho rõ hơn đó,” Emma phân trần vẻ ai oán. “Đừng lo, để con dọn cho.”
Nó cúi xuống quầy, lấy ra đồ hốt rác và chổi, những thứ luôn để sẵn đó cho tiện dụng kể từ lần đầu tiên Ông cậu Paton ghé thăm tiệm sách.
Dì của Emma, cô Julia, giờ đã xuất hiện đằng sau quầy.
“Dì nghĩ đáng ra còn tệ hơn kìa.”
Charlie vô cùng ngạc nhiên khi gặp Ông cậu của nó ở trong tiệm sách vào lúc mới sáng bảnh mắt thế này. Như đã thành luật, Ông cậu Paton không bao giờ ra ngoài vào ban ngày. Ông bối rối về tài phép của mình và sợ mình vô tình làm nổ đèn giao thông hoặc đèn chiếu sáng trong những cửa sổ bày hàng. Thậm chí cả những bóng đèn trong các nhà riêng cũng có nguy cơ bị vỡ tan.
Chắc chắn phải có cái gì đó khẩn cấp lắm mới lôi được Ông cậu Paton đến tiệm sách. Trừ phi, dĩ nhiên, đó là do cô Julia Ingledew. Cô là một phụ nữ xinh đẹp và Ông cậu Paton phải lòng cô ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy cô.
“Để con giúp được không?” Charlie đề nghị khi nhìn Emma và cô Ingledew dọn dẹp đống mảnh vụn thủy tinh.
“Vô nói chuyện với Ông cậu của con đi,” cô Ingledew bảo, “và an ủi cho ông ấy đừng phiền muộn.” Cô mỉm một nụ cười châm chọc.
Charlie đi qua tấm rèm và bước vào phòng trong của tiệm sách Ingledew. Ở đây, những chiếc kệ ken đặc sách giăng kín các bức tường. Sách chất hàng chồng hàng đống trên bàn, dưới sàn nhà, trên ghế và trên chiếc bàn làm việc lớn bằng gõ đào hoa tâm của cô Ingledew. Toàn bộ gian phòng ánh lên những màu sắc ấm áp của vải đóng sách cũ và nhũ vàng; căn phòng thậm chí còn nức mùi da thuộc và giấy mực. Đèn cầy thắp ở mọi ngõ ngách nào còn trống, bởi vì ô cửa sổ nhỏ để lọt được rất ít ánh sáng vô phòng, và hôm nay cô Julia không muốn đặt những bóng đèn bàn vào vòng may rủi.
Ông cậu Paton đang ngồi trên một chiếc trường kỷ nhỏ, đầy báo với giấy, và dĩ nhiên thêm cả sách nữa, bao kính xung quanh. Khi Charlie bước vô, Ông cậu nó tháo mắt kiếng đen ra và dụi dụi mắt.
“Thiệt vô tích sự,” ông nói bằng một giọng giận dữ. “Mặc dù ta thề là cặp kiếng này đã chặn được vài vụ tai nạn.”
Ông đút cặp kiếng vô túi trên cùng của chiếc áo gió.
“Charlie này, mẹ mày nói với ta là mày lại bị cấm túc nữa.”
“Dạ phải. Và bà cô Eustacia buộc phải tới đón con,” Charlie nói với vẻ hờn trách.
Ông cậu Paton nhún vai:
“Xin lỗi, nhóc. Nhưng mày biết đấy, ta không thể lái xe vào ban ngày mà.”
“May phước con vẫn còn sống,” Charlie nói. “Con ngạc nhiên khi gặp Ông cậu ở đây, Ông cậu Paton.”
“À, ta đến trước lúc mặt trời mọc,” Ông cậu Paton nói, cố tránh nhìn vào mắt Charlie. “Tối qua Julia gọi cho ta. Ai đó đã đút một lá thư qua khe cửa nhà cô ấy, đề địa chỉ gởi cho ta. Kích thích trí tó mò quá. Cho nên ta đến ngay khi ta có thể đường hoàng đến. Thiệt ra thì lá thư liên quan đến một người bạn của mày, Charlie.”
“Người nào ạ?” Charlie ngồi xuống bên cạnh Ông cậu của nó.
“Billy Raven. Kỳ quặc thiệt.”
Ông cậu Paton lôi từ túi áo ra một chiếc phong bì nhàu nhĩ. Địa chỉ đề

Ông cậu Paton

bằng nét chữ viết tay ẻo lả, khá đẹp.
“Ta muốn biết mày nghĩ ra được gì không, Charlie.”
Ông cậu Paton rút ra hai tờ giấy. Khi ông làm vậy, một cây đèn cầy nhỏ rớt ra ngoài. Charlie vội chụp lấy và dựng nó lên.
“Cái này giống hệt như mấy cây đèn cầy của Billy. Billy không biết từ đâu mà có.”
“Rõ ràng là từ người đàn ông viết lá thư này. Vậy là chứng tỏ có mối liên hệ với nhau.” Ông cậu Paton liếc nhìn cây đèn cầy. “Đẹp đấy.”
Đúng lúc đó Emma bước vô. Ông cậu bảo nó ngồi xuống và lắng nghe. Ông hắng giọng và bắt đầu đọc lá thư bí hiểm kia:
Kính thư ông Yewbeam,
Thành thật xin ông thứ lỗi cho tôi về việc đã mạo muội chen vô cuộc sống của ông một cách khác thường như thế này, quả thiệt, tôi không còn cách nào khác. Sợ một người trong gia đình ông chẳng may đọc được nội dung lá thư này, thì chắc chắn sẽ xảy ra thảm họa.
“Ông ta ám chỉ tới nội Bone đó.” Charlie nói.
Ông cậu Paton nghiêm nghị gật đầu và đọc tiếp:
Tên của ông, thưa ông Yewbeam, do một trong ít ỏi những người ở thành phố này mà tôi biết là có thể tin cậy được, báo cho hay. Và quý cô mà tôi cần phải dùng nhờ hộp thư này cũng là một người bạn của bọn trẻ, như người ta nói cho tôi. Ông biết tôi muốn nói đến bọn trẻ nào chứ? Vâng, những hậu duệ được ban phép thuật của Vua Đỏ, những đứa trẻ dễ bị làm hại, đang cố dùng tài phép của chúng theo cách vinh danh tên tuổi của tổ tiên chúng, đấng tối thượng tôn kính, nhà vua – nhà pháp thuật.
Có những đứa trẻ khác, tôi biết, làm ô uế tên tuổi của Ngài và sỉ nhục tài phép được ban của chúng. Lạy Chúa, đứa trẻ mà tôi quan tâm sâu sắc nhất không thuộc về phe này hay phe kia. Tôi là người giám hộ cho Billy Raven. Khi cha của thằng bé, ông Rufus Raven, và người vợ xinh đẹp của ông (cả hai người đều mang họ Raven, ông biết đấy, họ là anh em họ xa) nhận thấy họ không thể có lối thoát khỏi gia đình Bloor và những bà chị (xin lỗi vì dùng tính từ này) ác tâm của ông, họ khẩn cầu tôi làm người giám hộ cho Billy, để trông chừng nó, để bảo trợ cho nó và để chỉ dẫn cho nó – nói ngắn gọn, để cứu nó khỏi trở nên giống như bọn nhà Bloor. Nhưng khi Billy mồ côi, nó được gởi đến nhà một bà cô rất ít để tâm tới việc nuôi dưỡng trái tim đặc biệt thánh thiện mà nó mang từ khi được sinh ra. Thay vào đó, bà ta chọn cách bỏ mặc thằng bé cho đến khi nó bộc lộ tài phép của nó, và sau đó thì giao hẳn nó, Billy tội nghiệp, cho gia đình Bloor.
Thưa ông Yewbeam, hẳn là ông đang tự hỏi tại sao tôi lại chểnh mảng bổn phận của mình một cách nghiêm trọng đến thế. Người giám hộ tương lai này đã ở đâu suốt sáu năm nay? Hẳn ông đang tự hỏi như thế.
Ở trong ngục, thưa ông Yewbeam.
Tới đây, một tiếng thở dốc phát ra từ cô Ingledew, cũng đã buốc vô phòng.
“Trong ngục?” Cô nói. “Paton, anh không nói cho em biết là ông ấy ở tù !”
“Một chi tiết anh đã cố ý bỏ qua để cho em được tĩnh trí, Julia,” Ông cậu Paton nói.
Cô Ingledew ngồi trên thành ghế trường kỷ.
“Ông cậu của con chỉ đọc một nửa lá thư cho cô nghe,” cô bảo Charlie. “Cô phải nghe phần còn lại mới được.”
Ông cậu Paton mỉm cười dịu dàng với cô:
“Tụi này sẽ được nghe những ý kiến có ích của em đó, Julia.”
“Ôi, làm ơn, tiếp đi mà,” Charlie nài nỉ.
“Ta tới đâu rồi?” Ông cậu Paton hờ hững rà ngón tay xuống tờ giấy, vẻ cáu kỉnh.
“Trong ngục!” Charlie hét lên. “Ông ấy nói ông ấy ở trong ngục.”
“À phải. Đây rồi,” Ông cậu Paton chọc mạnh ngón tay vô tờ giấy và tiếp:
Ở trong ngục, thưa ông Yewbeam. Để tôi cam đoan với ông, rằng tôi không hề phạm tội. Tôi đã bị cái tên lưu manh ấy, tên Weedon, lừa theo lệnh chủ nhân hắn, dĩ nhiên rồi. Tên côn đồ đáng sợ ấy đã cố giết tôi (một cú đập lên đầu lúc trời tối trong khi tôi đang thả con mèo ra ngoài). Nhưng vì thất bại (tôi chỉ bị chấn thương sọ não), nên hắn dựng chuyện biến tôi thành một tên cướp có vũ trang. Tôi, trời đất ơi! Tôi là một người thợ in. Tôi đam mê, chuyên chú vào giấy tốt, mực hảo hạng và những hàng kẻ đều tắp. Tôi đam mê, chuyên chú đến văn từ, đến thuật khắc chữ, đến tiêu đề trên giấy, những tờ rơi, vân vân… Ấy thế mà, tôi lại bị bắt quả tang ngay tại hiện trường về tội cướp của dã man và bị tống vô ngục. Tuần rồi tôi được phóng thích sớm – do hành vi cải tạo tốt.
Ý nghĩ đầu tiên của tôi là về Billy, và vì vậy tôi đã liên lạc với một người bạn trung thành trong Học viện Bloor.
Thật kinh hoàng, tôi phát hiện ra là Billy đã bị Florence và Usher de Grey nhận làm con nuôi. Tôi không thể diễn tả hết được tai họa của việc này sẽ đến mức nòa đối với Billy đâu.
Thưa ông Yewbeam, ông sẽ giúp tôi chứ? Ông làm ơn dàn xếp cho tôi bí mật gặp Billy được không? Tôi biết rằng, cháu trai của ông, Charlie, là bạn thân của thằng bé, và có lẽ cũng quan tâm đến vụ việc. Bằng giá nào chúng tôi cũng phải cứu Billy ra khỏi gia đình de Grey ấy, nhưng một việc mạo hiểm như vậy sẽ cần phải được lên kế hoạch một cách cẩn trọng nhất, bí mật nhất.
Tôi sẽ liên lạc với ông sớm, thưa ông Yewbeam. Đồng thời tôi mong ngóng có sự hợp tác trong tương lai của chúng ta.
Kính thư, chào hy vọng,
C. Crowquill
“Ôi!” Cô Ingledew thốt lên. “Kỳ lạ thật!”
“Chắc chắn là bà bếp trưởng,” Charlie tư lự nói. “Bà bếp trưởng là bạn của ông Crowquill ở Học viện Bloor, con bảo đảm. Bà ấy nói với con là bà đã nghe tin từ một trong những người họ hàng của Billy. Và bà nói gì đó về một Lâu đài Gương. Ông cậu có biết nó ở đâu không, Ông cậu Paton? Tổ tiên của Billy xuất xứ từ đó, và việc đó có lẽ rất quan trọng đối với Billy.”
“Chưa bao giờ nghe nói về nó cả,” Ông cậu Paton nói. “Charlie, mày có gặp gia đình de Grey này chưa vậy?”
“Dạ rồi, con có gặp họ rồi,” Charlie nói, “và con…con, Ông cậu biết không, con đã ngeh giọng nói của họ trong hình. Ông de Grey nói ông ta không thích con nít. Vì vậy, rõ ràng là ông ta không muốn nhận Billy làm con nuôi.”
“Giờ Billy đang sống với gia đình de Grey à?” Cô Ingledew hỏi.
“Hôm nay họ đến để dẫn nó đi,” Charlie nói. “Nhưng nó sẽ đến nhà con vào chủ nhật này và tụi con sẽ cùng nhau đến quán Cà Phê Thú Kiểng. Con sẽ nói cho nó biết về ông Crowquill, được không Ông cậu Paton?”
“Không,” Ông cậu Paton giơ tay lên. “Chưa được đâu, Charlie. Ta cần phải suy nghĩ thật thấu đáo về cuộc gặp mặt này. Lúc này, tốt nhất là Billy không biết gì về người bảo vệ mình cả. Nếu nó vô tình tiết lộ bí mật ra thì, một lần nữa, ông Crowquill sẽ gặp nguy hiểm khôn lường.”
“Được. Con sẽ không nói cho nó biết vội. Gia đình de Grey có lẽ không phải là cha mẹ tốt, nhưng ít nhất thì Billy đã ra khỏi được Học viện Bloor.”
“Đúng là ra khỏi chảo rang lại rơi vào lò lửa,” Emma nghiêm nghị nói.
Vào sáng Chủ nhật, trong khi Charlie chờ Billy đến, thì nội Bone đi xuống lầu, diện bộ đồ Chủ nhật đẹp nhất của bà ta: một chiếc nón kết bằng lông chim đen, một chiếc áo khoác quý rộng thùng thình màu xám sỉ than, và một chiếc khăn quàng mang hình hai con chồn chết. Hai cái đuôi chồn thòng xuống lưng bà, trong khi hai cái đầu chồn gặp nhau dưới cổ họng bà. Những đôi mắt thủy tinh đầy oán hận của những con thú đó luôn khiến Charlie ớn xương sống, và nó cố không nhìn vào chúng khi nó đụng bà nội trong hành lang.
“Nội ơi, bà có…?” Charlie mở đầu.
“Tránh ra,” bà Bone quát. “Bà Eustacia đến đón tao kìa.”
Quả đúng vậy, có tiếng thắng xe rít lên kinh hồn khi xe của bà cô Eustacia đụng phải lề đường bên ngoài nhà số 9.
“Con chỉ muốn hỏi nội có biết bạn Billy của con hiện đang sống ở đâu không?” Charlie nài nỉ hỏi.
“Dĩ nhiên là tao biết,” nội Bone cộc cằn. “Nhưng đừng hòng tao nói cho mày .”
Bà ta đẩy Charlie tránh đường ra, mở cửa trước và đóng lại cái uỳnh sau lưng.
Vài giây sau, Charlie nghe tiếng rú quen thuộc của bánh xe và một tiếng rầm lớn khi bà cô Eustacia lùi trúng cột đèn đường. Một tiếng thét nghẹn ứ phát ra từ nội Bone và chiếc xe bắn vút đi.
Charlie uể oải trở vô nhà bếp, lầm bầm:
“Đúng là bà dơi già. Bà sẽ không nói cho mình biết Billy sống ở đâu đâu.”
“Đừng lo, Charlie,” ngoại Maisie nói. “Bà nghĩ là anh bạn nhỏ của con đang xơi bữa trưa ngon lành với cha mẹ mới của nó. Nó sẽ tới ngay mà.”
“Con cũng mong vậy,” Charlie nói.
Hầu như chiều Chủ nhật nào Charlie và đám bạn của nó cũng gặp nhau tại quán Cà Phê Thú Kiểng. Hôm nay, Charlie chờ Billy cho đến 4 giờ, sau đó nó rời nhà một mình. Khi đến hẻm Con Ếch, nó đã nghe thấy tiếng ồn ào từ quán cà phê dội xuống khắp con hẻm chật: tiếng sủa, tiếng kêu ăng ẳng, tiếng tru, tiếng kêu chiêm chiếp và tiếng la quang quác.
Quán cà phê núp bên dưới những tảng đá của một bức tường khổng lồ, cổ xưa. Thật ra, nơi này được xây hẳn vô trong đá và nhìn như thể nó là một phần của bức tường hàng trăm năm tuổi này. Dòng chữ quán Cà Phê Thú Kiểng được sơn phía trên một khung cửa sổ lớn, và để nhấn mạnh rằng nơi này là một quán cà phê chuyên để đón tiếp những con thú được người dẫn theo, những hình vẽ đuôi, móng, ria, cánh và vuốt được trăng trí lồng vào tứng mẫu tự của tấm biển.
Charlie bước qua một cánh cửa màu xanh lá cây và mặt đối mặt với một người đàn ông lực lưỡng, mặc áo thun vẽ hình mấy con vẹt.
“À, Charlie Bone,” Norton, người bảo vệ quán, nói. “Lẽ ra cậu phải đến sớm hơn rồi. Bạn bè cậu hầu như đã hết hy vọng vào cậu rồi… còn con chó của cậu thì đang điên tiết lên đấy.”
“Gượm đã. Hạt Đậu không phải là con chó của cháu.”
“Nó là chó của cậu trong khi anh bạn kia của cậu đang ở Hồng Kông.”
Một tiếng sủa vui mừng cất lên từ đằng sau quầy, và một con chó vàng bự chảng phóng ù vô Charlie, suýt nữa thì tống nó nhào xuống sàn.
“Chào, Hạt Đậu!” Charlie ôm chầm lấy con chó và tìm đám bạn của nó. Emma và Gabriel đang ngồi trong một góc bàn, ăn chung một dĩa bánh bích quy. Cả hai đang uống những ly nước màu hồng tươi, và ba con chuột kiểng của Gabriel đang tợp liếm một vũng nước lớn đổ ra bàn.
“Nước Hoa Anh Đào Ngâm,” Gabriel giải thích khi Charlie dẫn Hạt Đậu lại gần bàn. “Bọn chuột thích món đó lắm.”
“Í,” Charlie quan sát khi nó ngồi xuống giữa lũ bạn. “Một con say mèm rồi kìa.”
“Hự… Ừ, phải.” Gabriel hớt con chuột đang nằm mọp lên và đút vô túi áo. “Chút nó tỉnh ngay mà,” Gabriel nói chắc nịch. “Công thức pha chế mới của ông Onimous đó. Thứ nước mạnh quá. Em muốn uống một ngụm không?”
“Thôi, cảm ơn, nhưng để em ăn một chiếc bánh bích quy.” Charlie nhón hai chiếc bánh bích quy, một cho nó và một cho Hạt Đậu.
Con chó bự nhai rau ráu vẻ biết ơn, và rồi ngồi tì cằm lên đùi Charlie, hy vọng có thêm.
“Những người khác đâu rồi?” Charlie hỏi, cho Hạt Đậu thêm một chiếc bánh bích quy nữa.
“Anh Tanc với anh Sander không thể đợi nổi,” Emma nói. “Bồ lâu cả thế kỷ, Charlie. Mình tưởng bồ sẽ dắt theo Billy chứ.”
“Chẳng thấy mặt mũi nó đâu. Còn Olivia thì sao? Bồ có gặp nó không? Nó có được nhận vai đó không?”
Emma nhún vai:
“Mình đã gọi tới nhà nó hai lần rồi, nhưng không có ai trả lời. Nó hứa sẽ gặp mình ở đây nhưng… mình không biết, chắc là có chuyện gì rồi.”
“Có lẽ bây giờ con nhỏ đã là ngôi sao, và sẽ không thèm nói chuyện với đám bọn mình nữa,” Gabriel bảo.
“Không đúng,” Emma lắc đầu. “Livvie không thế đâu. Nó sẽ tới mà.”
Nhưng Olivia không hề xuất hiện. Cả Billy cũng không. Cuối cùng ba đứa bạn phát mệt vì chờ. Emma và Gabriel về nhà, còn Charlie dẫn Hạt Đậu đi dạo. Lúc thằng bé và con chó vừa định quẹo về lại hẻm Con Ếch, sau trọn nửa giờ đi bộ, con Hạt Đậu chợt sủa váng lên và chạy, kéo căng sợi dây xích chó.
Ở đầu kia của con đường, Charlie trông thấy Olivia chạy lẹ vô một ngõ hẻm. Nó liếc nhìn Charlie một cái thiệt lẹ, thiệt dữ dội và rồi biến mất. Tò mò vì hành vị kỳ lạ của con nhỏ, Charlie chạy băng qua đường. Lúc nó đến nơi thì Olivia đã biệt tăm, nhưng Hạt Đậu kéo Charlie chạy tiếp trong ngõ hẻm, băng qua một quảng trường rải sỏi và rồi vô một khu đầy những cửa tiệm nhỏ.
Ở đằng xa, đứa con gái quay lưng lại Charlie và bắt đầu chạy tiếp. Nhưng nó không chạy kịp con chó. Giằng sợi xích vuột khỏi tay Charlie, con chó phóng nhanh trên đường và rượt kịp Olivia. Nhảy chồm lên người con bé, nó bắt đầu sủa lên phấn khích.
“Tránh ra! Cút đi!” Đứa con gái hét ầm.
“Từ từ, Liv,” Charlie thét to. “Nó là Hạt Đậu mà. Chuyện gì xảy ra với bồ vậy?”
Olivia tựa gục vào bức tường trong khi Charlie chạy tới và túm lấy xích cổ chó.
“Nó không làm bồ đau đâu, Liv. Nó chỉ mừng rỡ vì gặp bồ thôi mà.” Charlie ngừng lại. “Gì vậy? Trông bồ thiệt kinh khủng.”
“Cám ơn nhiều!” Olivia nhăn nhó.
“Mình không có ý nói khủng khiếp , ý mình… khác,” Charlie nói lẹ.
Gương mặt của Olivia lem luốc vệt nước mắt, mí mắt nó sưng húp và tóc nó rối bù. Nó mặc quần bò, mang giày thể thao và áo thun nhăn nhúm. Còn đâu những màu sắc rực rỡ và những bộ đồ hầm hố mà nó thường mặc. Charlie chưa bao giờ thấy bạn mình trông "bình thường” như thế này, mà lại đau khổ như thế này. Nó thấy nó nên hỏi về buổi diễn thử vai; sẽ còn tệ hơn nếu tránh né một câu hỏi quan trọng như vậy.
“Bồ có nhận được vai đó không?”
Môi Olivia mím lại, thành một đường chỉ. Nó đá sục xuống đất bằng mũi giày, và qua hàm răng nghiến chặt, nó nói:
“Không!”
“Ồ, chao, mình xin lỗi,” câu này có vẻ chưa hoàn chỉnh, nhưng Charlie còn có thể nói gì được nữa?
“Đừng có…” Olivia cáu kỉnh nói. “Tôi không muốn người ta phải thương hại tôi.”
“Được. Nhưng chuyện gì xảy ra vậy? Bồ có muốn nói về chuyện đó không?”
Olivia nghĩ ngợi một thoáng và rồi quyết định là nó rất muốn nói. Nó muốn nói và nói cho đến khi toàn bộ sự việc xấu hổ, nhục nhã kia xì hết ra ngoài không khí, được chia sẽ bởi ít nhất là một con người khác… và một con chó.
Ngày hôm đó bắt đầu thật tuyệt. Olivia đã tiến vào tới vòng chỉ còn sáu đứa con gái.
“Tất cả bọn chúng đều nhỏ hơn tớ,” nó nói, nhăn trán lại một cái, “nhưng mẹ tớ nói điều đó không có nghĩa lý gì hết. Cái con nhỏ ngồi kế tớ, nó cột tóm bím, mặt đầy tàn nhang và giọng nói cao vút, trông thiệt ngố. Nó mười ba tuổi, Charlie, nhưng người nó có tí nị.” Olivia nhăn trán sâu hơn. “Nó cứ lải nhải rằng tớ chắc chắn sẽ nhận được vai này bởi vì mẹ tớ nổi tiếng.”
“Nghe chẳng lọt tai tí nào,” Charlie nhận xét.
“Ừ. Nhưng tớ quá tự tin nên không nhận ra. Tớ đi vô căn phòng đó và diễn phần của tớ… diễn hết mình luôn. Tớ làm tốt thực sự. Tớ biết rõ mà. Và tớ muốn chắc chắn mình sẽ nhận được vai diễn. Có bốn vị giám khảo ngồi bên bàn, hai ông và hai bà. Họ thậm chí không ghi chép gì hết. Và khi tớ làm xong thì ông đạo diễn, chính xác là một người bạn của ba tớ, mỉm cười với tớ và nói, ‘Cám ơn, Olivia. Diễn rất tốt, nhưng không hoàn toàn giống như điều chúng tôi đang tìm kiếm.’”
Một dòng nước mắt tuôn ào xuống má Olivia.
“Cái con bím tóc ấy được nhận vai,” nó nói gằn giọng.
“Ôi, không,” Charlie kêu lên. “Mình không tin nổi.”
“Điều tệ nhất trong mọi điều là tớ đã giận lẫy mẹ tớ. Hai mẹ con cãi nhau nảy lửa và tớ nói đó là do lỗi của mẹ tớ. Giờ thì mẹ tớ còn cáu tiết hơn cả tớ nữa. Tớ nói tớ sẽ đi gặp bọn đằng ấy ở quán Cà Phê Thú Kiểng, nhưng tớ không thể đối mặt với việc phải nói với tất cả mọi người. Tớ nghĩ tớ sẽ mua ít hoa tặng mẹ để dàn hòa, và có người bảo tớ có một tiệm bán hoa đang mở cửa, ở đâu đây nè.”
“Ở đằng kia kìa!” Charlie hất đầu qua bên kia đường. Thiệt kỳ quặc, nó tự hỏi tại sao trước đó nó không nhận ra. Khung cửa cái và cửa sổ sơn màu xanh lá cây đậm và những chữ bên trên cửa sồ bày hàng được in bằng những mẫu tự vàng rực, uốn lượn: HOA THIÊN THẦN.
“Toàn hoa trắng!” Olivia nhận xét, vẻ đằng đằng của nó bắt đầu nguội bớt.
Đúng vậy. Mọi bông hoa bên trong cửa sổ bày hàng đều trắng: hoa huệ tây, hoa hồng, hoa cúc và những cây lạ lùng mà Charlie chưa thấy bao giờ.
“Tụi mình lại coi cửa có mở không,” Charlie bước xuống khỏi vỉa hè, nhưng Olivia lừng khừng ở lại.
“Đi nào," Charlie chộp tay con bé. Hạt Đậu cũng đã kéo Charlie qua đường, và cuối cùng, một dây ba đứa lùng nhùng lết tới tiệm bán hoa.
Lách mình qua những bông hoa nở rộ bên trong cửa sổ bày hàng, Charlie nói:
“Cửa mở. Mình thấy có người.”
Nó tiến tới cửa chính.
“Không,” Olivia nói. “Tớ đổi ý rồi.”
“Sao vậy?”
“Tớ không muốn vô trong đó.” Con nhỏ đứng như trời trồng tại chỗ, mắt dán chặt vô một bó huệ tây.
“Đi đi. Mua một bông huệ tây thôi,” Charlie nói. “Không mắc đâu.”
“Sao đằng ấy biết,” Olivia chất vấn.
Charlie chợt nhận ra sự thay đổi bí hiểm ở Olivia liên quan rất ít đến chuyện rớt thử vai.
“Mình có thể cho bồ mượn hai đồng bảng nếu quá mắc,” nó nói nhẹ nhàng. “Hay là để mình mua cho bồ.”
Nó đẩy cửa. Cánh cửa mở vào một gian hàng thơm ngát hương hoa.
“Ừmm!” Charlie hít hít không khí. “Tuyệt thật!”
“Thế ư!” Một giọng nói cất lên.
Một phụ nữ hiện ra từ phía sau tiệm. Hạt Đậu chạy tới chỗ cô ấy, đuôi nó ngoáy rối rít.
“Con chó dễ thương quá.” Người phụ nữ vuốt ve hai tai Hạt Đậu, và chú chàng ngồi xuống, kêu rừ rừ khoái trá.
“Chúng cháu muốn mua… ừm… bông huệ tây,” Charlie nói.
“Chúng cháu?” Người phụ nữ hỏi. Cô có mái tóc bạch kim và đôi mắt to màu xanh lá cây.
“Dạ phải. Bạn cháu muốn mua hoa về tặng mẹ bạn ấy.”
Charlie nhìn ra sau lưng và thấy Olivia đang lần chần bước vô tiệm.
“À đây rồi,” người phụ nữ nói. “Cô rất vui là cuối cùng cháu đã tới.”
“Ý cô là sao?” Olivia đông cứng lại. “Cháu không biết cô.”
“Nhưng cô biết cháu,” người phụ nữ nói. “Tên cô là Alice Angel.”
Rồi cô chìa tay ra:
“Và cháu là Olivia!”
Olivia vẫn không nhúc nhích, cho nên Charlie bắt tay cô Alice Angel.
“Lại đây, Liv. Ổn mà.” Charlie quay lại nhìn Olivia, giờ đang đeo một bộ mặt hằm hằm.
Cô Alice Angel mỉm cười:
“Không có gì gấp đâu. Cháu muốn mua mấy bông huệ tây?”
Olivia thậm chí không mở miệng.
“Giá bao nhiêu ạ?” Charlie hỏi.
Cô Alice không đáp. Cô trầm tư đặt một ngón tay lên cằm và nói:
“Mười bông là đẹp. Mỗi bông cho một huệ duệ của nhà vua. Dẫu có vái đứa không xứng đáng với ý nghĩ đó. Phải, mười bông với một ít nhánh lá xanh.”
Đôi mắt cô xanh bệt như những cuống hoa. Và làm sao cô ấy biết về nhà vua và mười hậu duệ của Ngài?
Charlie lo lắng nói:
“Cháu chỉ có hai bảng.”
“Hoa miễn phí,” cô Alice nói, khéo léo sắp xếp những bông huệ tây lên quầy. Cô bọc chúng lại bằng giấy bạc mỏng và cột bó hoa bằng một dải ruy băng xa tanh trắng.
Charlie nhận lấy bó hoa:
“Cô chắc chắn là chúng miễn phí ạ?”
“Hoàn toàn chắc.” Cô Alice liếc ngang qua Olivia. “Cháu sẽ sớm trở lại chứ? Chúng ta có nhiều thứ để cùng nhau khám phá.”
Olivia quay phắt đi và biến lẹ khỏi tiệm.
Charlie bắt đầu cảm thấy lúng túng. Có điều gì đó lạ kỳ về cô Alice này. Bắt đầu từ tên của cô ấy đã lạ; rồi tóc cô ấy mang màu trắng y như sắc trắng của những bông huệ tây.
Nó nói:
“Cảm ơn rất nhiều về những bông hoa, thưa bà… thưa cô Angel. Cháu xin lỗi bạn cháu không… à, bạn ấy đang bị sốc. Bình thường bạn không như vậy.”
“Cô biết. Cháu có muốn ăn chút táo không? Tự tay cô trồng chúng đấy và chúng lên thật xanh tốt,” cô Alice mỉm cười khích lệ.
“Dạ không, cảm ơn cô,” Charlie nói, hơi hoài nghi. “Mẹ cháu làm việc ở một cửa hàng rau quả.”
“Đúng rồi,” cô Alice nói. “Tạm biệt, Charlie.”
“Tạm biệt cô,” Charlie bước ra cùng với con Hạt Đậu theo bén gót. Đúng lúc đi khỏi cửa hàng thì nó nhận ra vừa nãy cô Alice Angel đã gọi đúng tên nó.
“Làm thế nào mà cô ấy biết tên mình?” Nó hỏi bằng giọng hoang mang.
“Làm sao mà cô ấy lại biết tên tớ chứ?” Olivia nhận bó hoa từ tay Charlie. Trông con bé vừa sửng sốt vừa bối rối. “Người phụ nữ đó có thể nhìn thấu bên trong tớ,” nó nói, gần như thì thào. “Cô ấy biết những điều về tớ mà ngay cả tớ cũng không biết.”
 
Khi Charlie dẫn con Hạt Đậu về lại quán Cà Phê Thú Kiểng, nó hỏi ông bà Onimous coi họ có biết một cửa hàng tên là Hoa Thiên Thần hay không.
“Nghe quen quen,” ông Onimous nói. “Đó là một trong những nơi đến rồi đi, cậu hiểu ý tôi muốn nói gì rồi đó.”
Charlie không hiểu.
“Trong thành phố này có nhiều thứ lạ lùng không tin nổi,” bà Onimous nói.
“Ồ, giờ thì bất cứ chuyện gì cháu cũng tin được,” Charlie nói. “Thiệt tình, cháu cũng sẽ không hề ngạc nhiên nếu ông bảo cháu rằng Hạt Đậu là một vị tiên một ngàn tuổi.”
Câu nói của nó khiến ông Onimous cười đến nỗi đỏ rựng cả mặt, và ông rớt phịch, và ông rớt phích, bệt xuống sàn.
Charlie ôm hôn chia tay con Hạt Đậu, chào tạm biệt ông bà Onimous, rồi vội vã về nhà. Lúc này đã 6 giờ, và mẹ nó chắc là đang lo sốt vó.
“Nãy giờ con ở đâu vậy?” cô Amy Bone kêu lên khi Charlie bước vô nhà bếp.
“Chúng ta đã gọi cho gia đình Gunn nhưng Fidelio nói là nó không gặp con,” ngoại Maisie thêm.
Charlie kể lại cho bà và mẹ nó nghe về cửa hàng bán hoa.
“Cô Alice Angel đó biết con, mẹ à, nhưng sao cô ấy lại biết? Bà với mẹ có bao giờ đến tiệm Hoa Thiên Thần chưa?”
“Bà chưa bao giờ ngeh đến cái tên đó,” ngoại Maisie bảo.
“Mẹ cũng chưa hề nghe,” cô Amy kêu lên. “Ôi, Charlie, mẹ mong con đừng có một mình lang thang đến những chỗ lạ trong thành phố.”
“Con đi với Hạt Đậu mà, với lại có cả Olivia ở đó nữa, con đâu có đi một mình đâu.”
“Nhưng mà,” mẹ Charlie thở dài. “Mẹ không lo không được, Charlie à. Phải chi ba con… Ngoài kia có những người không muốn con bình an. Nếu con mà… mà biến mất, như ba Lyell ấy, thì mẹ không biết phải làm sao.”
“Con sẽ không biến mất đâu, mẹ. Ba con không có phép thuật, nhưng con thì có.”
“Chính vậy,” cô Amy lúng búng. “Thôi, dùng bữa trà đi con.”
Charlie ngồi xuống, cảm thấy có lỗi, và ngoại Maisie rót cho nó một tách trà. “Chúng ta không lo sao được,” bà nói. “Bà cô Venetia của con vừa đến đây xong.”
“Bà cô Venetia!” Con dao ăn của Charlie va cạch vô cái dĩa. “Nội Bone mở cửa cho bà ấy vô à?”
“Không. Chắc chắn mụ ta có chìa khóa. Bà mở cửa nhà bếp ra thì thấy mụ ở đó rồi, đứng lù lù trong hành lang. Trông mụ ấy thật ghê hồn, tóc tai rối bù, quần áo lôi thôi lếch thếch. Mụ ta vẫn lịch lãm lắm kia mà. Bà nghĩ mụ ta mất trí rồi. Vụ hỏa hoạn trong nhà mụ khiến mụ phát điên phát khùng.”
“Bà ta cắp theo một nách quần áo,” mẹ Charlie nói. “Muốn biết xem chúng ta có thích chúng không.”
“Còn lâu,” ngoại Maisie khịt mũi. “Chắc chắn mụ ta đã tẩm độc chúng rồi.”
“Chúng ta bảo bà ta đi đi, xong mẹ khóa tất cả cả các phòng ngủ lại, để đề phòng. Chìa khóa phòng con đây, Charlie.” Cô Amy Bone đẩy một chiếc chìa khóa băng qua bàn. “Ngày mai hãy khóa cửa phòng con lại khi con đi học, rồi đưa chìa khóa cho ngoại Maisie.”
Charlie rên rỉ. Cứ như chưa có đủ chuyện để ghi nhớ không bằng, giờ họ lại còn phải khóa tất cả các cửa phòng lại nữa.
“Không làm thế không được.” ngoại Maisie bảo. “Chúng ta không muốn kết cục lại có thuốc độc trong quần hoặc rắn bò ra từ ống tay áo, đúng chưa?”
Khi bữa trà kết thúc. Charlie ngồi lại để coi chương trình T.V ưa thích của nó, Những Tiếng Sủa, câu chuyện kể về một chú chó. Trái với ý muốn của nội Bone, ngoại Maisie cương quyết đặt một chiếc T.V nhỏ lên nóc tủ đựng ly chén trong nhà bếp. Bà không muốn bỏ lỡ những sô truyền hình yêu thích của bà. Bà từng nói với nội Bone, rằng nếu bà đã phải làm nô lệ suốt ngày trong nhà bếp như thế, thì chí ít bà cũng phải được phép thưởng thức đôi chút thú vui trong khi làm việc chứ. Dĩ nhiên,t rừ phi có người lạ thích tự nguyện làm nô lệ.
Nội Bone nghe đến từ nô lệ thì hãi quá, và đành chịu thua.
Chương trình của Charlie vừa bắt đầu thì Ông cậu Paton ngó vô và nói:
“Rồi!”
“Rồi gì ạ?” Charlie hỏi, hy vọng cái tia nhìn quắc lên trong mắt ông không có nghĩa là một trong những bà chị của ông vừa tống cho ông một căn bệnh gớm ghiếc.
“Lâu đài Gương, nhóc cưng,” Ông cậu Paton nói. “Lên lầu đi rồi ta chỉ cho coi.”
“Nhưng chương trình của con vừa mới bắt đầu,” Charlie nói, nhấp nhổm trên ghế.
“À ừ, nếu thích T.V hơn… thì cứ việc thích đi!” Ông cậu Paton lui ra, đóng sầm cửa lại sau lưng.
Charlie coi Những Tiếng Sủa thêm chừng năm phút thì không thể tập trung được nữa. Chả có gì tức cười trong tập phim hôm nay cả. Ngoại Maisie và mẹ nó đang rúc rích cười bên một tờ tạp chí. Thật chia trí hết sức. Charlie buông một tiếng thở dài thiệt to, tắt T.V và rời nhà bếp. Nó chạy vù lên lầu và gõ cửa phòng Ông cậu.
“Cái gì?” Giọng Ông cậu Paton.
“Ông cậu nói Ông cậu có thứ muốn cho con coi… về Lâu đài Gương.”
“Vậy hả? Thế thì vô đi,” Ông cậu Paton nói hơi miễn cưỡng.
Charlie bước vô. Phòng Ông cậu của nó ngập trong tình trạng bừa bãi như thường lệ. Sách nằm ngổn ngang dưới sàn nhà, giấy chất trên gi.ường, và các kệ sách oằn xuống dưới sức nặng của những bản thảo và những cuốn bách khoa toàn thư. Ông cậu Paton đang ngồi bên bàn làm việc. Ông đeo cặp kính tròng bán nguyệt và đang đọc một cuốn sách trông cũ mục nhất mà Charlie từng thấy. Những trang giấy xỉn màu như màu mù tạt và những mép sách cong tưa ra. Bìa da tơi xốp, te tua và gần như không giữ nổi những trang sách mục cứ chực bung ra khỏi bìa.
“Julia thông thái đã tìm thấy cái này trong đám kho báu của cô ấy. Cô ấy có một trí nhớ thiệt đáng kinh ngạc, và khi nghe nhắc đến một lâu đài đầy gương là cô ấy biết ngay trước đây mình đã từng thấy cái tên đó.”
Ông cậu Paton tiếc nuối gập cuốn sách lại và Charlie đọc thấy chữ Quyển sách về ngài Amadis in bằng chữ vàng bị mờ đi trên bìa.
“Ngài Amidis?” Charlie nói.
“Người con thứ hai của Vua Đỏ,” Ông cậu Paton vỗ vỗ cuốn sách. “Cuốn sách này kể lại tất cả. Ngài Amadis bị buộc phải trốn khỏi lâu đài của vua cha khi Borlath, người con cả, rắp tâm theo đuổi quyền lực chết người của hắn. Hắn giết hại tất cả những người ngáng đường hắn, và trong cuộc chinh phục ấy, hắn được bốn người anh em của hắn trợ giúp. Năm người kia, trong đó có ngài Amadis, cố ngăn cản những cuộc tàn sát đẫm máu đang diễn ra trên khắp đất nước. Nhưng Borlath và bọn lâu la của hắn rất hùng mạnh, và cuối cùng, lại thêm những người anh em đầy tôn kính phải ra chạy trốn khỏi lâu đài vì lo sợ cho tính mạng của mình.”
“Ngài Amadis là tổ tiên của Billy phải không ạ?” Charlie hỏi.
"Hình như thế.”
“Vậy thì, ai là tổ tiên của chúng ta? Người bắt đầu dòng họ Yewbeam ấy? Ông ấy theo phe thiện hay phe ác?”
“Theo những gì ta nghiên cứu được, thì bà ấy là Amoret, người con cuối cùng, em gái yêu quý nhất của ngài Amadis.”
“Một cô gái?” Charlie chưa từng nghĩ đến điều này.
“Phải, Charlie, một cô gái.” Ông cậu Paton mở quyển sách cổ xưa ra. “Bà ấy chạy trốn cùng với ngài Amadis, nhưng đến phương bắc thì họ bị tách ra. Bà Amoret bị lạc và ngài Amadis dong buồm đến một hòn đảo ở hướng Tây Bắc. Ông rất được yêu mến và nhiều người dân sông trong lãnh địa của nhà vua thà rời bỏ quê nhà để đi theo ngài Amadis còn hơn là ở lại chịu ách cai trị tàn bạo của Borlath…”
Charlie ngắt ngang:
“Nhưng bà Amoret? Ông cậu nói bà ấy bị lạc. Ông cậu không biết chuyện gì xảy ra với bà ấy à? Không ai biết cả sao? Ý con là, con có thể tìm ra… có lẽ ở trên internet.”
Ông cậu Paton buông một tiếng thở dài mất kiên nhẫn:
“Mày sẽ chẳng tìm thấy bà Amoret trên máy tính của mày đâu. Lịch sử về bà ấy bí mật đến nỗi không thể đưa lên mạng được. Không ai biết toàn bộ sự thực. Chính chúng ta phải khám phá ra điều đó. Và đó là điều ta đang cố làm trong suốt hai mươi năm qua.”
Ông duỗi cánh tay, trỏ vô những kệ sách và những đống giấy tưa sờn.
“Khi gặp Julia Ingledew, ta cứ như bắt được kho báu vậy; còn ai khác đam mê tìm hiểu quá khứ, còn ai khác không nề hà dành cả một tuần lễ để lục tìm cho được một manh mối mập mờ nhất nhằm giải đáp một câu đố như cô ấy chứ. Với ta, một người như vậy là cả một kho báu, Charlie, cho dù cô ấy không phải là người tâm đắc và dễ mến nhất mà ta từng gặp.”
Charlie chưa bao giờ nghe Ông cậu nó nói say sưa như thế.
“Ông cậu có cưới cô ấy không?” Nó hỏi.
Ông cậu Paton nheo mắt, rồi nói nhanh:
“Ta thậm chí còn không dám nghĩ tới điều đó.”
“Sao lại không? Con thấy đó là một điều hay,” Charlie thẳng ruột ngựa.
Ông cậu Paton giả đò ho khéo một tiếng:
“Đề tài của chúng ta là Lâu đài Gương, chứ không phải là tương lai của Paton Yewbeam,” ông nói bằng giọng đều đều. “Mày có quan tâm đến quyển sách này hay không nào?”
“Còn phải nói,” Charlie nhiệt thành nói. “Con ngồi xuống nhe? Chắc phải mất một ngày dài.”
“Cứ việc,” Ông cậu Paton trỏ cho nó chiếc gi.ường và Charlie, sau khi loay hoay đẩy vài quyển sách qua một bên, đã kiếm được một chỗ để an vị trên chiếc gi.ường lớn, bừa bộn của Ông cậu Paton.
Ông cậu Paton xoay chiếc ghế da rách tươm bươm của mình cho quay mặt lại với Charlie và bắt đầu đọc. Tới khi màn đêm sụp xuống, và mặt trăng hiện ra trên bầu trời đen kịt, Charlie đã chìm đắm trong câu chuyện về Hoàng tử Amadis và Lâu đài Gương. Quang cảnh căn phòng của Ông cậu Paton mờ dần, và qua đôi mắt khép hờ, Charlie bắt đầu thấy một lâu đài nổi lên giữa một hòn đảo màu xanh lá cây, nằm ngay giữa mặt biển lấp lánh.
“Người ta nói rằng đó là tòa lâu đài thần tiên nhất trên đời…”
Ông cậu Paton là một người kể chuyện hoàn hảo. Ông biến những dòng chữ trong sách thành lời kể của riêng mình, và giọng kể trầm bổng, sâu sắc của ông làm căn phòng hiện ra đầy ắp những hình ảnh: những hiệp sĩ uy nghi, những con ngựa chiến, những chiếc cúp vàng, những thanh gươm, những tấm khiên sáng loáng, những cờ phướn bay phấp phới, biển dậy sóng dữ dội… và lửa cháy.
“Khi ngài Amadis và đoàn tùy tùng của ngài đã xây dựng xong tòa lâu đìa hoàn mỹ của mình,” Ông cậu Paton đọc, “thì tiếp theo đó là mười lăm năm yên bình. Đất đai màu mỡ và họ sống trong thịnh vượng. Hoàng tử cưới một trong những người tùy tùng của mình và họ có bốn người con. Người con út tên là Owain.”
“Thế còn ba người kia thì sao?” Charlie nôn nóng hỏi.
“Không liên quan,” Ông cậu nó nói.
Ông tiếp tục giải thích tại sao ba người con đáng thương ấy không dự phần trong câu chuyện.
“Điều tất yếu xảy tới là Borlath nghe được tin về tòa lâu đài trên đảo ấy và muốn chiếm nó cho mình. Mang theo một ngàn lính đánh thuê khát máu, hắn băng qua biển và bao vây lâu dài, yêu cầu ngài Amadis phải đầu hàng.”
“Và ngài Amadis từ chối?” Charlie nóng nảy chen vô.
“Dĩ nhiên. Ngài biết rằng nếu ngài giao nộp lâu đài thì toàn thể gia đình ngài sẽ bị tàn sát. Nhưng đó là một quyết định đau lòng. Ngài Amadis biết rất rõ về tài phép khùng khiếp của Borlath.”
Charlie chồm hẳn người ra trước, vẻ nôn nóng:
“Đó là điều con vẫn muốn hỏi, Ông cậu Paton ơi, tất cả con cái Vua Đỏ đều được ban phép thuật, phải không? Vậy, ngài Amadis có thể làm được gì? Và lào Borlath thì sao?”
“Ngài Amadis hiểu ngôn ngữ của các loài chim và thú. Ngài có thể nói chuyện với bất kỳ sinh vật nào trên đời, nhưng điều đó không có giá trị gì nhiều khi ngài cần phải bảo vệ thần dân của ngài chống lại Borlath.”
Charlie chờ đợi một cách sốt ruột, cho đến mãi cuối cùng, Ông cậu Paton bảo với nó:
“Borlath có thể phun ra lửa; khi tập trung tâm trí, hắn có thể thiêu rụi tất cả mọi thứ trên đường hắn đi. Nhưng hắn không muốn phá hủy một tòa lâu đài hoàn mỹ như vậy; hắn muốn chiếm nó cho mình, vì vậy hắn bắt đầu bao vây lâu đài. Điều đó không có nghĩa là hắn ngồi im chờ ngài Amadis đầu hàng. Ồ, không hề. Trước tiên, quân đội của Borlath bắc thang leo lên những bờ tường dốc đứng. Những cung thủ từ các lỗ châu mai trên đỉnh thành chẳng mấy lúc đã đánh lui bọn chúng.”
Ông cậu Paton lật qua trang và đọc tiếp:
“Thế rồi, bọn lính đánh thuê ra sức phá cánh cổng gỗ sồi lớn bằng một thanh gỗ có đầu bịt sắt dùng để phá thành. Nhưng một bức màn dơi bổ nhào xuống và làm mù mắt bọn chúng. Vào cuối tuần lễ thứ mười, ngài Amadis và một trăm chiến binh của mình rời khỏi tòa lâu đài vào một đêm tối đen như mực và bất ngờ tấn công bọn lính đang ngủ say của Borlath. Yếu tố bất ngờ giúp cho ngài Amadis được thuận lợi, nhưng cuối cùng nhúm quân nhỏ của ngài bị bọn chiến binh khát máu của Borlath áp đảo, chúng là bậc thầy giết chóc, thưởng thức từng mẩu đầu mình tứ chi bị cắt rời.”
Charlie rùng mình;
“Vậy, ngài Amadis có biết giết không?”
“Ngài bị thương nặng,” Ông cậu Paton đáp. “Một mũi giáo cắm trong vai ngài.”
Rồi Ông cậu đọc:
“Hầu hết thuộc hạ của ngài Amadis đều bị giết, nhưng một số sống sót và dìu hoàng tử trở lại lâu đài và ngài sống… cho đến hồi kết thúc. Có lẽ, trong thâm tâm, Amadis luôn biết rằng một ngày nào đó Borlath sẽ mò đến tìm mình, cho nên bên trong lâu đài, ngài đã tích trữ một số lượng thực phẩm và ngủ cốc thật lớn. Họ cũng đào một cái giếng thiệt sâu. Khi nguồn cung cấp cạn dần, ngài Amadis nói chuyện với muông thú…”
Ông cậu Paton mỉm cười một mình khi đọc tiếp:
“Một đội quân chuột xâm nhập kho lương thực của Borlath. Bầy sói tấn công bọn lính canh, chim mổ lủng lều bạt của chúng và đêm đến, đàn dơi lại đến, rú rít rợp trời khiến cho không sao ngủ được. Cuộc sống bọn lính của Borlath trở nên không thể chịu đựng nổi. Thời tiết chuyển lạnh. Trời bắt đầu mưa. Bọn lính đã chịu đựng đủ rồi. Chúng muốn quay về nhà.”
“Và đó là khi Borlath sử dụng đến lửa của hắn, phải không?” Charlie nói.
Ông cậu Paton gật đầu. Ông nhìn xuống cuốn sách.
“Ở dưới chân tòa lâu đài có một bức tường cọc gỗ nhọn dày đặc ở cả bên trong lẫn bên ngoài. Nhưng xen giữa và nhô hẳn lên trên rừng gỗ ấy là một bức tường đá màu vàng. Bằng một động tác giận dữ và thèm muốn, Borlath giơ một nắm đấm của hắn lên và gọi lửa. Những người ở trong lâu đài nhanh chóng bị bao bọc trong một vòng lửa. Một số người gieo mình khỏi những lỗ châu mai. Nhưng một số khác đã hoảng sợ khiếp vía trước khi họ leo lên được tới đó. Mọi dằn ông, phụ nữ và trẻ em, mọi sinh vật trong lâu đài đều bị tiêu diệt – ngoại trừ một người.”
“Là ai?” Charlie thốt lên, nhảy bật ra khỏi thế giới rực lửa mà Ông cậu nó vừa tái hiện. “Ý con là làm sao mà có người…”
“Khoan!” Ông cậu Paton ra lệnh.
Charlie im bặt.
“Sức nóng khủng khiếp từ những cọc nhọn cháy khiến cho đá bị nung nóng thành thủy tinh – nói một cách khác, những bức tường biến thành thủy tinh – một loại thủy tinh đen, dày.”
Đôi mắt đen của Ông cậu Paton quắc lên sống động:
“Bây giờ mới là phần thực sự thú vị, Charlie. Ta tin là nó nắm giữ manh mối về nhánh kia của gia đình mày.”
Ông cậu lật một trang sách.
“Trong những chuyến chu du của mình, ngài Amadis đã kết bạn với một thầy pháp xứ Gan, một ông tên là Mathowy. Thầy pháp này sống trên lục địa về phía nam hòn đảo của hoàng tử. Nhưng ngọn lửa do Borlath gây ra dữ dội đến mức nó chiếu sáng rực cả bầu trời suốt mấy dặm quanh đó. Mây biến thành lửa, chim chóc cháy thành than và mặt biển đỏ máu sôi sùng sục như một cái vạc sôi."
“Từ xa ngài Mathowy phát hiện ra cảnh tượng ấy. Ngài đoán được chuyện gì đã xảy ra. Đã quá trễ để cứu người bạn hiền của ngài, Hoàng tử Amadis rồi chăng? Ngài Mathowy làm điều duy nhất ngài có thể làm được. Ngài làm cho tuyết rơi. Một tấm mền tuyết ùa về phía tòa lâu đài đang cháy. Khi tiến tới hòn đảo thì màn tuyết rơi xuống và ở nơi nào tuyết chạm tới những bức tường cháy xém thì nơi đó một chuyện lạ xảy ra. Đá bị nung nóng thành thủy tinh bắt đầu sáng lóa lên.”
“Một lâu đài thủy tinh sáng lấp lánh,” Charlie nín thở. “Nhưng, Ông cậu Paton ơi, có gì liên hệ với gia đình con nào?”
"Ngài Mathowt,” Ông cậu Paton nói cọc cằn. “Nhớ cái tên này trong gia phả mà ngoại Maisie đã đưa cho mày không? Ông tổ người xứ Gan của mày.”
“Ồ,” Charlie chậm rãi nói. “Nhưng ngày tháng năm không đúng.”
“Cái tên là đủ rồi. Người xứ Gan hay đặt tên theo tổ tiên của mình, những cái tên cứ lập đi lặp lại.”
“Ồ,” Charlie lại nói, và nhắc đến vị tổ tiên người xứ Gan nó lại nhớ đến cây gậy phép. “Ông cậu Paton, con làm mất… ông biết đấy… mất cây gậy phép.”
“Cái gì!” Cặp kiếng của Ông cậu Paton trượt xệ xuống chóp mũi.
“Con đã mang nó tới trường. Con thiệt là ngu. Con cất nó dưới tấm nệm gi.ường và giờ thì nó mất tiêu rồi.”
“Mày có nghi ai không?”
“Có. Và nếu đó đúng là kẻ con nghi thì chắc chắn con sẽ lấy lại được cây gậy phép. Thôi, ông kể tiếp câu chuyện đi ạ.”
Ông cậu Paton lắc đầu.
“Thỉnh thoảng sự cẩu thả của mày khiến ta phải choáng váng đo, Charlie.”
Ông nhìn xuống cuốn sách:
“Những bức tường của lâu đài trở nên trơn láng và sáng chói đến nỗi bọn lính của Borlath trơ đực ra ngó một đội quân đang nhìn ra chúng. Cảnh tượng mới kinh hoàng và bi tráng làm sao. Và tin rằng Hoàng tử Amadis và quân dân của ngài vẫn còn sống sót trong biển lửa, và như vậy thì thật là siêu phàm, bọn lính đánh thuê vội tháo chạy ra những chiến tuyến. Duy chỉ có Borlath nhận ra rằng quân đội sáng chói kia là hình phản chiếu quân của chính hắn, nhưng hắn không cố chiếm tòa lâu đài nữa. Vì lý do gì đó mà những bức tường gương khiến hắn khiếp đảm,v à cả hắn nữa, cũng rút khỏi hòn đảo.”
“Vậy là tất cả mọi người đều chết trong đó,” Charlie nói. “Ngoại trừ một người. Chắc hẳn nó giống như một lăng mộ khổng lồ sáng rực rỡ. Con không muốn là người duy nhất sống sót đó đâu. Người đó là ai vậy ạ, Ông cậu Paton?”
Ông cậu Paton lại tham khảo cuốn sách, lật qua vài trang trước khi tới một trang ở gần cuối.
“Có một người sống sót, là con trai út của hoàng tử Owain, tóc trắng, người được gọi là kẻ bạch tạng, và là người hiểu được ngôn ngữ của chim và thú. Vì vậy, Owain, không gia đình, không nhà cửa, đã rời khỏi hòn đảo theo lời khuyên của một con quạ. Và con quạ ấy cùng đi với ngài.”
“Ngài ấy giống Billy quá,” Charlie kinh ngạc nói. “Giống y hệt Billy.”
“Chính xác,” Ông cậu Paton thừa nhận. “Thiệt kỳ lạ là những đặc điểm giống nhau thình lình lại xuất hiện qua những thế hệ. Rủi quá, sách không nói cậu bé đó đã xoay xở làm sao mà sống sót được, nhưng để ta đọc đoạn cuối cho mày nghe vì nó thú vị thật sự: ‘Người ta truyền tụng rằng một trong những người mang dòng máu của Owain, một ngày kia, sẽ gặp lại hoàng tử Amadis trong Lâu đài Gương.’ ”
“Billy?” Charlie nói.
Ông cậu Paton dòm qua cặp mục kỉnh:
“Có lẽ.”
Ông quay lại với cuốn sách:
“’Và Owain rong ruổi tới Đế Chế La Mã Linh Thiêng, sinh được hai người con trai. Người con cả trở thành một học giả…’ – tức là người viết sách, viết tài liệu hoặc chép lại những bản thảo đấy – ‘… và người con út có thể nói được ngôn ngữ của chim muông và thú vật. Người con trai này bị xua đuổi khỏi ngôi làng ông sinh sống vì đã giao du với lũ quạ đậu trên giá treo cổ, nơi hành quyết tội nhân.’ ”
Charlie rùng mình:
“Ghê quá. Nhưng tại sao họ lại xua đuổi ông ấy?”
“Vào thời ấy những thói quen lạ lùng thường bị cho là hiện thân của quỷ sứ,” Ông cậu Paton nói. “Và bây giờ là kết thúc câu chuyện…”
Ông đặt một ngón tay lên đoạn cuối cùng:
“Người con trai cả của ngài Owain được gọi là Crowquill vì ông sử dụng bút lông quạ để viết những tác phẩm của mình. Và câu chuyện này, theo như tôi được biết, do một hậu duệ của ngài Crowquill viết vào năm 1655, sau Công Nguyên."
“Vậy là…” Charlie trầm ngâm nói, “… họ, dòng họ Raven và dòng họ Crowquill, có mối liên hệ với nhau ngay từ thời đó… Có quá nhiều chuyện lạ kỳ xảy ra trong thành phố này, Ông cậu Paton ạ.”
“Đúng vậy,” Ông cậu của nó nói.
“Cứ như là thành phố này đang kéo tất cả bọn họ lùi về lại quá khứ, tất cả những người mà câu chuyện của họ bắt đầu ngay tại đây, trên mảnh đất dưới chân chúng ta, dưới tất cả mọi mái nhà và mọi đường phố và mọi công viên.”
“Kể cả ngôi nhà này,” Ông cậu Paton thêm.
“Kể cả chúng ta. Như những sợi chỉ đang càng ngày càng buộc chặt mọi người lại với nhau.”
“Mày mới giống nhà hùng biện làm sao, Charlie,” Ông cậu Paton nói, mỉm cười.
“Hôm nay,” Charlie tiếp, “con đến một tiệm bán hoa và cô bán hàng biết tên con. Cô ấy đặc biệt quan tâm đến bạn con, Olivia. Nhưng Livvie chắc là sẽ không tới tiệm đó nữa đâu. Nó nói người phụ nữ ấy biết về nó còn nhiều hơn cả nó nữa.”
“Con bé đó có được ban phép thuật không?”
“Không. Tuyệt nhiên không. Nhưng nó là một diễn viên cực kỳ tài năng. Chỉ vì nó bị rớt trong kỳ thi thử vai và nó thật sự… con không thể diễn tả được. Nó hình như là rất khác… cáu bẳn và tuyệt vọng!”
“Coi bộ rắc rối đấy, Charlie. Phụ nữ tuyệt vọng rất nguy hiểm.”
“Vậy à?” Không cưỡng nổi, Charlie ngáp một cái. “Cảm ơn Ông cậu đã đọc cho con nghe câu chuyện. Cứ như là đặt mọi thứ vô một cái khung để có thể nhìn thấy chúng cho rõ hơn vậy. Con thắc mắc không biết chuyên gì sẽ xảy ra tiếp theo đây?”
“Ta tự hỏi, Charlie à,” Ông cậu Paton nói. “Ta tự hỏi…”
Ông đóng cuốn sách lại và cẩn thận đẩy nó vô một trong những hốc còn trống ở trên bàn làm việc.
“Mày nên tìm cho ra cây gậy phép trước khi nó rơi vào những bàn tay xấu.”
Charlie nghĩ, có lẽ nó đã rơi vào rồi.
 
Manfred Bloor đang mất dần quyền phép. Hắn đã nhận ra điều đó khoảng một năm nay, kể từ khi Charlie Bone đấu trí chống lại được hắn. Charlie đã mường tưỡng được những hình ảnh về cha nó, một người đàn ông mà Manfred thấy rất dễ thôi miên hồi hắn mới chín tuổi. Khi Manfred lên chín, tài phép của hắn đã đạt tới đỉnh cao; bây giờ chúng đang suy yếu dần.
Không ai đoán được chuyện gì đang xảy ra với hắn. Manfred vẫn có thể khiến lũ trẻ sợ chết khiếp mỗi khi hắn chĩa tia nhìn gớm ghiếc. Và cuộc thí nghiệm với con ngựa đã gần như lấy lại được sự tự tin cho hắn, bởi vì chính phần đóng góp của hắn vào quy trình ấy là thành công nhất. Phải thế không? Hay lại chính mấy món nước bốc mùi kinh tởm của mụ Venetia Yewbeam đã làm nên chuyện.
Còn một điều nữa. Hiện giờ con ngựa đó đang ở đâu? Và họ sẽ khống chế nó bằng cách nào đây? Manfred ngầm kinh sợ con ngựa “không chết” đó và trái tim tàn bạn của nó. Hắn cần một thứ gì đó để tự bảo vệ mình.
Thiệt dễ dàng thuyết phục Billy Raven đánh cắp cây gậy phép của Charlie. Sợ rằng một cơ hội được hạnh phúc của mình bị vuột mất vào phút cuối, Billy đã tìm ra cây gậy phép và trao cho hắn.
Mong rằng nhóc Billy được hưởng chút lợi lộc. Bây giờ cu cậu đang bị kẹt trong Ngôi Nhà Bất Chợt, và cha mẹ tử tế mà nó hằng ao ước không ai khác hơn lại chính là bọn côn đồ máu lạnh có những quyền phép cực kỳ khó chịu.
“Ô, ngờ nghệch quá chừng chừng,” Manfred hát ư ử khi hắn nhịp bước vòng quanh căn phòng của mình, xoay xoay cây gậy trắng, thanh mảnh trong tay.
“Và bây giờ là bài kiểm tra. Mày sẽ làm được gì cho tao, hả cây gậy phép bé nhỏ?”
Hắn nhận thấy một con ruồi đang bò trên bàn làm việc, liền chạm đầu gậy bịt bạc vô nó.
“Biến thành cóc,” hắn ra lệnh.
Manfred cảm thấy một cơn buốt xé trong lòng bàn tay và hắn buông rơi cây gậy phép. Con ruồi vẫn cứ là con ruồi. Nó bay lên trần nhà, và đậu ở đó, lộn ngược, im re. Manfred có cảm giác gớm ghiếc là con ruồi đang cười nhạo mình.
“Biến thành cóc,” hắn thét to, quăng cây gậy phép lên trần nhà.
Khi cây gậy trắng rời khỏi bàn tay hắn, một cơn đau xẻ thịt chạy dài suốt cánh tay của Manfred.
“Áááááá!” Hắn hét lên.
Cây gậy phép đụng con ruồi và rớt xuống sàn. Con ruồi, không hề hấn gì, bay về phía cửa sổ.
“Biến con đó thành cóc!” Manfred rú rít, chụp lấy cây gậy phép và liệng nó về phía cửa sổ. Lần này, cơn đâu đục bàn tay hắn tựa như một que cời nung đỏ. Quả thực, có một vết bầm lớn, đỏ lòm xẹt ngang lòng bàn tay hắn.
Khi Manfred thét rống lên, con ruồi bay vo ve đằng sau tấm rèm, và một lần nữa, cây gậy rớt xuống sàn nhà. Đến lúc này, Manfred không còn chút nghi ngờ gì nữa, rằng cây gậy ấy không phục tùng hắn. Thực ra, hắn càng cố sử dụng nó, thì nó sẽ càng trừng phạt hắn vì đã dám thử.
“Mày… mày…” Miệng nguyền rủa thậm tệ, Manfred vớt cây gậy phép lên và thảy nó vô sọt rác trống rỗng. Rồi hắn quơ quào tất tần tật đám giấy lộn mà hắn kiếm được và quẳng vô sọt. Hành động cuối cùng cùa Manfred là quẹt vài que diêm và thả chúng vô đống giấy.
Trông lửa bốc lên ống khói thiệt hả lòng hả dạ, nhưng rồi khoảnh khắc kinh hoàng đến với Manfred khi lửa bắt đầu lan ra căn phòng. Hắn giật phăng chiếc áo chùng đen đang mặc ra và thảy nó úp chụp lên ngọn lửa, cố dập tắt. Chiếc áo chùng cháy sém và một làn khói cuộn ra. Ho sặc sụa và ngạt thở, Manfred lảo đảo chạy tới cửa sổ, mở bung ra.
Đúng lúc đó, ông Tantalus Ebony bước vào phòng vui vẻ cười rồ rồ:
“Đang âm mưu gì đấy, chàng trai trẻ?”
Manfred quay ngoắt lại, vẫn ho rũ rượi. Hắn chỉ ngọn lửa:
“Cậy gậy… hụ… hụ… của Charlie… Tôi… hụ… đốt nó.”
Hắn khạc một tiêng để thông cổ họng, nghe khét lẹt.
“Nó không phục tùng tôi, cho nên tôi kết liễu nó luôn. Ít nhất thì bây giờ cái thằng oắt ôn dịch đó không thể sử dụng gậy được nữa.”
“Ôôôô! Kiềm chế, kiềm chế coi.” Tantalus cười khục khịch. “Cậu sẽ cần phải học cách kiểm soát chuyện nó không phục tùng cậu, anh bạn cũ của ta à.”
“Tôi không phải là bạn cũ của ông,” Manfred quặc lại. “Và tôi mong ông xác định được ông là ai.”
“Hôm nay, ta là…” Tantalus dòm trợn trừng lên trần nhà. “Ta là một chút Vincent Ebony, tên đưa thư – gã ấy gọi tất cả mọi người là bạn cũ của tôi – nhưng mà ta cũng là một phần ngài hiệu trưởng ham đi bộ, Tantalus Wright. Ta chưa hề có nhiều niềm vui đến thế này suốt bao nhiêu năm rồi.”
“Tôi hy vọng lão chưa quên tại sao lão lại ở đây,” Manfred nói ngoa ngoắt.
“Ồ, cái đó!” Tantalus híp đôi mắt chênh nhau của lão lại và và liếm đôi môi mỏng. “Không, ta không quên cái đó.”
Ngọn lửa trong sọt rác, đến lúc này, là một đống tro lập lòe và hai gã đàn ông nhìn với vẻ thỏa lòng khi những thứ còn lại của cây gậy cháy đen cuối cùng vỡ vụn ra thành bụi. Một luồng gió thình lình lùa thốc qua cửa sổ để mở, nâng đống tro lên, và một đám mây tro nhỏ xíu bay chấp chới vô phòng. Dần dần, đám may xếp thành hình một con bướm đêm màu trắng với đầu đôi cánh mỏng manh viền bạc.
“Bắt lấy nó!” Tantalus rống vang.
Manfred nhảy chồm lên, quá trễ. Con bướm bay dập dềnh qua cửa sổ, theo sau là con ruồi bất trị.
Trong phòng tắm nhà số 9 đường Filbert, Charlie Bone mặc đồ ngủ, đứng bên cạnh bồn rửa mặt, bỗng cảm thấy choáng váng. Toàn thân nó như bị lửa đốt. Bệnh cúm chăng? Nó cảm thấy một cái gì đó kinh khùng vừa mới xảy ra. Nhưng mà là cái gì? Lẽ nào một trong những người bạn của nó gặp tai nạn.
Charlie hứng hai bàn tay dưới vòi nước lạnh. Hơi nước bốc lên từ những ngón tay của nó, như thể chúng là những que cời than đỏ rực.
“Ôi… ôi,” Charlie run bần bật. “Vụ gì thế này?”
“Gì hả?” Một giọng nói từ ngưỡng cửa nạt nộ. Nội Bone đứng trợn mắt nhìn Charlie. “Mày chiếm nhà tắm suốt hai mươi phút rồi. Những người khác cũng cần xài, mày phải biết chứ.”
“Éééé!” Charlie nghiến chặt hai hàm răng lại khi một làn hơi nước nữa phụt ra khỏi những đầu ngón tay nó. “Nhưng con bị nóng quá, nội. Coi nè! Hơi nước!”
“Cái xâu xa nó phơi bảy ra đó mà,” nội Bone gầm gừ. “Dẹp cái tay kinh tởm của mày đi chỗ khác.”
Charlie rời phòng tắm, vẩy vẩy những ngón tay bốc khói trong không khí. Nó đi vào phòng ngủ, mở cửa sổ ra hết cỡ, và chìa hai bàn tay ra ngoài trời mát mẻ. Đó là một buổi tối kỳ lạ. Một màn sương mù mùa thu đang quét qua thành phố, làm nghẹt tiếng xe cộ và làm mềm đi những đường viền của những bức tường và những hàng rào. Không khí ngào ngạt hương hoa.
Một mảng bụi sáng lấp lóa trôi từ bầu trời xuống. Khi mảng bụi sà xuống gần hơn, Charlie có thể nhận ra đôi cánh màu trắng, đầu cánh viền bạc – một con bướm đêm màu trắng.
Sinh vật bé nhỏ đó bay xuống bàn tay chìa ra của Charlie và đậu lên ngón tay trỏ của nó.
“Chao!” Charlie nói. “Mày thiệt tuyệt vời.”
Nó đem con bướm vô nhà để con bướm bò trên chiếc bàn đầu gi.ường, tại đây con bướm dang đôi cánh ra và đậu im lìm. Charlie có cảm giác là con bướm cảm thấy rất thoải mái khi ở trong phòng nó. Nó nhận thấy bàn tay nó không còn cháy bỏng nữa, và cơn sốt ngây ngất của nó cũng đã hết. Nó đã hoàn toàn khỏe mạnh trở lại.
Trong một ngôi nhà cách không xa nhà của Charlie, Olivia Vertigo ngồi trên mép gi.ường, gọt táo. Đó là trái táo thứ năm nó cố gọt trong ngày hôm ấy. Và lần cố gắng này chứng tỏ cũng chẳng thành công hơn những lần kia. Mỗi lần nó nghĩ nó đã gọt xong hết rồi, là lại có thêm một hai phân vỏ táo nữa cần gọt, và dây vỏ táo lòng thòng ra khỏi trái táo dài ít nhất là một thước.
Đùng đùng nổi cáu, Olivia quăng con dao và liệng trái táo ngang căn phòng. Nó vùi mặt vô hai bàn tay và khóc thút thít:
“Chuyện gì xảy ra với mình thế này?”
Cánh cửa bật mở và mẹ nó nhìn vô phòng. Cô Vivienne Vertigo (hay Viva Valery trong các bộ phim) dù là một ngôi sao màn bạc nổi tiếng, nhưng điều này không bao giờ ngăn cô là một bà mẹ tốt bụng và cảm thông. Cô luôn luôn tìm ra cách giúp đỡ con gái vượt qua những “con buồn vui thất thường” nho nhỏ của nó, nói theo cách của cô. Nhưng tâm trạng của Olivia trong hai mươi bốn giờ qua sắp sửa hạ gục cô.
“Hoa đẹp lắm, Olivia, cảm ơn con!” Cô Vivienne nói.
Olivia không nhìn lên.
“Ôi, Livvie tôi nghiệp.” Cô Vertigo lại bên con gái và ngồi cạnh nó, trên gi.ường. “Mẹ cũng đã rớt đài trong lần thử vai đầu tiên, con biết không. Đó không phải là vai thích hợp cho con. Sẽ còn có những cơ hội khác nữa. Con đừng thoái chí như vậy.”
“Con không thoái chí,” Olivia làu bàu.
“Vậy thì là cái gì?”
"Một cái gì đó xảy đến với con, mẹ à.”
“Con đang lớn đấy, cưng.”
“Không phải CÁI ĐÓ!” Olivia hét lên. “Một cái gì đó khác cơ. Nó khiến cho con… ôi, con không biết. Con ghét nó. Con không muốn nó xảy ra.”
Cô Vertigo ráng kiềm chế để không làm một cử chỉ bấn loạn. Thay vào đó, cô nhún vai một cách khiêm nhường nhất và nói:
“Mẹ không hiểu lắm, cưng.”
Olivia buông một tiếng thở dài thượt.
“Khi con về nhà cùng với bó hoa đó, con cảm thấy muốn ăn táo. Vì vậy con lấy một trái từ cái thố ở trong nhà bếp. Nhưng con không thể nào gọt được nó. Con cố gọt thêm bốn trái nữa. Nhưng… nhưng vỏ táo không bao giờ hết.”
“Sao con không ăn cả vỏ luôn?” Cô Vertigo hỏi. “Nó tốt cho tóc của con mà.”
“Con không thích vỏ táo,” Olivia thét lên, phát khùng vì sự thiếu hiểu biết của mẹ mình. “Nhưng đó không phải là điểm chính. Tại sao vỏ táo không bao giờ hết? Con cứ gọt quanh gọt quanh mãi và nó không bao giờ hết.”
Cuối cùng, cô Vertigo nói:
“Những trái táo đó hái từ cây táo ở cuối vườn nhà mình. Trước giờ mẹ chưa từng thấy có chuyện gì với chúng cả.”
Olivia thôi không nói đến táo nữa…
“Và rồi có hoa.”
“Hoa đẹp lắm,” mẹ nó vọt miệng. “Nhưng con kiếm được chúng ở đâu vậy? Mẹ nghĩ con ở quán Cà Phê Thú Kiểng cơ mà. Mẹ lo quá khi ông Onimous bảo với mẹ là con không có ở đó.”
“Đó, điều đó đó mẹ. Những bông hoa đã tìm con. Có một ngõ hẻm mà trước đây con chưa bao giờ thấy và con cảm thấy con cần phản đi tới đó. Rồi sua đó con thấy tiệm bán những bông hoa này, tiệm Hoa Thiên Thần. Khi con đi vô, người phụ nữ trong tiệm nói cô ấy biết con, điều đó đáng sợ quá bởi vì con không biết cô ấy. Tên của cô ấy là Alice Angel.”
“Alice Angel… Alice Angel,” cô Vertigo từ tốn lặp đi lặp lại.
“À phải,” cuối cùng cô nói. “Alcie Angel kết hoa đám cưới, lễ đặt tên thánh, lễ kỷ niệm. Cô ấy đã trang trí nhà mình trong bữa tiệc đặt tên thánh của con, Livvie. Mẹ đã không gặp cô ấy kể từ đó, nhưng cô ấy sống ở ngay đằng kia.”
“Đâu?” Olivia nhảy bắn ra khỏi gi.ường và dõi theo ngón tay mẹ nó chỉ ra cửa sổ. “Đâu? Đâu?”
“Ở phía bên kia bức tường có một khu vườn. Nó đâu lưng lại với vườn nhà mình. Cô Alice Angel sống trong ngôi nhà ở đầu kia khu vườn. Ít ra là cô ấy đả từng sống ở đó.”
“Mẹ, con sẽ tới xem ngay bây giờ.”
“Ừ, Livvie,” cô Vertigo vui mừng thấy gương mặt buồn bã của con gái đã sinh động trở lại. “Nhưng làm ơn đừng leo tường đấy nhé. Nhà đó giờ có thể đã là những của người lạ.”
“Không sợ,” Olivia nói rạng rỡ. Nó chạy xuống cầu thang và ào ra vườn.
Một màn sương mù trắng tháng chín phủ trên mặt cỏ và không khí ấm áp thấm đẫm hương thơm. Olivia tiến đến bụi cây ở cuối vườn. Nó thấy có bức tường nhô qua khỏi bụi cây, nhưng trước khi tới được, nó loạc choạc dẫm phải một trái táo rụng. Gần đó có mấy trái nằm lăn lóc. Đúng hơn, mặt đất rải rác đầy táo. Nhưng không có cây táo nào trong vườn nhà Olivia. Táo từ một nhánh cây dài thò qua tường rụng xuống. Cây táo mọc ở bên kia bờ tường.
Olivia lách mình băng qua bụi cây. Nó không đủ cao để nhìn qua được bức tường, vì thế nó phóng lên và ngồi trên thành tường. Khi thoạt nhìn xuống khu vườn bên kia, nó cứ ngỡ như bất ngờ có tuyết rơi, bởi vì khu vườn phủ đầy hoa trắng. Hoa mắc cả lên cây, vương kín những bờ rào và len lỏi trên lối đi hẹp lát đá. Những cánh hoa trắng rải khắp mọi nơi, tựa hồ như những mảng tuyết.
Cuối con đường, một căn nhà rất xinh ẩn dưới một thảm hoa hồng trắng. Chỉ trông thấy một cánh cửa lớn và một khung cửa sổ. Ngay cả ống khói cũng chìm trong những tràng dây leo.
Olivia hầu như không để ý lắm đến quang cảnh lạ kỳ này khi mắt nó hướng tới một cấu trúc tròn tròn bằng gỗ mà nó phát hiện ra ngay bên trên biển hoa. Olivia nheo mắt trong hoàng hôn. Đó là một chiếc xe moóc, một ngôi nhà lưu động chính công của dân Di-gan.
Ngay lúc đó, cánh cửa của ngôi nhà mở ra và ánh sáng tràn khắp lối đi. Một bóng người bước ra. Nhỏ nhắn và rất mỏng manh, bóng người mặc áo khoác dài có mũ trùm và bước lê trên lối đi, đầu cúi xuống và vai rụt lại. Và rồi, bóng người rời khỏi lối đi và lội qua biển hoa cho tới khi đến bên chiếc xe moóc. Olivia nghe tiếng bước chân cố leo lên những bậc thang gỗ. Nó mở căng mắt và cúi nhoài xuống bức tường, cố nhìn kỹ xem bóng người lạ là đàn ông hay phụ nữ.
Một giọng cất lên:
“Ngủ ngon nhé, anh yêu.”
Hiện ra nơi ngưỡng cửa của ngôi nhà phủ hoa hồng, một người phụ nữ có mái tóc bạch kim óng ánh đang đứng. Cô Alice Angel.
“Chúa ban phước cho em!” Hình hài đội mũ trùm đáp lại.
Rồi người đó bước vào trong cái xe moóc và đóng cửa lại.
Cô Alice Angel vẫn đứng tại chỗ một hồi. Và rồi cô gọi:
“Phải cháu đó không, Olivia?”
Olivia giật mình và rớt phịch xuống vườn nhà nó.
 
Vào sáng thứ Hai, Charlie đinh ninh là sẽ gặp Billy Raven trên xe buýt trường, nhưng chẳng thấy tăm hơi thằng bé đâu cả.
Cuối cùng Charlie cũng bắt gặp Billy trong hội trường. Thằng nhỏ bạch tạng này trông có vẻ kiệt quệ có những quầng thâm trũng sâu dưới mắt và gương mặt lộ vẻ bị hành hạ, đói khát.
“Ở nhà thế nào, Billy?” Charlie thì thào ki dàn nhạc giao hưởng nổi lên.
“Tốt,” Billy đáp. “Tuyệt. Thiệt đấy.”
“Anh chờ em hoài. Anh tưởng ba mẹ em chở em tới quán Cà Phê Thú Kiểng chớ.”
“Không. Em… anh biết đấy… nhà em mắc bận,” Billy nói nghiêm trang.
Một trăm đứa trẻ mặc áo chùng xanh da trời cất lên bài hợp xướng đầu tiên, và Charlie đành thôi tạm thời vậy, nhưng sau giờ ra chơi đầu tiên nó thấy Billy trong phòng để áo khoác xanh da trời.
"Billy…” Charlie mở lời.
“Thôi!” Billy hét lên.
Charlie ngó Billy chằm chằm, ngạc nhiên hết sức.
“Thôi vậy,” nó nói.
“Làm ơn đừng hỏi em về nhà em, hay về ba mẹ em, hay bất cứ điều gì đại loại nữa, bởi vì em sẽ không nói cho anh biết đâu.”
Hạ thấp giọng, thằng bé thêm.
“Em không nói được.”
Trong thoáng chốc, Charlie bối rối. Gia đình de Grey rõ là đã đe dọa Billy và Charlie không muốn chuốc rầy rà cho thằng bé.
“Thôi vậy. Có lẽ em chỉ cần cho anh biết em có lấy cây gậy phép của anh hay không?”
Gương mặt tái xanh của Billy chợt đỏ rân.
“Em…” Nó chật vật với câu trả lời.
Cuối cùng, nó nói nhỏ:
“Em xin lỗi, anh Charlie. Thực tình xin lỗi.”
“Anh nghĩ em đã đưa nó cho Manfred.”
Lặng lẽ, Billy gật đầu.
“Để anh đoán coi. Hắn đe dọa em sao đó. Xem ra hắn bảo em sẽ không được về nhà mới gì hết.”
Billy lại nín thinh, gật đầu một cái nữa.
Charlie thở dài:
“Phải chi em đừng làm thế, Billy, nhưng anh nghĩ anh cũng không thể trách em được.”
Charlie rời phòng để áo khoác và quầy quả đi tới lớp học của nó. Một tràng cười rộ lên, dội về phía nó khi nó tới phòng học của thầy Tantalus Ebony. Khi bước vô, nó thấy một nửa lớp đang cười khúc khích.
Tantalus Ebony ngồi sau bàn, cằm gục xuống ngực. Cái mũ trùm màu tím bao bọc kín đầu, mắt nhắm tịt và thầy đang ngáy ầm ĩ. Charlie ngồi vô chỗ của mình, kế bên Fidelio, cậu này nằm xoài ra bàn, cười ngặt nghẽo, rung cả người. Charlie cũng không nén được cười, mặc dù nó vẫn hé mắt để ý ông thầy đội mũ trùm.
Bất thình lình, cái đầu của Tantalus Ebony giật ngóc lên và ông ta rống vang:
“Im!”
Giọng ông ta nghe hoàn toàn khác. Tuần trước ông ta có giọng the thé, nhưng giờ đây giọng ông ta nghe rồ rồ từ dưới hang sâu vọng lên. Tiếng rống như một cú điện giật đến nỗi cả lớp đột nhiên im bặt.
Tantalus Ebony hình như hơi chờn chợn vì cái giọng đục sâu phụt ra khỏi họng mình.
“E hèm,” ông ta nói, hắng cho thông cổ. “Ừmm! Ừmm!”
Thiệt khó mà ngó thẳng mặt lên trong khi ông thầy kỳ dị đang chìm trong một cơn ho khạc, rít, hít và thở phù phù, nhưng không đứa học trò nào trong lớp dám để lộ ra một nét cười trên mặt. Chúng đánh hơi thấy mùi cấm túc.
Cuối cùng, ông thầy đã tìm ra được giọng thích hợp cho bài giảng của mình, và với giọng hài lòng nhưng đầy quyền uy, ông ta hô lớn:
“Lịch sử thời Trung cổ. Hãy mở sách ra trang bốn mươi ba. Vương triều Plantagenet(*).”
Suốt bốn mươi phút, cả lớp lắng nghe ông thầy Tantalus Ebony mô tả về triều đại vua Henry II và vụ ám sát Thomas à Becket. Đó là một bài học thú vị nhất mà Charlie từng được học. Lúc sắp kết thúc bài học, trước sự ngạc nhiên ngỡ ngàng của tất cả bọn học trò, Tantalus Ebony chợt hỏi:
“Và Vua Đỏ đã ở đâu khi những trận chiến, những vụ giết người và xung đột này xảy ra?”
Không đứa nào biết phải trả lời ra sao. Ông Ebony nhìn thẳng vô mặt Emma Tolly và nói:
“Trò phải biết, Emma-kẻ-được-ban-phép-thuật, lẽ nào trò không biết? Trò, kẻ mang dòng máu của nhà Vua trong huyết quản, mang tài phép của nhà Vua trên những ngón tay…”
Rồi Tantalus cúi nhoài người qua bàn và thì thầm đặc:
“… và trong đôi cánh của trò.”
Tất cả lớp nhìn Emma, con nhỏ lắp bắp:
“Em… không biết, thưa thầy.”
“Ngài ở ngay đây, con ngốc. Sống ung dung trong đống đổ nát mà chúng mày có thể thấy ở góc vườn đằng kia. Ai mà nghĩ được rằng một tòa lâu đài cũ mốc, u ám thế kia lại có thể là một mái ấm gia đình? Nhưng mà chính vậy đấy. Nhà vua, hoàng hậu và mười – à không, thứ lỗi cho ta, chín chứ - chín người con sống ở đó với nhau hạnh phúc, cho đến một ngày kia hoàng hậu tạ thế. Hây, hô. Biến cố xảy ra. Và nhà Vua đắm chìm trong phiền muộn bỏ vào rừng sâu, bỏ bê các con của mình, kể cả đứa trẻ mới sinh.”
Ông Ebony lắc đầu. Bây giờ trên mặt ông ta ngự một nụ cười thỏa mãn một cách quái đãn:
“Dĩ nhiên có vô số người hầu kẻ hạ chăm sóc họ, nhưng đâu có giống, đúng không nào? Đâu có giống như có mẹ và cha chăm lo, phải không, Emma?”
"Phải, thưa thầy,” Emma như sắp òa khóc đến nơi.
Charlie tự hỏi tại sao thầy Tantalus Ebony lại xoáy vô Emma. Còn hai đứa nữa được ban phép thuật ở trong lớp kia mà, nó và Gabriel, anh chàng này đang ngồi ở cuối lớp, thấp thỏm vò đầu bứt tóc. Không hề suy nghĩ, Charlie hỏi:
“Thưa thầy, thầy có được ban phép thuật không ạ?”
Lờ tịt câu hỏi đó, Tantalus Ebony chĩa ánh mắt màu xanh nâu của mình vào Charlie và hỏi:
“Con sâu hoang trên đường Filbert ra sao rồi, cậu Bone?”
Charlie hoàn toàn bối rối:
“Gì ạ?” Nó nói khàn khàn.
“Con sâu hoang ấy, Charlie. Nói coi. Có thấy con bướm lạ nòa dạo gần đây không? Loại bướm đêm. Còn ngựa nghẽo thì sao?”
Miệng Charlie hà hốc nhưng chẳng thốt ra được lời nào.
“Không,” Charlie lúng búng.
“Không cái gì?”
“Không, thưa thầy.” Charlie nói.
“Đồ ngu. Ý ta là, không bướm hoặc không ngựa gì sao?”
Đầu óc, Charlie chạy loạn xạ. Một câu hỏi gài bẫy chăng? Charlie chưa kịp quyết thì Fidelio đã nói:
“Trò ấy chẳng thấy con nào trong bọn chúng cả.”
“Ai hỏi mi, đồ xấc láo kia?” Thầy Ebony hét ầm lên. Trong tích tắc, tâm trạng của ông ta biến đổi. Đan những ngón tay vô nhau, ông ta duỗi thẳng cánh tay ra, vươn lòng bàn tay về phía bọn học trò. Tiếng những khớp xương kêu răng rắc đến nỗi da gà, và ông ta hân hoan nói:
“Cả lớp giải tán.”
Gần như kko tin rằng mình lại may mắn thế, Charlie gom hết sách vở và vọt ra cửa. Khi ra khỏi phòng học, nó nghe thấy Ebony huýt sáo một giai điệu hơi quen quen.
“Ông thầy đó khùng hay sao vậy?” Fidelio nói.
“Cứ như có hai con người ấy,” Charlie nói.
“Ba chứ,” Gabriel chen ngang, nó vừa đuổi kịp hai đứa kia. “Khi dạy đàn dương cầm thì ông ta hoàn toàn khác: điềm tĩnh, trang nghiêm, và ông ta chơi đàn cực kỳ hay.”
Emma và Olivia đang sóng bước ở đằng trước bọn con trai, nhưng khi chúng sắp tới tiền sảnh, Olivia quay qua Emma và thét lên:
“Thôi, im đi! Tớ không muốn nói về chuyện đó mà,” và nó chạy băng qua tiền sảnh tới phòng để áo khoác của khoa Kịch.
“Nó làm sao vậy?” Fidelio hỏi.
Emma chờ cho bọn con trai đi tới chỗ nó rồi mới nói:
“Mình nghĩ là tại bây giờ mọi người đều biết nó rớt cuộc thi thử vai. Chuyện lan ra khắp toàn trường rồi.”
“Tôi quên mất chuyện đó,” Gabriel thú thiệt.
“Tội nghiệp,” Fidelio nói. “Chắc nó thấy kinh khủng lắm.”
Charlie thú nhận là đã gặp Olivia kể từ buổi thử vai. Nó kể lại cho cả bọn nghe về người phụ nữ trong tiệm Hoa Thiên Thần, hình như cô ấy biết Olivia và biết nó.
Asa Pike, đang rình mò quanh tiền sảnh, cất tiếng:
“Bọn kia, không được lẩn quẩn ở đó. Bọn bay phải lẹ lẹ đi ăn trưa đi.”
Nhớ tuân thủ luật im lặng, bốn đứa trẻ bước vô tiền sảnh và đi sang phòng để áo khoác của khoa mình.
Billy Raven đang đứng cuối cùng trong đám xếp hàng chờ lĩnh phần ăn trưa thì Charlie và đám bạn bước vô căn-tin.
“Em ngồi chung bàn với anh được không?” Thằng bé hỏi Charlie.
“Được,” Charlie cười toét. Trông Billy sợ sệt đến nỗi không còn tức giận nó được nữa.
Hôm nay có món xúp cà chua và bánh mì vòng. Trong lúc cả bọn xì xụp một cách háu đói, Billy chỉ ngồi ngó trừng trừng vô cái tô.
“Không khỏe hả, Billy?” Fidelio hỏi.
“Ồ, khỏe chứ. Em rất khỏe,” Billy nói một tràng. “Ba mẹ em tuyệt lắm. Họ cho em ăn toàn đồ ngon. Em đã ăn sáng nhiều lắm rồi. Em không ăn thêm được nữa.”
Bọn kia dòm thằng bé trân trân, ngạc nhiên vì bài diễn văn đầy nhiệt huyết ngắn ngủi của nó. Nhưng sau đó Billy chẳng nói gì nữa cho đến hết bữa ăn. Bọn trẻ đang xếp chồng dĩa lại, chuẩn bị đem ra quầy, thì Billy rụt rè hỏi:
“Anh Gabriel, anh có thể nói cho em biết một thứ được không? Nó bị ai đó làm mòn rồi, nhưng nó không phải là một vật bình thường.”
“Ra ngoài kia hẵng đưa tôi coi,” Gabriel nói, bị cuốn hút bởi một vật không bình thường.
Vật đó hóa ra là một cái nút áo. Billy lôi nó từ trong túi quần ra, lầm bầm:
“Hình như là em chưa nói gì hết phải không? Ý em là, em chưa nói gì về nhà mình, đúng không?”
“Chưa.” Gabriel nói, cầm lấy cái nút áo.
Bốn thằng bé đang ngồi trên bãi cỏ ở bên rìa khu vườn, với những bức tường đỏ lở lói của lâu đài hoang phía sau lưng.
“Em tìm thấy nó ở đâu vậy, Billy? Và nó có gì khác thường?” Fidelio hỏi.
“Không nói được,” Billy ngậm chặt miệng lại.
Cái nút áo trông khá bình thường. Lớn và màu đen loại nút áo thường đính trên áo com-lê hoặc áo khoác.
“Tôi cần biết thêm một ít về cái nút,” fr nói. “Em tìm thấy nó ở nhà mới của em phải không? Trong tủ áo? Hay dưới sàn nhà? Em có biết ai mặc chiếc áo mà đính cái nút này không?”
Billy gật gật hai cái và sau đó lác lắc hai cái.
“Rồi. Vậy là chúng ta tiến gần hơn rồi đấy,” Gabriel lật cái nút áo lên. “Tôi nghĩ, có gì thì làm nấy thôi.”
Nó đặt cái nút áo lên những vị trí khác nhau trên thân mình và rồi lên hai bên hông.
“Thiệt khó,” nó nói. “Em biết đấy, tôi không thể mặc nó vô được nên tôi không nghĩ là sẽ có tác dụng… Oái!”
Thân hình còm nhom, dài ngoẵng của Gabriel nảy giật ra sau và nó nhìn xuống cái nút áo mà nó vừa đặt trên túi áo sơ mi bên trái của nó. Có một nhịp đập rất khẽ khi nó ấn cái nút áo cho gần trái tim hơn.
Mắt tròn xoe, Billy nhìn thẳng mặt Gabriel khi cậu bạn lớn này hộc ra một chuỗi những từ cảm thán:
“Quái lạ! Kỳ thiệt!”
Nó nhắm nghiền mắt lại và ba đứa kia lắng nghe trong yên lặng hoàn toàn.
“Có thủy tinh ở khắp nơi. Những bức tường thủy tinh. Không, nó là gương… gương với… với một bóng một người đàn ông tóc đen đang nhìn vào gương. Có tiếng đàn, đàn dương cầm, nhưng tôi không thể thấy cây đàn. Tôi nghĩ người đàn ông đó bị kẹt… kẹt bên trong những tấm gương.”
Thình lình, bầu thinh lặng bị phá vỡ bởi một tiếng thét không phải của người. Tiếng vó ngựa nện quanh đám con trai, chúng chúi người xuồng, đầu cúi rạp, kinh sợ mình sẽ bị những chiếc móng guốc giận dữ xéo bẹp. Chỉ có Fidelio là còn thẳng người, hoàn toàn không nhận ra âm thanh đang khiến bọn bạn nó sợ khiếp đảm kia.
Gabriel, mặt cắt không còn giọt máu, vội quăng cái nút áo ra xa, vào đám cỏ cao gần khu lâu đài hoang, và con thú hình như lao theo cái nút áo. Charlie nhìn lên, thiệt lẹ, và một hình ảnh loáng qua trong đầu nó: một con ngựa trắng với một cái đuôi nhổng vung lên. Và rồi nó biến mất. Nó vụt vào khu lâu đài hoang hay là tan biến trong không khí, Charlie không chắc.
“Vụ gì đây?” Fidelio hỏi.
Chưa đứa nào kịp trả lời thì Billy đã rên rỉ và ôm chặt lấy bụng. Gặp đôi người lại trong đau đớn, nó lăn lộn và nằm rên siết trên cỏ.
“Chuyện gì vậy, Billy?” Charlie ngập ngừng sờ vào vai thằng bé.
“Em không nói được,” Billy rên. “Em đâu có nói về Ngôi Nhà Bất Chợt… Ôôôi… Ôôôi… đúng không? Cái nút áo đó không nói mà, phải không? Em không phá vỡ lời tuyên thệ. Em không… Ựựự… Aáááá… em nghĩ em sắp chết.”
Charlie phóng như bay tới chỗ cô Chrytal, giáo viên trực giờ nghỉ giải lao.
“Billy Raven,” nó hét thất thanh, chụp lấy tay cô. “Nó nói nó sắp chết.”
Cô Chrytal chạy nước rút, băng qua mảnh vườn nhanh hơn Charlie tưởng. Cúi xuống Billy, cô xuýt xoa:
“Ôi, tôi quá. Gì vậy cưng? Bụng con đau à? Ôi, nào nào cưng. Con có đứng dậy được không, Billy?”
Đến lúc này Billy đau quằn quại đến nỗi không sao nói được. Với sự trợ giúp của mấy đứa lớn, cô Chrytal ráng đỡ Billy đứng dậy, nhưng nó vẫn gập người lại trong cơn đau. Thật cẩn thận, họ dìu thằng bé qua vườn,v ô tiền sảnh.
Gã Weedon, đang ngồi bên cửa vườn, ngước lên khỏi tờ báo và hỏi:
“Thằng nhóc sao vậy?”
"Nó không khỏe, ông Weedon,” cô Chrytal đáp. “Ông làm ơn giúp tôi đưa nó tới bệnh xá được không?”
“Không có chi,” gã làm vườn gầm gừ. Gã nhấc bổng Billy lên và vác nó đi khỏi.
Tối đó, Charlie hỏi bà giám thị coi nó đi thăm Billy được không.
“Quên đi,” bà cô Lucretia Yewbeam nói. “Nó không đến nỗi nào đâu.”
“Nhưng nó bị sao vậy?” Charlie hỏi. “Nó ăn trúng gì đó phải không?”
Bà giám thị thảy cho nó một nụ cười lạnh lùng:
“Nó không khỏe nên cái gì mà chẳng làm nó bệnh được. Giờ thì đi ngủ và đừng có quấy rầy nữa.”
Charlie sẽ không buông xuôi dễ dàng như thế được. Ngày hôm sau, trong khi xếp hàng lãnh đồ ăn trưa, nó cúi xuống quầy và hỏi bà bếp trưởng coi bà có gặp Billy không.
“Có mang cho thằng cún ít xúp loãng, Charlie. Nhưng nó không sao nuốt nổi,” bá đáp.
“Chuyện gì xảy ra với nó vậy, bà bếp trưởng?”
“Ta không biết. Nó không nói lấy một lời. Cứ nằm bẹp ra đó. Trông hoảng hồn hoảng vía.”
“Ừm, giờ con biết nó sống ở đâu rồi, bà bếp trưởng. Ở một nơi được gọi là Ngôi Nhà Bất Chợt.”
“Ngôi Nhà Bất Chợt?” Chân mày của bà bếp trưởng nhướn lên, nhưng bà chưa kịp nói gì thêm thì Gwyneth Howells, đứng đằng sau Charlie, đá một cú vô mắt cá nó.
“Đi coi,” Gwyneth rít lên. “Tao muốn lấy khoai tây chiên của tao.”
Charlie buộc phải tiến tới.
Không ai thấy Billy suốt thời gian còn lại trong tuần, và Charlie có cảm giác bồn chồn là thằng bé đã bị lôi trở về với ba mẹ khó chịu của nó, những người chẳng mảy may thương yêu gì nó. Nó bảo nó phá vỡ lời tuyên thệ nghĩa là sao? Gia đình de Grey có đòn bí ẩn gì đó để nắm giữ Billy? Có thể nào họ nhận biết được tất cả mọi điều nó nói và nó làm không?
Charlie suy luận là nó có thể tìm ra thêm nhiều điều qua cái nút áo màu đen. Trong suốt cả tuần, cứ mỗi giờ nghỉ giải lao, nó lại ra đám cỏ bao quanh khu lâu đài hoang. Fidelio đi cùng với nó, bất cứ khi náo thằng này bứt được ra khỏi giờ tập nhạc, và thỉnh thoảng có Gabriel giúp sức, đá cỏ từ bên này qua bên kia, càu nhàu:
“Thiệt tình tôi muốn tụi mình đừng tìm thấy cái nút thì hơn. Nó gây rắc rối quá chừng.”
Và nó ngoái ra sau, trông chừng con ngựa hoang xồ ra từ đâu đó và dẫm chết nó.
Một buổi chiều, khi Charlie đang lui cui tìm kiếm một mình, nó cảm thấy có ai đó đang nhìn nó và nó liền ngước lên, thấy Olivia, ánh mắt con nhỏ liền dán chặt xuống đất gần chỗ Charlie đứng.
“Đằng ấy đang làm gì đó?” Con bé lì xì hỏi. Tóc nó bết bệt, không gội, áo sơ mi bẩn thỉu và đôi giày đế cao su màu trắng, mà dạo này nó bắt đầu hay mang, giờ biến thành màu nâu xám.
“Liv, sao bồ không nhuộm tóc nữa?” Charlie hỏi. “Bồ biết đấy, làm như trước kia bồ hay làm ấy. Những màu đẹp rực rỡ ấy.”
“Việc gì tới đằng ấy,” Olivia vặc lại. “Tớ hỏi đằng ấy đang làm gì đó?”
Charlie thở dài:
“Đang tìm một cái nút áo,” nó nói. “Muốn giúp không?”
Olivia bắt đầu lấy mũi giày cao su sục xuống đất:
“Tại sao đằng ấy lại muốn cái nút áo? Bộ đằng ấy kiếm cái khác không được à?”
“Không. Billy tìm thấy trong nhà mới của nó, và Gabriel, bồ biết đó… tìm ra câu chuyện của cái nút. Nhưng mình muốn biết thêm.”
“Toàn chuyện tâm thần nhảm nhí,” Olivia làu bàu. “Máy người không bao giờ thôi đi sao, hả?”
Charlie sững sờ:
“Liv, bồ vẫn hay giúp đỡ tụi mình mà. Bồ thích tham gia lắm mà. Chuyện quái quỷ gì xảy ra với bồ vậy?”
“Nếu đằng ấy thực sự muốn biết, thì tớ không thể gọt được táo, và tớ phát bệnh vì cái mớ phép thuật…” Nó bỗng ngừng bặt và nhìn trân trối vô khu đổ nát.
“Gì đó?”
“Gì là gì?”
“Tớ nghĩ tớ nghe có tiếng hí, như là một con ngựa!”
“Bồ nghe được? Liv, vậy có nghĩa là…”
“Tớ cóc muốn biết nó nghĩa là gì,” Olivia thét lớn. Nó bỏ chạy, để lại Charlie với ngổn ngang thứ để mà suy nghĩ.
Khi tiếng còi đi săn rúc lên, Charlie ngần ngừ không muốn bỏ dở cuộc tìm kiếm. Tìm cho ra cái nút áo màu đen là tối quan trọng đối với nó. Gabriel mô tả một người đàn ông áo đen bị kẹt trong những tấm gương, có tiếng đàn dương cầm làm nền. Lẽ nào người đàn ông tóc đen đó là ba nó, Lyell Bone? Trước đây Gabriel đã thấy ba Lyell rồi, khi Charlie đưa cho Gabriel chiếc cà vạt của ba nó. Vì vậy nó tha thiết cần Gabriel nhìn lại một lần nữa, và nói cho nó biết coi hai hình ảnh đó có trùng khớp nhau hay không.
Charlie lê bước qua bãi cỏ, là đứa cuối cùng rời khỏi vườn. Khi nó bước vô tiền sảnh, Manfred Bloor xông ra từ phòng của huynh trưởng.
“A. Đúng chóc,” Manfred nói. “Tôi muốn nói chuyện với trò, Charlie Bone.”
“Tới giờ ngủ rồi,” Charlie phản đối. “Em sẽ trễ mất và bị cấm túc.”
“Cái này quan trọng hơn,” Manfred bước tới cánh cửa dẫn lên tháp nhạc và vẫy Charlie. “Đừng lo, tôi sẽ viết giấy cho trò đưa bà giám thị.”
Charlie miễn cưỡng đi theo Manfred xuống hành lang, tới văn phòng của hắn. Khi họ bước tới kệ sách bụi bặm, Manfred nói:
“Tôi nghĩ giờ trò đã biết lối đi bí mật của tôi.”
Hắn ấn ngón tay giữa hai quyển sách ở kệ trên cùng và kệ sách rùng rùng thụt vào trong.
“Đi trước đi, Charlie.” Manfred dẫn Charlie vào trong phòng, và chiếc kệ sách chuyển động trở về vị trí cũ đằng sau hai đứa.
Charlie cảm thấy như bị sa bẫy. Manfred tích trữ được cái của khỉ gì mà cho nó coi? Ngó quanh căn phòng, nó để ý thấy một đống tro ở trong sọt rác. Mùi giấy cháy vẫn còn vương vất, và Charlie tự hỏi tại sao Manfred lại cần lửa trong thời tiết ấm áp như thế này. Cái gì đó xui khiến nó mở miệng:
“Em tin là thầy có một thứ của em, thưa… thầy Man…”
“Và đó là cái gì?”
“Một cây gậy trắng. Billy Raven đưa nó cho thầy.”
“À, ý mày nói là cây gậy phép của mày. Đừng bày đặt giữ kẽ nữa, Charlie. Tất cả mọi người đều biết nó là một cây gậy phép. Ừm, nó bị tịch thu.”
“Thầy không thể thể làm vậy được,” Charlie la lên.
“Đừng có ngu si. Dĩ nhiên tao làm được. Gậy phép bị cấm. Đó là luật mới.”
Charlie á khẩu. Một tràng những lời thô lỗ cứ chực trào trong tâm trí nó, nhưng nó biết nếu nó tuôn ra, thì chỉ có có cho Manfred trừng phạt nó mà thôi.
Tay thầy trợ giảng mới ra hiệu cho Charlie ngồi xuống bên bàn trong khi hắn bước đi loanh quanh trong phòng, sượng sùng mó mảng ria mép lún phún trên cằm.
Cuối cùng, hắn hít một hơi và nói:
“Có một bức chân dung của tổ tiên lẫy lừng của chúng ta ở trong phòng Nhà Vua.”
“Dạ,” Charlie cảm thấy sợ khi Manfred bước vòng ra sau, nó sẽ không nhìn thấy được.
“Tao để ý thấy mày hay nhìn vô đó,” Manfred tiếp.
“Thầy?”
“Đừng giả ngây,” Manfred nói cụt lủn. “Chắc chắn mày nhìn nó. Chúng ta thỉnh thoảng cũng nhìn. Nhưng mày, Charlie Bone, mày có động cơ, đúng không?”
“Em?”
“Im đi, Bone,” Manfred quạc. “Mày muốn đi vô trong đó, đúng không? Và chắc hẳn mày đã vô được rồi nếu không có cái gì đó trong bức tranh cản mày lại.”
“Ồ?” Charlie tò mò. Vậy là Manfred biết về mảng tối đằng sau vai nhà vua – cái người, hay vật, ngăn cản không cho Charlie đi vô bức tranh.
“Trò có bao giờ nghe được gì từ bức tranh đó chưa, Charlie?” Giọng Manfred trở nên mềm mỏng và đầy sức thuyết phục, và Charlie thấy mình đáp lại sự nhẹ nhàng bất ngờ trong giọng nói vốn thường lạnh lùng đó.
“Có, em nghe thấy tiếng cây rung, tiếng ngựa, tiếng yên cương. Thỉnh thoảng có tiếng thép va vào nhau, và tiếng mưa.”
“Không bao giờ có giọng nói của nhà vua?”
“Không, không bao giờ.”
Manfred lại gần và đứng phía bên bàn đối diện Charlie. Chống hai tay xuống cạnh bàn, hắn cúi sát gần Charlie và hỏi:
“Trò có biết tại sao trò không thể nghe tiếng nhà vua không, Charlie?”
“Vì cái mảng tối,” Charlie lặng lẽ đáp.
“Hơn cả một mảng tối, Charlie. Đó là cái bóng của tổ tiên ta, ngài Borlath, con trai cả của nhà vua. Và, Charlie, ngài đã trở lại!”
“Hả?” Charlie ngồi thẳng lên. “Ý thầy là gì?” Một cơn sợ hãi dội lên người nó.
“Ông cố của tao đã tiến hành một cuộc thí nghiệm thú vị nhất. Ông ấy được các bà cô của mày giúp đỡ, và dĩ nhiên cả tao cũng giúp. Phe này tìm thấy con ngựa của ngài Borlath, mày biết đấy, và quan trọng nhất là trái tim của ngài.”
“Trái tim Borlath?” Charlie nín thở.
“Tim của ngài.” Charlie có thể thấy những lằn gân xanh đậm nổi lên trên mí mắt của kẻ thôi miên. “Nó nằm trong một cái tráp bên dưới một bia mộ khắc chữ B. Đúng ra mà nói thì chính Asa đã tìm ra trái tim. Thằng đó thích đào bới khi nó… không phải là nó… nếu mày hiểu ý tao.”
“Em hiểu.” Charlie tránh khỏi nhìn vào gương mặt lù lù của Manfred.
“Con ngựa đó đã sống dậy,” Manfred tiếp. “trong phòng thí nghiệm của ông cố tai. Và cả trái tim của ngài cũng sống lại. Chúng trở nên hòa quyện vào nhau, như chúng vốn thế, và phóng xuyên qua tường… mày có thể trông thấy cái lỗ thùng từ bên ngoài, nếu mày nhìn lên, và nó đi theo mày.”
“Theo em?” Charlie nhảy dựng lên và cái ghế của nó đổ chỏng gọng xuống sàn.
“Tao nghĩ mày cần phải biết,” Manfred xòe rộng đôi bàn tay của hắn ra. “Bởi vì nếu mày bước chệch lối, thì con ngựa sẽ sẵn sàng trừng phạt mày. Những móng guốc có thể gây nên những thương tích khủng khiếp.”
Charlie quyết không cho Manfred niềm thỏa mãn được thấy nó sợ. Nó nhún vai và nói:
“Em nghĩ em phải đi ngủ đây.”
“Dĩ nhiên.”
Manfred ấn kệ sách mở bung ra và Charlie lẹ làng rời khỏi căn phòng. Nó vẫn cảm thấy ánh mắt soi mói của Manfred dõi theo khi nó bước vào tiền sảnh; và nó chạy như bay lên khu phòng ngủ chung mà không một lần ngoái nhìn lại.
Trên lầu bốn, Billy Raven nằm trên chiếc gi.ường hẹp màu trắng ở cuối phòng bệnh xá. Đó là một căn phòng dài thượt, và không một chiếc gi.ường nào trong số mười lăm chiếc gi.ường kia có người nằm. Những cơn đau bụng quặn thắt đã dịu, nhưng Billy tin chắc rằng chúng sẽ quay trở lại nếu nó bép xép chút gì về mái nhà mới của nó. Nó đã vi phạm một lời tuyên thệ, bằng cách đưa cái nút áo đen cho Gabriel? Làm sao những lời tuyên thệ đó biết cơ chứ?
Bà giám thị ngó vào phòng và bảo Billy rằng ngày mai nó sẽ về lại Ngôi Nhà Bất Chợt.
“Cần một chút nghỉ ngơi tách xa bọn bạn mày,” bà ta nói bằng cái giọng lạnh gáy. “Như thế sẽ giúp mày giải quyết các thứ, Billy.”
Bà ta bỏ đi không buông cho nó một lời an ủi, hay thậm chí một ly sửa giảm đau cũng không.
Billy ngó mông lung vào bóng tối dày đặc, không thể ngủ được. Một vầng trăng tròn trôi lơ lửng trên bầu trời, ánh sáng của nó rớt qua cửa sổ không rèm. Billy nghe có tiếng móng vuốt lóc cóc trên ván sàn đi về phía nó. Một giọng quen thuộc cất lên:
“Billy bệnh?”
“May Phúc,” Billy thòng tay xuống và vuốt cái đầu nhăn nheo của con chó. Liệu có bị tính không, Billy tự hỏi, nếu nó kể cho một con chó nghe những điều mà nó không thể kể cho ai khác?
“Ngựa,” May Phúc rù rừ. “Trong vườn.”
“Ngựa?” Billy ngồi bật dậy.
“Ngựa ma,” May Phúc nói.
Billy nhảy khỏi gi.ường và chạy ra cửa sổ. Con ngựa đứng ngay phía dưới: không biến mất, lần này là bóng sinh vậy lừng lững, nhưng rất thật. Bộ lông của nó là một mảng trắng loa lóa dưới ánh trăng, và mỗi sợi lông trên cái bờm và đuôi của nó sáng óng ánh như từng sợi bạc.
Billy mở cửa sổ ra và nhìn xuống con ngựa. Con ngựa bắt lấy ánh mắt của thằng bé và nói:
‘Con,” nó bảo. “Con của ta.”
“Cứu con với,” Billy kêu lên.

Chú thích:
(*)Plantagenet: vương triều vua nước Anh (1154-1485) – trong đó có Vua Henry và vua Richard III.
 
Charlie tìm thấy cái nút áo đen vào ngày thứ Sáu lúc cuối giờ nghỉ giải lao sau bữa trưa. Gabriel quẳng nó đi xa hơn cả bọn nghĩ, bởi vì nó nằm giữa hai phiến đá lát tường ngay bên trong cổng vòm lớn dẫn vào khu lâu đài hoang.
Khi Charlie đút cái nút áo vào túi quần, một giọng nói cất lên:
“Cái gì đó, Bone?” Asa Pike đang ngó lăm le xung quanh hông cánh cổng vòm.
“Cái gì là cái gì?” Charlie nói tỉnh queo.
“Mày lượm cái gì lên đó/”
“À, cái này,” Charlie thọc tay vào túi và tìm thấy, hên quá chừng, một viên bi nó vẫn để trong đó.
“Chỉ là một hòn bi thôi mà,” nó lôi viên bi ra và giơ lên chỗ sáng. “Thấy chưa! Hồi hôm qua tụi ẹm chơi bi ở đây, và nó lăn vô một khe nứt. Em tưởng em không bao giờ lấy nó ra được nữa chứ.”
Asa dòm viên bi vẻ nghi ngờ:
“Ở đâu mày có nó?”
“Không nhớ. Em có nó lâu lắm rồi. Nó như lá bùa hên vậy đó.”
“Hừm.”
Asa quay đi. Những bước nhảy dài dị kỳ của thằng lớp trên này luôn khiến Charlie nổi da gà, và nó hình dung ra một hình ảnh ghê ghê là thân hình nửa thú của Asa đang sục sạo trong khu lâu đài hoang. Thằng ấy đã tìm thấy trái tim ở đâu? Charlie tự hỏi. Và họ biết chắc chắn đó là tim của Borlath sao?
Charlie bất giác rùng mình và rời khỏi khu lâu đài đỏ nát. Khi nó nhét viên bi vào túi, những ngón tay nó chạm phải cái nút áo màu đen và cái nút áo truyền cho nó một hy vọng. Có lẽ, cuối cùng, nó đang tiến đến gần hơn trong cuộc tìm kiếm ba nó.
Trong lúc đang xếp hàng trên xe buýt trường chiều hôm đó, Charlie hẹn Gabriel gặp nó tại quán Cà Phê Thú Kiểng vào thứ Bảy.
“Em tìm thấy cái nút áo rồi,” Charlie thì thầm. “Anh thử nó một lần nữa chứ, anh Gabriel?”
Gabriel nhún vai theo kiểu khó hiểu của nó:
“Tôi không chắc tôi có muốn gặp lại con ngựa đó hay không.”
“Cái nút áo không liên quan gì đến con ngựa hết,” Charlie nói. “Tin em đi. Ngày mai em sẽ giải thích.”
“Ờ phải đấy,” Fidelio nói. “Và em vẫn chưa kể cho tụi này biết tại sao tối qua em đi ngủ trễ.”
“Em sẽ kể tất,” Charlie hứa.
Ông cậu Paton dạo gần đây đã nhiễm thói quen gọi đồ ăn cao lương mỹ vị từ một nhà hàng lớn trong thành phố. Món tài sản thừa kế từ một trong những người bà con giàu có của mẹ Ông cậu giúp ông có thể tụ thết đãi mình hậu hĩ như thế, nhưng ông cũng bảo đảm cho tất cả mọi người trong nhà số Chín cùng được hưởng lây tài sản kếch sù của ông.
Tuy nhiên, điều này chỉ tổ khiến các bà cô nhà Yewbeam thêm một lý do nữa để căm ghét ông em trai của mình. Nhưng trong khi nội Bone thầm giận sôi sục, bà cũng không ngăn nổi mình thưởng thức những món đặc sản. Bà Grizelda Bone vốn mê đồ ăn ngon, nhất là món pa-tê gan ngỗng và trứng cá đen. Hôm nay, trong khi Ông cậu Paton, ngoại Maisie và cô Julia Ingledew ngồi trong nhà bếp xơi bánh táo nhân thịt nai quay, nội Bone ngồi ngả người trong phòng khách với thố trứng cá đen dành cho riêng bà, một dĩa bánh mì nướng mỏng và một ly rượu vang Bồ Đào Nha. Bà không thích ăn chung với khách, nhất là với cô Ingledew, người mà bà tưởng tượng là đang theo đuổi em trai bà, mặc dù bất cứ ai cũng có thể nói với bà rằng mọi chuyện là ngược lại.
“Chao!” Charlie reo lên khi nó bước vào nhà bếp. “Mùi hấp dẫn quá chừng chừng. Cho con một miếng đi, miếng gì cũng được.”
Ông cậu Paton cắt cho nó một lát bánh táo lớn, và ngoại Maisie đẩy một chén nước xốt về phía nó.
“Xơi đi. Ăn đứt thứ bình thường,” ngoại Maisie nói, nháy mắt một cái. “Có rượu rum trong đó đó.”
Charlie nhận thấy Ông cậu nó đang mặc một chiếc áo khoác mới.
“Ông cậu định đi đâu đó đặc biệt phải không?” Nó hỏi.
Ông cậu Paton đặt một ngón tay lên môi:
“Suỵt! Chúng ta không muốn người đó biết về việc này.”
"Thật ra, tụi này đã bàn với nhau, tính đưa con đi cùng,” cô Julia nói thầm.
Không ai nói thêm tiếng nào về đề tài đó nữa, và mặc dầu Charlie phát sốt lên vì tò mò, nó vẫn nhận ra rằng tất cả mọi người đều đang chờ cho nội Bone ngủ thiếp đi. Một vài phút sau, có Amy Bone được bảo đem chai rượu vang ra phòng khách.
“Charlie… ngon quá… thêm một ly rượu… rượu vang nữa.”
Charlie thấy thật khó mà không phì cười trước lời nói lè nhè của nội Bone. Bà đã nốc cạn hơn một ly rượu vang rồi. Nó cẩn thận rót đầy ly cho bà và hỏi bà có muốn ăn chút bánh táo thịt nay quay không.
“Bánh táo… ng… ngon.” Nội Bone liếm môi và thu cả hai chân lên chiếc trường kỷ.
Charlie quay vào nhà bếp, xớt một lát bánh lên một chiếc dĩa và rưới thật đẫm rượu rum và nước xốt trái mơ.
“Bà gật đầu rồi,” nó nói khẽ.
Mười phút sau, họ nghe tiếng ngáy vang rền vọng vào từ phòng khách.
“Bà ấy sẽ phê mấy tiếng liền cho coi,” ngoại Maisie bảo. “Tôi mà là anh chị thì tôi đi ngay bây giờ.”
“Ông cậu với cô định đi đâu vậy?” Cô Amy hỏi.
“À, đến một ngôi nhà gần đây,” Ông cậu Paton trả lời. “Và chúng tôi muốn mang Charlie theo.”
“Để làm gì?” Cô Amy hỏi. “Không… không nguy hiểm chứ?”
“Ồ, mẹ, dĩ nhiên là không rồi,” Charlie nói, nó chẳng biết tí ti nào là có nguy hiểm hay không.
“Làm sao con biết?” Mẹ nó bắn cho Ông cậu Paton một cái nhìn lo lắng.
Ông cậu Paton gãi đầu:
“Ừm, có lẽ không nguy hiểm.”
Rồi ông nhìn tờ giấy mà ông vừa rút ra từ túi áo trên.
“Nó chỉ cách đây vài dãy phố, và theo như tôi biết thì đó là một khu vực rất yên tĩnh.”
“Theo như Ông cậu biết,” cô Amy lầm bầm. “Ông cậu Paton, ông luôn đến những nơi nguy hiểm.”
“Mẹ ơi, làm ơn đi mà,” Charlie nài nỉ.
“Chúng tôi cần phải gặp một người bà con của Billy Raven,” cô Ingledew giải thích. “Một người đàn ông tôi nghiệp đang âu sầu. Ông ấy phải gởi thư cho Paton thông qua tôi, đề phòng nó rơi vô tay kẻ xấu.”
Cô Amy mỉm cười gượng gạo:
“Thôi được rồi, Charlie.”
Vẫn chưa đủ tối cho Ông cậu Paton liều xuất hiện ngoài trời, nhưng sau khi đợi thêm nửa giờ nữa, một đám mây đen cuồn cuộn bắt đầu kéo đến che kín bầu trời, và vào lúc đoàn quân nhỏ rời nhà số Chín, mưa nặng hạt đang đổ xuống phố.
Ông cậu Paton giương ra một cây dù lớn màu xanh da trời – cây dù che kín ông và cô Ingledew, nhưng để lòi Charlie ra hứng gần trọn cơn mưa. Không quan tâm, Charlie chạy vượt lên trước. Xuôi theo con đường dẫn tới công viên, nó quẹo trái theo như được chỉ dẫn. Tại đây, một đại lộ những cây tiêu huyền cao che chắn cho nó khỏi cơn mưa giờ đã rất nặng hạt. Nó bước đi thêm chừng nửa dặm nữa thì Ông cậu Paton hét lên:
“Quẹo phải, Charlie. Nhà số Mười Lăm.”
Charlie quẹo vô một con đường mà có thể được mô tả như là đường ở thôn quê. Cành lá xum xuê quét xuống vỉa hè, và hầu hết mọi ngôi nhà đều ẩn mình sua những hàng rào cao hoặc những bụi cây rậm rạp.
Cánh cổng nhà số Mười Lăm đúng là cần phải sơn lại gấp, và một bản lề đã bị bung ra. Charlie gần như không trông thấy ngôi nhà đâu – nó chìm ngập trong dây leo và hoa hồng trắng. Hương thơm lan tỏa khắp khu vườn và cô Ingledew tuyên bố đó là mùi hương mê ly nhất trần đời.
“Tôi sẽ phải đóng chai loại hương thơm đó cho em mới được,”Ông cậu Paton nói với vẻ trìu mến.
Họ đẩy cánh cổng xiêu vẹo và bước lên một lối đi dẫn đến một cánh cửa màu trắng. Không có chuông hay nắm gõ cửa, nên Charlie kéo sợi xích đồng treo bên hông cửa. Một âm thanh thánh thót vang lên, dội âm âm bên trong ngôi nhà.
Giây sau, cô Alice Angel đứng nơi ngưỡng cửa.
“Charlie, cháu cũng đến nữa,” cô nói. “Ôi, cô rất mừng.”
Charlie nín thinh. Không ai nói cho nó hay là họ sẽ tới nhà cô Alice Angel. Nó hơi lúng túng. Nhưng Ông cậu Paton và cô Ingledew đã bước vào nhà và tự giới thiệu, như thể cô Alice Angel là một người hoàn toàn bình thường, vì vậy Charlie cũng quyết định bước vào theo. Cô Alice Angel đón lấy áo khoác và áo gió ướt của họ, dẫn họ vào một phòng khách rất trang nhã. Do mảng cây xanh lớn phủ kín cửa sổ, nên căn phòng hơi tối và cô Alice angel lập tức tiến tới chỗ công tắc đèn.
“Đừng…!” Ông cậu Paton hét to.
Tiếng hét của ông quá trễ. Những bóng đèn trong chùm đèn nhỏ treo giữa phòng lần lượt nổ tan và một cơn mưa thủy tinh rớt xuống tấm thảm, suýt nữa thì trúng cô Alice Angel.
“Tôi xin lỗi, vô cùng xin lỗi,” Ông cậu Paton nói. “Đáng lý ra tôi phải báo cho cô trước. Thiệt vô ý. Thiệt tắc trách. Trời đất ơi!”
“Hoàn toàn là lỗi của tôi,” cô Alice Angel nói. “Ở đây tối quá. Để tôi đi lấy đồ hốt rác trong khi quý vị nói chuyện với Christopher.”
Charlie dòm lom lom vào khoảng tối, cô xác định coi Christopher ở đâu, trong khi Ông cậu Paton và cô Ingledew giằng co với cô Alice xem ai sẽ hốt đống thủy tinh bể. Cô Alice Angel một mực bảo những vị khách của mình cứ thoải mái trong khi cô đi lấy đồ hốt rác.
Khi họ ngồi vào chỗ, một tiếng cười nhẹ phát ra từ góc phòng và một giọng cất lên:
“Ra là ông Yewbeam, người kích điện. Tôi luôn muốn diện kiến một người như vậy.”
Tất cả mọi con mắt đều đổ dồn vào góc phòng, và cuối cùng nhận ra một người đàn ông gầy gò, nhỏ thó, tóc lưa thưa, mặc quần áo may vụng. Người lạ đứng lên và đi về phía họ, chìa bàn tay ra:
“Christopher Crowquill,” ông nói. “Tôi biết các vị là ai.”
Trong khi tất cả bắt tay nhau, cô Alice Angel trở lại với chổi và đồ hốt rác, những thứ mà Ông cậu Paton giằng ngay lấy. Ông bắt đầu quét sàn nhà tron gkhi cô Alice Angel quay trở vào nhà bếp để lấy bánh và đèn cầy. Khi tất cả đã yên vị trong căn phòng thắp nến, bánh được chuyền vòng quanh và ông Christopher Crowquill hỏi thăm Charlie về Billy.
“Billy bị bệnh, thưa chú Crowquill,” Charlie nói.
“Bệnh?” Ông Christopher hốt hoảng.
“Nó vừa mới đưa tụi cháu coi một cái nút áo nó kiếm được, thì tự nhiên nó lăn ra đau quằn quại. Nó cứ lẩm bẩm về cái lời thề gì đó, nó nói nó đâu có vi phạm. Người ta đưa nó tới bệnh thất và từ hôm đó tới giờ cháu chưa gặp được nó.”
“Mấy lời thề chết chóc đó!” Ông Christopher tuyên cáo. “Mụ Florence luôn giữ một giỏ đầy những tờ giấy ghi lời thề. Những người phải ký vô đó đa số là những người vay tiền. Rủi cái là, kể cả đã trả xong tiền. Nếu ai vi phạm lời thề, người đó sẽ bị đau đớn hành hạ. Có khi cơn đau khủng khiếp tới nỗi nạn nhân có thể bị tàn phế suốt đời. Thứ giấy đó tẩm thuốc độc và nhiễm đậm một thứ mà tôi tin là một tâm địa ác ôn. Chúng đã bắt Billy ký một lời thề rồi, tôi dám lấy mạng tôi ra cá đó.”
“Vậy, chính vì vậy mà nó sợ đến nỗi không dám nói cho cháu bất cứ điều gì,” Charlie tư lự nói. “Nhưng cháu nghĩ cháu biết tên nhà mới của Billy. Nó tên là Ngôi Nhà Bất Chợt.”
“Ngôi Nhà Bất Chợt!” Ông Christopher vỗ một tay lên trán. “Trời đất. Ngôi Nhà Bất Chợt không bao giờ có thể được coi là nhà. Gia đình Bloor dùng nó cho khách vãng lai: hoặc là kẻ cần có chỗ để lẩn trốn, hoặc kẻ mà gia đình Bloor muốn giấu. Nếu có Usher de Grey dính líu vô, thì Billy sẽ không thể nào rời khỏi được nơi ấy tới chừng nào Usher muốn cho nó đi. Ôi, đứa trẻ tội nghiệp. Tôi phải cứu nó.”
“Nhưng làm thế nào Usher có thể cầm tù một thẳng bé?” Cô Ingledew hỏi một cách phẫn nộ.
“Cô thân mến, hắn có thể tạo ra một lực trường,” ông Christopher nhìn chằm chằm đôi bàn tay sần sùi, nổi mấu của mình và lắc đầu. “Tay đó, hắn có phép thuật rất mạnh và đáng ghét nhất. Khổ thân, Billy sẽ không bao giờ có thể thoát ra được. Bức tường vô hình của Usher mạnh hơn cả sắt.”
Thông tin này khiến tất cả mọi người ưu phiền đến nỗi sự im lặng ủ chụp xuống căn phòng, cho đến khi Ông cậu Paton đột ngột hỏi:
“Này Charlie, cái nút áo có gì quan trọng?”
Charlie giải thích rằng Billy thấy cái nút áo đó trong Ngôi Nhà Bất Chợt và cu cậu tò mò muốn xem cái nút có thể cho biết điều gì không.
“Chúng cháu có một người bạn, tên là Gabriel,” Charlie nói với ông Christopher và cô Alice Angel, cả hai đang ngớ người ra.
“Gabriel có thể cảm nhận là có chuyện gì – có khi còn thấy nữa – nếu mặc đồ của ai đó vô. Chuyện này làm anh ấy khổ ghê lắm, cho nên anh ấy lúc nào cũng phải tránh xa đồ cũ. Mới đầu tụi cháu không nghĩ là tài phép của anh ấy có tác dụng với cái nút áo, vì mình đâu mặc được một cái nút, đúng không ạ? Nhưng sau đó cái nút có tác dụng.”
Một sự im lặng chờ đợi, cuối cùng Ông cậu Paton phá vỡ, ông nói:
“Và?”
“Và…” Charlie tự dưng bối rối. “Anh ấy thấy một người đàn ông, tóc đen, bị kẹt giữa những bức tường thủy tinh – là những tấm gương – rồi anh ấy nghe tiếng đàn dương cầm, nhưng không thể thấy cây đàn. Và rồi… và rồi…”
Charlie mô tả sự xuất hiện ghê rợn của con ngựa ma, và cuộc thí nghiệm chết khiếp trong phòng thí nghiệm của lão Ezekiel.
Căn phòng lập tức xao động những tiếng thốt lên khiếp đảm và tiếng kêu rụng rời. Chính xác, những âm thanh phẫn nộ đó gay gắt và lớn đến độ Charlie cảm thấy u uẩn, và nó phải xin phép đi ra ngoài hít thở không khí.
Cô Alice Angel chỉ cho nó cánh cửa sau và Charlie bước vào một biển hoa êm đềm. Cuối cùng trời cũng đã tạnh mưa, và một mùi hương kỳ diệu lãng đãng phủ khắp khu vườn.
“Phù! Và mình không bao giờ nói với họ là con ngựa đã đi theo mình,” Charlie lẩm bẩm.
Nhìn thấy một chiếc moóc đúng kiểu Digan, Charlie chia trí ngay lập tức, và nó lội băng băng qua thảm hoa cho tới khi tới một dãy bậc cấp bằng gỗ dẫn lên cửa xe moóc. Vừa đặt chân tính leo lên thì một chuyện động ở cuối khu vườn đập vào mắt nó. Thiệt lạ hết sức, nó thấy Olivia đang trố mắt nhìn nó từ đỉnh một vách tường cao.
“Liv!” Nó gọi. “Olivia! Bồ làm gì ở đây?”
Olivia rớt oạch xuống phía bên kia bức tường.
“Cứ ở đó!” Charlie gọi.
Dẫm bừa lên những đám cây nhỏ đẫm nước mưa, nó đến bức tường và lại gọi:
“Liv, bồ có ở đó không? Bồ đang làm gì vậy?”
Charlie hích người lên thành tường và ngó sang một khu vườn khác. Khu vườn này có vẻ ít hoa hơn. Một thảm cỏ xanh mượt bò tới sát tận một ngôi nhà lớn màu trắng mà Charlie nhận ra ngay lập tức. Ngôi nhà đó là nhà của gia đình Vertigo. Cô Alice Angel và Olivia là hàng xóm của nhau. Thế quái nào mà Olivia lại không biết cô ấy nhỉ.
Không thấy bóng dáng Olivia đâu cả, vậy nên Charlie nhảy xuống khỏi tường, lượm lên một trái táo đỏ au và trở vào nhà.
“À, cháu tìm thấy một trái táo,” cô Alice Angel rạng rỡ nhìn Charlie khi nó bước vào. “Táo đó ngon lắm.”
Tình hình đã dịu đi đôi chút, mặc dù Ông cậu Paton và chú Christopher Crowquill giờ đang bàn luận cái gì đó, tuy thì thầm nhưng bức xúc.
“Cháu trông thấy bạn cháu, Olivia,” Charlie bảo cô Alice Angel. “Cháu không biết là bạn ấy sống ở phía bên kia tường nhà cô. Bạn ấy không nói chuyện với cháu.”
“Cô bé ấy đang gặp khủng hoảng,” cô Alice Angel nói nghiêm trang. “ch.uyện ấy thỉnh thoảng vẫn xảy ra khi người ta cố đấu tranh chống lại bản chất thật của mình. Cô hy vọng bạn ấy sẽ mau chấp nhận sự việc. Điều đó sẽ đưa đến thay đổi lớn lắm – cho tất cả các cháu.”
“Vậy sao?” Charlie băn khoăn. “Làm sao mà cô… Ý cháu là, cô có được ban phép thuật không, cô angel?”
“Cứ gọi cô là Alice.” Đôi mắt xanh lá cây của cô lấp lánh. “Có. Cô có phép thuật.”
Charlie nôn nao muốn hỏi cô thêm nữa, nhưng đúng lúc đó Ông cậu Paton đứng lên, và phủi vụn bánh khỏi quần, ông nói:
“Chúng tôi phải về đây!”
Lúc tiễn khách ra về, ông Christopher Crowquill cảm ơn những vị khách và nồng nhiệt bắt tay mọi người:
“Tôi không thể diễn tả hết được việc viếng thăm của quý vị có ý nghĩa như thế nào đối với tôi. Tôi có rất ít bạn trong cái thành phố tăm tối này. Việc tù tội đã dạy cho tôi biết họ là ai. Alice Angel là tên thật của cô ấy. Cô ấy đúng là một thiên thần. Không tuần nào trong suốt quãng thời gian dài dằng dặc tôi bị tống giam mà cô ấy không tới thăm tôi. Cô ấy mang cho tôi niềm hy vọng, và giờ cô ấy cho tôi chỗ nương thân. Nhưng tôi tha thiết mong anh chị hãy giữ bí mật nơi ở của tôi, kẻo không thì cô ấy cũng sẽ gặp nguy hiểm không kém gì tôi.”
Các vị khách thề sẽ không bao giờ nói cho một sinh linh nào về chuyến thăm của họ. Ông cậu Paton sốt sắng hơn bất kỳ ai:
“Chúng tôi sẽ liên lạc,” ông nói với ông Christopher. “Đừng mất hy vọng.”
Đèn đường đã lên, và mặc dù trời đã tạnh mưa, Ông cậu Paton vẫn cẩn thận giấu mặt dưới tán dù, phòng khi lại gây ra một tai nạn khác. Cây dù cũng che luôn cả cô Julia, vì vậy không ai trong số họ trông thấy một hình thù màu xám dị hơm phóng vù vào bụi rậm ở bên kia hàng rào công viên. Charlie không chắc nó có thấy hay không, nhưng nó càng lúc càng tin là nó đã trông thấy, và đó không phải là một con cáo hay con chó, mà là một quái thú màu xám. Gián điệp là nghề nghiệp ưa thích nhất của Asa Pike, vì vậy, nếu nó đã bám theo họ, thì nhà số 15 Đại Lộ Công Viên ắt đã bị đánh dấu.
Charlie tự nhủ rằng Asa chắc hẳn chẳng thể đoán ra tại sao nó và Ông cậu của nó lại đến thăm cô Alice Angel. Lúc về tới đường Filbert thì nó cảm thấy đã an tâm, nhưng vẫn có một cái gì đó nó cần phải biết, và nó hỏi Ông cậu tại sao ông Christopher Crowquill lại gọi thành phố này là tăm tối.
“Ta nghĩ rằng, với ông ấy, nơi này tăm tối là vì ông ấy bị tống vô ngục,” Ông cậu Paton nói. “Đó là một điều kinh khủng khi mà người ta vô tội.”
“Không, còn hơn thế nữa,” cô Julia nói lặng lẽ. “Hãy nghĩ đến tất cả những bi kịch đã xảy ra trên mảnh đất này, kể từ khi những đứa con của Vua Đỏ bắt đầu giết chóc lẫn nhau. Cô có trên một trăm quyển sách cổ mô tả những trận chiến bất tận diễn ra tại nơi đây, kéo dài hàng bao thế kỷ. Người tốt thì bị vùi đạp, kẻ ác thì thắng thế.”
Rồi cô mỉm cười:
“Nhưng cô vẫn yêu thành phố này. Bởi vì cô nghĩ, muốn sống sor1 qua tất cả những biến động đen tối, thì cái thiện đã phải khôn hơn và mạnh hơn cái ác rất nhiều.”
Charlie nghĩ đến ba nó, bị h.ãm hại, bị mất tích vì đã cố đấu tranh chống lại gia đình Bloor.
“Cô đã tìm ra cuốn sách về ngài Amadis,” Charlie nói. “Cô có nghĩ rằng chính ba con là người mà anh Gabriel thấy bị kẹt trong Lâu đài Gương không? Con biết ba con có tóc đen, và con biết ông bị kẹt ở đâu đó, và lại có cả tiếng đàn dương cầm nữa.”
“Cô không nói chắc được, Charlie,” cô Julia nói khẽ khàng. “Nhưng cũng có thể.”
Họ về đến nhà số Chín, và Ông cậu Paton gập dù lại trong khi Charlie chạy lên trước để tắt đèn hành lang, cũng như bất cứ bóng đèn nào có thể gặp rủi ro.
Nội Bone đã tỉnh rượu”
“Cả đám mấy người nãy giờ ở đây vậy?” Bà gióng giả từ phòng khách.
“Đi dạo,” Ông cậu Paton đáp.
“Đi dạo? Cái cô đó lại ở đây nữa à?”
"Nếu chị định ám chỉ Julia thì, phải đấy, cô ấy ở đây,” Ông cậu Paton giận dữ nói. “Chúng tôi sẽ uống một tách trà, và rồi tôi sẽ đưa cô ấy về nhà.”
“Mi nên chú ý đến đèn đóm thì hơn,” bà chị của ông phọt ra một tiếng cười thiệt quỷ quái.
“Tôi nghĩ tôi sẽ không uống trà gì đâu,” cô Julia nói nhanh. “Emma tới nhà một người bạn, nhưng nó sẽ trở về ngay thôi.”
Khi Ông cậu Paton hộ tống cô Ingledew xuống lại những bậc cấp, cô quai lại nói:
“Emma có một con thú cưng mới, Charlie à.”
“Con gì ạ?” Charlie hỏi.
“Ngày mai con sẽ thấy nó,” cô Julia nói, khoác tay Ông cậu Paton, “khi Emma mang nó tới quán Cà Phê Thú Kiểng.”
 
Charlie chạy gần như hết quãng đường tới quán Cà Phê Thú Kiểng. Trong túi quần nó là sợi dây xích cổ con Hạt Đậu và trong đầu nó là một kế hoạch tuyệt vời. Thành phố đầy những người đi mua sắm ngày thứ Bảy và điều đó làm chậm bước Charlie.


Nó quẹo vào hẻm Con Ếch cùng lúc với Dorcas Loom và hai thằng anh của con bé. Albert và Alfred Loom là những thiếu niên to bè, trông hung hăng. Chúng khoái những trò kiểu như cướp ba lô người ta đeo sau lưng, hành hạ mèo, và ngáng đường những người chơi ván trượt. Chúng cũng tự hào là chủ nhận của bốn con chó săn – những con vật đã cho chúng được phép bước vào quán Cà Phê Thú Kiểng. Dorcas thường chờ ở trên chiếc ghế băng bên ngoài. Nó sợ thú, và Charlie thường thắc mắc là làm thế nào mà con bé sống chung được với những sinh vật hung hăng như vậy – đó là chưa kể tới đàn chó săn.


Với một tiếng “Chào!” thiệt lẹ, Charlie vượt băng qua anh em nhà Loom và xông vào quán Cà Phê Thú Kiểng.
“Gì vậy, Charlie?” Ông bảo vệ Norton nói. “Bộ cậu bị một con nhân mã không đầu đuổi hay sao vậy?”


Charlie trông thấy mái đầu vàng óng của Emma ở xa xa, và để mặc Norton đối phó với bọn nhà Loom, nó lao về phía con nhỏ. Nó ngạc nhiên thấy cái bàn đã đầy kín. Lysander và con vẹt Homer cũng đã tới. Tancred ngồi kế bên Lysander với một con chuột kiểng của Gabriel, và Gabriel đang cho con chuột đen Rembrandt của Billy ăn.
“Charlie, ngồi đây nè!” Fidelio xích ra lấy chỗ cho Charlie, trong khi con mèo điếc của nó bấu chặt trên vai.


Ngay khi Charlie ngồi xuống, con Hạt Đậu, nãy giờ ngủ say dưới gầm bàn, liền xô lên đùi nó, khiến cho cái bàn nghiêng lệch qua một bên, bào hại mấy chiếc dĩa và ly rớt choang xuống sàn nhà.


Lập tức những tiếng nhao nhao nổi lên:
“Cái con chó!”
“Em không điều khiển nó được sao, Charlie!”
“Đang ăn cái bánh ngon thì…!”
“Tiêu nước ép của tui rồi!”
Trong khi đó Charlie hét ầm:
“Không ai báo cho em biết con Hạt Đậu dưới gầm bàn hết.”


Gần như ngay tức khắc, anh em nhà Loom xông vào, gây nên một trận náo loạn ghê gớm hơn nữa cùng với bọn chó săn. Mấy con chó lớn bắt đầu táp đuổi bất cứ sinh vật nào xui xẻo ở trong tấm đớp của chúng.
Tiếng huyên náo trong quán Cà Phê Thú Kiểng ầm ĩ đến nỗi ông Onimous phải nhảy hẳn lên bàn và quát:
“Im lặng nào! Ở đây không được phép gây mất trật tự.”
Homer, con vẹt của Lysander, kêu om sòm:
“Nói hay lắm, thưa ngài.”
Nghe vậy, Alfred hét vang:
“Lão mắc chứng gì đó, lão kia?”
Ông Onimous trợn mắt nhìn thằng thiếu niên, không tin nổi:
“Cậu nói gì?”
“Tôi nói lão mắc chứng gì đó?” Alfred lặp lại:
Ưỡn thẳng hết cỡ chiều cao một thước bốn mươi chín phân, (cộng với cái bàn khiến ông cao hai thước hai mươi ba), ông Onimous đáp:
“Xin các công tử hãy để ý đến những con thú nhỏ hơn. Các vị thấy chúng mới hoảng sợ làm sao kìa. Lũ chó của các vị luôn gây hỗn loạn mỗi lần chúng mang các vị vô đây.”
“Không phải bọn này, mà là nó ấy.” Albert Loom chỉ Charlie. “Nó và con chó vàng hỗn hào kia. Con đó to hơn đám chó của bọn này.”


Hạt Đậu khẹt một tiếng sủa nghẹn sâu trong cổ họng, và xông vào đàn chó săn, trong khi Homer la quác quác:
“Tống chúng xuống địa ngục đi!”


Một trận ẩu đả kinh hoàng diễn ra tiếp theo sau đó. Thêm vài con chó khác không thể cưỡng lại được cũng nhập cuộc, và tiếng tru rít vang lên xé màng nhĩ. Chim kêu inh ỏi bay vút lên trần nhà, mèo ngao, rắn cuốn, mấy con lừa xéo bừa lên người lạ và một con kỳ nhông chạy ra khỏi cửa. Những con nhỏ hơn thì lo tìm chỗ núp.


Norton bị cắn tơi bời khi cố can gián bọn chó, và Charlie bị một con ngựa nhỏ Shetland đang hốt hoảng xô ngã chỏng vó xuống sàn, vừa lúc nó túm được sợi dây xích cổ con Hạt Đậu.


Bà Onimous nhảy lên bên cạnh chồng (cú nhảy khiến bà cao tổng cộng hai thước năm mươi lăm phân) và bắt đầu gõ bang bang một cái hộp thiếc đựng bánh bích quy. Đầu bà bây giờ đang chạm trần nhà, và ta có thể nghĩ đến cảnh tượng một người khổng lồ như thế sẽ dẹp tan được bọn tham chiến. Nhưng không phải vào hôm nay.


Chỉ có tiếng xe cảnh sát đang hụ còi tới gần mới tạo ra chút tác dụng. Ngay khi bọn nhà Loom nghe thấy tiếng còi, chúng liền lôi lũ chó cùa chúng ra khỏi cuộc hỗn chiến và tếch khỏi quán cà phê. Hai phút sau, cảnh sát Wood và cảnh sát Singh có mặt tại hiện trường. Tới lúc đó, vụ việc mới lắng dịu xuống đang kể, nhưng ông bà Onimous vẫn còn đứng trên bàn.


Cảnh sát Singh dẫm rào rạo lên đống chén dĩa ly cốc bể và nói với ông bà chủ:
“Chúng tôi muốn có đôi lời, được chứ ông?” Anh ta hỏi. “Nói riêng.”
Ông Onimous nhảy xuống khỏi bàn, và sau khi đã giúp vợ xuống theo đúng phong cách lịch lãm nhất, họ biến mất vào trong nhà bếp cùng với hai viên cảnh sát. Norton, với hai bàn tay đang chảy máu đầm đìa, cà nhắc đi theo họ.
Nghe tiếng còi hụ là bọn Loom chuồn lẹ như chớp,” Alfred nhận xét.
“Mà tụi nó gây ra tất cả vụ lộn này,” Emma them. “Thệt không công bằng.”


Charlie đã xoay xở lôi giật được Hạt Đậu trở lại bàn, và tất cả bọn đều suýt xoa khen ngợi chú ta can đảm quá chừng. Homer thậm chí còn la lên, “Croix de Guerre!” mặc dù không đứa nào hiểu câu đó có nghĩa là gì.
“Đó là Huân chương cho lòng dũng cảm của Pháp,” Lysander giải thích. “Nó học lóm của mẹ anh đấy.”


Bọn chúng chia nhau chỗ bành bích quy còn sót lại trên bàn trong khi chờ ông bà Onimous xuất hiện trở lại. Chỉ còn vài con thú to mồm hơn vẫn còn ồn ào, và bây giờ đã đủ im ắng cho Charlie nghe thấy một tiếng quá rõ ràng và đanh sắc từ đâu đó. Nó nhìn xuống và thấy một con vịt trắng đang cúm rúm dưới ghế của Emma.
“Ra là một con vịt,” nó nói. “Dì của bồ bảo với mình là bồ có một con thú cưng mới.”
“Nó bay vô sân nhà mình hồi hôm qua,” Emma nói. “Mình gọi nó là Nacny, theo tên mẹ mình. Mẹ mình mất rồi, bồ biết đấy.”
“Ừ. Đúng là một con vịt rất đáng yêu,” Charlie không thể nghĩ ra cái gì khác hơn để nói.
“Lại không thấy Olivia tới nhỉ?” Fidelio quan sát. “Có chuyện gì với nó vậy, Em?”
Emma nhún vai:
“Mình không biết. Dạo này nó gần như chẳng nói chuyện với mình gì hết, và nếu nói thì cũng luôn trong tâm trạng cáu bẳn.”
“Trông nó luộm thà luộm thuộm,” Lysander nói.
“Mà hồi trước nó diện oách lắm,” Tancred rầu rĩ thêm.
Charlie nghĩ đã đến lúc kể cho bọn bạn nghe về cô Alice Angel và cửa hàng hoa.
“Mình nghĩ Olivia có phép thuật,” Charlie nói. “Nhưng nó không chịu thừa nhận điều đó. Nó thậm chí còn nghe được tiếng con ngựa ma, và theo như em biết, thì chỉ những người có phép thuật mới nghe được.”
Fidelio đồng ý. Nó chưa nghe, chưa thấy, hay cảm giác thấy con ngựa đó bao giờ, kể cả khi những đứa khác cúi rạp người xuống né.


Lysander muốn được biết kỹ hơn về con ngựa ma, vì vậy Charlie cập nhật tin tức cho Lysander, thêm vào những chi tiết về cuộc thử nghiệm kinh hồn của lão Ezekiel.
“Một trái tim!” Tancred thốt lên, khi Charlie kể xong. “Ghê quá!”
“Còn nữa,” không đả động gì tới ông Christopher Crowquill, Charlie kể tiếp cho bọn bạn về Billy Raven và những phép thuật đáng sợ của cha mẹ mới của thằng bé.
“Và giờ em sẽ liều thân, và có lẽ liều luôn cả bọn này, để cố cứu Billy khờ khạo, có đúng không?” Tancred hỏi.
“Đúng thế,” Charlie nói. “Nhưng Billy không khờ khạo. Chỉ tại nó gặp xui nhiều quá thôi.”
“Đúng vậy,” Gabriel lầm bầm một cách nghiêm nghị.


Xem ra đây là thời điểm thích hợp để nhắc lại cái nút áo. Charlie lôi cái nút áo và chìa ra cho Gabriel, nài nỉ nó viếng thăm thế giới gương thêm một lần nữa:
“Có lẽ nếu anh nghe lại tiếng dương cầm, anh sẽ nhận ra bản nhạc. Bất cứ cái gì có thể cho em biết thêm về nơi ấy… và người đàn ông bị kẹt ở chỗ ấy!”


Gabriel cầm lấy cái nút áo cùng với một tiếng thở dài, một lần nữa, nó đặt cái nút lên tim. Nó nhắm mắt lại và tất cả bọn nín khe theo dõi khi chân mày Gabriel nhướn lên và gương mặt dài của nó bộc lộ một sự tập trung cao độ. Thỉnh thoảng một cơn rùng mình ập xuống khắp thân mình Gabriel, và miệng nó hơi giật một cái. Sau năm phút, Gabriel mở mắt ra và vứt cái nút áo lên bàn.
“Rachmaniov,” nó nói. “Khúc dạo đầu cung Đô trưởng. Và đó là một đĩa nhạc – một trong những đĩa nhạc cũ của năm 78.”
“Còn người đàn ông thì sao?” Charlie hỏi.
“Toàn bộ gương mặt ông ấy bị méo mó. Có quá nhiều gương, các chi tiết đều gãy vụn. Xin lỗi, Charlie.”


Nhưng Charlie không quá thất vọng. Giờ nó đã biết tên bản nhạc. Đó là thứ để mà đi tiếp.


Tiếng chuyện trò trong phán cà phê chìm xuống thành tiếng thì thào khi cảnh sát Singh và cảnh sát Wood ra khỏi nhà bếp và đi khỏi. Một loáng sau, ông Onimous xuất hiện và tuyên bố hôm nay họ đóng cửa. Norton cần phải được đưa đi bệnh viện để may vết thương và chích ngừa uốn ván.
“Anh ấy bị lũ chó cắn xé nặng nề,” ông Orvil nói.”Bọn chó săn!” Ông nhổ nước miếng. “Bọn giết người khát máu.”
Khi Charlie và lũ bạn đứng lên ra về, ông Onimous đến bên bàn bọn chúng.
“Xin lỗi, các cô cậu,” ông nói. “Ngày mai chúng tôi sẽ không mở cửa. Norton trong tình trạng tồi tệ và vợ anh ấy đang quýnh quáng cả lên. Cảnh sát đã cảnh cáo chúng tôi là quán cà phê tuyệt diệu này phải đóng cửa. Bọn nhà Loom ấy gây phiền toái bất cứ khi nào chúng tới đây, và mọi người đang phàn nàn.”
“Ông nên cầm cửa bọn chó đó, ông Onimous,” Lysander nói. “Ba của cháu sẽ khuyên như thế.”
“Ba của cậu có thể là một vị thẩm phán, nhưng ông ấy không biết gì hết về việc điều hành quán Cà Phê Thú Kiểng,” ông Onimous nói trang nghiêm. “Tôi không thể lại đi cấm chó, cậu Lysander à. Chủ nhận cấm thì được, nhưng chó thì không.”
Ông nhoài người xuống bàn và lượm con chuột đen lên:
“Tôi phải đem nó trở lại nhà bếp. Nó nhớ Billy kinh khủng, các bạn biết đấy.”
“Billy sẽ tới thăm nó ngay thôi.” Charlie giả bộ tỏ ra tự tin. “Vấn đề là ông Onimous, cháu cần tìm ra một nơi gọi là Ngôi Nhà Bất Chợt.”
“Để làm gì?” Ông Onimous hỏi với giọng ngạc nhiên.
Charlie kể cho ông nghe về vụ nhận làm con nuôi của Billy. Trong khi lắng nghe, gương mặt tinh anh, đầy râu ria của ông Onimous trở nên nhúm nhíu lại vì quan tâm.
“Trời! Trời! Thật là quá đáng,” ông kêu lên. “Thế giới làm sao rồi, đến một thằng bé mà cũng không thể sống một cuộc sống vô tư? Ngôi Nhà Bất Chợt ấy ở Ngõ Quanh Co, Charlie à. Qua khỏi nhà thờ lớn ở khu phố cổ. Nhưng coi chừng! Tôi không muốn so gươm với bọn de Grey đó đâu.”
“Cháu sẽ đem theo con Hạt Đậu,” Charlie nói, tròng sợi dây xích vào cổ Hạt Đậu.
“Không có anh là em sẽ không đi được đâu,” Fidelio nói.
“Và mình cũng sẽ đi đường ấy,” Emma nhét vịt Nancy vào một cái giỏ có nắp đậy.


Gabriel, Tancred, và Lysander sống ở đầu kia, trên một ngọn đồi cây cối um tùm gọi là Khu Đồi Cao. Nhưng bọn chúng đều muốn hễ cần giúp đỡ thì liên lạc chúng ngay. Mái tóc vàng của Tancred bị nhiễm điện đang kêu xèo xèo và từng làn gió nhẹ cứ không ngừng quấn quanh mắt cá chân cả bọn khi chúng ra tới hẻm Con Ếch.
“Anh cứ thầy rờn rợn về tất cả những chuyện này,” Tancred nói. “Bão cứ chực nổi lên, Charlie ạ.”
“Và anh thì cứ muốn gọi tổ tiên mình,” Lysander bảo.


Khi chúng tới Khu Đồi Cao, ba thằng lớn quẹo phải, trong khi Charlie, Fidelio và Emma quẹo trái về hướng nhà thờ lớn. Một lần nữa, một màn sương mù dày đặc lại bắt đâầ giăng khắp thành phố. Nhưng đây không phải là thứ sương mỏng như hồi hôm qua, mà nó giống như màn hơi nước phả lên từ tít sâu dưới lòng đất – lạnh buốt và báo điềm gở - nó trì néo mỗi bước chân của ba người bạn khi chúng tiến gần tới nhà thờ.
Khi đi ngang tiệm sách cô Ingledew, Emma tạt vào và đặt cái rổ đựng con Nancy lên quầy. Dì nó đang tiếp một khách hàng, cho nên Emma vẫy tay vui vẻ và nói, “Con về ngay!” rồi lại phóng ra. Ngay lúc đó, Fidelio chạy ù vào và đặt con mèo già của nó lên nóc rổ.
“Sẽ không lâu đâu ạ,” Fidelio nói cới cô Ingledew đang chẳng hiểu chuyện gì.


Khi Fidelio ra khỏi tiệm, nó nhận thấy có ba sinh vật rực rỡ đang băng xuyên qua làn sương mù.
“Em có biết là những con mèo lửa đang đi theo tụi mình không?” Nó hỏi Charlie.
Charlie ngoái ra sau nhìn ba con mèo chói lói.
“Chắc chắn phải có lý do chúng mới đi,” Charlie nói. “Chúng luô có lý do. Hây, chào Dương Cưu! Chào Nhân Mã… Sư Tử!”


Ba con mèo đáp lại lời chào của nó bằng những tiếng meo meo thân thiện, trầm sâu. Hạt Đậu hộc lên một tiếng sủa cảnh cáo nhung bọn mèo chẳng lấy làm phật ý. Khi đoàn quân nho nhỏ lại lên đường, đám mèo theo sau ở một khoảng cách kín đáo, dè chừng bản năng tự nhiên của con chó.


Qua khỏi nhà thờ, thành phố biến thành một mê trận với những lối hẻm hẹp rí và những bậc thang tối tăm, nhớp nháp. Những bảng chỉ tên đường nứt vẹo và bạc phếch, một số bảng không thể đọc được. Để tìm ra Ngõ Quanh Co, Charlie phải đi vào mấy cái ngõ hẻm tối nhất mà nó chưa từng băng ngang bao giờ.
“Nó đây,” Charlie hạ thấp giọng.
“Một nơi u ám,” Fidelio nhận xét, thận trông đi theo sau.
“Có mùi thấy ghê,” Emma nhăn mũi.


Chúng bắt đầu lần theo lối đi dốc, thỉnh thoảng vấp nhào phải những bậc cấp đột ngột xuất hiện trong lúc đang mải căng mắt nhìn xuyện bóng tối trước mặt. Con Hạt Đậu bỗng vuột ra một tràng tru dài, suýt làm đứt thần kinh cả bọn. Lũ mào bèn phóng vượt lên bọn trẻ và dẫn đường, bộ lông sáng chói của chúng rực lên trong màn sương.


Sau khi đi qua dưới hai bảng tên đường gỉ sét, cuối cùng Charlie thấy những chữ NGÔI NHÀ BẤT CHỢT khắc hẳn vào bảng đá, bên trên một cánh cửa cao bằng gỗ sồi.
“Bồ tính sẽ nói gì đây?” Emma hỏi khi Charlie đưa tay túm cái gõ cửa – một bàn tay to bự bằng đồng.
“Mình sẽ nói ‘Billy đâu?’ Có lẽ thế là đủ,” Charlie nói.
Tuy nhiên, cuối cùng, sau vài tiếng gõ, khi cánh cửa mở ra, khả năng ăn nói của Charlie biến sạch, bởi vì người đàn ông đứng ngay khung cửa phóng cho nó một cái nhìn dữ tợn đến nỗi nó ngạt cả thở.
“Muốn gì?” Người đàn ông nói cụt lủn.
Charlie nuốt nước miếng khan, và Fidelio nói:
“Tụi cháu muốn thăm Billy, thưa ông.”
“Billy?” Người đàn ông trông rất tức giận. “Billy?”
“Nó sống ở đây, phải không ạ?” Emma hỏi.
“Cút đi,” người đàn ông rống lên.


Lão định đóng sập cửa lạ nhưng Charlie đã đặt chân lên bậc cấp. Đúng lúc đó Hạt Đậu thấy một con mèo phóng sượt qua hành lang sau lưng người đàn ông. Sủa lên một tiếng vui mừng, Hạt Đậu rượt theo con mèo, hoặc đúng hơn là nó mới thử rượt theo, bởi vì có cái gì đó tông tầm vào mũi nó và xô nó bật nảy trở lại, kêu tru tréo.
“Ông làm gì con chó của tôi vậy,” Charlie la lên.
Usher de Grey đá gạt bàn chân Charlie ra và đóng rầm cửa lại.
“Nó ở trong đó,” Emma thì thầm. “Mình chắc chắn nó ở trong đó. Tôi nghiệp Billy.”
“Nó ở trong đó, chắc chắn,” Charlie nói. “Đó là cái lão em trông thấy ở Học viện Bloor… cái lão không thích con nít ấy.”
“Sao?” Fidelio hỏi.


Tiếng tru đau đớn của Hạt Đậu khiến Charlie khó mà suy nghĩ được. Tông mũi vào thứ mà mình không nhìn thấy là điều vô cùng hãi hùng đối với một con chó, mà Charlie không biết làm sao diễn tả bằng ngôn ngữ của thú vật cho con chó về lực trường. Chỉ có Billy mới làm được điều đó.
“Em sẽ nghĩ ra cách gì đó,” Charlie cố tỏ ra vui vẻ.
Cả bọn dùng dằng rời khỏi Ngôi Nhà Bất Chợt, trong khi Billy vẫn bị kẹt bên trong, nhưng bọn chúng không thể làm gì thêm được nữa. Cần phải sắp xếp một kế hoạch khác.


Khi Charlie bước ra khỏi Ngõ Quanh Co, nó ngoái nhìn lại. Những con mèo lửa vẫn chưa đi. Chúng đang ngồi dàn hàng ngang bên ngoài cánh cửa Ngôi Nhà Bất Chợt, bộ lông óng ánh của chúng sáng ngời trong bóng tối. Có lẽ chúng có lời giải cho việc đào tẩu của Billy.
Billy đang coi T.V thì nghe tiếng con chó. Mới đầu âm thanh ấy chỉ là một tràng tru đau đớn, nhưng rồi Billy bắt đầu nhận ra tiếng của Hạt Đậu, và rồi hiểu được lời con chó.
“Cổng ma!” Hạt Đậu sủa. “Tường nước đá! Tường lửa! Cổng làm đau! Cú lừa con mèo! Ối đau! Charlie, cứu!”


Billy nhảy dựng lên và lao ra cửa sổ. Tất cả những gì nó có thể thấy qua màn sương dày chỉ là một bức tường đá xám. Cửa sổ phòng nó bị khóa và nó không cách chi mở ra được. Nó đi dọc lối đi bên ngoài căn phòng và nhón gót ra chiếu nghỉ. Ngó xuống hành lang, vừa lúc nó thấy lão Usher de Grey đóng sầm cửa trước lại. Billy chạy trở lại lối đi và đứng dựa sát vào tường, gần như không dám thở. Charlie ở bên ngoài, nhưng liệu chuyến thăm của anh ấy có gây rắc rối gì không? Ý nghĩ phải chịu đau đớn thêm khiến Billy nhắm mắt lại sợ hãi.
“Billy!” Một giọng nhẹ ru.


Billy mở choàng mắt ra và thấy con mèo đen nhỏ ngay cạnh bàn chân nó.
“Đám bạn,” con mèo nói, bằng giọng sáng rỡ nhất.
Billy rón rén đi trở vào phòng, có con mèo theo sau. Không gây một tiếng động nào, nó cẩn thận khép cửa lại.
“Tôi chó bị đau,” con mèo nói. “Vuốt Sắc phải chỉ cho bạn của Billy thấy nguy. Phải chỉ tường bí mật của Usher. Làm ơn nói chó là Vuốt Sắc xin lỗi.”
“Nếu gặp lại nó tớ sẽ nói,” Billy đáp.
“Các bạn tôi ở đây,” con mèo con nói tiếp. “Họ ở lại. Họ giúp Billy đi. Tối nay, Billy phải sẵn sàng.”
“Tối nay?” Billy lắc đầu, hoảng sợ.
Nhưng vì ước muốn thoát quá lớn, ý nghĩ về tự do quá cám dỗ, nên nó bật cười to, phấn khích.
“Suỵt!” Con mèo nhắc. “Chưa!”
“Tôi sẽ đi đâu?” Billy hỏi. “Nếu tôi rời khỏi đây.”
“Các bạn sẽ chỉ cho cậu.”
“Các bạn của mèo là ai?”
“Mèo, dĩ nhiên rồi. Lông đồng, lông cam và lông vàng.”
“Những con mèo lửa!” Billy thảng thốt.
“Những con mèo lửa, đúng. Vuốt Sắc đi đây.”
Billy mở cửa và con mèo đen bước gọn ra lối đi.
“Đừng quên,” con mèo nói. “Tối nay.”
“Làm sao quên được!” Billy thì thào.
 
Billy luôn luôn ăn tối một mình trong phòng. Khi ăn xong, nó sẽ mang khay xuống nhà bếp và ở đó nó sẽ rửa hết chén dĩa của cả nhà, trong khi gia đình de Grey ngồi bên bàn, tính toán tài khoản.


Vào đêm mà Billy hy vọng sẽ trốn thoát, nó để ý thấy mụ Florence có một chồng mẫu đơn ở trước mặt. Mụ lướt nhanh những tờ giấy, liếm ngón tay cái và mỉm cười đầy thỏa mãn.


Những xấp giấy ghi lời thề, Billy nghĩ. Nó nhận ra cần phải làm sao để huy được những lời thề của chính nó, để có thể thoát khỏi gia đình de Grey mãi mãi, thoát thật sự. Nhưng những lời thề được cất giữ ở đâu? Nó cần phải tìm ra.


Billy lau khô chiếc dĩa cuối cùng và xếp vào tủ đựng đồ sứ.
“Chúc mẹ ngủ ngon! Chúc ba ngủ ngon,” nó nói.
Nó nhận thấy nó không tài nào gọi hai người ấy bằng tên được, như họ yêu cầu.
“Cám ơn vì cho con ăn bữa tối ngon,” nó thêm.
“Ăn gì?” Mụ Florence hỏi, không hề ngước lên.
“Một chiếc bánh mì kẹp,” Billy nói.
“Kẹp gì?” Lão Usher hỏi.
Billy cần phải nghĩ thiệt khó khăn về món kẹp.
“Con nghĩ đó là bơ thực vật,” nó nói.
“Hết đau rồi hả… cưng?” Mụ Florence liếc nó một cái qua quít.
“Dạ rồi, cảm ơn… mẹ.”
“Chúng ta hy vọng con sẽ không bệnh lần nữa,” mụ Florence nói, đánh dấu kiểm vào một trong những tờ giấy.
“Dạ. Chúc ba mẹ ngủ ngon.”


Chẳng ai trong gia đình de Grey thèm để ý tới Billy khi nó rời nhà bếp. Nó bước qua hành lang lát gạch, bảo hai bàn chân phải hành xử sao cho bình thường, nhưng cái đầu cứ rối tung rối bời, đến nỗi nó không thể nhớ ra trước nay mình vẫn đi như thế nào nữa. Khi đã đi đến cầu thang, nó vọt lên, hai bậc một, nôn nóng chuẩn bị cho một đêm trước mặt.


Gia đình de Grey không bao giờ ghé qua ngó Billy vào ban đêm, nhưng để phòng hờ, nó tròng bộ đồ ngủ ra bên ngoài bộ đồ thường ngày. Thay vì leo lên gi.ường, nó nhón chân ra chiếu nghĩ và chờ mụ Florence rời nhà bếp. Vào đúng bảy giờ, mụ đi ra, mang theo cái giỏ xách màu xám. Billy lùi vào bóng tối khi mụ băng qua hành lang và đi vào một thư phòng nhỏ ở đầu đằng kia. Mụ ra khỏi phòng mà không mang theo giò xách.


Billy kiễng chân trở vào phòng nó. Để cửa khép hờ, nó tháo mắt kiếng ra và đặt lên cái bàn bên cạnh gi.ường, rồi leo lên gi.ường. Đó là một đêm dài nhất, chưa từng thấy. Đồng hồ nhà thờ lớn điểm mười hai giờ, rồi một, rồi hai, rồi ba. Mất hết hy vọng được giải cứu, Billy thiếp đi trong giấc ngủ đầy mộng mị.


Trong lúc Billy ngủ, những đám mây đêm cuộn đi, để lộ một bầu trời nẹh tênh màu xám nhạt. Thành phố vẫn còn bị màn sương bao bọc; từ trên cao, chỉ thấy được những tháp mái của những tòa nhà cao nhất, những phiến đá ướt át của chúng lấp lánh trong ánh bình minh.


Từ một đống lá vàng tấp ụ quanh một thân cây xám tro, một con mèo cam hiện ra. Bằng một động tác nhanh đến sững sờ, nó nhảy phóc lên một mái nhà cách đó mấy thước. Tiếp bước nó là một con mèo vàng và rồi một con mèo nữa, màu lửa rực. Ba con mèo phóng ào ào qua những đỉnh nóc nhà cho tới khi chạm một ô cửa trời để mở. Lần lượt, con này tiếp con kia, lũ mèo rớt tòm vào một căn phòng trống ở lầu trên cùng của Ngôi Nhà Bất Chợt.


Usher de Grey quá tự tin về lực trường của mình đến nỗi không thèm đóng bất cứ cánh cửa nào. Những con mèo lửa tìm được đường xuống ngôi nhà không mấy khó khăn, nhưng chúng nhận thấy rằng nơi này giăng đầy những ma thuật hiểm độc. Tuy nhiên, với chúng, phá vỡ lực trường cũng dễ như là bước xuyên qua giấy.


Con mèo đen nhỏ đang chờ các bạn nó trên chiếu nghỉ.
“Để tôi đi gọi cậu bé,” nó nói.
Billy giật mình tỉnh giấc khi Vuốt Sắc nhảy lên gi.ường.
“Tới lúc đi rồi, Billy!” Con mèo thì thầm.


Billy dụi mắt, đeo kiếng lên, rồi tuột khỏi gi.ường, nó cởi bộ đồ ngủ ra. Bất giác, nghĩ tới việc sắp làm mới to lớn làm sao, nó rùng mình khiếp hãi. Nó nhìn quanh căn phòng, nhìn cái T.V, cái máy tính, những cuốn sách, những trò chơi – tất cả sẽ là của nó nếu nó ở lại đây mãi mãi. Nó sắp quăng mình vào thế giới của một con mèo đen nhỏ. Liệu nó có thể tin được con mèo không?


Nhưng khi trông thấy những con mèo lửa, thần kinh Billy dịu hẳn đi, nhờ tiếng rù trấn an và những màu sắc ấm áp ở chúng. Giờ nó cảm thấy nó có thể làm bất cứ điều gì.


Florence và Usher de Grey đang ngủ say như chết, chứng tỏ câu tục ngữ cổ “kẻ xấu xa không bao giờ ngủ” dường như sai bét. Khi Billy và bọn mèo đi ngang qua phòng, họ vẫn ngủ say sưa, sung sướng tận hưởng thứ giấc mơ mà hầu hết mọi người đều coi là ác mộng.


Trong ánh sáng kỳ lạ của lũ mèo, Billy có thể thấy rõ mồn một lực trường của Usher. Những sợi chỉ xanh da trời sáng quắc giăng ngang hành lang giống như những sợi tơ của một mạng nhện khổng lồ. Những sợi chỉ xanh da trời ấy đặc biệt dày đặc ở trước những cánh cửa mà chúng bao phủ, và trái tim Billy chùng xuống khi nó thấy cánh cửa căn phòng mà mụ Florence cất túi đựng những tờ lời thề.


Lũ mèo nhảy gọn gàng xuống cầu thang, và khi tới dải xanh da trời đầu tiên, chúng phòng xuyên qua, bỏ lại những sợi tơ đứt treo phất phơ trong không trung.
“Đi, Billy. An toàn mà!” Con Dương Cưu nói.
Billy chạy xuống hành lang và cẩn thận đi theo lộ trình của lũ mèo, chui qua lực trường.
“Trước khi rời đây tôi phải vô căn phòng đó đã,” nó chỉ thư phòng.
Ba con mèo quay ánh mắt sáng rực của chúng về cánh cửa. Nhân Mã, con mèo vàng, đi trước. Dựng đứng trên hai chân sau, nó xé toang màng chỉ bao quanh cánh cửa căn phòng. Billy lần tìm vặn nắm đấm và cửa mở ra. Chiếc giỏ xám đựng tơ hơ trên sàn nhà, ngay bên trong. Khi Billy cầm giỏ lên, nó thấy khóa gài bật mở ra ngay khi nhấn vào. Mụ Florence rõ ràng đã quá tin tưởng rằng sức mạnh của chồng có thể canh giữ bộ sưu tập lời thề của mụ.


Billy lẹ làng lục tìm khắp những xấp giấy trong giỏ, và khi tìm thấy những tờ giấy có ký tên mình, nó lôi ra. Đang đút mớ giấy vào áo len, thì nó cảm thấy mắt của bọn mèo chĩa xoáy vào nó. Nó ngước lên và hiểu ra bọn chúng muốn nó làm gì.
“Tôi nên lấy tất cả đi, phải không?” Nó nói. “Để tất cả được tự do.”
“Phải, Billy,” lũ mèo đồng thanh trả lời. “Tất cả.”
“Lẹ lên,” Sư Tử thêm. “Họ thức dậy bây giờ.”
Vừa chạy ra khỏi căn phòng, Billy vừa cất lời thề của nó vào chỗ cũ và kẹp chiếc giỏ xách xám dưới nách. Những con mèo lửa đang xuyên qua mảng chỉ bao quanh cửa trước. Khi chúng đã phá vỡ màn bao, Billy giật nắm cửa. Một tiếng rít thốn óc vang khắp ngôi nhà khi nó mở cánh cửa ra, và con mèo đen gọi:
“Chạy đi, các bạn. Hắn thức kìa.”
Billy nhào qua cánh cửa cùng với tiếng rống cuồng điên của Usher văng vẳng bên tai:
“Thằng oắt chuồn! Dậy! Dậy!”


Phóng thục mạng trên con đường khúc khuỷu của Ngõ Quanh Co, Billy mừng húm vì có ánh sáng loang loáng của những con mèo lửa, nhưng nó vẫn khiếp hãi. Giờ nó sẽ đi đâu? Và làm sao nó tới được nơi đó?
“Can đảm lên,” Sư Tử khích lện, chạy bên cạnh nó.
Nhân Mã, con sáng nhất, phóng lên trước, trong khi Dương Cưu đi bọc hậu, thỉnh thoảng lại ngó nghiêng quan sát con hẻm tối mù đằng sau chúng.


Giở cả nhóm đã ra đến đường cái, và chạy về phía nhà thờ lớn. Khi chúng phóng băng qua quảng trường rải sỏi, đồng hồ điểm năm giờ đúng và một bầy quạ gáy xám xồ lên, kêu quang quác trên bầu trời bình minh. Billy nhìn hau háu vào tiệm sách cô Ingledew. Nó biết Emma Tolly sống ở đó, nhưng Sư Tử cảnh báo:
“Không dừng lại, Billy. Chỗ đó không an toàn!”


Xuôi theo Đường Chính và xuyên qua thành phố. Tim Billy đập như điên. Nó bắt đầu nghĩ rằng nếu như những lời thề không giết nó thì cuộc hành trình này chắc chắn cũng giết nó. Nó nghe thấy tiếng rồ của động cơ đang tiến đến gần, từng giây, từng giây một. Không giảm nhịp bước, Billy ngoái lại và thấy một chiếc xe hơi xám lú ra khỏi màn dương đằng sau. Gia đình de Grey.
“Đường này!” Nhân Mã ra lệnh, vù vào ngõ hẻm.


Làm thế nào chúng tới được Khu Đồi Cao, Billy không bao giờ biết. Nó chưa bao giờ phải chạy nhiều như vậy, tuy thế, nó đã chạy không hề ngơi nghỉ tính từ lúc rời khỏi Ngôi Nhà Bất Chợt. Phải chăng bọn mèo đã cho nó mượn sức mạnh khi chúng dẫn nó chạy băng qua những con phố mù sương?


Sư Tử trả lời cho câu hỏi mà Billy không nói ra:
“Sức mạnh của Nhà Vua, Billy.”
Khi đến đầu đoạn dốc lên Khu Đồi Cao, chúng vượt qua một ngôi nhà gạch đỏ có một bức tường cao và một cái cổng lớn gài then chắc chắn. BIỆT THỰ LOOM – tấm biển ngoài cổng ghi. Billy chạy qua khỏi ngôi nhà vài thước thì đột nhiên cánh cổng bật bung và bốn con chó đen vọt ra đường. Thay vì dấn nhanh hơn, Billy đứng sựng lại, kinh hãi đến nỗi không nhúc nhích nổi. Những con mắt hung tợn, đen thui của bọn chó săn xỉa thẳng vào nó và những quai hàm vuông chành của chúng bạnh ra, để lộ những hàm răng dài dọc, giết chóc.


Những con mèo lửa vây quanh Billy, gừ lên đe dọa. Bọn chó cụp đầu xuống và gầm gừ.
“Chạy tiếp, Billy,” Dương Cưu hô.
Billy lệt bệt tụt lại, hai đầu gối run rẩy gần như không đỡ nổi nó nữa. Ngay khi nó nghĩ chân cẳng mình chắc sẽ sụm hoàn toàn, thì một tiếng sầm dựng tóc gáy rền lên, chặn bọn chó lại giữa đường. Một giây sau, một ánh chớp rạch toang bầu trời và bọn chó đen chạy bán sống bán chết vào nhà, tru lên khiếp đảm.
“Nào, Billy. Chuồn thôi!” Sư Tử nói.


Billy trông thấy những bóng đèn trước của xe hơi đang chọc qua màn sương mù, và túm chặt lấy giỏ lời thề, nó cắm đầu chạy. Con đường mòn càng lúc càng dốc hơn, nhưng nó vẫn không lơi bước. Tim nó dộng bình bịch, đầu nó quay cuồng, và chân nó run lẩy bẩy, nhưng nó vẫn chạy trối chết và lần này nó không thể dừng lại nữa. Chiếc xe vẫn lừ lừ tiến tới, gần hơn và gần hơn qua làn sương. Chẳng bao lâu nữa chiếc xe sẽ đuổi kịp chúng.


Mưa tuôn xối xả xuống con đường. Sấm ì ầm trên đầu và nước mắt Billy hòa trộn với nước mưa chảy ròng ròng xuống mặt.
“Em không chạy nhanh hơn xe hơi được,” nó nức nở. “Không chạy được. Không chạy được. Họ sẽ bắt em mất.”
“Không,” Sư Tử gầm gừ. Billy ngước lên đúng lúc một quả cầu lửa từ trên bầu trời sấm chớp ầm ầm lao xuống. Quả cầu đâm mạnh, trúng nắp đậy máy của chiếc xe xám cùng với một tiếng rầm xé tai. Động cơ xe bùng cháy.


Gần như không tin vào những gì mắt mình trông thấy, Billy quay lại và chạy tiếp lên đồi.
“Phải đó là Tancred không?” Nó thở hồng hộc. “Tancred và bão tố của anh ấy.”
“Rất giống,” Sư Tử đồng ý.
Con đường quẹo gắt, và Billy, người còng cả xuống vì giỏ đựng lời thề, thấy nó giống như một cái vòi rồng cuốn lên trời. Mưa đổ như trút nước, và hòa cùng một cơn gió mạnh thình lình, một tiếng thét hung tàn, ghê rợn rống lên:
“Billy Raven! Đừng hòng, đừng hòng, đừng hòng!”


Mụ Florence de Grey vẫn cố đuổi theo. Nhưng không còn chiếc xe, cuộc đua trở nên cân sức.


Hự lên một tiếng bất chấp, Billy chồm tiếp, lên đồi, và khi cơn gió thổi rít tợn hơn, nó mở cái giỏ xám và rút ra một nắm tờ lời thề. Chìa chúng ra trước giò, Billy để cho chúng bay đi. Chưa bao giờ nó cảm thấy khoan khoái như khi làm như vậy. Nó thọc tay vào giỏ và thả ra một năm giấy khác. Thêm một nắm nữa, nắm nữa, cho tới khi chiếc giỏ trống trơn và không trung xoắn đặc những tờ giấy bị gió cuốn bay chấp chới. Và Billy tin chắc mình đã nghe thấy tiếng thì thầm hy vọng của những kẻ cùng quẫn bị mụ Florence triệt tiêu, phỉnh lừa – tên của họ giờ được cơn mưa tẩy sạch.
“Tốt! Tốt!” Lũ mèo hoan hô.
Toét miệng cười, Billy thảy chiếc giỏ xám vào lòng cơn bão, và một giọng từ xa hú lên:
“Thằng ngu! Mày sẽ bị trừng phạt. Hãy đợi đấy!”
Charlie thường không bao giờ dậy sớm lúc sáu giờ bảnh mắt vào sáng Chủ nhật như thế này. Thực ra nó không thể nhớ được mấy giờ là mấy giờ, nên nó phải dí sát chiếc đồng hồ đeo tay lên đôi mắt ngái ngủ. Cây dẻ bên ngoài cửa sổ phòng nó đang lắc lư rào rạo trong gió và sấm đùng đoàng đằng xa. Và rồi chuông cửa reng.


Quăng đôi chân xuống sàn, Charlie lết mình tới cửa sổ và ngó ra. Nó vô cùng ngạc nhiên khi thấy chiếc xe Land Rover quen thuộc bên ngoài nhà số Chín. Đứng ở ngưỡng cửa là một người trông bộ nhấp nhỏm, ướt rượt. Đó là ông Silk, cha của Gabriel.
“Chào bác Silk! Charlie gọi.
“A, Charlie,” ông Silk gãi gãi gáy, như thể ông không chắc mình có muốn làm điều mình đang làm hay không.
“Bác đến để chở cháu đi,” ông nói.
“Chở cháu đi?” Charlie càng ngạc nhiên tợn.
“Hình như là…” ông Silk bắt đầu.
Ông không nói được thêm bởi vì cánh cửa thình lình bị nội Bone mở tung ra.
“Gì đó?” Bà hất hàm hỏi theo kiểu thô lỗ của mình. Hôm nay nghe còn cọc cằn hơn thường lệ.
“Tôi đến…” ông Silk lại nói.
Một lần nữa ông bị nạt ngang.
“Ông nghĩ giờ này là mấy giờ, hả?” Nội Bone hạch hỏi.
Lúc này đã tỉnh ngủ hẳn, Charlie bắt đầu quăng ra từng món quần áo. Có lẽ một chuyện gì đó đã xảy ra với Gabriel, hay với một anh bạn khác sống ở Khu Đồi Cao, Tancred hay là Lysander.


Charlie chạy xuống hành lang nơi nội Bone vẫn đang thuyết giáo cho ông Silk nghe về tính ích kỷ của việc dựng mọi người dậy vào sáng sớm Chú nhật. Ông Silk giờ đã ướt nhem ướt nhẹp và trông bộ trầm cảm lắm.
“À, Charlie, đi nào,” ông nói, quay lưng khỏi người phụ nữ hung bạo.
“Tôi phải nói với mẹ nó sao đây?” Nội Bone quát.
“Nói với mẹ là con tới nhà anh Gabriel,” Charlie nói, hấp tấp đi theo ông Silk. Nó nhận thấy một hũ sữa chua đậu phộng ưa thích nhất của Ông cậu Paton thò ra khỏi túi chiếc áo choàng ngủ của bà nội nó, và chỉ để cho bà bớt hung hăng đi, nó thêm:
“Con cá là nội dậy sớm để ăn hết sữa chua của Ông cậu P.”
Nội Bone nguýt cho Charlie một cái căm ghét và đóng sầm cửa lại.
Charlie nhảy tọt vào trong chiếc xe Land Rover và ông Silk lái đi. Sấm chớp đồng hành với họ suốt quãng đường tới Khu Đồi Cao; cùng với tiếng động cơ và tiếng mưa nện ình ình trên nóc, Charlie phải hét om lên mới nghe được chính tiếng mình.
“Có chuyện gì vậy, bác Silk?” Nó hỏi.
“Thiệt khó nói,” ông Silk tỏ ra lấp vấp, tuy ông là một nhà văn viết chuyện kinh dị. Ông giống Gabriel ở gương mặt dài, bơ phờ. Họ thậm chí còn có mái tóc dài, rũ rượi giống y nhau, mặc dù tóc của ông Slik xác xơ hơn. Bồi thêm vào, ông còn có bộ ria dày, quặp rũ xuống. Suy nghĩ một thoáng, ông nói:
“Có một thằng bé ở trong chuồng chuột của Gabriel.”
“Thằng bé nào?”
“Thằng bé tí, tóc trắng, đeo kiếng.”
“Billy!” Charlie thốt lên. “Vậy là nó đã trốn thoát!”
"Nó nói nó muốn gặp cậu. Gabriel năn nỉ bác tới đón cháu. Ừ, cả nhà bác chả ngủ nghê gì được vì bão ì ầm. Cái thằng bão tố, thằng Tancred ấy, nó nói bão sắp tan ngay thôi. Dẫu gì cũng phải từ từ, một khi nó đã nổi sấm hết cỡ như thế. Cũng thông cảm được thôi, bác nghĩ thế.”
“Dạ,” Charlie rất ấn tượng trước sự thấu hiểu của ông Silk.


Đi được nửa dặm qua khỏi cánh cổng đôi của Biệt Thự Loom (bốn con chó săn sủa lồng lên khi nghe tiếng họ đi ngang), chiếc Land Rover vù qua một chiếc xe hơi dúm dó, bị phong tỏa bởi hàng rào cảnh sát. Nắp đậy máy xe sập hẳn xuống, nước sơn trầy tróc, kính chắn gió bể vụn và bánh xe chỉ còn là một đống cao su chảy nhoét.
“Ôi! Chiếc xe đó coi bộ bị sét đánh!” Charlie kêu lên.
“Đúng phóc,” ông Silk nói. “Tài xế vô nhà thương nhưng vợ ông ta không bị trầy xước gì, ngoại trừ bà ta hình như phát điên.”
“Ý tưởng hay cho một câu chuyện kinh dị, phải không bác Silk?” Charlie gợi ý.
“Ừmm!” Nhà viết chuyện kinh dị vuốt ria mép, vẻ trầm tư.
Charlie sượt thấy nhà của Lysander khi họ đi ngang qua một cánh cổng đôi cao bằng sắt rèn. Cha của Lysander là thẩm phán Sage nổi tiếng, và ngôi nhà phản ánh địa vị quan trọng của ông.
“Cậu bé nhà Sage cũng đang ở nhà bác,” ông Silk bảo Charlie. “Và cả Tancred Torsson nữa. Nhà bác chưa bao giờ có nhiều khách vào sớm Chủ nhật như thế.”
Rồi ông quẹo chiếc Land Rover vào một mảnh sân sình lầy nhớp nhúa và dừng lại trước một ngôi nhà trông ọp ẹp.


Charlie nhảy từ chiếc Land Rover ra, đáp thẳng xuống một vũng nước sâu. Nó ước gì đã nhớ mang theo ủng, nhưng giờ thì đã quá trễ. Ông Silk chỉ ra bên hông nhà, chỗ một lối đi hẹp dẫn tới cánh đồng đằng sau nhà.
“Tất cả đang ở trong chuồng chuột,” ông bảo. “Đừng hỏi bác tại sao.”
“Dạ,” Charlie lội bì bõm qua vũng bùn về phía một cái chòi lớn, nơi Gabriel dành rất nhiều giờ rảnh rỗi của nó ở đó, chăm sóc lũ chuột đủ màu. Dòng chữ CHUỘT KIỂNG NHÀ SILK được sơn màu đỏ vắt ngang cánh cửa. Charlie nghe thấy có tiếng rù rù rì rì vọng ra từ bên trong chòi, nhưng tiếng này im bặt khi nó gõ cửa – cửa khóa.
“Ai đó?” Gabriel hỏi.
“Em,” Charlie đáp.
Sau một lát la oai oái và bước lạch bạch, Gabriel mở cửa và Charlie bước vào chời. Nó thấy Tancred và Lysander đang ngồi trên một băng ghế bên dưới một dãy kệ đặt lồng chuột. Băng ghế đó là một trong số ít ỏi những chỗ không có lồng chuột – bởi vì lòng chuột xếp lớp khắp các bức tường, từ sàn lên tới trần. Cơ man nào là chuột trắng, chuột đen, chuột vàng, chuột nâu, chuột lông dài, chuột lông ngắn, chuột lớn và chuột nhỏ. Mùi rất gây rất nồng.
Billy Raven đang ngồi xếp bằng dưới sàn nhà. Nó coi bộ hài lòng, và khi Charlie bước vào nó toét miệng cười ngoác với Charlie.
“Billy, em ra được rồi!” Charlie hét lên. “Em làm cách nào vậy?”
“Những con mèo lửa giúp em. Chúng phá vỡ lực trường.”
Ẩn sau nụ cười, Charlie cảm thấy Billy đang rất hãi hùng.
“Vấn đề là, bây giờ thì sao?” Lysander nói. “Billy nói em biết cách. Chính vì thế mà mời em tới đây, Charlie.”
“Nó không thể ở đây lâu được,” Gabriel nói, giữ cánh cửa và chen vào đằng sau Charlie. “Cái bà de Grey đó thể nào rồi cũng đoán ra nó đi đâu.”
“Mình không khử quách bà ta đi!” Tancred nắm chặt nắm tay lại, và một luồng gió mạnh quét quanh căn chòi, dựng hết tóc mọi người lên và khiến lũ chuột la rùm, cuống quít tìm chỗ núp.
Billy úp chụp hai bàn tay lên tai:
“Em không thể nào suy nghĩ được khi chúng cứ nói thế suốt,” nó than van. “Ở đây sao mà lắm chuột thế, chúng chẳng cho em yên lấy một phút.”
“Chúng nói gì vậy?” Gabriel hỏi. “Tôi lúc nào cũng muốn biết.”
Billy trố mắt nhìn Gabriel, hai tay nó bịt chặt tai hơn. Lysander gỡ một bàn tay Billy ra và hét lớn:
“Gabriel muốn biết bọn chuột đang nói gì.”
“Chúng nói: ‘Cứu tôi với!’ ‘Hự!’ ‘Lại tới nữa!’ ‘Kệ xừ tụi nhóc!’ ‘Cái đó của tao!’ ‘Xéo đi!’”
Ngừng một lát, Billy tiếp:
“Thiệt tình, chán ngắt.”
“Nhưng tôi thì không chán,” Gabriel nói.
Lysander giơ bàn tay lên làm cử chỉ ra lệnh:
“Chúng ta trở lại vấn đề được không? Không dễ gì kiếm được một chỗ an toàn cho Billy, một nơi không ai nghĩ ra mà săn lùng. Rõ ràng là tất cả nhà của tụi mình đều nằm trong diện tình nghi vì tụi mình có phép thuật. Rủi quá, ông thẩm phán đi vắng, không thì anh đã hỏi ý kiến rồi.”
Gabriel đề nghị là bữa điểm tâm sẽ giúp cả bọn suy nghĩ sáng suốt; và rồi nó rời chuồng chuột, hứa sẽ quay lại với trứng chiên, thịt xông khói và bánh mì nướng.
Hé mắt nhìn qua ô cửa sổ nhỏ giữa những lồng chuột, Charlie ngó Gabriel đi vào một cánh cửa ở mặt sau ngói nhà.
“Tại sao tụi mình lại phải ăn ở đây?” Nó nói.
“Để bảo vệ gia đình của Gabriel,” Lysander nói. “Họ không thể tự vể chống lại… bất cứ thứ gì mà những người đó sẽ phải tới để truy đuổi Billy. Và họ sẽ gởi tới thứ gì đó cho coi, tin anh đi. Dầu gì tụi mình cũng là dân được ban phép thuật. Tụi mình chống cự được mà.”
Lời của Lysander cứ như lời tiên tri, bởi vì ánh sáng ban ngày vừa mới bắt đầu lọt qua cửa sổ nhỏ bỗng thình lình tắt ngúm, và cả bọn bị chìm trong một màn đen. Ngay cả bọn chuột cũng im thin thít khi có một tiếng gõ nhẹ nghe thấy trên mái nhà.
“Cái khỉ gì…” Tancred nói.
Tiếng động rõ dần cho đến khi nó trở thành tiếng trống khua dồn. Như thể có hàng triệu bàn tay nhỏ tí xíu đang gõ từng bề mặt của căn chòi, và căn chòi bắt đầu rên lên và rung chuyển dưới sức tấn công đó.
Nóng lòng muốn biết cái gì ở bên ngoài, Charlie lần tìm chốt cửa. Nó tự nhủ rằng mở cửa ra coi chừng là không khôn ngoan, nhưng đến lúc đó đã quá trễ, và nó đã hé nhìn ra.
Một đám mây giấy cuồn cuộn bay vù về phía Charlie, và trong chớp mắt, nó thấy Gabriel ló ra khỏi nhà rồi bị đám giấy bay nuốt chửng. Gabriel té nhào xuống đất và khay đồ ăn sáng tú hụ văng khỏi tay nó. Cái khay rớt xoảng xuống mảnh sân rải sỏi, làm đồ ăn bay tung tóe.
Khi đám giấy luồn vô chuồng chuột, Billy Raven chồm đứng dậy, la thất thanh:
“Đó là những lời thề!”
 
Charlie đóng ập cửa chuồng chuột lại, nhưng vì vài tờ giấy ghi lời thề đã lẻn được vào trong. Chúng bay thẳng đến Billy và bám dính lên mọi phần th.ân thể của thằng bé, Billy hét toáng lên, vì đau hay vì sợ, Charlie không biết. Nhưng khi nó cố rứt đám giấy ra khỏi người Billy, nó thấy mỗi tờ giấy đều có một cái mép xanh lá cây rực rỡ, nắm chặt vào d.a thịt nó ngay lúc nó sờ vào.


Tancred và Lysander cũng đang giật rứt giấy, và cả chúng cũng bị cắn, bởi những linh hồn hiểm ác, hay cái thứ gì đó nằm trong đống giấy ghi lời thề chết người của mụ Florence de Grey. Cứ thế, hễ bứt được tờ giấy nào ra, thì những tờ khác lại lao phập vào Billy. Chúng cố xé tan giấy ghi lời thề, nhưng từng mảnh vụn giấy li ti vẫn cứ lịa bay ngược về và bám rịt vào Billy. Khi chúng vo giấy thành cục, giấy liền vặn vẹo trong lòng tay, cắn ngón tay và đốt bỏng gan bàn tay. Những tờ giấy bị vo tròn thì cứ bung ra lại và tấn công tiếp.
“Tụi mình phải tống chúng ra!” Lysander hét om sòm, trong khi Billy lăn lộn la thét và bứt tóc.
“Mở cửa ra, Charlie, chút xíu thôi,” Tancred thét. “Để anh thổi chúng ra.”
“Lỡ chúng vô thêm thì sao?” Charlie nói, hết cả hơi.
“Phải liều thôi,” Tancred bảo nó.
“Chúng có mười hai tờ - anh đếm rồi,” Lysander nói. “Nào nào, tụi mình cứ thử đi.”


Mỗi tờ giấy ghi lời thề được rứt khỏi người Billy liền bị một luồng hơi lạnh tống xuyên qua một lỗ cửa tí nị mà Charlie hé ra. Sau đó Charlie sập cửa lại ngay lập tức. Thủ thuật di dời này không dễ chút nào, vì Tancred cần nhiều chỗ để dồn sức tạo được một luồng hơi mạnh; và khi Charlie muốn tới được cửa chính, nó cần phải né cho xa cánh tay quay tít của cậu bé bão tố.


Tiến trình diễn ra chậm chạp một cách đớn đau, nhưng cuối cùng tất cả bọn giấy ghi lời thề cũng bị đuổi đi và bốn kẻ cư ngụ trong chuồng chuột đổ gục xuống băng ghế, an toàn, ít nhất là được một lúc. Bàn tay chúng đầy những vết bầm đỏ loét, nhưng mặt Billy còn thảm hại hơn cả hai bàn tay. Sắc mặt tái mét của nó càng khiến cho những đường lằn đỏ thẫm hiện lên rõ rệt hơn. Vùi mặt trong lòng bàn tay, thằng bé khụy xuống sàn nhà và bật khóc nức nở.
“Nín đi nào, Billy,” Lysander nói, vỗ về đôi vai gầy guộc của thằng bé. “Bây giờ xong rồi mà.”
“Không xong. Không xong,” Billy khóc ròng. “Và tất cả là lỗi tại em.”
“Không phải lỗi tại em,” Tancred tuyên bố. “Nhưng dù sao em cũng đúng một điều. Đúng là chưa xong. Trước hết, tụi mình sẽ ăn sáng bằng cách nào đây? Anh chết đói rồi.”
Lysander bỗng bắn cho Tancred một tia nhìn cảnh cáo, khi mặt Billy bắt đầu nhă nhúm lại.


Bọn giấy ghi lời thề bâu kín cửa sổ, nhưng, nhìn hé qua một lỗ hổng tí xíu chen giữa chúng, Charlie thấy được một chút quang cảnh ngoài sân. Không thấy bóng dáng Gabriel đâu, nhưng Charlie thấy được bốn trái trứng chiên, vài lát bánh mì nướng và một ít thịt heo muối giòn trông mê ly, tất cả đều nằm dưới bùn. Cảnh tượng thiệt u uất. Nó vừa định quay vào thì bắt gặp gương mặt Gabriel dòm ra từ cửa sổ nhà bếp. Gabriel giơ hai ngón tay cái lên ra hiệu với nó, và Charlie chợt có một hy vọng điên cuồng là một kế hoạch giải cứu bọn chúng được hoạch định xong.


Một đám mây giấy thình lình sà xuống, cuốn phăng niềm hy vọng của Charlie, khi gương mặt khiếp đảm của Gabriel biến mất đằng sau bọn lời thề có cạnh xanh lá cây, đeo bám dai như đỉa. Chúng bu kín cửa sổ nhà bếp như một đàn dơi rít om trời.
“Gabriel không ra được chỗ tụi mình,” Charlie nói một cách u uẩn. “Nhưng có lẽ sau một lúc bọn lời thề tâm độc này cũng sẽ suy yếu thôi. Có thể chúng sẽ ngủ hoặc chết.”
“Chúng sẽ không bao giờ chết,” Billy lúng búng.
“Nếu bão không thể hạ được chúng thì anh không biết cái gì có thể hạ được đây,” Tancred nói vẻ buồn hơn.
Một sự thinh lặng đầy thất vọng nhự trị trên bốn kẻ bị giam cầm. Bụng Tancred sôi ùng ục, Billy chùi gương mặt lấm lem nước mắt của nó bằng mu bàn tay và Charlie rớt phịch xuống sàn bên cạnh Billy, cảm thấy vô vọng.


Bỗng nhiên, Lysander loan báo:
“Sẽ giết được chúng!”
Cả bọn nhìn nó, và Charlie hỏi:
“Bằng cách nào?”
“Tổ tiên của anh,” Lysander nói. “Họ hùng mạnh hơn đám lời thề tầm thường này nhiều. Nhưng để gọi được họ, anh cần phải ra ngoài.”
Tancred nhảy đỏng lên:
‘Không được đâu Sander. Vậy là tự sát. Chúng phải có cả ngàn cái ở ngoài kia. Chúng sẽ ăn tươi nuốt sống bồ hoặc… hoặc đập bồ đến chết.”
“Không.” Cậu bé châu Phi mỉm cười. “Tổ tiên của mình sẽ bảo vệ mình.”
Rồi nó bước hẳn ra cửa:
“Tancred, bồ phải giúp mình. Nếu bọn quỷ quái đó luồn vô trong khi mình mở cửa, thì phải có một luồng gió thổi sau lưng mình để xua chúng đi. Bồ sẵn sàng chứ?”


Nhưng trước một sự ra đi quyết liệt như thế thì biết sẵn sàng thế nào? Một khi chí Lysander đã quyết, thì nó không bao giờ do dự. Trước khi Charlie kịp có thời gian để nghĩ cho chín, thì cửa đã mở ra và Lysander lao ra ngoài. Tancred vươn cánh tay hậu thuẫn khoát một hình vóng cung về phía bọn giấy ghi lời thề đang cố lọt vào trong. Một tờ lọt vào được trước khi cửa đóng sập lại, nhưng khi cái vật hung ác ấy bay về phía Billy, Tancred đã chụp được, và với sự giúp sức của Charlie, Tancred đã tống tiễn tờ giấy qua cửa bằng một luồng gió hơi khác.
“Úi! Bọn nó đang mạnh lên kìa,” Tancred nói, xem xét đôi bàn tay mình. “Coi này! Những vết cắt sâu hơn.”


Charlie dòm trân trân vào những vết cứa đâm toạc những ngón tay của Tancred. Chúng cần băng cá nhân khẩn cấp.
“Đây! Em có một cái khăn tay.” Billy lôi từ trong túi quần ra một chiếc khăn mùi xoa trắng một cách dị thường và đưa nó cho Tancred.
“Bà Florence bảo em luôn luôn phải có sẵn một cái khăn tay bên mình để dùng khi cần. Em nghĩ bà ấy nói đúng.”
Charlie buộc bàn tay cho Tancred, nhưng máu bắt đầu thấm qua chiếc khăn và Billy rên rỉ:
“Ôi, không. Em hy vọng anh sẽ không chảy máu tới chết.”
“Đương nhiên là không rồi, đồ ngốc.” Tancred giấu bàn tay ra sau lưng. “Nghĩ đến Sander kìa! Nó còn tệ hơn anh.”
“Sander!” Charlie hét lên.


Cả ba đứa bổ nhào ra cửa sổ. Cách đây một tích tắc, cửa sổ còn bị giấy phủ đầy, thế mà giờ nó đã quang quẻ, và những kẻ chứng kiến sợ khiếp vía thấy rằng bọn lời thề đã tụ lại vào một kẻ thù to lớn, quyết vây đánh cái thân hình bất động kia.


Khoảnh sân tối đến mức như thể hoàng hôn sớm vùa buông xuống. Nhưng những đứa trẻ vẫn thấy được Lysander vùi mặt vào hai tay, trong khi bọn giấy viền xanh lá cây bu quanh nó, đâm, chọc và cắn xé bất cứ chỗ nào có thể cắn xé. Bọn giấy phụt ra tiếng vù vù giận dữ càng lúc càng lớn cho đến khi Billy Raven không thể chịu nổi nữa.
“Chúng sẽ giết anh ấy mất,” Billy kêu lên.
“Suỵt!” Charlie nhắc nó. “Để nghe nào.”


Mới đầu rất mập mờ, sau rõ dần lên từng giây, tiếng trống cuồn cuộn đến trong không trung.
“Tổ tiên của Lysander đến đấy,” Charlie nói.
Một nụ cười bừng sáng cả gương mặt Tancred:
“Nghe thấy không, Billy?”
Billy gật đầu. Trước kia đã có lần nó được nhìn thấy linh hồn tổ tiên của Lysander chiến đấu. Nó biết thế là cảm đám có cơ sống sót rồi.
Khi tiếng trống dội vào trong sân, đám giấy ghi lời thề xem ra mất đi sức mạnh của chúng. Vài tờ lảo đảo bứt ra khỏi đồng bọn, tựa hồ như chúng hoang mang. Bầu trời bỗng tối đen như mực, và Charlie tự hỏi có phải các vị tổ tiên ấy mang theo màn đêm để làm nổi bật vầng sáng chói lọi của họ không.


Tiếng trống dồn dập hơn và đám trẻ theo dõi cũng dí sát mặt vào cửa sổ hơn, chờ những hồn thiêng hiện ra. Thêm nhiều tờ lời thề nữa bị mất tập trung. Chúng bay lều phều khỏi Lysander và trôi vô định lên trời.
Một màn sương vàng chóa bỗng vắt ngang qua bóng tối, và Lysander ngẩng đầu lên khi tờ lời thề cuối cùng từ bỏ cuộc tấn công, bay lên lờ phờ, bất định trên đầu nó. Những hình thù kỳ dị bắt đầu định hình giữa màn sương: những thân hình cao lớn, mặc áo chùng trắng, những bàn tay vẫn chưa lộ ra, cho đến khi, cùng với một tiếng trống đột ngột, mỗi thân hình giương ra một món vũ khí sáng lóa. Thương, giáo, gươm, rìu giơ lên, cùng với một tiếng ngâm nga huyền bí hay lãng đãng trong không trung.


Cảm thấy cái chết đang cận kề, bọn lời thề tấn công kẻ thù bằng nỗi điên giận hung tàn. Nhưng lần lượt, bọn giấy bị chém vụn. Những cạnh sắc xanh lá cây lóe lên một cái thiệt mau, rồi tắt lịm, cùng lúc những lời thề biến thành những tờ tro. Vài tờ trong số chúng, cố thoát được, bay bổng lên bầu trời đen kịt. Nhưng những hồn thiêng cũng bay được, và mỗi cú đào thoát đều bị cắt đứt bằng một nhát gươm sáng chói hoặc một mũi giáo lóe rực.
“Giống pháo bông quá, nhỉ?” Billy nói với giọng trầm trồ.
Charlie và Tancred phải công nhận.


Không ai có thể nói chắc chắn cuộc chiến đã kéo dài bao lâu, bởi vì thời gian dường như níu hơi thở lại, cho đến khi màn sương chói lòa bắt đầu mờ đi, và hình thù cuối cùng biến mất.


Chính bầu không khí yên lặng thuyết phục Charlie rằng bọn chúng đã được an toàn. Tiếng trống đã ngưng và những tiếng xè xè điên cuồng của đám giấy cũng đã dứt. Lysander nhảy cỡn lên không, hét lên chiến thắng.
“Chúng chết rồi, chuồn rồi, các chàng trại. Ra đây!”
Charlie mở cửa chòi, hơi sờ sợ. Những đám mây xám xịt đã bay đi. Nó ngỏng cổ nhìn bầu trời buổi sáng, điểm vài đường vân xanh da trời và vàng óng.
“Ra mau lên!” Lysander giục giã.
Chúng chắc mẩm là mặt mũi Lysander sẽ chằng chịt thương tích, nhưng hóa ra nó hoàn toàn không sây sát gì. Những vết cắt trên mình cả bọn cũng mờ đi; ngay cả những vết thương trên mặt Billy cũng co lại, chỉ còn như những đường chỉ li ti đang biến đi thật nhanh.
“Thuốc hay quá chừng,” Tancred nói, đẩy Charlie một cái từ phía sau.
Khi Charlie loạng choạng bước ra ngoài, nó thấy trên sân đầy tro là tro. Lớp tro dày phải gần ba phân và lốp phốp dưới chân chúng.
“Bồ thành công rồi, Sander!” Tancred hét vang, chân đạp lên lớp vụn giấy chết xám xịt.
Cánh cửa sau của gia đình Silk bật mở, và cùng một tiếng hét vang trời, Gabriel ùa ra nhập bọn. Bốn thằng bé chạy quanh sân, đá tung đám tro lên trời và cười ngặt nghẽo. Niềm khoan khoái của Charlie lớn đến độ nó không thể thở được và tiếng cười của nó xen lẫn những pha nấc cụt.
Những cơn nấc cụt chợt dứt khi nó nhận thấy Billy, đang đứng chơ vơ một mình trong cửa chuồng chuột. Thằng bé mỉm cười, nhưng đôi mắt to màu đỏ của nó trông vẫn sợ hãi như hồi nãy, khi những tờ lời thề lao bắn vào người.
“Chuyện gì vậy, Billy?” Charlie nói.
Từ từ, tiếng cười ngưng dẫn, và Charlie cùng mấy anh lớn bước lại chỗ thằng bé bạch tạng.
“Giờ em thoát rồi đấy, Billy,” Tancred nói, nhưng ngay cả khi nói thế, thì nó và tất cả bọn kia đều nhận thấy là điều đó không đúng.
“Em sẽ đi đâu bây giờ?” Billy nhướn ánh mắt khổ sở lên nhìn bốn anh lớn.
Câu hỏi của nó được trả lời, một cách tạm thời, bởi bà Silk. Bà gọi cả bọn vào ăn sáng.
Bầu không khí trong nhà Silk thật rộn ràng. Ba chị gái của Gabriel cứ lách chách luôn miệng, nói lía lia suốt bữa sáng ngon lành và tú hụ đó. Đám giấy bay đó là gì vậy? Ai đã đốt chúng vậy? Ai đánh trống vậy? Trận chiến trong sân bị một màn sương dày đặc che kín, và không ai trong nhà thấy được chuyện gì xảy ra. Họ chỉ biết là sẽ rất nguy hiểm nuế cứ liều ra ngoài.
Ông Silk, đang viết lia viết lịa vào một cuốn sổ lớn, cuối cùng cũng ngơi tay và quát:
“Im lặng, các cô nương! Không sao suy nghĩ được!”
“Nhưng nó là cái gì vậy?” April, cô em út, khăng khăng hỏi.
“Đó là một hiện tượng mà không việc gì phải bàn tới cả,” ông bố nói. “Đến bạn thân nhất của con cũng không nên nói.”
“Nó có dính líu gì tới quái tật của Gabriel không ạ?” Mai, người chị giữa, hỏi.
“Em đã nói hoài với chị trước giờ rồi, đừng có gọi đó là quái tật của em!” Gabriel hét tướng lên. Nó không hòa thuận với Mai cho lắm.
Charlie tự hỏi làm thế nào mà bà Silk vẫn phân phát được cái bữa sáng đã nấu rất hoàn hảo và vẫn luôn rót trà được chính xác đến đúng cái vệt màu nâu trong tách. Bà lượn quanh bếp, khẽ ngâm nga hát và mỉm cười một mình, và Charlie kết luận chắc bà đã phải thở phào nhẹ nhõm lắm nên giời trông mới vui sướng được như vậy. Phải chịu cảnh những lời thề khát máu và những hồn thiêng cổ xưa đánh nhau tong sân sau chắc hẳn chẳng dễ chịu chút nào.
Tancred, nghiến ngấu phần ăn sáng của mình với một thời gian kỷ lục, hỏi thế còn mớ đồ ăn bị rớt xuống bùn thì sao.
Bà Silk ngạc nhiên ngước lên, và June, cô chị cả trong số các chị Gabriel, đáp:
“Em không muốn ăn nó đấy chứ?”
Lũ bạn của Tancred hồi hộp chờ câu trả lời của nó, nhưng trước khi nó kịp mở miệng, thì bà Silk đã nói chắc nịch:
“Đàn gà sẽ giải quyết tất.”
Lũ gà đã chạy trốn ngay khi bọn lời thề xuất hiện, nhưng giờ qua cửa sổ, đã thấy chúng hớn hở tới đám tro tàn. Gabriel sức nhớ ra lũ chuột của mình và liền phóng vù đi để bảo đảm chúng đã phục hồi sau cuộc tấn công vào chuồng. Nó trở lại và thông báo rằng tất cả đều khỏe, ngoại trừ con Rita, con chuột cưng nhất của nó, không đẻ nhiều chuột con như lúc trước nó đếm sơ.
Tin này khiến Lysander nhảy dựng khỏi bàn, kêu lên:
“Mẹ! Mẹ sắp sinh!”
“Hôm nay à?” Bà Silk nói, phút lo lắng khiến bà rót nhầm trà vào bình sữa.
“Ồ không, cũng còn lâu,” Lysander trấn an bà. “Nhưng ba cháu đi vắng và mẹ cháu cái gì cũng hay lo.”
“Dĩ nhiên rồi,” bà Silk nhất trí. “Cháu nên chạy về nhà đi, Lysander. Ngay bây giờ!”
Lysander vẫy mọi người một cái vui vẻ và vụt biến đi:
“Gặp lại nhe, mấy bồ!”
Charlie luôn cảm thấy an tâm mỗi khi có Lysander bên cạnh. Giờ Lysander về rồi, đúng lúc cả bọn đang cần sự có mặt và lời khuyên của anh ấy nhất. Tancred là một đồng minh mạnh mẽ, dĩ nhiên rồi, nhưng tính khí cậu bé bão tố này không biết đâu mà lần. Cần phải đưa ra một quyết định về vụ Billy. Nhà của gia đình Silk sẽ không còn an toàn nổi với mụ Florence hoặc gia đình Bloor nữa.
Điện thoại reng trong hành lang và bà Silk ra nhấc máy.
“Charlie, mẹ cháu gọi.”
Charlie chạy vào hành lang và cầm ống nghe lên:
“Chào mẹ”!
“Charlie, có chuyện gì vậy con?” Giọng bên kia nói. “Gabriel gặp rắc rối hả? Con có về để…”
“Bình tĩnh, mẹ,” Charlie cứng cỏi. “Con ổn mà. Nhưng Billy hơi có chuyện một chút và tụi con đang bàn cách giải quyết. Nó chạy trốn.”
“Chạy trốn?” Tin tức của Charlie chẳng làm mẹ nó an tâm một tí xíu nào. “Nhưng mà Charlie…”
“Con chưa thể về ngay được. Con không biết việc này sẽ mất bao lâu nữa.”
“Thế phải mất bao lâu?”
“Mẹ cứ kể hết chuyện xảy ra cho Ông cậu Paton nghe, được không mẹ? Mẹ đừng lo lắng mà. Con không sao mà. Thiệt đấy.”
Khi Charlie đặt lại ống ngeh xuống, nó để ý thấy một con bướm trắng đậu trên tay áo nó. Con bướm xòe đôi cánh ra, để lộ đầu cánh óng ánh bạc.
“Lại mày nữa,” Charlie nói.
Con bướm bay đi nhưng Charlie không kịp thấy nó đi đâu. Charlie trở lại nhà bếp.
“Cháu nghĩ cháu và Billy cần phẩn đi bây giờ,” nó nói với bà Silk. “Cám ơn bác, bữa sáng ngon tuyệt.”


Bà Silk đáp là bà sẽ rất vui nếu được đón tiếp Charlie, nhưng bà muốn biết chính xác nó và Billy định đi đâu. Charlie cũng đang tự hỏi điều này và nó không biết phải trả lời bà như thế nào.
“Tụi nó sẽ đi về nhà cùng với cháu,” Tancred tuyên bố.
Nó đứng lên đột ngột đến nỗi một làn gió thổi tung khăn trải bàn, khiến những hạt đường và vụn bánh mì bay tốc lên không. Ba cô chị của Gabriel khoái chí vỗ tay rần rần. Chúng nài nỉ Tancred làm lại lần nữa, nhưng Tancred cười bẽn lẽn, nói nó không thể “cứ muốn là làm” được, và thế là một luồng gió gắt lùa dao, nĩa, dĩa, tô va vào nhau lách cách.
Đến lúc này thì bà Silk bắt đầu lo lắng:
“Nếu Billy bị ngược đãi thì phải báo cho ai đó biết chớ,” bà nói. “Cảnh sát… hay… hay những tổ chức xã hội chẳng hạn.”
Bà quay qua Billy:
“Có lẽ con nển trở lại Học viện, Billy. Ít ra thì ở đó con sẽ an toàn.”
“Kh… Không!” Billy lắc đầu nguầy nguậy.
“Cứ để nó đi,” ông Silk khuyên vợ. “Chắc chắn nó sẽ an toàn ở Ngôi Nhà Sấm.”


Tancred và cha nó, cả hai đều là những người tạo được bão, và quanh ngôi nhà ấy luôn có gió gào sấm nổ sét đánh. Chắc chắn đó là nơi an toàn nhất trong thành phố vào lúc này, và Charlie nhẹ cả người vì Tancred đã ra một quyết định cho một việc vượt quá tầm của Charlie.
“Ông cậu Paton của cháu sẽ giải thích vì sao Billy không thể quay lại,” nó nói với gia đình Silk.
Cả gia đình dồn ra ngưỡng cửa để nhìn ba thằng bé đi khỏi. Trông như thể chúng đi nghỉ mát hơn là đi tìm chỗ trốn.
Khi ra tới cổng, Billy thình lình quanh lại và hỏi:
“Chuyện gì xảy ra với những con mèo vậy?”
"Mèo nào, cưng? Bác chả thấy con mèo nào cả,” bà Silk đáp.
“Ồ, chắc là bọn chúng về nhà rồi,” Billy buồn bã nói.


Tới lúc bắt đầu bước lên đoạn đồi dài, thì Billy mệt lả vì cuộc chạy hồi sáng sớm. Hai đứa kia cứ phải ngừng lại trong khi Billy lê lết bước theo, thở khò khà khò khè. Cuối cùng Tancred bảo Billy leo lên lưng cho nó cõng, và nó cõng thằng bé đi suốt con đường mấp mô quanh co dẫn lên khu rừng trên đỉnh đồi.


Charlie buông một tiếng thở dài nhẹ nhõm khi cánh cổng nhà Tancred hiện ra trong tầm mắt. Có hai tấm biển đóng vào cổng. Một tấm ghi NGÔI NHÀ SẤM và tấm kia đề COI CHỪNG THỜI TIẾT. Khi chúng lê được gần đến cổng, Charlie bỗng nghe thấy có tiếng vó ngựa. Nó cố lờ âm thanh đó đi; nhưng khi không thể chịu đựng sự căng thẳng lâu thêm được nữa, nó nhìn lại. Con đường vắng tanh, nhưng tiếng vó ngựa càng lúc càng lớn hơn.


Tancred quay lại, và Billy ngó qua vai Tancred, nói:
“Lại con ngựa ma nữa. Nó theo tụi mình.”
Charlie thét lên thất hồn và cắm cổ chạy về phía cổng. Nó không thèm tháo chốt cổng, cứ thể quăng mình phóng qua và rớt xuống lối đi rải đá ở phía bên kia cánh cổng.
“Cái gì ám em vậy, Charlie?” Tancred gọi.
“Đó là Borlath!” Charlie lắp bắp. “Nó đuổi theo em. Lẹ lên, hai người. Làm ơn đi!”


Billy tuột khỏi lưng Tancred và bắt đầu leo qua cánh cổng.
“Em không nghĩ nó sẽ làm anh đau đâu!” Thằng bé hét lên.
“Em biết nhiều quá nhỉ!” Charlie la lên. Nó bắt đầu chạy dọc lối đi.
Một tiếng hí hoang dã, chói óc làm rung màng nhĩ Charlie. Con ngựa chắc hẳn đã tông đổ cánh cổng bởi vì Charlie đã nghe tiếng vó ngựa nện trên nền đất ngay sau lưng nó.
“Chạy vào rừng!” Tancred gọi. “Nó không thể bắt được em ở đó. It nhất thì bắt cũng không dễ.”
Charlie lốc thốc chạy khỏi con đường nhỏ.
“Nó là ngựa ma,” Charlie rền rĩ. “Nó sẽ tìm ra em ở bất cứ nơi đâu.”
Charlie liêu xiêu chạy vào một tàn cây và dựa lưng vào một thân cây lớn, cố lấy lại hơi.


Một sự thinh lặng chết chóc bao trùm khắp khu rừng. Gió đã tắt và mọi cành lá cọng cỏ đều im phắc. Charlie nhắm mắt lại. Có lẽ nó đã an toàn. Nó bắt đầu nghe thấy tiếng Tancred và Billy lê bước qua những bụi cây về phía nó. Một luồng gió ấm áp thổi sượt qua má nó. Hơi thở chăng? Một cái gì đó ươn ướt và bờm xờm chạm vào tai nó.


Một tiếng rền sâu dội khắp toàn thân Charlie và nó đổ gục xuống đất.
 
Charlie nhìn lên hai khuôn mặt lo âu.
“Ê, Charlie. Anh nghĩ là em xỉu,” Tancred nói.
“Em á?” Charlie ráng đứng thẳng lên.
"Chuyện gì xảy ra vậy?” Billy hỏi, nhíu mày lo sợ.
“Con ngựa,” Charlie nói khàn khàn. “Nó ở ngay tại đây, thở khì vô mặt anh. Thiệt kinh khủng.”
“Ừm, chạm trán thế mà em không sao cả nhỉ,” Tancred vừa nói vửa cười vang. “Em thét lên như thế, chắc cái con tôi nghiệp ấy phải sợ chết khiếp.”


Charlie không nhớ là nó đã la hét. Quanh nó, khu rừng xào xạc và có một tiếng sấm mơ hồ nổ trên đầu.
“Có một con bướm trên đầu anh,” Billy quan sát, nhìn chong chonh vào cái đầu rối bù của Charlie. “Nó có bạc dát trên hai cánh.”
“Thiệt không?” Charlie đưa tay lên đầu, nhưng con bướm trắng đã bay vụt vào khoảng tối.
“Nào, tụi mình đi thôi,” Tancred nói, vẻ sốt ruột. “Tụi mình sẽ men theo rừng cây, đề phòng cái mụ de Grey đó mò tới kiếm Billy.”
“Hoặc nhà Bloor,” Billy thêm. “Em có thể ở nhà anh lâu lâu được không, anh Tancred?”
“Em muốn lâu chừng nào cũng được,” Tancred nói, nổi gió hiu hiu. “Mẹ anh sẽ mừng lắm. Đi nào, mười phút nữa và tụi mình sẽ ở nhà.”


Chúng bắt đầu đi xuyên qua rừng, theo lối mòn mà bầy cừu gặm cỏ trên sườn đồi hay qua lại. Tancred dẫn đầu, trong khi Charlie đi sau chót. Charlie bắt đầu nghĩ miên man, tiếp theo nữa Billy sẽ đi đâu. Câu hỏi không lời ấy treo lơ lửng trên không cho đến khi một giải pháp lạ lùng bật ra.
“Lúc nào cũng còn Lâu đài Gương,” Charlie nói, gần như cho mình mình nghe.
“Cái gì?” Billy đứng sựng lại.
“Em thuộc về lâu đài đó. Lâu đài đó là của em, Billy à.”
“Bà bếp trưởng nói với em Lâu đài Gương là của gia đình em,” Billy thủng thỉnh nói. “Anh nghĩ em có thể sống ở đó cho đến khi em lớn à?”
“Tại sao không? Có thể em sẽ sống ở đó an toàn, mãi mãi,” Charlie nói.
Tancred quát:
“Đi lẹ lên, hai đứa!”


Billy và Charlie chạy rượt theo Tancred. Khi chúng đến gần Ngôi Nhà Sấm, cơn gió nhẹ biến thành một luồng gió mạnh và sấm nổi dữ hơn.
“Ba anh đang vui vẻ,” Tancred nói.


Nụ cười của Charlie bỗng đông cứng lại. Một hình thù khổng lồ vô hình phi nước kiệu sượt qua nó. Nó có thể cảm nhận được trọng lượng và sức mạnh của con ngựa khi con ngựa nện thịch thịch xuống mặt đất. Hai đứa kia bao giờ cũng đã nhận ra. Cả bọn co cụm lại với nhau trong khi con ngựa ma bắt đầu lượn vòng quanh chúng, vừa hí và thở khò khè vừa xà quần xà quần quanh đám trẻ.


Lá cây trút ào ào khỏi cành khi sinh vật đó đứng lên trên hai chân sau. Chúng thấy hai chân trước của sinh vật hươ hươ trên không, và Charlie nghĩ bụng: những móng guốc đó có thể bổ xuống đầu nó bất cứ lúc nào, và khi đó sẽ không còn thằng Charlie Bone nữa.


Thế rồi, Billy Raven làm một việc hoàn toàn bất ngờ. Nó rời khỏi lối mòn và bước về phía con ngựa ma, miệng lầm rầm êm ái.
“Nó điên rồi,” Tancred bắt chặt lấy vai Charlie.
“Quá đúng,” Charlie thì thào.
Đành rằng Billy biết cách giao tiếp với thú vật, nhưng làm sao mà nó có thể nói chuyện được với một quái vật như Borlath chứ?
Một lần nữa tiếng sấm im bặt và cây cối im phăng phắc. Một tiếng hí êm, dài, rồi thinh lặng. Và trong quãng lặng im ấy, Billy quỳ thụp gối xuống, cúi đầu.
“Cái gì…?” Giọng Tancred vỡ ra kinh hãi.
“Suỵt!” Charlie túm lấy áo gió của Tancred.


Con bướm trắng lại xuất hiện và giờ nó bay chập chờn cách Billy một chút; chóp đôi cánh bạc nhấp nháy của nó quạt lẹ đến nỗi dường như đang vẽ nên một hình thù trên không. Cái hình thù đó đậm nét dần và một vật to lớn bắt đầu hiện ra bên dưới đôi cánh bạc dập dờn một con ngựa trắng, cao, với cái đầu kiêu hãnh và cái bờm dài rủ xuống.
Charlie há hốc miệng và quay lưng đi, kéo theo Tancred.
“Trông nó đâu có hung dữ,” Tancred nói khẽ vào tai Charlie.
“Đúng rồi,” Billy nói.
“Sao em biết?” Charlie chất vấn. “Nó nói với em à?”
“Phải.” Billy ngoái đầu lại và cười với hai thằng lớn. “Không sao đâu, thiệt đấy. Nó… bà ấy là Hoàng hậu.”
“HOÀNG HẬU?” Cả Tancred và Charlie thốt lên.
“Hoàng hậu Berenice,” Billy nói với chúng. “Bà là vợ của Vua Đỏ.”
“Ý em là…”


Tâm trí Charlie quay mòng mòng. Nó cố nhớ lại những gì Manfred đã nói về cuộc thí nghiệm: một bia mộ khắc chữ B. Những khúc xương ngựa chôn bên dưới ngôi mộ, và trái tim trong một cái tráp.
“Không phải Borlath,” Charlie lập bập, “mà là Berenice.”
Một nụ cười toét chạy ngang mặt, và nó dịch lại gần Billy hơn:
“Cái lão gì ngớ ngẩn đó lại sai nữa rồi.”
Tancred, thận trọng đi theo, hỏi:
“Làm sao bà ấy tới đây được?”
“lão Ezekiel đã làm cho bà sống lại. Đó không phải là trái tim của Borlath, mà là trái tim của Hoàng hậu. Hoàng hậu Berenice.”
Giờ chúng đã đứng ngay sau lưng Billy, thằng bé đang thư thả đứng lên.
“Bà đi theo tụi mình,” Billy nói. “Bà nói chúng ta là những đứa con của bà và bà muốn bảo vệ chúng ta. Có ai đó đã mang bà đến đây từ Thế Giới Khác, nhưng linh hồn bà cứ nhạt dần, lôi bà quay về, cho tới khi cây gậy phép của anh làm bà ổn định lại.”
“Cây gậy phép của anh?” Charlie ngỡ ngàng. “Anh nghĩ Manfred hủy mất nó rồi chứ, nhưng mà…”
Nó nhìn con bướm trắng, đôi cánh của con bướm trông chỉ như một đốm sáng nhỏ xíu ở giữa hai tai con ngựa.
“Người ta nói gậy phép thường có thể mang nhiều hình dạng khác nhau khi cần,” Tancred nói.
“Ồ,” Charlie chớp mắt. Hóa ra Tancred hiểu biết hơn Charlie tưởng.
Con ngựa bắt đầu rừ rừ, lần này thiệt nẹh, nhưng tạo nên một chuỗi âm thanh gần giống như tiếng người. Billy chăm chú lắng nghe, và khi cuối cùng con ngựa im lặng, nó nói với bọn kia:
“Bà nghe tụi mình nói chuyện về Lâu đài Gương và chuyện đó làm bà hoảng sợ. Bà đã trông thấy hòn đảo có tòa lâu đài xây trên đó, và bà biết chuyện gì đã xảy ra ở đó.”
“Vậy là bà ấy biết nó ở đâu,” Charlie tư lự nói.
“Em cũng nghĩ vậy,” rõ ràng là Billy không biết chút gì hết về lịch sử bi thảm của tòa lâu đài này.
“Charlie, làm ơn nói với anh là em sẽ không làm điều mà anh nghĩ em sẽ làm đi,” Tancred van vỉ.
Charlie cười toét:
“Đó chỉ là một ý nghĩ thôi mà.”


Nhưng ý nghĩ đó đang lớn dần lên.
Ba thằng bé đứng ngây như tượng, rối bời, và ngó sinh vật uy nghi đang rứt cỏ. Thiệt khó mà tin rằng đó là Hoàng hậu, cách đây gần một ngàn năm. Lão Ezekiel đã phạm sai lầm, nhưng dẫu sao việc lão làm được cũng thiệt kỳ diệu. Lão vẫn là một phù thủy hùng mạnh và chẳng bao lâu nữa lão sẽ lần ra Billy và điệu cổ thằng bé về lại Học viện Bloor, trừ phi… Ý nghĩ trong đầu Charlie loang dần thành một kế hoạch. Và kế hoạch đó, không hiểu sao, lại trở thành một đáp án duy nhất. Tận đáy lòng, Charlie biết, trong tâm trí nó, tìm ra cha nó chính là việc ưu tiên, đứng thứ nhì mới là sự an toàn của Billy.
“Hỏi xem bà có đưa tụi mình tới hòn đảo được không?” Charlie bảo Billy.
“Charlie!” Tancred phản đối. “Em không đi được đâu!”
“Em nghĩ chúng ta cần phải đi.”
Billy hăm hở thực hiện. Nó quỳ gối xuống lần nữa và bắt đầu rì rầm dịu dàng với con ngựa. Con ngựa ngẩng đầu lên, đôi tai vểnh ngược ra sau và cặp mắt to trợn tròn, sợ hãi.
“Bà không thích ý kiến đó,” Billy thì thào.
“Nói cho ba biết về ba anh đi,” Charlie giục. “Nói cho bà biết em phải kiếm được một chỗ an toàn.”


Billy lại bắt đầu, và lần này có pha thêm một tiếng hí ai oán vào trong ngôn ngữ của nó.


Bất thình lình, con ngựa nhấc hai chân trước lên; bật ra một tiếng kêu hoảng hốt, và lao nhanh qua rừng cây. Bọn trẻ căng tai nghe tiếng vó ngựa nện rầm rập cho đến khi biến mất hẳn, và âm thanh duy nhất chúng nghe được là tiếng sấm và tiếng gió luồn qua những hàng cây.
“Thế là xong,” Tancred nói. “Tụi mình đi tiếp về nhà anh đi.”
“Không,” Charlie nói. “Bà ấy sẽ quay trở lại.”
“Em giỡn hả? Con ngựa đó là một con vật sợ sệt, Charlie. Nó sẽ không bao giờ đưa em tới Lâu đài Gương đâu.”
“Bà ấy sẽ đưa,” Charlie bướng bỉnh. “Bà ấy nghĩ chúng ta những đứa con của bà. Bà sẽ bảo vệ chúng ta.”
Billy không thích tranh cãi với những anh chàng kiểu như Tancred, nhưng sau khi hết liếc cậu bé bão tố lại nhìn sang Charlie, nó rụt rè nói:
“Em nghĩ anh Charlie nói đúng.”
“Vậy thì cứ việc,” Tancred nói. “Nhưng tôi đi đây.”
Khi đùng đùng bỏ đi, nó nói với lại:
“Anh sẽ mang một ít đồ ăn cho mấy đứa, nếu tụi bay vẫn còn ở đó, mà anh nghĩ là sẽ còn ở đó.”
“Anh có nghĩ là anh Tancred đúng không?” Billy hỏi Charlie.
“Không,” Charlie ngồi xuống và duỗi thẳng người, dựa cho thoải mái vào một thân cây to.
Một tiếng sấm nổ vang, theo sau là một cơn mưa rào bất chợt, và Billy nép sáp lại bên cạnh Charlie.
“Anh Tancred nổi cáu,” Billy nói.
“Anh ấy sẽ nguôi bây giờ ấy mà,” Charlie bảo thằng bé.


Nhưng tuy vậy, bão càng lúc càng mạnh hơn. Gió réo ù ù qua những lùm cây, tuốt cho lá và cành khô rớt xao xác xuống những bụi cây thấp. Những cây tầm ma, những bụi mâm xôi và cỏ khô trốc rễ bay vèo vèo quanh Charlie và Billy khi chúng núp chùm nhum dưới cây sồi lớn, giơ cánh tay lên chống đỗ. Sau chừng nhiều giờ đồng hồ giã đập, thời tiết dịu xuống, hai thằng bé lăn ra ngủ thiếp đi, kiệt sức vì buổi sáng dị kỳ.
Charlie tỉnh giấc, thấy Tancred đang sải bước về phía nó với một cái khay lớn:
“Anh biết hai đứa vẫn còn ở đây mà,” Tancred nói, đặt cái khay xuống bên cạnh thân cây. Charlie dòm những dĩa thịt gà quay, rau và nước sốt, cùng ba chén bánh mứt mận và kem sữa trứng. Bữa điểm tâm của bà Silk dường như đã cách xa nhiều giờ rồi, và mùi thơm của bữa tiệc trước mặt đủ để cho một thằng bé đói meo reo lên sung sướng. Tiếng reo của Charlie đánh thức Billy dậy, thằng nhóc trượt nghiêng người vào đám cỏ.
“Lúc nãy có bão,” Charlie nói khẽ lúc ngoạm cái đùi gà.
“Xin lỗi. Ba anh với anh tranh luận với nhau,” Tancred nói. “Ông ấy bảo hai đứa em đáng lý ra phải ăn trên bàn hẳn hoi, chứ không phải chui nhủi trong rừng như những kẻ đào tẩu. Anh mới bảo là anh sẽ không cùng ăn với ba nếu ông ấy cứ như thế. Ba anh suýt nữa thì nổi điên, nhưng mẹ anh bảo bọn con trai lúc nào mà chẳng là bọn con trai, mẹ nhắc lại là ba và mẹ cũng từng ăn nhậu trong rừng vào hồi trẻ trung xa xưa. Nghe vậy ba anh mới bình tĩnh trở lại.”
Khi tất cả những dĩa với tô đều đã được vét sạch sẽ, Tancred hỏi Charlie và Billy đã sẵn sàng về nhà với nó hay chưa.
“Coi bộ rõ mười mươi là con ngựa sẽ không quay lại,” nó nói. “Bà ấy chắc chắn đã phi nước đại qua Thế Giới Khác rồi.”
Charlie liếm mẩu đồ ăn cuối cùng còn dính trên mấy ngón tay, đáp:
“Không. Bà ấy sẽ trở lại.”
“Lạy trời, em thật ngang ngạnh, Charlie Bone,” Tancred nói rồi đứng lên. Nhưng lần này nó có vẻ kiềm chế được cơn tức giận hơn:
“Anh phải làm gì với em đây?”
“Gọi điện cho Ông cậu Paton của em,” Charlie bảo nó. “Gọi và giải thích chuyện gì đã xảy ra. Tất cả mọi chuyện. Và nói đêm nay em sẽ ở nhà anh, để cho mẹ em khỏi lo lắng.”
“Anh sẽ cố hết sức. Nhưng sẩm tối anh sẽ trở lại, và nếu hai đứa vẫn còn ở đây, thì anh sẽ lôi cả hai về Ngôi Nhà Sấm, bất kể em có nói gì đi chăng nữa. Hai đứa không thể ở trong rừng suốt đêm được.”
“Đúng vậy,” Billy lạc cả giọng. “Bởi vì Asa Pike sẽ xuất hiện.”
Charlie đã quên béng Asa.
“Tụi em sẽ không ở đây đâu,” nó nói chắc chắn. “Hoàng hậu sẽ quay lại mà.”
"Thôi được. Cứ để coi.”
Đặt thăng bằng cái khay lên chỏm tóc vàng tua tủa, Tancred nhảy tưng tưng qua những hàng cây, và Billy phì cười thực sự, lần đầu tiên trong ngày hôm ấy.
Trong một vài giờ tiếp theo đó, hai thằng bé chơi trò trốn tìm, đuổi theo lá, leo cây và ngủ gà ngủ gật. Nhưng khi những bóng râm cứ kèo dài ra, thì trái tim Charlie bắt đầu thắt lại. Nó nhận ra mình đã hy vọng quá nhiều. Nó đã mong chờ cái gì? Một mối quan hệ gia đình mơ hồ truyền hời hợt qua những thế hệ suốt một ngàn năm chăng?
Chúng ta vẫn là Hậu Duệ của Vua Đỏ, Charlie nghĩ một cách tuyệt vọng, vì vậy chúng ta cũng vẫn là con cháu của Hoàng hậu.
Với Billy, nỗi thất vọng cuối cùng đâm ra quá sức chịu đựng. Nó gục xuống lối mòn, khóc lóc:
“Bà ấy sẽ không đến, đúng không?”
Charlie chỉ còn biết nhún vai:
“Nhưng bà ấy có cây gậy phép của anh,” nó nói, cố làm cho tình hình sáng sủa lên. “Nếu cây gậy đúng là con bướm trắng đó.”
Lúc này màn đêm buông xuống rất nhanh. Khu rừng trở nên ướt át, lạnh buốt, và Charlie biết nó sẽ cần phải ra một quyết định. Khi nhìn thấy cái đầu sáng nhạt của Tancred thấp thoáng đàng xa, nó nói:
“Thôi được, anh Tancred. Tụi em sẽ đi theo anh.”
Billy nhổm bật dậy, vui mừng vì cuối cùng nó cũng được rời khỏi khu rừng tối. Nhưng Tancred đột nhiên ngừng lại và nói bằng giọng thì thào:
“Charlie… sau lưng em kìa!”
Charlie quay lại, rất chậm rãi, trong bụng nghĩ sẽ nhìn thấy một hình thù giống như chó sói mà Asa thường biến thành khi đêm đến. Nhưng không phải Asa. Mà là Hoàng hậu.
“Bà ấy trở lại,” Billy nín thở.
Bộ lông của con ngựa trắng sáng óng ánh trong màn đêm. Bà đứng đối diện với bọn chúng, chân bà tấn chắc xuống đất, cái đầu kiêu hãnh của bà nghiêng nhẹ để nhìn chúng bằng một con mắt đen, to. Charlie vui mừng thấy trên mái bờm dài của bà, lấp lánh đậu một con bướm trắng.
“Nói chuyện với bà ấy nữa đi, Billy,” Charlie lẳng lặng bảo. “Nói với bà là chúng ta cần bà như thế nào đi.”
Billy tiến đến chỗ con ngựa, và quỳ một gối xuống, nó kể lại hai câu chuyện của chúng bằng chuỗi âm thanh ậm ừ, ngâm nga mê ly. Câu chuyện về ba mẹ đã chết của nó và cuội đời cô đơn của nó, câu chuyện về người cha bị mất tích của Charlie. Và, khi thằng bé bạch tạng nói, Charlie ngắm gương mặt của con ngựa. Nó chắc chắn đã trông thấy một giọt nước mắt rỏ xuống từ con mắt nâu sáng của con ngựa.
Khi Billy đưa ra lời khẩn nài yếu ớt cuối cùng, con ngựa hạ thấp đầu xuống và hí lên khe khẽ.
Billy quay sang Charlie:
“Bà đồng ý rồi. Bà nói nỗi sợ của bà sẽ là vô lý khi đem so với niềm hạnh phúc của tụi mình.”
Charlie bật ngửa ra sau:
“Bà nói vậy à?” Và nó nhìn con ngựa, tự hỏi làm thế nào mà nó với Billy có thể leo lên lưng ngựa, và một điều nữa, làm thế nào mà chúng ngồi vững được.
Thật đáng ngạc nhiên, Tancred đã nghĩ ra từ trước. Khi Tancred đi tới trảng trống, Charlie thấy cậu ta đang cầm một bộ yên cương lớn và vài sợi dây da.
“Của ba anh đó,” Tancred bảo. “Ông đã từng cưỡi những cơn bão. Cưỡi bằng cách nào thì anh chịu.”
“Rốt cuộc thì chính anh cũng tin là bà sẽ quay lại, đúng không?” Charlie nói.
“Anh nghĩ nếu bà quay lại thì hai đứa không thể phi nước đại mà không có những thứ này,” Tancred nói, cười tươi rói.
Con ngựa trắng để cho chúng lắp yên cương lên mình, trợ giúp chúng bằng mọi cách, và khi việc đã xong, Tancred đỡ Charlie leo lên lưng ngựa, và rồi đến Billy, ngồi ép sát phía sau Charlie, ôm chặt cứng quanh eo nó.
“Xong rồi hả?” Charlie nói, gần như không tin nổi chuyện sắp xảy ra. “Tạm biệt, Tancred. Và cảm ơn anh.”
“Chúc may mắn,” Tancred nói, giọng cộc lốc của nó không thể che giấu được nỗi bất an.
Con ngựa bắt đầu thong thả qua rừng cây, nhưng khi nó tăng tốc, Charlie hét lên:
“Tancred, anh nói chuyện với Ông cậu em chưa?”
"Ông ấy không có ở đó. Anh đã nói với mẹ em là em ở nhà anh đêm nay.”
“Anh phải nói với Ông cậu em. Thề với em là anh sẽ nói đi, Tancred.”
“Anh thề!” Tancred hét vang. Nó chờ cho con ngựa trắng khuất khỏi tầm mắt, và rồi nó chạy về nhà.
Màn đêm ập xuống thật nhanh. Và Tancred trông thấy một con thú xám núp thò lõ trong bụi rậm, ngóng nhìn và dỏng nghe.
Trong một giây, Charlie tự hỏi, phải chăng mình nên suy nghĩ kỹ hơn một chút trước khi nhảy vào màn đêm – hoặc trước khi nhảy lên lưng ngựa như thế này. Nhưng bản tính của nó vốn không phải là đứa nhây nhưa gặm nhấm những lỗi lầm của quá khứ, vì vậy nó nắm chặt dây cương và chuẩn bị thưởng thức chuyến rong ruổi của đời mình.
Khi đã ra khỏi khu rừng, con ngựa đi cặp mé một lối đi hẹp dẫn lên đỉnh Khu Đồi Cao. Từ đây, thành phố trải ra trước mắt bà như một chòm sao xa xăm. Vua Đỏ và Hoàng hậu xưa vẫn hay cưỡi ngựa lên ngọn đồi này, và bà biết chính xác lâu đài của họ nằm đâu. Thậm chí trong Thế Giới Mới rực ánh đèn và tiếng ồn này, với những tòa nhà cao nhấp nháy này, bà vẫn thấy những đường nét của những bức tường lâu đìa, đằng sau tòa nhà xám, đồ sộ đang trông giữ những hậu duệ khổ đau của bà.
Thành phố bị vùi dập vì quá khư đau thương. Hoàng hậu cảm nhận được điều đó khi bước đi trên đồi. Điều đó khiến bà ưu phiền, bởi vì bà đã từng sống rất nhiều năm hạnh phúc trong Lâu Đài Đỏ ấy.
Vài tháng trước khi người con thứ mười của bà ra đời, một dịch bệnh chết chóc đã quét qua đất nước. Hoàng hậu bị nhiễm bệnh, và mặc dù đã hết sức chống chỏi, nhưng bà yếu đến độ, khi đứa con gái là Amoret được sinh ra, Hoàng hậu đã biết bà sẽ không còn sống được nữa để bảo vệ đứa bé, cũng như một đứa khác, vốn là đứa dễ bị hai hơn trong đám con của bà. Nhưng giờ đây bà đã có lại được hai đứa trong bầy con, và bà sẽ sử dụng cuội đời mới lạ kỳ của mình để giúp đỡ những cậu bé dũng cảm này.
Gần một ngàn năm qua, Hoàng hậu Berenice sống trong mảnh đất chết – là Thế Giới Khác – và bước vào cuội đời mới này, bà mang theo mình những sức mạnh mà cả bà lẫn con ngựa yêu của bà không hề có suốt ngần ấy năm tháng. Những sức mạnh đó có thể giúp bà leo lên những vách đá dốc đứng, vượt qua những vực thẳm rộng nhất, và dễ dàng bay qua những đợt sóng sôi trào.
Họ bước đi dưới một mặt trăng tròn vành vạnh, và cứ thế, suốt quãng đường, họ bám men theo bờ biển, một lộ trình mà Hoàng hậu biết rất rành. Charlie nhận thấy nó và Billy đã có một cuộc sống huyền diệu vào đếm ấy. Chúng bước vào một thế giới thậm chí còn lạ lùng hơn cả những nơi mà Charlie từng thấy khi nó đi vào những bức tranh. Không có đường xá hay nhà cửa, không có đèn điện hay tiếng ồn: mảnh đất này cổ xưa, hoang dã và vắng vẻ.
Có vài lần Charlie ngủ gật, nhưng khi tỉnh giấc, nó thấy mình vẫn còn cưỡi trên mình ngựa, với cái đầu ngủ say của Billy tựa vào lưng, và con bướm trắng nhấp nháy phía trước. Nó nhận thấy con ngựa không hề ngừng nghỉ, không một lần, cho đến khi bà đi nước kiệu vào một cái vịnh rộng thênh thang, nơi bãi biển lấp lánh vỏ sò và cát bạc.
Con ngựa cất một tiếng hí êm, và Billy nói:
“Chúng ta đến rồi,”
“Ở đây à?”
Charlie nhìn ra xung quanh. Tất cả những gì nó có thể thấy chỉ là mặt biển loang loáng và bãi biển; sau lưng chúng là một vách đá cao vợi đâm thẳng vào màn đêm.
“Đằng kia kìa!” Billy tuột khỏi lưng ngựa và chạy về phía mép nước.
“Đó!” Nó chỉ.
“Anh không thấy gì cả.” Charlie rút chân ra khỏi bàn đạp và nhảy xuống bãi biển.
“Đâu?”
Nó dõi tìm đường chân trời tối đen và thấy, xa thật xa, một đốm sáng leo lét bí ẩn,tựa như ánh phản chiếu của những ngôi sao dưới nước.
“Anh nghĩ giờ anh thấy nó rồi,” Charlie nói.
Và nó tự hỏi, có phải ai đó trong lâu đài đằng xa ấy đang thắp nến hay không. Ba của nó, có lẽ thế.
Con ngựa hí lên một tiếng lớn, khẩn nài.
Billy nói:
“Bà bảo chúng ta bây giờ không được tới đó. Phải đợi đến khi trời sáng đã.”
Và chúng ta sẽ đến đó bằng cách nào? Charlie tự hỏi. Nhưng nó đã quá mệt, chẳng thể suy nghĩ thêm được nữa. Cơn buồn ngủ đè nặng trĩu hai mí mắt và chân cẳng nó sắp xuội đến nơi.
Chúng ngủ trong một cái hốc ấm cúng ở chân vách đá, và con ngựa đứng ngay bên cạnh, che chở cho chúng khỏi cơn gió đêm.
Chúng thức giấc, thấy bầu trời xanh thẳm và mặt biển trong vắt, tĩnh lặng. Nhưng hòn đảo đâu rồi? Đường chân trời đã chìm khuất trong làn sương mù. Bọn trẻ cởi vớ và tháo giày ra, xắn quần lên và lội xuống biển, không rời mắt khỏi màn sương đầy cám dỗ. Nước liếm tới đầu gối chúng và bao tử Charlie lộn lạo cả lên. Nó không thể không hy vọng là nếu nó tới được lâu đài ẩn hiện kia, thì ba nó thể nào cũng sẽ thết bọn nó một bữa sáng nóng hổi. Mà thôi, một bữa sáng nguội cũng được.
Nhưng đúng lúc đó, một việc không còn vẻ hứa hẹn nữa. Đốm lập lòe hồi đêm qua có thể là bất cứ cái gì: một con tàu đi ngang, một vì sao băng, một ảo giác? Bàn chân Charlie bắt đầu tê cứng. Nó lội trở lại bờ với Billy ì oạp đằng sau.
Chúng ngồi trên bãi biển vương đầy vỏ sò, lấy vớ lau những bàn chân ướt mem. Charlie sửng sốt khi thấy gương mặt Billy rạng ngời niềm vui sướng. Nó nghĩ nó nên cảnh báo thằng bé rằng tình thế này không hoàn toàn lạc quan đâu.
“Nếu lỡ tụi mình không bao giờ tìm được lâu đài ấy thì sao?” Charlie nói.
Billy vẫn không tắt nụ cười:
“Lâu lắm rồi em chưa được nhìn thấy biển. Thiệt tình là em cũng không nhớ nổi nữa.”
Charlie chẳng thấy hân hoan như vậy. Dù gì nó cũng cần phải kéo Billy trở lại với thực tại.
“Có lẽ tụi mình đến sai chỗ rồi.”
Nó liếc nhìn con ngựa trắng đang rứt những cọng cỏ trên vách đá và hạ thấp giọng:
“Ý anh là, lúc bà… bà còn sống, thì cũng đã cách đây gần một ngàn năm rồi. Rất có thể là bà đã lầm đường.”
“Em không nghĩ là bà lầm đường,” Billy xoa xoa mắt kiếng của nó và nheo mắt về phía biển.
Charlie ngước nhìn lên. Màn sương mù bắt đầu loãng đi, và kìa, trên mặt biển, một hòn đảo hiện ra. Một hòn đảo tuyệt đẹp, màu xanh da trời ở đằng xa, với một viền chóp sáng lóa. Một lâu đai thủy tinh sáng chói.
Trông thấy hòn đảo, tiếng kêu của con ngựa trắng bỗng nghe rất giống tiếng người. Bà phi trên mặt biển, những móng guốc hất tung những vỏ sò bay vụt lên không, lướt vù qua những tảng đá trồi lên và biến mất khỏi tầm mắt.


Nhưng bọn trẻ vẫn nghe thấy bà gọi, khi bà phi nước đại rời bãi biển.
“Bà nói sẽ không rời tụi mình đâu,” Billy nói. “Nhưng trái tim bà không cho phép bà nhìn hòn đảo nơi con cháu của bà đã chết. Ý bà là sao hả anh?”


Charlie quyết định đã đến lúc kể cho Billy nghe lịch sử thật của Lâu đài Gương. Nhưng liệu Billy có còn muốn tới đó không, một khi nó biết chuyện gì đã xảy ra với Hoàng tử Amadis?
 
“Cái gì! Hoàng hậu ?”
Manfred lùi lại để né bãi nước miếng to tướng của lão Ezekiel đang bay tới. Tuy vậy, một nhúm nước miếng cũng rớt bụp xuống chiếc giày bóng lộn của hắn, Asa đang khúm núm bên cạnh, cố nín cười.


Bữa nay đâm ra lại là một trong những thứ Hai tồi tệ của Manfred. Kỳ cuối tuần đã đủ tệ hại rồi, với việc thằng ranh Billy Raven đó trốn thoát khỏi Ngôi Nhà Bất Chợt và Usher de Grey bị tai nạn suýt chết. Đó là chưa kể đến vụ tiêu tùng bọn giấy ghi lời thề và việc mụ Florence phát rồ phát dại. Những tiếng rú của mụ, khi họ buộc phải nhốt mụ vô căn phòng lạnh lẽo, vẫn còn ong óng trong tai hắn. Hy vọng là lúc này mụ đã nguội bớt.


Nhưng nổi cộm trên tất cả những chuyện xúi quẩy đó, là Asa Pike vừa mới lẻn vào, mang theo tin tức rằng cuộc thí nghiệm vĩ đại đã không cho kết quả chính xác như bọn chúng nghĩ. Thay vì một con ngựa chiến với trái tim bạo tàn, thì bọn chúng đã làm sống lại một con ngựa trắng có trái tim của một người mẹ chan chứa tình yêu thương.
“Hãy nhìn vào mặt tốt của vụ việc, ông cố à,” Manfred nói, cẩn thận lấy mũi giày chân phải gạt bãi nước miếng ra khỏi chiếc giày bên trái. “Dẫu sao thì thí nghiệm đó cũng là một thành công.”
“Tao không muốn Hoàng hậu!” Lão Ezekiel rống to. “Tao muốn Borlath.”
“Ừm, nhưng ông được Hoàng hậu,” Manfred nói lạnh tanh. “Hay chính xác hơn, Charlie Bone đã có được bà ấy, và bây giờ nó và thằng Billy đang ung dung trên đường tới Lâu đài Gương.”
“Ung dung trên đường,” Asa đế theo, lộ vẻ mãn nguyện một cách không cần thiết.
“Đó là lỗi của mày,” lão Ezekiel điên tiết, chĩa một ngón tay cong queo vào Asa. “Chính mày đã tìm thấy cái bia mộ; mày mang trái tim đó đến cho tao.”
“Tôi không biết đó là tim của ai,” Asa tru tréo. “Chỉ có mỗi một chữ B ở trên bia mộ. Có ai nói cho tôi biết Hoàng hậu tên là Berrenice đâu.”
“Ôôô! Lão Ezekiel gầm vang.
Asa cảm thấy thêm phần can đảm:
“Tôi đã làm rất tốt,” nó khăng khăng. “Tôi đi theo Paton Yewbeam, và tôi đã phát hiện ra thằng cha Crowquill. Tôi đã phải tiêu tốn hàng nhiều giờ trong cái sân dơ dáy nhà Silk, và rồi phải chui rúc trong khu rừng ẩm ướt, giờ thì xương cốt tôi đau ê ẩm. Nếu không có tôi thì các người không thể biết thằng Billy đi đâu, đúng không nào?”
“Thôi được!” Lão Ezekiel rít lên. “Cho mày nghỉ một ngày.”
“Tôi không muốn một ngày nghỉ,” Asa càm ràm vẻ giận dỗi. “Tôi chỉ muốn được công nhận.”
“Thì mày được rồi đấy,” lão Ezekiel gầm gừ. “Tất cả bọn chúng nó: thằng châu Phi, thằng Torsson, thằng Gabriel Silk. Việc này phải chấm dứt. Mang thằng Joshua Tilpin tới đây cho tao!”
“Joshua?” Manfred nhướn một bên chân mày lên. “Nó thì làm được gì?”
“Mày sẽ ngạc nhiên cho coi, Manfred,” ông cố của hắn nói. “Rồi mày sẽ biết ngay thôi. Giờ thì xéo đi, cả hai đứa bay!”


Manfred nén nhịn chuyện bị đối xử như một thằng nhóc. Hắn xứng đáng được đối xử tốt hơn kìa. Mang bộ mặt quạu đeo, hắn bước hùng hổ qua bao nhiêu là hành lang và cầu thang từ phòng ông cố, trong khi Asa lẽo đẽo bám theo sát gót, vừa đi vừa tru tréo, than van.
“Lão muốn thằng Tilpin để làm gì?” Asa ca cẩm. “Thằng ấy chả làm được cái tích sự gì hết. Nó quá nhỏ và nó lại chẳng có kinh nghiệm.”
"Chúng ta biết nó có nam châm,” Manfred đớp lại. “Tao nghĩ chuyện này sẽ tùy thuộc vào việc nó làm gì với cái tài ấy. Thú vị đây.”
“Hừ!” Asa khịt mũi.


Manfred bắt được Joshua ngay khi thằng này vừa ra khỏi phòng để áo chùng xanh lá cây. Giờ tập họp đã hết và bọn trẻ đang trên đường tới lớp học đầu tiên của chúng.
“Ông Ezekiel muốn gặp em đấy,” Manfred nói, tóm lấy vai của thằng nhỏ quắt.
“Vậy hả?” Joshua nhá cho Manfred nụ cười mất răng quái dị của nó, và một lần nữa, Manfred cảm thấy một cảm giác tê tê quái lạ, khiến hắn phải đáp trả lại nụ cười của Joshua, cho dù một phút trước hắn không hề nghĩ đến chuyện mở miệng ra cười.
“Em đã biết cách kiểm tra phòng của ông Ezekiel chưa?” Manfred hỏi một cách tử tế.
"Thưa thầy, biết. Nó ở chái phía tây, lầu trên cùng.”
“Giỏi lắm. Thế thì đi đi. Lẹ lên.”
"Dạ, thưa thầy.”
Rốt cuộc thì mới hài lòng làm sao khi được gọi là “thầy”. Manfred đeo nụ cười mà đi hết tất cả các bậc thang băng qua tiền sảnh, nhưng nụ cười bất ngờ tắt nghúm khi hắn trượt lên một miếng vỏ táo và suýt nữa thì té.
“AAAAAARGH!” Manfred rống vang.


Tiền sảnh lúc này vắng tanh, ngoại trừ giáo sư Saltweather – đang bước thơ thẩn xuống dãy cầu thang chính, với một tờ báo kẹp dưới nách và một vẻ ngơ ngác trên mặt.
“Lại cái con vertigo ấy,” Manfred quát vào mặt giáo sư Saltweather. ”Nó làm rớt vỏ táo tùm lum. Phải làm gì đó chớ.”
“Không phải khoa của tôi,” giáo sư Saltweather lẩm bẩm. “Tôi là trưởng khoa Nhạc.”


Ông lững thửng đi khỏi, thậm chí trông còn bối rối hơn lúc nãy.
Manfred phun ra một tiếng rền giận dữ và đi về phía thư phòng của hắn.


Giáo sư Saltweather thả bước trên hành lang treo đầy các bức chân dung. Ông lo lắng đến nỗi quên mất mình đang định đi đâu. Tờ báo ông cầm đăng một bìa đáng lo. Có hai người biến mất khỏi một thị trấn nhỏ phía Đông Bắc. Bình thường, những tin tức loại này sẽ chỉ khiến cho giáo sư Saltweather hơi xao động lo âu – ông có trái tim nhân từ, và ngay cả nỗi bất hạnh của những người hoàn toàn xa lạ cũng khiến ông chạnh lòng. Nhưng tin tức ngày hôm nay nói chung đang lo hơn nhiều.
Hai người đàn ông nói trên, một người là vị hiệu trưởng có tên là Tantalus Wright, và một là người đưa thư có tên là Vincent Ebony. Đây rất có thể là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, hẳn thế, nhưng chính những thói quen kỳ lạ của hai người đàn ông đó lại khiến giáo sư Saltweather nhận thấy rằng sự biến mất của họ quá hung hiểm, khó có thể coi chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên. Chuyên ngành của vị hiệu trưởng kia là lịch sử trung cổ và ông ta bị chứng rối loạn thần kinh do dược phẩm. Nói cách khác, ông ta hay ngủ gật bất thình lình, tại những nơi bất thường nhất – điều này khiến cho bọn học trò được nhiều phen cười rũ.


Giáo sư Saltweather giở tờ báo ra và đọc lại bài báo nhỏ xíu ở trang cuối. “Vincent Ebony là một người vui tính, có óc khôi hài tuyệt vời. Ông sẵn sàng cười trước những câu bông lơn ngó ngẩn nhất, người ta thường nghe ông hát ngâm nga bài ‘Bess, em là người trong một của anh’ của Gershwin. Vợ của ông Ebony, bà Bess, hiện đang quá đau buồn nên không thể đưa ra lời bình luận nào.”


Cả hai người đàn ông đều biến mất vào cuối thàng Tám gần thị trấn Yorwynde nhỏ bé. Ông Tantalus Wright, một người đam mê đi bộ, đã không thấy quay về nhà sau cuốc đi bộ ngày chủ nhật, và chiếc xe tải nhỏ của Vincent Ebony được tìm thấy bị bỏ lại ở rìa một khu rừng nhỏ. Không có dấu hiệu của người đưa thư. Hai người đàn ông biến mất đến nay đã ba tuần rồi.
“Không thể thế được! Làm sao lại thế được? Hai trong một ? Hai trong một!” Giáo sư Saltweather đi lững thững, lắc đầu. Ông không thể thảo luận vấn đề này với ông hiệu trưởng, bởi vì chính giáo sư Bloor là người đã cương quyết mời ông Tantalus Ebony giảng dạy. Thật khó biết chính xác ai là ai trong cái Học viện Bloor này, hoặc đó là ai, mỗi khi có chuyện xảy ra.
“Xin chào!” Bà bếp trưởng lướt qua giáo sư Saltweather trong hành lang tối. “Trông ngài có vẻ lo lắng, thưa giáo sư.”
“Phải,” giáo sư Saltweather quay phắt lại và nhìn thấy bà bếp trưởng đang vội vã đi khỏi hành lang. Ông chợt nhận ra đây chính là người ông có thể thổ lộ tâm tình. Thâm tâm ông không một chút nghi ngờ, rằng bà bếp trưởng đứng về phe chính nghĩa, mặc dù ông hầu như cũng không biết cái gì khiến mình nghĩ như thế.
“Bà bếp trưởng!” Giáo sư Saltweather gọi nhà. “Tôi có thể nói chuyện một chút được không?”


Bà bếp trưởng quay lưng lại, ngạc nhiên trước giọng nói có vẻ bí mật của giáo sư. Bà bước ngược trở lại phía ông.
Giáo sư Saltweather vuốt thẳng trang báo cuối cùng của tờ báo ông đang cầm và đưa cho bà bếp trưởng, chỉ cột nhỏ xíu ở gần cuối.
“Bà nghĩ gì về chuyện này?”
Bà bếp trưởng lướt thiệt nhanh khắp bài báo và há hốc miệng.
“Tôi nghĩ gì hả?” Bà run run nói. “Tôi nghĩ việc đó đáng lo, thưa giáo sư Saltweather. Cực kỳ đáng lo; nhất là đối với vai người cụ thể trong thành phố này.”
“Như ai?” Vị giáo sư tò mò.
"Như Charlie Bone và Ông cậu của nó,” bà bếp trưởng nói.
“À,” giáo sư Saltweather chống cằm. “Hôm nay Charlie không có mặt trong giờ tập họp, cả thằng nhỏ Billy Raven cũng không,”
“Rồi tôi sẽ nói chuyện về nó sau,” bà bếp trưởng nói.
“Nhưng việc này,” bà vỗ vỗ tờ báo, “việc này cực kỳ nghiêm trọng. Tôi cần phải gọi điện ngay lập tức.”
“Nhưng, bà bếp trưởng, làm sao được thế nhỉ?” Giáo sư Saltweather nói, giờ giọng ông hoang mang hơn bao giờ hết. “Hai người trong một. Làm sao việc này xảy ra được?”
“Xin giáo sư tin tôi, nó có thể làm được việc đó,” bà bếp trưởng nói, quầy quả trở lại hướng lúc nãy bà đang đi.
“NÓ?” Giáo sư Saltweather nói với theo.
“Phải, NÓ,” bà bếp trưởng đáp, tất tả đi lẹ hơn. “Tôi sẽ giải thích vào lúc khác. Nhưng ngay bây giờ tôi phải đi gọi điện thoại đã. Cảm ơn, giáo sư, cảm ơn. Chúng ta có lý do để mà biết ơn, vô cùng biết ơn mẩu thông tin này.”


Giọng nói trượt đi khi bà biến mất ở khúc quanh.
Giáo sư Saltweather sực nhớ ra đáng lẽ ra ông phải tham dự cuộc họp trong phòng Kèn Sáo với thầy Paltry và ông Tantalus Ebony. Vị trưởng khoa Nhạc đã trễ họp, nhưng khi ông tới phòng Kèn Sáo, ông Tantalus Ebony không có ở đó.
“Ông ấy không có mặt ở trường,” thầy Paltry già vừa nói vừa xỉa răng bằng một que diêm. “Giáo sư không nhận thấy à? Ông ấy không có trong hội trường.”
“Không. Không, tôi không nhận thấy,” giáo sư Saltweather cùng lúc cảm thấy vừa ngớ ngẩn, vừa lo âu vừa bối rối lẫn lộn.
“Tôi mong ông đừng hút thuốc nữa,” ông nói với nghệ sĩ thổi sáo già. “Làm thế thành ra nêu gương xấu.”
“Tôi không hút thuốc,” thầy Paltry nhét que diêm vào túi quần.
“Tôi ngửi thấy mà, Reginals,” giáo sư Saltweather nói. “Chả trách dạo này ông hay bị thiếu hơi.”
Rồi ông buông một tiếng thở dài giận dữ:
“Chúng ta cứ họp mà không có ông Ebony thì hơn.”


Bà bếp trưởng thở không ra hơi hối hả chạy vào nhà bếp và nhấc ống điện thoại gắn ở trên tường, bên cạnh cánh cửa tự động lên. Trên cái nền là tiếng chuyện trò tíu tít của những nhân viên nhà bếp, bà bếp trưởng không sợ bị nghe lén. Bà lẹ làng quay số và lắng nghe tiếng chuông của nhà số Chín, đường Filbert, reng.
“A lô?” Một giọn cáu kỉnh vang lên.
Bà bếp trưởng gằn giọng và giả giọng một ông già:
“Tôi muốn nói chuyện với ông Paton Yewbeam.”
“Nó không có ở nhà,” giọng nội Bone nói.
“Vậy thì vui lòng cho gặp bà Jones,” bà bếp trưởng nói. “Bà ấy cũng được.”
"Về chuyện gì?” Nội Bone hỏi sẵng.
“È… Về việc giật ủi…”
“Không phải cái áo khoác đẹp nhất của tôi đấy chứ? Cái màu đen cổ nhung ấy?” Câu này được quát thiệt to, khiến bà bếp trưởng phải dang ông nghe ra xa tai.
“Không, không phải. Cái này màu đỏ và…”
“Maisie, điện thoại! Quần áo của bà gặp lôi thôi rồi.”
Ống nghe bị thả xuống bàn và bà bếp trưởng nghe tiếng bước chân lùi xa dần trên sàn gạch. Một thoáng sau, giọng lo âu của bà Maisie cất lên:
“A lô? Chuyện gì thế?”
“Maisie, tôi đây mà, bà bếp trưởng đây. Nhưng đừng nói ra,” bà bếp trưởng nói bằng giọng bình thường của mình. “Tôi muốn nói chuyện với ông Yewbeam nhưng rõ ràng ông ấy đi vắng.”
“Không chỉ đi vắng,” bà Maisie hạ thấp giọng. “Mà là đi luôn. Amy và tôi đangr ất lo lắng. Ông ấy nghe tin về Charlie và rồi ông ấy và… và, bà biết đấy, ông Crowquill ấy, hai người đi rồi, vào sáng sớm nay.”
“Ố trời đất.” Bà bếp trưởng không biết phải làm gì với chuyện này. “Bà có biết ông ấy đi đâu không?”
Bà Maisie ghé sát miệng vào ống nghe và thì thào:
“Lâu đài Gương.”
“Thế thì khốn rồi. Tôi sợ là có người khác nữa cũng đang trên đường tới đó. Bà có cách nào để liên lạc được với ông Yewbeam không?”
“Không,” bà Maisie nói. “Ông ấy để điện thoại di động ở nhà.”
Một giọng bên cạnh bà Maisie nói:
“Tại sao bà phải thầm thì với người giặt ủi.”
“Không phải. Tôi bị mất giọng. Tiêu tan cái áo đỏ đó rồi.”
Giọng bà Maisie nhỏ đến nỗi bà bà bếp trưởng không nghe được, nhưng rồi bà lại nghe thấy tiếp:
“Cảm ơn rất nhiều vì đã báo tin cho tôi,” bà Maisie nói với bà bếp trưởng. “Tôi sẽ tới lấy ngay. Tạm biệt.”
Bà bếp trưởng gác ống nghe vào chỗ cũ.
“Chẳng làm được gì,” bà lẩm bẩm.
“Tôi đã bảo là nhiều quá mà,” một trong những phụ tá nhà bếp bổ nhào tới bà bếp trưởng với một khay bánh nhân táo cháy thui. “Chúng ta sẽ phải nướng thêm một ít.”
“Thì bà nướng đi,” bà bếp trưởng gắt. “Không phải tôi làm cháy.”
Nỗi lo lắng thấp thỏm của Fidelio Gunn trở nên tăng theo từng phút. Gabriel nói đã thầm với nó cái gì đó trong giờ tập trung nhưng nó không thể nghe ra là cái gì. Tất cả những gì nó bập bõm nghe được là “Charlie… một lâu đài… và Billy Raven.” Fidelio không thể tưởng tượng ra chuyện gì đã xảy đến với Charlie. Thường thì đâu có chuyện thằng bạn nó vội đi đâu mà lại không báo cho nó biết.
“Fidelio, em không tập trung,” cô Crystal nói, cô đang đệm đàn piano cho nó.


Fidelio hạ cây vĩ cầm xuống và nghiên cứu bản nhạc dựng trên giá nhạc trước mặt.
“Xin lỗi, cô Crystal. Em quên phần nhạc của em rồi.”
“Sao vậy?” Cô Crystal xoay chiếc ghế lại. “Em đã chơi đoạn này rất hoàn hảo hồi tuần trước kia mà.”


Cô Crystal là một giáo viên rất trẻ. Mái tóc vàng và những nét thanh tú trên gương mặt như mời gọi bọn trẻ đến tâm sự với cô. Cô giữ kín những bí mật của chúng và chưa bao giờ bị nghe nói là phản bội bất cứ đứa học trò nào.
“Em lo cho đứa bạn thân em,” Fidelio buột miệng nói.
“Charlie Bone?”
“Dạ phải. Bạn ấy không đi học và em không biết chuyện gì đã xảy ra với bạn ấy.”
“Giáo sư Saltweather chắc là đã nghe được tin gì đó. Cô sẽ nói cho em những gì cô biết được trong giờ nghỉ ăn trưa, được chứ?” Cô Crystal mỉm cười khích lệ.
“Cảm ơn, cô Crystal,” Fidelio đặt cây vĩ cầm xuống dưới cằm và chuẩn bị chơi tiếp.


Bài học không được thành công cho lắm, và ngay khi chuông reng, Fidelio ùa ra liền, có hơi hung hăng, phóng vù tới phòng để áo khoác để cất cái áo chùng. Nó vừa ló ra ngoài thì gặp ngay Dorcas Loom vừa bước tới sát cánh cửa dẫn lên tháp nhạc. Con nhỏ cắp một chiếc áo chùng vo nùi dưới nách.
Fidelio nghi ngờ:
“Áo của ai đó, Dorcas?” Nó hỏi.
Đứa con gái hơi giật mình.
“Ơ, của thầy Pilgrim,” nó nói, đã lấy lại bình tĩnh. “Tìm thấy trong thư viện, nên tôi đem nó lên phòng nhạc.”
“Nhưng thầy Pilgrim đi rồi mà.”
Dorcas nhún vai:
"Thì sao?”
“Thì…” Fidelio ngần ngừ.
Vẻ thâm độc của Dorcas khiến nó ngại ngùng. Con nhỏ này nổi tiếng với trò ếm bùa quần áo. Liệu nó đã yểm bùa chiếc áo chùng xanh da trời đó chưa?
“Không có gì,” Fidelio bước luôn ra ngoài vườn.
Chẳng thấy Gabriel đâu cả, nhưng Fidelio bắt gặp Tancred đang nói chuyện với thằng học trò mới, Joshua Tilpin. Fidelio rượt theo kịp chúng.
“Tancred, em có chuyện muốn nói; nói riêng được không?” Nó liếc Joshua.
Tancred vỗ nhẹ vai Joshua nói: “Chạy đi, Josh. Cảm ơn em đã tìm giùm anh cuốn sách.”
Joshua Tilpin cười rạng rỡ với Tancred.
“Luôn sẵn sàng, anh Tancred. Hẹn gặp lại anh,” thằng bé tí xíu đi thong dong trên một đôi cẳng trông như thể không đỡ nổi đến một con chim chứ đừng nói là một thằng bé.
“Nó quái thiệt,” Fidelio nhận xét một cách vô tư.
“Không đâu,” Tancred nói. “Nó tốt bụng lắm. Rất hay giúp đỡ.”
Fidelio đổi đề tài:
"Em thắc mắc không biết anh có biết chuyện gì xảy ra với Charlie không.”
“Thiệt ra thì anh biết. Tụi mình đi dạo đi.”
Fidelio theo chân Tancred tới những bức tường của Lâu đài hoang, ở đó nó gặp Emma và Olivia, đang ngồi chóc ngóc trên đống gỗ. Olivia đường như là nguồn cung cấp vỏ táo vô tận, bởi vì nó, một lần nữa, lại đang gọt táo bằng con dao bạc nhỏ mà nó tha đi khắp nơi. Emma đang nhìn cô bạn của mình với cái nhíu mày gần đây đã trở thành thường trực.
“Hai đứa nó biết chuyện rồi,” Tancred nói, phóng lên một trong những súc gỗ thấp hơn.
“Dạo này em luôn luôn là đứa cuối cùng biết mọi chuyện,” Fidelio ngồi lên một cây gỗ ở chính giựa đống gỗ.
“Đó là vì đằng ấy không có phép thuật,” Olivia nói. “Tớ cũng không nốt. Và tớ cũng chả muốn có.”
Fidelio thây kệ con bé.
"Tancred, làm ơn cho em biết đi, Charlie đi đâu vậy?” Nó nói.
Tancred hít một hơi:
“Mọi chuyện bắt đầu vào sáng Chủ nhật, lúc Billy Raven tẩu thoát khỏi cha mẹ mói…” Nó kể tiếp cho Fidelio tất cả mọi việc.
“Phùù!” Fidelio liếc nhìn những bức tường đỏ lói sừng sững. “Thì ra đó là tiếng náo động hồi hôm. Làm em thức giấc. Chó sủa inh ỏi, còi xe hơi, còi xe cảnh sát, rồi sấm nữa – đó là anh, em nghĩ vậy.” nó nói với Tancred.
“Còn ai nữa!” Tancred giơ tay lên cười xởi lởi “Nhưng Sander đã cứu nguy hôm ấy. Nếu không có nó thì anh nghĩ anh đã không còn ngồi đây.”
Cả bọn đều thấy Lysander đang tranh cãi với Asa Pike ở đầu đằng kia sân chơi, và Tancred nói:
“Hôm nay Asa quần thảo Sander phải biết. Trước tiên nó hoạnh họe là cà vật của Sander không thẳng, rồi nó lại bảo là Sander quá ồn ào, trong khi bạn mình có ồn gì đâu, và giờ thì nhìn nó kìa.”
“Em cảm giác hôm nay sẽ xấu,” Emma lẳng lặng nói.
Fidelio biết ý Emma muốn nói về cái gì. Có lẽ có liên quan gì đó tới sự vắng mặt của Charlie.
“Tất cả những việc này có dính tới một Lâu đài Gương, phải không?” Nó hỏi.
“Dì của em đã đọc một quyển sách về lâu đài này,” Emma nói. “Cách đây hàng mấy trăm năm, một người con của Vua Đỏ đã đốt cháy tòa lâu đài ấy, trong khi gia đình người em của ông ta vẫn còn ở trong đó. Nhưng một người trong số họ thoát ra được, và đó là tổ tiên của Billy. Những bức tường của tòa lâu đài biến thành thủy tinh. Tưởng tượng coi!”
“Và Charlie nghĩ nó sẽ tìm thấy ba nó ở đó,” Tancred thêm vào.
Olivia bất ngờ vụt đứng lên và liệng trái táo của nó vào bụi rậm.
“Tớ ước gì có Charlie ở đây,” nó nói, rồi sải bước đi khỏi đám bạn.
Fidelio cũng cảm thấy như thế.
Tối hôm đó, bầu không khí trong phòng Nhà Vua ớn lạnh không thể tả. Đó là thứ lạnh thấu tới xương và Emma không tài nào ngừng run được. Nó run đến nỗi cây viết cứ tuột khỏi tay. Lần thứ ba nó làm rớt viết, cây viết lăn tròn qua bàn, và Emma tin chắc là Inez hoặc Idith đã đẩy cây viết. Hai chị em sinh đôi cứ dòm trừng trừng Emma bằng đôi mắt búp bê sứ xanh da trời, và Emma thấy mình gần như không thể tập trung được.
Joshua Tilpin ngồi vào cái ghế trống của Charlie kế bên Emma, và nó bò toài người lên bàn, lượm cây viết, trao trở lại cho Emma. Thằng bé nhoẻn một nụ cười nhẹ với Emma, nụ cười đó cứ nhằng nhẵng bám theo con bé, cho đến khi ép được con bé phải nhếch miệng ra cười lại. Nhưng Joshua muốn nhiều hơn là một nụ cười. Emma đột nhiên cảm thấy muốn bay. Nó tưởng tượng ra một con diều hâu thiệt lớn, nhào xuống lũ bạn nó, tấn công đầu chúng, tay chúng… Nhưng tại sao lại có chuyện kinh khủng như vậy? Nó dứt mắt khỏi Joshua. Thằng đó làm cho nó ớn sườn.
Ngồi đối diện Emma, Gabriel thì thào:
“Em không sao chứ, Emma?”
Emma gật đầu.
“Im!” Manfred gừ. “Không thì thầm.”
Inez và Idith quay ánh mắt lạnh băng của chúng về phía Gabriel, đôi mắt vàng của Asa trơ ra và Dorcas Loom cười một nụ cười bí hiểm.
Emma liếc dọc qua hàng ghế cạnh nó. Gabriel, Tancred và Lysander cùi gằm xuống sách của chúng. Cái nhíu mày ảm đạm của mấy đứa này thậm chí còn khiến nó cảm thấy bất an hơn.
Khi giờ làm bài tập về nhà chấm dứt, những đứa trẻ được ban phép thuật bắt đầu tràn ra khỏi phòng Nhà Vua với Manfred dẫn đầu. Emma chờ Gabriel, cậu này đang phải mất nhiều thời gian hơn thường lệ để thu dọn sách vở. Tancred và Lysander cũng gặp phải chuyện tương tự. Sách cứ rớt xuống, các thứ khác không chịu đóng lại. Viết lăn đi và tập vuột khỏi tay.
“Có gì đó không xong rồi,” Emma nói.
“Đúng vậy,” Lysander rên rỉ.
“Tụi mình ít người hơn,” Gabriel nói. “Bốn chống năm, sáu, nếu kể cả Manfred.”
Ba thằng bé mãi rồi cũng thu dọn được tất cả các thứ, và Emma đi cùng với chúng về khu phòng ngủ chung. Khi đang băng qua chiếu nghỉ, Gabriel quay khỏi đám bạn và bắt đầu chạy xuống tiền sảnh.
“Bồ đi đâu vậy, Gabe?” Lysander gọi. “Bà giám thị bắt bồ bây giờ!”
"Mình được phép tập đàn nửa giờ trong Tháp Nhạc,” Gabriel nói. “Thấy Ebony cho mình một đặc ân đặc biệt vào ngày thứ Sáu.” Nó lôi một tờ giấy ra khỏi túi. “Và bà giám thị phải biến thôi.”
Câu này mang lại một nụ cười cho gương mặt lũ bạn nó, nhưng cả ba đứa vẫn cảm thấy bồn chồn không sao giải thích được khi nhìn theo Gabriel băng qua tiền sảnh tới cánh cửa dẫn vào Tháp Nhạc.
Chính Gabriel cũng có linh tính về một điềm chẳng lành, nhưng vì quá mê tập đàn bên chiếc dương cầm lớn, và chính xác là do đã cảm thấy quá bức bối, nên nó gần như không sao chờ nổi việc được đắm chìm vào âm nhạc.


Phải làm một cuộc leo thang thật dài mới lên tới được đỉnh tháp. Và khi Gabriel vào tới phòng nhạc, nó phải ngồi trên ghế đàn một lúc để lấy lại hơi. Trong lúc mở nắp đàn piano ra, nó nhận thấy có một chiếc áo chùng xanh da trời vắt trên chiếc ghế bên cạnh cửa sổ. Chắc chắn đó là áo chùng của thầy Pilgrim. Gabriel luôn luôn gắn bó với thầy Pilgrim. Ông thầy dị kỳ này là một người chơi dương cầm tài năng, và mặc dầu thầy rất kiệm lời nhận xét, Gabriel luôn cảm nhận được sự ủng hộ ấm áp của thầy.


Bây giờ ông thầy dạy dương cầm ấy ở đâu? Chuyện gì đã xảy ra với thầy? Gabriel rất hiếm khi sử dụng tài phép của nó. Tài phép đó có thể ảnh hưởng tệ hại tới nó nếu nó mặc trúng quần áo của ai đó đã phải chịu khổ sở hay đau đớn. Nhưng lần này, tính tò mò của Gabriel đã chiến thắng, và nó cảm thấy thôi thúc muốn mặc chiếc áo chùng kia.
Ngay khi nó kéo cái mũ cho trùm qua đầu, thực tế trước mắt bỗng như bị trượt đi, và Gabriel bị giam h.ãm trong một bóng tối quá đen đặc và quá hãi hùng, đến nỗi nó không sao thoát ra được. Nó cố rứt xé cái mũ trùm, nhưng cánh tay nó bất lực, và nó buộc phải chịu đựng nỗi kinh hãi, cho đến khi nó ngã vật xuống, bất tỉnh, trên sàn nhà.
 
Trên một bãi biển cát trắng như bạc, xa khỏi những điều không may của đám bạn, Charlie thấy mình rơi vào một tình thế khó khăn. Billy đã trở nên giận dữ và sợ hãi khi nghe câu chuyện về Hoàng tử Amadis. Đầu cúi gục vào hai tay thọc sâu trong túi quần, thằng bé tóc trắng bước tới bước lui trên bãi biển, chân đá văng cát với vỏ sò.


“Sao anh không nói cho em biết?” Nó hét lớn đầy vẻ buộc tội. “Sao anh không cho em biết về người giám hộ của em, và về quyển sách, và tất cả những chuyện khủng khiếp đã xảy ra ngoài kia?”
“Anh xin lỗi, Billy. Ông cậu của anh nghĩ nếu em biết chuyện thì sẽ không an toàn cho em. Với lại, khi tụi mình gặp Hoàng hậu, thì dù gì tất cả cũng đã quá trễ.”


Charlie vẫn luôn dán nửa con mắt về phía biển. Thủy triều đang tràn vào, rất nhanh, và chẳng bao lâu nữa sẽ không còn bãi biển. Chúng đang ở trên một cái vịnh nhỏ tí với những vách đá hai bên trông thật nguy hiểm, và sau lưng là một vách núi dựng đứng. Còn một vấn đề nữa. Làm thế nào chúng tới được hòn đảo đây?


Mặc kệ Billy, ít ra là vào lúc này, Charlie bắt đầu thám hiểm những tảng đá và chân vách núi để kiếm một chiếc thuyền. Tại sao lại phải có một chiếc thuyền ở một nơi hẻo lánh như thế này, nó chưa nghĩ tới. Chầm chậm và đều đặn, biển cứ chồm dần lên bãi cát.
“Charlie!” Billy thét vang, thình lình nhận ra dóng nước tiến quá nhanh. “Có chuyện gì thế này?”
“Thủy triều lên đó,” Charlie đang xem xét một cái hang sâu. Trời tối đến nỗi nó không thể thấy cái hang kết thúc ở đâu. Phải chi có một ngọn đuốc. Nhưng nó thậm chí còn không mang theo một hộp quẹt nữa là. Một đốm sáng bé tẹo lướt trên đầu nó và dập dờn tiến vào sâu trong hang. Đốm sáng mờ và chập chờn, nhưng cũng đủ để Charlie nhận ra một vật trông giống như một chiếc thuyền, nằm lật nghiêng ở đỉnh một đoạn dốc đứng. Đốm sáng di chuyển khắp hang, chiếu cho thấy một bức tường đen nhấp nhoáng nước.
“Charlie! Chúng ta tính làm gì đây?” Giọng hoảng hốt hỏi.
“Lại đây giúp coi,” Charlie gọi. “Anh tìm được một chiếc thuyền này.”
Billy thoắt cái đã ở cạnh Charlie.
“Sao anh tìm ra được vậy?”
“Có ánh sáng.” Charlie liếc nhìn bóng đang bay lơ lửng. Nó có đôi cánh chóp bạc. “Đó là con bướm trắng.”
“Cây gậy phép của anh,” Billy nói. “Ô nhìn kìa, nó đậu trên một cái gì kìa.”
“Một mái chèo,” Charlie hét to. “Có hai cái luôn.”


Đó là một chiếc thuyền nhỏ nhưng chúng phải vận hết sức mới kéo cho chiếc thuyền trượt được trên nền hang và ra ngoài bãi. Ra được tới đó thì nước cũng đã vỗ bập bềnh miệng hang.
Tháo vớ và giày ra, Charlie xắn quần lên và bảo Billy làm theo.
“Tụi mình tính đi đâu đây?” Billy hỏi.
“Thế em nghĩ tụi mình đi đâu? Tới hòn đảo?”
“Khô… khôôông!” Billy rên lên. “Em không muốn đâu. Em không đi đâu. Ở đó có ma đấy, sau những chuyện xảy ra ấy. Làm ơn đừng bắt em đi.”
“Đừng có ngốc vậy,” Charlie nói, vẻ cáu kỉnh. “Không còn chỗ nào để đi nữa đâu. Tụi mình sẽ chết đuối nếu cứ lần chần ở đây cho coi.”
Chiếc thuyền đã bắt đầu nổi lên khi chúng kéo lê trên bãi biển, và Charlie ra lệnh cho Billy nhảy lên thuyền trước khi quá trễ.
“Anh có biết chèo không?” Billy hỏi, bám chắc vào một chỗ ngồi hẹp rí.
“Không thua nhà vô địch,” Charlie đáp. “Ông cố của anh sống bên bờ biển mà.”
“Ô!” Billy thốt lên, lộ vẻ thán phục.


Quả đúng vậy. Charlie đã trở thành một tay chèo thuyền xuất sắc trong những chuyến viếng thăm bờ biển cùng với Ông cậu Paton. Nhưng nó chưa bao giờ chèo một khoảng cách xa như cái khoảng cách mà nó đang cố tiến tới lúc này. Nó đang chèo ngược thủy triều và biển mỗi lúc mỗi hung hãn. Thỉnh thoảng một con sóng khổng lồ ụp xuống bên cạnh chúng và Billy thét dựng tóc gáy. Cố che giấu nỗi kinh hoàng, Charlie khuyên Billy hãy nhắm mắt lại cho đến khi chúng an toàn.
“Liệu tụi mình có an toàn được không?”
Giọng lâm ly thóng thiết của Billy bắt đầu tác động đến những dây thần kinh của Charlie.
“Nếu em không cổ vũ được thì im miệng đi!” Charlie quạu.
Nhận thấy sinh mạng mình đang nằm trong tay Charlie, Billy không hó hé thêm lời nào nữa. Cánh tay Charlie đau nhức đến nỗi nó nghĩ chúng sẽ rụng mất trước khi tới được hòn đảo. Mỗi lần nó ngoái ra sau, hình thù màu xám xanh với đỉnh chóp thủy tinh trông càng xa vợi hơn bao giờ hết. Có vẻ như tòa lâu đài lại còn lùi xa ra hơn, và Charlie bắt đầu nghi ngờ sự tồn tại của nó. Biết đâu đó chỉ là một ảo ảnh mà chúng không bao giờ tới được. Một trò lừa quái quỷ đang kéo chúng ra xa hơn xa hơn nữa khỏi đất liền, và lao ra giữa đại dương trống trải.
Charlie quyết định sẽ không nhìn ra sau nữa cho đến khi đếm đến năm trăm. Nó nghỉ một chút, hít một hơi thiệt sâu và… thấy một con bướm trắng đang đậu trên ống tay áo. Nhớ lạu cây gậy phép trước kia của mình chì nghe được chỉ thị bằng tiếng xứ Gan, Charlie nói:
“Helpi vee! Cứu tôi với!”


Charlie cũng không rõ mình trông đợi điều gì, nhưng chẳng có phép màu nào xảy ra cả. Những con sóng khổng lồ vẫn cứ rung lắc con thuyền và làm vỡ mũi thuyền, khiến những tia nước bắn vào lưng Charlie. Nhưng khi còn lâu mới đếm đến năm trăm thì chiếc thuyền đã tông ình vào một tảng đá, và lần này, khi Charlie ngoái ra sau ngó, thì chúng đã tới nơi.


Cẩn thận lái vòng qua tảng đá ấy, cln hảy ra ngoài, ra lệnh cho Billy ngồi im, trong khi nó kéo thằng bé vào vùng nước cạn.


Giở Billy đã mở mắt ra, và nó không chờ được nữa, nhảy ra ngay khỏi thuyền. Một tiếng tóe nước lớn khi nó đáp xuống ngay bên cạnh Charlie, nước lấp xấp tới ngang hông nó.


Nhẹ cả người, hai đứa bật cười khanh khách. Chúng kéo thuyền vào một bờ cỏ, rung người lên vì cười và rùng mình vì lạnh.
“Vô trong lâu đài rồi hẵng hong khô quần áo,” Charlie nói. “Anhkm tới đó mà mặc quần xà lỏn.”
“Cứ như Nhà Vua đang ở đó không bằng,” Billy nhận xét với một tràng cười khúc khích nữa.”


Giày của chúng cũng đã khô ráo ngang với mặt đất găm đầu đá dăm và những cây ba chĩa. Thoe như Cuốn sách về Ngài Amadis, những cánh đồng bao quanh lâu đìa xưa kia vốn trù phú với màu màng tươi tốt. Giờ cỏ thô mọc cao cả thước. Tựa hồ như đi qua một vùng biển đầy gai.
Mặt đất bắt đầu dốc lên một ngọn đồi trọc, điểm lơ thơ vài cái cây nhỏ, còng queo. Vượt lên trên những đám cây ấy, những bức tường thủy tinh sáng lóa của lâu đài xắt thẳng vào bầu trời xanh bằng những chấm nhọn răng cưa, kỳ quái. Nếu có khung cửa sổ nào trong tòa nhà huyền bí này thì ắt hẳn chúng cũng phải làm bằng thủy tinh, bởi vì không thấy có cái gì nhìn giống cửa sổ cả.


Hait hằng bé bắt đầu bước qua những thân cây không lá, gió lùa trống trải, trong khi mặt trời rọi ấm sau lưng và hong khô quần áo chúng. Chúng di chuyển càng lúc càng gần hơn về phía tòa lâu đài. Mỗi lúc mỗi lên cao. Charlie bỗng cảm thấy gai gai người vò nỗi lo sợ phập phồng. Một cục nghẹn mắc trong cổ họng nó và nó thấy không tự tin đến mức không nói gì được.


Bất thình lình, Billy tăng tốc và phóng vọt lên chỗ lâu đài. Thằng bé sờ vào những bức tường sáng bóng và nói, không ra hơi:
“Làm bằng thủy tinh thiệt.”
Charlie bước tới cạnh Billy:
“Nhưng cửa ra vào nằm đâu?”


Chúng lần quanh lâu đài, kiếm lối vào, nhưng chỉ thấy hình ảnh của chính mình phản chiếu vào các bức tường. Tòa lâu đài lớn hơn Charlie vẫn tưởng tượng nhiều. Nó nhận thấy chúng chỉ mới tới được những bức tường bên ngoài. Bên trong chắc chắn có một cái sân rộng và những tòa tháp. Nó trông thấy đỉnh chóp của một tà tháp thủy tinh cao, cách những bức tường một khoảng xa.


Chúng đi gần hết một vòng, sắp quay lại điểm khởi đầu, thì Billy, ngay phía trước Charlie vài thước, bỗng nhiên biến mất.
Charlie nhào người ra trước,t hét lên:
“Billy, em ở đâu?”
“Ở đây!” Một giọng vọng ra.
Gần sát chỗ nó đứng, Charlie nhận thấy có một cái hố, rõ ràng trước đó được bao phủ bởi những bụi cây rậm rạp. Nó quỳ xuống và ngó vào, thấy gương mặt tai tái của Billy đang ngửa lên từ đáy hố, cười.
“Không sao đâu,” Billy nói. “Có một con đường, em thấy có ánh sáng ở cuối đường.”
Charlie leo xuống hố và trượt vào bóng tối. Cảm giác thật là khoái – bay lướt đi trên một bề mặt sáng loáng, trơn tuột – nhưng cú đáp xuống tảng đá ở đáy hố thì có hơi sốc.
“Úi!” Charlie đứng lên và cụng đầu trúng mái trần thấp chủn. “Úi, nữa!”
Nó đang đứng trong một không gian bé tí xíu, ngay trong lòng đất, gần như không đủ chỗ cho hai đứa.
“Coi kìa! Đó!” Billy ra lệnh. “Một lối đi.”
Charlie xoay ngang người và thấy một lỗ hổng tối om trong đá. Nó khom xuống và ngó vào trong. Một đường hầm hẹp dẫn tới một mảng sáng ở đằng xa.
“Không phải một con đường mà là một đường hầm,” Charlie nói.
“Thì cũng như nhau.”
“Không đâu. Tụi mình sẽ phải bò.”
“Nào thì bò.”
Billy thịp liền cả hai gối xuống và bắt đầu bò dọc theo đường hầm. Vẻ do dự đi thăm lâu đài của nó đã biến mất, và giờ đây nó còn hăm hở hơn cả Charlie.
Chúng bò được cỡ nửa đường hầm thì Charlie bắt đầu nghe thấy tiếng đàn dương cầm. Tim nó đập mau hơn, nhưng tuy vậy nó vẫn ngần ngại, chưa leo ra khỏi đường hầm. Cuối cùng, khi tuôn ra khỏi bóng tối, nó thấy mình ở trong một khoảng sân rộng mênh mông, rải đầy sỏi láng bóng. Tiếng nhạc vọng ra từ một ngọn tháp vuông ở trung tâm. Có một dãy cầu thang hẹp dẫn lên một cánh cửa hình mái vòm đi vào trong tháp. Cả cánh cửa lẫn cầu thang đều làm bằng thủy tinh đen ráp.
Tiếng nhạc dứt nhưng không thấy ai xuất hiện. Charlie thận trọng đẩy cánh cửa và cửa bật mở vào trong. Vai kề vai, hai thằng bé bước vào căn phòng bên kia cánh cửa.
Hình ảnh đầu tiên của người đàn ông mà Charlie nhìn thấy là những mảnh phản chiếu bị gãy khúc, bởi vì căn phòng được quây bằng những bức tường kính hình chữ nhật mờ ảo, và người cư ngụ trong phòng ở phía sau Charlie. Rất từ từ, Charlie quay lại. Nó thấy một người đàn ông cao trung bình, tóc đen, mắt to màu xanh là cây. Ông có sống mũi dài và miệng rộng. Da vàng bủng nhưng có lẽ vì ở trong nhà quá lâu. Có cái gì đó quen quen ở người đàn ông này và điều đó làm dấy lên trong Charlie một niềm hy vọng.
Người lạ mỉm cười, ngập ngừng:
“Cháu mang gì đến cho chú vậy?” Ông hỏi.
“Không có gì ạ,” Charlie bối rối. “Chú đang chờ gì vậy ạ?”
“Thỉnh thoảng họ gởi thực phẩm tới,” người đàn ông ngồi xuống một chiếc ghế trông rệu rã và thở dài. “Một cậu bé mang thực phẩm đến từ đất liền.”
Nhớ rằng ba nó đã mất trí nhớ, Charlie hỏi:
“Họ gọi chú là gì ạ?”
“Người ta gọi chú là Albert Tuccini, nhưng dĩ nhiên, đó không phải là tên thật của chú.”
“Chú có… chú có biết tên thật của chú không/”
Ông Albert Tuccini lắc đầu:
“Chú không giúp gì cho cháu được.”
Charlie bước lại gần người đàn ông hơn:
“Con nghĩ con biết chú, chú à.”
Người đàn ông cúi đầu:
“Nhiều người biết chú. Chú là một nghệ sĩ dương cầm nổi tiếng mà.”
“Thế tại sao chú lại ở đây,” Billy hỏi.
“À,” ông Albert Tuccini đặt một ngón tay lên môi. “Không an toàn cho chú nếu ở bên ngoài. Cháu biết đó, đây không phải chỗ của chú. Chú bị mất tổ quốc, mất gia đình, và mất tên họ.”
Charlie nghĩ nó đã dò ra lối phát âm của người nước ngoài trong giọng nói của ông Albert Tuccini, nhưng nó tự nhủ điều này có thể giải thích được, bởi vì người đàn ông này không biết mình là ai. Nó lại gần ông Albert Tuccini và chạm vào vai ông:
“Con nghĩ con biết tên thật của chú. Có lẽ con sẽ giúp chú nhớ lại.”
“Hả?” Một tia hy vọng le lói lóe lên trong đôi mắt xanh u buồn của người đàn ông.
“Con nghĩ tên chú là Lyell Bone.”
“Lyell Bone,” người đàn ông lặp lại. “Đó là một cái tên hay.”
“Và con là Charlie, con trai của chú,” Charlie nói gấp gáp.
Billy xắn tay áo lên:
“Anh không biết chuyện đó mà,” nó hạ giọng.
“Anh biết chứ,” Charlie nói. “Chắc chắn.”
Người đàn ông lộ vẻ khó hiểu:
“Con trai?” Ông nói vẻ hoài nghi. “Không thể được.”
“Được, được chứ!” Charlie kêu lên, quýnh quáng tin rằng đây thật sự là ba mình. “Và bây giờ con tìm thấy ba rồi, nên tất cả mọi việc sẽ tốt đẹp thôi. Con sẽ đưa ba về nhà, và ba sẽ gặp lại Ông cậu Paton. Ba nhớ Ông cậu không? Paton Yewbeam.”
“Paton?” Người đàn ông nhắc lại. “Chú nhớ có một bà Yewbeam mang chú tới đây. Bà Eustacia Yewbeam. Chính bà ấy thỉnh thoảng cũng mang thực phẩm đến.”
“Dĩ nhiên!” Charlie quá phấn khích đến nỗi hầu như không thể đứng yên. “Có ba bà cô Yewbeam. Họ là những bà cô của con, và con biết họ đã làm cho ba biến mất.”
Người đàn ông kêu lên, “Ồ, ồ,” và lắc đầu:
“Thôi bây giờ hắng cứ gọi chú là Albert được không? Chú đã quen với cái tên đó rồi.”
“Chỉ bây giờ thôi đấy,” Charlie đồng ý.
Billy bất ngờ nói:
“Em không thể sống ở chỗ này được! Không thể được, nếu mấy bà Yewbeam tới đây.”
Charlie cũng nhận thấy, với Billy, tình thế giờ tệ hại hơn bao giờ hết.
“Tụi mình sẽ tìm một nơi nào đó khác vậy,” nó bảo Billy. “Càng sớm càng tốt.”
Nhưng trong lúc hai đứa đang nói chuyện, thì thời tiết bỗng thay đổi khốc liệt. Một cơn gió lạnh bắt đầu gào rú quanh lâu đài, và những đợt mưa đá quất đập lên những bức tường thủy tinh. Làm một cuộc hành trình vượt biển lúc này là quá nguy hiểm. Chúng cần phải đợi cho đến khi cơn bão ngớt đi.
Ông Albert mời bọn trẻ dùng bữa. Giở nắp một cái rương lớn bằng gỗ sồi, ông lấy ra vài hộp đồ hộp, trút hết vào một cái xoong và hâm nóng đồ ăn bằng một cái bếp dầu nhỏ để ở góc phòng. Billy và Charlie được trao cho hai tô đậu hầm và hai cái muỗng.
“Chú sẽ ăn trong xoong,” chủ nhà nói, vui vẻ vục một chiếc muỗng gỗ vào chỗ đậu còn lại. “Đồ hộp cũng vẫn có thể ngon chứ hả?”
“Dạ,” Charlie nói, tự hỏi phải chăng ba nó sống toàn bằng đậu.
Bọn nhóc ngồi trên một cái đệm mây trải trên một góc sàn nhà mọc đầy cỏ cứng, và ông Tuccini ngồi trên chiếc ghế duy nhất. Trong khi ăn, Charlie nhìn quanh căn phòng lát gương. Đồ đạc lèo tèo. Dựa vào một bức tường là một tấm nệm với một đống mền ở trên. Một chiếc va li cũ tơi tả dựng bên cạnh tấm nệm, và Charlie chắc chắn trong đó đựng toàn bộ tài sản của chủ nhân, bởi vì không thấy có thêm món gì nữa, ngoài vài ba cuốn sách, vài cái dĩa và muỗng và một chồng giấy trên một chiếc bàn tròn. Dưới gầm bàn có một cái tô lớn, một cái bình và dăm ba cái hũ. Một chiếc máy hát quay tay để dưới sàn nhà ngay bên trong cánh cửa.
Ở một bên cánh cửa, một dãy cầu thang dốc dẫn lên tầng tháp cao hơn. Billy cứ ngó trân trân những bậc thang đó trong lúc ăn – nói cho đúng, nó không rời được mắt khỏi những bậc thang.
"Chúng dẫn tới đâu vậy?” Nó hỏi, hất đầu về phía những bậc thang.
“Chúng dẫn đến những bức tường lịch sử,” ông Albert trả lời. “Chú đã lên đó rồi nhưng những bức tường chẳng nói được điều gì cả. Thỉnh thoảng chú nghe có tiếng cười, tiếng hát, một hai từ mà chú không thể hiểu được và… những âm thanh mà chú không muốn nói ra.”
“Ma phải không ạ?” Charlie hỏi.
“Có thể,” ông Albert lấp lửng.
Nhưng khi ăn xong, đôi mắt hai đứa bé bắt đầu díp lại và chẳng mấy chốc chúng đã lăn ra ngủ.
Khi Charlie tỉnh giấc, căn phòng lát kính sáng loáng với những ánh nến phản chiếu. Nó đang nằm dưới một tấm mền, có Billy bên cạnh, vẫn còn đang ngủ.
“Các cháu mệt rồi đấy,” ông Albert nói, nhìn xuống Charlie. “Cháu vừa đi một chuyến dài mà.”
“Rất dài ạ,” Charlie nói. “Con sẽ kể cho chú nghe nếu chú thích.”
“Chú rất thích. Được nghe tiếng người nói thiệt thú vị,” ông Albert đến gần và ngồi xuống mép tấm đệm mây.
Trước khi Charlie mô tả cuộc hành trình của nó với Hoàng hậu Berenice, nó cảm thấy nên cho ông Albert biết đôi chút về những đứa con của Vua Đỏ và Học viện Bloor. Ông Albert hơi quay đầu một chút khi nghe Charlie nhắc đến Học viện Bloor, cứ như cái tên ấy gõ trúng một sợi dây đàn ở đâu đó. Nhưng ngay sau đó, vị thính giả của Charlie lại ngồi im re, chăm chú nghe Charlie với cái nhìn tập trung đầy suy tư.
“Con biết tất cả những chuyện này nghe có vẻ khó tin,” Charlie nói khi kể đến đoạn con bướm trắng phát hiện ra chỗ để cái thuyền.
“Không cái gì là không thể xảy ra đối với một người không thể nhớ cuộc đời của chính mình,” ông Albert nói với nụ cười tiếc nuối. “Ừm, nhìn kìa, con bướm trắng của cháu đó.”


Charlie thấy con bướm trắng đậu gần mái đầu trắng của Billy.
“Nó ở đó suốt trong lúc các cháu ngủ,” ông Albert nói với Charlie, “như là canh gác vậy.”


Billy choàng tỉnh giấc và tự động mó tìm mắt kiếng. Nó thấy rất kém nếu không có kiếng, và nếu không có kiếng đậu trên sống mũi thì nó luôn cảm thấy như đang đi lạc.
“Em nghĩ em đang mơ,” Billy nói, ngồi dậy. “Nhưng tất cả là đúng sự thật, phải không?”
“Đúng vậy. Tụi mình đang ở trong Lâu đài Gương,” Charlie nói.
Billy lập tức đảo mắt tìm cái cầu thang bên cạnh cánh cửa.
“Và tí nữa em sẽ lên trên đó, đúng không? Thiệt tình, em thấy rất muốn lên đó.”


Cu cậu tung chăn ra và đứng lên, vẫn dòm trừng trừng vào cái cầu thang. Cái cầu thang cuốn hút thằng bé như một thỏi nam châm.
“Để anh đi cùng em,” Charlie nói.
Ông Albert trao cho Billy một trong rất nhiều cây đèn cầy đựng trong những hộp thiếc rỗng để khắp phòng.
“Cháu sẽ cần cái này,” ông nói. “Trên đó tối lắm.”
“Tổ tiên của cháu sống ở đây,” Billy nói vẻ đầy tự hào. “Anh Charlie nghĩ cháu có thể sẽ trông thấy họ. Hôm qua cháu cháu sợ lắm, nhưng giờ thì cháu hết sợ rồi.”
Nó đi hùng dũng tới cầu thang và bắt đầu leo lên. Charlie theo sau, chậm rãi hơn.


Những bậc thang cách quãng không đều nhau và mặt đất dưới chân mấp ma mấp mô. Charlie thấy chúng thiệt khó leo. Cầu thang xoáy hướng lên trên, càng lúc càng hẹp veo và dốc hơn. Charlie vuột mất, không thấy Billy đâu, nhưng nó vẫn loáng thoáng nghe thấy tiếng những bước chân của thằng bé, hấp tấp đi lên tháp. Ánh đèn cầy heo hắt dần khi Billy lên cao; không lâu sau Charlie chỉ còn biết lấy tiếng bàn chân của Billy để dẫn lối cho mình.
“Billy, anh không thấy đường!” Nó hét lên.


Billy đã lên tới những bức tường lịch sử. Nó gần như không nhận ra tiếng hét từ bên dưới, và Charlie đành phải mò mẫm đường lên các bậc thang và vào căn phòng kỳ lạ ở trên đỉnh tháp. Tại đây, những tấm kính có tráng gương – thứ đã làm nên những bức tường – phản chiếu đầu tóc trắng của Billy, mắt kiếng lấp lóa của nó và cây đèn cầy leo lét của nó trên hàng trăm vị trí khác nhau. Khi Charlie đứng bên cạnh thằng bé con, hình phản chiếu của Charlie nhìn mờ căm và tối hù.
“Họ đến đấy,” Billy nói thầm. Nó đứng như trời trồng, ngó chằm chằm vào bức tường thủy tinh.


Charlie bắt đầu nhận ra những hình thù mơ hồ trôi đằng sau hình phản chiếu của Billy.
“Em thấy gì thế?” Nó hỏi nhỏ.
“Người,” Billy nói bằng giọng khàn khàn. “Cả một gia đình. Một người đàn ông hình như mặc áo giáp… nhưng không có mũ. Và người phụ nữ tóc vàng, đang cười. Họ ngồi bên một chiếc bàn và… ăn, đúng rồi, một bữa tiệc. Họ đói và hạnh phúc. Một người trong đám đó nhìn giống em – giống hệt em. Anh có nghe tiếng họ không. Charlie?”
“Không. Không nghe gì hết.”
“Em thì nghe được những cái tên. Và có người nào đó hát.”
“Những cái tên gì?” Charlie hỏi.
“Người phụ nữ tóc vàng gọi người đàn ông là Amadis – và bà gọi cậu bé giống em là Owain. Xong rồi ngài Amadis nói, ‘Hát lại đi Amoret. Ta thích bài hát đó.’”
“Amoret!” Charlie thốt lên.
“Suỵt! Anh làm họ sợ đi mất bây giờ.”
“Amoret?” Charlie nói, hạ thấp giọng. “Em có chắc ông ấy gọi bà ấy là Amoret không?”
“Chắc,” Billy thì thầm. “Người phụ nữ đang hát là bà Amoret. Bà có tóc đen và rất đẹp.”


Charlie ngó trân trân vào những bức tường lịch sử. Nó cứ ngó mãi, ngó mãi, mong ngóng muốn thấy một ai đó, bất cứ ai mà có thể kéo nó vào. Cuối cùng, nó bắt đầu nghe được một tiếng hát xa xa, và nó thấy mình trôi về phía một gương mặt xanh tái được bao bọc trong những lọn tóc đen lượn sóng.
“Charlie!” Billy thét lên. “Anh không định vào trong đó chứ? Đừng! Đừng! Anh không bao giờ ra được đâu!”
 
Charlie vùng vẫy như một người đang bơi dưới nước. Di chuyển về phía những hình ảnh phản chiếu rất khác so với đi vào một bức tranh hay một bức hình chụp. Gương mặt của bà Amoret cứ chực biến mất. Cứ như thể bà đang cố đẩy nó trở lui lại.


Nhưng Charlie quyết không buông. Nó cố vươn về phía trước, đẩy không khí dạt qua bên, quẫy đạp những xiếng xích đang níu nó lại. Cuối cùng nó bắn vào một căn phòng, nơi có một phụ nữ đứng ôm chặt ba đứa trẻ. Hoàng tử Amadis đi rồi, và bà Amoret đang nhìn thẳng vào mặt Charlie.
“Đi,” bà Amoret thét. “Cho dù mi là bất cứ ai. Mi phải đi!”


Và giờ Charlie mới nhận ra những âm thanh khủng khiếp ở bên ngoài căn phòng. Tiếng đá tảng nện ình ình lên cánh cửa nặng, tiếng mũi tên bay rin rít, tiếng la thét gào rú của trận chiến. Charlie trôi ra ngoài, vào một khoảnh sân, và giữa đám đông la thét hãi hùng ấy, nó thấy một cậu bé tóc trắng có một con quạ đậu trên vai. Cậu bé phóng như bay về phía một cái giếng và leo vào trong. Phút chốc sau, cả tòa lâu đài bốc cháy và Charlie bị bao quanh bởi một bức tường lửa.
“Cứu! Cứu!” Charlie hét lớn.


Có cái gì đó giật nó quỵ xuống. Nó không thể thoát ra được, không thể thở được.


Một tiếng “choang” xé màng nhĩ, tiếp theo là tiếng thủy tinh vỡ vụn, nhắc Charlie nhớ tới những tai nạn do Ông cậu Paton gây ra và nó lập tức cảm thấy yên tâm trở lại. Liệu Ông cậu ở nhà có an toàn không?
“Charlie! Charlie, trở lại đi!” Một giọng gọi từ xa.


Charlie chớp mắt và thấy mình nhìn vào một tấm gương nứt nẻ, ánh sáng nhảy nhót trên mỗi miếng nứt nhỏ xíu. Thủy tinh vỡ nằm vương vài khắp xung quanh nó, lấp lánh tựa như kim tuyến.
“Charlie?” Billy đứng trước mặt nó, cầm một cây đèn cầy. “Anh trở lại rồi hả?”
Charlie lại chớp mắt và lắc đầu:
“Phải, anh về lại rồi.”
“Chú Tuccini buộc phải đập bể tấm kính. Em với chú ấy nghĩ anh bị mắc kẹt trong bức tường lịch sử rồi chứ.”
“Xem ra đó là cách duy hất để đưa cháu ra,” ông Albert Tuccini ngó xuống Charlie. “Cháu chu du như vậy thiệt quái dị. Chú nghi là chưa bao giờ được tốt đẹp.”
“Đúng ạ. Chưa bao giờ tốt đẹp,” Charlie thừa nhận. “Nhưng lần này con phải đi vô, bởi vì tổ tiên của con, bà Amoret cũng ở trong đó. Chắc chắn bà ấy ở trong lâu đài khi nó bốc cháy, trước khi nó biến thành thủy tinh. Nhưng các con của bà ở đâu?”
“Không phải, lúc nào cũng tìm ra câu trả lời,” ông Albert nói, vẻ ưu phiền. “Thôi. Các cháu đã trải qua nhiều chuyện buồn rồi. Phải nghỉ ngơi đi thôi.”
“Bức tường lịch sử bể rồi, tất cả là lỗi tại anh,” Charlie nói một cách ân hận.
“Chỉ là bề mặt thôi,” ông Albert nói. “Bức tường rất dày. Chúng bền hơn đôi giày cũ của chú nhiều.”


Ông giơ chiếc giày đen đang mang bên bàn chân trái lên, cột dây giày lại thật chặt rồi tiến về phía chiếc cầu thang nguy hiểm.
Khi Charlie đi xuống căn phòng của ông Albert Tuccini, ánh bình minh bắt đầu xuyên qua những bức tường thủy tinh. Bão đã tan và ông Albert thông báo rằng sẽ có một ngày đẹp trời. Nếu chúng rời đi ngay, thủy triều sẽ đưa chúng trở lại vịnh an toàn.
“Ba sẽ đi với tụi con chứ,” Charlie nài nỉ.
Ông Albert xòe rộng hai bàn tay:
“Chú không dám.”
“Nhưng sao vậy? Tụi con sẽ giữ an toàn cho ba,” Charlie tuyên bố. “Ba phải trở lại, vì có mẹ… và tất cả mọi thứ.”
“Chú có một người vợ à?” Albert coi bộ sững sờ.
“Phải ạ. Chứ ba nghĩ làm sao con tới đây được?” Charlie nói vẻ uất ức.
Nó bắt đầu cảm thấy càng lúc càng hoảng. Nó đã tìm được ba, chỉ để sau đó bỏ lại ông ở một nơi mà ông không bao giờ gặp lại nó lần nữa. Nếu nội Bone mà biết chuyến viếng thăm đảo của Charlie, thì nhà Yewbeam bảo đảm sẽ chuyển ông tới một nơi nào đó thậm chí còn khó đến được hơn nhiều.


Chính Billy thuyết phục được ông Albert rằng ông phải đi chung với tụi nó.
“Tụi cháu không thể chèo thuyền một mình được,” nó nói, đôi mắt mở lớn đầy lo âu. “Tụi cháu cần chú, chú Tuccini. Anh Charlie không khỏe để chèo thuyền suốt cả chuyến về một lần nữa.”


Ông Albert cào cào mớ tóc xoăn của mình.
“Rất phải. Có lẽ đó là việc chú nên làm.”
Ông dẫn bọn nhóc ra khỏi tháp và băng qua mảnh sân, tới một cánh cửa chìm hẳn vào những bức tường thủy tinh. Một cái nhấn nút, và một tấm kính mở ra, đung đưa. Khi tất cả bước qua rồi, ông Albert khép tấm kính lại. Giờ đã hoàn toàn không thể phân biệt được nó với phần còn lại của bức tường.
“Chỉ có thể mở ra được từ bên trong,” ông Albert nói với hai thằng bé. “Từ ngoài vào phải sử dụng cầu trượt.”
Hình ảnh bà cô Eustacia tuột xuống cầu trượt vụt hiện ra trong đầu Charlie, và nó phì cười một mình.


Khi họ bước trở lại bờ biển, Charlie kể cho Billy nghe về cậu bé tóc trắng mà lúc nãy nó thấy leo vào cái giếng.
“Chính nhờ thế mà cậu ấy sống sót,” nó bảo Billy. “Cậu ấy leo ra khi lửa đã tắt rồi bằng cách nào đó vô được đất liền, sau đó đi chu du khắp vùng trung Âu cùng với một con quạ. Cho nên mới có cái họ Raven của em. Và cả họ của người giám hộ em, Christopher Crowquill. Tổ tiên của người ấy là anh trai tổ tiên em.”
“Có lẽ em sẽ sống với chú với Christopher Crowquill,” Billy nói tràn trề hy vọng.


Charlie nín thinh. Chú Christopher Crowquill tội nghiệp cũng đang gặp nguy hiểm không kém gì Billy. Chú ấy không thể chăm sóc nó được.
“Ông cậu Paton sẽ biết phải làm gì,” Charlie lẩm bẩm.
Ông Albert Tuccini sải bước đi trước bọn nhỏ. Ông bảo chúng rằng hàng ngày ông hay đi bộ ra bờ biển.
“Để tập thể dục, các cháu biết đấy,” ông quay lại nói to với bọn chúng. “Để làm căng buồng phổi và để giữ dáng cơ bắp tay chân.”
May làm sao, bão đã xô chiếc thuyền vào sâu trong đảo mà không đánh bạt nó ra xa ngoài biển. Ông Albert và bọn trẻ xắn quần lên và tháo giày vớ ra. Họ kéo chiếc thuyền xuống nước, và trong khi Charlie và Billy ngồi một đầu, ông Albert ngồi đầu ngược lại, cầm lấy hai mái chèo. Lưng ông quay về hướng những vách đá cao vợi ở đất liền, vì vậy ông không trông thấy có hai bóng người đang đứng trên bãi biển đằng xa ấy.


Charlie trông thấy họ trước tiên. Tim nó bỗng lộn nhào một cái. Mấy người nhà Yewbeam chăng? Billy cũng thấy những người ấy, và nó níu chặt lấy ống tay áo Charlie.
“Họ tới để bắt em đó,” nó khóc thút thít. “Đáng lẽ ra em nên ở lại đảo.”
“Em sẽ chẳng an toàn gì hơn đâu mà,” Charlie bảo nó. “Bình tĩnh đi, có lẽ không phải họ đâu.”


Ông Albert ngoái nhìn ra sau.
“Người. Cháu có thể nhìn rõ xem họ là ai không, Charlie?Cháu có muốn quay trở lại lâu đài không?”
Charlie nhướn căng mắt lên và ngó đăm đăm về bãi biển.
“Không,” nó nói chậm rãi. “Con nghĩ là… có, con biết. Con biết chắc chắn họ là ai.”


Bởi vì một người trong số họ đang từ từ hiện rõ. Một người đàn ông cao lớn tóc đen, áo khoác đen.
“Đúng rồi!” Charlie reo lên. “Đó là Ông cậu Paton của con. Con không biết người kia là ai, nhưng ông ấy rất nhỏ, và hình như đang khòm người xuống, con không nghĩ ông ấy nguy hiểm đâu.”
Nỗi phấn khích của Charlie đã chiến thắng, và nó nhảy cẫng lên tại chỗ, lật thuyền nghiêng hẳn qua một bên.
“Ối!” Ông Albert hét to. “Cháu suýt đẩy bọn ta xuống nước, Charlie Bone!”


Được thủy triều giúp sức, giờ họ đang tiến nhanh đến bãi biển. Charlie nóng lòng muốn thấy vẻ mặt của Ông cậu nó khi ông Albert bước lên bờ, bởi vì Lyell Bone vốn là bạn thân của Ông cậu Paton, và chắc chắn, Ông cậu Paton có thể giúp Albert nhớ lại ông ấy thật sử là ai.
“Ông cậu Paton!” Charlie gọi. “Đoán coi con tìm được ai nào?”
Ông cậu Paton vẫy tay và hét lên.
“Ta thấy mày có Billy Raven đi cùng. Và ở đây có ông Christopher Crowquill.”
“Ôi, không! Ông cậu không hiểu nổi.” Charlie không thể chịu nổi tình trạng hồi hộp.


Ông Albert ngoái nhìn về bãi biển, nhưng Ông cậu Paton không có dấu hiệu gì chứng tỏ là đã nhận ra ông ấy. Chiếc thuyền va mạnh vào một đụn cát và ông Albert cùng hai thằng bé leo ra, lội ì oạp qua làn nước nông khi họ kéo thuyền lên bãi biển.


Charlie không thể đợi lâu hơn được nữa.
“Coi đây, Ông cậu Paton. Con tìm thấy ba con rồi.”
Ông cậu Paton nhìn ông Albert với một cái nhíu mày khó hiểu, ông nói:
“Charlie, đây không phải là ba mày.”
Charlie choáng váng đến nỗi không thể thốt nên lời.
“Họ gọi tôi là Albert Tuccini,” ông Albert nói, chìa bàn tay ra. “Rất hân hạnh được gặp ông.”


Ông cậu Paton tự giới thiệu mình và Christopher, rồi tất cả họ bắt tay nhau.


Charlie cảm thấy như có cả tấn chì đè xuống ngực nó. Sự thể khiến nó đau đớn đến nỗi không còn suy nghĩ nổi, không còn nhúc nhích nổi. Đám mây thất vọng khổng lồ chẹn ngang những lời nói bao quanh nó. Nó lờ mờ nhận thầy Christopher Crowquill đang ôm siết lấy Billy. Và nó thấy Ông cậu Paton lắng nghe ông Albert và ngó chăm chăm ra biển, về phía Lâu đài Gương. Ông cậu của nó hẳn đã thuyết phục được ông Albert đừng trở lại đảo nữa, bởi vì phút tiếp theo, cả nhóm người đã hớn hở di chuyển sâu vào bãi biển.
“Charlie, mày không sao đấy chứ?” Ông cậu Paton ngoái lại và chờ nó.
“Con… con… dạ không sao,” Charlie nói một cách khổ sở. Nó bước lên cho kịp Ông cậu.
“Mày thất vọng ghê gớm lắm nhỉ. Ta xin lỗi, rất tiếc, Charlie à.” Ông cậu Paton bóp vai nó.
“Không sao. Tại con ngốc quá thôi. Con biết đó thiệt không thể là ba được.”
“Một ngày nào đó được,” Ông cậu Paton nói.


Charlie nhìn Ông cậu nó và ông Albert đẩy chiếc thuyền vào trong hang. Và rồi tất cả họ leo lên những vách đá để sang một vịnh khác, nơi có một con đường mòn nhỏ hẹp uốn quanh co lên tít đỉnh núi.
Christopher Crowquill dẫn đầu, với Billy đi sát ngay sau. Kế tiếp là Ông cậu Paton, rồi tới Charlie. Ông Albert Tuccini đi cuối cùng. Đó là một cuộc leo núi nguy hiểm, và khi họ lên được nửa đường, Ông cậu Paton bảo:
“Đúng ra mày phải chứng kiến hồi nãy bọn ta đi xuống như thế nào, Charlie. Gần như cả đường phải trượt bằng mông.”
Charlie cố nặn ra một nụ cười thiều hào hứng. Nó nhìn trở lại Lâu đài Gương. Lâu đài bị trùm kín trong sương mù. Chẳng bao lâu nữa nó sẽ lại vô hình. Nhưng những bí mật quý giá của nó sẽ vẫn còn đó, ẩn trong bức tường lịch sử, và một ngày nào đó Charlie sẽ quay lại để khám phá chúng.


Lúc họ lên tới đỉnh vách đá thì thủy triều đã lên cao, và nhìn xuống, Charlie thấy những con sóng nổi bọt đang quật mạnh và một hàng rào chắn là những tảng đá lởm chởm, đen xì.


Ông Albert Tuccini nãy giờ để ý Charlie với vẻ lo ngại. Ông đặt tay lên cánh tay nó và nói:
“Chú rất tiếc rằng chú không phải là ba cháu.”
“Dạ không sao mà,” Charlie nói, ủ dột.
Họ bước dọc theo đỉnh vách đá tới con đường nơi Ông cậu Paton đậu xe. Khi họ quay lưng khỏi biển, một con chim thình lình kêu quác lên và bay vù lên trời. Ngó tới phía trước coi cái gì khiến con chim sợ hãi, Charlie thấy một khối đen thù lù choán ngay giữa lối đi.
Ông cậu Paton chậm bước lại.
“Cái gì…?” Ông lắc đầu. “Một cái cây?”


Ông lại sải bước nhanh hơn để theo kịp mấy người đi đầu.


Khi đến gần cái cây, họ thấy nó lùn chủm và hình thù quái đản. Những cành cong vẹo của nó thòi ra những chùm là kim đen đúa, nhọn hoắt, và vỏ của cái cây đầy mấu ấy nứt nẻ toàn những sẹo là sẹo.


“Cây thủy tùng đen,” giọng Ông cậu Paton nghẹn lại vì kinh hoàng.
Trước mắt họ, một gương mặt như chằn tinh uốn éo nhú ra khỏi vỏ cây xù xì; những cành cây teo quắt lại, lá kim rụng lộp độp tựa như một cơn mưa đen, và thân cây quằn quại từ từ định hình, thành một người đàn ông cao lớn. Đó là lão Tantalus Ebony. Lão trâng tráo dòm nhóm người đang đờ ra, đôi môi mỏng quẹt của lão cong xoắn lại thành một nụ cười độc ác.
Charlie không tin nổi vào mắt mình. Lão Tantalus Ebony là người biến hình à?
Tantalus mở miệng:
“Chúng ta lại gặp nhau, Paton Yewbeam à.”
“Cái gì…?” Ông cậu Paton bắt đầu.
“Xời, xời Paton. Đừng có ní với tao là mày không hề biết có giây phút này đấy. Tao đã cảnh báo mày rồi, đúng không, rằng nếu mày làm hại Yolanda của tao thì mày sẽ phải trả giá bằng sinh mạng của mày, nhớ không?”
Giọng nói này khá quen, tuy rằng nó như vọng lên từ dưới lòng đất.
“MÀY GIẾT CON GÁI YÊU CỦA TAO!” Kẻ biến hình bất ngờ rống lên.
“Yorath,” Ông cậu Paton nói không hề run sợ. “Con gái lão là một quái vật.”
Kẻ biến hình phọt ra một tiếng gầm điên cuồng và lao như tên bắn vào Ông cậu Paton. Charlie thấy ngay điều gì sẽ xảy ra. Thí mạng sống của lão, lão Tantalus sẽ lôi Ông cậu của nó rớt khỏi vách đá. Charlie nhào tới túm chặt lấy Ông cậu Paton, nhưng Ông cậu gỡ hay bàn tay của nó ra và bước lên phía trước.
Trong nháy mắt, một hình thù màu xám nhỏ bay thẳng vào lão Tantalus. Họ quạt nhau chớp nhoáng và rồi, thiệt kỳ diệu, Christopher Crowquill đang ép kẻ biến hình về phía vách đá. Việc xảy ra quá nhanh đến nỗi không có một tiếng hét, không một hành động nào đủ nhanh để ngăn họ chúc đầu xuống rìa đá… và lao xuống.
Một tiếng thét, một tiếng rú, và rồi thinh lặng.
Ông cậu Paton chạy tới nới mà hai hình người biến mất. Ông giang rộng cánh tay ra ngăn Charlie và Billy nhào tới trước.
“KHÔNG!”
Ông ra lệnh, bắt chúng lùi lại. Nhưng Charlie đã thấy được mặt biển sôi ục ục, và những tảng đá đen. Không còn gì khác, ngoại trừ một con chim màu đen bập bềnh trên những đợt sóng. Một con quạ đen? Một con quạ xanh-đen? Hay một kẻ biến hình?
“Người đàn ông dễ mến ấy đã liều mạng để cứu ta,” Ông cậu Paton nói khàn khàn.
“Tại sao vậy?” Billy gào lên. “Tại sao chú ấy lại làm vậy? Chú ấy là người bà con duy nhất của cháu mà. Người giám hộ của cháu. Giờ cháu lại không còn ai nữa.”
“Có anh và Ông cậu đây,” Charlie nói.
“Tại sao? Tại sao?” Ông cậu Paton lắc đầu. “Chẳng có nghĩa lý gì.”
Ông gồng vai lại, dường như để tự trấn tĩnh tinh thần.
“Chúng ta phải rời khỏi nơi này. Ta sẽ báo cho lực lượng tuần duyên khi chúng ta đi khỏi nơi khủng khiếp này. Không còn gì thêm để làm ở đây nữa.”
Trong bầu im lặng ngột ngạt, họ lầm lũi bước đi cho đến khi tới chỗ xe hơi của Ông cậu Paton đậu. Charlie và Billy leo vào hàng ghế sau, trong khi ông Albert ngồi vào ghế trước.
Trong lúc lái xe, Ông cậu Paton giải thích cuộc tấn công của kẻ biến hình cho ông Albert Tuccini đang chẳng hiểu gì nghe.
“Lão ấy già đến độ không còn xác của riêng lão, và lão phải mượn xác, và đôi khi, mượn cả trí não của những sinh vật khác. Con gái của lão cũng xấu xa không kém. Mụ giết mẹ tôi, và rồi định giết người yêu mến của tôi.”
Charlie thì thào:
“Cô Julia Ingledew đó,”
Nhưng Billy quay mặt đi và lánh vào ngồi thu lu trong góc xe; một hình ảnh trông thật tội nghiệp.
“Mụ Yolanda ấy quái đản làm sao,” ông Albert nói.
“Vì vậy tôi phóng điện giật chết mụ,” Ông cậu Paton nói lạnh băng.
Nếu ông Albert có bị sốc thì ông cũng không để lộ ra. Có lẽ một vài ký ức nào đó của ông đang hiện về. Những ký ức đó gớm ghiếc đến nỗi không có gì có thể khiến ông ngạc nhiên được nữa.
Sau khi đã đi được một lúc lâu, họ dừng lại bên một quán ăn bên ngoài rìa một thị trấn nhỏ. Trời hôm ấy ấm áp, rực nắng và Ông cậu Paton chọn ngồi ở một cái bàn bên ngoài. Ông đưa cho Charlie một danh sách và một ít tiền đủ để mua bữa trưa cho bốn người, Billy, xem ra đã hồi phục chút ít, đi theo Charlie vào một căn phòng được thắp sáng tù mù bằng vài bóng đèn nhỏ.
“Thảo nào Ông cậu của anh không vô,” Billy nói, huých cùi trỏ Charlie khi nó đọc to danh sách lên cho một phụ nữ tóc tím ở đằng sau quầy.
Charlie thảy cho Billy một cái nhìn cảnh cáo, và Billy nói, bằng giọng não nề:
“Em đâu có để lộ điều gì đâu, đúng không nào?”
Charlie cười với người phụ nữ tóc tím, và bà mỉm cười lại, một cách rất dị kỳ, trước khi biến mất sau tấm rèm kết bằng những chuỗi hạt.
Khi Charlie và Billy trở lại bàn, Ông cậu Paton đang ở trong buồng điện thoại công cộng ở bên kia đường.
“Ông ấy đang báo cho cảnh sát về tai nạn vừa rồi,” ông Albert nói. “Chuyện kinh khủng thật.”
“Vừa tệ lại vừa hay,” Charlie nói mà không suy nghĩ.
Billy bắn cho nó một cái nhìn bị tổn thương. Ông Albert không nói gì. Lát sau, một cô gái mặc váy cực ngắn màu đen xuất hiện với một khay bánh mì kẹp, nước lọc, nước cam ép và cà phê. Ông cậu Paton đã quay lại từ buồng điện thoại công cộng, nhưng hình như cảnh sát nghĩ đó là một cú lừa.
“Tôi không biết có thể làm gì khác hơn được nữa,” Ông cậu Paton nói, liếc nhìn một cách ngại ngừng về phía Billy. “Về Alice, tôi sẽ phải ăn nói với cô ấy như thế nào đây? Cô ấy sẽ tan nát tim gan mất.”
“Giống như con,” Billy nói, nhìn chằm chằm ổ bánh mì kẹp dăm bông mà nó không nuốt nổi.
“Billy à, ta không biết nói ra điều này có giúp gì không, nhung người giám hộ của cháu rất, rất quan tâm tới cháu. Ông ấy làm cái việc kia là có lý do chính đáng đấy. Thiệt tình, ta tin rằng ông ấy đã hy sinh vì cháu. Suốt bảy năm dài ông ấy khao khát mong được gặp chúa. Ông ấy không dễ gì bỏ lỡ cơ hội để được sống cùng với cháu.”
Bằng giọng yếu ớt, Billy thốt lên:
“Ồ.”
Ông Albert Tuccini vẫn nín thinh suốt bữa ăn. Có một vẻ thẫn thờ, xa xăm rất lạ trong mắt ông và hình như ông không để ý gì đến những người còn lại. Khi mọi người đã ăn xong mớ bánh mì (Charlie ăn phần của Billy), ông Albert bảo ông sẽ vào trong để tìm toa-lét nam.
Nhiều phút trôi qua. Rồi hết mười lăm phút mà ông Albert vẫn chưa trở lại, Ông cậu Paton bắt đầu bồn cồng thấp thỏm và Charlie được phái vào toa-lét xem sao. Không có ai ở đó.
Ông cậu Paton nhíu mày lại khi nghe tin này:
“Không ai à? Mày chắc không?”
“Chắc chắn,” Charlie nói.
Ông cậu Paton đứng lên:
“Để ta đi coi.”
“Ông nghĩ ông có nên đi không? Có rất nhiều óng đèn ở trong…” Charlie mới bắt đầu.
Nhưng Ông cậu nó đã đi vội qua cửa quán. Charlie cầu cho ông đừng gây ra một tia nạn nào. Một thoáng sau, nó nghe tiếng quát của một người đàn ông:
“Trời, đèn đóm trong toa-lét bể sạch rồi. Tùm lum trong đó. Miểng văng cùng khắp.”
Ông cậu Paton vội vã đi ra. Trông mặt ông đỏ bừng.
“Mẹ kiếp,” ông lầm bầm. “Ta chắc chắn không bị ai vạch mặt.”
Nhưng theo sau ông là người phụ nữ tóc tím, lúc này trông cực kỳ tức giận.
“Có phải ông là Paton Yewbeam không?” Bà ta hỏi.
“È… phải,” Ông cậu Paton hồi hộp đáp.
“Thằng cha ấy để lại một mẩu nhắn cho ông đây.”
Bà trao cho Ông cậu Paton một tờ giấy gấp lại và bước đi, cằn nhằn rằng bà ta đã đủ việc để làm rồi, không cần phải có thêm cái việc đưa tin nhắn với lại dọn dẹp toa-lét đâu.
Ông cậu Paton mở mẩu giấy ra. Vẻ mặt ông trơ ra khi đọc thư.
:Ta không thể nói là ngạc nhiên được. Người đàn ông tội nghiệp.”
“Thư nói gì ạ?” Charlie khẩn nài.
Ông cậu nó đọc to lên.
Kính gởi ông Yewbeam,
Tôi vô cùng sung sướng được quen biết ông, Charlie và Billy, dù chỉ ngắn ngủi. Nhưng giờ chúng ta phải chia tay. Đừng tìm kiếm tôi, tôi xin ông. Như thế sẽ tốt hơn. Có lẽ chúng ta sẽ gặp lại nhau vào những lúc vui vẻ hơn.
Người bạn hèn mọn của ông.
Albert Tuccini (cứ cho là thế đi)
“Ông ấy sẽ đi đâu được,” Charlie hỏi, “nếu ông ấy không biết mình là ai?”
Ông cậu Paton nhún vai và đút tờ giấy vào túi.
“Ta tin ông ấy là một nghệ sĩ piano kiệt xuất, Charlie. Thôi chúng ta cứ hy vọng rằng ông ấy sẽ tạo dựng được một cuộc đời riêng cho mình, ở đâu đó trên thế giới này.”
Họ bước trở lại xe hơi và bắt đầu một cuộc hành trình dài khác về hướng bắc, về phía đường Filbert và Học viện Bloor.
Sự ra đi thê thảm và bất ngờ của Christopher Crowquill vừa rồi đã gạt tất cả mọi thứ khác ra khỏi tâm trí Charlie, nhưng bây giờ ký ức về chuyến đi cùng Hoàng hậu Berenice lại ùa về và nó không thể tưởng tượng làm sao nó lại quên béng mất việc nói cho Ông cậu biết chuyện đó.
“Ông cậu không hỏi con tại sao con lại tìm ra hòn đào này,” nó nói, chồm qua ghế của Ông cậu Paton.
“Bạn của mày, thằng Tancred, đã kể cho ta nghe về con ngựa trắng,” Ông cậu Paton nói. “Ta không làm sao bảo thằng ấy lui xa khỏi ống điện thoại được. Nó kể với ta tất tần tật: những tờ giấy ghi lời thề, chằn tinh ăn thịt người, hồn thiêng, cơn bão. Nó cứ kể tuốt tuồn tuột. Không phải là ta không quan tâm. Hai đứa mày chắc là vừa chui qua máy vắt quần áo trong mấy ngày vừa rồi.”
“Máy vắt quần áo?” Billy hỏi.
“Ep, vặn, vắt ráo,” Ông cậu Paton giải thích.
“Bị vắt kiệt,” Billy lẳng lặng nói. “Đúng. Cháu thấy mình bị vắt kiệt.”
“Chúng bay, ta phải…” Ông cậu Paton ngần ngừ, và rồi ông nói, “Mà thôi.”
Charlie tự hỏi Ông cậu nó định nói cái gì. Giọng của ông như có lời cảnh báo: nhưng có lẽ ông cảm thấy hôm nay chúng chịu thế đủ rồi. Có một quãng im lặng dài và rồi Charlie nói:
"Hoàng hậu chạy đi khỏi khi bà trông thấy hòn đảo. Con thắc mắc không biết bà đi đâu.”


Ngay lúc nghe nhắc đến Hoàng hậu, Billy ngồi dậy và một nụ cười tỏa sáng gương mặt nó.
“Bà nói bà sẽ không bỏ rơi chúng ta. Em nghĩ chúng ta sẽ gặp lại bà. Thiệt ra em biết tụi mình chắc chắn sẽ gặp lại bà. Bà như một người mẹ vậy.”


Charlie vui mừng khi nghe Billy lộ vẻ hy vọng. Nó ước gìnó cũng cảm thấy như thế.
Một chấm sáng nhấp nháy đậu xuống ống tay áo Charlie, và chồm tới trước, nó nói:
“Ông cậu Paton, con tìm thấy cây gậy phép của con rồi. Nó biến thành một con bướm trắng.”
“Vậy hả? Lại cái gì nữa đây?”
Sự hiện diện của con bướm trắng đã trấn an Charlie, vào lúc mà nó đang cần được an ủi. “Ông cậu sẽ không nói với mẹ con đâu, phải không Ông cậu,” nó hỏi, “về chuyện của ba con ấy?”
“Không, Charlie. Ta giữ chuyện đó mình ta biết thôi.”
 
Về đến thành phố thì trời đã tối. Ông cậu Paton không lái xe về thẳng đường Filbert như Charlie đoán. Thay vào đó, Ông cậu dừng xe lại bên cạnh căn nhà thân thuộc và ồn ào, nơi gia đình Fidelio sống: Mái Ấm Gia Đình Gunn.
“Mình làm gì ở đây ạ?” Charlie hỏi.


Từ ghế ngồi, Ông cậu Paton quay lại:
“Coi bộ đây là giải pháp tốt nhất,” Ông cậu vừa nói vừa nhìn Billy.
Billy nãy giờ im re gần như hết chặng đường. Nó thậm chí đã thôi thắc mắc mình sẽ đi đâu, hoặc mình ở đâu thì sẽ an toàn. Có lẽ nó đã mong chờ được sống ở nhà số 9, tuy nhiên, có nội Bone ở đó, không thể nào che giấu nó lâu dài được. Bây giờ, đột nhiên, Billy há hốc mồm khi nghe những gì Ông cậu Paton nói.
“Ý Ông cậu là cháu sẽ sống ở đây phải không?” Billy nói.
“Ta không thể nghĩ ra được nơi nào tốt hơn,” Ông cậu Paton nói. “Thực ra thì ông bà Gunn đã tán thành kế hoạch này rồi. Cháu sẽ khó bị để ý trong một ngôi nhà có bảy đứa trẻ. Đó là đề xuất của ông Crowquill.” Giọng Ông cậu nhẹ đi. “Cũng là một đề xuất khôn ngoan. Ông ấy chưa bao giờ mà không nghĩ đến cháu cả, Billy.”


Chính lúc ấy Charlie chợt đoán ra tại sao ông Christopher Crowquill lại cứu mạng Ông cậu Paton. Ông Christopher mắc bệnh rất nặng, bất kỳ ai cũng có thể thấy điều đó. Ông ấy dễ trở thành nạn nhân của gia đình Bloor. Nhưng Ông cậu Paton, người được ban phép thuật chết người, thì không. Christopher đã cứu sống người duy nhất mà ông biết là có thể bảo vệ được Billy Raven.


Trông Billy đã có vẻ tươi hơn.
“Dạ, đó là ý hay. Trước đây cháu đã ở nhà anh Fidelio rồi.”
Ngay khi vừa ra khỏi xe, tiếng dộng thình thình từ Mái Ấm Gia Đình Gunn dấy lên, đổ dồn về phía họ. Người ta đang đánh, thổi, kéo, nện đủ mọi loại nhạc cụ. Giọng nam trầm thật vang của ông Gunn và giọng nữ trầm khỏe khoắn của bà Gunn thi đua với nhạc cụ của các con và toàn bộ ngôi nhà rung chuyển vì âm thanh.
“Hên là ngôi nhà này tách biệt,” Ông cậu Paton nói.
Ông ấn vào một cái nút ở bên cạnh cửa trước.


Ngay lập tức một giọng nói thu âm sẵn rống lên oang oang, “MỞ CỬA! MỞ CỬA! MỞ CỬA!”. Rõ ràng là nếu dùng chuông thì sẽ không thể nào nghe thấy được trong bối cảnh ồn ã như thế này.
Anh lớn của Fidelio, anh Felix, ra mở cửa.
“Charlie Bone!” Anh kêu lên. “Fidelio lo đến phát bệnh vì em đó. Lâu nay em ở đâu vậy?”
“Chuyện dài lắm,” Charlie bước vào nhà, theo sát là Billy.
“Billy Raven! Vậy là hai đứa em đi cùng nhau,” anh Felix nói, đóng ầm cửa lại.
“Khoan,” Charlie nói. “Ông cậu em vẫn còn ở ngoài đó. Anh có thể tắt đèn đi được không?”
“Ối trời! Ông Yewbeam!” Anh Felix vội vàng tắt hết đèn hành lang. “Ơi, ba má! Bóng đèn!” Anh gọi toáng lên. “Ông Yewbeam tới!”


Anh mở cửa trước và Ông cậu Paton bước vào hành lang tối om.
Ông bà Gunn vẫn say sưa với bản song ca của mình trong nhà bếp, trong khi anh Felix kêu rống lên:
“Bóng đèn, ba má! Bóng đèn! Ông Paton Kích Điện tới.”
Charlie không thấy được, nhưng nó biết Ông cậu đang đỏ mặt lên, căn cứ theo cái cách ông tằng hắng.
Vẫn đang hát, bà Gunn thò đầu ra khỏi bép:
“Gì, gì, gì, gì, gì, gì, gì, gì?” Bà ngân lên tới cung Đô trưởng.
“ÔNG YEWBEAM! MẸ!” Anh Felix gào to. “Ông Yewbeam. Bóng đèn.”
“Trời đất!” Bà Gunn vừa hát vừa tắt đèn nhà bếp.


Đèn phụt tắt làm ông Gunn gầm lên một tiếng đầy nhạc điệu, khi ông vấp phải con mèo điếc, và một tiếng ré thống thiết thoát ra từ con mèo bị đạp phải đuôi.
“Vậy là, đã kiếm được Billy rồi,” bà Gunn nói khi thấy Billy líu ríu bước vào nhà bếp. “Chào mừng, Billy. Con sẽ an toàn ở đây nhé. Rất nhiều con nít, rất nhiều tiếng nhạc. Con sẽ được giấu kỹ.”


Ba vị khách ngồi bên bàn bếp, và trong khi họ thưởng thức món bánh mì kẹp đồ nguội chọn lọc của bà Gunn, anh Felix cho họ biết tin tức về Học viện Bloor. Anh Felix vừa mới nhận bằng đại học âm nhạc, và đúng lúc anh đang định khởi động tua lưu diễn vòng quanh thế giới với ban nhạc của mình, thì được triệu hồi đến Học viện Bloor để dạy thay cho một thầy giáo dạy nhạc đã biến mất một cách bí ẩn.
“Tên là Ebony,” anh Felix nói.
“Tụi em biết,” Charlie nói.
“Không thể khước từ lời đề nghị đó,” Felix thêm vào. “Tiền lương quả thực hậu hĩ.”
“Ta hiểu,” Ông Paton nói. “Vậy tình hình diễn biến ra sao?”
“Chuyện chưa từng thấy!” Anh Felix nói một cách kịch tính. “Gabriel Silk bị hôn mê. Đã rời khỏi trường.”
“Hả?” Charlie kêu lên. “Chuyện như thế nào?”
“Liên qua gì đó đến áo chùng,” anh Felix nói. “Nhưng thằng bạn khác của em, thằng bão táp…”
“Tancred? Có chuyện gì xảy ra với anh ấy?” Charlie đánh rớt miếng bánh mì kẹp củ cải vàng và con mèo liền vồ lấy.
“Mất trí,” anh Felix nói. “Cứ trút mưa lên bạn bè. Fidelio bị ướt sũng nhiều lần, cả Lysander cũng thế, còn cô bé Emma Tolly thì đúng là tội nghiệp. Mấy ngón tay con bé bị sét đánh trúng.”
“Sạo lại mấy ngón tay !” Charlie gần như không tin nổi. Cái gì ám Tancred khiến nó tra tấn bạn bè theo kiểu đó vậy? Charlie đang nghĩ đến việc nghỉ thêm mấy ngày còn lại trong tuần, nhưng bây giờ điều đó không thể được. Nó phải tìm hiểu xem có chuyện gì đang xảy ra trong Học viện Bloor. Lời bà bếp trưởng cứ văng vẳng trong đầu nó: Ta là cục nam châm, Charlie. Ta giữ thế cân bằng. Một khi điều đó mất đi tức là chúng ta thua.


Vậy, điều gì đã xảy ra với bà bếp trưởng?
“Ba chọi sáu,” Charlie nói một mình. “Bảy, nếu tính cả Manfred.”
“Gì đó, Charlie?” Ông cậu Paton nói.
Charlie ngước lên:
“Con phải trở về Học viện Bloor.”
“Không phải tối nay, nhóc,” Ông cậu nói. “Đèn sắp tắt rồi. Với lại chắc chắn họ sẽ không mở cửa đâu.”
“Thì để mai vậy,” Charlie nói. “Càng sớm càng tốt. Con sẽ đi bộ nếu cần.”
“Không cần phải thế,” anh Felix nói. “Anh sẽ cho em quá giang.”
Khi Charlie và Ông cậu Paton đứng dậy ra về, có một tiếng rù chẳng êm tai chút nào ở dưới gầm bàn và ông Gunn hát vang:
“Pusskins lại xơi bánh củ cài vàng!”


Charlie nhẹ cả người khi thấy Billy bật cười ha ha cùng với mọi người. Chắc chắn là thằng bé đã được ở đúng chỗ - chí ít là bây giờ.


Ngay khi Charlie vừa bước vào nhà số 9 và tắt đèn hành lang đi, nội Bone đã quát nó từ trong phòng khách:
“Khỏi mất công nói với tao là mày đã đi đâu nghe chưa. Tao biết cả rồi. Thằng đần kia.”
“Ngậm miệng lại, Grizelda,” Ông cậu Paton càu nhàu.
Ngoại Maisie chộp lấy Charlie và kéo tuột nó vào nhà bếp thắp sáng bằng đèn cầy, và cứ thế kẹp chặt nó trong vòng tay bà. Mẹ nó cũng hòa vào ôm cùng, và khi Charlie suýt chết ngạt, nó được phép ngồi xuống bên bàn và uống một ly ca cao.


Như mọi khi, cô Amy và ngoại Maisie muốn biết ngay tất cả mọi chuyện, nhưng Ông cậu Paton cương quyết rằng Charlie phải được đi ngủ, trong khi ông kể cho họ nghe về Lâu đài Gương.
Mắt Charlie díp lại khi nó leo lên gi.ường. Thứ cuối cùng nó thấy trước khi ngủ thiếp đi là đốm sáng dìu dịu của con bướm trắng, khi con bướm đậu xuống bàn ngủ của nó.


Ahh Felix Gunn nói sao là làm vậy. Anh xuất hiện trong một chiếc xe hơi nhỏ, cà tàng, do Pháp sản xuất, ngay khi Charlie vừa ăn sáng xong.
“Ai đó?” Nội Bone tra hỏi, khi anh Felix chở Charlie vút về phía Học viện Bloor.


“Việc gì đến bà,” ngoại Maisie gắt.
Tất nhiên nội Bone sẽ phải đoán ra. Chuyến viếng thăm của anh Felix có làm bà chú ý đến gia đình Gunn hay không, Charlie không biết được. Có lẽ gia đình Bloor trước nay chưa bao giờ nghiêm túc coi gia đình Gunn là đồng minh của Charlie, cho tới khi anh trai của Fidelio đến cửa nhà số Chín. Nhưng một khi gia đình Bloor bắt đầu lưu tâm tới Mái Ấm Gia Đình Gunn thì hậu quả sẽ rất ư là tai hại.


Charlie cảm nhận được sự căng thẳng trong không khí ngay khi nó bước vào hội trường. Từ trên sân khấu, Fidelio giơ hai ngón tay cái lên với nó, nhưng tất cả những người khác đều nhìn nó chằm chằm một cách ngờ vực. Nó cảm thấy như thể bị mọc sừng trên đầu. Mà mình chỉ mới vắng có hai ngày, nó tự nhủ.


Cuối cùng Charlie cũng bắt kịp Fidelio trong giờ nghỉ giải lao đầu tiên.
“Anh không biết ai đã tung tin đồn, nhưng có khối chuyện hoang đường xoay quanh em với Billy,” Fidelio nói khi chúng cùng nhau băng qua bãi cỏ. “Mọi người đang kháo nhau là em bị đuổi học.”
“Để em kể anh nghe cho rồi,” Charlie nói.


Fidelio bảo cứ đi tiếp đi vì bọn nghe trộm ở khắp nơi. Vài phút sau, chúng có Lysander nhập bọn. Charlie chưa bao giờ thấy anh chàng này nản chí như vậy. Chính Lysander đã tìm thấy Gabriel nằm bất tỉnh trong chiếc áo chùng xanh da trời.
“Anh đã thấy lo lo khi Gabriel lên phòng nhạc,” Lysander nói với Charlie. “Nhất là khi Fido đã thấy Dorcas Loom mang một chiếc áo chùng vô Tháp Nhạc. Tìm thấy Gabriel là anh báo cho giáo sư Saltweather biết ngay. Thầy gọi xe cấp cứu.”
“May mà anh báo đúng người,” Fidelio nói nghiêm trang. “Nếu nói với bà giám thị thì Gabe tội nghiệp có lẽ không bao giờ được đưa tới bệnh viện.”


Đó là một suy nghĩ nghiêm túc.
“Đêm đó giống như có động đất vậy,” Fidelio thêm vào như thể nhớ ra. “Trong lòng đất rung dữ dội. Nhưng sáng ra mọi thứ nhìn vẫn bình thường.”
“Trong lòng đất?” Charlie nói, chau mày.
“Ê, côi Tancred kìa,” Lysander chỉ qua sân. “Tancred và thằng quỷ nhỏ.”
Charlie thấy Tancred và Joshua đang giỡn đùa với Dorcas Loom, chứ không phải ai khác. Chiếc áo len chui đầu của Joshua dính đầy lá khô.
“Nhưng làm sao…?” Charlie bắt đầu.
“Từ tính nam châm!” Lysander nói qua hàm răng nghiến chặt.
“Joshua?” Charlie nghi hoặc.
“Em ngạc nhiên là phải,” Lysander nói nghiêm nghị. “Mẹ anh biết nó rất rõ. Không cần khỏe hay đẹp trai hay thậm chí thông minh. Một số người chỉ cần nhiêu đó… Vậy thôi. Họ có thể xoay mình chỉ bằng đầu ngón tay nhỏ xíu.”
“Nhưng anh Tancred?” Charlie nói với vẻ không tin. “Anh ấy đang giúp tụi mình cơ mà. Sao anh ấy lại có thể quay ngoắt… như thế? Ý em là, anh thì sao, anh đâu có bị như anh ấy đâu!”
“Anh có chuẩn bị,” Lysander nói. “Nhưng từ tính là một phép thuật rất mạnh. Chắc là em cũng có cảm được rồi, Charlie. Lúc Joshua cười với em đó, kiểu như có một cái lôi kéo, làm em muốn kết bạn với nó, không cưỡng lại được.”
“Em có thấy vậy rồi,” Charlie thú nhận. “Nhưng em sẽ không để nó cuốn em đâu.”
Lysander gật đầu theo đúng kiểu thông thái và trầm tư của nó.
“Emma cũng không bị vậy.”
“Emma nhìn vậy mà mạnh mẽ lắm,” Charlie nói. “Nhưng Tancred! Sao Tancred lại để mình bị… bị sập bẫy như thế?”


Lysander thở dài.
“Tancred là người bạn tốt, nhưng hơi tự mãn một chút. Joshua lợi dụng điều đó. Và bây giờ thì Tancred bị nó điều khiển.”
“Em thật không tin nổi. Em chỉ mới đi xa có hai ngày à,” Charlie nói.
Ở đằng kia vườn, có ai đó thét lên thất kinh.Một trong những cô học trò mới, nhỏ nhất, bị một khúc gỗ lớn húc ngã.
Idith và Inez đang đứng cười khẩy cách đó vài thước.
“Tụi nó đó,” Lysander nói. “Đồ quỷ quái, hai cái đứa đó.”


Olivia và Emma đã nhìn thấy bọn con trai, và vừa mới sà tới gần thì một đám mây đột ngột vỡ toác ra ngay trên đầu hai đứa. Khi chúng chạy né về phía trước thì cơn mưa cũng rượt theo, và ba thằng bé liền quay đầu, ù té chạy đi kiếm tán cây. Charlie thoáng thấy bộ mặt cười mủm mỉm của Tancred, còn Joshua Tilpin thì rú lên cười.
“Nó cố ý đấy,” Olivia vừa hét ầm vừa nhảy chồm chồm dưới chỗ trú. “Mừng đằng ấy đã về, Charlie. Có lẽ đằng ấy mới có thể trị Tancred.”
Charlie không biết mình có thể làm gì. Nó đảo một vòng những khuôn mặt. Thật sung sướng khi biết mình còn có những người bạn có thể tin tưởng được. Và rồi nó chú ý tới đôi bàn tay của Emma. Các đầu ngón tay bị băng cả. Chỉ có hai ngón cái thoát được tia chớp (hoặc cái gì đó đã làm nó bị thương).
“Mình không biết,” Emma nói. “Phút trước mình còn đang đứng cạnh đống gỗ nói chuyện với Liv, thì phút sau, một tiếng sấm nổ đùng, một tia sáng lóe lên và tất cả mọi người thét rầm, chạy tán loạn vô nhà. Mình thấy đau nhói ở mấy ngón tay…”
“Và tớ nhìn bàn tay của nó,” Olivia vừa nói vừa chỉ vào những ngón tay của Emma, “thấy chúng chảy màu đỏ lè.”
“Giờ đỡ nhiều rồi,” Emma lúc lắc mấy ngón tay. “Và mình không thể chứng minh được đó là Tancred.”
“Là hắn chứ còn ai nữa,” Olivia khăng khăng. “Đằng ấy phải làm gì đi chứ, Charlie!”
“Mình hả?” Charlie nói, khi cả bọn cùng nhìn nó.
“Em có thể kể cho tụi này biết mấy hôm rồi em ở đâu được rồi đó,” Lysander nói.
“Được,”


Charlie thuật lại ngắn gọn cho cả đám bạn nghe về chuyến đi ngựa tới bãi biển đầy vỏ sò, và về Lâu đài Gương kỳ lạ. Có tiếng thở hốc vì kinh sợ buột ra khi Charlie kể đến đoạn lão Tantalus Ebony và ông Christopher Crowquill. Chẳng đứa nào biết phải nói gì cho tới khi Fidelio kêu lên một tiếng nho nhỏ và nói:
“Vậy á? Ghê quá.”


Charlie không tiết lộ chuyện nó đã tưởng ông Albert Tuccini là ba nó. Nỗi thất vọng của nó vẫn còn quá đau đớn.
“Đáng sợ thiệt,” Lysander nói. “Nhưng cũng có thể lắm chứ. Tụi mình đều biết ông Albert Tuccini mà, đúng không? Ông ấy có đến biểu diễn dương cầm cho tụi mình hồi học kỳ mùa xuân đó. Mọi người không nhớ sao?”


Tất cả bỗng ùa về.
“Ờ, đúng rồi,” Charlie nói chậm rãi và buồn bã. “Và gương mặt ở cửa sổ nhà bà cô em, với cây đàn dương cầm ở tầng trên cùng, sau đám cháy. Đó chính là ông Albert Tuccini, không… không phải là ai khác.”
“Mấy bà cô Yewbeam nhà em!” Lysander ngước đôi mắt to nâu lên trời. “Họ là bọn tội phạm, Charlie. Họ đã lợi dụng ông nghệ sĩ dương cầm tội nghiệp đó, giả bộ giúp ông ấy, nhưng lại luôn kiếm tiền từ những buổi hòa nhạc của ông ấy. Một bọn ghê tởm.”
“Đúng vậy,” Charlie nói, nhăn mặt.


Cơn mưa rào khó chịu của Tancred đã tạnh khi hết giờ ra chơi, và năm người bạn đã có thể chạy vào trường mà không bị ướt thêm chút nào.
Charlie quyết định phải đi tìm bà bếp trưởng. Chỉ có bà mới đủ sáng suốt để khuyên nó vào lúc này. Nhưng khi không thấy bà xuất hiện trong giờ ăn trưa, Charlie sợ rằng ngay cả bà bếp trưởng cũng đã bị làm mồi cho những thế lực xấu xa đang len lỏi trong Học viện Bloor.
Giờ nghỉ uống trà là cơ hội duy nhất để Charlie lẻn vào bếp; vì thế, trong khi Fidelio canh chừng, Charlie lén đi vòng qua quầy và bước vào nhà bếp ồn ào.


“Muốn gì, chàng trai?” Một trong những phụ tá của bà bếp trưởng, một cô gái gầy gò, mặt đỏ ửng và tóc mượt, hỏi.
“Em tim bà bếp trưởng ạ,” Charlie nói.
“Bà ấy không khỏe, em à. Đi nằm rồi.”
“Ồ.”


Charlie không biết phải làm gì tiếp theo. Những căn phòng bí mật của bby nằm sau một cái tủ để chổi bình thường. Không ai trong số những nhân viên nhà bếp biết về sự tồn tại của những căn phòng ấy. Có lẽ bà bếp trưởng đang ở trên lầu, trong căn phòng lạnh lẽo mà gia đình Bloor nghĩ là nơi bà vẫn ngủ. Charlie có cảm giác chắc chắn là bà bếp trưởng đang ở trong căn hộ ấm cúng dưới lòng đất của bà.


“Cám ơn chị,” nó nói và đi ra cửa dẫn vào căn-tin, nhưng ngay khi cô gái ấy vừa quay lưng đi, nó liền cúi gập người xuống và chuồn lẹ ra sau một trong những cái quầy. Nó phải đợi tới khi một người phụ bếp khác đi ra bồn rửa chén, rồi mới lao vút tới buồng đựng chổi, vặn mạnh cho cửa mở ra và nhảy vào trong, khép cánh cửa lại sau lưng.
Một chiếc móc nhỏ sau tủ được dùng làm nắm đấm cửa, và khi Charlie vặn cái móc, một cánh cửa mở ra dẫn vào một hành lang tối thui. Charlie đóng cánh cửa thứ hai này lại. Bây giờ nó đang đứng trong bóng tối mịt mùng. Bà bếp trưởng thường để đèn sáng lờ mờ trong hành lang. Nhưng hôm nay thì không. Nỗi lo lắng của Charlie chuyển thành linh tính bào điềm gở.


Dò dẫm dọc theo bức tường để tìm lối đi, nó té lộn nhào xuống hai bậc thang, sau đó, nó dọ dẫm từng phân một, cho tới khi sờ thấy một tủ âm tường nhỏ. Nó mở cửa tù ra và bước vào nơi mà trước đây từng là phòng khách ấm cúng. Hôm nay, nó không còn nhận ra được nữa. Điều rõ rệt nhất là nền nhà nghiêng lệch một cách đáng báo động. Toàn bộ bàn ghế ngã chỏng chơ và bây giờ nằm thành một đống lù lù ở phía dốc thấp hơn của căn phòng.


Ánh sáng tù mù từ cái đèn bàn bị lật úp cho Charlie nhìn thấy một thân người nằm sấp trước bếp lò đen thui, lạnh lẽo. Con chó May Phúc ngồi bên cạnh.
“Bà bếp trưởng!” Charlie thét lên.
May Phúc quay ánh mắt buồn thảm về phía Charlie, khi thằng bé lao tới.


Trông bà bếp trưởng thật thảm hại. Mái tóc hoa râm của bà đã chuyển thành bạc trắng. Khuôn mặt mọi khi hồng hào giờ trắng nhợt, và hình như bà đã sụt cân đi rất nhiều.
“Charlie,” bà bếp trưởng rên rỉ. “Con về rồi.”
“Chuyện gì vậy ạ, bà bếp trưởng?” Charlie la lớn.
“Thế cân bằng đã mất. Ta từng nói với con rồi, phải không? Chúng ta phải giữ thế cân bằng đó.”
“Nhưng con nghĩ bà giữ cân bằng cơ mà. Bà nói bà là cục nam châm,” Charlie cuống quít nói.
“Ta không thể giữ được cân bằng nếu con không có ở đây, hiểu không?” Bà bếp trưởng nói trệu trạo, bức bối. “Con và Billy, cả hai đều đi mất, và cái thằng kinh khủng đó, cái thỏi nam châm đó đã chiếm quyền kiểm soát.”
“Con xin lỗi,” Charlie lí nhí. “Con dẫn Billy tới Lâu đài Gương.”
“Ta đã nghe rồi. Alice Angel đã nói với ta tất cả rồi. Ông Crowquill tội nghiệp. Rõ ràng là ta đã biết Tantalus Ebony có cái gì đó đáng ngờ. Giúp ta ngồi dậy nào, Charlie.”


Sàn nhà dốc tuồn tuột, Charlie giữ được thăng bằng đã khó khăn, đằng này lại còn phải đỡ bếp trưởng đứng dậy. Trong lúc bby bám chắc vào mặt lò sưởi, nó lẹ làng lấy một chiếc ghế từ đống đồ đạc lộn xộn ở cuối phòng ra và kê một ít báo xuống dưới chân trước của cái ghế. Khi cái ghế đã tạm vững, Charlie giúp bà bếp trưởng ngồi lên.
Bà bếp trưởng ngồi chìm vào trong ghế, ngả lưng ra sau và vỗ ngực:
“A! Đỡ hơn rồi.”


May Phúc lạch bạch đi lại gần chiếc ghế của bà.
“Con chó già này luôn ở sát bên ta, ngoan lắm,” bà bếp trưởng nói rồi vuốt cái đầu nhăn nheo của con chó.
“Mọi chuyện xảy ra từ lúc nào ạ?” Charlie hỏi.
“Tối thứ Hai. Sau khi họ tìm thấy Gabriel đáng thương. Ta thật sự không ngạc nhiên về việc con biệt tăm và việc thằng Torsson cư xử tồi tệ.”
“Con nghĩ con đã làm đúng, dẫn Billy đến nhà của tổ tiên nó,” Charlie nói.
“Đừng có nói thế với ta, Charlie Bone,” bà bếp trưởng nói một cách giận dữ. “Con không hề nghĩ tới Billy. Mà là do con tự nhiên đi tin rằng con sẽ tìm thấy ba của con. Con viện lý do thiệt viển vông, đúng không? Một lần nữa, con lại hành động mà không hề nghĩ đến bất cứ ai khác.”
Charlie thở dài đánh thượt.
“Con muốn giúp Billy thiệt mà. Với lại… con… à, con cũng muốn tìm ba con.”
Bà bếp trưởng nhìn nó thật nhanh.
“Ta không thể trách con được, Charlie,” bà nói dịu dàng. “Ta tiếc là con đã không tìm thấy ba con.”
Charlie tránh ánh mắt của bà bếp trưởng. Nó dòm xuống dưới chân.
“Vậy, con có thể làm gì bây giờ?”
“Ta thực lòng không biết. Chúng ta cần một đứa trẻ được ban phép thuật nữa. Một đứa bé có thể đặt tình bạn lên trên lợi ích riêng. Một đứa sẽ hợp sức với chúng ta, Charlie. Có lẽ lúc đó mọi thứ sẽ cân bằng trở lại.”
“Con nghĩ con biết ai được ban phép thuật rồi,” Charlie nói. “Nhưng nó không chịu chấp nhận điều đó.”
“À, cho dù là ai thì cũng sẽ cần một phép thuật thật mạnh để xoay ngược tình thế lúc này.”
Bà bếp trưởng nhổm đứng dậy và vuốt chiếc tạp dề nhăn nhúm.
“Giờ thì con nên quay về đi, Charlie. May Phúc và ta sẽ từ từ theo sau.”


Cuối cùng, khi Charlie xoay xở lẻn ra được khỏi cửa bếp, nó thấy Fidelio đang ngồi một mình trong khi cô phụ bếp tóc bóng mượt đang lau những mặt bàn trống.
“Mày từ đâu chui ra vậy hả?” Cô ta quát Charlie.
“Bạn ấy đi kiếm khăn trải bàn,” Fidelio nói, nó đã làm đổ một đống vụn bánh với nước cam trông thấy ghê lên bàn.
“Mấy thằng lỏi!” Cô phụ bếp càu nhàu. “Bọn con gái đâu có lóng ngóng như thế.”
“Con rất vui khi nghe vậy, thưa cô,” Fidelio nói. “Chào cô ạ.”
Rồi nó lôi Charlie nãy giờ vẫn cứng họng ra khỏi căn-tin.
“Chuyện sao rồi?” Fidelio thì thầm vẻ nôn nóng khi hai đứa đi dọc theo hành lang treo đầy chân dung.
“Bà bếp trưởng đang ở trong tình trạng rất tệ,” Charlie nói một cách ảm đạm. “Và em phải tìm ai đó có thể xoay chuyển tình thế.”
“Nhiệm vụ bất khả thi,” Fidelio rên rỉ.
Chúng đi gần tới tiền sảnh thì đụng phải Manfred đang sải bước xuống cầu tahng, Charlie thì thầm:
“Khéo thế thật.”
Giờ làm bài tập về nhà trong phòng Nhà Vua tối hôm đó thậm chí còn nghẹt thở hơn Charlie dự đoán.
“Mừng trò lại nhập bọn với tụi này, Bone,” Manfred nói khi Charlie bước vào.
Charlie ngồi xuống cạnh Emma trong khi sáu gương mặt kém thân thiện gườm gườm nhìn nó từ phía bàn bên kia. Charlie nhận thấy Tancred đang ngồi một mình, như vậy vẫn còn hy vọng là Joshua chưa hoàn toàn chiếm cứ được thằng này. Ngồi phía bên kia Emma, Lysander đang cúi gằm đầu xuống. Nó cong người cặm cụi vào bài tập của nó, không chịu nhìn thẳng vào mắt ai.
Hai đứa song sinh bắt đầu quậy: sách vở của Charlie bị thổi bay khỏi bàn và Emma bị một hộp đựng bút chì đập trúng. Khi sách bài tập của Lysander bị nảy bật ra giữa bàn và bắn vọt lên trần nhà thì nó hết cả bình tĩnh.
“Dẹp ngay, đồ rác rưởi!” Nó vừa hét lên vừa quăng một quyển sách vào hai đứa sinh đôi.
Hai đứa cùng cúi đầu xuống né. Chúng không thét lác, không chửi rủa, thậm chí cả nhíu mày cũng không. Mặt chúng cứ trơ trơ như tượng.
Manfred gắt:
“Lần sau mà trò mở miệng là có cấm túc dành cho trò ngay đó, Sage.”
Lysander phì ra một âm thanh khó hiểu và ngồi xuống.
Joshua đang mỉm cười với Tancred, và vài phút sau, Charlie, Emma và Lysander là nạn nhân của một chầu trút nước mưa, làm ướt sũng đầu tóc và bài tập của chúng. Ngạc nhiên quá chừng, chính Manfred tới cứu chúng.
“Dừng lại, đồ yêu ma!” Manfred quạt Tancred.


Chẳng hiểu bằng cách nào mà Charlie đã sống sót qua buổi tối hôm ấy, rồi nguyên cả ngày hôm sau. Nhưng đến tối thứ Nam, sau khi đèn tắt một lúc, nó còn nằm trằn trọc thật lâu, thử quyết định xem tiếp theo nên hành động như thế nào.


Nó nghe có tiếng cửa xe hơi đóng sầm lại, rồi tiếng những bước chân bị nghẹn tắc ở mảnh sân gạch bên dưới. Charlie chạy ra cửa sổ, nhìn xuống. Manfred và gã Weedon đang kéo một thằng bé tóc trắng về phía cổng chính.
Billy đã bị tìm ra.
 
Quay lại
Top Bottom