- Tham gia
- 3/3/2013
- Bài viết
- 4.056
CÁC THUỐC CHỐNG LOẠN NHỊP
PGS. TS Vũ Điện Biên
Chủ nhiệm Bộ môn - Khoa Tim mạch - Nội tiết
Bệnh viện TƯQĐ 108
I. ĐẠI CƯƠNGChủ nhiệm Bộ môn - Khoa Tim mạch - Nội tiết
Bệnh viện TƯQĐ 108
Bệnh nhân mắc các bệnh tim mạch có thể bị loạn nhịp tim và/hoặc có nguy cơ đột tử do loạn nhịp. Ngày nay có nhiều phương pháp điều trị loạn nhịp không dùng thuốc, nhưng không thể thay thế hoàn toàn được các thuốc chống loạn nhịp. Tuy nhiên các thuốc chống loạn nhịp hiện đang được sử dụng cũng bị hạn chế do kém hiệu quả và độc tính của nó. Trong hầu hết các nghiên cứu với thuốc chống loạn nhịp về tỷ lệ tử vong người ta chưa đưa ra được lợi ích một cách rõ ràng. Mặt khác giới hạn giữa liều có hiệu quả điều trị và liều độc của thuốc tương đối hẹp. Vì vậy người thầy thuốc buộc phải hiểu rõ dược lý lâm sàng, liều dùng và các tác dụng bất lợi của các thuốc chông loạn nhịp.
II. PHÂN LOẠI CÁC THUỐC CHỐNG LOẠN NHỊP
Các thuốc chống loạn nhịp chủ yếu được phân loại dựa trên các cơ chế tác động vào giai đoạn điện sinh lý của tế bào tim (pha 0, 1, 2, 3, 4) mà Vaughan Williams đưa ra. Đây thực chất là phân loại theo tác động của thuốc với vai trò chống loạn nhịp chứ chưa phải là phân loại thuốc. Sự khác biệt này quan trọng ở chỗ hầu hết các thuốc chống loạn nhịp có đa tác động. Hơn thế nữa các tác động của một thuốc đã cho không giống nhau trên các tổ chức tim khác nhau. Vì vậy ngày nay người ta bổ xung thêm một số thuốc điều trị loạn nhịp không nằm trong bảng phân loại kinh điển của Vaughan Williams.
Các thuốc chống loạn nhịp nằm trong Nhóm I có tác động làm chậm dẫn truyền trong thất do chẹn kênh Na+ vào nhanh trên màng tế bào, được chia ra 3 nhóm phụ. Nhóm IA có tác động kéo dài thời kỳ trơ và khoảng QT, bao gồm: Quinidin, Procainamide, Disopiramide, Moricizine. Nhóm IB có tác động gần tương tụ như IA nhưng ít hơn trên khoảng PR, QRS hoặc khoảng QT, bao gồm: Lidocain, Tocainide, Mexiletin. Nhóm IC có tác động làm chậm tốc độ dẫn truyền trên hầu hết các tổ chức tim gây kéo dài khoảng PR, QRS, trong khi có chút ít hiệu lực trên giai đoạn tái cực và khoảng QT, bao gồm: Flecainide, Encainide, Propafenone.
Các thuốc chống loạn nhịp nằm trong Nhóm II có tác động ức chế thụ thể giao cảm b. Các thuốc này thường có hiệu lực trên các loạn nhịp và cơn nhịp nhanh trên thất thứ phát do tăng hoạt hoá giao cảm quá mức, nhưng lại không có hiệu lực trong điều trị loạn nhịp nặng như cơn nhanh thất mạn tính. Cơ chế chống loạn nhịp của nhóm này chưa được biết rõ, song chúng chỉ được coi là thuốc chống loạn nhịp do người ta tìm thấ y hiệu lực rõ ràng trong dự phòng đột tử ở bệnh nhân có tiền sử NMCT. Các thuốc trong nhóm gồm: Propranolon, Esmolol, Acebutolol.
Các thuốc chống loạn nhịp nằm trong Nhóm III có tác động ưu thế kéo dài thời gian điện thế hoạt động và thời kỳ trơ của tim, bao gồm: Amiodarone, Bretylium, Sotalol, Ibutilide.
Các thuốc chống loạn nhịp nằm trong Nhóm IV có tác động ức chế kênh Ca++, bao gồm: Verapamil, Ditiazem.
.............
Các bạn có thể xem chi tiết tại file bên dưới
ST