- Tham gia
- 28/10/2011
- Bài viết
- 824
Tham khảo
Ten Politically Incorrect Truths About Human Nature
Why most suicide bombers are Muslim, beautiful people have more daughters, humans are naturally polygamous, sexual harassment isn't sexist, and blonds are more attractive.
By Alan S. Miller, Ph.D., Satoshi Kanazawa, Ph.D., published on July 01, 2007 - last reviewed on June 06, 2012
Bản chất con người là 1 trong những điều mà tất cả mọi người đều nói về nó nhưng không ai có thể định nghĩa 1 cách chính xác. Mỗi lần chúng ta bắt đầu yêu ai đó, tranh luận với bạn đời, khó chịu về dòng người nhập cư vào đất nước của chúng ta, hoặc đi nhà thờ, chúng ta, phần nào, hành xử như là 1 động vật người với bản chất độc đáo duy nhất của chúng ta.
Điều này muốn nói về 2 điều. Thứ nhất, những suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của chúng ta được tạo ra không chỉ bởi những trải nghiệm cá nhân của chúng ta và môi trường trong suốt cuộc đời chúng ta mà còn bởi những gì đã xảy đến với tổ tiên của chúng ta cách đây hàng triệu năm. Thứ 2, những suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của chúng ta được chia sẻ, đến 1 mức độ lớn, bởi tất cả đàn ông hoặc phụ nữ, mặc cho những khác biệt lớn về văn hoá.
Hành vi con người là 1 sản phẩm của cả bản chất con người bẩm sinh và của kinh nghiệm và môi trường cá nhân. Trong bài viết này, chúng tôi nhấn mạnh về những ảnh hưởng sinh học lên hành vi con người, vì hầu hết các nhà khoa học xã hội giải thích hành vi con người như thể sự tiến hoá đã chấm dứt và như thế hành vi của chúng ta là 1 sản phẩm của hầu như toàn bộ môi trường và sự xã hội hoá. Ngược lại, các nhà tâm lý học tiến hoá xem bản chất con người như là 1 tập hợp những sự thích nghi về mặt tâm lý thường hoạt động bên dưới ý thức để giải quyết những vấn đề về sinh tồn và sinh sản bằng cách khiến chúng ta thiên về suy nghĩ hoặc cảm nhận theo những cách nhất định. Sở thích đồ ngọt và chất béo là 1 cơ chế tâm lý tiến hoá. Chúng ta không ý thức chọn lựa việc yêu thích chất đường và chất béo; chúng chỉ có mùi vị tốt đối với chúng ta.
Những kết luận của 1 số quan điểm trong bài viết này có thể dường như là trái đạo đức, trái ngược với những lý tưởng của chúng ta, hoặc xúc phạm, làm mất lòng. Chúng tôi nói những điều đó vì chúng là sự thật, chúng được ủng hộ bởi bằng chứng khoa học. Dù thích nó hay không, bản chất con người đơn giản là không đúng về mặt chính trị.
Được trích từ 'Why Beautiful People Have More Daughters' của Alan S. Miller và Satoshi Kanazawa, được xuất bản bởi Perigee, tháng 9/2007.
1. Đàn ông thích những phụ nữ tóc vàng hoe quyến rũ (và phụ nữ muốn trông giống như họ)
Ở Italy thế kỷ 15 và 16, và có lẽ cách đây 2 thiên niên kỷ, phụ nữ đã nhuộm tóc vàng hoe. 1 nghiên cứu gần đây cho thấy ở Iran, nơi tiếp xúc với truyền thông và văn hoá phương Tây bị hạn chế, phụ nữ thực sự quan tâm nhiều hơn đến hình ảnh cơ thể của họ, và muốn giảm nhiều cân hơn. Thật khó để đổ cho những sở thích và khao khát của phụ nữ Italy trong thế kỷ 15 và phụ nữ Iran thế kỷ 21 bị xã hội hoá bởi truyền thông.
Phụ nữ khao khát trông giống như búp bê Barbie - trẻ trung với vòng eo nhỏ, ngực to, tóc vàng hoe dài và đôi mắt xanh - Có logic về mặt tiến hoá đằng sau mỗi đặc điểm đó.
Đàn ông thích phụ nữ trẻ hơn một phần vì họ có xu hướng khỏe mạnh hơn những phụ nữ già hơn. 1 dấu chỉ chính xác của sức khỏe là sự quyến rũ ngoại hình; dấu chỉ khác là mái tóc. Phụ nữ khỏe mạnh có tóc bóng mượt, trong khi tóc của những người đau ốm thì mất đi độ bóng. Vì mái tóc phát triển chậm nên tóc dài ngang vai tiết lộ tình trạng sức khỏe nhiều năm của 1 phụ nữ.
Đàn ông cũng có 1 sở thích chung đối với những phụ nữ có tỷ lệ eo - hông nhỏ. Họ khỏe mạnh hơn và có khả năng sinh sản nhiều hơn những phụ nữ khác; họ có thời gian thụ thai dễ dàng hơn và họ có lượng hóc môn sinh sản lớn hơn. Vì vậy đàn ông trong vô thức tìm kiếm những phụ nữ khỏe mạnh và có khả năng sinh sản cao khi họ tìm những phụ nữ có vòng eo nhỏ.
Cho đến gần đây, nó là 1 bí ẩn đối với tâm lý học tiến hoá tại sao đàn ông thích phụ nữ có bộ ngực to hơn, khi kích thước ngực của phụ nữ không liên quan gì đến khả năng tiết sữa của cô ấy. Nhưng nhà nhân loại học trường Harvard, Frank Marlowe cho rằng bộ ngực lớn hơn, do đó nặng hơn xệ xuống rõ ràng hơn cùng với tuổi tác hơn là những bộ ngực nhỏ hơn. Vì vậy nó làm đàn ông dễ dàng đánh giá về tuổi tác của 1 phụ nữ (và giá trị sinh sản của cô ấy) bằng mắt - cho thấy đàn ông thấy phụ nữ với bộ ngực lớn hơn thì quyến rũ hơn.
Như 1 sự lựa chọn, đàn ông thích phụ nữ có bộ ngực lớn vì cùng lý do họ thích phụ nữ có vòng eo nhỏ. 1 nghiên cứu mới về phụ nữ Ba Lan cho thấy phụ nữ có bộ ngực lớn và vòng eo nhỏ có khả năng sinh sản lớn nhất, cho thấy mức độ của 2 hóc môn sinh sản của họ (estradiol và progesterone).
Tóc vàng hoe thay đổi 1 cách ấn tượng theo tuổi tác. Thông thường, những cô gái trẻ có mái tóc vàng sáng trở thành những phụ nữ với mái tóc nâu. Vì vậy, đàn ông thích kết đôi với những phụ nữ tóc vàng hoe tức là trong vô thức cố gắng kết đôi với phụ nữ trẻ hơn (và do đó sẽ khỏe mạnh hơn và nhiều khả năng sinh sản hơn). Không phải ngẫu nhiên mà tóc vàng hoe được tiến hoá ở Scandinavia và Bắc Âu, có lẽ là phương tiện thay thế cho những phụ nữ thông báo cho người khác biết về tuổi trẻ của họ, vì cơ thể họ bị che giấu dưới lớp quần áo dày.
Phụ nữ với đôi mắt có màu xanh nước biển không có bất kỳ khác biệt nào với những người có mắt nâu hoặc xanh lá cây. Nhưng sở thích về đôi mắt màu xanh nước biển dường như có tính phổ quát và không thể phủ nhận ở cả đàn ông lẫn phụ nữ. 1 lời giải thích cho điều này là đồng tử mắt người giãn nở khi người đó tiếp xúc với 1 điều gì đó làm cô ấy thích thú. Ví dụ, đồng tử mắt của phụ nữ và trẻ sơ sinh (nhưng không phải đàn ông) tự động mở rộng khi họ nhìn thấy những em bé. Đồng tử mở rộng là 1 dấu chỉ trung thực về sự hứng thú và lôi cuốn. Và kích thước của đồng tử được xác định dễ dàng nhất đối với những đôi mắt xanh. Những người có đôi mắt xanh được xem là lôi cuốn, là những bạn tình tiềm năng vì ta dễ dàng xác định được liệu họ có hứng thú với chúng ta hay không.
Điều trớ trêu là không có điều nào ở trên còn đúng nữa. Thông qua phẫu thuật thẩm mỹ khuôn mặt, tóc giả, hút mỡ, bơm ngực, nhuộm tóc và đeo kính áp tròng, bất kỳ phụ nữ nào, bất kể tuổi tác, có thể có nhiều đặc điểm then chốt định nghĩa về vẻ đẹp nữ tính lý tưởng. Và đàn ông yêu họ. Đàn ông có thể hiểu rằng nhiều phụ nữ tóc vàng hoe với bộ ngực lớn không thực sự là 15 tuổi, nhưng họ vẫn thấy những phụ nữ đó quyến rũ vì những cơ chế tâm lý tiến hoá của họ bị đánh lừa bởi những phát minh thời hiện đại vốn không tồn tại trong môi trường của tổ tiên.
2. Con người về bản chất là nhiều bạn tình (polygamous)
Trong lịch sử văn minh phương Tây nói riêng, loài người vốn có nhiều bạn tình. Tình trạng nhiều chồng (1 cuộc hôn nhân của 1 phụ nữ với nhiều đàn ông) là rất hiếm nhưng tình trạng nhiều vợ (hôn nhân của 1 người đàn ông với nhiều phụ nữ) khá rộng rãi trong các xã hội của loài người, mặc dù truyền thống Do Thái - Kito giáo cho rằng hôn nhân 1 vợ 1 chồng là hình thức hôn nhân tự nhiên duy nhất. Chúng ta biết rằng loài người từng có tình trạng đa thê xuyên suốt lịch sử vì đàn ông cao hơn phụ nữ.
Trong số các loài linh trưởng và không phải linh trưởng, mức độ đa thê có tương quan cao với mức độ những con đực của 1 loài lớn hơn con cái. Loài đó càng có nhiều tình trạng đa thê, kích thước chênh lệch giữa 2 giới càng lớn. Thông thường, đàn ông cao hơn 10% và nặng hơn 20% so với đàn bà. Điều này cho thấy rằng, xuyên suốt lịch sử, loài người có tình trạng đa thê nhẹ nhàng.
So với chế độ 1 vợ 1 chồng, tình trạng đa thê tạo ra sự mâu thuẫn lớn hơn (khoảng cách giữa 'những kẻ thắng' và 'những người thua' trong trò chơi sinh sản) trong số những con đực hơn là con cái vì nó cho phép 1 số ít con đực độc chiếm tất cả những con cái trong nhóm. Sự mâu thuẫn lớn hơn trong số những con đực tạo ra sức ép lớn hơn đối với đàn ông phải cạnh tranh với nhau vì những con cái. Chỉ có những con đực to và cao có thể chiến thắng những cơ hội kết đôi. Trong số những loài cặp đôi như loài người, ở đó con đực và con cái sống với nhau để nuôi con, con cái cũng thích kết đôi với những con đực to và cao vì chúng có thể mang lại sự bảo vệ tốt hơn chống lại thú săn mồi và những con đực khác.
Trong những xã hội nơi mà những người đàn ông giàu có giàu hơn rất nhiều so với những người đàn ông nghèo, phụ nữ (và những đứa con của họ) có lợi hơn khi cùng chia sẻ một số ít những người đàn ông giàu; 1/2, 1/4, hoặc thậm chí 1/10 của 1 người đàn ông giàu có vẫn tốt hơn so với 1 người đàn ông hoàn toàn nghèo. George Bernard Shaw cho rằng, "Bản năng làm mẹ khiến phụ nữ thích chia sẻ 1/10 với 1 người đàn ông cao cấp hơn là độc chiếm 1 người đàn ông thấp kém."
Mặc cho sự thật con người vốn là đa thê, hầu hết những xã hội công nghiệp là theo chế độ 1 vợ 1 chồng vì những người đàn ông có xu hướng bình đẳng nhiều hơn hoặc ít hơn trong những nguồn lực của họ so với tổ tiên của họ trong thời Trung cổ. (Bất bình đẳng có xu hướng gia tăng khi xã hội tiến lên từ săn bắn-hái lượm đến những xã hội nông nghiệp tiến bộ. Sự công nghiệp hoá có xu hướng làm giảm mức độ bất bình đẳng.)
3. Hầu hết phụ nữ có lợi từ tình trạng đa thê, trong khi đó hầu hết đàn ông có lợi từ hôn nhân 1 vợ 1 chồng.
Khi có sự bất bình đẳng về nguồn lực trong số những người đàn ông, phần lớn phụ nữ có lợi từ tình trạng đa thê: phụ nữ có thể chia sẻ 1 người đàn ông giàu có. Trong hôn nhân 1 vợ 1 chồng, phụ nữ bị mắc kẹt với 1 người đàn ông nghèo hơn.
Những ngoại lệ duy nhất là những phụ nữ cực kỳ đáng thèm muốn. Dưới chế độ 1 vợ 1 chồng, họ có thể độc chiếm những người đàn ông giàu có nhất; dưới chế độ đa thê, họ phải chia sẻ người đàn ông với những người phụ nữ khác, ít được khao khát hơn. Tuy nhiên, trường hợp này là ngược lại với đàn ông.
Hôn nhân 1 vợ 1 chồng đảm bảo rằng mỗi người đàn ông có thể tìm được 1 cô vợ. Những người đàn ông ít đáng được khao khát có thể chỉ kết hôn được với những phụ nữ ít được khao khát, nhưng điều đó tốt hơn nhiều so với không kết hôn được với bất kỳ ai.
Những người đàn ông trong những xã hội 1 vợ 1 chồng tưởng tượng rằng họ sẽ được lợi hơn dưới chế độ đa thê. Điều họ không nhận ra đó là, đối với hầu hết những người đàn ông cực kỳ không đáng khao khát, tình trạng đa thê có nghĩa là không có cô vợ nào, hoặc nếu họ may mắn, 1 cô vợ ít được thèm muốn rất nhiều so với người vợ họ có thể lấy dưới chế độ 1 vợ 1 chồng.
4. Hầu hết những người đánh bom liều chết là người theo đạo Hồi.
Theo nhà xã hội học Diego Gambetta ở trường đại học Oxford, biên tập sách 'Making Sense of Suicide Missions', 1 lịch sử toàn diện của hiện tượng này là trong khi những nhiệm vụ có tính tự sát này không phải lúc nào cũng bị thúc đẩy bởi sùng đạo, khi tôn giáo có liên quan, nó luôn luôn là đạo Hồi. Tại sao lại như vậy? Tại sao đạo Hồi là tôn giáo duy nhất thúc đẩy những người theo đạo Hồi cam kết với những nhiệm vụ có tính tự sát?
Câu trả lời gây bất ngờ đến từ quan điểm tâm lý học tiến hoá, đó là những vụ đánh bom tự sát của người theo đạo Hồi có thể không liên quan gì đến đạo Hồi hoặc kinh Koran. Nó có thể không liên quan gì đến tôn giáo, chính trị, văn hoá, chủng tộc, đạo đức, ngôn ngữ hoặc vùng miền. Nó có thể liên quan rất nhiều đến t.ình d.ục, hoặc trong trường hợp này là sự thiếu t.ình d.ục.
Điều phân biệt giữa đạo Hồi và những tôn giáo lớn khác là nó cho phép tình trạng đa thê. Bằng cách cho phép 1 số đàn ông độc chiếm tất cả phụ nữ và không cho nhiều người đàn ông khác có cơ hội sinh sản, tình trạng đa thê tạo ra sự khan hiếm phụ nữ. Nếu 50% đàn ông có 2 vợ thì khi đó 50% số đàn ông khác không có bất kỳ cô vợ nào.
Vì vậy tình trạng đa thê gia tăng sức ép cạnh tranh lên đàn ông, đặc biệt là những người đàn ông trẻ có địa vị thấp. Do đó nó gia tăng khả năng những người đàn ông trẻ dùng đến những phương tiện bạo lực để đạt được cơ hội kết đôi. Bằng cách làm như vậy, họ có rất ít thứ để mất và nhiều thứ đi để đạt được so với những người đàn ông đã có nhiều vợ. Trong tất cả các xã hội, tình trạng đa thê làm đàn ông bạo lực hơn, gia tăng những tội phạm như giết người và cưỡng hiếp, ngay cả sau khi kiểm soát những yếu tố rõ ràng như phát triển kinh tế, bất bình đẳng kinh tế, mật độ dân số, mức độ dân chủ và những yếu tố chính trị trong khu vực.
Tuy nhiên, bản thân tình trạng đa thê là không đủ để gây ra đánh bom cảm tử. Những xã hội ở Châu Phi cận Sahara và Caribe có nhiều tình trạng đa thê hơn những Quốc gia Hồi giáo ở Trung Đông và Bắc Phi. Và có mức độ bạo lực rất cao. Châu Phi cận Sahara có 1 lịch sử chiến tranh liên tục nhưng không có đánh bom cảm tử.
Thành phần chủ chốt khác đó là lời hứa 72 trinh nữ đợi trên thiên đàng cho bất kỳ người nào tử vì đạo. Viễn cảnh được tiếp cận với những trinh nữ có thể không lôi cuốn bất kỳ ai đã có 1 cô vợ trên quả đất, mà chế độ 1 vợ 1 chồng hầu như bảo đảm nghiêm ngặt. Tuy nhiên, việc cảnh đó khá hấp dẫn với bất kỳ ai phải đối mặt với thực tế ảm đạm trên trái đất là 1 kẻ thất bại hoàn toàn trong việc sinh sản.
Như vậy, sự kết hợp của tình trạng đa thê và lời hứa rất nhiều trinh nữ trên thiên đàng đã thúc đẩy nhiều đàn ông trẻ theo đạo Hồi cam kết đánh bom cảm tử. Nhất quán với lời giải thích này, tất cả các nghiên cứu về những người đánh bom cảm tử cho thấy gần như tất cả những người đánh bom cảm tử là người độc thân, họ trẻ hơn không chỉ so với số dân Hồi giáo nói chung mà còn những thành viên khác (không tự tử) của những tổ chức chính trị cực đoan như Hamas và Hezbollah.
5. Có con trai làm giảm khả năng ly dị
Các nhà xã hội học và nhà nhân khẩu học đã phát hiện ra rằng những cặp vợ chồng có ít nhất 1 con trai đối mặt với ít nguy cơ ly dị hơn so với những vợ chồng chỉ có những cô con gái? Tại sao lại như vậy?
Khi giá trị của 1 người đàn ông phần lớn được quyết định bởi sự giàu có, địa vị và quyền lực của ông ta - trong khi đó, giá trị của 1 phụ nữ phần lớn được quyết định bởi tuổi trẻ và sự quyến rũ ngoại hình của cô - người cha phải đảm bảo rằng con trai của anh ta sẽ thừa kế của cải, địa vị và quyền lực của anh ta, bất kể những nguồn lực đó của anh ta nhiều hay ít như thế nào. Ngược lại, 1 người cha hoặc mẹ ít có thể làm gì để giữ lại cho con gái họ tuổi trẻ hoặc làm cô ấy quyến rũ hơn về ngoại hình.
Do đo, sự hiện diện và đầu tư tiếp tục của người cha quan trọng đối với con trai, nhưng không quan trọng cho con gái. Sự hiện diện của những đứa con trai do đó ngăn cản việc ly dị và ra đi của người cha khỏi gia đình nhiều hơn sự hiện diện của những cô con gái, và ảnh hưởng này có xu hướng mạnh mẽ hơn trong những gia đình giàu có.
6. Những người xinh đẹp có nhiều con gái hơn
Niềm tin phổ biến cho rằng bố mẹ có thai 1 bé trai hoặc 1 bé gái là do cơ hội ngẫu nhiên. Tỷ lệ giới tính bình thường khi sinh là 105 bé trai trên 100 bé gái . Tuy nhiên, tỷ lệ giới tính thay đổi một chút trong những hoàn cảnh khác nhau và cho những gia đình khác nhau. Có những yếu tố ảnh hưởng một cách tinh tế đến giới tính của 1 đứa bé.
1 trong những nguyên tắc nổi tiếng nhất trong sinh học tiến hoá là giả thuyết Trivers-Willard, nói rằng những bố mẹ giàu có, địa vị cao có nhiều con trai hơn, trong khi đó những bố mẹ nghèo, địa vị thấp có nhiều con gái hơn. Điều này là vì con cái nhìn chung thừa kế của cải và địa vị xã hội của bố mẹ chúng.
Xuyên suốt lịch sử, những đứa con trai từ những gia đình giàu có sẽ trở nên giàu có có thể mong đợi có nhiều vợ, tình nhân và thê thiếp, và sinh ra hàng tá hoặc hàng trăm đứa con, trong khi đó những chị em gái giàu có ngang bằng chỉ có thể có nhiều con. Vì vậy chọn lọc tự nhiên thiết kế tỷ lệ giới tính cho bố mẹ khi sinh phụ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế của họ - nhiều con trai hơn nếu họ giàu, nhiều con gái hơn nếu họ nghèo (Cơ chế sinh học làm điều này xảy ra như thế nào vẫn chưa được hiểu rõ.)
Giả thuyết này đã được dẫn chứng bằng tư liệu trên toàn cầu. Các tổng thống Mĩ, phó tổng thống và những thư ký Nội Các có nhiều con trai hơn con gái. Những người chăn nuôi nghèo Mukogodo ở Đông Phi có nhiều con gái hơn con trai. Những hồ sơ giáo xứ nhà thờ từ thế kỷ 17 và 18 cho thấy những địa chủ giàu có ở Leezen, Germany có nhiều con trai hơn con gái, trong khi đó những lao động nông nghiệp và thương gia không có tài sản có nhiều con gái hơn con trai. Trong 1 cuộc khảo sát từ 46 quốc gia, những người giàu có nhiều khả năng chỉ thích có con trai nếu họ chỉ có thể có 1 con, trong khi đó những người ít giàu hơn có nhiều khả năng thích con gái.
Giả thuyết Trivers-Willard còn đi xa hơn sự giàu có và địa vị của 1 gia đình: Nếu bố mẹ có bất kỳ đặc điểm nào mà họ có thể truyền lại cho con họ và đặc điểm đó tốt hơn là đối với con trai hơn con gái, thì lúc đó họ sẽ có nhiều con trai hơn. Ngược lại, nếu bố mẹ có bất kỳ đặc điểm nào họ có thể truyền lại cho con họ và tốt hơn là với con gái, họ sẽ có nhiều con gái hơn.
Sự quyến rũ ngoại hình là 1 đặc tính tích cực phổ quát, đóng góp nhiều hơn vào sự thành công trong sinh sản của phụ nữ hơn là của đàn ông. Giả thuyết tổng quát do đó sẽ dự đoán rằng những bố mẹ có ngoại hình quyến rũ nên có nhiều con gái hơn con trai.
7. Khủng hoảng tuổi trung niên là 1 điều hoang đường
Nhiều người tin rằng đàn ông trải qua 1 cuộc khủng hoảng tuổi trung niên khi họ đang ở tuổi trung niên. Không hẳn như vậy. Nhiều đàn ông tuổi trung niên trải qua những cuộc khủng hoảng tuổi trung niên, nhưng không phải vì họ đang ở tuổi trung niên. Đó là vì những bà vợ của họ. Từ quan điểm tâm lý học tiến hoá, cuộc khủng hoảng tuổi trung niên của 1 người đàn ông bị xô đẩy bởi thời kỳ mãn kinh sắp xảy ra của vợ họ và kết thúc sự nghiệp sinh sản của cô ấy, và do đó nhu cầu làm mới của anh ấy để thu hút những phụ nữ trẻ hơn. Theo đó, 1 người đàn ông 50 tuổi kết hôn với 1 phụ nữ 25 tuổi sẽ không trải qua 1 cuộc khủng khoảng tuổi trung niên, trong khi đó 1 người đàn ông 25 tuổi kết hôn với 1 phụ nữ 50 tuổi sẽ giống như 1 người đàn ông 50 tuổi kết hôn với 1 phụ nữ 50 tuổi. Không phải tuổi trung niên của anh ấy có vấn đề, mà vấn đề là của cô ấy. Khi anh ấy mua 1 chiếc xe thể thao màu đỏ bóng loáng, anh ấy không cố gắng lấy lại tuổi trẻ của mình, anh ấy chỉ đang cố gắng thu hút những phụ nữ trẻ để thay thế cho người vợ mãn kinh của mình bằng cách bật đèn và vung tiền.
8. Đó là điều tự nhiên khi các chính trị gia mạo hiểm tất cả mọi thứ vì 1 cuộc tình (nhưng chỉ khi họ là đàn ông)
Vào buổi sáng ngày 21/1/1998, người Mĩ choáng váng trước tin tổng thống Bill Clinton đã từng ngoại tình với 1 cô thực tập sinh Nhà Trắng 24 tuổi. Nhà sử học Laura L. Betzig chỉ ra rằng những người đàn ông da trắng quyền lực xuyên suốt lịch sử phương Tây đã từng có hôn nhân 1 vợ 1 chồng (chỉ có 1 vợ hợp pháp tại 1 thời điểm), họ luôn luôn cặp bồ với nhiều người (họ có những cô người yêu, người thiếp, nữ nô lệ). Với vợ của họ, họ có những đứa con hợp pháp; với những người khác, họ có những đứa con hoang. 2 loại đứa trẻ không có sự khác biệt về gen.
Kết quả là, những người đàn ông quyền lực có địa vị cao xuyên suốt lịch sử loài người đạt được thành công về mặt sinh sản rất cao, họ có rất nhiều con (hợp pháp và con hoang), trong khi đó những người đàn ông nghèo thì không vợ, không bồ và không con.
Câu hỏi nhiều người hỏi trong năm 1998 - "Tại sao người đàn ông quyền lực nhất thế giới này lại gây nguy hiểm cho công việc của mình vì 1 cuộc tình với 1 phụ nữ trẻ?" - là 1 câu hỏi ngu ngốc theo quan điểm của Darwin. Câu trả lời của Betzig có lẽ sẽ là: "Tại sao không?" Đàn ông phấn đấu đạt được quyền lực chính trị, ý thức hoặc vô thức, để tăng cơ hội sinh sản với nhiều phụ nữ. Tăng cơ hội sinh sản với phụ nữ là mục tiêu, chức vụ chính trị chỉ là 1 trong nhiều phương tiện. Hỏi lý do tại sao tổng thống Bill ngoại tình với 1 phụ nữ trẻ cũng giống như hỏi tại sao 1 ai đó làm việc rất chăm chỉ để kiếm nhiều tiền và sau đó tiêu nó.
9. Những điểm chung giữa Bill Gates và Paul McCartney với những tên tội phạm
Trong gần 1/4 thế kỷ, các nhà tội phạm học đã biết về 'đồ thị tuổi tội phạm.' Trong mọi xã hội ở mọi thời điểm lịch sử, xu hướng phạm tội và những hành vi mạo hiểm khác gia tăng nhanh chóng ở tuổi thiếu niên sớm, đạt tột đỉnh vào cuối tuổi thiếu niên và đầu tuổi trưởng thành, giảm nhanh trong suốt lứa tuổi 20 và 30 và san bằng ở tuổi trung niên.
Đồ thị này không chỉ giới hạn với tội phạm. Mối quan hệ giữa tuổi tác và năng suất lao động trong số những nhạc sĩ (đàn ông) nhạc jazz, những nam hoạ sỹ, nam nhà văn, và nhà khoa học nam - cũng có thể được gọi là 'đồ thị tuổi thiên tài' - tương tự như đồ thị tuổi tội phạm. Năng suất lao động của họ - sự bộc lộ thiên tài của họ nhanh chóng đạt tột đỉnh ở đầu tuổi trưởng thành và sau đó giảm nhanh trong suốt tuổi trưởng thành. Còn đồ thị tuổi thiên tài ở nữ ít rõ ràng hơn nhiều, nó không đạt đỉnh hoặc có khác biệt nhiều như là 1 chức năng của tuổi tác.
Paul McCartney đã không còn viết 1 bài hát hit nào trong nhiều năm, và bây giờ ông dành nhiều thời gian để vẽ tranh. Bill Gates bây giờ là 1 doanh nhân và nhà từ thiện đáng kinh và không còn là 1 chuyên gia máy tính. J.D. Salinger hiện đang ở ẩn và không xuất bản được bất cứ thứ gì trong hơn 3 thập kỷ qua. Orson Welles chỉ mới 26 tuổi khi ông ấy viết, sản xuất, làm đạo diễn và đóng vai chính trong phim Citizen Kane.
Có 1 lý thuyết duy nhất có thể giải thích được năng suất lao động của cả những thiên tài sáng tạo và những tội phạm trong suốt cuộc đời: cả tội phạm và thiên tài đều thể hiện những khao khát cạnh tranh của người đàn ông trẻ, mà chức năng lớn nhất trong môi trường của tổ tiên là để gia tăng thành công trong sinh sản.
Trong cuộc cạnh tranh về sức mạnh cơ thể để giành bạn tình, những người cạnh tranh có thể hành động bạo lực đối với những đối thủ nam của họ. Những người đàn ông ít có xu hướng bạo lực và phạm tội hơn có thể biển hiện tính cạnh tranh của họ thông qua những hoạt động sáng tạo.
Chi phí của cạnh tranh tăng lên đột ngột khi 1 người đàn ông có con, khi năng lượng và những nguồn lực của anh ta được sử dụng tốt hơn để bảo vệ và đầu tư cho đứa con. Sự ra đời của đứa con đầu tiên thường xuất hiện sau tuổi dậy th.ì nhiều năm vì người đàn ông cần một số thời gian để tích lũy đủ những nguồn lực và đạt được địa vị đủ để thu hút người bạn tình đầu tiên của họ. Do đó có 1 khoảng cách nhiều năm giữa sự tăng nhanh trong những lợi ích của sự cạnh tranh và sự tăng nhanh tương tự về những chi phí của nó. Năng suất lao động giảm nhanh ở cuối tuổi trưởng thành khi những chi phí của sự cạnh tranh tăng lên và xoá bỏ những lợi ích của nó.
Những sự tính toán trên được thực hiện bởi chọn lọc tự nhiên và t.ình d.ục, trang bị cho những bộ não đàn ông 1 cơ chế tâm lý khiến họ có xu hướng gia tăng sự canh tranh ngay sau tuổi dậy th.ì và làm họ ít cạnh tranh hơn ngay sau khi đứa con đầu tiên ra đời. Đàn ông đơn giản là không cảm thấy phải hành xử bạo lực, trộm cắp hoặc tiến hành những thực nghiệm khoa học, họ chỉ muốn bình tâm lại sau khi đứa con chào đời nhưng họ không hiểu chính xác tại sao.
Điểm giống nhau giữa Bill Gates, Paul McCartney và những tên tội phạm và trong số tất cả đàn ông xuyên suốt lịch sử tiến hoá - chỉ ra 1 khái niệm quan trọng trong sinh học tiến hoá: sự lựa chọn phụ nữ.
Phụ nữ thường nói không với đàn ông. Đàn ông phải chinh phục những vùng đất bên ngoài, chiến thắng trong những cuộc chiến tranh, soạn nhạc, viết sách, làm thơ, vẽ tranh lên trần nhà thờ, có những khám phá khoa học, chơi nhạc rock và viết phần mềm máy tính để gây ấn tượng với phụ nữ để họ sẽ đồng ý quan hệ với anh ta. Đàn ông đã xây dựng (và hủy diệt) những nền văn minh để gây ấn tượng với phụ nữ, để họ có thể nói có.
Ten Politically Incorrect Truths About Human Nature
Why most suicide bombers are Muslim, beautiful people have more daughters, humans are naturally polygamous, sexual harassment isn't sexist, and blonds are more attractive.
By Alan S. Miller, Ph.D., Satoshi Kanazawa, Ph.D., published on July 01, 2007 - last reviewed on June 06, 2012
Bản chất con người là 1 trong những điều mà tất cả mọi người đều nói về nó nhưng không ai có thể định nghĩa 1 cách chính xác. Mỗi lần chúng ta bắt đầu yêu ai đó, tranh luận với bạn đời, khó chịu về dòng người nhập cư vào đất nước của chúng ta, hoặc đi nhà thờ, chúng ta, phần nào, hành xử như là 1 động vật người với bản chất độc đáo duy nhất của chúng ta.
Điều này muốn nói về 2 điều. Thứ nhất, những suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của chúng ta được tạo ra không chỉ bởi những trải nghiệm cá nhân của chúng ta và môi trường trong suốt cuộc đời chúng ta mà còn bởi những gì đã xảy đến với tổ tiên của chúng ta cách đây hàng triệu năm. Thứ 2, những suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của chúng ta được chia sẻ, đến 1 mức độ lớn, bởi tất cả đàn ông hoặc phụ nữ, mặc cho những khác biệt lớn về văn hoá.
Hành vi con người là 1 sản phẩm của cả bản chất con người bẩm sinh và của kinh nghiệm và môi trường cá nhân. Trong bài viết này, chúng tôi nhấn mạnh về những ảnh hưởng sinh học lên hành vi con người, vì hầu hết các nhà khoa học xã hội giải thích hành vi con người như thể sự tiến hoá đã chấm dứt và như thế hành vi của chúng ta là 1 sản phẩm của hầu như toàn bộ môi trường và sự xã hội hoá. Ngược lại, các nhà tâm lý học tiến hoá xem bản chất con người như là 1 tập hợp những sự thích nghi về mặt tâm lý thường hoạt động bên dưới ý thức để giải quyết những vấn đề về sinh tồn và sinh sản bằng cách khiến chúng ta thiên về suy nghĩ hoặc cảm nhận theo những cách nhất định. Sở thích đồ ngọt và chất béo là 1 cơ chế tâm lý tiến hoá. Chúng ta không ý thức chọn lựa việc yêu thích chất đường và chất béo; chúng chỉ có mùi vị tốt đối với chúng ta.
Những kết luận của 1 số quan điểm trong bài viết này có thể dường như là trái đạo đức, trái ngược với những lý tưởng của chúng ta, hoặc xúc phạm, làm mất lòng. Chúng tôi nói những điều đó vì chúng là sự thật, chúng được ủng hộ bởi bằng chứng khoa học. Dù thích nó hay không, bản chất con người đơn giản là không đúng về mặt chính trị.
Được trích từ 'Why Beautiful People Have More Daughters' của Alan S. Miller và Satoshi Kanazawa, được xuất bản bởi Perigee, tháng 9/2007.
1. Đàn ông thích những phụ nữ tóc vàng hoe quyến rũ (và phụ nữ muốn trông giống như họ)
Ở Italy thế kỷ 15 và 16, và có lẽ cách đây 2 thiên niên kỷ, phụ nữ đã nhuộm tóc vàng hoe. 1 nghiên cứu gần đây cho thấy ở Iran, nơi tiếp xúc với truyền thông và văn hoá phương Tây bị hạn chế, phụ nữ thực sự quan tâm nhiều hơn đến hình ảnh cơ thể của họ, và muốn giảm nhiều cân hơn. Thật khó để đổ cho những sở thích và khao khát của phụ nữ Italy trong thế kỷ 15 và phụ nữ Iran thế kỷ 21 bị xã hội hoá bởi truyền thông.
Phụ nữ khao khát trông giống như búp bê Barbie - trẻ trung với vòng eo nhỏ, ngực to, tóc vàng hoe dài và đôi mắt xanh - Có logic về mặt tiến hoá đằng sau mỗi đặc điểm đó.
Đàn ông thích phụ nữ trẻ hơn một phần vì họ có xu hướng khỏe mạnh hơn những phụ nữ già hơn. 1 dấu chỉ chính xác của sức khỏe là sự quyến rũ ngoại hình; dấu chỉ khác là mái tóc. Phụ nữ khỏe mạnh có tóc bóng mượt, trong khi tóc của những người đau ốm thì mất đi độ bóng. Vì mái tóc phát triển chậm nên tóc dài ngang vai tiết lộ tình trạng sức khỏe nhiều năm của 1 phụ nữ.
Đàn ông cũng có 1 sở thích chung đối với những phụ nữ có tỷ lệ eo - hông nhỏ. Họ khỏe mạnh hơn và có khả năng sinh sản nhiều hơn những phụ nữ khác; họ có thời gian thụ thai dễ dàng hơn và họ có lượng hóc môn sinh sản lớn hơn. Vì vậy đàn ông trong vô thức tìm kiếm những phụ nữ khỏe mạnh và có khả năng sinh sản cao khi họ tìm những phụ nữ có vòng eo nhỏ.
Cho đến gần đây, nó là 1 bí ẩn đối với tâm lý học tiến hoá tại sao đàn ông thích phụ nữ có bộ ngực to hơn, khi kích thước ngực của phụ nữ không liên quan gì đến khả năng tiết sữa của cô ấy. Nhưng nhà nhân loại học trường Harvard, Frank Marlowe cho rằng bộ ngực lớn hơn, do đó nặng hơn xệ xuống rõ ràng hơn cùng với tuổi tác hơn là những bộ ngực nhỏ hơn. Vì vậy nó làm đàn ông dễ dàng đánh giá về tuổi tác của 1 phụ nữ (và giá trị sinh sản của cô ấy) bằng mắt - cho thấy đàn ông thấy phụ nữ với bộ ngực lớn hơn thì quyến rũ hơn.
Như 1 sự lựa chọn, đàn ông thích phụ nữ có bộ ngực lớn vì cùng lý do họ thích phụ nữ có vòng eo nhỏ. 1 nghiên cứu mới về phụ nữ Ba Lan cho thấy phụ nữ có bộ ngực lớn và vòng eo nhỏ có khả năng sinh sản lớn nhất, cho thấy mức độ của 2 hóc môn sinh sản của họ (estradiol và progesterone).
Tóc vàng hoe thay đổi 1 cách ấn tượng theo tuổi tác. Thông thường, những cô gái trẻ có mái tóc vàng sáng trở thành những phụ nữ với mái tóc nâu. Vì vậy, đàn ông thích kết đôi với những phụ nữ tóc vàng hoe tức là trong vô thức cố gắng kết đôi với phụ nữ trẻ hơn (và do đó sẽ khỏe mạnh hơn và nhiều khả năng sinh sản hơn). Không phải ngẫu nhiên mà tóc vàng hoe được tiến hoá ở Scandinavia và Bắc Âu, có lẽ là phương tiện thay thế cho những phụ nữ thông báo cho người khác biết về tuổi trẻ của họ, vì cơ thể họ bị che giấu dưới lớp quần áo dày.
Phụ nữ với đôi mắt có màu xanh nước biển không có bất kỳ khác biệt nào với những người có mắt nâu hoặc xanh lá cây. Nhưng sở thích về đôi mắt màu xanh nước biển dường như có tính phổ quát và không thể phủ nhận ở cả đàn ông lẫn phụ nữ. 1 lời giải thích cho điều này là đồng tử mắt người giãn nở khi người đó tiếp xúc với 1 điều gì đó làm cô ấy thích thú. Ví dụ, đồng tử mắt của phụ nữ và trẻ sơ sinh (nhưng không phải đàn ông) tự động mở rộng khi họ nhìn thấy những em bé. Đồng tử mở rộng là 1 dấu chỉ trung thực về sự hứng thú và lôi cuốn. Và kích thước của đồng tử được xác định dễ dàng nhất đối với những đôi mắt xanh. Những người có đôi mắt xanh được xem là lôi cuốn, là những bạn tình tiềm năng vì ta dễ dàng xác định được liệu họ có hứng thú với chúng ta hay không.
Điều trớ trêu là không có điều nào ở trên còn đúng nữa. Thông qua phẫu thuật thẩm mỹ khuôn mặt, tóc giả, hút mỡ, bơm ngực, nhuộm tóc và đeo kính áp tròng, bất kỳ phụ nữ nào, bất kể tuổi tác, có thể có nhiều đặc điểm then chốt định nghĩa về vẻ đẹp nữ tính lý tưởng. Và đàn ông yêu họ. Đàn ông có thể hiểu rằng nhiều phụ nữ tóc vàng hoe với bộ ngực lớn không thực sự là 15 tuổi, nhưng họ vẫn thấy những phụ nữ đó quyến rũ vì những cơ chế tâm lý tiến hoá của họ bị đánh lừa bởi những phát minh thời hiện đại vốn không tồn tại trong môi trường của tổ tiên.
2. Con người về bản chất là nhiều bạn tình (polygamous)
Trong lịch sử văn minh phương Tây nói riêng, loài người vốn có nhiều bạn tình. Tình trạng nhiều chồng (1 cuộc hôn nhân của 1 phụ nữ với nhiều đàn ông) là rất hiếm nhưng tình trạng nhiều vợ (hôn nhân của 1 người đàn ông với nhiều phụ nữ) khá rộng rãi trong các xã hội của loài người, mặc dù truyền thống Do Thái - Kito giáo cho rằng hôn nhân 1 vợ 1 chồng là hình thức hôn nhân tự nhiên duy nhất. Chúng ta biết rằng loài người từng có tình trạng đa thê xuyên suốt lịch sử vì đàn ông cao hơn phụ nữ.
Trong số các loài linh trưởng và không phải linh trưởng, mức độ đa thê có tương quan cao với mức độ những con đực của 1 loài lớn hơn con cái. Loài đó càng có nhiều tình trạng đa thê, kích thước chênh lệch giữa 2 giới càng lớn. Thông thường, đàn ông cao hơn 10% và nặng hơn 20% so với đàn bà. Điều này cho thấy rằng, xuyên suốt lịch sử, loài người có tình trạng đa thê nhẹ nhàng.
So với chế độ 1 vợ 1 chồng, tình trạng đa thê tạo ra sự mâu thuẫn lớn hơn (khoảng cách giữa 'những kẻ thắng' và 'những người thua' trong trò chơi sinh sản) trong số những con đực hơn là con cái vì nó cho phép 1 số ít con đực độc chiếm tất cả những con cái trong nhóm. Sự mâu thuẫn lớn hơn trong số những con đực tạo ra sức ép lớn hơn đối với đàn ông phải cạnh tranh với nhau vì những con cái. Chỉ có những con đực to và cao có thể chiến thắng những cơ hội kết đôi. Trong số những loài cặp đôi như loài người, ở đó con đực và con cái sống với nhau để nuôi con, con cái cũng thích kết đôi với những con đực to và cao vì chúng có thể mang lại sự bảo vệ tốt hơn chống lại thú săn mồi và những con đực khác.
Trong những xã hội nơi mà những người đàn ông giàu có giàu hơn rất nhiều so với những người đàn ông nghèo, phụ nữ (và những đứa con của họ) có lợi hơn khi cùng chia sẻ một số ít những người đàn ông giàu; 1/2, 1/4, hoặc thậm chí 1/10 của 1 người đàn ông giàu có vẫn tốt hơn so với 1 người đàn ông hoàn toàn nghèo. George Bernard Shaw cho rằng, "Bản năng làm mẹ khiến phụ nữ thích chia sẻ 1/10 với 1 người đàn ông cao cấp hơn là độc chiếm 1 người đàn ông thấp kém."
Mặc cho sự thật con người vốn là đa thê, hầu hết những xã hội công nghiệp là theo chế độ 1 vợ 1 chồng vì những người đàn ông có xu hướng bình đẳng nhiều hơn hoặc ít hơn trong những nguồn lực của họ so với tổ tiên của họ trong thời Trung cổ. (Bất bình đẳng có xu hướng gia tăng khi xã hội tiến lên từ săn bắn-hái lượm đến những xã hội nông nghiệp tiến bộ. Sự công nghiệp hoá có xu hướng làm giảm mức độ bất bình đẳng.)
3. Hầu hết phụ nữ có lợi từ tình trạng đa thê, trong khi đó hầu hết đàn ông có lợi từ hôn nhân 1 vợ 1 chồng.
Khi có sự bất bình đẳng về nguồn lực trong số những người đàn ông, phần lớn phụ nữ có lợi từ tình trạng đa thê: phụ nữ có thể chia sẻ 1 người đàn ông giàu có. Trong hôn nhân 1 vợ 1 chồng, phụ nữ bị mắc kẹt với 1 người đàn ông nghèo hơn.
Những ngoại lệ duy nhất là những phụ nữ cực kỳ đáng thèm muốn. Dưới chế độ 1 vợ 1 chồng, họ có thể độc chiếm những người đàn ông giàu có nhất; dưới chế độ đa thê, họ phải chia sẻ người đàn ông với những người phụ nữ khác, ít được khao khát hơn. Tuy nhiên, trường hợp này là ngược lại với đàn ông.
Hôn nhân 1 vợ 1 chồng đảm bảo rằng mỗi người đàn ông có thể tìm được 1 cô vợ. Những người đàn ông ít đáng được khao khát có thể chỉ kết hôn được với những phụ nữ ít được khao khát, nhưng điều đó tốt hơn nhiều so với không kết hôn được với bất kỳ ai.
Những người đàn ông trong những xã hội 1 vợ 1 chồng tưởng tượng rằng họ sẽ được lợi hơn dưới chế độ đa thê. Điều họ không nhận ra đó là, đối với hầu hết những người đàn ông cực kỳ không đáng khao khát, tình trạng đa thê có nghĩa là không có cô vợ nào, hoặc nếu họ may mắn, 1 cô vợ ít được thèm muốn rất nhiều so với người vợ họ có thể lấy dưới chế độ 1 vợ 1 chồng.
4. Hầu hết những người đánh bom liều chết là người theo đạo Hồi.
Theo nhà xã hội học Diego Gambetta ở trường đại học Oxford, biên tập sách 'Making Sense of Suicide Missions', 1 lịch sử toàn diện của hiện tượng này là trong khi những nhiệm vụ có tính tự sát này không phải lúc nào cũng bị thúc đẩy bởi sùng đạo, khi tôn giáo có liên quan, nó luôn luôn là đạo Hồi. Tại sao lại như vậy? Tại sao đạo Hồi là tôn giáo duy nhất thúc đẩy những người theo đạo Hồi cam kết với những nhiệm vụ có tính tự sát?
Câu trả lời gây bất ngờ đến từ quan điểm tâm lý học tiến hoá, đó là những vụ đánh bom tự sát của người theo đạo Hồi có thể không liên quan gì đến đạo Hồi hoặc kinh Koran. Nó có thể không liên quan gì đến tôn giáo, chính trị, văn hoá, chủng tộc, đạo đức, ngôn ngữ hoặc vùng miền. Nó có thể liên quan rất nhiều đến t.ình d.ục, hoặc trong trường hợp này là sự thiếu t.ình d.ục.
Điều phân biệt giữa đạo Hồi và những tôn giáo lớn khác là nó cho phép tình trạng đa thê. Bằng cách cho phép 1 số đàn ông độc chiếm tất cả phụ nữ và không cho nhiều người đàn ông khác có cơ hội sinh sản, tình trạng đa thê tạo ra sự khan hiếm phụ nữ. Nếu 50% đàn ông có 2 vợ thì khi đó 50% số đàn ông khác không có bất kỳ cô vợ nào.
Vì vậy tình trạng đa thê gia tăng sức ép cạnh tranh lên đàn ông, đặc biệt là những người đàn ông trẻ có địa vị thấp. Do đó nó gia tăng khả năng những người đàn ông trẻ dùng đến những phương tiện bạo lực để đạt được cơ hội kết đôi. Bằng cách làm như vậy, họ có rất ít thứ để mất và nhiều thứ đi để đạt được so với những người đàn ông đã có nhiều vợ. Trong tất cả các xã hội, tình trạng đa thê làm đàn ông bạo lực hơn, gia tăng những tội phạm như giết người và cưỡng hiếp, ngay cả sau khi kiểm soát những yếu tố rõ ràng như phát triển kinh tế, bất bình đẳng kinh tế, mật độ dân số, mức độ dân chủ và những yếu tố chính trị trong khu vực.
Tuy nhiên, bản thân tình trạng đa thê là không đủ để gây ra đánh bom cảm tử. Những xã hội ở Châu Phi cận Sahara và Caribe có nhiều tình trạng đa thê hơn những Quốc gia Hồi giáo ở Trung Đông và Bắc Phi. Và có mức độ bạo lực rất cao. Châu Phi cận Sahara có 1 lịch sử chiến tranh liên tục nhưng không có đánh bom cảm tử.
Thành phần chủ chốt khác đó là lời hứa 72 trinh nữ đợi trên thiên đàng cho bất kỳ người nào tử vì đạo. Viễn cảnh được tiếp cận với những trinh nữ có thể không lôi cuốn bất kỳ ai đã có 1 cô vợ trên quả đất, mà chế độ 1 vợ 1 chồng hầu như bảo đảm nghiêm ngặt. Tuy nhiên, việc cảnh đó khá hấp dẫn với bất kỳ ai phải đối mặt với thực tế ảm đạm trên trái đất là 1 kẻ thất bại hoàn toàn trong việc sinh sản.
Như vậy, sự kết hợp của tình trạng đa thê và lời hứa rất nhiều trinh nữ trên thiên đàng đã thúc đẩy nhiều đàn ông trẻ theo đạo Hồi cam kết đánh bom cảm tử. Nhất quán với lời giải thích này, tất cả các nghiên cứu về những người đánh bom cảm tử cho thấy gần như tất cả những người đánh bom cảm tử là người độc thân, họ trẻ hơn không chỉ so với số dân Hồi giáo nói chung mà còn những thành viên khác (không tự tử) của những tổ chức chính trị cực đoan như Hamas và Hezbollah.
5. Có con trai làm giảm khả năng ly dị
Các nhà xã hội học và nhà nhân khẩu học đã phát hiện ra rằng những cặp vợ chồng có ít nhất 1 con trai đối mặt với ít nguy cơ ly dị hơn so với những vợ chồng chỉ có những cô con gái? Tại sao lại như vậy?
Khi giá trị của 1 người đàn ông phần lớn được quyết định bởi sự giàu có, địa vị và quyền lực của ông ta - trong khi đó, giá trị của 1 phụ nữ phần lớn được quyết định bởi tuổi trẻ và sự quyến rũ ngoại hình của cô - người cha phải đảm bảo rằng con trai của anh ta sẽ thừa kế của cải, địa vị và quyền lực của anh ta, bất kể những nguồn lực đó của anh ta nhiều hay ít như thế nào. Ngược lại, 1 người cha hoặc mẹ ít có thể làm gì để giữ lại cho con gái họ tuổi trẻ hoặc làm cô ấy quyến rũ hơn về ngoại hình.
Do đo, sự hiện diện và đầu tư tiếp tục của người cha quan trọng đối với con trai, nhưng không quan trọng cho con gái. Sự hiện diện của những đứa con trai do đó ngăn cản việc ly dị và ra đi của người cha khỏi gia đình nhiều hơn sự hiện diện của những cô con gái, và ảnh hưởng này có xu hướng mạnh mẽ hơn trong những gia đình giàu có.
6. Những người xinh đẹp có nhiều con gái hơn
Niềm tin phổ biến cho rằng bố mẹ có thai 1 bé trai hoặc 1 bé gái là do cơ hội ngẫu nhiên. Tỷ lệ giới tính bình thường khi sinh là 105 bé trai trên 100 bé gái . Tuy nhiên, tỷ lệ giới tính thay đổi một chút trong những hoàn cảnh khác nhau và cho những gia đình khác nhau. Có những yếu tố ảnh hưởng một cách tinh tế đến giới tính của 1 đứa bé.
1 trong những nguyên tắc nổi tiếng nhất trong sinh học tiến hoá là giả thuyết Trivers-Willard, nói rằng những bố mẹ giàu có, địa vị cao có nhiều con trai hơn, trong khi đó những bố mẹ nghèo, địa vị thấp có nhiều con gái hơn. Điều này là vì con cái nhìn chung thừa kế của cải và địa vị xã hội của bố mẹ chúng.
Xuyên suốt lịch sử, những đứa con trai từ những gia đình giàu có sẽ trở nên giàu có có thể mong đợi có nhiều vợ, tình nhân và thê thiếp, và sinh ra hàng tá hoặc hàng trăm đứa con, trong khi đó những chị em gái giàu có ngang bằng chỉ có thể có nhiều con. Vì vậy chọn lọc tự nhiên thiết kế tỷ lệ giới tính cho bố mẹ khi sinh phụ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế của họ - nhiều con trai hơn nếu họ giàu, nhiều con gái hơn nếu họ nghèo (Cơ chế sinh học làm điều này xảy ra như thế nào vẫn chưa được hiểu rõ.)
Giả thuyết này đã được dẫn chứng bằng tư liệu trên toàn cầu. Các tổng thống Mĩ, phó tổng thống và những thư ký Nội Các có nhiều con trai hơn con gái. Những người chăn nuôi nghèo Mukogodo ở Đông Phi có nhiều con gái hơn con trai. Những hồ sơ giáo xứ nhà thờ từ thế kỷ 17 và 18 cho thấy những địa chủ giàu có ở Leezen, Germany có nhiều con trai hơn con gái, trong khi đó những lao động nông nghiệp và thương gia không có tài sản có nhiều con gái hơn con trai. Trong 1 cuộc khảo sát từ 46 quốc gia, những người giàu có nhiều khả năng chỉ thích có con trai nếu họ chỉ có thể có 1 con, trong khi đó những người ít giàu hơn có nhiều khả năng thích con gái.
Giả thuyết Trivers-Willard còn đi xa hơn sự giàu có và địa vị của 1 gia đình: Nếu bố mẹ có bất kỳ đặc điểm nào mà họ có thể truyền lại cho con họ và đặc điểm đó tốt hơn là đối với con trai hơn con gái, thì lúc đó họ sẽ có nhiều con trai hơn. Ngược lại, nếu bố mẹ có bất kỳ đặc điểm nào họ có thể truyền lại cho con họ và tốt hơn là với con gái, họ sẽ có nhiều con gái hơn.
Sự quyến rũ ngoại hình là 1 đặc tính tích cực phổ quát, đóng góp nhiều hơn vào sự thành công trong sinh sản của phụ nữ hơn là của đàn ông. Giả thuyết tổng quát do đó sẽ dự đoán rằng những bố mẹ có ngoại hình quyến rũ nên có nhiều con gái hơn con trai.
7. Khủng hoảng tuổi trung niên là 1 điều hoang đường
Nhiều người tin rằng đàn ông trải qua 1 cuộc khủng hoảng tuổi trung niên khi họ đang ở tuổi trung niên. Không hẳn như vậy. Nhiều đàn ông tuổi trung niên trải qua những cuộc khủng hoảng tuổi trung niên, nhưng không phải vì họ đang ở tuổi trung niên. Đó là vì những bà vợ của họ. Từ quan điểm tâm lý học tiến hoá, cuộc khủng hoảng tuổi trung niên của 1 người đàn ông bị xô đẩy bởi thời kỳ mãn kinh sắp xảy ra của vợ họ và kết thúc sự nghiệp sinh sản của cô ấy, và do đó nhu cầu làm mới của anh ấy để thu hút những phụ nữ trẻ hơn. Theo đó, 1 người đàn ông 50 tuổi kết hôn với 1 phụ nữ 25 tuổi sẽ không trải qua 1 cuộc khủng khoảng tuổi trung niên, trong khi đó 1 người đàn ông 25 tuổi kết hôn với 1 phụ nữ 50 tuổi sẽ giống như 1 người đàn ông 50 tuổi kết hôn với 1 phụ nữ 50 tuổi. Không phải tuổi trung niên của anh ấy có vấn đề, mà vấn đề là của cô ấy. Khi anh ấy mua 1 chiếc xe thể thao màu đỏ bóng loáng, anh ấy không cố gắng lấy lại tuổi trẻ của mình, anh ấy chỉ đang cố gắng thu hút những phụ nữ trẻ để thay thế cho người vợ mãn kinh của mình bằng cách bật đèn và vung tiền.
8. Đó là điều tự nhiên khi các chính trị gia mạo hiểm tất cả mọi thứ vì 1 cuộc tình (nhưng chỉ khi họ là đàn ông)
Vào buổi sáng ngày 21/1/1998, người Mĩ choáng váng trước tin tổng thống Bill Clinton đã từng ngoại tình với 1 cô thực tập sinh Nhà Trắng 24 tuổi. Nhà sử học Laura L. Betzig chỉ ra rằng những người đàn ông da trắng quyền lực xuyên suốt lịch sử phương Tây đã từng có hôn nhân 1 vợ 1 chồng (chỉ có 1 vợ hợp pháp tại 1 thời điểm), họ luôn luôn cặp bồ với nhiều người (họ có những cô người yêu, người thiếp, nữ nô lệ). Với vợ của họ, họ có những đứa con hợp pháp; với những người khác, họ có những đứa con hoang. 2 loại đứa trẻ không có sự khác biệt về gen.
Kết quả là, những người đàn ông quyền lực có địa vị cao xuyên suốt lịch sử loài người đạt được thành công về mặt sinh sản rất cao, họ có rất nhiều con (hợp pháp và con hoang), trong khi đó những người đàn ông nghèo thì không vợ, không bồ và không con.
Câu hỏi nhiều người hỏi trong năm 1998 - "Tại sao người đàn ông quyền lực nhất thế giới này lại gây nguy hiểm cho công việc của mình vì 1 cuộc tình với 1 phụ nữ trẻ?" - là 1 câu hỏi ngu ngốc theo quan điểm của Darwin. Câu trả lời của Betzig có lẽ sẽ là: "Tại sao không?" Đàn ông phấn đấu đạt được quyền lực chính trị, ý thức hoặc vô thức, để tăng cơ hội sinh sản với nhiều phụ nữ. Tăng cơ hội sinh sản với phụ nữ là mục tiêu, chức vụ chính trị chỉ là 1 trong nhiều phương tiện. Hỏi lý do tại sao tổng thống Bill ngoại tình với 1 phụ nữ trẻ cũng giống như hỏi tại sao 1 ai đó làm việc rất chăm chỉ để kiếm nhiều tiền và sau đó tiêu nó.
9. Những điểm chung giữa Bill Gates và Paul McCartney với những tên tội phạm
Trong gần 1/4 thế kỷ, các nhà tội phạm học đã biết về 'đồ thị tuổi tội phạm.' Trong mọi xã hội ở mọi thời điểm lịch sử, xu hướng phạm tội và những hành vi mạo hiểm khác gia tăng nhanh chóng ở tuổi thiếu niên sớm, đạt tột đỉnh vào cuối tuổi thiếu niên và đầu tuổi trưởng thành, giảm nhanh trong suốt lứa tuổi 20 và 30 và san bằng ở tuổi trung niên.
Đồ thị này không chỉ giới hạn với tội phạm. Mối quan hệ giữa tuổi tác và năng suất lao động trong số những nhạc sĩ (đàn ông) nhạc jazz, những nam hoạ sỹ, nam nhà văn, và nhà khoa học nam - cũng có thể được gọi là 'đồ thị tuổi thiên tài' - tương tự như đồ thị tuổi tội phạm. Năng suất lao động của họ - sự bộc lộ thiên tài của họ nhanh chóng đạt tột đỉnh ở đầu tuổi trưởng thành và sau đó giảm nhanh trong suốt tuổi trưởng thành. Còn đồ thị tuổi thiên tài ở nữ ít rõ ràng hơn nhiều, nó không đạt đỉnh hoặc có khác biệt nhiều như là 1 chức năng của tuổi tác.
Paul McCartney đã không còn viết 1 bài hát hit nào trong nhiều năm, và bây giờ ông dành nhiều thời gian để vẽ tranh. Bill Gates bây giờ là 1 doanh nhân và nhà từ thiện đáng kinh và không còn là 1 chuyên gia máy tính. J.D. Salinger hiện đang ở ẩn và không xuất bản được bất cứ thứ gì trong hơn 3 thập kỷ qua. Orson Welles chỉ mới 26 tuổi khi ông ấy viết, sản xuất, làm đạo diễn và đóng vai chính trong phim Citizen Kane.
Có 1 lý thuyết duy nhất có thể giải thích được năng suất lao động của cả những thiên tài sáng tạo và những tội phạm trong suốt cuộc đời: cả tội phạm và thiên tài đều thể hiện những khao khát cạnh tranh của người đàn ông trẻ, mà chức năng lớn nhất trong môi trường của tổ tiên là để gia tăng thành công trong sinh sản.
Trong cuộc cạnh tranh về sức mạnh cơ thể để giành bạn tình, những người cạnh tranh có thể hành động bạo lực đối với những đối thủ nam của họ. Những người đàn ông ít có xu hướng bạo lực và phạm tội hơn có thể biển hiện tính cạnh tranh của họ thông qua những hoạt động sáng tạo.
Chi phí của cạnh tranh tăng lên đột ngột khi 1 người đàn ông có con, khi năng lượng và những nguồn lực của anh ta được sử dụng tốt hơn để bảo vệ và đầu tư cho đứa con. Sự ra đời của đứa con đầu tiên thường xuất hiện sau tuổi dậy th.ì nhiều năm vì người đàn ông cần một số thời gian để tích lũy đủ những nguồn lực và đạt được địa vị đủ để thu hút người bạn tình đầu tiên của họ. Do đó có 1 khoảng cách nhiều năm giữa sự tăng nhanh trong những lợi ích của sự cạnh tranh và sự tăng nhanh tương tự về những chi phí của nó. Năng suất lao động giảm nhanh ở cuối tuổi trưởng thành khi những chi phí của sự cạnh tranh tăng lên và xoá bỏ những lợi ích của nó.
Những sự tính toán trên được thực hiện bởi chọn lọc tự nhiên và t.ình d.ục, trang bị cho những bộ não đàn ông 1 cơ chế tâm lý khiến họ có xu hướng gia tăng sự canh tranh ngay sau tuổi dậy th.ì và làm họ ít cạnh tranh hơn ngay sau khi đứa con đầu tiên ra đời. Đàn ông đơn giản là không cảm thấy phải hành xử bạo lực, trộm cắp hoặc tiến hành những thực nghiệm khoa học, họ chỉ muốn bình tâm lại sau khi đứa con chào đời nhưng họ không hiểu chính xác tại sao.
Điểm giống nhau giữa Bill Gates, Paul McCartney và những tên tội phạm và trong số tất cả đàn ông xuyên suốt lịch sử tiến hoá - chỉ ra 1 khái niệm quan trọng trong sinh học tiến hoá: sự lựa chọn phụ nữ.
Phụ nữ thường nói không với đàn ông. Đàn ông phải chinh phục những vùng đất bên ngoài, chiến thắng trong những cuộc chiến tranh, soạn nhạc, viết sách, làm thơ, vẽ tranh lên trần nhà thờ, có những khám phá khoa học, chơi nhạc rock và viết phần mềm máy tính để gây ấn tượng với phụ nữ để họ sẽ đồng ý quan hệ với anh ta. Đàn ông đã xây dựng (và hủy diệt) những nền văn minh để gây ấn tượng với phụ nữ, để họ có thể nói có.