Đại thắng mùa xuân năm 1975
(ĐCSVN) - Năm 1972 ta thắng lớn ở miền Nam, giải phóng thị xã Quảng Trị, Đông Hà. Ở Tây Nguyên ta giải phóng thị trấn Đắc Tô – Tân Cảnh. Ở miền Đông Nam Bộ ta giải phóng thị trấn Lộc Ninh. Ở miền Bắc chiến dịch phòng không nổi tiếng “Điện Biên Phủ trên không” đánh bại chiến lược chiến tranh phá hoại của Mỹ. Chiến thắng ở miền Nam và miền Bắc buộc quân Mỹ phải rút quân về nước. Mất chỗ dựa của Mỹ, nguỵ Sài Gòn suy yếu nghiêm trọng cả về tinh thần và vật chất; lòng tin giữ vững được miền Nam bị lung lay.
Năm 1973-1974, ta tiếp tục chiến đấu diệt được nhiều địch và mở rộng vùng căn cứ giải phóng và nhiều lõm xen kẽ. Trong những năm này thế của ta đang lên và đang mạnh. Đó là thời cơ để ta thực hiện lời tiên tri của Hồ Chủ tịch là “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.
Để thực hiện thời cơ đó, Bộ Chính trị quyết tâm giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975- 1976 và nếu có thời cơ thì giải phóng miền Nam trong năm 1975. Chủ trương của ta là giải phóng vùng bắc miền Nam trước. Vùng bắc miền Nam là Tây Nguyên thì có điều kiện thuận lợi hơn. Vì ở đó ta có thể tập trung được lực lượng lớn; địa hình ở đây vừa có rừng núi, vừa có cao nguyên, có thể tập trung binh đoàn lớn, vừa kín đáo vừa có khả năng cơ động; lại gần cơ sở hậu cần của đường vận tải chiến lược 559.
Để thực hiện quyết tâm chiến lược là đánh chiếm giải phóng Buôn Ma Thuột, mưu kế chiến lược của Bộ thống soái là bày ra một hình thế dàn trận chiến lược – bày binh bố trận ghìm địch ở hai đầu chiến tuyến Sài Gòn và Huế – Đà Nẵng để phá vỡ Tây Nguyên. Ta đưa Quân đoàn 4 vào bắc Đồng Nai, Quân đoàn 2 vào tây Huế. Hai quân đoàn ta đứng đó, địch phải đưa sư đoàn lính dù và sư đoàn lính thuỷ đánh bộ – tổng dự bị chiến lược- ra để giữ 2 khu vực đó mà để sơ hở ở Tây Nguyên.
Ở Tây Nguyên ta chọn Buôn Ma Thuột làm điểm đột phá mở đầu. Plây Cu và Kon Tum là 2 nơi ta và địch thường xuyên đối chọi nhau. Hơn nữa ở đây địch còn tương đối mạnh và thường xuyên phòng bị. Buôn Ma Thuật là nơi địch sơ hở hơn và ít chọi đầu với ta. Ta chọn Buôn Ma Thuột địch ít chú ý hơn và địa hình thuận lợi cho các đơn vị lớn hoạt động địch phản kích cũng khó khăn hơn và ta có thế phát triển hơn. Muốn cho Buôn Ma Thuột chắc thắng, ta đột ngột tăng cho Tây Nguyên 2 sư đoàn nữa. Tây Nguyên trở thành có 4 sư đoàn và một số trung đoàn độc lập tăng thêm cho pháo binh và xe tăng. Tây Nguyên trở thành một quân đoàn mạnh lại có sự phối hợp của Sư đoàn 3 Sao Vàng QK5 và có sự hỗ trợ của Đoàn 559. Có thế trận lòng dân ta mới có thế trận chiến lược và chiến dịch lợi hại như thế.
Thời cơ tăng thêm cho Tây Nguyên 2 sư đoàn là cái nút của cuộc chiến tranh. Với lực lương hùng hậu như thế, mưu kế chiến dịch là nghi binh lừa địch ở Plây Cu, Kon Tum để địch tập trung vào đó mà để sơ hở ở Buôn Ma Thuột. Địch mắc mưu, ta tập trung lực lượng 3 sư đoàn, 2 trung đoàn pháo binh, 3 trung đoàn cao xạ, 1 trung đoàn xe tăng xe thiết giáp, 2 trung đoàn công binh, được Binh đoàn 559 chi viện, có sự phối hợp với Sư đoàn 3 Sao Vàng, nhanh chóng phá vỡ Buôn Ma Thuột và đánh phản kích thắng lợi, tạo ra đột biến về chiến dịch. Đòn điểm huyệt đó thắng lợi, buộc địch phải rút chạy khỏi Tây Nguyên. Plây Cu, Kon Tum ta không đánh mà thắng. Ta liền truy kích, có bộ đội địa phương và dân quân du kích tỉnh Phú Yên hỗ trợ, tiêu diệt nốt quân tháo chạy, tạo ra đột biến về chiến lược. Địch hoang mang dao động mạnh, không còn khả năng chống đỡ về chiến lược. Chiến thắng Buôn Ma Thuột là chiến thắng bằng mưu kế. Ở đây có vấn đề là kế hoạch tác chiến càng công phu thì chiến thắng càng dễ. Thế trận càng phức tạp thì tình huống diễn ra càng giản đơn. Đó cũng là biện chứng pháp trong nghệ thuật lãnh đạo chiến tranh.
Chớp thời cơ đó đòn chiến lược Huế- Đà Nẵng gối đầu ngay. Quân đoàn 2 chia cắt Huế – Đà Nẵng và 25 tháng giải phóng Huế và đánh tiêu diệt lớn quân địch tháo chạy ra bờ biển. Sau đó ngày 29 tháng 3 Quân đoàn 2 cùng Sư đoàn và các lực lượng 3 thứ quân QK5 hiệp đồng đánh giải phóng Đà Nẵng. Quân địch thua chạy ra biển cũng bị quân ta tiêu diệt nhiều. Đòn chiến lược thứ 2 thắng lợi, làm đảo lộn chiến lược của địch, tạo ra một cục diện mới, tạo thời cơ cho ta tiếp tục phát triển tiến công lớn, đẩy địch tới bờ vực thẳm của sự sụp đổ. Trên cơ sở đó Bộ thống soái đề ra khẩu hiệu biến thành phương châm hành động là “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”. Bộ Chính trị đưa ra quyết tâm giải phóng miền Nam trước mùa mưa năm 1975. Quân dân ta như trảy hội non sông, nô nức tiến tới mục đích cuối cùng. Kế tiếp chiến dịch Huế – Đà Nẵng đại thắng ta tiến hành chiến dịch quyết chiến chiến lược Hồ Chí Minh để giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam.
Chiến dịch Hồ Chí Minh được mở ra ngày 26/4/1975. Địch ở đây có 4 sư đoàn bộ binh và 1 sư đoàn lính thuỷ đánh bộ, 2 lữ đoàn dù, 3 liên đoàn biệt động quân cùng các quân binh chủng, các lực lượng bảo an, dân vệ, cảnh sát, phòng vệ dân sự…tổ chức phòng thủ vòng ngoài, ven đô và nội đô. Ngày 26/4 ta hình thành thế bao vây Sài Gòn từ năm hướng gồm 15 sư đoàn. Hướng bắc Quân đoàn l đánh vào phía bắc Bộ tổng tham mưu địch. Hướng tây-bắc Quân đoàn 3 đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất và sở chỉ huy hành quân của Bộ tổng tham mưu địch. Hướng đông –nam, Quân đoàn 2. Hướng bắc, Quân đoàn 4. Hướng tây-nam, Đoàn 232. Các quân binh chủng hùng mạnh dầy dạn kinh nghiệm gồm pháo binh, cao xạ, tên lửa, xe tăng thiết giáp, công binh, thông tin, vận tải, đặc công, biệt động, bộ đội địa phương và dân quân du kích đều được tập trung vào trận đánh lớn này. Các đơn vị đã sẵn sàng ở vị trí chiến đấu trên các hướng. 17 giờ ngày 26/4 ta phát lệnh chiến đấu. Chiến dịch bắt đầu. Để thực hiện quyết tâm giải phóng Sài Gòn, mưu kế của ta là tổ chức một hình trận vây tròn 4 mặt Sài Gòn, đánh từ ngoài vào trong. Hình thế dàn trận, bày binh bố trận là bóp chết địch, không cho nó chạy thoát.
Từ 26 đến 28 tháng 4 ta đột phá tuyến phòng thủ vòng ngoài vững chắc của địch. Chúng chống lại rất quyết liệt và cuộc chiến đấu diễn ra rất ác liệt, nhưng là cơn dãy chết cuối cùng. Ta đánh chiếm nhiều mục tiêu quan trọng như Nước Trong, Long Bình, Long Thành, Trảng Bom, Nhơn Trạch, Thị xã Bà Rịa, Thành Tuy Hạ, Đồng Dù, Thị xã Hậu Nghĩa, cắt đứt hoàn toàn đường 4 từ Sài Gòn đi các tỉnh miền Tây, chế áp và làm tê liệt các sân bay Tân Sơn Nhất, Biên Hoà. Ta chiếm được vùng ven với ngun ngút khí thế tiến công. Sáng 30/4 ta tiến hành tổng công kích vào nội thành. Các mũi tiến công đều theo nhiệm vụ tiến đánh các mục tiêu được xác định. Các đoàn đặc công, biệt động, bộ đội địa phương, dân quân du kích cùng phối hợp chiến đấu. Nhân dân, công nhân, sinh viên, trí thức đều hưởng ứng nổi dậy chiến đấu ngăn chặn không cho địch phá huỷ nhà máy và gọi địch ra hàng. Quân đoàn 2 tổ chức một cụm cơ động thọc sâu gồm xe tăng, xe bọc thép và bộ binh được đặc công yểm hộ qua các cầu và du kích dẫn đường, vượt qua các chốt đề kháng của địch, nhanh chóng tiến đánh dinh Độc Lập, buộc nội các Sài Gòn phải đầu hàng vô điều kiện. Lá cờ giải phóng được cắm cao trên nóc dinh Độc Lập.
Miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Ước mơ của Hồ Chủ tịch được thực hiện. Nhân dân Sài Gòn nô nức ra đường hoan nghênh bộ đội. Thành phố hầu như nguyên vẹn, nhân dân được bình yên vô sự. Đó là văn hoá quân sự của cuộc chiến tranh nhân dân của chúng ta. Nước nhà được thống nhất, đại đoàn kết toàn dân để xây dựng một cuộc đời mới độc lập tự do, xây dựng một nhà nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển.
Chiến thắng Sài Gòn thể hiển tinh thần yêu nước, yêu độc lập tự do, tinh thần quật cường bất khuất của dân tộc ta, trí thông minh sáng tạo của dân tộc ta, sự lãnh đạo tài tình có trí tuệ của Đảng ta đã tập hợp được sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân; lấy chính trị tinh thần làm cơ sở cho chiến đấu; tiếp thu và phát huy truyền thống tinh hoa của Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa v.v… của tổ tiên ta.
Học thuyết quân sự Việt Nam là chiến tranh nhân dân 3 thứ quân, 2 phương thức tác chiến. Tính chất chiến tranh là chính nghĩa chống xâm lược. Trường phái quân sự Việt Nam là “dĩ đoản chế trường”, “lấy ít địch nhiều”, “lấy thế thắng lực”. Đó là điểm đặc sắc của nền nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Tư tưởng quân sự Việt Nam lấy dân làm gốc, lấy tiến công làm chính, lấy chủ động cơ động lám hành động; lấy tập trung phân tán lám cách đánh. Nghệ thuật quân sự Việt Nam lấy mưu cao nhất là mưu lừa địch, kế hay nhất là kế điều địch, thế tốt nhất là thế chia cắt địch; đánh bằng mưu kế; thắng bằng thế thời.
Ngày nay chúng ta tiếp tục phát huy sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.