Tiếp xúc với phụ nữ làm đàn ông ngu đi

rubi_mos2002

Thành viên thân thiết
Thành viên thân thiết
Tham gia
28/10/2011
Bài viết
824
[size=medium]Tham khảo
Interacting with women makes men stupid
Can opposite s.ex interactions cause a decline in cognitive performance?
Published on May 18, 2009 by Scott Barry Kaufman, Ph.D. in Beautiful Minds

“Một số người nghĩ rằng có bộ ngực to làm 1 phụ nữ ngu đi. Nhưng sự thực thì ngược lại: 1 phụ nữ có bộ ngực to làm đàn ông ngu đi.” -- Rita Rudner

Tôi nhớ có 1 lần tôi đang nói chuyện với 1 phụ nữ tôi rất thích. Tim tôi đập nhanh, mồ hôi túa ra và căn phòng như quay tròn. Đột nhiên 1 nhóm bạn bước vào và yêu cầu tôi giới thiệu cô gái tôi đang nói chuyện với họ. Mọi cặp mắt nhìn vào tôi, tôi nhớ là mình nhìn người bạn thân nhất của tôi và nhận ra rằng tôi không thể nhớ được bất kì cái tên nào!

Tôi đã thảo luận hiện tượng này với những người bạn nam và nữ của tôi (họ cũng thông báo những kinh nghiệm tương tự). Tại sao tôi đột ngột biến thành 1 người hoàn toàn khác, không thể suy nghĩ rõ ràng? Và quan trọng hơn, tại sao điều này chỉ xảy ra khi tôi nói chuyện với phụ nữ?

1 bài báo hấp dẫn trên tờ Journal of Experimental Social Psychology cuối cùng đã khám phá ra vấn đề đó.

Johan C. Karremans và các cộng sự ở Radboud University đã kiểm tra giả thiết là những cuộc tiếp xúc với người khác giới gây ra sự suy giảm chức năng nhận thức.

Trong 2 nghiên cứu, họ yêu cầu những người tham gia tương tác với 1 người lạ hoặc là cùng giới hoặc khác giới và hoàn thành 1 nhiệm vụ về nhận thức cả trước và sau cuộc tương tác.

Ở nghiên cứu đầu tiên của họ, 40 người đàn ông có xu hướng thực hiện tệ hơn ở 1 nhiệm vụ nhận thức (đòi hỏi trí nhớ ngắn hạn) sau khi tương tác với người khác giới so với cuộc tương tác với người cùng giới. Thật thú vị, hiệu ứng này độc lập với việc liệu người tham gia là độc thân hay đang có quan hệ tình cảm. Hiệu ứng này thậm chí mạnh mẽ hơn khi người đàn ông thống báo là bị thu hút lớn hơn đối với người khác giới mà họ tương tác.

Ở nghiên cứu thứ 2, các nhà nghiên cứu yêu cầu 53 đàn ông và 58 phụ nữ (là sinh viên) tương tác với nhau. Tương tự như vậy, đàn ông (không phải phụ nữ) cho thấy 1 sự suy giảm hiệu quả ở 1 nhiệm vụ đòi hỏi sự nhận thức rất cao. Cũng giống nghiên cứu 1, hiệu ứng này độc lập với việc liệu người tham gia độc thân hay không. Thêm nữa, đàn ông (không phải phụ nữ) thông báo là có mức độ kiểm soát việc gây ấn tượng cao hơn trong những cuộc tương tác với người khác giới so với tương tác cùng giới.

Cần lưu ý là hoạt động nhận thức của phụ nữ cũng có xu hướng suy giảm sau những cuộc tiếp xúc với người khác giới nếu phụ nữ thông báo là họ có 1 mục tiêu tương đối mạnh mẽ là gây ấn tượng với người khác giới.

Các kết quả đó cho rằng quả thật có thể có 1 điều gì đó đặc biệt về những tương tác khác giới đã làm suy yếu chức năng nhận thức.

Nhưng điều gì gây ra những hiệu ứng đó? Các tác giả cho rằng những hiệu ứng đó có thể là do những mối bận tâm về việc thể hiện bản thân khi tương tác với 1 người khác giới so với người cùng giới. Vì việc kiểm soát ấn tượng không dễ dàng (nó đòi hỏi sự kiểm soát nhận thức 1 cách cẩn thận vì 1 người phải liên tục kiểm soát và thay đổi hành vi của họ), nó có thể đòi hỏi sự nỗ lực và năng lượng tinh thần, do đó làm cạn kiệt những nguồn lực nhận thức của 1 người (điều này nhất quán với mô hình điều chỉnh nguồn lực bản thân của Roy Baumeister: sức mạnh ý chí như cơ bắp, bạn càng dùng nhiều thì ý chí càng cạn kiệt) và do đó gây ra sự suy giảm trong hoạt động nhận thức sau cuộc tương tác.

Tại sao hiệu ứng này được thông báo ở đàn ông nhiều nhất, các nhà nghiên cứu cho rằng “so với phụ nữ, đàn ông có nhiều khả năng xem những cuộc tương tác khác giới theo quan điểm của 1 trò chơi kết đôi”, và do đó “đàn ông có xu hướng nỗ lực để gây ấn tượng với 1 đối tác khác giới.”

Các nhà nghiên cứu đưa thêm những lời giải thích khác cho phát hiện của họ. Có lẽ vai giới truyền thống nhấn mạnh rằng đàn ông được kỳ vọng là khởi xướng những cuộc tương tác với người khác giới, khiến đàn ông phải sử dụng nhiều nguồn lực nhận thức hơn để hành động cho phù hợp với những kỳ vọng đó.

Đây chắc chắn là 1 khả năng, và tôi nghĩ là thật thú vị nếu làm thêm nghiên cứu về việc phụ nữ thực sự nghĩ gì khi họ tương tác với người khác giới so với suy nghĩ của đàn ông. Và có thể những vai giới truyền thống là thủ phạm. Nhưng 1 lần nữa, nó cũng có thể không phải là lời giải thích. Nghiên cứu chỉ ra, đàn ông có nhiều khả năng hơn phụ nữ, đánh giá quá cao h.am m.uốn t.ình d.ục và những mục tiêu kết đôi khi tương tác với phụ nữ.

Lời giải thích khả thi khác có thể là bạn cần sự kiểm soát nhận thức nhiều hơn trong những cuộc tương tác với người khác giới vì con người có thể chỉ có nhiều kinh nghiệm trong việc tương tác với những người cùng giới. Dù các nhà nghiên cứu nhận thấy, lời giải thích này không lí giải được tại sao hiệu ứng này đặc biệt mạnh mẽ ở đàn ông trong mẫu nghiên cứu của họ.

Những ngụ ý từ các phát hiện này là gì? 1 cuộc tranh luận quanh năm quan tâm đến những ưu điểm và nhược điểm của những trường dành cho học sinh cùng giới so với khác giới. Theo các nhà nghiên cứu, khả năng nhận thức có thể suy giảm ở những môi trường gồm những học sinh khác giới, khi 1 phần nguồn lực nhận thức quý giá của những cậu con trai có thể được dành cho việc gây ấn tượng với các bạn nữ.

Các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy những ngụ ý về việc quấy rối t.ình d.ục. Quấy rối t.ình d.ục thường được xem là kết quả của thành kiến nhận thức của đàn ông về h.am m.uốn t.ình d.ục của phụ nữ. Các kết quả của họ nêu lên ý kiến thú vị rằng việc quấy rối t.ình d.ục cũng có thể 1 phần là do những tác động làm cạn kiệt nhận thức của 1 cuộc tương tác với người khác giới. Sự cạn kiệt nhận thức có thể làm con người bóp méo thực tế và không có được những manh mối cần thiết về h.am m.uốn t.ình d.ục.

Lần tới, khi bạn trò chuyện với 1 đối tác tình cảm đáng khao khát, đừng lên kế hoạch làm nhiều công việc liên quan đến trí óc sau đó.

---------------
Karremans, J.C., Verwijmeren, T. Pronk, T.M. Reitsma, M. (2009). Interacting with women can impair men's cognitive functioning. Journal of Experimental Social Psychology, doi:10.1016/j.jesp.2009.05.004

Nguồn: PsychologyToday
 
×
Quay lại
Top