Tuổi thơ dữ dội

5

Chiến khu Hoà Mỹ bị giặc tấn công, vây h.ãm đã bước sang ngày thứ mười lăm. Đó là một ngày căng thẳng quyết liệt nhất.
Mới tờ mờ sáng, các đỉnh núi còn chìm khuất trong sương, bọn giặc đã bắn đại bác vào các lớp núi dồn dập gần như không phút nào nghỉ. Đất đá bay rào rào, cây cối đổ rầm rầm.
Tám giờ sáng, máy bay phóng pháo ào ào kéo đến hết tốp này đến tốp khác, vòng lượn, gầm rú, trút bom đạn xuống các sườn núi, khe suối mà chúng nghi có quân ẩn náu. Tin tức từ các đài quan sát dồn dập báo về hầm chỉ huy sở: Nhiều toán từ đồi Đồng Nhện, đồi Hai Lăm, vượt sông Ô Lâu sang Hoà Mỹ. Phía bắc Tiền chiến khu, giặc tập trung qưân đông đặc.
Trung đoàn trưởng Hà Văn Lâu ngồi trong hầm chỉ huy đào cạnh gốc một cây kiền kiền đại thụ. Máy điện thoại đặt trong cái hốc khoét sâu vào vách hầm đổ chuông liên hồi. Anh chiến sĩ thông tin trực điện thoại chốc chốc lại đưa ống nghe cho ông: "Báo cáo? Đài quan sát cây Quao báo cáo với anh!".
Qua những báo cáo của cảc đơn vị Trinh sát, Trung đoàn trưởng dự đoán bọn giặc sẽ mở trận tấn công quyết định vào núi trong ngày hôm nay. Giờ tấn công muộn nhất là haỉ giờ chiều. Và ông đã sẵn sàng đón tiếp chúng. Trận địa mìn được bố trí xong vào lúc một giờ sáng. Ba giờ hai mươi phút sáng, ông và một cán bộ tham mưu đến kiểm tra lại bãi mìn lần cuối cùng.
Đài quan sát cây Quao là một trong những đơn vị quyết định sự thành bại của trận địa lôi chiến. Ông ra lệnh bổ sung thêm cho tổ Trinh sát cây Quao hai chiến sĩ nổi tiếng gan dạ của trung đoàn…
Theo kế hoạch của ông, khi bọn giặc vào đến địa điểm quy định, một bãi trống lớn gần dải rừng cây thưa và thấp dưới chân núi Xê-ca Bảy, Đài quan sát cây Quao sẽ gọi điện thoại về hầm chỉ huy. Ông sẽ đích thân ra lệnh nổ mìn.
Quả địa lôi phát lệnh nặng một trăm cân, do công binh xưởng chế tạo bằng một quả bom lép của địch ném xuống Xê-ca Bốn. Quả bom phát lệnh và toàn bộ bãi mìn sẽ được nổ bằng pin điện. Hầm của hai chiến sĩ công binh phụ trách nổ mìn ở cách hầm chỉ huy một tầm gọi.
6
Em Nghi áo đứt hết cúc mở phanh ngực, quần đùi xắn đến bẹn, đầu trần lấm lem đất bùn, tay xách khẩu các-bin, vừa đi vừa chạy về phía Xê-ca Bảy. Em nhảy như một con sơn dương non qua những thân cây đổ ngổn ngang, những hố đạn, hố bom chi chít dọc theo lối đi. Thỉnh thoảng em dừng lại, co chân lên, rút một cái gai dưới bàn chân, vất ra xa với vẻ mặt khinh bỉ.
Em đang có nhiệm vụ khẩn cấp: Mang thư của Trung đoàn trưởng gửi bác sĩ bệnh viện trưởng, yêu cầu cho rút gấp những bộ phận cuối cùng ra khỏi Xê-ca Bảy.
Trận tấn công của giặc vào Xê-ca Bảy trong ngày hôm nay sắp bắt đầu.
Khu vực bệnh viện vắng lặng khác thường. Các lán đều trống không. Nhiều lán đổ sụp, hai mái lán nằm tùm hum trên mặt đất, cột kèo được rút hết làm đòn khiêng cáng bệnh nhân, thương binh.
Phần lớn bệnh nhân, thương binh, y tá, hộ lý đã rút khỏi Xê-ca Bảy, chuyển về chiến khu mới từ hai hôm trước. Lúc này bệnh nhân chỉ còn lại sáu thương binh vừa được chuyển đến đêm qua và sáng nay.
Bác sĩ Thiền, một anh và một chị y tá, một chị hộ lý còn ở lại chăm sóc thương binh. Tất cả được chuẩn bị sẵn sàng để di chuyển. Thương binh được đặt nằm sẵn trên cáng làm bằng đòn tre và vải bạt, chờ người đến cáng đi.
Chỉ riêng trường hợp chị tổ trưởng dân công làm bác sĩ Thiền rất đỗi lo lắng, băn khoăn. Các vết thương quá nặng, chị mất quá nhiều máu, nên không hy vọng gì có thể qua khỏi ngày hôm nay. Nếu cáng đi, chị sẽ chết dọc đường, và có khả năng chết sớm hơn vì các vết thương đang chảy máu bị chấn động. Nhưng nếu để chị ở lại thì phải cử người ở lại săn sóc…
Lúc Nghi bước vào lán đưa thư của trung đoàn trưởng, bác sĩ Thiền vừa tiêm cho chị một mũi thuốc trợ tim.
Trong lúc ông đứng trước cửa lán đọc thư, Nghi đi về phía cuối lán thăm chị tổ trưởng dân công mà hai hôm nay em được nghe cả chiến khu nhắc nhở, bàn tán về tinh thần gan dạ vô song của chị, về cái gùi gạo chị mang trên lưng găm đầy đầu đạn, gạo trộn với máu…
Chị nằm trên cáng, đắp tấm chăn đơn cũ kỹ, đầu gối cái bao tải gấp làm tám, tóc buông loà xoà phủ kín cái tải gối đầu.
Nhờ mũi thuốc trợ tim vừa chích, chị dứt cơn mê sảng, bắt đầu tỉnh lại. Chị mở to mắt nhìn quanh như chưa hiểu mình đang nằm ở đâu.
Khi còn cách chị vài bước, Nghi bỗng đứng sững lại, kinh ngạc kêu lên:
- Ui! ?
Nghi nhận ra, chị tổ trưởng dân công lừng danh của chiến khu, chính là mẹ của Mừng. Em đã được gặp chị trong cái đêm chở Mừng về làng Phò thăm mẹ.
Hôm đó, tuy dưới ánh đèn dầu nhập nhoạng, và chỉ nói chuyện với chị có dăm phút, nhưng gương mặt chị có vẻ gì rất khác thường, in sâu vào trí nhớ của em. Nên thoạt nhìn em đã nhận ra ngay.
- không nhận ra cháu à? - Nghi bước đến hỏỉ. - Cái đêm ở làng Phò, cháu đi ngựa đem tin thằng Mừng về cho thím…
Người đàn bà cặp mắt trân trân nhìn Nghi một lúc lâu.
Gương mặt thất thần của chị vụt sống động linh hoạt hẳn lên. Chị làm một cử động như muốn cất đầu dậy, nhưng không sao cất nổi. Chị bất lực, yếu ớt khẽ kêu:
- Cháu là Nghi. nhớ rồi… Rứa em Mừng ở mô, có ở trên chiến khu ni không.
- Dạ có! - Nghi không kịp nghĩ ngợi, buột miệng trả lời.
Ánh mừng rớ tràn ngập gương mặt mất máu của chị:
- Ui chao, rứa thì phúc cho quá! Em Mừng có ở gần đây không? Cháu làm ơn làm phước gọi Mừng lại đây cho chộ mặt một chút… biết, yếu lăm rồi, e chẳng còn sống được bao lâu…
Nước mẳt chị bỗng bật trào ra như xuối. Nghi nhìn chị, càng bối rối, em nói tuột luôn:
- Nhưng… chừ hắn không còn là Vệ Quốc Đoàn nữa. Hắn trốn về Huế theo cha hắn làm Việt gian, rồi lại mò lên chiến khu làm gián điệp cho Tây. Chừ hắn đang bị giam ở trại tù chờ ngày đưa ra toà án binh xét xử.
Bác sĩ Thiền kêu to.
- Nghi! - Ông muốn bắt em ngừng lại nhưng không kịp. Ông không lường sự thể đến như thế.
Người đàn bà rùng mình. Ánh mắt chị trở nên_ ngơ ngác, thảng thốt.
- Răng? Cháu nói răng? Thằng con chị đi theo cha hắn làm Việt gian? Chừ đang bị Chính phủ giam tù? Ui chao? Ui chao? Răng mà con dại rứa con ơi!
Giọng chị như trong cơn mê sảng, nghe muốn đứt ruột. Nghi biết mình đã lỡ lời, không còn cách gì chữa lại được nữa.
Em đứng ngây người nhìn chằm chặp gương mặt mẹ Mửng, vừa mới tươi rạng đó, chừ đã nhăn nhúm, tái nhợt vì đau khổ, đầm đìa nước mắt, em cũng muốn oà khóc theo luôn. Môi em run, ấp úng mãi không nói được điều gì.
Chị Niệm thò tay ra ngoài chăn, bíu chặt lấy vạt áo của Nghi, như chỉ sợ em bỏ chạy mất. Chị nói qua nước mắt:
- Cháu đừng giáu mà tội lăm cháu nờ. Em Mừng có đúng nhừ rứa thì cứ nói cho biết… Mà chắc đúng thiệt rồi. Ui chao, hắn tưởng cha hắn là cái thằng Năm Ngựa… Thằng Năm Ngựa cô hồn chuyên giết người ở Huế… Ai còn lạ chi… mà cũng lỗi tại mạ hết, con ơi… - Chị bắt đầu nói lảm nhảm như đang rơi dần vào cơn mê sảng. Cả gương mặt chị vùi trong nước mắt…
Bác sĩ Thiền vội vã sai chị y tá tiêm cho chị một mũi thuốc trợ tim. Chị bất chợt như vừa bừng dậy sau cơn ác mộng. Chị nói với Bác sĩ Thiền, ánh mắt van nài cầu khẩn:
- Xin ông cho tui được gặp thằng con tui… Con tui hắn dại dột quá… ông thương tui, cho tui được chộ mặt thằng con tui trước khi tui nhắm mắt, xuôi tay…
Bác sĩ Thiền hỏi Nghi:
- Cái chú Mừng ấy chừ ở mô rồi!
- Dạ ở trại giam Xê-ca Năm. Sáng ni em cũng và chạy công văn vô đó. Trại giam cũng đang sừa soạn rút khỏi chiến khu.
- Chừ làm răng hè? - Bác sĩ Thiền bối rối tự hỏi.
Nghi như vụt tỉnh trí lại. Em hấp tấp nói:
- Chừ ri anh nì. Anh viết mấy chữ gửi anh Lanh phụ trách trại giam, xin cho Mừng được đến Xê-ca Bảy gặp mạ hắn. Em cũng thân với anh Lanh lắm, em nói thêm vô, chắc rằng anh ấy cũng cho hắn đi.
Bác sĩ Thiền lấy giấy bút viết bức thư ngắn gửi trại trưởng trại giam, trao cho Nghi. Nghi gấp tư lá thư bỏ vào túi khoác khẩu các-bin lên vai, hấp tấp nói:
- Em cố chạy thật mau, may ra còn kịp.
Và em lao ra khỏi khu lán bệnh viện.
Nghi cắm đầu chạy thục mạng về phía Xê-ca Năm, miệng lẩm bẩm: "Lạy trời may ra còn kịp!". Đại bác nổ ầm ầm quanh mình, em cũng không kịp nằm xuống núp. Hơn nửa giờ sau, Nghi đã bước vào cổng trại giam. Khoảng hai chục tù nhân toàn những Việt gian, gián điệp, những binh sĩ phạm pháp, tập họp thành một hàng dài trước sân trại giam. Tất cả đều bị trói, hai tay chắp trước bụng, mặt cúi gằm nhìn đất. Mấy anh lính gác trại giam tay xách súng, ba lô trên vai, chuẩn bị áp giải toán tù rời khỏi chiến khu.
Vừa thoáng nhìn, Nghi đã nhận ngay ra Mừng đứng ở quãng giữa hàng, hai tay bị trói bằng dây điện thoại, chắp trước bụng. Mừng cũng nhận ra Nghi, em khẽ gọi:
- Nghi!
Nghi nghe gọi, nhưng giả bộ làm ngơ, không quay lại.
Nghi đi thẳng đến lán trưởng trại, vừa thở vừa móc túi lấy bức thư đưa cho anh.
Trưởng trại Lanh trạc bốn mươi tuổi, vóc dáng cao lớn, xương xẩu, gồ ghề. Anh đọc bức thư của bác sĩ Thiền trán cau lại, nói:
- Nhưng làm răng được chừ!
Nghi vội đứng thẳng người lên, nói không kịp thở.
- Anh gắng giúp cho ấy. ấy bị thương nặng lắm, sắp chết rồi, ấy chỉ ao ước chộ mặt con trước khi nhắm mắt. Anh thương ấy đã liều chết cứu chiến khu, chớ hắn thì ai mà thương được?
Giọng van nài khẩn thiết của Nghi làm cho người trưởng trại giam vốn có tiếng là lòng sắt dạ lim, cũng phải động lòng.
Anh Lanh nói, mặt vẫn không thôi cau có:
- Anh chẳng tiếc chi, nghĩa tử là nghĩa tận. Nhưng khổ cái là chừ không có người áp giải hắn. Số anh em canh trại còn ít quá chỉ đủ để áp giải cả bọn…
- Hay anh giao hắn cho em. Em sẽ áp giải hắn đến cho mạ hắn gặp, chỉ một lúc em giải hắn về trả các anh.
- Liệu em có áp giải nổi hắn không? Lỡ hắn bỏ chạy ra Hoà Mỹ với tụi giặc thì em làm răng?
- Thì khẩu các-bin đây em để làm chi? - Nghi đưa khẩu các- bin ra trước mắt anh, bấm chốc rút băng đạn ra. - Đây anh coi, băng đạn còn đủ cả chín viên. Hắn mà chạy là em bắn ngay. Mà em bắn chẳng tồi đâu. - Nghi lên đạn khẩu các-bin, chỉ một chùm trái chôm chôm rừng cao vút trên ngọn cây ở góc trái sân trại, nói.
Nghi đặt khẩu súng lên vai, ngắm và bóp cò. Chùm chôm chôm rơi bịch xuống đất, trái văng tung tóe.
- Rứa em phải bảo đảm nghe?
- Hắn mà chạy mất thì em xin thế ngay vô chỗ hắn.
Anh Trưởng trại bước ra giữa sân gọi:
- Tên Mừng đâu?
- Dạ, em đây ạ.
- Mi đi theo đồng chí này lên Xê-ca Bảy có việc gấp. Anh nhìn Mừng với cặp mắt đe doạ, nói tiếp. - Dọc đường mà mi có ý bỏ trốn thì liệu hồn, như chùm trái chôm chôm tê - Anh chỉ chùm trái chôm chôm lăn lóc trên sân.
Chỉ sau hơn mười này sống ở trại giam mà Mừng đổi khác đến không ngờ. Gương mặt em hốc hác, ánh mắt buồn bã, đờ đẫn, cặp môi run run mím chặt. Bộ áo quần kaki ga-bạc-đin nhem nhuốc, lấm lem không còn ra màu sắc gì. Cả con người em toát lên nỗi cam chịu, nhẫn nhục của người biết rằng mình oan uống mà không còn cách gì minh oan được.
Em ngẩng nhìn trưởng trại rồi nhìn người bạn cũ, ánb mắt thảng thốt, dò hỏi. Em cúi vội nhìn xuống đất. Em lặng lẽ, ủ rũ bước ra khỏi hàng. Hai cổ tay bị trói bàn tay chắp trước bụng. Nghi nhìn người bạn cũ với cặp mắt vừa ghê tởm, vừa thương xót.
"Rốp!" Nghi lên đạn khẩu cac-bin, khoá chốt an toàn, cầm ngang khẩu súng chĩa vào sau lưng Mừng. Em ra lệnh, giọng cộc cằn:
- Đi lên Xê-ca Bảy!
Mừng cúi gằm mặt lặng lẽ bước đi, lưng hơi gù xuống, dáng đi quen. thuộc của kẻ tù tội. Nhìn một em bé với đáng đi đó, người rắn lòng nhất cũng thấy mủi lòng. Nghi vụt nhớ lại cái đêm ngồi chung với Mừng trên lưng. ngựa phi về làng Phò thăm mạ. "Bữa ni mình cũng đưa hắn đi thăm mạ mà hắn thì phải trói tay, còn mình cầm súng chĩa vô lưng hắn". Em nghĩ vậy và nỗi giận, thương trào lên nghẹn cổ, làm em cũng trở nên lặng lẽ, lầm lì.
Đi qua khỏi dốc núi, Mừng hỏi không ngoái đầu lại.
- Cậu. Anh - (Quen miệng, Mừng buột gọi Cậu, nhưng em chợt nhớ ra mình bây giờ không được phép gọi người bạn cũ là cậu, nên vội chữa là Anh) dắt tui lên Xê-ca Bảy có việc chi?
- Cho mạ mi gặp mi!-
Mừng sững sờ quay lại, lắp bắp hỏi:
- Mạ tui? Mạ tui?… Anh đừng nôi dối mà tội tui. - Hai mắt Mừng tự đưng nhòe ướt.
- Thì đúng là mạ mi… Tau thèm nói láo làm chi?
- Nhưng làm răng mạ tui ở trên chiến khu được?
- Mạ mi làm tổ trưởng tổ dân quân gánh gạo tiếp tế cho chiến khu. Cơn mi ăn bữa ni là gạo mạ mi đưa lên đó. Tây hắn bắn mạ mi bị thương nặng lắm. Rứa mà mi theo Tây làm Việt gian.
- Ui chao, mạ ơi! Mạ! - Mừng bật kêu to rồi quay đầu vùng chạy, Nghi hớt hải lao đuổi theo.
Hai tay Mừng bị trói nên chạy được một quãng, vấp phải rễ cây nằm. gồ lên mặt đát, em mất đà ngã vập mặt xuống đất.
Mũí em trúng phải hòn đá, máu cam chảy loà lện. Em muốn đứng dậy chạy tiếp, nhưng không chống tay được để lấy dà đứng dậy. Nghi phải cúi xốc vai gỉúp Mừng đứng lên. Mừng đưa lưỡi liếm máu chảy tràn xuống môi, vừa khóc vừa nói:
- Anh cởi trói cho tui với, tui mới chạy mau được. Anh ơi, tui sợ không tới kịp…
- Nhưng lỡ mi chạy trốn thì răng?
Tui còn biết chạy trốn đi mô?
- Trốn xuống Hoà Mỹ theo Tây. Chừ Tây đang ở đầy dưới đó!
- Tui đời mô theo Tây. Anh cũng nghi tui là Việt gian thiệt?
- Cả chiến khu ni ai chẳng biết mi là Việt gian.
- Ui chao, răng mà tui khổ ri trời ơi? - Mừng kêu to, loạng choạng ngồi sụp xuống đất như bị ai phang một gậy trúng giữa đỉnh đầu - Rứa thì chừ tui còn biết kêu ai! - Mừng nức nở, nước mắt đầm đìa hai má.
Nghi cởi trói cho Mừng. Hai tay được tự do, Mừng đứng bật dậy, vừa quệt nước mắt vừa nói:
- Chạy mau anh! Chạy mau cho tui được gặp mạ tui.
Hai em chạy đến một ngã ba. Cả hai đường đều đến được Xê-ca Bầy. Đường rẽ trái gần hơn, nhưng phải vòng qua đài quan sát cây Quao. Cả lối mòn phơi mình dưới mưa đạn đại bác và súng cầu vồng, và các loại đạn bắn thẳng của giặc. Con đường rẽ trái lấp bên kia sườn núi, xa hơn nhiều nhưng an toàn hơn. Cả hai lối Mừng đều thuộc lòng, em rẽ lối trái. Nghi chạy sau, quát to:
- Không đi đường đó? Quay lại!
Mừng quay lại, ngạc nhiên hỏi:
- Đường ni gần hơn mà anh?
- Nhưng chạy xuống Hoà Mỹ cũng gần!
Cặp mắt Mừng vụt lóe ánh giận dữ. Nhưng em không cãi lại. Em nhẫn nhục quay lui, rẽ sang lối phải. Em cắm đầu chạy, chân không bén đất, Nghi theo được Mừng gần đứt hơi, nhưng em không gọi Mừng chạy chậm lại, cứ ráng sức đuổi theo.
"Chừ hắn là thằng Việt gian, đời mô chịu để cho hắn biết mình chạy thua hắn!". Em nghĩ vậy.
 
7
- Mạ ơi! Mạ! Mạ! Con đây mạ! - Từ ngoài cửa lớn, Mừng chạy ào vào, kêu to thất thanh.
Tiếng gọi mạ của người chiến sĩ thiếu niên không may gặp phải chuyện oan khuất, có một âm sắc xé lòng, đến nỗi ba mươi năm sau, bác sĩ Lê Khắc Thiền còn nói: "Mỗi lần tôi bất chợt nhớ lại tiếng gọi mạ của em người tôi cứ nổi hết gai ốc!".
Từ lúc Nghi xách súng chạy ra khỏi lán, chị tổ trưởng dân công mắt cứ mở trân trân nhìn ra phía cửa lán, người chị gần như bất động. Cả gương mặt chị, từ ánh mắt, từ làn da ngả dần sang màu sáp trong, từ vầng trán xâm xấp mồ hôi, cặp môi héo hắt, ngầm ngập nỗi chờ khắc khoải đến kinh khiếp.
Và như kiệt sức vì đợi chờ, chị bắt đầu rơi vào tình trạng hôn mê. Có lẽ lúc này thần chết đang níu kéo chị, và chị tuyệt vọng, bất lực, cố sức trụ lại. Bàn tay chị bíu chặt thành cáng, như người sắp chết đuối bíu chặt mảnh ván thuyền.
Mừng ngồi thụp xuống bên cáng, ôm chùm lấy đầu mẹ, lay lay gọi chuyển động cả gian lán.
- Mạ! Mạ! Mạ tỉnh lại đi! Con đây mà mạ!
Mặt em cúi gần chạm mặt mạ, vừa gọi vừa khóc như mưa như gió. Nước mắt em nóng hổi, lã chã rơi xuống mặt mạ. Có lẽ tiếng lay gọi và những giọt nước mắt nóng bỏng của con trai đã giúp người mẹ vùng ra khỏi cáng tay siết chặt, níu kéo của thần chết. Chị vụt mở bừng mắt, nhìn con trân trân. Chưa bao giờ chị nhìn mặt con sát gần đến như thế. Hình như chị vẫn chưa dứt khỏi cơn mê sảng, có thể chị tưởng là nhìn thấy con trong mơ. Và trí nhớ chị như vụt hồi phục. Cặp mắt chị sống động hẳn lên. Chị đưa hai tay ôm mặt con, kéo sát gần hơn nữa, rồi đẩy ra xa một chút để nhìn cho được rõ. Miệng chị nửa như cười, nửa như mếu. Chị nói, giọng tỉnh táo khác thường:
- Con đó à Mừng? Rứa là mạ đã được chộ mặt con…
- Ui chao, đời mạ răng mà rủi ro đau đớn đến nước ni, con ơi! Mạ nghe nói con đi theo thằng Năm-ngựa làm Việt gian… Con dại dột quá con ơi… Nhưng cũng do lỗi tại mạ hết… Con hư tại mạ… Chừ mạ sắp nhắm mắt, xuôi tay, mạ phải nói rõ đầu đuôi đời mạ, đời con, cho con biết. Thằng Năm-ngựa không phải cha con mô. Quê mạ con mình tận ngoài Quảng Trị tê. Cha con rủi chết từ lúc mạ có mang con được ba tháng. Cha, mạ thương nhau hung… lỡ ăn nằm với nhau mà chưa kịp cưới xin. Cha con bệnh nặng, nghèo quá không có tiền thuốc thang nên phải chết. Mạ đành mang tiếng gái chửa hoang. Xấu hổ ê chề, mạ bỏ trốn khỏi làng, lần mò vô thấu Huế, tìm đường sinh sống, chờ ngày sanh con. Mạ tứ cố vô thân, khờ dại quá, không biết làm chi ngoài việc hàng xéo, hàng xay. Mạ đi ăn mày ăn xin thì mạ không quen. Nhiều lúc mạ đã định nhảy xuống sông trầm mình cho xong một đời, nhưng nghĩ đến giọt máu cha con để lại trong bụng mạ, nên mạ phải gẳng gỏi sống mà đợi ngày… Rồi đến bước cùng quẫn quá, mạ đành phải bán thân nuôi miệng, làm gái đĩ trên sông… Bởi rứa mà có lần con chạy chơi mô vể, con kêu: "Con đĩ! Con đĩ ". Mạ thất sắc hết hồn: Mạ sinh con, đem gửi con cho mệ Lạp dưới làng Phò, thuê mệ trông nom nuôi nấng con. Tháng tháng được đồng mô mạ gom góp đưa hết cho mệ trả tiền công nuôi dưỡng con… Mệ Lạp mà con tưởng là mệ ngoại con đó. Năm con hơn một tuổi, chập chững tập đi, thì mạ gặp thằng Năm-ngựa là đứa du côn chuyên nghề đâm thuê chém mướn. Hắn lăn lóc say mê chút nhan sắc thừa của mạ, xin bỏ tiền chuộc ra khỏi tay mụ trùm, cưới mạ làm vợ. Mạ giao hẹn với hắn: Nếu anh chịu nhận thằng con tui là con đẻ của anh, thì tui xin theo không anh, chẳng cần cưới hỏi làm chi. Để con tui được có cha. Tôi xin suốt đời hầu hạ anh như đứa ở, anh muốn hành hạ chi tui cũng xin chịu… Mạ sợ con lớn lên, biết mình không có cha, con tủi hổ với bạn bè. Hắn lấy mạ, rồi đánh đập hành hạ mạ, như răng thì con biết rồi… Hắn là đứa giết người không gớm tay, là đồ bạc ác bất nhơn. Róc xương róc tuỷ mạ. Hắn đòi chi mà mạ không kịp cho thì hắn doạ: "Tao sẽ nói cho thằng con mi biết tao không phải là cha hắn, mà mi là đồ con đĩ. Con mi hắn sẽ khinh mi như con chó!".
Kể đến đó, môi chị bỗng run rẩy, láp bắp cái gì đó không thành tiếng, và nước mắt bật trào chảy như xối. Chị cầm lên một. mớ tóc chùi nước mắt, rồí níu mặt con sát gần mặt mình, kể tiếp:
"… Rồi hắn bỏ đi lấy vợ khác, mà vẫn không thôi quay về hành hạ mạ, róc xương róc tuỷ mạ. Mạ phải mang nợ hắn suốt đời con ơi. Hắn cướp cả đôi bông tai vàng một chỉ mà mạ để dành để dụm, để sau ni cưới vợ cho con… Rồi mặt trận Huế bùng nổ, con trốn nhà đi Vệ Quốc Đoàn. Mạ cứ tưởng con chết sông chết hói, mạ đã định ra sông trầm mình mà chết theo con. Mạ sống là vì con. Mạ phải chịu trăm cay nghìn đắng, nhục nhã ê chề, lút mày lút mặt cũng vì con. Con mà chết rồi thì mạ còn biết sống làm chi. Rồi mạ hay tin con đi Vệ Quốc Đoàn, mạ mừng biết mấy. Con theo chánh phủ, theo kháng chiến, đời con rứa là được nên người. Mạ trông ngày trông đêm cho mau đến ngày nước nhà độc lập, cho mạ con mình được gặp nhau. Rồi bể mặt trận… Vệ Quốc Đoàn ta chạy tứ tán, mạ không biết con còn sống hay chết, con còn theo Vệ Quốc Đoàn hay thất lạc đi mô… Mạ gánh gánh bún trên vai, bán mua đắp đổi qua ngày, đi. hết làng này qua làng khác từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh, cốt để dò la tin tức con. Mạ đến làng mô, họ cũng nói: "Chị muốn tìm Vệ Quốc Đoàn thì phải lên côi xanh(1) mà tìm". Rứa là mạ xin đi tiếp tế các chiến khu - Tỉnh Thừa Thiên mình có bao nhiêu chiến khu mạ đều có đến hết. Nhưng mạ chẳng thấy tăm dạng con mô. Mạ đang ở dưới Thệ Chí thì nghe tin chiến khu Hoà Mỹ giặc nhẩy dù, bao vây chiến khu, Vệ Quốc Đoàn ta cạn lương sắp chết đói. Mạ liền đôn đáo chạy tới xin các anh du kích, cho mạ đi tiếp tế gạo, muối. Bom rơi đạn nổ mạ cũng liều… chỉ có chiến khu Hoà Mỹ là mạ chưa tới, chưa chừng con mình hắn đang theo Vệ Quốc Đoàn, đánh giặc trên đó… Mạ nghĩ rứa mà mạ bị Tây bắn nát chân, thủng bụng; mạ cũng gắng gùi gạo bò lết cho thấu chiến khu, con ơi". Rứa mà chừ mạ được gặp con thì té ra con đi làm Việt gian, bị Chánh phủ giam tù. Ôi chao, đau lòng mạ quá con ơi! Biết nông nỗi ni thì mạ đừng gặp con còn hơn!…
Giọng chị vụt nghẹn tắc. Một nỗi đau đớn khủng khiếp chẹn ngang cổ chị. Cả người chị bỗng rung lên lẩy bẩy như con cá nằm trên thớt bị một lát sống dao giữa đỉnh đầu. Mấy vết thương ở bụng chị máu lại ộc ra rịn thấm qua tấm chăn đắp. Chị co giật liên tiếp rồi tay chân duỗi thẳng, đầu ngật sang một bên, bất động.
Bác sĩ Thiền và mấy chị y tá, hộ lý xúm lại quanh chị, định tiêm thuốc cấp cứu. Bác sĩ Thiền vạch mi mắt chị, nhìn rồi lắc đầu:
- Muộn mất rồi!…
Chị đã trút hơi thở cuối cùng.
Mừng hai tay ôm chặt lấy đầu mạ, mắt nhìn trân trân không chớp. Cả người em như chết lặng, nét mặt ngơ ngác, hoảng loạn. Rồi em như vụt hiểu ra: Nỗi khủng khiếp nhất đời em đã điểm?
Miệng há to, đôi mắt sưng vù vì khóc, cặp môi run bần bật, em bỗng thét to đến bất ngờ:
- Mạ! Mạ. Không phải! Không phải! Con không phải Việt gian! Con là Vệ Quốc Đoàn! Mạ ơi!
Tiếng kêu thét của Mừng có một âm hưởng xé ruột, làm mọi người rởn hết gai ốc.
Em sà vào ngực mạ, ôm đầu mạ nâng khỏi cái gối bao tải. Em vừa lay lay đầu mạ vừa ngó mặt mạ với ánh mắt đau đớn đến điên dại. Em vừa khóc vừa kêu la tuyệt vọng, lặp đi lặp lại một câu:
- Con không phải Việt gian! Con là Vệ Quốc Đoàn!
Những người đứng chung quanh đều nước mắt ngắn dài.
Nỗi đau đớn đến điên dại và tiếng kêu la tuyệt vọng của Mừng, làm cho mọi người trong khoảnh khắc vụt có ý nghĩ: "Hay là nó bị nghi oan thật? Có lẽ nào sự giả trá lại biểu hiện được một nỗi đau đớn kinh khiếp đến như vậy?. Nhưng mọi người không kịp nghĩ thêm gì nữa, vì đạn đại bác giặc đã bắn chuyển làn. Đạn mỗi lúc rơi một dồn dập xuống khu vực quanh bệnh viện. Tiếng gầm rít của phi cơ phóng pháo giặc, xé ngang cắt dọc bầu trời chiến khu. Không thể nấn ná thêm được nữa, phải rút ngay khỏi khu vực bệnh viện như chỉ thị của trung đoàn trưởng.
Các anh chị y tá, hộ lý, bác sĩ Thiền, cả em Nghi cùng xúm lại đào huyệt để mai táng mẹ của Mừng. Huyệt đào dưới gốc cây vả rừng lưng dốc núi, kề bên ngôi lán cuối cùng. Chính cây vả rừng này em Quỳnh vẫn thường ra hái lá để viết vở nhạc kịch kể chuyện Mừng đi tìm thuốc cho mạ.
Xác chị tổ trưởng đân công anh hùng được bọc trong chiếc chăn đơn cũ kỹ loang lổ chính máu chị. Mừng như đã hoá điên, cứ ôm chặt lấy xác mẹ, không cho mang đi chôn. Mọi người phải gỡ em ra, ôm chặt lấy em, mới đưa được xác chị.
Xác chị vừa được đặt xuống đáy huyệt, Mừng đã vùng vẫy thoát ra khỏi tay người ôm giữ. Anh y tá phải kêu lên: "Nó khỏe cách chi trời ơi!".
Mừng nhào xuống đáy huyệt, ôm chặt xác mạ, nức nở kêu gào:
- Con không phải Việt gian! Con là Vệ Quốc Đoàn mạ ơi!
Mọi người phải khó nhọc mới kéo được em lên để lấp đất.
Nghi vừa quệt nước mắt, vừa nói với Mừng:
- Chừ mi phải về, không các anh chờ.
Nghi khoác súng vào vai, cầm tay Mừng lôi kéo mếu máo, van vỉ:
- Đi! Đi! Mi đi cho tau nhờ với! Tau đã xin cho mi đi gặp mạ, chừ mi phải biết thương tau…
Mừng như người mất hồn, lảo đảo bước theo bạn.
Đại bác nổ rất gần, em cũng chẳng buồn cúi núp.
Mỗi lần nghe tiếng đạn rít xèo xèo, Nghi phải chụp tay Mừng, kéo nằm rạp xuống tránh đạn.
Nghi nổi xung, gắt um:
- Mi phải núp chứ, lỡ trúng đạn thì làm răng?
Mừng khóc hu hu:
- Chừ tui núp mà làm chi! Cho hắn bắn chết quách tui đi cho rồi!
Máy bay giặc bắt đầu bắn và dội bom xuống cánh rừng hai em đang băng qua. Khắp bốn phía núi ùn ùn dựng lên các cột khói còn cao hơn cả ngọn cây rừng cao nhất. Núi lay, cây đổ, đất đá từng tảng lớn quăng ngược lên trời. Mửng vẫn cứ bước đi lừng lững như không hề nghe thấy gì. Em nói như trong cơn mê sảng:
- Con mang phải tiếng xấu Vìệt gian. Chừ mạ cùng chẳng tin con… Mạ ghét con… Mạ nói thà mạ đừng gặp con còn hơn… Con làm răng nói cho mạ biết được chừ…
Đi đến chỗ ngã ba, một quả bom đen chũi lao xuống ngay sườn núi trước mặt. Nghi hoảng hồn, nhào xuống một cái hố đại bác cạnh lối đi. Núi rung lên, lở ào. Một thân cây bằng người ôm bị mảnh bom phạt đứt đổ nằm ngang trên miệng hố.
Em không núp nhanh chắc đã bị thân cây đè chết. Em chưa kịp ngẩng đầu lên, một loạt đạn đại bác đã nổ rầm rầm xung quanh.
Dứt đợt nổ, Nghi nhảy lên miệng hố thì Mừng đã biến mất.


Chú thích:
(1) Trên núi
 
8
Trong lúc Nghi còn năm dưới hố đạn tránh bom Mừng như vụt bừng tỉnh cơn mê sảng, cắm đầu chạy lộn lại phía Xê-ca Bảy, theo con đường vòng qua đài quan sát cây Quao. Em chạy như trong cơn mê, không chú ý đến tiếng bom đạn gào rú quanh mình. Con đường lúc này bị bom đạn cày nát, ngổn ngang những cây đổ, những đất đá sụt từ đỉnh núi xuống chắn ngang lối đi. Em vọt qua, chui qua, trèo qua, không một chút ngập ngừng, ngạc nhiên, tưởng như em đã từng qua lại trên con đường như thế cả trăm lần rồi.
Nhưng khi chạy đến chân đài quan sát cây Quao, em phải đứng sững lại. Quang cảnh bày ra trước mắt em kinh hoàng, dữ dội đến nỗi em phải đứng chết lặng, miệng há hốc như con cá bị lôi lên khỏi mặt nước. Quanh gốc cây chân đài quan sát, đất đá rễ cây, bị cày nát, xé tướt, lá tươi rụng rào rào như mưa. Nằm quanh gốc cây là năm xác người. Ba xác các bạn Châu, Hiền, Hoà-đen, và hai anh lớn. Các anh, các bạn nằm lẫn lộn với lá tươi rụng, cành cây gãy, rễ cây bị xé nát.
Tất cả áo quần của năm người đều ướt sũng máu. Châu-sém bị trúng đạn đum đum, bụng mở phanh. Hiền bị đạn vào ngực. Hoà-đen bị mảnh bom phạt cụt một chân. Bạn nào cũng nằm chết trong tư thế co quắp, đầu và thân hình bị dập nát vì ngã nhào từ trên ngọn cây chót vót xuống đất. Em nhìn trật sang cái thang tre, thấy đội trưởng nằm dựa đầu vào nấc thang cuối cùng, và chỉ còn một cánh tay. Hình như anh vừa đặt chân trèo lên thang thì bị trúng đạn.
Tít trên cao, chỗ đặt đài quan sát, chuông điện thoại đổ dồn leng keng không ngớt.
Mừng chạy xô lại, áp tai vào ngực đội trưởng thấy tim anh vẫn còn thoi thóp đập. Em túm tóc mai anh giật giật, lay gọi anh. Anh hồi tỉnh, mở bừng mắt nhìn em đăm đăm.
- Mừng đó à, răng em lại ở đây?
- Mẹ em chết rồi. - Mừng nức nở cố nén không khóc. - Mẹ em cũng nghi em là Việt gian. Chừ em phải đến chỗ mẹ em… Em phải nói răng cho mẹ em đừng nghi em nữa…
Tiếng chuông điện thoại từ trên ngọn cây vẫn leng keng dội xuống từng hồi, hối thúc, cấp bách… Cặp mắt đội trưởng vụt sáng lên mừng rỡ. Anh nói như reo:
- Đã nối được đường dây rồi! Mừng. - Đội trưởng gọi và giọng anh trở lại giọng người chỉ huy lúc ra lệnh chiến đấu. - Em trèo mau lên ngọn cây cầm ống nghe báo cáo với Trung đoàn trưởng: Cách đây hai mươi phút đài quan sát bị địch phát hiện. Chúng tập trung hoả lực tiêu diệt đài quan sát. Đường dây bị đứt. Anh chạy đi nối lại được đường dây, về đến chân thang thì bị trúng đạn đại bác… Em chú ý quan sát, lúc thấy toán địch đi sau cùng, qua khỏi bãi trống thì báo ngay cho trung đoàn trưởng biết. Em nhớ rõ chưa?
Đội trưởng chưa kịp nghe Mừng trả lời thì đã ngất đi, mê man… Mừng vùng đứng ngay dậy. Tất cả vẻ ủ rũ, đau đớn, tuyệt vọng trên toàn bộ con người em, thoắt biến mất. Em lúc này đã trở lại tư thế quyết liệt của người chiến sĩ quyết tử lúc nghe vang lên tiếng kèn xung phong trận.
Tiếng máy bay gầm rú trên ngọn cây. Đạn đại bác và các loại súng cầu vồng nổ chát chúa quanh chân đài quan sát.
Súng bắn thẳng bẻ, xé các cành cây trên đỉnh đài, tuốt lá tươi ném tới tấp xuống đầu cổ em, xuống xác các đồng đội đang nằm ngổn ngang quanh em. Mảnh đạn, đạn cháy, đạn đum đum, mảnh bom, bay rít quanh em như ong vỡ tổ. Và nổi bật lên tất cả là tiếng chuông điện thoại từ trên đỉnh đài quan sát đổ hồi leng keng không ngớt.
Tất cả những cái đó, cùng một lúc đã làm cho khí phách chiến sĩ lúc xung trận trong em bừng sống dậy, với tất cả sức mạnh tinh thần của nó: Nó chiếm lĩnh toàn bộ con người em, từ mỗi thớ thịt, mỗi nhịp tim đập.
Em thoăn thoắt trèo ngược các bậc thang tre cao ngất nghểu, cố chiếm lấy đỉnh đài quan sát trước khi bị địch bắn hạ. Khi chỉ còn cách chỗ cành cây đặt máy điện thoại mấy nấc thang cuối cùng, em bỗng lạng người, suýt ngã lộn nhào xuống đất. Một bên hông em buốt nhói ghê gớm. Em cúi nhìn thấy vạt áo bên hông trái đầm đìa máu. Nhưng em gắng hết sức để không ngã. Trèo nốt những nấc thang cuối cùng lên đến chạc ba cây, và chụp lấy cái ống nghe điện thoại.
9
Trong hầm chỉ huy, trung đoàn trưởng đã gần như tuyệt vọng. Ông nghe điện thoại áp sát tai, ông đã gọi suốt hai mươi phút liền vẫn không nghe tiếng đài quan sát cây Quao trả lời, chỉ có tiếng nổ lục bục liên hồi vang dội trong ống nghe.
Tiếng đạn nổ. Ông chắc bọn địch đã đánh vào đài quan sát và các chiến sĩ trinh sát phụ trách đài đã bị giết. Hai cán bộ tham mưu ngồi cùng hầm với ông, đã được ông cử đến tăng viện cho đài quan sát mười lăm phút trước đây. Nhưng ông không hy vọng lắm họ có thể đến nơi. Ông biết con đường đến đài quan sát đang bị bọn địch tập trung đánh phá dữ dội.
Trong hầm lúc này chỉ còn một mình ông. Ở hầm bên cạnh, anh chiến sĩ công binh phụ trách nổ mìn, vài phút lại hỏi vọng sang:
- Đã sắp chưa anh?
Ông càng thêm cháy ruột cháy gan. Mất liên lạc với đài quan sát, trận địa mìn sẽ như người khổng lồ mù mắt, nó có thể dồn tất cả sức mạnh khủng khiếp của nó đánh vào chỗ trống không.
Vừa lúc đó, trong ống ghe bỗng vang lên giọng trẻ con:
- A lô! A lô Trung đoàn trưởng, trung đoàn trưởng!
Ông mừng đến nghẹn thở:
- Làm sao hai mươi phút qua im bặt thế?
- Dạ, đài quan sát bị đánh. Cả tổ quan sát hy sinh rớt hết xuống chân đài.
- Đội trưởng đâu?
- Dạ, đội trưởng cũng hy sinh rồi, nằm dưới chân thang.
- Thế em là ai?
- Dạ em là thằng Mừng…
- Mừng?… Có phải chú Mừng…
- Dạ, em bị cả chiến khu nghi là Việt gian… Em bị bắt giam ở Xê-ca Năm… Bất thình lình em chạy qua đây. Đội trưởng giao nhiệm vụ cho em.
- Hiện lúc này em có làm sao không?
- Dạ, tụi địch đang bắn vô đàỉ quan sát dữ lắm. Em bị thương ở hông, ở chân. Nhưng em vẫn quan sát được.
- Bọn địch đã vào đến bãi trống chưa?
- Dạ, tụi đi đầu mới bắt đầu vô. Đi trước có toán người rất đông không mang súng, chỉ mang vác các hòm đạn…
- Dạ toán tiếp theo toàn Tây đen, Tây trắng, đi hàng bốn.
- Dạ toán đi giữa đang đi thì đứng lại, chỉ chỏ cái chi đó…
- Tụi hắn không đi mà nằm lại hai bên đường chĩa súng vô núi bắn rầm rầm.
- Dạ, toán cuốì cùng rất đông… - Giọng báo cáo bỗng tắt lại có đến nửa phút. - Dạ, tụi hắn đã vô hết bãi trống…
Trung đoàn trưởng đứng dậy trong hầm chỉ huy hô to:
- Nổ mìn.
Một tiếng nổ làm rung cả ngọn núi ông đang ngồi và tiếp liền đó là hàng trăm tiếng nổ tlếp theo như sấm sét, trùm lấp cả tiếng máy bay, tiếng đại bác giặc. Trung đoàn trưởng thét lên trong ống nghe:
- A lô! A lô! Em Mừng! Em Mừng!
Không có tiếng trả lời.
Ông gọi lại:
- Mừng! Mừng! Em còn trên đó không?
Tiếng người chiến sĩ thiếu niên trinh sát bỗng đột ngột vang lên bên tai ông, yếu ớt nhưng rành rọt lắm:
- Dạ em đây. Tụi Tây chết nhiều lắm. Em bị thương nặng.
- Mừng! Mừng!
- Anh ơi, anh đứng nghi em là Việt gian nữa anh hí!
Lời cầu xin khẩn thiết cuối cùng của người chiến sĩ thiếu niên vừa tròn mười ba tuổi đời, yếu ớt và nhỏ gần như một hơi thở, nhưng trong khoảnh khắc ấy đã trùm lấp cả tiếng bom đạn giặc, và cả tỉếng sấm rền của trận địa mìn đã làm tanh bành hơn hai đại đội giặc.
***
Cuộc tấn công tổng lực của giặc vào chiến khu Hoà Mỹ đả hoàn toàn bị bẻ gẫy. Nỗi kinh khiếp trận địa lôi chiến làm bọn giặc ngày đêm hôm đó dạt sang bên kia bờ sông Ô Lâu.
Cũng đêm hôm đó. toàn bộ chiến khu đã rút khỏi vùng rừng núi Hoà Mỹ, dời thẳng về Dương Hoà một vùng đất đai núi non nằm dọc bên tả ngạn thượng nguồn sông Hương. Và làng Dương Hoà trở thành chiến khu Dương Hoà, chiến khu đầu não của tỉnh Thừa Thiên.
Trước giờ lên đường vể chiến khu mới, những đơn vị rút lui cuối cùng đã làm lễ mai táng cho các chiến sĩ trinh sát phụ trách đài quan sát cây Quao. Họ đào huyệt chôn các em, các anh, gần chân đài quan sát.
Riêng em Mừng, trung đoàn trưởng cho đưa thi hài em chôn bên cạnh mẹ em dưới bóng cây vả rừng cổ thụ. Cây vả rừng mà Quỳnh-sơn-ca thường hái những ngọn lá ngả màu vàng chanh làm giấy chép nhạc, viết vở nhạc kịch mộng tưởng của đời mình, kể chuyện bạn Mừng đã trèo tuốt tất cả những đmh cây cao của thành phố quê hương để tìm thuốc về chũa bệnh cho mẹ.
Ngọn núi có cây vả rừng cổ thụ từ trước đến nay không có tên. Trong bản đồ tham mưu được ghi là đỉnh Chín Sáu. Sau đêm hôm đó, ngọn núi đã được có tên:
Núi-Mẹ-Con-Em-Mừng.


Hết
Khởi thảo bên bờ Hồ Tây năm 1968
Hoàn thành trong lều cỏ giữa hồ Tịnh Tâm năm 1986.
 
×
Quay lại
Top