- Tham gia
- 15/12/2011
- Bài viết
- 1.979
Phần thứ ba
NHỮNG ĐIỂM MỚI SO VỚI PHÁP LỆNH CÁN BỘ, CÔNG CHỨC NĂM 1998 VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP TRIỂN KHAI THỰC HIỆN LUẬT
I. NHỮNG ĐIỂM MỚI SO VỚI PHÁP LỆNH CÁN BỘ CÔNG CHỨC NĂM 1998
Ngày 13/11/2008, kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XII thông qua Luật Cán bộ, công chức thay thế Pháp lệnh Cán bộ, công chức nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; xây dựng một nền hành chính trong sạch, hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với xu hướng chuyển đổi sang nền hành chính phục vụ, thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế.
Luật Cán bộ, công chức được ban hành với các quan điểm chỉ đạo là: thể chế hóa đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tiếp tục cải cách chế độ công vụ, công chức, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; hoàn thiện chế độ công vụ và quản lý cán bộ, công chức phải bảo đảm sự đồng bộ với các nội dung đổi mới hệ thống chính trị trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế; bảo đảm tính minh bạch, công khai và tính tự chịu trách nhiệm trong hoạt động công vụ; bảo đảm tính kế thừa và phát triển của các quy định hiện hành về công vụ và cán bộ, công chức vừa phù hợp với thể chế chính trị và các giá trị văn hóa của Việt Nam, vừa tiếp cận được với các thành tựu của các nền công vụ trên thế giới.
Tuân thủ các quan điểm chỉ đạo nêu trên, Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã thể hiện nhiều nội dung mới và tiến bộ, mang tính cải cách mạnh mẽ so với Pháp lệnh Cán bộ, công chức ban hành năm 1998, bao gồm các nội dung cơ bản sau:
1. Về đối tượng, phạm vi điều chỉnh
1.1. Thu hẹp đối tượng, phạm vi điều chỉnh
Luật Cán bộ, công chức đã thu hẹp đối tượng áp dụng so với Pháp lệnh Cán bộ, công chức gắn với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Theo đó, đội ngũ viên chức làm việc trong khu vực sự nghiệp công lập chiếm số lượng rất lớn (khoảng trên 1,4 triệu người), do đặc điểm và tính chất hoạt động của họ không mang tính quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước nên đối tượng này không thuộc phạm vi và đối tượng điều chỉnh của Luật. Đây là một bước tiến mới về nhận thức trong quá trình tiếp tục cải cách chế độ công vụ, công chức. Khi tách đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự nghiệp ra khỏi Luật Cán bộ, công chức sẽ có điều kiện tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách khuyến khích sự phát triển của các đơn vị sự nghiệp, góp phần đẩy mạnh quá trình xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp, nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức, nâng cao chất lượng phục vụ người dân của các đơn vị sự nghiệp. Trước đây, với việc sửa đổi và bổ sung một số điều của Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 2003, Nhà nước đã bước đầu phân định khu vực hành chính nhà nước với khu vực sự nghiệp, tạo cơ sở cho việc xây dựng cơ chế quản lý phù hợp đối với đội ngũ viên chức sự nghiệp.
Sau 5 năm thực hiện việc phân định này, đội ngũ viên chức không còn là đối tượng điều chỉnh của Luật
Cán bộ, công chức và sẽ được Luật viên chức sau này điều chỉnh. Việc xác định các nhóm công chức về cơ bản vẫn kế thừa các quy định của Pháp lệnh Cán bộ, công chức. Các đơn vị sự nghiệp công hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, nghiên cứu khoa học công nghệ, văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao... là các tổ chức được Nhà nước thành lập và uỷ quyền để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
Hiện nay, trong lĩnh vực giáo dục, Nhà nước đang tiến hành soạn thảo Dự án Luật giáo viên; ở lĩnh vực y tế, Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh hành nghề y dược tư nhân... Các văn bản Luật, pháp lệnh này có xu hướng sẽ điều chỉnh đối với những người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp cả khu vực công và khu vực tư. Vì vậy, đối với các đơn vị sự nghiệp công chỉ quy định công chức là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm để giữ các chức vụ trong bộ máy lãnh đạo, quản lý.
1.2. Phân định tương đối rõ cán bộ, công chức
Song song với việc thu hẹp đối tượng điều chỉnh, Luật Cán bộ, công chức đã phân định tương đối rõ ai là cán bộ, ai là công chức. Cả một thời kỳ dài trước đây, do điều kiện chiến tranh và thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung, tất cả những người làm việc trong các cơ quan, đơn vị của Đảng, của Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội, kể cả trong các doanh nghiệp, lâm nông trường... đều được gọi chung trong cụm từ là "cán bộ công nhân viên chức" mà chưa có sự phân định rõ ràng, cụ thể. Đến năm 1993, khi thực hiện cải cách tiền lương, mới bước đầu phân định cán bộ, công chức trong khu vực hành chính sự nghiệp với những người làm việc trong khu vực sản xuất kinh doanh. Đây là tiền đề để Nhà nước ban hành Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 điều chỉnh Cán bộ, công chức trong khu vực hành chính sự nghiệp (gồm các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội) nhưng vẫn sử dụng chung cụm từ "cán bộ, công chức", chưa xử lý được vấn đề tách cán bộ với công chức. Qua 10 năm thực hiện Pháp lệnh Cán bộ, công chức, do chưa phân định được rõ ràng ai là cán bộ, ai là công chức nên cơ chế quản lý và chế độ, chính sách do Nhà nước ban hành vẫn còn những hạn chế, chưa hoàn toàn phù hợp với từng nhóm đối tượng. Điều này ảnh hưởng đến quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ và đội ngũ công chức vốn có những đặc điểm hoạt động và công tác đặc thù riêng.
Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã quy định tiêu chí phân định ai là cán bộ, ai là công chức. Theo đó, cán bộ gắn với tiêu chí được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ; công chức gắn với tiêu chí được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh. Bên cạnh đó, cụm từ “cán bộ, công chức cấp xã” đã được tách ra thành cán bộ cấp xã (gắn với cơ chế bầu cử) và công chức cấp xã (gắn với cơ chế tuyển dụng). Luật quy định cụ thể về chức danh, chức vụ của cán bộ, công chức cấp xã (Điều 61). Công chức cấp xã do cấp huyện quản lý. Nghĩa vụ, quyền của cán bộ, công chức cấp xã ( Điều 62) Bầu cử, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã (Điều 63). Đánh giá, phân loại, xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn nhiệm, thôi việc, nghỉ hưu đối với cán bộ, công chức cấp xã (Điều 64). Việc đánh giá, phân loại, xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn nhiệm, thôi việc, nghỉ hưu đối với cán bộ, công chức cấp xã được thực hiện theo quy định tương ứng của Luật này đối với cán bộ, công chức cấp tỉnh và huyện.
1.3. Thể hiện bước tiến mới trong việc phân biệt một số nội dung quản lý cán bộ với quản lý công chức và cán bộ, công chức cấp xã
Bên cạnh những quy định áp dụng chung đối với cán bộ, công chức, để có những quy định phù hợp với đặc thù hoạt động và thực thi công vụ của cán bộ, công chức và cán bộ cấp xã, công chức cấp xã, Luật Cán bộ, công chức có 3 chương riêng biệt: chương cán bộ ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; chương công chức ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; chương cán bộ, công chức cấp xã. Qua đó đã thể hiện bước tiến mới trong việc phân biệt một số nội dung quản lý cán bộ với quản lý công chức và cán bộ, công chức cấp xã. Đặc biệt, việc thực hiện điều động, luân chuyển cán bộ, công chức trong hệ thống các cơ quan của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội đã được thể chế hóa trong các chương này của Luật. Khắc phục xu hướng “hành chính hóa” và “phình” biên chế ở cơ sở, cán bộ cấp xã và công chức cấp xã được quy định cụ thể theo những chức vụ bầu cử và chức danh chuyên môn cần thiết.
Việc quy định các đối tượng áp dụng nêu trên của Luật có ý nghĩa vô cùng lớn trong việc quy định các vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ, công tác sử dụng, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng cũng như xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp với đội ngũ cán bộ, đội ngũ công chức và cán bộ, công chức cấp xã.
NHỮNG ĐIỂM MỚI SO VỚI PHÁP LỆNH CÁN BỘ, CÔNG CHỨC NĂM 1998 VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP TRIỂN KHAI THỰC HIỆN LUẬT
I. NHỮNG ĐIỂM MỚI SO VỚI PHÁP LỆNH CÁN BỘ CÔNG CHỨC NĂM 1998
Ngày 13/11/2008, kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XII thông qua Luật Cán bộ, công chức thay thế Pháp lệnh Cán bộ, công chức nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; xây dựng một nền hành chính trong sạch, hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với xu hướng chuyển đổi sang nền hành chính phục vụ, thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế.
Luật Cán bộ, công chức được ban hành với các quan điểm chỉ đạo là: thể chế hóa đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tiếp tục cải cách chế độ công vụ, công chức, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; hoàn thiện chế độ công vụ và quản lý cán bộ, công chức phải bảo đảm sự đồng bộ với các nội dung đổi mới hệ thống chính trị trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế; bảo đảm tính minh bạch, công khai và tính tự chịu trách nhiệm trong hoạt động công vụ; bảo đảm tính kế thừa và phát triển của các quy định hiện hành về công vụ và cán bộ, công chức vừa phù hợp với thể chế chính trị và các giá trị văn hóa của Việt Nam, vừa tiếp cận được với các thành tựu của các nền công vụ trên thế giới.
Tuân thủ các quan điểm chỉ đạo nêu trên, Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã thể hiện nhiều nội dung mới và tiến bộ, mang tính cải cách mạnh mẽ so với Pháp lệnh Cán bộ, công chức ban hành năm 1998, bao gồm các nội dung cơ bản sau:
1. Về đối tượng, phạm vi điều chỉnh
1.1. Thu hẹp đối tượng, phạm vi điều chỉnh
Luật Cán bộ, công chức đã thu hẹp đối tượng áp dụng so với Pháp lệnh Cán bộ, công chức gắn với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Theo đó, đội ngũ viên chức làm việc trong khu vực sự nghiệp công lập chiếm số lượng rất lớn (khoảng trên 1,4 triệu người), do đặc điểm và tính chất hoạt động của họ không mang tính quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước nên đối tượng này không thuộc phạm vi và đối tượng điều chỉnh của Luật. Đây là một bước tiến mới về nhận thức trong quá trình tiếp tục cải cách chế độ công vụ, công chức. Khi tách đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự nghiệp ra khỏi Luật Cán bộ, công chức sẽ có điều kiện tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách khuyến khích sự phát triển của các đơn vị sự nghiệp, góp phần đẩy mạnh quá trình xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp, nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức, nâng cao chất lượng phục vụ người dân của các đơn vị sự nghiệp. Trước đây, với việc sửa đổi và bổ sung một số điều của Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 2003, Nhà nước đã bước đầu phân định khu vực hành chính nhà nước với khu vực sự nghiệp, tạo cơ sở cho việc xây dựng cơ chế quản lý phù hợp đối với đội ngũ viên chức sự nghiệp.
Sau 5 năm thực hiện việc phân định này, đội ngũ viên chức không còn là đối tượng điều chỉnh của Luật
Cán bộ, công chức và sẽ được Luật viên chức sau này điều chỉnh. Việc xác định các nhóm công chức về cơ bản vẫn kế thừa các quy định của Pháp lệnh Cán bộ, công chức. Các đơn vị sự nghiệp công hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, nghiên cứu khoa học công nghệ, văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao... là các tổ chức được Nhà nước thành lập và uỷ quyền để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
Hiện nay, trong lĩnh vực giáo dục, Nhà nước đang tiến hành soạn thảo Dự án Luật giáo viên; ở lĩnh vực y tế, Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh hành nghề y dược tư nhân... Các văn bản Luật, pháp lệnh này có xu hướng sẽ điều chỉnh đối với những người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp cả khu vực công và khu vực tư. Vì vậy, đối với các đơn vị sự nghiệp công chỉ quy định công chức là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm để giữ các chức vụ trong bộ máy lãnh đạo, quản lý.
1.2. Phân định tương đối rõ cán bộ, công chức
Song song với việc thu hẹp đối tượng điều chỉnh, Luật Cán bộ, công chức đã phân định tương đối rõ ai là cán bộ, ai là công chức. Cả một thời kỳ dài trước đây, do điều kiện chiến tranh và thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung, tất cả những người làm việc trong các cơ quan, đơn vị của Đảng, của Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội, kể cả trong các doanh nghiệp, lâm nông trường... đều được gọi chung trong cụm từ là "cán bộ công nhân viên chức" mà chưa có sự phân định rõ ràng, cụ thể. Đến năm 1993, khi thực hiện cải cách tiền lương, mới bước đầu phân định cán bộ, công chức trong khu vực hành chính sự nghiệp với những người làm việc trong khu vực sản xuất kinh doanh. Đây là tiền đề để Nhà nước ban hành Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 điều chỉnh Cán bộ, công chức trong khu vực hành chính sự nghiệp (gồm các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội) nhưng vẫn sử dụng chung cụm từ "cán bộ, công chức", chưa xử lý được vấn đề tách cán bộ với công chức. Qua 10 năm thực hiện Pháp lệnh Cán bộ, công chức, do chưa phân định được rõ ràng ai là cán bộ, ai là công chức nên cơ chế quản lý và chế độ, chính sách do Nhà nước ban hành vẫn còn những hạn chế, chưa hoàn toàn phù hợp với từng nhóm đối tượng. Điều này ảnh hưởng đến quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ và đội ngũ công chức vốn có những đặc điểm hoạt động và công tác đặc thù riêng.
Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã quy định tiêu chí phân định ai là cán bộ, ai là công chức. Theo đó, cán bộ gắn với tiêu chí được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ; công chức gắn với tiêu chí được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh. Bên cạnh đó, cụm từ “cán bộ, công chức cấp xã” đã được tách ra thành cán bộ cấp xã (gắn với cơ chế bầu cử) và công chức cấp xã (gắn với cơ chế tuyển dụng). Luật quy định cụ thể về chức danh, chức vụ của cán bộ, công chức cấp xã (Điều 61). Công chức cấp xã do cấp huyện quản lý. Nghĩa vụ, quyền của cán bộ, công chức cấp xã ( Điều 62) Bầu cử, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã (Điều 63). Đánh giá, phân loại, xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn nhiệm, thôi việc, nghỉ hưu đối với cán bộ, công chức cấp xã (Điều 64). Việc đánh giá, phân loại, xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn nhiệm, thôi việc, nghỉ hưu đối với cán bộ, công chức cấp xã được thực hiện theo quy định tương ứng của Luật này đối với cán bộ, công chức cấp tỉnh và huyện.
1.3. Thể hiện bước tiến mới trong việc phân biệt một số nội dung quản lý cán bộ với quản lý công chức và cán bộ, công chức cấp xã
Bên cạnh những quy định áp dụng chung đối với cán bộ, công chức, để có những quy định phù hợp với đặc thù hoạt động và thực thi công vụ của cán bộ, công chức và cán bộ cấp xã, công chức cấp xã, Luật Cán bộ, công chức có 3 chương riêng biệt: chương cán bộ ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; chương công chức ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; chương cán bộ, công chức cấp xã. Qua đó đã thể hiện bước tiến mới trong việc phân biệt một số nội dung quản lý cán bộ với quản lý công chức và cán bộ, công chức cấp xã. Đặc biệt, việc thực hiện điều động, luân chuyển cán bộ, công chức trong hệ thống các cơ quan của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội đã được thể chế hóa trong các chương này của Luật. Khắc phục xu hướng “hành chính hóa” và “phình” biên chế ở cơ sở, cán bộ cấp xã và công chức cấp xã được quy định cụ thể theo những chức vụ bầu cử và chức danh chuyên môn cần thiết.
Việc quy định các đối tượng áp dụng nêu trên của Luật có ý nghĩa vô cùng lớn trong việc quy định các vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ, công tác sử dụng, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng cũng như xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp với đội ngũ cán bộ, đội ngũ công chức và cán bộ, công chức cấp xã.