Nếu còn có ngày mai ( If Tomorrow Comes)-Sidney Sheldon

xin lỗi cưng, nhưng mà anh cũng sửa lời người khác, bây h thì a đi bằng 2 tay đây nè!!!! ông nào mà chơi trò xuyên tạc sự thật lời nói thì thật là đê tiện!!!
chí phải!!!!:KSV@05::KSV@05::KSV@05:
 
Chương 4


Tin tức về vụ Tracy Whitney xuất hiện trên trang đầu tờ New Orleans, cùng với tấm hình nàng do cảnh sát cung cấp và khi Tracy bị dẫn ra khỏi phòng xử án nàng đã chạm trán với một đám phóng viên truyền hình. Nàng muốn giấu mặt vì nhục nhã song không thể tránh khỏi các ống kính. Bản thân Romano đã là tin tức, và việc ông ta bị mưu sát bởi một cô gái trộm cắp xinh đẹp thì lại còn là tin hấp dẫn hơn nữa. Với Tracy, dường như nàng đã bị vây bọc bởi toàn kẻ thù. Charles sẽ giải thoát cho mình. Nàng cứ tự nhủ vậy. Ôi lạy Chúa, hãy để Charles giải thoát cho con. Con không thể sinh con trong nơi tù ngục.
Cho mãi tới sáng hôm sau, viên trung sĩ trực ban mới cho phép Tracy dùng điện thoại. Hamet trả lời. “Văn phòng ngài Stanhope đây”.
“Harriet, Tracy Whitney đây. Tôi muốn nói chuyện với ông Stanhope”.
“Đợi một chút, cô Whitney”. Nàng nghe thấy giọng lưỡng lự của người thư ký. “Tôi sẽ ... tôi sẽ coi xem ngài Stanhope có đây không”.
Sau một lúc chờ đợi đầy lo lắng? cuối cùng Tracy nghe thấy tiếng anh, nàng đã có thể òa khóc lên vì mừng rỡ. “Charles”.
“Trảcy hả? Phải em không, Tracy?”.
“Vâng, anh yêu quí. Ôi, Charles, em đã cố liên lạc với anh”.
Anh đang phát đlên lên đây, Tracy! Báo chí đầy những câu chuyện điên rồ về em. Anh không thể tin được.
“Không hề có chuyện đó, anh. Không hề. Em ...”.
“Sao em không gọi anh?”.
“Em đã cố gọi anh mà không được. Em ...”.
“Giờ em ở đâu?”.
“Em ... em đang trong nhà giam ở New Orleans.
Charles, họ sắp đưa em vào tù vì một việc em không hề làm”. Nàng nức nở.
“Bình tĩnh. Nghe anh nào. Báo chí đưa tin em đã bắn một gã nào đó. Không phải vậy chứ?”.
“Em có bắn hắn, song ...”.
“Vậy ra là đúng?”.
“Chuyện vậy mà không phải vậy, anh ạ. Không phải thế chút nào. Em có thể giải thích cho anh. Em ...”.
“Tracy, có phải em đã nhận tội mưu sát và đánh cắp bức họa phải không”.
“Vâng, Charles song chỉ vì ...”.
“Lạy Chúa, nếu cần tiền đến thế thì em phải nói với tôi chứ ... Lại toan giết một ai đó ... Tôi không thể tin được chuyện này. Cha mẹ tôi cũng vậy. Tln về cô được đưa lên hàng đầu của tờ Philađelphia (News) sáng nay là lần đầu tiên có một vụ bê bối dính dáng tới gia đình Stanhope”.
Chính sự kiềm chế ghê gớm trong giọng nói của Charles đã làm Tracy nhận thấy sự lo ngại sâu sắc của anh. Nàng đã trông chờ vào anh một cách tuyệt vọng, và anh lại ở về phía với bọn họ. Nàng cố để không kêu lên. “Anh yêu, em cần có anh. Tới đây với em đi. Anh có thể làm sáng tỏ mọi chuyện”.
Một phút im lặng kéo dài. “Có vẻ như chẳng còn gì để làm sáng tỏ nữa.
Đúng vậy, vì cô đã thú nhận mọi việc.
Gia đình tới không thể chấp nhận dính líu tới chuyện này. Chắc cô cũng thấy đấy. Đây là một sự bất ngờ khủng khiếp. Rõ ràng là chưa bao giờ tôi biết cô cả”.
Mỗi lời như một nhát búa giáng xuống. Cả thế giới sụp đổ trước mắt nàng.
Chưa bao giờ nàng lại cảm thấy cô độc đến thế. Chẳng còn ai. “Còn ... còn về đứa con thì sao?”.
“Cô sẽ phải làm điều gì mà cô cho là tốt nhất đối với đứa con của cô”.
Charles đáp. “Tôi xin lỗi, Tracy”. Và điện thoại bị ngắt.
Nàng đứng đó, tay vẫn nắm chặt chiếc ống nghe câm lặng.
Một tù nhân đứng sau cất tiếng, “Nếu xong rồi, cô bạn, để tôi gọi luật sư của tôi”.
Khi Tracy được đưa lại phòng giam, người nữ giám thị nhắc. “Sáng mai, người ta sẽ đưa cô đi vào lúc năm giờ”.
Nàng có một người tới thăm. Otto Schmidt dường như già sọp đi đến mấy tuổi trong ít giờ đồng hồ kể từ khi Tracy gặp lần cuối. Trông bác ta có vẻ bệnh.
“Tôi tới chỉ để nói với cô rằng vợ chồng tôi rất buồn lòng. Chúng tôi biết, dù gì chăng nữa thì cũng không phải là lỗi của cô”.
Giá mà Charles đã nói thế?
“Vợ chồng tôi sẽ có mặt trong buổi tang lễ bà Dons ngày mai”.
“Cảm ơn bác, bác Otto”.
Họ sẽ chôn cả hai mẹ con nàng vào ngày mai, Tracy thầm nghĩ, cay đắng.
Nàng thức suốt đêm, nằm trên chiếc gi.ường hẹp, mắt nhìn trân trối lên trần nhà. Trong óc nàng câu chuyện với Charles cứ lặp đi lặp lại mãi. Anh đã không cho nàng kịp mở miệng phân trần.
Nàng phải nghĩ tới đứa con. Nàng đã được đọc về những phụ nữ sinh con nơi tù ngục, nhưng đó là những chuyện xa xôi với cuộc sống của nàng, tới mức dường như nàng đã đọc về những người ở một hành tinh khác. Giờ đây chuyện đang xảy ra với chính nàng, và nàng sẽ phải làm điều mà nàng cho là tất nhất đối với đứa con của mình. Charles đã nói thế. Thế nhưng, nàng nghĩ, họ sẽ không để mình có nó. Họ sẽ cướp nó khỏi tay mình bởi lẽ mình sẻ ở trong tù mười lăm năm tới. Tất nhất là để nó không bao giờ biết mẹ nó cả.
Nàng nức nở.
Lúc năm giờ sáng, một người gác, cùng đi có một nữ giám thị, bước vào phòng giam. “Tracy Whitney?”.
“Dạ”. Nàng ngạc nhiên với giọng nói của chính mình.
“Theo lệnh của tòa hình sự tiểu bang Louisiana khu vực Orleans, cô sẽ được đưa tới nhà tù nữ Nam Louisialla. Hãy động tay động chân đi, cô bạn”.
Nàng được dẫn dọc theo hành lang, ngang qua những phòng giam chật ních tù nhân. Hàng chuỗi tiếng la ó.
“Đi bình yên, cô bé ...”.
“Nói coi giấu bức tranh ở đâu, Tracy bé bỏng, tôi sẽ chia khoản tiền này với cô ...”.
“Nếu tới Ngôi nhà lớn, hãy tìm Ernestine Littlechap. Chị ta sẽ trông nom săn sóc cô ...”.
Tracy đi ngang chiếc máy điện thoại mà nàng đã dung để gọi Charles. Tạm biệt, Charles.
Nàng đứng trong cái sân rộng. Một chiếc xe nhà tù màu vàng với những ô cửa có song sắt đã đậu ở đó, máy vẫn nổ đều đều. Một nửa tá phụ nữ đang ngồi trong xe, có hai lính gác cầm súng đứng canh. Tracy nhìn từng khuôn mặt những người bạn đồng hành. Có khuôn mặt đầy vẻ thách thức, một khuôn mặt khác mệt mỏi, còn thì đầy thất vọng. Họ sẽ là những người bị giam h.ãm, như những con vật. Tracy băn khoăn không biết họ đã phạm những tội gì và liệu có ai trong họ cũng vô tội như nàng không, và tự hỏi không biết bọ sẽ thấy gì từ vẻ mặt nàng.
Chuyến đi trên chiếc xe chở tù tưởng như dài vô tận, nóng nực và hôi hám, song Tracy không có ý thức gì về chuyện đó. Nàng thu mình lại, không còn biết gì về những người khác hay về cảnh quan tưới xanh hai bên đường. Nàng đang ở một nơi khác, một thời điểm khác.
Nàng là một cô bé nhỏ xíu trên bãi biển cùng cha mẹ, và cha đang mang nàng trên vai, đi thẳng ra biển, khi nàng kêu lên thì cha nói, đừng làm một cô bé nữa, Tracy, rồi ông thả nàng xuống làn nước lạnh. Khi nước trùm qua đầu nàng hoảng sợ và bị sặc, thì cha lại nâng lên rồi lại làm lại như thế, và từ đó Tracy sợ nước khủng khiếp.
Giảng đường trường đại học đầy chật, sinh viên cùng cha mẹ hay bà con của họ. Nàng là đại biểu sinh viên, và đã nới trong mười lăm phút. Bài diễn văn của nàng chan chứa những ý tưởng cao đẹp, những cách đề cập thông minh tới quá khứ và những ước mơ ngời sáng về tương lai. Vị trưởng khoa đã trao tặng nàng chiếc chìa khóa Kapa. Con muốn mẹ giữ nó cơ, Tracy nói với mẹ, và nét tự hào trên gương mặt nàng thật là đẹp ...
Mẹ, con sẽ đi Philadelphia. Co có chỗ làm ở trong một nhà băng ở đó. Nàng đã nói thế.
Annie Mahler, cô bạn thân nhất đã gọi dây nói cho nàng. Bạn sẽ yêu Philađelphia cho mà coi, Tracy. Đời sống văn hóa của nó tuyệt lắm. Phong cảnh đẹp, và nơi đây thiếu phụ nữ lắm. Ý tôi muốn nói, đàn ông ở đây thật sự đói khát phụ nữ. Tôi có thể kiếm cho bạn một chỗ làm ở trong nhà băng nơi tôi đang làm việc ...”.
Charles đang làm tình với nàng. Nàng nhìn bóng anh trên tường và nghĩ, biết bao cô gái muốn được ở vị trí của mình nhỉ? Charles là một món bỏ. Và ngay tức khắc nàng thấy xấu hổ với ý nghĩ đó. Nàng yêu anh. Và lại cảm thấy tội lỗi.
“Này? Tôi đang nói với cô đấy. Điếc à? Đi”.
Tracy ngước nhìn. Nàng đang ở trong chiếc xe chở tù màu vàng. Nó đã dừng trước một khu vực được bao bọc bởi những bức tường xám xịt, ảm đạm. Một dãy tường rào cỏ lưới thép gai ở bên trên vây quanh lấy khoảng năm trăm mẫu Anh đồng cỏ và rừng - đó là toàn bộ khu nhà tù nữ Nam Louisiana.
“Ra ngay”, một cảnh sát quát. “Tới nơi rồi”.
Nơi đây là địa ngục.
 
Chương 5


Một nữ giám thị to khỏe, vẻ mặt sắt đá với bộ tóc nâu đen đang nói với những tù nhân mới đến. “Một số trong các người sẽ ở lại đây trong một thời gian dài, rất dài. Chỉ có một cách sống ở đây thôi, đó là quên đi thế giới bên ngoài. Các người có thể sống thoải mái hoặc nặng nề. Chúng ta có những quy định ở đây, và các người phải tuân thủ nó. Chúng ta sẽ bảo cho các người biết lúc nào phải dậy, lúc nào làm việc, lúc nào thì ăn, và lúc nào thì vào to let. Nếu vi phạm bất kỳ một quy định nào, thì lúc đó các người sẽ mong thà chết đi được còn hơn. Chúng ta muốn giữ mọi thứ bình yên và biết cách đối xử vôi những kẻ gây rối như thế nào”. Mắt bà ta hướng tới Tracy. “Bây giờ các người sẽ được kiểm tra sức khỏe. Rồi sẽ đi tắm và sẽ được đưa tới các” buồng giam. Vào buổi sáng các người sẽ nhận các công việc phải lao động trong ngày. Xong”. Bà ta quay ra.
Một cô gái trẻ xanh nhợt đứng bên Tracy dụt dè. “Xin lỗi, có thể”.
Bà giám thị quay lại vẻ mặt hầm hầm. “Câm mẹ cái mồm lại. Ngươi chỉ nói khi người ta hỏi thôi, hiểu chưa? Điều đó là tất cho ngươi đấy, đồ cứt”.
Giọng lưỡi cũng như từ ngữ làm cho Tracy giật mình. Mụ giám thị vẫy người gác ở cuối phòng. “Đưa những con chó láo xược này ra khỏi đây đi”.
Tất cả bị lùa ra ngoài, theo dọc một hành lang hẹp rồi tới một căn phòng lớn trắng toát, nơi một người đàn ông to béo vận chiếc áo bờ lu bẩn thỉu đang chờ săn bên cái bàn dài.
Một nữ giám thị hô, “Xếp hàng” và xua những người phụ nữ đứng thành một hàng dài.
Người đàn ông mặc áo bờ lu nói, “Tôi là bác sĩ Glosco, thưa các quý cô. Lột ra!”.
Đám tù nữ nhìn nhau ngơ ngác. Một trong số họ cất lời “Cởi đến thế nào?”.
“Các người không hiểu thế nào là lột hả? Cởi quần áo ra ... cởi tất”.
Họ chậm chạp làm theo. Một số ngượng ngùng, một số thấy nhục nhã, một số khác thản nhiên. Phía bên trái Tracy là người đàn bà trạc bốn mươi, run rẩy, và phía bên phải là một cô gái ốm nhom, đến thảm hại, coi bộ chừng mới mười bẩy, mười tám. Da cô ta đầy những nốt mụn nhỏ.
Gã bác sĩ ngoắc ngoắc người phụ nữ đứng đầu hàng. “Nằm lên trên và dạng chân ra”.
Người phụ nữ ngập ngừng.
“Nhanh lên. Bao nhiêu người phải chờ cô đấy”.
Cô ta đành làm theo. Gã bác sĩ đút chiếc ống soi vào trong âm đạo của cô.
Vừa xem hắn vừa nói. “Có bệnh hoa liễu gì không”.
“Không”.
“Ta sẽ thấy điều đó ngay thôi”.
Sau cô, một người phụ nữ khác nằm lên trên bàn. Khi gã bác sĩ bắt đầu đút cái ống soi vào đó, Tracy kêu lên, “Hãy khoan”.
Gã ta dừng lại và ngẩng lên nhìn một cách ngạc nhiên, “Cái gì?”.
Mọi người đều nhìn Tracy. Nàng nói. “Tôi ... Ông chưa khử trùng cái dụng cụ đó”.
Bác sĩ Galosco mỉm cười chậm rãi và lạnh lùng. “Ồ, ở đây chúng ta lại có một bác sĩ phụ khoa nữa cơ đấy. Cô lo ngại vi trùng lây lan phải không. Đi xuống đứng cuối hàng”.
“Sao cơ?”.
“Không hiểu tiếng Anh chăng? Đi xuống”.
Tracy vẫn không hiểu ra sao, lặng lẽ xuống đứng ở cuối cùng.
“Bây giờ nếu cô không phản đối”, gã bác sĩ nói, “chúng ta sẽ tiếp tục”. Gã đút cái ống soi vào cơ thể người đàn bà, và Tracy chợt hiểu tại sao nàng phải là người đứng cuối. Gã sẽ kiểm tra tất cả mọi người với cùng cái dụng cụ không được khử trùng đó, và nàng sẽ là người cuối cùng. Và gã vẫn sẽ dùng nó để kiểm tra nàng. Tracy giận sôi lên. Gã có thể kiểm tra riêng từng người thay vì cố tình chà đạp lên lòng tự trọng của họ. Thế mà họ cứ im. Nếu tất cả cùng phản đối. Đã đến lượt nàng.
“Lên bàn, bà bác sĩ”.
Tracy lưỡng lự song còn có sự lựa chọn nào đâu, nàng trèo lên bàn, nhắm mắt lại, cảm thấy hắn kéo chân nàng dạng ra và sau đó cái ống soi lạnh ngắt đã ở trong nàng, thăm dò, tới lui và làm nàng đau đớn. Hắn đã cố tình.
Nàng nghiến chặt hai hàm răng.
“Có bệnh giang mai hoặc lậu không?” Gã bác sĩ hỏi.
“Không”. Nàng sẽ không nói với hắn về cái thai.
Không thể nói với đồ quái vật này. Nàng sẽ nói với ông tổng giám thị.
Nàng cảm thấy cái ống soi bị rút ra một cách thô bạo và gã Gloseo mang vào tay đôi găng cao su. “Xong rồi”, gã nói. “Đứng thành hàng và cúi người xuống.
Chúng ta sẽ xem xét những cặp mông xinh xắn của các người”.
Tracy không kìm được. “Tại sao lại phải làm -thế!
Gã lừ mắt. “Tôi sẽ nói cho cô tại sao, thưa bác sĩ. Bởi lẽ hậu môn là nơi cất giấu tốt đấy. Tôi đã tìm thấy nhiều ma túy từ những tiểu thư như cô. Nào cúi xuống”. Và gã đi dọc theo hàng chọc tay vào hậu môn từng người một.
Tracy cảm thấy ghê tởm, giận lên tận cổ và bắt đầu ọe.
“Mày mà ói ra đây thì tao sẽ ấn mặt mày vào đó”. Gã quay sang nói với đám lính gác. “Dẫn chúng đi tắm. Hôi thối lắm”.
Cầm theo quần áo, đám tù nữ trần truồng đi dọc theo hành lang tới một căn phòng bê tông lớn với một tá buồng tắm toang hoang.
Để quần áo vào trong góc”. Một nữ giám thị ra lệnh. “Dùng xà bông tẩy uế để sẵn đó. Hãy cọ rửa sạch sẽ mọi chỗ, và gội đầu nữa”.
Tracy bước trên sàn bê tông ram ráp vào dưới vòi hoa sen. Những tia nước thật” lạnh. Nàng kỳ cọ thật mạnh, lòng thầm nghĩ, mình sẽ chẳng bao giờ sạch nữa. Đây là loại người gì không biết? Sao chúng có thể đối xử với những người khác như theo” Mình không thể chịu nổi mười lăm năm sống thế này.
Một người gọi nàng, “Này cô kia! Hết giờ”. Tracy bước ra và một nữ tù khác bước vào thay chỗ. Nàng được trao một chiếc khăn mỏng cũ kỹ chỉ đủ lau khô nửa người.
Khi người tù cuối cùng tắm xong, họ được dẫn tới phòng cấp phát, nơi có những giá đựng quần áo do một người tù tự giác trông coi, người này ước chừng vóc dáng từng tù nhân để phát cho những bộ đồng phục màu xám:
Hai bộ đồng phục, một cặp quần lót, hai xu chiêng, hai đôi giày, hai váy ngủ, một dây mang băng vệ sinh, một bàn chải đánh răng, và một túi đựng đồ giặt. Những nữ giám thị đứng coi trong khi đám nữ tù mặc váy áo. Khi đã xong, họ được lùa tới một phòng khác ở đó có một tù tự giác khác đang điều chỉnh chiếc máy ảnh gá trên giá đỡ.
“Đứng sát vào tường bên kia”.
Tracy tiến tới sát tường.
“Nhìn thẳng”.
Tạch.
“Quay đầu sang phải”.
Tạch.
“Sang trái”.
Tạch.
“Đi lại bàn”.
Trên bàn có thiết bị lấy dấu vân tay. Những ngón tay của Tracy được lăn trên một tấm da tẩm mực, rồi được in lên một tấm bìa trắng.
“Tay trái. Tay phải. Lau tay vào kia. Xong”.
Chị ta nói đúng. Tracy cay đắng nghĩ. Thế là xong. Mình chỉ còn là một con số. Không tên, không cả diện mạo.
Một người gác chỉ Tracy. “Cô Whitney phải không”.
Ông tổng giám thị muốn gặp cô, theo tôi”.
Tim Tracy rộn lên. Sau cùng thì Charles đã làm gì đó. Tất nhiên là anh đã không bỏ nàng, cũng như nàng vậy thôi. Giờ đầy anh đã có thời gian để nghĩ lại và nhận ra rằng anh vẫn yêu nàng. Anh hẳn đã nói chuyện với ông tổng giám thị và giải thích về sự nhầm lẫn tồi tệ đã xảy ra. Nàng sắp được trả lại tự do.
Nàng được dẫn theo một hàng lang khác, qua hai cánh cửa sắt nặng nề có người gác. Khi đi qua cánh cửa thứ hai, nàng suýt bị ngã vì một tù nhân khác.
Chị ta cao lớn, một người đàn bà bự con nhất mà Tracy từng thấy. Cao hơn mét tám và nặng phải chừng tạ rưỡi, có bộ mặt rỗ nhằng nhịt, với cặp mắt màu vàng hung dữ. Tóm lấy tay Tracy để đỡ nàng đứng vững, mụ ta ép cánh tay mình lên cặp vú nàng.
“Này?” Mụ nói với người gác, “Chúng ta có một con cá tươi rói. Cho cô ta vào chỗ tôi được không?”.
“Rất tiếc. Cô ta đã được chia buồng rồi, Berthal”.
Người đàn bà dữ tướng ấy đập tay vào mặt Tracy. Nàng né tránh và bà ta cười to. “Được thôi, quả bóng nhỏ bé. Bertha Lớn sẽ gặp cô sau. Ta còn nhiều thời gian. Cô sẽ chẳng đi đâu được cả”.
Tới phòng tổng giám thị. Tracy như xỉu đi vì hồi hộp. Charles có ở đó không? Hay anh cử luật sư riêng tôi?
Viên thư ký của tổng giám thị gật đầu với người gác. “Ông ấy đang chờ cô ta. Đợi một chút”.
�� �� �� Tổng giám thị George Brannigan ngồi sau chiếc bàn tồi tàn đang xem xét giấy tờ. Ông ta trạc tứ tuần, vẻ gầy gò, khuôn mặt nhạy cảm, cả nghĩ và cặp mắt sâu màu nâu. Ông đã phụ trách nhà tù nữ Nam Louisiana được năm năm. Vốn là một nhà tội phạm học hiện đại và với nhiệt tình ông đến đây quyết tâm thực hiện những cải cách nhanh chóng cho tù nhân. Song ông đã thất bại, cũng giống như những người tiền nhiệm khác.
Khu trại này ban đầu được xây để giam hai tù nhân một phòng thế mà giờ đây mỗi phòng phải chứa tới bốn hoặc sáu. Ông cũng biết rằng ở nơi khác đều như vậy cả. Các nhà tù trong nước đã quá chật chội và quá thiếu nhân viên.
Hàng nghìn tội phạm bị giam cầm ngày đêm nuôi dưỡng sự căm giận và âm mưu báo thù. Đó là một hệ thống ngu ngốc và dã man, song nó vẫn tồn tại.
Ông bấm máy nói với thư ký:
“Được. Đưa cô ta vào”. Người gác mở cánh cửa dẫn vào phòng trong và Tracy bước vào.
Tổng giám thị Brannigan ngước nhìn người phụ nữ đứng trước mặt. Trong bộ quần áo tù xám xịt và khuôn mặt tái xanh vì mệt mỏi, Tracy trông vẫn đẹp với gương mặt đáng yêu và ngay thẳng, và Brannigan băn khoăn liệu cô ta sẽ giữ như vậy được bao lâu. Ông đã đặc biệt quan tâm tới nữ tù nhân này vì ông đã đọc về cô ta trên báo chí và đã nghiên cứu hồ sơ. Cô ta phạm tội lần đầu, chưa tiền án tiền sự, vả mười lăm năm tù là một bản án khắc nghiệt quá mức bình thường. Cộng thêm việc Joc Romano là người cáo buộc đã làm cho bản án thêm phần ngờ vực. Song ông chỉ đơn giản là người coi ngục. Ông không thể tác động gì vào bộ máy này. Chính ông là một phần của nó.
“Xin mời ngồi”, ông nói.
Tracy sung sướng được ngồi xuống. Hai đầu gối nàng mỏi nhừ. Ông ấy sắp nói với nàng về Charles và khi nào thì nàng được tha ra.
“Tôi đã xem hồ sơ của cô”. Ông tổng giám thị bắt đầu. Charles đã yêu cầu ông ta làm thế, nàng nghĩ.
“Tôi cho rằng cô sẽ ở đây với chúng tôi một thời gian dài. Án của cô là mười lăm năm”.
Những lời đó làm Tracy choáng váng. Có gì. đó nhầm lẫn chết người.
“Ông ... ông chưa nói chuyện với ... với Charles ư?” Nàng lắp bắp vì sợ hãi.
Ông nhìn thẳng vào nàng, ngạc nhiên. “Charles? “ Và nàng hiểu. Lòng dạ nàng nôn nao. “Xin ông”. Nàng nói, “Xin ông hãy nghe tôi. Tôi không có tội.
Tôi không phải ở đây”.
Ông đáp. “ôTòa án đã kết tội cô. Điều tốt nhất mà tôi có thể khuyên cô là hãy cố gắng gìn giữ. Một khi cô biết chấp nhận thời hạn của án tù, cô sẽ thấy dễ chịu hơn nhiều. Không có đồng hồ ở đây, trong nhà tù, mà chỉ có những cuốn lịch”.
Mình không thể bị giam ở đây mười lăm năm, Tracy nghĩ trong tuyệt vọng.
Mình muốn chết đi. Lạy Chúa, xin cho con được chết. Song mình không được chết, phải không nào? Mình sẽ giết cả đứa con mình mất. Nó cũng là con của anh nữa, Charles. Sao anh không có ở đây để giúp đỡ em? Đó là lúc nàng bắt đầu căm thù anh ta? ...
“Nếu có chuyện gì đặc biệt:”, tổng giám thị Brannigan nói, “ý tôi muốn nói, nếu như tôi có thể giúp gì cho cô, tôi mong cô tới gặp tôi”. Thậm chí ngay khi vừa nói, ông biết ngay sự vô nghĩa trong những lời của mình. Cô ta còn trẻ trung xinh đẹp và tươi tắn. Những con mụ điếm đàng trong tù sẽ vồ ngay lấy cô ta như những con thú. Ngay cả một buồng giam riêng cũng không có để ông có thể dành cho cô ta. Gần như tất cả các buồng giam đều có rà những con sói cái kiểm soát. Tổng giám thị Brannigan đã nghe nhiều lời đồn đại về những vụ h.ãm hiếp trong buồng tắm, trong nhà xí, và ban đêm thì ở các lối đi. Song đó chỉ là những lời xì xào vì nạn nhân của những vụ này sau đó hoặc lả luôn luôn câm lặng hoặc là chết.
Ông nói ôn tồn. “Với những cư xử tất, cô có thể được phóng thích sau mười hai hay ...”.
“Không!” Đó là tiếng thét của sự tuyệt vọng. Tracy cảm thấy những bức tường của căn phòng đổ sập xuống nàng. Nàng đứng chồm dậy, gào thét. Người gác vội lao tới chộp lấy Tracy.
“Nhẹ thôi”, Brannigan ra lệnh cho anh ta.
Ông ngồi đó, bất lực trông theo cô gái bị dẫn đi.
Nàng được dẫn theo mấy dãy hành lang, ngang qua những buồng giam đầy những tội phạm, mỗi người một vẻ Da đen có, trắng có, nâu có, và cả vàng. Họ nhìn chằm” chặp vào Tracy khi nàng đi ngang và kêu lên với nàng bằng cả chục giọng nói khác nhau. Những tiếng la hét của họ chẳng còn gây cảm giác gì cho nàng.
“Con cá đêm ...”.
“Cô bạn Pháp ...”.
“Cô bé tươi tắn ...”.
“Súc thịt tươi ...”.
Chỉ tới khi về tới buồng giam của mình Tracy mới hiểu ý nghĩa những người đàn bà muốn ám chỉ gì khi họ gọi nàng là “Súc thịt tươi ...”.
 
Chương 6


Khu C có sáu mươi nữ tù, bốn người một phòng giam. Những khuôn mặt áp sát vào các song sắt để nhìn ra khi Tracy bị dẫn qua, mỗi mặt một vẻ, từ hờ hững đến thèm muốn, và cả căm ghét. Nàng đi bước thấp bước cao, như đang trên một mảnh đất lạ, trong một giấc mơ chập chờn. Cổ họng nàng khô đắng, một tiếng thét âm ỉ trong con người bị giam cầm của nàng. Giờ đây chẳng còn gì cả.
Chẳng còn gì cả, từ mỗi cái khả năng cay đắng là nàng sẽ bị lưu đày ở nơi này mười lăm năm trời.
Người nữ giám thị mở cửa một phòng giam. “Vào đi?”.
Tracy chớp mắt nhìn quanh. Trong phòng có ba nữ tù đang lặng lẽ nhìn nàng.
“Đi vào”, người giám thị quát.
Tiếng cửa đóng sầm sau lưng.
Nàng đã về nhà.
Căn phòng trơ trỏng bốn gi.ường, một bàn nhỏ trên đó có cái gương đã rạn vỡ, bốn cái tủ nhỏ và một hố xí ở tít trong góc.
Mấy người đàn bà cùng phòng nhìn nàng chằm chặp. Người Puectô Ricô phá vỡ sự im lặng. “Chúng ta có một cô” bạn mới đây”. Giọng cô ta trầm và khản đặc. Có thể cô ta sẽ rất đẹp nếu như không có một vết sẹo xám ngoét chạy dài từ thái dương xuống tới tận cổ họng, và có vẻ như chưa đến mười bốn tuổi nếu như không nhìn vào cặp mắt cô ta.
Người Mehico béo lùn, trạc trung niên thì nói. “Thật hay là đã gặp nhau. Vì sao mà bị tống vào đây, cô bé?”.
Tracy đờ đẫn không đáp nổi.
Người thứ ba da đen. Chị ta cao phải tới mét tám, với cặp mắt mở hẹp đầy vẻ thận trọng và một khuôn mặt lạnh lùng. Đầu chị ta cạo trọc lốc, và trong ánh sáng yếu ớt của căn phòng, chỉ thấy nó xanh xanh. “gi.ường cô ở góc kia”.
Tracy đi tới bên gi.ường. Chỉ có Chúa mới biết là trước đó đã có bao nhiêu người nằm trên tấm nệm dơ dáy và nhớp nhúa này. Nàng không dám đụng tới nó và dè dặt bày tỏ sự bất mãn của mình. “Tôi ... Tôi không thể nằm trên chiếc đệm này”.
Người Mêhico làu bàu. “Chẳng ai bắt, cô em ạ. Em có thể ngủ trên gi.ường tôi”.
Đột nhiên, Tracy như cảm thấy trong phòng có những cơn sóng ngầm và nàng thấy sợ hãi. Ba người đàn bà Vẫn nhìn chằm chặp làm nàng có cảm giác bị lột trần ra. Súc thịt tươi Nàng chợt nhớ và càng sợ. Không phải thế, Tracy nghĩ, ôi, mong rằng không phải thế. Nàng chợt nghe thấy tiếng mình nói.“Tôi ... Tôi có thề gặp ai để xin một chiếc đệm sạch sẽ?”.
“Chúa ơi”, người da đen thốt lên. “Hắn đâu có ở quanh đây”.
Tracy nhìn xuống tấm đệm. Mấy con gián lớn đang bò ngang trên đó. Mình không thể ở lại đây” được. Tracy nghĩ mình sẽ phát điên lên mất.
Như đọc được trong ý nghĩ eủa nàng, người da đen nói, “Phải chấp nhận thôi, cô bé?”.
Tracy như nghe thấy tiếng nói của viên tổng giám thị:
lời khuyên tốt nhất mà tôi có thể nói với cô là hãy cô gắng giữ gìn ...
Người da đen tiếp tục, “Tôi là Ernestine Littlechap”.
Chị ta hất hàm về phí người có cái sẹo dài. “Đó là Lola. Cô ta từ Puectô Ricô tới và ả béo kia là Paulita, từ Mêhico. Còn cô là ai?”.
“Tôi là ... Tracy Whitney”. Chút nữa thì nàng đã nói, “Tôi nguyên là Tracy Whitney”. Có cảm giác như trong một cơn ác mộng rằng cái bản ngã của nàng đang bị mất đi. Đột nhiên thấy muốn ói, nàng vội túm chặt lấy thành gi.ường.
“Tôi xin lỗi. Tôi cảm thấy không muốn nói chuyện”, Tracy dường như đứng không vững. Nàng gượng ngồi xuống mép gi.ường, và đưa tay kéo gấu váy lau những giọt mồ hôi lạnh ngắt trên mặt. Đứa con mình, nàng nghĩ. Lẽ ra mình phải nói với ông tổng giám thị là mình đang mang thai. Ông ấy sẽ chuyển mình tới một phòng giam sạch sẽ. Có khi họ còn để mình có riêng một phòng ...
Nàng nghe bước chân dọc hành lang. Một nữ giám thị đi ngang qua, Tracy vội chạy ra cửa. “Xin lỗi bà”, nàng nói. “Tôi phải gặp ông tổng giám thị để ...”.
“Tôi sẽ phái ông ta xuống”, người đó ngoái lại nói.
“Bà không hiểu rồi. Tôi ...”.
Người đó đã đi khuất.
Tracy đưa vội mấy ngón tay lên miệng cắn chặt để khỏi kêu lên.
“Cô ốm hay sao, cô bé?” Lola hỏi.
Tracy chỉ lắc đầu. Nàng bước trở lại gi.ường, ngó nhìn giây lát rồi từ từ nằm xuống. Đó là hành động tuyệt vọng, một sự đầu hàng. Nàng nhắm nghiền hai mắt.
Ngày sinh nhật lần thứ mười là một ngày vui sướng nhất trong tuổi thơ của nàng. Chiều nay cả nhà sẽ tới nhà hàng Antoine! Mc đã mặc cho nàng chiếc váy mới màu xanh tuyệt đẹp.
Trông hai mẹ con kìa”, cha cười rạng rỡ. “Tôi đang đi cùng hai người phụ nữ đẹp nhất New Orleans. Ai cũng sẽ phải ghen ty với tôi cho mà xem”.
Nhà hàng Antoine là tất cả những gì mà Tracy đã từng tưởng tượng, và còn hơn thế nữa. Hơn nhiều, Đó là nơi biên giới, tao nhã và được trang trí tuyệt hảo, với khăn trải bàn trắng toát và những bộ đồ ăn sáng bóng. Đây hẳn là một cung điện, Tracy nghĩ thầm. Mình chắc hẳn các nhà vua và các hoàng hậu cũng tới đây. Cô bé hân hoan tới độ quên cả ăn, chỉ mải ngắm nghía những người đàn ông, đàn bà ăn mặc tuyệt đẹp. Khi nào lớn lên, Tracy tự nhủ, tối nào mình cũng sẽ tới nhà hàng Antoine này, và mình sẽ đưa cả cha vả mẹ cùng đi.
“Con không ăn à, Tracy?” mẹ nhắc.
Và để làm hài lòng mẹ, Tracy phải cố nuốt vài miếng. Có một cái bánh dành cho nàng, trên đó có vài ngọn nến, và khi những người phục vụ hát bài Chúc mừng sinh nhật, những người khách khác quay cả lại và vỗ tay thì Tracy cảm thấy mình như một công chúa. Nàng nghe thấy cả tiếng chuông xe điện từ ngoài phố vọng vào.
�� �� �� Tiếng chuông réo lên giục giã.
“Giờ ăn”, Ernestine Littlechap kêu lên.
Tracy mở choàng mắt ra. Tiếng cửa đóng mỏ rầm rầm cả khu phòng giam.
Tracy nằm nguyên trên gi.ường, cố níu kéo lấy các hình ảnh trong quá khứ.
“Này! đến giờ ăn rồi”, Lola nói.
Chỉ nghĩ tới thức ăn nàng đã thấy lợm giọng. “Tôi không đói”.
Paulita béo mập thất lên, “Này cô em. Thật đơn giản. Họ không quan tâm tới việc cô có đới hay không đâu. Tất cả phải tới phòng ăn”.
Các tù nhân đứng xếp thành hang ngoài hành lang.
“Tốt nhất là đứng dậy đi, nếu không họ sẽ quất vào mông ấy:”. Ernestine khuyến cáo.
Mình không đi nổi, Tracy nghĩ, mình sẽ ở lại đây. Các bạn tù của nàng đã rời khỏi buồng giam và đứng xếp vào hai hàng dọc.
Một nữ giám thị mập, thấp với mái tóc nhuộm vàng hoe trông thấy Tracy vẫn còn đang ở trên gi.ường. “Cô kia”, bà ta hét.” “Không nghe thấy chuông à?
Ra ngay”.
Tracy đáp lai. “Tôi không thấy đói, cảm ơn bà. Cho tôi xin phép”. Bà giám thị trố mắt ngạc nhiên, đùng đùng bước tới chỗ Tracy. “Mày nghĩ mày là cái thá gì ở đây hả?
Đợi được phục vụ tại phòng chăng? Lê đít đứng vào hàng. Tao có thể, ghi sổ mày về việc này đấy. Nếu còn lặp lại thì mày sẽ phải vào xà lim. Hiểu chưa hả?”.
Nàng không hiểu. Nàng thực không hiểu cái gì đang diễn ra nữa, gượng nhổm lên khỏi gi.ường và bước ra đứng vào hàng với đám phụ nữ. Cạnh nàng là người da đen cùng phòng. “Tại sao tôi ...?”.
“Câm đi!” Ernestine Littlechap rít qua khóe miệng.
“Không nói chuyện trong hàng”.
Họ được dẫn dọc một hành lang hẹp, ảm đạm, ngang qua hai cửa kiểm soát, tới phòng ăn lớn kê đầy những bàn ghế gỗ rồi xếp hàng tới bên một chiếc bàn dài ướt át, nơi đồ ăn đượe đưa ra. Các món ăn trong ngày thường là canh cá ngừ lõng bõng, món đậu quả sào mềm nhũn, món sữa trắng nhạt phèo và một trong hai thứ đồ ương là cà phê nhạt hoặc nước trái cây tổng hợp. Từng muỗng thức ăn được trút vào các da nhôm của tù nhân khi họ lần lượt đi ngang qua và những tù tự giác đứng phục vụ đằng sau cái bàn này thì luôn miệng kêu. “Nhanh lên nào. Tiếp theo ... Nhanh lên nào. Tiếp theo”. Sau khi lấy thức ăn, Tracy đứng ngỡ ngàng, không biết là phảĩ đi đâu. Nàng nhìn quanh tìm Ernestine Littlechap, nhưng người đàn bà da đen đã như biến mất. Tracy bước tới bên chiếc bàn mà Lola và Paulita đang ngồi ăn. Còn tới hai mươi người khác nữa cũng đang ngấu nghiến phần ăn của mình. Tracy nhìn ra thức ăn và đẩy nó ra, nàng lại lợm giọng thấy muốn ói.
Paulita với tay cầm lấy đa thức ăn của Tracy. “Nếu cô không ăn thì để cho tôi”.
Lola thì khuyên. “Này, phải ăn đi, không thì không sống nổi ở đây đâu”.
Mình không còn muốn sống, Tracy thầm tuyệt vọng.
Mình chỉ muốn chết đi. Sao những người đàn bà này lại có thể chấp nhận một cuộc sống như vậy được? Họ ở đây đã bao lâu không biết? Vài tháng rồi.
Hay vài năm? Nàng nghĩ tới cái phòng giam hôi thối và cái đệm gi.ường đầy những rận, và nàng muốn hét lên đến mức phải nghiến chặt răng để nó khỏi bật thành tiếng.
Paulita đang nói. “Nếu họ bắt gặp cô không ăn, cô sẽ phải vào xà lim”. Chị ta nhận thấy vẻ không hiểu của Tracy. “Hầm giam riêng ấy mà. Cô sẽ không thích nó đâu” Chị ta dướn người lên phía trước. Lần đầu tiên vào đây phải không? Được, tôi sẽ mách nước cho cô, cô bé. Ernestine Littlechap cầm đầu ở đây. Hãy xử đẹp với chị ta và cô sẽ có lợi đấy”.
Ba mươi phút sau kể từ lúc vào phòng ăn, một hồi chuông reo vang và họ đứng dậy cả. Paulita cố chộp lấy một trái đậu sót lại ở da bên cạnh. Tracy đứng vào hang sau chị ta và họ được dẫn trở lại các phòng giam. Bữa ăn thế là xong.
Mới bốn giờ chiều - còn những năm giờ đồng hồ dài dằng dặc trước khi phải đi ngủ.
Khi Tracy về tới phòng, Ernestine Littlechap đã ở đó. Tracy nhìn cái toa lét ở góc phòng. Nàng đã muốn dung nó quá rồi, sống chẳng thể nào làm chuyện đó trước mấy người bạn tù. Nàng sẽ đợi cho đến khi tắt đèn đã.
Ernestme Littlechap nói. “Tôi biết rằng cô đã không ăn tí gì. Thật là ngu ngốc”.
Sao chị ta lại biết nhỉ” Và sao chị ta lại quan tâm tới mình? “Làm sao để có thể gặp ông tổng giám thị?” Tracy hỏi.
“Cô viết giấy yêu cầu Bọn gác sẽ dùng nó làm giấy chùi đít. Bọn nó coi bất kỳ con mẹ nào muốn gặp” tổng giám thị đều là những kẻ gây rối”. Chị ta bước tới bên Tracy. “Ở dây có rất nhiều thứ có thể đẩy cô vào chỗ rắc rối. Cái mà cô cần là một người bạn và người đó có thể giúp cô tránh dính vào những rắc rối đó”. Chị ta mỉm cười “để lộ một chiếc răng cửa bịt vàng. Giọng chị ta mềm mại, “có người biết lối phải đi quanh một chuồng thú”.
Tracy ngước nhìn khuôn mặt nhăn nhở của người đàn bà da đen. Nó như bập bềnh đâu đó sát tận trần nhà.
Nó là một thứ gì đó cao nhất mà Tracy từng nhìn thấy.
Đó là một con hươu cao cổ, cha nàng nói.
Họ đang thăm vườn thú trong công viên Audubon. Tracy rất thích công viên nảy. Vào các chủ nhật, họ thường tới đó nghe các bạn nhạc biểu diễn và sau đó cha mẹ đưa nàng tới xem khu nuôi cá cảnh hoặc khu chuồng thú. Cả nhà đi chậm rãi, ngắm nhìn các con thú trong chuồng.
Chúng nó không ghét việc bị nhồi vậy à, bố?”.
Cha nàng cười vang.” “Không, Tracy à. Chúng có một cuộc sống tuyệt vời.
Chúng được chăm sóc và cho ăn uống, và kẻ thù của chúng thì không thể tới gần”?
Song với Tracy, trông chúng có vẻ buồn bã. Nàng chỉ muốn mở toang các cửa chuồng để chúng ra. Mình thì chẳng bao giờ muốn bị nhốt giống thế kia, Tracy thầm nghĩ.
Tám giờ 45, tiếng chuông báo reo vang cả nhà tù. Ba người cùng phòng bắt đầu cởi quần áo. Tracy vẫn ngồi yên.
Lola nói với nàng, “Chỉ có mười lăm phút cho việc chuẩn bị đi ngủ thôi đấy”.
Những người đàn bà cởi tuột váy áo và khoác váy ngủ lên người. Bà giám thị có mái tóc nhuộm vàng hoe đi ngang phòng giam và dừng lại khi trông thấy Tracy nằm trên gi.ường.
“Thay đờ ra”. Bà ta ra lệnh và quay sang Ernestine hỏi. “Chị không bảo cho cô ta biết à?”.
“Có chứ. Chúng tôi đã nói”.
Bà giám thị quay lại Tracy. “Chúng tôi có cách cư xử với những kẻ gây rối đấy”. Bà ta, cảnh cáo, “Cô làm theo lời người ta bảo, nếu không tôi sẽ quất vào mông cho xem”. Nói rồi bà ta bỏ đi.
Paulita thì thào. “Tốt nhất là nghe lời bà ta, cô bé ạ. Mụ Váy Sắt ấy là một con chó đê tiện.
Tracy chậm chạp nhỏm dậy và bắt đầu ca. Đồ, quay lưng về phía mấy người đàn bà kia! Nàng cởi tất cả váy áo” chỉ trừ cái xilip và choàng vội cái váy ngủ thô ráp qua đầu” cảm thấy những cặp mắt đang dán lên th.ân thể mình.
“Cô có tấm thân thật đẹp”, Paulita nhận xét.
“Ừ, đẹp thật”. Lola lặp lại.
Tracy cảm thấy rùng mình.
Ernestine đi tới bên và nhìn Tracy. “Chúng ta là bạn của nhau. Chúng ta sẽ chăm lo em chu đáo”. Giọng chị ta khản đặc vì bị kích động.
Tracy quay mình đi. “Hãy để tôi yên? Tất cả các chị.
Tôi ... tôi không phải kiểu đó”.
Người đàn bà da đen cười khoái trá. “Em sẽ làm theo kiểu bọn ta thích, cô bé ạ”.
“Còn thời gian. Còn rất nhiều thời gian”. Lola nói.
Ánh đèn vụt tắt.
Bóng tối là kẻ thù của Tracy. Nàng ngồi trên mép gi.ường, toàn thân căng thẳng, cảm giác rằng mấy kẻ kìa đang chờ để nhảy xổ vào nàng. Hay chỉ vì sợ quá mà nàng tưởng tượng ra như thế. Nàng thấy mệt mỏi rã rời vì dường như mọi thứ quanh nàng đều có thể là một sự đe dọa. Họ có thể đe dọa nàng không?
Chưa hẳn. Có thể là hộ chỉ muốn tỏ ra thân mật còn nàng thì đã gán cho những cử chỉ ấy những ý nghĩ xấu xa. Nàng đã được đọc về những hành động đồng tính luyến ái trong nhà tù, song cái đó chắc chỉ là hãn hữu chứ không phải phổ biến. Hành động như thế ở trong nhà tù là không được phép.
Tuy vậy, nàng vẫn bị nỗi nghi ngờ ám ảnh và quyết định sẽ thức suốt đêm.
Nếu một trong số họ có hành động gì thì nàng sẽ kêu cứu ngay và trách nhiệm của những người gác là không được để xảy ra chuyện xấu. Nàng thầm tự nhủ là chẳng có chuyện gì phải lo ngại cả nếu như tỉnh ngủ một chút.
Tracy ngồi trên gi.ường, trong bóng tối, lắng nghe mọi tiếng động. Nàng thấy ba người đàn bà lần lượt đi ra hố xí trong góc phòng rồi trở về gi.ường của họ.
Khi không thể chịu hơn nữa, Tracy gượng dậy, và lần tới đó. Rồi nàng định giật nước, song không được. Mùi hôi thối hầu như không chịu đựng nổi. Nàng vội vã trở lại gi.ường và ngồi xuống. Trời sắp sáng thôi mà, nàng thầm nghĩ. Sáng mai mình sẽ yêu cầu gặp ông tổng giám thị. Mình sẽ nói với ông ta về đứa con trong bụng. Ông ta sẽ cho mình được chuyển tới một phòng khác.
Tracy thấy quá căng thẳng và mệt mỏi. Nàng ngả lưng xuống gi.ường và chỉ vài giây sau đã cảm thấy có con gì bò qua cổ. Nàng cố gắng để khỏi hét lên vì sợ hãi. Mình phải chịu đựng tới sáng. Sáng ra mọi thứ sẽ ổn thỏa, Tracy thầm nghĩ. Cố một chút.
Ba giờ sáng, nàng không thể nào gượng lại cơn buồn ngủ, và thiếp đi.
Tracy chợt tỉnh giấc khi một bàn tay ai đó bít ngay miệng nàng, và hai bàn tay khác sờ nắn hai bầu vú. Nàng kêu lên mà không nổi, cảm thấy cái váy ngủ và đồ lót bị lột ra khỏi th.ân thể. Những bàn tay luồn vào giữa cặp đùi nàng, kéo hai chân nàng dang ra. Tracy điên cuồng đấm đạp và cố nhỏm dậy.
“Nào, hãy nhẹ nhàng”, một giọng nói thì thào, “Em sẽ không đau đớn gì”.
Tracy co chân đạp vào nơi có tiếng nói ấy. Chân nàng đụng vào ai đó ...!
“Con c ...! Quẳng nó cho chó”, giọng nói đó hổn hển.
“Kéo nó xuống sàn”.
Một quả đấm giáng vào mặt Tracy, một quả nữa vào bụng nàng. Ai đó cưỡi lên trên người nàng ghìm chặt nàng xuống sàn nhà trong lúc những bàn tay dâm đãng sục sạo trên th.ân thể nàng.
Tracy vùng ra được trong khoảnh khắc, nhưng một kẻ trong bọn kia đã túm được nàng và đập đầu nàng vào những song sắt. Nàng thấy máu ộc ra từ mũi mình. Rồi nàng lại bị ấn nằm xuống sàn bê tông, tay và chân bị giữ chặt. Tracy chống trả điên cuồng, song không thể lại với ba mụ đàn bà kia. Những bàn tay lạnh toát và những cái lưỡi nóng hổi vuốt ve trên khắp th.ân thể nàng. Hai chân nàng bị dang “rộng ra và một vật gì đó cứng và lạnh ngắt nhét vào trong nàng.
Nàng quằn quại một cách bất lực và cố la lên. Một cánh tay đang trườn qua miệng nàng và nàng cắn ngập răng vào đó bằng tất cả sức lực còn lại.
Một tiếng thét lên. “Đồ con đĩ”.
Những cú đấm giáng xuống mặt ... Nàng đau đớn quằn quại và sau cùng thì không còn cảm giác gì nữa.
Tiếng chuông reo lên đã làm nàng tỉnh lại. Nàng đang nằm trên sàn bê tông lạnh ngắt trong phòng giam, th.ân thể trần truồng. Ba người kia đang ở trên gi.ường của họ.
Ngoài hành lang, mụ váy sắt đang hò hét, “Dậy nào” Khi đi ngang qua, mụ ta nhìn thấy Tracy đang nằm trên sàn trong một vũng máu nhỏ, gương mặt trắng bệch xây xát và một mắt sưng húp.
“Quỷ quái gì thế này?” Mụ mở cửa phòng giam và bước vào.
“Chắc cô ta ngã từ trên gi.ường xuống”. Ernestine Littlechap đon đả.
Mụ giám thị bước tới bên Tracy và đá vào chân cô. “Cô này, dậy”.
Tracy thoáng nghe. Phải, nàng nghĩ, mình phải dậy, mình phải ra khỏi chốn này. Nhưng nàng không nhúc nhích nổi. Toàn thân đau đớn.
Mụ giám thị tóm lấy khuỷu tay Tracy và kéo ngồi dậy, nàng suýt ngất đi vì đau.
“Chuyện gì xảy ra hả?”.
Bằng một con mắt lành, Tracy thấy ba cái bóng lờ mờ đang lặng lẽ chờ câu trả lời của nàng.
“Tôi ... tôi”. Tracy cố nói không thành tiếng. Nàng gắng sức và một bản năng nào đó đã làm cô buột miệng. “Tôi ngã từ trên gi.ường xuống”.
Mụ giám thị cáu kỉnh. “Tao ghét cái thứ õng ẹo này. Tao sẽ cho mày vào xà lim để học lấy ít lễ độ”.
Mọi thứ như bị lãng quên, Tracy trở lại trong bụng mẹ. Một mình nàng trong bóng tối dày đặc, không có một thứ đồ đạc gì trong căn hầm tù túng này trừ một tấm đệm cũ nát trên sàn xi măng lạnh lẽo. Nơi đi cầu là một lỗ trống hôi thối ngay trên sàn nhà. Tracy nằm đó, trong bóng tối đen đặc lẩm nhẩm những bài dân ca mà cha và mẹ đã dạy từ thuở xa xưa. Nàng không hề biết rằng mình đang kề sát tình trạng mất trí.
Nàng cũng không biết rằng mình đang ở đâu, điều đó chẳng hề gì, chỉ thấy toàn thân đau nhức. Chắc là mình ngã đau, nhưng đã có mẹ chăm sóc. Nàng chợt hét lên giọng lạc đi, “Mẹ ơi ...” và khi không có ai trả lời nàng lại ngủ thiếp đi.
Nàng ngủ liền 48 giờ đồng hồ và những vết đau chỉ thấy còn nhức nhối khi tĩnh lại. Nàng mở to hai mắt. Xung quanh chẳng có gì cả. Tối đến mức thậm chí không thể nhìn thấy hình dáng căn hầm. Trí nhớ chợt ùa trở lại. Họ khiêng nàng tới chỗ lão bác sĩ. Nàng còn nghe được tiếng hắn ta:
“ ... một xương sườn và xương cổ tay gãy. Chúng tôi sẽ bó nó lại ... những vết thương và những vết bầm thật khủng khiếp song rồi nó cũng sẽ lành thôi. Cô ta đã sẩy thai ...”.
“Ôi, con tôi”. Tracy thì thầm. “Chúng đã giết con tôi rồi”.
Và nàng nức nở. Nàng khóc vì mất con. Nàng khóc cho bản thân nàng. Nàng khóc cho cả cái thế giới khủng khiếp này.
Nằm trên tấm đệm mỏng, trong màn đêm giá lạnh lòng nàng chồng chất căm hờn, toàn thân cô run lên. Những ý nghĩ trong nàng bừng lên, cháy bỏng và rồi dần dần mất hết đi, chỉ còn lại mong muốn duy nhất:
Báo thù? Song không phải báo thù mấy mụ đàn bà cùng phòng giam. Họ cũng như nàng, chỉ là nạn nhân mà thôi. Không, sẽ báo thù những thằng đàn ông đã đẩy nàng tới chốn này, những kẻ đã phá hoại đời nàng.
Joe Romano:
“Con mẹ già mày vẫn chưa nói hết. Mụ ta đã không bao giờ bảo tao rằng mụ có một đứa con gái coi bộ thật khêu gợi ...
“Joe Romano làm công cho một người tên là Anthony Orsatti. Lão Orsatti nắm cả cái New Orleans này ...
Perry Pope:
“Bằng việc nhận tội, cô sẽ giúp nhà nước tiết kiệm khoản án phí”.
Thẩm phán Henry Lawrence:
“Bởi vì trong mười lăm năm tới ngươi sẽ bị giam trong nhà tù nữNam Loisiana ...
Đó là những, kẻ thù của nàng. Và còn Charles, người thậm chí không,thèm nghe nàng nói nữa:
“Ồ Nếu em cần tiền đến thê, em phải thảo luận với tôi chứ.
.. Rõ ràng là tôi chưa bao giờ biết em cả ... Cô sẽ phải làm điều gì mà cô cho là tốt nhất đối với đứa con của cô ...”.
Nàng sẽ bắt chúng đền tội. Tất cả bọn chúng. Nàng không biết phải làm thế nào. Song nàng biết chắc là nàng sẽ trả thù được. Ngày mai, nàng thầm nghĩ, nếu còn có ngày mai.
 
Chương 7


Thời gian đã mất hết ý nghĩa của nó. Không hề có tí ánh sáng trong gian hầm, bởi vậy cũng chẳng có ngày và đêm, và Tracy không hề biết mình đã bị giam riêng thế này bao lâu rồi. Từng bữa, đồ ăn nguội lạnh được đấy vào qua một cái khe dưới cánh cửa. Tracy chán không thiết ăn nhưng tự buộc mình phảl ăn hết nhẵn khẩu phần. “Cô phải ăn, nếu không thì không sống nổi ở đây đâu”.
Giờ đây nàng đã hiểu điều đó, đã biết rõ rằng để làm được những gì dự tính thì sức khỏe là rất cần thiết. Nàng đang ở trong một hoàn cảnh mà ai cũng sẽ phải coi là vô vọng. Bị giam cầm trong mười lăm năm, không tiền bạc, không bạn bè, không gì hết. Thế nhưng có một nguồn sức mạnh tiềm tàng trong nàng.
Mình sẽ sống sót, Tracy nghĩ. Tay không đối mặt với kẻ thù, vũ khí của mình chỉ là long dũng cảm. Nàng sẽ tồn tại như tổ tiên nàng từng tồn tại. Dòng máu trong nàng là “sự pha tạp giữa dòng máu Anh, dòng máu Ireland và dòng máu Ecosse, và nàng đã thừa hưởng những gì tinh túy nhất của cha ông, trí thông minh, lòng dũng cảm và ý chí kiên cường. Tổ tiên mình đã sống sót qua những nạn đói và dịch bệnh, lũ lụt, và nàng cũng sẻ sống sót mà ra khỏi chốn tù đầy này. Tố tiên nàng, những người chăn cừu và những người thợ săn, những nông dân và những chủ hiệu, những bác sĩ và những giáo sư giờ đây như cùng sống với nàng trong căn hầm tăm tối này. Tất cả hình bóng quá khứ như đều có phần nào đó trong người nàng. Con sẽ không để ông cha phải thất vọng, Tracy thầm thì trong bóng tối.
Nàng bắt đầu có ý đồ vượt ngục.
Tracy biết rằng điều cần làm trước tiên là phải khôi phục sức khỏe. Với các bài tập khác thì căn hầm này quá tù túng, song nó đủ rộng cho môn Thái eựe quyền, môn võ thuật có lịch sử nhiều thế kỷ. Các bài tập của nó không đòi hỏi một không gian lớn và tất cả các cơ bắp trong th.ân thể đều phải được dùng tới.
Tracy đứng dậy và bắt đầu những động tác đầu tiên. Mỗi động tác đều có tên gọi riêng và có một ý nghĩa của nó. Nàng bắt đầu với thế Trừ yêu, rồi chuyển sang thế Tụ quan. Các động tác đều mềm mại, than.h thoát và được thực hiện rất chậm rãi. Mỗi động tác đều xuất phát từ sự tĩnh tâm, sự cân bằng tâm lý, và tất cả là một vòng khép kín. Nàng như nghe thấy lời ông thầy dạy võ:
Đề khí, tập trung năng lượng. Hãy khởi đầu động tác sao cho nặng như núi và rồi trở nên nhẹ như lông hồng. Tracy cảm thấy dòng khí lực tràn tới từng đầu ngón tay và nàng tập trung đến độ toàn bộ cơ thể như nhẹ lâng lâng, siêu thoát.
Phải mất một tiếng để thực hiện hết toàn bộ bài tập, và khi kết thúc thì Tracy cũng thở dốc, kiệt sức. Ngày hai lần, sáng và chiều Tracy tập luyện đều đặn và dần dần cơ thể trở nên linh hoạt và mạnh mẽ.
Khi không tập luyện thể lực, Tracy rèn luyện trí não. Nằm yên lặng trong bóng tối, nàng nhẩm làm những phép tính phức tạp, hình dung việc điều khiển chiếc máy tính tại nhà băng, ngâm lại những đoạn thơ và hồi tưởng những vai kịch đã diễn hồi ở trường đại học. Hồi ấy, khi nhận đóng một vai kịch sẽ phải nói bằng nhiều âm giọng khác nhau, nàng đã tập dượt về ngữ âm, trọng âm hang tuần lễ liền. Rồi có một đạo diễn tài năng đã tìm tới nàng và đề nghị đến Holywood đóng phim thử. Nhưng nàng đã từ chối. “Không đâu, xin cảm ơn.
Tôi không thích ánh sáng đèn pha. Đó không phải chỗ dành cho tôi”.
Đột nhiên nàng lại như nghe thấy tiếng của Charles Tin về em được đăng bằng tít lớn trên tờ báo sáng nay.
Tracy cố xua đuổi hình ảnh Charles. Giờ đây, trong đầu óc nàng có những cánh cửa phải được đóng chặt.
Nàng chỉ tập trung vào việc nghĩ xem làm thế nào để có thể thanh toán lần lượt từng kẻ thù. Nàng nhớ tới một trò chơi thời trẻ con - giơ một bàn tay lên và có thể che khuất được cả mặt trời. Đó là điều họ đã làm đối với nàng. Chúng giơ một bàn tay lên và làm hại cả cuộc đời nàng.
Tới ngày thứ bẩy, cửa căn hầm giam bật mở và ánh sáng đột ngột tràn vào làm Tracy tối sầm mắt mũi. Một người gác ở bên ngoài kêu, “Đứng dậy, cô được trở lại phòng”.
Anh ta với xuống đưa tay đỡ Tracy và đã phải ngạc nhiên - nàng đứng dậy dễ dàng và bước lên khỏi hầm giam một cách bình thường. Những người tù khác mà anh ta từng đưa ra khỏi xà lim này thì hoặc là sụp đổ hoàn toàn hoặc là câng câng thách thức, thế nhưng người tù này không thế ở nàng toát ra lòng tự trọng và vẻ tự tin - một điều xa lạ đối với nơi đây. Tracy đứng yên một lát để cho mắt quen dần với ánh sáng. Con bé trông ngon lành quá, người gác thầm nghĩ. Cho cô ta tắm rửa sạch sẽ rồi thì có thể mang đi bất kỳ đâu. Mình đánh cược rằng, cô ta sẽ làm bất kỳ điều gì để đổi lấy một chút xíu ân huệ.
Anh ta nói lớn. “Một cô gái xinh đẹp như em không ráng phải chịu cảnh thế này. Nếu ta làm bạn của nhau, tòi sẽ lo để chuyện này không bao giờ xảy đến với em nữa”.
Tracy quay lại đối mặt với anh ta và khi nhìn ánh mắt nàng, anh ta vội vã từ bỏ ý định gạ gẫm.
Người gác dẫn nàng lên tầng trên và giao lại cho một nữ giám thị.
Mụ nữ giám thị hít hít rồi kêu lên, “Lạy Chúa, cô hôi hám quá. Vào tắm đi.
Bọn ta sẽ đốt bỏ những quần áo đó”.
Dòng nước lạnh thật tuyệt vời. Tracy gội đầu và kỳ cọ với một miếng xà bông giặt.
Khi nàng lau khô người và mặc bộ đồ khác, người giám thị đã chờ sẵn. “Ông tổng giám thị muốn gặp cô”.
Lần trước khi nghe câu này, nàng đã tin răng nó mang đến cho mình tự do.
Chẳng bao giờ nàng lại còn ngây thơ như thế nữa.
Tổng giám thị Brannigan đang đứng bên cửa sổ nhìn ra ngoài thì Tracy bước vào:
Ông ta quay lại và nói. “Xin mời cô ngồi”. Tracy ngồi xuống một chiếc ghế tựa. “Mới rồi tôi đi Washington dự một hội nghị. Tôi vừa về ság nay và đã xem báo cáo về chuyện xảy ra. Lẽ ra không được glam cô vào xà lim”.
Ông ta nói.
Nàng nhìn ông ta, gương mặt thản nhiên.
Tổng giám thị nhìn xuống một tờ giấy để trên bàn. “Theo bản báo cáo này thì cô đã bị mấy tù nhân cùng buồng cưỡng dâm”.
“Thưa ngài, không”.
Ông ta gật gật đầu thông cảm. “Tôi hiểu nỗi lo sợ của cô, nhưng tôi không cho phép tù nhân điều hành nhà tù này. Tôi muốn trừng phạt những kẻ đã làm chuyện này đối với cô song tôi cần lời chứng của cô, Tôi sẽ lo liệu để cô được bảo vệ. Bây giờ, tôi muốn cô kể lại thật đúng sự việc xảy ra và ai là kẻ phải chịu trách nhiệm”.
Tracy nhìn thẳng vào mắt ông ta. Tôi ngã từ trên gi.ường xuống”.
Ông tổng giám thị chăm chú nhìn Tracy hồi lâu và nàng có thể thấy rõ vẻ thất vọng trên gương mặt ông. “Cô hoàn toàn chắc vậy chứ?”.
“Thưa ngài, vâng”.
“Cô không thay đổi ý kiến chứ?”.
“Không, thưa ngài”.
Tổng giám thị Brannigan thở dài. “Được thôi. Đó là quyền của cô. Tôi sẽ chuyển cô tới một phòng giam khác, nơi ...”.
“Tôi không muốn chuyển đi”.
Ông ta ngạc nhiên. “Có nghĩa là cô muốn trở lại cái buồng giam đó?”.
“Ô Thưa ngài vung túng. Có thể ông ta đã nghĩ nhầm về cô gái này chăng, có thể chính cô ta đã gây nên chuyện. Có trời mà biết những nữ tù nhân quỷ quái này nghĩ hay làm gì. Ông thám mong được chuyến tới một nhà giam nam không có những kẻ tâm thần, song vợ ông và Amy, đứa con gái bé bỏng của ông, lại thích ở đây. Họ sống trong một ngôi nhà đáng yêu và lại còn có những:
vườn cây xinh đẹp quanh khu đất trồng trọt của nhà tù nữ. Đối với hai mẹ con, thì họ cứ như được sống ở nơi thôn dã ấy, nhưng còn ông thì phải đương đầu với đám đàn bà điến rồ này 24 giờ đồng hồ mỗi ngày.
Ống nhìn người đàn bà trẻ ngồi trước mặt và vụng về nói, “Rất tốt. Trong tương lai thì hãy tránh dính vào những vụ rắc rối”.
“Thưa ngài, vâng!”.
Trở về buồng giam quả là một việc khó khăn nhất đối với Tracy. Vừa mới bước chân vào, nàng lập tức sợ hãi nghĩ tới chuyện đã xảy ra nơi đây. Mấy người kia đang đi làm việc. Tracy nằm xuống gi.ường, nhìn đăm đăm lên trần và toan tính. Sau cùng, nàng với xuống gầm gi.ường và nạy ra một thanh sắt, giấu nó xuống dưới đệm gi.ường mình 11 giờ, chuông báo giờ ăn trưa và Tracy là người đầu tiên đứng vào hàng.
Trong phòng ăn, Paulita và Lola ngồi ở cái bàn kề bên lối ra vào. Không hề thấy bóng Ernestine Littlechap.
Tracy chọn một bàn ăn toàn những người lạ, ngồi vào và ăn hết sạch bữa cơm vô vị. Cả buổi chiều nàng ở trong phòng giam một mình. 2 giờ 45, ba người kia mới bước vào.
Paulita ríu rít với vẻ ngạc nhiên khi trông thấy Tracy. “Cô trở lại với bọn ta à, con mèo xinh đẹp. Cô thích cái mà bọn ta làm với cô chứ?”.
“Tốt. Bọn ta sẽ lại cho em nữa”. Lola nới.
Tracy làm như không nghe thấy những lời lẽ bẩn thỉu đó Nàng chú ý tới người đàn bà da đen. Chính là vì Ernestine Littlechap mà Tracy đã trở lại buồng giam này. Tracy không tin gì chị ta. Không một phút giây nào. Nhưng nàng cần đến chị ta.
Tôi sẽ mách nước cho cô, cô bé. Ernestine Littlechap cầm đầu ở đây ...”.
Đêm tới, khi hồi chuông réo vang báo hiệu còn mười lăm phút là tới giờ tắt đèn đi ngủ, Tracy nhổm dậy và bắt đầu cởi váy áo Lần này thì không việc gì phải dè dặt vô ích nữa. Nàng trút bỏ đồ và người đàn bà Mêhico như rên lên khi được ngắm cặp Vú tròn Căng, chắc nịch, đôi chân thon dài và bộ đùi nuột nà của Tracy. Lola thì thở gấp gáp Bình thản, Tracy mặc lên người chiếc váy ngủ và ngả lưng xuống gi.ường. Ánh điện vụt tắt. Phòng giam chìm trong bóng tối.
Ba mươi phút đã trôi qua. Tracy nằm yên lặng,” lắng nghe hơi thở của ba người kia.
Tiếng Paulita thì thào vẳng sang:
“Đêm nay, ta sẽ cho em biết thế nào là tình yêu thực sự. Cởi váy ra, cô bé”.
“Bọn ta sẽ dạy cách liếm láp con mèo nhỏ chỗ đó, và em sẽ làm cho đến khi biết cách chơi”. Lola vừa nói vừa cười khúc khích.
Người đàn bà da đen vẫn chẳng hé một lời nào. Tracy đoán biết ngay khi Lola và Paulita mò mẫm tới, và nàng đã sẵn sàng. Nàng nâng thanh sắt đã giấu bên và dồn hết sức phang đúng mặt một trong hai người đàn bà. Một tiếng kêu thét đau đớn, cùng lúc, Tracy co chân đá mạnh vào bóng người kia và trông thấy ả ngã lăn xuống sàn.
“Còn lại gần tôi nữa thì chết đấy”, Tracy nói sõng.
“Đồ chó”.
Tracy lại nghe thấy tiếng bước chân họ lại gần, và nàng giơ cao thanh sắt.
Tiếng Ernestine bỗng vang lên trong bóng tối. “Thế là đủ rồi. Để con bé yên”.
“Ernie, tôi đầm đìa máu đây này. Tôi sẽ cho nó ...”.
“Làm theo lời tao”.
Im lặng. Tracy nghe thì hai người đàn bà trở lại gi.ường họ, nằm thở phì phò.
Tracy vẫn nằm yên, căng thẳng và sẵn sàng đương đầu một lần nữa.
Ernestine lên tiếng. “Khá đấy, cô bé”.
Tracy yên lặng.
“Cô đã không ton hót với lão tổng giám thị”. Ernestine cười nhẹ trong bóng tối. “Nếu làm như vậy thì giờ đây cô chỉ còn là một xác chết”:
Tracy tin điều chị ta nói.
“Sao cô không để lão chuyển qua buồng khác?”.
Thế ra chị ta đã biết cả điều đó. “Tôi muốn trở lại đây”.
“Thật hả? Để làm gì?”, giọng Emestine có vẻ ngạc nhiên.
 
Chương 8


Một nữ giám thị tôi gặp Tracy. “Whitney, có có khách tới thăm”.
Tracy ngạc nhiên. Có thể là ai được nhỉ? Và đột nhiên nàng biết. Charles.
Sau cùng thì anh ta đã đến. Song quá muộn rồi. Trong lúc nàng cần đến khủng khiếp thì anh ta đã không tới.
Hừ, mình không bao giờ cần tới anh ta nữa. Hay bất kỳ ai khác - Tracy thầm nhủ. Nàng theo người nữ giám thị tới phòng khách. Và bước vào. Một người xa lạ đang ngồi đợi trước chiếc bàn gỗ nhỏ. Và đó là người đàn ông kém hấp dẫn nhất mà Tracy từng thấy từ trước đến nay, khổ người thấp, múp míp, vẻ ái nam ái nữ, cái mũi dài và khoằm vào, và cải miệng nhỏ cay nghiệt. Trán ông ta cao và dô, còn cặp mắt nâu sẫm thì như to ra sự cặp kính dày.
Ông ta không cả”đứng dậy. “Tôi tên là Daniel Cooper. Ông tổng giám thị đã cho phép tôi được nới chuyện với cô”.
“Về việc gì?” Tracy ngờ vực hỏi.
“Tôi là nhân viên điều tra của IIPA - Hiệp hội bảo hiểm Quốc tế. Một trong số khách hàng của chúng tôi đã bảo hiểm cho bức tranh Renoir bị mất cắp tại nhà ông Joshep Romano.
Tracy thở mạnh. “Tôi không thể giúp gì ông. Tôi không đánh cắp bức họa”.
Và nàng bước ra phía cửa.
Câu nói tiếp theo của Cooper đã làm nàng dừng lại.
“Tôi biết thế”.
Tracy nhìn ông ta, thận trọng và cảnh giác.
“Không có ai đánh cắp nó cả. “ Cô đã bị lừa, cô Whitney”.
Tracy chậm chạp ngồi lại xuống ghế.
Sự tham gia của Daniel Coope vào vụ này bắt đầu từ ba tuần” lễ trước đó, khi ông ta được triệu tập tới văn phòng của sếp, Ông J.J Reynolds, tại trụ sở IIPA ở Manhattan.
“Tôi có việc cho anh đây, Dan”. Reynolds nói.
Daniel Cooper không ưa người khác gọi mình là Dan. “Tôi sẽ nói vắn tắt thôi”. Reynolds chủ bụng nói ngắn là vì rất e ngại Cooper. Thực ra thì Cooper làm cho mọị người trong cơ quan phải e ngại mình. Rất nhiều người dùng từ số mệnh để mô tả ông ta - một con người kỳ lạ. Daniel Cooper luôn luôn thu kín mình. Không ai biết ông ta sống ở đâu? Có vợ con chưa. Ông ta không hề giao tiếp với ai và không bao giờ dự các cuộc liên hoan hay họp hành ở cơ quan. Ông ta là một kẻ cô độc, và lý do duy nhất làm Reynolds dung thứ cho ông ta chỉ bởi đây là một tài năng kỳ quái. Một con cho săn dẻo dai với bộ não điện tử Một Daniel Cooper đã thu hồi số lượng tài sản mất cắp và phát hiện những vụ bịp bợm trong lĩnh vực bảo hiểm nhiều hơn của tất cả các điều tra viên khác trong cơ quan gộp lại. Reynolds chỉ còn biết thầm mong tìm ra những bí ẩn quái dị của Cooper mà thôi. Chỉ ngồi trước mặt con người này, với cặp mắt cuồng tín kia đang chăm chú nhìn mình, Reynolds đã thấy không yên lòng.
Ông ta nói. “Một trong số những công ty khách hàng của chúng ta đã bảo hiểm cho một bức họa với nửa triệu đô la và ...”.
“Bức Ronoir, New Orleans, Joe Romano. Một phụ nữ có tên Tracy Whitney bị buộc tội và đã bị kết án mười lăm năm tù. Bức họa chưa được thu hồi”.
Đồ chó đẻ? Reynolds thầm hằn học. Nếu đây là người khác thì mình đã nghĩ rằng hắn phô trương quá. “Đúng vậy” Reynolds thừa nhận vẻ, miễn cưỡng. “Ả Whitney đó đã cất giấu bức họa và chúng ta phải thu hồi nó. Hãy bắt tay vào việc đĩ”.
Cooper rời căn phòng không nói thêm lời nào. Nhìn theo ông ta, J.J.
Reynolds nghĩ thầm “và không phải đây là lần đầu tiên - có ngày mình sẽ tìm ra cách buộc hắn phải bộc lộ chân tướng.
Cooper đi ngang qua các phòng, tới năm chục nhân viên đang lập chương trình cho máy tính, đánh máy các báo cáo, trả lời điện thoại ... Một sự ồn ào rối loạn.
Khi Cooper đi ngang qua một bàn làm việc, ai đó cất tiếng. “Tôi nghe ông ngậm vụ Romano phải không” Thật may nhé. New Orleans thì ... Cooper bước qua không hề đáp lại Sao bọn họ không để cho mình được yên nghỉ? Đó là tất cả những gì Cooper đòi hỏi ở người khác, thế nhưng họ cứ luôn quấy rầy ông ta bằng những cử chỉ ồn ào của họ.
Cooper thậm chí đã trở thành đề tài của các câu chuyện phiếm. Họ quyết tâm khám phá những gì có đằng sau thái độ lạnh lùng đó và tìm xem con người thật của ông ta ra sao.
“Có rảnh rang để đi ăn chiều thứ sáu này không, Dan ...?”.
“Nếu anh chưa vợ, tôi xin giới thiệu một cô gái tuyệt diệu, Dan ạ ....”.
Chẳng nhẽ bọn họ không hiểu là Cooper không cần bất kỳ ai trong số họ, không thiết một ai?
“Nào đi, uống một chút thôi mà ...”.
Nhưng Daniel Cooper biết điều đó có thể dẫn tới những gì. Một ly rượu vô tình hoàn toàn có thể dẫn tới một bữa ăn chiều, và một bữa ăn chiều có thể dẫn tới một quan hệ nào đó, thế rồi mới quan hệ đó có thể dẫn tới lòng tin. Quá nguy hiểm.
Daniel Cooper sống trong nỗi lo sợ ghê gớm rằng một ngày nào đó, một ai đó sẽ biết về quá khứ ông ta. Hãy đào sâu chôn chặt quá khứ - đó chỉ là một lời dối trá. Quá khứ chẳng bao giờ chịu bị chôn vùi. Cứ vài ba năm, một thứ tài liệu nào đó lại chui ra một vụ bê bối cũ và thế là Daniel Cooper lại sẽ biến đâu mất dăm ba ngày. Chỉ có những lúc như thế, ông ta mới uống tới say, một mình.
Nếu như Daniel Cooper bộc lộ các tình cảm của mình thì có thể làm cho một bác sĩ tâm lý phát điên lên, thế nhưng không bao giờ ông ta cho phép mình nói về quá khứ với bất kỳ ai. Bằng chứng duy nhất mà ông ta còn giữ từ cái ngày kinh khủng xa xưa đó là một bài báo cắt rời đã ngả màu vàng ố - được cất kín trong phòng, mà không ai có thể tìm thấy được. Từng thời gian, Cooper lại nhìn vào nó, xem đó như một sự tự trừng phạt, chứ còn từng dấu chấm, dấu phẩy trong bài báo này thì luôn luôn hiện rõ nét trong đầu óc ông ta.
Ông ta tắm bằng vòi hoa sen hoặc trong bồn ít nhất là ba lần một ngày, vậy mà không bao giờ có được cảm giác sạeh sẽ. Ông ta tin chắc rằng sự cứu rỗi duy nhất trên đời này là ăn năn chuộc tội. Ông ta đã tìm cách xin vào làm việc trong lực lượng cảnh sát New York và khi bị từ chối vì thiếu mất mười phân chiều cao, ông ta đã trở thành thám tử tư Ông ta tự coi mình là người đi săn, săn đuổi những kẻ vi phạm luật pháp. Ông ta là sự phẫn nộ của Chúa giáng xương đầu chúng. Và đó là cách duy nhất để ông ta chuộc lỗi cho quá khứ và dọn mình cho sự vĩnh hằng.
Ông ta đắn đo không biết liệu còn có đủ thì giờ tắm một chút trước khi ra phi trường hay không.
Nơi dừng chân đầu tiên của Daniel Cooper là New Orleans. Ông ta ở lại thành phố năm ngày và trước khi hết năm ngày đó, ông ta đã biết tất cả những điều cần thiết về Joe Romano, Anthony Orsatti, Perry Pope và thẩm phán Hẹnry Lawrence. Cooper đã đọc kỹ tài liệu về phiên tòa xử vụ Tracy Whitney. Ông ta cũng đã phỏng vấn trung úy Miller và biết về vụ tự sát của bà Doris Whitney.
Ông ta cũng đã trò chuyện với Otto Schmidt và biết công ty Whitney đã bị phá sản như thế nào. Trong tất cả những cuộc gặp đó, Daniel Cooper không hề ghi chép gì thế nhưng vẫn có thể trích lại nguyên văn từng câu nói. Ông ta chắc tới phần trăm rằng Tracy Whitney vô tội, song đối với ông ta thì đó là những chuyện kỳ quặc không thể tưởng tượng được. Ông ta bay đi Philadelphia để gặp Claremce Desmond, phó chủ tịch nhà băng nơi Tracy đã làm việc. Còn Charles Stanhope III thì đã khước từ việc gặp ông ta.
Giờ đây, khi nhìn người đàn bà ngồi trước mặt, Cooper tin tưởng trăm phần trăm rằng cô ta không hề liên quan gì tới vụ mất cắp bức họa cả. Ông ta đã có thể viết báo cáo được rồi.
“.Romano đã lừa cô, cô Whitney. Sớm hay muộn, hắn ta cũng đòi khoản tiền bảo hiểm cho việc mất cắp bức họa. Cô đã vô tình xuất hiện đúng thời điểm làm cho điều đó trở nên dễ dàng với hắn ta hơn”.
Tracy thấy tim mình đập dồn. Người này biết rằng nàng vô tội. Có thể ông ấy đủ bằng chứng để chống lại Joe Romano và bênh vực cho nàng. Ông ấy sẽ nói với ông tổng giám thị hoặc với ngài thống đốc, và đưa nàng ra khỏi cơn ác mộng này. Đột nhiên nàng thấy như nghẹt thở “Vậy ông giúp tôi chứ?”.
Daniel Cooper ngạc nhiên. “Giúp cô?”.
“Vâng. Yêu cầu một sự ân xá haỵ ....”.
Lời ông ta như một cú đánh giáng xuống Tracy. “Không”.
“Nhưng vì sao? Nếu như ông biết tôi vô tội”.
Sao người ta lại ngu ngốc đến thế nhỉ? “Công việc của tôi đã kết thúc”.
Khi trở lại căn phòng khách sạn của mình, việc đầu tiên mà Cooper làm là cởi đồ và bước vào buồng tắm. Ông ta kỳ cọ từ đầu đến chân, và để những tia nước nóng xối xuống người suốt gần nửa giờ đồng hồ. Sau khi lau khô người và mặc quần áo, ông ta ngồi xuống và viết báo cáo.
Gứi: JReynolds Hồ sơ số Y-72-7830-412
Người gửi:
Daniel Cooper.
Trích yếu:
Hai người đàn bà trong tiệm cà phê Hoa Hồng.
Renoir - Dầu trên vải.
Kết luận của tôi là Tracy Whitney không hề liên quan tới vụ mất cắp bức họa nói trên, Tôi tin rằng Joe Romano đã lợi dụng chính sách bảo hiểm để bán lại bức họa cho một tư nhân, và vào thời điểm này thì bức họa có thể đã bị đưa ra nước ngoài. Vì rằng bức họa quá nổi tiếng, tôi cho rằng nó sẽ xuất hiện ở Thụy sĩ, quốc gia có đạo luật bảo hộ và cho phép sự mua bán trao tay. Nếu một người mua trổ tay một tác phẩm nghệ thuật, chính phủ Thụy Sĩ cho phép anh ta được giữ nó, cho dù nó có là của ăn cắp.
Đề xuất:
Vì rằng không có bằng chứng cụ thể về tội lỗi của Romano, khách hàng của ta sẽ phải trả tiền cho ông ta theo đúng chính sách. Hơn nữa, trông vào Tracy để thu hồí bức họa hoặc bù đắp các thiệt hại là điều vô ích, bởi lẽ cô ta không biết gì vè bức họa và không hề có tài sản gì cả. Ngoài ra, cô ta sẽ bị giam giữ tại nhà tù nữ Nam Louisiana trong mười lăm năm tới.
Daniel Cooper dừng lại một chút để nghĩ về Tracy Whitney. Ông ta cho rằng những người đàn ông khác sẽ đánh giá cô ta là rất đẹp. Ông ta băn khoăn, mặc dù không mấy quan tâm, liệu mười lăm năm tù sẽ làm cô thay đổi đến thế nào.
Điều đó chẳng hề liên quan gì đến ông ta cả.
Daniel Conper ký tên dưới bản báo cáo và lại đắn đo không biết có còn đủ thời gian để tắm một lần nữa hay không.
 
Chương 9


Mụ Váy Sắt đã phân Tracy tới lao động ở phòng giặt. Một trong số ba mươi lăm công việc tồi tệ nhất. Gian phòng lớn, nóng ngột ngạt chứa đầy những máy giặt và những bàn để là quần áo, và những đống quần áo, vải vóc phải giặt thì dường như vô tận. Việc cho đồ phải giặt vào máy, lấy đồ đã giặt ra, khiêng những sọt đồ vừa giặt xong tới khu sấy ủi là một công việc tẻ ngắt và đau gãy cả lưng.
Họ phải làm việc bắt đầu từ sáu giờ sáng và cứ hai giờ tù nhân mới được nghỉ mười phút. Tới cuối chín giờ làm việc trong ngày, hầu hết các tù nhân muốn sụm xuống vì kiệt sức. Tracy bắt tay vào việc như một cái máy, không hề nói chuyện với ai, đắm chìm trong suy tư.
Khi Ernestine Littlechap nghe về việc phân công của Tracy, chị ta nhận xét.
“Mụ Váy Sắt quất vào mông cô đấy”. Tracy đáp. :”Chẳng hề gì”.
Ernestine Littlechap đã phải ngạc nhiên. Đây là người đàn bà khác hẳn với cô gái trẻ đầy sợ hãi mà người ta tống vào đây ba tuần lễ trước. Có điều gì đó làm cô ta thay đổi và Ernestlne Littlechap tò mò muốn biết.
Vào ngày làm việc thứ tám của Tracy ở khu giặt, một người gác tới gặp nàng lúc đầu giờ chiều và nói, “Tôi được lệnh chuyển chỗ làm việc cho cô. Cô được điều tới làm ở nhà bếp”. Trong nhà tù này thì đây là chỗ làm việc đáng thèm muốn nhất.
Có hai chế độ ăn trong nhà tù này:
Tù nhân thì ăn món thịt băm tồi tệ, hoặc một thứ thịt hầm không nuốt nổi, trong khi bữa ăn của những cai ngục và đám viên chức khác thì do các đầu bếp chuyên nghiệp nấu nướng. Bữa ăn của họ thường có cá tươi, sườn,” gà, rau tươi và trái cây, cùng những món ăn tráng miệng ngon lành khác nữa. Những tù nhân làm việc trong bếp thì có thể tới gần những thứ đồ ăn đó và họ không để lỡ cơ hội nào.
Khi Tracy tới trình diện tại nhà bếp, chừng mực nào đó nàng đã không ngạc nhiên khi thấy Ernestine Littlechap ở đó.
Tracy lại gần chị ta. “Cảm ơn chị”. Nàng cố lấy giọng thân thiện.
Ernestine lẩm bẩm nhưng không nói gì.
“Làm thế nào chị giúp tôi qua mặt Mụ Váy Sắt thế”.
“Mụ ta không còn ở với chúng ta nữa”.
“Cái gì đã xảy ra với mụ ta?”.
“Chúng ta có một bộ máy nhỏ. Nếu một người nào cứng quá và bắt đầu hành hạ chúng ta quá, ta sẽ đốt bỏ họ”.
“Nghĩa là ông tổng giám thị nghe theo”.
“Xì Tổng giám thị thì liên quan gì?”.
“Vậy làm sao chị có thể?”.
“Dễ thôi. Khi đến phiên trực của người gác mà ta muốn tống khứ, mọi chuyện sẽ bắt đầu. Những lời phàn nàn xuất hiện - một tờ trình của tù nhân nào đó báo cáo rằng Mụ Váy Sắt đã sờ con mèo nhỏ của cô ta. Ngày tiếp theo một người khác cáo giác mụ ta man rợ. Rồi ai đó phàn nàn rằng mụ ta lấy gì đó - chẳng hạn như một cái máy thu thanh - khỏi phòng cô ta, và tất nhiên là nó sẽ xuất hiện trong phòng Mụ Váy Sắt. Thế là mụ ta ra đi, không phải do đám gác tù điều hành ở đây mà là do chúng ta.
“Vì sao mà chị bị bắt vào đây?” Tracy hỏi. Nàng không quan tâm tới câu trả lời. Điều quan trọng là tạo lập một quan hệ tốt với người đàn bà này.
“Cô có thể tin rằng Ernestine Littlechap này không phạm lỗl lầm gì. Tôi có một đám các cô gái làm việc cho mình”.
Tracy nhìn chị ta. “Nghĩa là ...”, nàng dè dặt.
“Gái làm tiền?” Chị ta cười lớn. “Không. Chúng nó làm việc như những cô hầu gái trong các nhà giàu. Tôi đứng ra” ở một hãng kiếm việc. Tôi có ít nhất hai mươi cô. Bọn nhà giàu thì rất vất vả trong việc tìm thuê các cô gái hầu. Tôi đăng quảng cáo trên những tờ báo ăn khách nhất và khi họ liên lạc với tôi thì tôi gài các cô gái của mình vào. Họ sẽ tìm hiểu ngôi nhà, và khi những người chủ của họ đang đi làm hoặc đi vắng khỏi thành phố, bọn chúng sẽ vơ tất cả đồ đạc”.
nữ trang, áo lông và mọi thứ gì có giá rồi chuồn”. Ernestine thở dài. “Cô sẽ không thể nào tin là bọn ta kiếm một khoản tiền” khổng lồ đến thế nào lại khỏi thuế má gì”.
“Làm sao chị bị bắt?”.
“Đó là bàn tay của số mệnh cô bé ạ. Một trong số những cô hầu gái của tôi phục vụ một bữa tiệc tại nhà viên thị trưởng, và trong đám thực khách có một bà lớn mà cô hầu này đã từng chơi cho một vố. Khi bị cảnh sát nện cho một trận, cô ả bắt đầu phun ra toàn bộ hoạt động và Ernestine tội nghiệp đã ở đây”.
Chỉ có riêng họ đang đứng với nhau bên chiếc bếp lò. Tracy thì thầm. “Tôi không thể ở được. Tôi có chút việc ở bên ngoài. Chị sẽ giúp tôi vượt ngục chứ?
Tôị.:”.
“Thái dành đi. Chúng ta sẽ ăn món thịt hầm Ireland tối nay”.
Và chị ta bỏ đi.
Hệ thống thông tin của đám nữ tù này thật phi thường. “Tù nhân biết trước rất lâu những gì sắp xảy ra. Những tù nhân, được gọi là chuột cống, nhặt những báo cáo vứt bỏ trong đám giấy lộn, nghe trộm điện thoại, đọc thư từ của tổng giám thị, và tất cả các tin tức được cân nhắc kỹ càng và chuyển tới những tù nhân được “coi là quan trọng. Đứng đầu số này là Ernestine Littlechap. Tracy biết rõ chị ta có ảnh hưởng thế nào tới đám coi tù và khi những tù nhân khác cho rằng Ernestine đã trở thành người bảo hộ cho Tracy thì nàng hoàn toàn được yên ổn. Tracy ngong ngóng đợi Ernestine có những biểu hiện gần gũi với nàng, thế nhưng người đàn bà da đen cao lớn ấy lại giữ một khoảng cách. Vì sao? Tracy băn khoăn.
Điều khoản số 7 trong nội quy chính thức của nhà tù phổ biến cho tù nhân quy định:
Nghiêm cấm mọi hành vi tinh đục. Một buồng giam sẽ chứa không quá bốn tù nhân. Vào một thời điểm bất kỳ, không được phép có hơn một tù nhân nằm trên một chiếc gi.ường.
Thực tế trái ngược lại một “cách khủng khiếp đến nỗi những người tù gọi bản nội quy đó là cuốn Truyện cười. Từng tuần lễ trôi qua, ngày ngày Tracy lại thấy những tù nhân mới - đám tù nhân ở đây gọi là cá - được đưa tới, và khung cảnh mọi thứ không có gì thay đổi. Những người phạm tội lần đầu và bình thường về t.ình d.ục thì thật đáng buồn. Họ đến, đều nhút nhát và sợ hãi, và những eon sói cái đã đợi sẵn. Tấn kịch diễn ra theo nhiều bước đã định. Trong một môi trường thù ầịch đầy đe dọa, con sói cái tỏ ra thân thiện và thông cảm. Ả sẽ rủ nạn nhân của ả đi tới phòng giải trí, nơi họ cùng ngồi coi ti vi, và khi con sói cái cầm tay cô ta thì cô ta sẽ để yên vì sợ làm mích lòng người bạn duy nhất.
Cô tù nhân mới nhanh chóng thấy là các tù nhân khác bỏ cô ta một mình, và với sự lệ thuộc vào con sói cái tăng lên, những ve vuốt cũng tăng lên, cho tới khi cô ta sẵn lòng làm bất cứ điều gì cất để bám giữ người bạn duy nhất của mình.
Những ai không chịu khuất phục thì sẽ bị cưỡng dâm. Chín mươi phần trăm nữ tù đã bị xô đẩy vào những hành vi đồng tính luyến ái - tự nguyện hoặc miễn cưỡng – trong vòng ba mươi ngày đầu tiên. Thật khủng khiếp.
“Sao nhà chức trách lại để xảy ra chuyện như vậy được?” Nàng hỏi Ernestine.
“Chính do cái cơ chế này, và ở nhà tù nào cũng vậy, cô bé ạ”, Ernestine giải thích. “Không thể nào chia cắt một nghìn hai trăm người phụ nữ khỏi những người đàn ông của họ mà lại trông chờ rằng họ không cưỡng dâm ai đó. Bọn ta không chỉ cưỡng hiếp vì t.ình d.ục. Bọn ta cưỡng hiếp còn vì quyền lực. Để cho chúng nó biết ai là bề trên. Một con cá mới lạc vào đây là mục tiêu cho mọi kẻ muốn cưỡng hiếp tập thể. Sự bảo hộ duy nhất có thể là phải trở thành vợ của một con sói cái. Như vậy thì sẽ không ai quấy rầy gì nữa”.
Tracy có lý do để tin rằng nàng đang nghe một chuyên gia về lĩnh vực này.
“Và không chỉ có tù nhân”. Ernestine tiếp tục. “Bọn cai tù cũng quá thể nữa.
Nếu có một súc thịt tươi nào dẫn xác vào đây mà lại nghiền ma túy, dĩ nhiên là cô ta thấy căng thẳng và thật sự thèm khát. Cô ta sẽ vật vã và rời” rã. Được thôi, một nữ giám thị có thể tuồn hêrôin vào cho cô ta, song phải được đổi lại một chút ân ái, hiểu chưa” Dĩ nhiên là con cá kia phải chịu. Đám cai ngục đàn ông thì còn tệ hại hơn. Chúng có chìa khóa các buồng giam và tất cả những gì mà chúng phải lâm chỉ là mò vào lúc ban đêm và thỏa mãn nhục dục với những con mèo xinh đẹp mà không phải mất gì. Chúng có thể làm ta có thai, song chúng lại có thể mang tới nhiều món lợi. Cô muốn một thanh kẹo hoặc muốn bạn trai mình được phép đến thăm, chiều lòng bọn nó một chút, vậy thôi. Đó là một sự đổi chác và nó diễn ra ở tất cả các nhà tù trong nước”.
“Thật kinh khủng”.
“Đó là sự sống còn”. Ánh đèn từ trần buồng giam tỏa sáng trên cái đầu trọc của Ernestine. “Cô có biết vì sao họ không cho phép nhai kẹo cao su ở đây không?”.
“Không”.
“Bởi vì ta sẽ dùng nó nhét vào lỗ khóa trên các cánh cửa do vậy nó không bị khóa chặt, và vào ban đêm ta chuồn ra thăm viếng nhau. Bọn ta tuân thủ những quy định mà bọn ta muốn, chỉ có thế thô!”.
Sau những bức tường nhà giam, các trò tình ái vẫn diễn ra ở mọi nơi, và sự thỏa thuận giữa những người tình thì thậm chí còn có hiệu lực hơn cả ở ngoài đời. Trong một thế giới phi tự nhiên, các nữ tù nhân tự quy định và thực hiện các vai trò giả định cho những người làm chồng, những người làm vợ. Những kẻ làm chồng nhận lãnh vai trò của người đàn ông trong một thế giới không có đàn ông. Họ thay đổi tên gọi. Ernestine được gọi là Ernie, Tessie là Tex, Barbara trở thành Bob Katherine là Kell. Những kẻ làm chồng cắt tóc ngắn đi hoặc cạo trọc, và không làm những việc lặt vặt. Tiểu thư Mary người làm vợ, thì làm những việc quét dọn, khâu vá và là ủi cho người làm chồng cô ta. Lola và Pàul1ta thường tranh giành quyết liệt sự chú ý của Ernestine, người này muốn loại bỏ người kia.
Sự ghen tuông rất ghê gớm và đôi khi dẫn đến ẩu đả. Nếu người làm vợ bị bắt gặp nhìn ngắm một kẻ làm chồng khác hoặc nói chuyện với kẻ đó ở ngoài sân chơi, thì nỗi bực dọc sẽ bùng lêạ. Những lá thư tình được trao quanh nhà tù thông qua đám tù tự giác - được gọi là chuột cống.
Những lá thư này thường gấp lại thành một hình tam giác nhỏ, gọi là những cánh diều, để dễ dàng giấu vào trong nịt vú hoặc trong giầy. Tracy đã thấy cánh diều được chuyền nhau giữa những người đàn bà khi họ đi sát bên nhau vào phòng ăn hay trên đường đường đi làm.
Lâu lâu, Tracy lại thấy những nữ tù nhân phải lòng cai ngục. Đó là thứ tình yêu sinh ra từ sự tuyệt vọng, bất lực và khuất phục. Những nữ tù nhân lệ thuộc tất cả vào đám gác ngục:
đồ ăn uống, các quyền lợi và đôi khi cả mạng sống của họ. Tracy không cho phép mình được có cảm tình với bất kỳ ai trong tù.
Chuyện t.ình d.ục diễn ra cả ngày lẫn đêm trong phòng tắm, trong các toa let, trong các buồng giam và về đêm thì còn có cả các động tác làm tình bằng miệng qua các song sắt nữa. Các tiểu thư Mary của những người gác ngục thì được cho ra khỏi các buồng giam vào ban đêm để tới khu ở của họ.
Sau khi đèn tắt, Tracy thường nằm trên gi.ường và dùng tay bịt hai tai lại để khỏi nghe thấy những tiếng rên rỉ, gào thét dâm đãng.
Một đêm Ernestine lôi từ gầm gi.ường”ra một hộp gạo sấy và tung gạo ra lối đi bên ngoài phòng giam. Tracy nghe thấy các tù nhân khác cũng làm như vậy.
“Chuyện gì thế” Tracy hỏi.
Ernestine quay lại và đáp cộc cằn. “Không việc gì đến mày. Cứ nằm yên mẹ nó đi”.
Ít phút sau, một tiếng la khủng khiếp vang lên từ - buồng giam gần đó, nơi có một nữ tù nhân mới. “Ôi lạy Chúa, không. Đừng! Xin để tôi yên!”.
Tracy hiểu ngay chuyện gì đang xảy ra và cảm thấy ghê tởm. Tiếng kêu la cứ dai dẳng, mãi cho tới khi nó chỉ còn là những tiếng thổn thức bất lực, đứt quãng.
Sao những phụ nữ này lại có thể làm như thế đối với nhau nhỉ? Nàng những tưởng rằng nhà tù đã làm mình trở nên chai sạn, thế mà sáng dậy, khuôn mặt nàng vẫn đầy những vệt nước mắt đã khô.
Nàng quyết không để lộ tình cảm của mình trước Ernestine, bình thản hỏi, “Cái thứ gạo sấy đó là thế nào?”.
“Đó là hệ thống báo động của bọn ta. Ta có thể nghe thấy nếu như bọn cai ngục muốn lẻn đến chộp quả tang”.
Tracy nhanh chóng hiểu ra vì sao bọn tội phạm gọi một hạn tù là “đi học đại học”. Chế độ nhà tù là một sự giáo dục, song cái mà tù nhân học thì toàn là những thứ tồi tệ.
Nhà tù đầy ắp các chuyên gia của mọi lãnh vực tội lỗi. Họ trao đổi các phương cách trộm cắp khác nhau, trò mồi chài quyến rũ, tm tức về đám trộm cắp vặt và các cảnh sát chìm.
Một buổi sáng, trong sân chơi, Tracy đã nghe:
một nữ tù lớn tuổi giảng giải trò móc túi cho đám trẻ hơn.
“Bọn chuyên nghiệp vốn từ Colombia tới. ở Bogota chúng mở một trường dạy nghề, gọi là trường:
mười quả chuông. Phải trả hai trăm năm mươi đô la để trở thành một kẻ móc túi chuyên nghiệp. Chúng treo một hình nằm trên trần nhà, khoác lên đó một bộ đồ có mười cái túi đầy ắp tiền và đồ kim hoàn”.
“Vậy là thế nào?”.
“Điều cốt lõi là trong mỗi túi đều có một quả chuông.
Sẽ không được ra trường cho” đến chừng nào bọn này có thể vết nhẵn cả mười cái túi quỷ quái đó mà không làm chuông kêu”.
Lola tiếc rẻ, “Tao đã từng cặp với một thằng đi qua cả đám đông, mình khoác áo choàng với cả hai tay để khơi khơi ra thế mà vẫn móc được túi của tất cả mọi người!”.
“Hắn làm thế quái nào vậy?”.
“Cái tay bên phải chỉ là tay giả. Hắn ta luồn tay thật qua một cái khe trên áo rồi hành sự”.
Sự giảng dạy này tiếp tục trong phòng giải trí.
“Tao thích trò chơi chìa khóa rởm” một kẻ lọc lõi nói. “Đi vòng vòng trong gạ xe lửa cho tới khi một bà già nhỏ bé đang cố nâng va li, hay một bọc gì lớn để cho vào ngăn đựng đồ công cộng. Mày giúp bà ta một tay rồi cầm chìa khóa đưa cho bà ta. Chỉ có điều cái chìa khóa đó là của một ngăn rỗng không nào đó.
Khi bà ta đi khỏi, vét sạch và chuồn”.
Một bữa khác, ở ngoài sân, hai tù nhân bị kết tội đĩ điếm và tàng trữ ma túy đang nói chuyện với tù nhân mới, một cô gái xinh xắn không quá mười bảy tuổi.
“Mày bị tóm là đảng rồi, cô em”. Một tù cũ nói. “Trước khi ngã giá với một thằng cha nào đó mày phải rờ xem nó có mang súng không, và đừng bao giờ nói là mày sẽ cho nó những gì. Hãy để tự nó nói muốn gì. Rồi nếu hóa ra nó là cớm, thì đó là việc mày bị bẫy thôi, hiểu chưa?”.
Kẻ kia thêm vào, “Đúng. Và luôn phải nhìn tay bọn nó, một thằng bịp nào đó nhận nó là công nhân, xem xem tay nó có thô ráp không. Đó là một mẹo đấy.
Khối thằng cớm chìm mặc đồ bảo hộ lao động, song tay bọn nó thì lại mềm mại thư sinh”.
Thời gian lặng lẽ trôi, không nhanh mà cũng chẳng chậm. Nó thật là đơn điệu. Tracy chợt nghĩ tới lời thánh Augustine:
“Thời gian là gì? Nếu có ai hỏi ta, ta biết. Nhưng nếu phải giải thích, ta không biết!.”.
Thời gian biểu trong tù không bao giờ thay đổi:
giờ 30:
Chuông báo thức.
giờ 45:
Dậy, mặc quần áo.
giờ 00:
Ăn điểm tâm.
giờ 30:
Trở lại buồng giam.
giờ 55:
Chuông báo.
giờ 00:
Xếp hàng đi làm giờ 00:
Tập trung ngoài sân tập.
giờ 30:
Ăn trưa.
giờ 00:
Xếp hàng đi làm.
giờ 30:
Ăn chiều.
giờ 00:
Trở lại buồng giam.
giờ 00:
Tới phòng giải trí.
giờ 00:
Trở lại phòng giam.
giờ 45:
Chuông báo.
l giờ 00:
Đèn tắt.
Các quy định là bất di bất dịch. Tất cả tù nhân phải tới nhà ăn và không được phép nói chuyện trong hàng.
Trong phòng giam không được có quá năm thứ mỹ phẩm. gi.ường đệm phải được dọn gọn ghẽ trước giờ ăn sáng, và phải được giữ ngay ngắn suốt cả ngày.
Nhà tù này có một thứ âm nhạc của riêng nó, tiếng chuông réo, tiếng chân nện trên nền xi măng, tiếng cửa sắt đóng mở rầm rầm, tiếng thì thầm ban ngày và tiếng la thét ban đêm ... tiếng xè xè của máy bộ đàm cá nhân của đám cai ngục, tiếng va chạm của những khay đồ ăn, lại còn luôn luôn có những dây thép gai, những bức tường cao, sự trống trải, cô độc và lòng hận thù cháy bỏng.
Tracy đã trở thành một tù nhân kiểu mẫu. Cơ thể nàng thích ứng một cách tự động với các tín hiệu thường lệ của nhà tù:
Giờ điểm danh, giờ ngủ dậy, giờ đi làm và chuông báo hết giờ lao động.
Thể xác Tracy ở trong tù, còn đầu óc nàng thì tự do mưu tính việc chạy trốn.
Tù nhân không được phép gọi điện thoại, chỉ được phép nhận từ ngoài vào, hai lần một tháng, mỗi lần năm phút.
Có một lần, Otto-Schmidt gọi cho Tracy.
“Tôi nghĩ là cô muốn được biết”, bác ta ấp úng. “Đó là một đám tang thực trọng thể. Tôi đã thanh toán mọi phí tổn, thưa cô Tracy”.
“Cảm ơn bác, bác Otto. Tôi ... cảm ơn bác”. Chẳng ai còn biết nói gì thêm.
Không còn ai gọi điện cho nàng nữa, kể từ đó.
“Cô em, tốt nhất là hãy quên thế giới bên ngoài đi”.
Ernestine nhắc nhở nàng. “Ngoài đó không có ai cho cơ đâu”.
Chị nhầm rồi, Tracy thầm nghĩ.
“Joe Romano.”.
“Perry Pope.”.
Thẩm phán Henry Lawrence.
Anthony Orsatti.
Charles Stanhope III.
Tracy đã chạm trán với Bertha Lớn trong sân tập thể dục. Đó là một cái sân lớn hình chữ nhật, một bên là bức tường ngoài của nhà tù và bên này là bức tường trong. Mỗi sáng, tù nhân được phép ra sân tập trong vòng ba mươi phút.
Đây là một trong những nơi được phép chuyện trò, và từng đám tù nhân tụ tập trao đổi những tin tức mới nhất và những lời đồn đại trước khi đi ăn trưa. Lần đầu tiên khi ra sân này Tracy đột nhiên có cảm giác tự do, và nhận ra rằng đó là vì mình đang được ở ngoài trời.
Nàng có thể nhìn thấy mặt trời, tít trên cao, những đám mây bồng bềnh, và xa xôi đâu đó trên bầu trời xanh ngắt vẳng, nghe tiếng động cơ máy bay, rộn lên những mơ ước.
“Á, tìm cô em mãi”, một giọng nói vang lên.
Tracy quay lại và thấy người đàn bà Thụy Điển to lớn đã đâm sầm vào nàng ngày đầu tới đây.
“Nghe nói cô em đã kiếm cho mình con sói cái nhọ”.
Tracy nhón chân định bỏ đi. Bertha Lớn tóm lấy.
“Không kẻ nào dám ngoảnh mặt với ta”, mụ thốt lên. “Hãy ngoan ngoãn, quả bóng nhỏ”. Mụ đẩy Tracy vào sát tường, ép chặt tấm thân hộ pháp lên nàng.
“Buông tôi ra”.
“Cái mà cô em cần là một chút liếm láp ra trò. Hiểu không? Tôi sẽ cho em cái đó. Em sẽ là của tôi, cô bé ạ”.
Một giọng nói quen thuộc từ phía sau Tracy gay gắt cất lên, “Buông mẹ tay ra khỏi nó, đồ cứt”.
Ernestine Littlechap đã đứng đó, tay nắm chặt, mắt long sòng sọc, cái đầu cạo trọc bóng lên dưới ánh nắng.
“Mày không đủ đàn ông cho nó, Ernie”.
“Tao đủ đàn ông cả đối với mày”. Người đàn bà da đen quát lên. “Mày còn động tới nó thì tao sẽ rán miếng mông mày để ăn sáng cho xem”.
Không khí lắng xuống, căng thẳng. Hai người đàn bà tướng đàn ông gườm gườm nhau. Họ sẽ giết nhau vì mình mất, Tracy nghĩ. Vậ chợt thấy chuyện đó chẳng liên quan gì mấy tới nàng. Ernestine chả đã nói. “ở nơi này phải đấu đá, cưỡng hiếp hoặc đánh lộn. Một là sống, hai là chết”.
Bertha Lớn phải chịu lép. Mụ nhìn Ernestine đầy khinh bỉ. “Tao chẳng vội gì”. Rồi liếc nhìn Tracy, “Cô em còn ở đây lâu, cô bé. Tao cũng vậy, sẽ tìm cô em sau”. Mụ bỏ đi.
Ernestine nhìn theo. “Con mẹ đốn mạt. Cô nhớ mụ y tá ở Chicago, giết tất cả các bệnh nhân không” Tiêm Xiamit cho họ rồi chờ xem họ chết? Hừ, con mẹ đức hạnh ấy đang nóng lên vì cô đấy, Whitney. Xì! Cô cần có người bảo vệ. Nó chưa chịu buông tha cô đâu”.
“Chị sẽ giúp tôi vượt ngược chứ?”.
Có tiếng chuông reo.
“Đến giờ ăn rồi”. Ernestine Littlechap nói.
Đêm đó, nằm trên gi.ường, Tracy nghĩ mãi về Emestme.
Dù rằng chị ta chẳng còn ý sờ mó nữa, nàng vẫn không tin đượe. Nàng không thể quên việc mà Ernestine và hai người đàn bà kia đã làm đối với mình.
Nhưng nàng cần người đàn bà da đen này.
Mỗi buổi chiều, sau bữa ăn, tù nhân dược phép có một giờ ở phòng giải trí, họ có thể coi ti vi, trò chuyện hoặc xem các báo và tạp chí mới nhất. Tracy đang lướt xem tờ tạp chí thì bắt gặp một bức hình. Đó là hình chụp lễ cưới của Charles Stanliope III. Hai người, tay cầm tay tươi cười, đang từ một. nhà thờ nhỏ bước ra. Nó như một cú đánh giáng xuống Tracy. Xem tấm hình anh ta với nụ cười hạnh phúc, lòng nàng tràn đầy nỗi đau. Nàng đã từng dự kiến chia sẻ cuộc sống với người đàn ông này, và anh ta đã quay lưng lại nàng, để mặc bọn chúng h.ãm hại nàng, để mặc đứa con của họ phải chết. Song chuyện đó đã qua, ở một nơi khác, một thế giới khác. Đó là ảo ảnh. Đây là thực tế.
Tracy gập nhanh tờ tạp chí.
Vào những ngày cho phép thăm nom, thật dễ biết tù nhân nào đã được bạn bè hoặc bà con tới thăm. Họ thường tắm rửa sạch sẽ và thêm chút phấn son trang điểm. Ernestine thường từ nhà khách trở về với vẻ mặt tươi cười.
“Ai của tôi, anh ấy luôn tới với tôi”, chị ta kể với Tracy “Anh ấy sẽ đợi tôi ra khỏi nơi đây. Cô có biết vì sao không? Vì tôi cho anh ấy cái mà không người đàn bà nào khác có thể cho được”.
Tracy không giấu nổi sự ngượng ngùng. “Chị muốn nói ... về t.ình d.ục ư?”.
Cô có thể mang bộ mông của cô ra mà cược đấy. Những gì diễn ra ở đây không hề liên quan gì tới bên ngoài hết ở chốn này, đôi lúc mình cần có một tắm than ấm nóng nào đó để ôm ấp - cần có một ai đó vuốt ve mình và nói rằng họ yêu thương mình. Cũng chẳng hề gì, dù đó không phải là sự thật và không lâu bền gì. Đó là tất cả những gì mà ta có thể có được. Nhưng mà khi tôi trở ra bên ngoài”, Ernestine bốn nói lớn hơn, “thì tôi trở thành một người đàn bà cuồng dâm thực sự, nghe chưa?”.
Có điều gì đó vẫn ám ảnh Tracy. Nàng quyết định gợi lại vào lúc này.
“Ernie, chị đã bảo vệ tôi. Vì sao?”.
Ernestine nhún vai.
“Tôi thực lòng muốn biết”. Tracy lựa lời một cách thận trọng. Tất cả những ai là ... là bạn của chị đều thuộc về chị. Họ làm theo bất kỳ điều gì họ muốn”.
“Nếu chúng không muốn đi quanh đây với một nửa cái mông, phải”.
“Song tôi lại khác. Tại sáo?”.
“Than vãn à?”.
Không. Tò mò thôi”.
Ernestine nghĩ ngợi một lát. “Được. Cô có cái mà tôi muốn”. Chị ta thấy vẻ mặt Tracy. “Không. Không phải cái đó Cái đó tôi có dư rồi, ý tôi là cô có học, có học tử tế ấy. Giống như các tiểu thư khuê các mà người ta thấy tả các tạp chí Vogue và Town and Country vậy, ăn mặc đàng hoàng và dùng trà rót từ các bình bằng bạc. Đó là thế giới của cô. Còn đây thì không. Tôi không hiểu vì đâu mà ở ngoài kia cô lại dính tới cái bọn khốn nạn đó, song tôi đoán rằng cô đã bị lường gạt”. Chị ta nhìn Tracy và nói, gần như ngớ ngẩn. “Trong đời, tôi không gặp nhiều thứ đẹp đẽ, cô là một trong số đó”. Chị ta quay đi nên những lời tiếp theo gần như không nghe được. “Và tôi lấy làm tiếc về đứa con của cô. Tôi thật lòng ...”.
Đêm đó, sau khi tắt đèn, Tracy thì thầm trong bóng tối. “Erme, tôi phải trốn.
Xln chị hãy giúp tôi”.
“Lạy Chúa, tao đang muốn ngủ! Im ngay đi, nghe chưa?
Ernestine đã giúp Tracy hiểu thứ ngôn ngữ nhà nghề trong nơi ngục tù này.
Một đám đàn bà đang nói chuyện ngoài sân. “Con sói cái này đã đánh tuột dây lưng yà từ bây giờ phải cho nó ăn bằng cái thìa có cán dài ...”.
“Ả thấp lùn, song họ bắt được ả trong một cơn bão tuyết và một cớm sắt đã giao ả ta cho tay đồ tể. Điều đó chấm dứt việc thức dậy của ả. Tạm biệt ...
Tracy không hiểu gì hết. “Họ nói chuyện gì vậy?”.
Ernestine cười phá lên và giải thích “Không biết tiếng Anh à, cô bé? Khi một người đàn bà đồng tính luyến ái đánh tuột đây lưng nghĩa là cô ta chuyển từ làm đàn ông sang kiểu làm tiểu thư Mary. Không thể tin cậy cô ta được nữa, nghĩa là phải lánh xa nó ra. Cô ta thấp lùn nghĩa là sắp mãn hạn tù, thế nhưng lại bị bắt vì dùng ma túy rồi bị giao cho đồ tể, bác sĩ của nhà tù?.
“Thế một Rubydo và việc thức dậy là cái gì?
“Không học được gì à? Một Rubyđo là một thời gian thử thách. Còn thức dậy là ngày được thả ra”.
Cuộc đánh lộn giữa Ernestine Littlechap và Bertha Lớn đã nổ ra ở ngoài sân ngay hôm sau đó. Đám tù nhân đang chơi bóng chày dưới sự giám sát của những người coi ngục. Bertha Lớn đang lên bóng và bị hai đối thủ cản lại chuyền mạnh bóng cho một người khác và lao về phía vạch cuối sần nơi có Tracy trấn giữ. Bertha Lớn đâm sầm vào Tracy, làm nâng ngã xuống, rồi cười lên, hai tay mụ luồn vào giữa hai đùi nàng và thầm thì. “Không ai từ chối ta cả, con ạ. Đêm nay ta sẽ đến với em, quả bóng nhỏ, và ta sẽ chơi đến mệt nhoài”.
Tracy điên cuồng vùng vẫy. Đột nhiên, nàng thấy Berth Lớn bị nhấc bổng lên. Té ra Ernestine đã tóm lấy mụ và đang bóp cổ mụ ta.
“Đồ chó ghẻ! Ernesine quát lên. “Tao đã cảnh cáo mày rồi cơ mà!”. Chị ta cào vào mặt Bertha Lớn và móc mắt mụ ta.
“Mù mắt tao rồi!” Bertha Lớn hét lên. “Mù mắt tao rồi!” Mụ ta chộp lấy hai vú Emestine, kéo mạnh. Hai người đàn bà đấm đạp, cào xé nhau, và bốn người coi ngục vội chạy tới. Phải mất tới năm phút mới giằng họ ra được và cả hai đều phải đưa đi bệnh xá. Mãi khuya hôm đó Ernestine mới trở về buồng giam. Lola và Paulita vội vã tới an ủi.
“Chị có sao không?” Tracy thì thầm.
“Mẹ, ổn cả”. Ernestine đáp, giọng như nghẹt lại, và Tracy lo lắng không biết chị ta đau đớn đến thế nào. “Ngày mai tôi bắt đầu thời gian thử thách. Tôi sắp ra khỏi nơi đây. Cô sẽ rất rối đấy. Con mẹ đó sẽ không để cô yên đâu. Không còn cách nào. Và khi đã thỏa lòng dâm dục với cô, nó sẽ giết cô”.
Họ nằm yên trong bóng tối. Sau cùng, Ernestine lại cất tiếng. “Có thể đã đến lúc cô và tôi phải nói về việc để cô trốn mẹ nó ra khỏi đây”.
 
Chương 10


“Ngày mai, em mất cô bảo mẫu rồi”. Tổng giám thị Brannigan thông báo cho vợ.
Sue Ellen Brannigan ngước nhìn chồng, ngạc nhiên. “Sao? Judy rất tốt với Amy”.
“Anh biết, song mai Judy sẽ được trả tự do”.
Họ đang ăn sáng trong ngôi nhà tiện nghi. Một trong số những đặc lợi của nghề nghiệp Brannigan. Những quyền lợi khác gồm có một đầu bếp, một cô hầu phòng, một tài xế riêng, và một bảo mẫu cho con gái họ, Amy, gần năm tuổi.
Năm năm trước, khi mới đến đây, Sue Ellen Brannigan rất lo sợ về việc phải sống trong khu vực nhà tù và còn sợ hãi hơn nữa khi trong nhà đầy những người phục vụ vốn đều là các tội phạm đang bị giam cầm.
“Làm sao anh có thể dám chắc rằng nửa đêm chúng không cướp bóc hoặc cắt cổ chúng ta?” Bà căn vặn chồng.
“Nếu làm như vậy họ sẽ chết với tôi”, tổng giám thị Brannigan hứa hẹn.
Ông làm bà hết sợ nhưng không làm bà tin được, tuy vậy những lo ngại của Sue Ellen đã tỏ ra không có cơ sở.
Những người tù tự giác mong muốn tạo được ấn tượng tốt hòng rút ngắn thời hạn giam giữ của họ càng nhiều càng hay nên đã hết sức lương thiện.
“Em vừa mới yên tâm khi giao Amy cho Judy chăm sóc”, bà vợ phàn nàn.
Bà mong muốn những điều tốt đẹp cho Judy song lại không muốn cô ta ra đi. Ai mà biết kẻ trông nom Amy sắp tới là loại người gì? Có quá nhiều câu chuyện khủng khiếp về những chuyện bẩn thỉu mà những người lạ đã làm đối với trẻ con.
“Anh đã nghĩ tới ai thay cho Judy chưa?”.
Ông tổng giám thị đã cân nhắc kỹ điều này. Có cả chục tù tự giác thích hợp với việc trông nom Amy, song ông không thể dứt bỏ Tracy khỏi đầu óc mình.
Có cái gì đó trong vụ án của cô ta làm ông thấy áy náy. Là một nhà tội phạm từ mười lăm năm nay, ông tự hào về một trong những điểm mạnh của mình là khả năng đánh giá tù nhân. Một số do ông cai quản là những tội phạm chuyên nghiệp, một số khác phải vào tù vì đã phạm tội do quá kích động hay không cưỡng lại dược một h.am m.uốn nhất thời nào đó, song ông thấy Tracy có vẻ không thuộc vào những loại đó. Lời kêu oan của cô ta không ảnh hưởng gì mấy đến suy nghĩ của ông vì rằng đó là những lời cửa miệng của mọi tù nhân. Điều làm ông áy náy chính là những kẻ đã hùa nhau đẩy Tracy Whitney vào tù. Ông vốn được bổ nhiệm bởi một hội đồng dân cử do thống đốc bang đứng đầu, và mặc dầu kiên quyết từ chối dính líu tới các vấn đề chính trị, ông vẫn biết rõ nhiều nhân vật. Joe Romano là Mafta, tay chân Anthony Orsatti, Perry Pope, luật sư bào chữa cho Tracy Whitney, được bọn chứng trả tiền và thẩm phán Henry Lawrence cũng vậy. Bản án Tracy Whitney lại càng thêm biểu hiện đáng nghi vấn.
Lúc này, Tổng giám thị Brannigan đã quyết. Ông nói với vợ “Rồi. Tôi đã nghĩ đến một người”.
Trong khu bếp của nhà tù có một phòng hẹp với một bàn ăn nhỏ, và bốn cái ghế tựa, nơi duy nhất có thể có một chút riêng biệt. Ernestlne Littlechap và Tracy đang ngồi trong đó uống cà phê nhân mười phút nghỉ giải lao.
“Tôi nghĩ đã đến lúc cô nói với tôi vì sao vội vã muốn ra khỏi đây thế”.
Ernestine bảo.
Tracy lưỡng lự. Nàng có thể tin Ernestine chăng?
Cũng chẳng có lựa chọn nào khác. “Có ... có mấy người đã làm hại gia đình tôi và tôi. Tôi phải ra để bắt chúng đền tội”.
À? Chúng đã làm gì?
Tracy nới chậm rãi từng lời, mỗi lời mỗi đau đớn.
“Chúng giết mẹ tôi”.
“Chúng là ai?”.
“Tôi không cho những cái tên đó có ý nghĩa gì với chị cả. Joe Romano, Pepy Pope, một thẩm phán tên Henry Lawrence, Anthony Orsatti”.
Miệng há ra, Ernestine nhìn nàng chằm chằm. “Lạy Chúa! Cô làm tôi sửng sốt, cô bé ạ”.
Tracy ngạc nhiên. “Chị có nghe về chúng nó à?”.
“Tôi nghe? Ai chẳng nghe về chúng nó? Chả cớ gì diễn ra ở cái xứ New Orleans bỏ mẹ này mà không có sự dính líu của Orsatti hay Romano. Cô không thể đụng tới bọn đó Chúng nó sẽ thổi bay cô đi”.
Giọng Tracy trầm xuống. “Thì chúng nó đã làm vậy rồi thôi”.
Ernestine nhìn quanh để cầm chắc không có ai nghe trộm. “Hoặc là cô điên rồ hoặc cô là con đàn bà ghê gớm nhất mà tôi từng biết. Dám nói tới những kẻ không thể đụng tới đó!” Chị ta lắc đầu. “Quên nhanh chúng đi”.
“Không. Tôi không thể. Tôi phải trốn khỏi đây. Liệu có được không?”.
Ernestine im lặng hồi lâu. Sau cùng, chị ta bảo. “Ta sẽ nói chuyện ở ngoài sân”.
Chị ta dẫn nàng tới một chỗ vắng vẻ.
“Đã có mười hai vụ vượt ngục a nhà tù này”, Ernestine nồi. “Hai trong số đó bị bắn chết. Mười người khác bị bắt và bị đưa trở lại”. Tracy không bình luận gì. “Trên tháp canh có lính gác suốt hai mươi bốn giờ, với súng máy, và đó là lũ chó đẻ đê hèn. Nếu ai đó trốn thoát, chúng sẽ mất việc, bởi vậy chúng sẵn sàng bắn chết người tù chạy trốn. Dây thép gai được chằng quanh nhả tù và nếu như cô có qua được cái đó cùng những khẩu súng máy, bọn nó còn dùng tới chó săn, cái loại có thể tìm thấy hơi của một con muỗi. Cách đây vài dặm còn có một đồn binh cửa Cảnh vệ Quốc gia, và khi có tù vượt ngục chúng sẽ phái tới một máy bay lên thẳng vũ trang có đèn rọi. Không ai thèm để ý gì nếu như bọn chúng mang cô về sống hay chết. Bọn nó muốn cô chết hơn. Vì nó làm gương cho những mưu tính khác. Người vượt ngục đều cớ sự giúp đỡ từ bên ngoài - bạn bè tuồn cho súng, tiền hạc và áo quần. Họ có những chiếc xe chờ sẵn để trốn”. Chị ta dừng lại để gây ấn tượng. “Thế mà họ vẫn bị bắt lại”.
“Họ sẽ không bắt được tôi”, Tracy quả quyết.
Một nữ giám thị đến gần. Bà ta nói to với Tracy, Tổng giám thị Brannigan nalốn gặp cô”.
“Chúng tôi cần có ai đó chăm sóc đứa con gái nhỏ của mình”. Tổng giám thị Brannigan nói:
“Đó là một công việc tự nguyện. Cô không phải nhận làm nếu như cô không muốn”.
Ai đó chăm sóc đứa con gái nhỏ của mình. Tracy tính toán mau lẹ. Việc này có thể giúp nàng dễ bề vượt ngục hơn là ở đây, làm việc ở nhà của tổng giám thì, nàng có thể dễ dàng biết nhiều hơn nữa về bộ máy nhà tù”.
“Vâng?” Tracy nói. “Tôi đồng ý nhận việc này”.
George Brannigan thấy hài lòng. Ông cứ có một cảm giác bứt rứt rằng mình nợ người phụ nữ này điều gì đó.
“Tốt. Một giờ được trả sáu mươi xu. Khoản tiền này vào cuối mỗi tháng sẽ được đưa vào tài khoản của cô”.
Tù nhân không được phép có tiền mặt, tất cả các món tiền tích lũy sẽ được trả vào ngày ra tù.
Mình sẽ chẳng ở đây đến cuối tháng này. Tracy nghĩ, song nàng vẫn nói thành tiếng. “Thế là tốt rồi”.
“Cô có thể bắt đầu làm việc từ sáng mai. Bà giám thị trưởng sẽ cho cô biết chi tiết”.
“Cám ơn ông tổng giám thị”.
Ông nhìn nàng và thấy muốn nói thêm gì nữa, song cũng không chắc là muốn nói gì. Bởi thế ông nói. “Vậy thôi”.
Khi Tracy báo tin này cho Ernestine, người đàn bà da đen nói với vẻ đầy cân nhắc, “Có nghĩa là họ sẽ để cô trở thành một tù tự giác. Cô sẽ biết rõ các hoạt động của nhà tù. Điều đó có thể làm cho việc vượt ngục dễ dàng hơn.
“Tôi phải làm thế nào?” Tracy hỏi. - “Cô có ba sự lựa chọn, nhưng đều mạo hiểm cả. Cách thứ nhất là chuồn ra. Dùng kẹo cao su làm tắc các ổ khóa cửa buồng giam và các lối đi. Chuồn ra sân, ném một tấm đệm lên trên các sợi dây thép gai, leo ra và chạy”.
Với chó và máy bay lên thẳng truy đuổi? Tracy đã có thể cảm thấy những loạt đạn của bọn lính gác đang găm vào người. Nàng rùng mình. “Các cách kia thì thế nào?”.
“Cách thứ hai là khống chế. Dùng súng bắt theo một con tin. Nếu mà họ tóm lại được thì cô sẽ bị phiền phức đấy”. Chị ta thấy nét hoảng sợ trên mặt Tracy.
“Nghĩa là thêm hai đến năm năm tù nữa”.
“Còn cách thứ ba?”.
“Bỏ đi. Đây là đối với các tù tự giác có việc đi ra ngoài. Một khi đã ở bên ngoài rồi thì cô cứ việc tiếp tục đi”.
Tracy nghĩ về việc đó. Nàng sẽ chẳng có cơ hội nào cả vì lẽ không có tiền, không có một chiếc xe, không có nơi ẩn náu. “Họ sẽ phát hiện thiếu tôi vào giờ điểm danh và bắt đầu lùng kiếm”.
Ernestine thở dài, “Không có một kế hoạch nào hoàn hảo cả, cô bé. Vì thế mà chưa ai trốn khỏi đây được”.
Mình sẽ làm được, Tracy thầm nguyện.
Buổi sáng Tracy đến làm việc tại nhà tổng giám thị Brannigan đánh dấu tháng ở tù thứ năm của nàng. Tracy hồi hộp chờ gặp bà vợ ơng tổng giám thị và đứa trẻ, vì rất mong được làm công việc này. Nó là cái chìa khóa dẫn tới tự do.
Tracy bước vào gian bếp lớn, gọn gàng và ngồi xuống, cảm thấy từng giọt mồ hôi lăn dọc cánh tay mình. Một người đàn bà, trong chiếc áo khoác mặc nhà màu hồng, xuất hiện ở ngưỡng cửa.
Bà ta nói. “Xin chào cô”.
“Dạ, chào bà”.
Người đàn bà toan ngồi xuống rồi lại thôi. Sue Ellen Brannigan có mái tóc vàng hoe, khuôn mặt tươi tắn, chừng giữa tuổi ba mươi. Dáng người thanh mảnh, tao nhã, bà không bao giờ biết chắc là phải cư xử với tù nhân này thế nào. Có nên cảm ơn vì những việc họ làm không, hay chỉ ra lệnh cho họ thôi?
Nên thân thiện, hay là đối xử với họ như là những tù nhân? Sue Ellen vẫn chưa làm quen được với cái ý nghĩ về vlệc sống giữa những kẻ nghiện ma túy, trộm cắp và giết người.
“Tôi là phu nhân Brannigan”, bà nói nhanh. “Amy đã gần năm tuổi, và cô biết là vào tuổi đó chúng hiếu động thế nào rồi. Tôi sợ rằng phải để mắt tới nó suốt ngày”. Bà liếc nhìn bàn tay trái của Tracy. Không có nhẫn cưới, song dĩ nhiên, thời này điều đó chẳng có nghĩa gì. Đặc biệt là với những tầng lớp dưới, Sue Ellen nghĩ. Bà dừng lời và tế nhị hỏi “Cô có con chưa?”.
Tracy nghĩ đến đứa con không được sinh ra của mình.
“Chưa”.
“Tôi hiểu”. Sue Ellen cảm thấy bối rối trước người phụ nữ trẻ này. Ở cô ta có cái gì đó gần như là kiêu hãnh. “Tôi sẽ mang Amy vào”. Bà đi nhanh ra khỏi phòng.
Tracy nhìn quanh. Đó là một ngôi nhà khá lớn, gọn gàng, đồ đạc hấp dẫn.
Với Tracy, dường như đã nhiều năm trôi qua nàng mới lại bước vào nhà của một ai đó. Nó thuộc về thế giới khác, thế giới bên ngoài.
Sue Ellen đã trở lại, dắt một bé gái. “Amy, đây là ...” Nên gọi một tù nhân bằng tên riêng hay tên họ nhỉ? Bà dung hòa lại “Đây là Tracy Whitney”.
“Chào cô”, Amy nói. Con bé giống mẹ ở vẻ thanh tao và cặp mắt sâu màu nâu nhạt, đầy thông minh. Con bé không thật xinh, song vẻ thân thiện cởi mở rất dễ thương.
Mình sẽ không thể nó đụng tới mình, Tracy nghĩ.
“Cô sẽ là cô bảo mẫu mới của cháu phải không”.
“Ồ,cô sẽ giúp mẹ trông nom cháu”.
“Cô Judy đã qua việc thử thách đấy, cô có biết không?
Cô cũng đang được thử thách à?”.
Không, Tracy nghĩ. Nàng nói. “Cô sẽ ở đây lâu, Amy”.
“Thế thì tốt”; Sue Ellen nói vẻ hân hoan. Bà đỏ mặt vì ngượng nghịu và cắn chặt môi. “Ý tôi là ...” Bà nhìn quanh và chuyển sang nói về công việc của Tracy. “Cô sẽ cùng ăn với Amy. Cô có thể chuẩn bị bữa sáng cho nó và chơi buổi sáng. Người đầu bếp sẽ làm bữa trưa ở đây. Sau bữa trưa, Amy phải đi ngủ, về buổi chiều, nó thích đi vòng vòng quanh khu trồng trọt. Tôi nghĩ là để trẻ nó được thấy mấy cái cây lớn lên từng ngày thì thật tốt. Phải không cô?”.
“Vâng”.
Khu trồng trọt ở phía bên kia khu trại chính của nhà tù rộng hai mươi mẫu Anh được trồng rau và cây ăn quả do những tù tự giác chăm sóc. Họ đã đào một cái hồ lớn để lấy nước tưới bao quanh là một bức tường đá thấp.
Năm ngày kéo theo đó lần như một cuộc sống mới đối với Tracy. Nàng thích được rời xa những bức tường nhà tù xám ngoét, thong thả đi dạo quanh khu trồng trọt và hít thở không khí trong lành, song đầu nàng luôn luôn nghĩ tới việc vượt ngục. Khi không có việc với Amy nàng phải trở lại nhà giam. Đêm đêm nàng vẫn ngủ trong đó thế nhưng ban ngày nàng cảm thấy không khí tự do. Sau bữa ăn sang trong bếp nhà tù, nàng đi tới khu nhà của ông tổng giám thị và chuẩn bị bữa sang cho Amy. Tracy đã học được từ Charles cách nấu ăn và nàng thích được làm các loại đồ ăn có rất nhiều ở đấy, nhưng Amy chỉ thích một bữa sang đơn giản gồm một chút súp yến mạch hay ngũ cốc với một vài miếng trái cây. Sau đó Tracy sẽ chơi các trò chơi với con bé hoặc kể chuyện cho nó nghe.
Rất vô tình, Tracy bắt đầu dạy Amy những trò chơi mà mẹ nàng đã từng chơi với nàng.
Amy rất thích búp bê. Tracy bắt chước làm một con cừu kiểu Shati Lewis bằng mấy tiếng vải cũ, song trong nó lại hóa ra nửa cáo nửa vịt. “Cháu nghĩ là đẹp đấy”, Amy nói một cách thành thật.
Tracy giả bộ giọng nói của con búp bê với nhiều ngôn ngữ khác nhau:
Pháp, Ý, Đức, và thứ Amy ngưỡng mộ nhất là những bài dân ca Mehico của Paulita.
Tracy ngắm vẻ sung sướng trên gương mặt con bé và nghĩ mình sẽ không để tình cảm đi quá xa. Con bé chỉ là phương tiện để mình ra khỏi chốn này.
Sau giấc ngủ trưa của Amy, cả hai cùng đi dạo xa xa, và Tracy đã tính toán để nàng và con bé đi qua những nơi trong phạm vi nhà tù mà trước đây nàng chưa biết. Nàng cẩn thận để ý các cửa ra vào, việc canh gác trên tháp canh và việc đổi gác ra sao. Nàng nhận thấy rõ là các kế hoạch mà nàng và Ernestine đã bàn tính đã không sao thực hiện được.
“Đã có ai trốn bằng cách ẩn mình trong các xe chở đồ tiếp tế đến nhà tù chưa? Tôi đã thấy những xe chở sữa và thực phẩm khác”.
“Quên cách đó đi”. Ernestine nói bình thản. “Mọi xe cộ ra vào đều bị lục soát”.
Một buổi sáng, trong khi ăn điểm tâm, Amy nói, “Cháu yêu cô, cô Tracy. Cô sẽ là mẹ cháu nhé?”.
Lòng con bé như xé lòng tracy. “Một mẹ là đủ rồi. Cháu không cần có hai mẹ”.
“Ứ, cháu cần. bố Sally Ann, bạn cháu, mới cưới vợ và Sally Ann có hai vợ đấy thôi”.
“Cháu không phải là Sally Ann”. Tracy nói cộc lốc.
“Ăn xong đi”. Amy nhìn nàng bằng cặp mắt tủi thân. “Cháu không đói nữa”.
“Được. Vậy bây giờ cô sẽ đọc truyện cho cháu nghe”.
Và khi bắt đầu đọc Tracy cảm thấy bàn tay bé bỏng của Amy đặt nhẹ lên tay nàng.
“Cháu ngồi vào lòng được không?”.
“không, hãy nhận từ gia đình cháu ấy. Tracy nghĩ. Cháu không thuộc về cô.
Không có gì thuộc về cô cả.
Sự thoải mái ban ngày ngoài nhà tù đã làm cho các buổi đêm trở nên khó chịu hơn. Tracy căm ghét việc phải trở lại buồng giam. Căm ghét việc bị nhất như một con thú, và không thể nào quen được với những tiếng thét vọng đến từ các buồng giam gần đấy trong bóng tối hờ hững. Nàng thường nghiến răng đến mức phát đau lên.
Một đêm thôi mà, nàng tự hứa với mình. Ta có thể chịu được một đêm.
Tracy ngủ ít, đầu óc rối bời tính toán. Bước đầu tiên là vượt ngục. Bước thứ hai là đương đầu với Joe Romano, Perry Pope, thẩm phán Lawrence và Anthony Orsatti.
Bước ba sẽ là Charles. Song chỉ nghĩ tới điều đó thôi cũng thật đau đớn.
Mình sẽ giải quyết chuyện đó khi thời cơ tới, nàng tự nhủ.
Việc né tránh Bertha Lớn đã trở nên không thể được.
Tracy tin chắc rằng ả Thủy Điển ấy đã sai người theo dõi nàng. Nếu Tracy tới phòng giải trí, thì sau đó ít phút Bertha Lớn sẽ xuất hiện và khi Tracy ra ngoài sân thì cũng chỉ tí tẹo sau lại đã thấy mụ ta.
Một hôm, Bertha Lớn lại gần Tracy và nói, “Hôm nay trông cô em thật xinh đẹp, quả bóng nhỏ. Ta không thể đợi được nữa rồi”.
“Tránh xa tôi ra”, Tracy cảnh cáo.
Ả đàn bà cao to nhếch mép. “Nếu không thì sao? Con chó đen của mày sắp ra khỏi đây rồi. Tao sẽ dàn xếp để chuyển mày tới buồng tao!.
Tracy nhìn mụ.
Bertha Lớn gật đầu. “Ta có thể làm điều đó, cô em ạ.
Hãy cứ tin là thế”.
Lúc này Tracy hiểu rằng nàng đang còn rất ít thời gian. Phải vượt ngục trước ngày Ernestine được tha.
Amy rất thích được đi ngang cánh đồng cỏ ngập đầy những đóa hoa đồng nội rực rỡ. Cái hồ lớn ở gần đó, vây quanh là một bức tường thấp mà ngay chân tường là sâu thẳm những nước.
“Ta bơi đi”, Amy hài nỉ. “Nào, cô Tracy?”.
“Hồ này không có bể bơi”, Tracy nói. “Họ dùng nước để tưới cơ mà”. Mặt nước lạnh lẽo làm nàng thấy rùng mình.
Tracy nhớ lại, cha mang nàng trên vai đi thẳng ra biển, và khi nàng kêu lên, cha nói. “Đừng là một đứa trẻ nữa, Tracy”, và thả nàng xuống làn nước lạnh, và khi nước tràn qua đầu, nàng bị sặc ...
Thật choáng váng khi biết cái tin đó, dù rằng Tracy đã chờ đợi nó.
“Một tuần nữa kể từ thứ bẩy, tôi sẽ ra khỏi nơi đây”.
Ernestine nói.
Tracy đã không nói với chị ta về câu chuyện với Bertha Lớn. Ernestine sẽ không ở đây để giúp nàng nữa.
Còn Bertha Lớn thì có đủ ảnh hưởng để chuyển Tracy tới buồng giam của mụ. Cách duy nhất để tránh điều đó là nàng phải nói với ông tổng giám thị, nhưng lại biết rằng làm như vậy là cầm chắc cái chết. Mọi tù nhân sẽ chống lại nàng. “Cô phải đấu đá, cưỡng hiếp hoặc đánh lộn.
Được, nàng sẽ đánh lộn.
Ernestine xem xét lại các khả năng vượt ngục. Không cái nào đáng hài lòng cả. Cô không có xe và chẳng có ai chờ sẵn ở ngoài để giúp đỡ Cô sẽ bị tóm lại, mẹ kiếp, và sẽ thật tồi tệ cho cô. Tốt hơn là đành yên một thời gian và chờ xem đã”.
Tracy biết là không yên được. Không thể,được khi mà Bertha Lớn còn đeo đẳng. Ý nghĩ về cái thứ mà con sói lực lưỡng ấy đang thèm khát đã đủ làm cho nàng thấy ói mửa.
Hôm đó là sáng thứ bảy, bảy ngày trước khi Ernestine được trả tự do, Sue Ellen Brannigan đã mang Amy đi nghỉ cuối tuần ở New Orleans, và rracy thì làm việc trong khu bếp nhà tù.
“Việc trông trẻ thế nào?” Ernestine hỏi.
“Tốt thôi ạ”.
“Tôi đã thấy con bé đó. Nó có vẻ thật dễ mến”.
“Nó cũng được” Giọng nàng bình thản.
Dĩ nhiên là tôi sung sướng được ra khỏi đây. Tôi nói với cô là tôi sẽ không bao giờ trở lại nơi này. Nếu ở bên ngoài kia tôi và ai có thể giúp cô được thì ...”.
“Tránh nào”, một giọng đàn ông kêu lên.
Tracy quay lại. Một thợ giặt đang đẩy chiếc xe lớn chất ngập quần áo vải vóc ra phía cổng. Tracy nhìn theo băn khoăn.
“Tôi đang nói là nếu Al và tôi có thể làm gì cho cô – cô biết đấy - gửi đồ cho cô hoặc.:.”.
“Ernie, cái xe chở đồ giặt kia là thế nào? Nhà tù có xe chuyên dụng cơ mà”.
“Ô, cái đó dành cho cai ngục”. Ernestine cười. “Vốn là họ đưa đồ của họ cho phòng giặt nhà tù. song tất cả các khuy bị dứt đứt, tay áo bị xé, những thứ dấu hiệu khiêu dâm được khâu vào bên trong, sơ mi thì nhăn nhúm, vải thì cứ bị mủn ra. Thật đáng xấu hổ phải không, tiểu thư Scarlette? Giờ thì đám cai ngục gửi đồ giặt ra ngoài”. Tracy không còn nghe chị ta nói gì nữa. Nàng đã biết mình sẽ vượt ngục như thế nào.
 
Chương 11


“Anh George, em nghĩ là chúng ta không nên giữ Tracy ở đây nữa”.
Tổng giám thị Brannigan rời mắt khỏi tờ báo. “Cái gì?
Có gì rắc rối hả?”.
“Em không biết chắc. Song có cảm giác rằng Tracy không thích Amy. Có thể là cô ta không thích trẻ con”.
“Cô ta không khắc nghiệt với Amy chứ? Có đánh, mắng gì con bé không?”.
“Không ...”.
“Vậy, chuyện gì?”.
“Ngày hôm qua, Amy chạy tới ôm lấy Tracy và cô ta đã đẩy nó ra. Em thấy bực mình vì Amy cứ quấn lấy cô ấy.
Nói thật với anh, có thể là em chen một chút. Có như vậy không?”.
Tổng giám thị Brannigan cười. “Cái đó lý giải được nhiều, Sue Ellen. Anh nghĩ là Tracy Whitney thật thích hợp với công việc. Nào, nếu như cô ta gây phiền toái thực sự gì cho em, thì nói anh biết, anh sẽ làm điều gì cần thiết.
“Được, anh yêu quí”. Sue Ellen vẫn chưa hài lòng. Bà nhặt kim chỉ lên và chăm chú vào đó. Chuyện mắc mớ chưa phải đã hết.
“Sao lại không được?”.
“Tôi sẽ cho cô biết, cô bé. Lính gác sẽ lục soát tất cả các xe đi qua cổng”.
“Song với cái xe chở một thùng đựng đồ giặt, họ sẽ không trút cả ra để kiểm soát”.
“Họ cần gì phải làm thế. Khi cái thùng được mang vào phòng chứa đồ giặt thì ở đó đã có một người đứng gác rồi”.
Tracy ngẫm nghĩ. “Ernie ... ai đó có thể thu hút sự chú ý của người gác trong vòng năm phút thôi không?”.
“Cái đó để làm gì?” Bỗng mặt chị ta sáng lên. “Trong khi người đó làm hắn lóa mắt, cô sẽ chui xuống đáy thùng và được phủ kín nhờ đồ giặt”. Chị ta gật đầu. “Được đấy, tôi nghĩ rằng trò quỉ quái đấy có thể được việc”.
“ấy chị sẽ giúp tôi chứ?”.
Ernestine ngẫm nghĩ một lát rồi từ tốn nói. “Được. Tôi sẽ giúp cô, đây cũng là cơ hội cuối cùng mà tôi có thể đá vào mông con Bertha Lớn”.
Mạng lưới thông tin bí mật trong nhà tù lập tức truyền đi mưu toan vượt ngục của Tracy Whitney. Việc này ảnh hưởng tới mọi tù nhân khiến họ cũng lo lắng trong suốt thời gian này và ao ước có đủ sự liều lĩnh để làm như vậy. Thế nhưng họ đã thấy còn có lính gác, chó săn, máy bay lên thẳng và sau rốt là các xác chết được chở về.
Với sự giúp đỡ của Ernestine, kế hoạch đã được triển khai. Ernestine đo các kích thước th.ân thể Tracy, Lola thì kiếm vải, còn Paulita thì giao cho một cô thợ ở một buồng giam khác may váy áo cho Tracy. Một đôi giày tù nhân được đánh cắp khỏi nhà kho và được nhuộm đi cho hợp với bộ váy đó. Và cứ như có phép lạ, một cái mũ, một đôi găng tay và một cái bóp lần lượt hiện ra.
!Giờ thì bọn ta phải kiếm cho cô một cái căn cước”.
Ernestine nói với Tracy. “Cô cũng cần vài ba thẻ mua hàng và một giấy phép lái xe nữa”.
“Làm sao mà tôi ...?”.
Ernestine lầu bầu. “Hãy cứ để mặc con gái già Enie Littlechap này”.
Chiều tối hôm sau, Ernestine đưa cho Tracy ba thẻ mua hàng với cái tên Jane Smith.
Tiếp theo là một giấy phép lái xe”.
Sau lúc nửa đêm một chút, Tracy nghe thấy tiếng cửa buồng giam mở ra rồi có ai đó lẻn vào. Nàng lập tức ngồi dậy với ý cảnh giác.
Một giọng thì hầm. “Whitney phải không? Đi nào”.
Tracy nhận ra giọng nói của Lillin, một tù tự giác.
“Chị muốn gì ở tôi? “ Tracy hỏi.
Tiếng Ernestine rít khẽ trong bóng tối. “Mẹ cô đã nuôi lớn một đa con gái ngớ ngẩn. Im mồm đi”.
Lilin nói nhẹ nhàng, “Phải làm việc này thật nhanh.
Lỡ bị tóm thì bọn chúng sẽ hành tôi. Nào”. Theo sau Liliian dọc lối đi tối mịt dẫn tới một đầu cầu thang, Tracy hỏi. “Chúng ta đi đâu thế”.
Không có tiếng trả lời. Họ lên tầng trên và khi cầm chắc không có người gác nào quanh đấy, họ chạy dọc hành lang đến căn phòng nơi Traey đã bị lấy dấu tay và chụp hình hôm đầu. Lillian đẩy cửa ra.
Vào đây” cô ta thì thầm.
Tracy theo vào. Một người tù khác chờ sẵn trong đó.
“Đứng sát vào tường”. Giọng cô ta hồi hộp.
Tracy làm theo, lòng bồn chồn lo lắng.
“Nhìn thẳng vào ống kính. Cố gắng giữ bình thường.
Thật buồn cười, Tracy nghĩ. Nàng chưa bao giờ hồi hộp thế này trong đời.
Tiếng bấm máy. “Sáng ra hình sẽ được trao lại”. Ngườì kia nói. “Cái này là để cho vào giấy phép lái xe của cô, Giờ thì đi, nhanh lên”.
Tracy và Lillian trở lại theo lối cũ. Đang đi, Lillian bỗng nói. “Tôi nghe cô sắp chuyển buồng đấy”.
Tracy tái người. “Cái gì?”.
“Cô không biết à? Cô sắp chuyển sang với Bertha Lớn”.
Khi nàng trở lại thì Ernestine, Lola và Paulita đang chờ. “Thế nàọ.”.
“Tốt”.
Cô không à? Cô sắp chuyển sang với Bertha Lớn.
Tracy ớn lạnh.
“Váy áo sẽ xong vào thứ bảy”. Paulita nói.
Đó là ngày tự do cho Ernestine - hạn chót của mình, Tracy thầm nghĩ.
Ernestine thì thầm. “Tất cả đều êm. Đồ giặt sẽ được lấy đi lúc 2 giờ chiều thứ bảy. Cô phải đến phòng chứa đồ lúc 13 giờ 30. Không phải lo ngại gì về người gác ở đây.
Lola sẽ làm cho hắn ta bận bịu ở phòng bên. Paulita chờ sẵn trong phòng chứa đồ sẽ mang tới quần áo cho cô. Căn cước của cô sẽ ở sẵn trong bóp. Lúc giờ 15, cô sẽ được chở ra khỏi cổng nhà tù”, Tracy cảm thấy nghẹn thở. Mới chỉ nói về việc vượt ngục đã làm nàng run cả người. Không ai thèm để ý gì nếu họ được mang về sống hay chết ... họ cho rằng chết còn tốt hơn. Nàng nhớ lại.
Vài ngày nữa nàng sẽ tìm lại tự do:
Đó là ảo tưởng?
Chỉ một chuyện vặt cũng dẫn tới đổ vở. Rồi họ sẽ tìm thấy và đưa nàng trở lại. Song lòng nàng đã quyết.
Tù nhân đều biết chuyện xung đột giữa Ernestine và Bertha Lớn vì Tracy.
Giờ đây con tin Tracy sắp bị chuyển tới buồng của mụ ta, không phải ngẫu nhiên mà không có ai nói với Bertha Lớn về mưu toan vượt ngục của nàng.
Bertha Lớn không thích nghe những tin xấu và thường không phân biệt giữa tin xấu với người dưa tin nên thường hành hạ người đó.
Cho tới tận buổi sáng đó Bertha Lớn mới biết chuyện, nhờ người tù tự giác đã chụp hình cho Tracy.
Mụ nghe tin đó với sự im lặng đáng sợ. Trong lúc lắng nghe người mụ như căng ra.
Lúc nào?” Mụ ta chỉ hỏi có vậy.
“Chiều nay, lúc hai giờ, Bert. Họ sẽ giấu cô ta dưới đáy cái thùng đựng đồ giặt”.
Bertha Lớn nghĩ ngợi một lúc lâu. Rồi mụ lừng lững lại gần một nữ giá thì và nói. “Tôi cần gặp ngay ông tổng giám thị”.
Suốt đêm Tracy không ngủ bởi mệt mỏi, căng thẳng. Những ngày tù tội sao mà dài đằng đặc. Bao hình ảnh của quá khứ thoáng hiện lại trong nàng.
Con thấy mình cứ như một công chúa trong chuyện cổ tích ấy, mẹ ạ. Con không nghĩ rằng lại có thể có hạnh phúc đến thế.
Ra vậy! Con và Charles muốn cưới nhau?
Tuần trăng mật định kéo dài bao lâu?
Mày bắn chết tao rồi đồ chó ...
Tôi thật sự chưa bao giờ biết cô ...
Tấm hình cưới ...Charles đang cười với vợ ....
Chuyện từ thời nào ấy? Chuyện ở đâu ấy?
Chuông báo thức reo đến giật bắn mình. Tracy ngồi dậy trên gi.ường, hoàn toàn tỉnh táo. Ernestine đang chăm chú nhìn nàng. “Cảm giác thế nào, cô bé?
“Bình thường”, Tracy nói dối. Miệng nàng khô đắng, nhịp tim thì dồn dập.
“Ồ, cả hai chúng ta cũng rồi đây hôm nay”.
Tracy nuốt nước miếng một cách khó khăn. “À, vâng”.
“Cô chắc chắn có thể rời nhà tổng giám thị lúc 13 giờ 30 chứ?”.
Paulita nói. “Đừng về muộn, sẽ hỏng việc đấy”.
“Tôi nhất định đúng giờ”.
Ernestine với xuống dưới tấm đệm và lấy ra một xấp giấy bạc. “Cô sẽ cần một ít tiền đi đường. Chỉ có hai trăm thôi, song nó cũng sẽ đỡ cho cô”.
“Ernie, tôi không biết phải nói thế nào ...”.
“Ồ, cứ im đi, cô bé, và cầm lấy”.
Tracy bắt mình cố ăn xong bữa sáng. Đầu óc nàng căng ra và toàn thân bứt rứt. Mình không chịu nổi, nàng nghĩ. Không, mình phải chịu đựng nốt hôm nay.
Trong bếp có vẻ im lặng lạ thường và Tracy chợt nhận ra mình là nguyên nhân của sự im lặng đó, là đối tượng của những ánh mắt và những lời thì thầm hồi hộp. Sắp xảy ra một cuộc vượt ngục và nàng là nhân vật chính của vở kịch.
Trong ít giờ nữa nàng sẽ được tự do. Hoặc là chết.
Nàng đứng dậy, bỏ dở bữa ăn và đi về phía khu nhà tổng giám thị Brannigan.
Trong khi chờ đợi người gác mở cổng đầu hành lang, nàng chạm trán Bertha Lớn. Mụ Thụy Điển hằn học nhìn nàng.
Mụ sẽ phải sửng sốt cho mà xem. Tracy nghĩ.
Giờ đây nó sẽ hoàn toàn là của mình, Bertha Lớn nghĩ.
Buổi sáng chậm chạp trôi đi đến mức Tracy muốn phát điên. Từng phút, từng phút lê thê như vô tận. Nàng đọc cho Amy nghe mà không hiểu mình đang đọc cái gì song vẫn nhận thấy mẹ Amy đang từ cửa sổ nhìn vào.
“Cô Tracy, ta chơi trốn tìm nào”.
Tracy còn lòng dạ nào mà chơi, song không dám mạo hiểm gợi lên sự nghi ngờ ở mẹ Amy nên cớ gượng cười.
“Được thôi. Sao cháu không trốn trước đi, Amy?”.
Hai cô cháu đang ở ngoài sân trước, nơi có thể nhìn thấy tòa nhà trong đó có gian phòng chứa đồ giặt ở đằng xa. Nàng phải có mặt ở đó đúng 13 giờ 30, sẽ thay đồ mặc đi phố mà các bạn tù đã làm cho, vào lúc 13 giờ 45 sẽ vào nằm dưới đáy thùng, phủ lên trên là quần áo, vải vóc. Lúc 14 giờ, người thợ giặt sẽ tới lấy đồ và chất cái thùng lên xe của anh ta. Lúc 14 giờ 15 cái xe sẽ chạy ra cổng để tới một thị trấn kề đó, nơi có một xưởng giặt đồ.
Từ ghế trước người lái xe không thể nhìn lại đằng sau được. Khi xe vào thị trấn và dừng trước một đèn đỏ nào đó, cứ mở cửa ra bước xuống, thật thản nhiên, và đón một chiếc xe buýt, đi đâu thì đi ... nàng nhớ lại những lời chỉ dẫn.
“Cô có thấy cháu không” Amy la lớn. Con bé thập thò sau một gốc cây mộc lan, một tay bịt miệng để khỏi vang lên tiếng cười khoái chí.
Mình sẽ nhớ con bé, Tracy nghĩ. Khi rời khỏi chốn này, mình sẽ nhớ hai.người - người đàn bà da đen tốt bụng và con bé này đây. Nàng băn khoăn, liệu Charles Stanhope III sẽ nghĩ thế nào về chuyện đó.
“Cô tìm cháu đây”. Tracy nói to.
Sue Ellen, từ trong nhà, đang xem hai cô cháu chơi, cảm thấy có gì lạ ở Tracy hôm nay. Suốt buổi sáng, cô ấy cứ nhìn đồng hồ, như đang đợi ai đó, và đầu óc rõ là không chú ý gì đến Amy.
Lúc George về ăn trưa mình phải nói với anh ấy việc này, Sue Ellen nghĩ bụng. Mình sẽ kiên quyết đòi phải thay cô ta.
Ở ngoài sân, Tracy và Amy chơi ô lò cò một lát, rồi chơi bài, rồi Tracy đọc truyện cho con bé, sáu cùng điều mong đợi cũng đến - đã 12 giờ 30, giờ cho Amy ăn trưa.
Thời điểm mà Tracy phải khỏi sự. Nàng dẫn cô bé vào nhà.
“Tôi đi đây, thưa bà Brannigan”.
Gì vậy? Ôi. Không có ai nói gì với cô à, Tracy? Hôm nay chúng tôi có một đoàn khách quan trọng. Họ dùng bữa trưa ở đây, do vậy Amy sẽ không được ngủ trưa. Cô có thể mang nó đi chơi đâu đấy”.
Tracy đứng chết lặng, cố ghìm để khỏi kêu lên “Tôi ...
Tôi không thể, thưa bà”.
Sue Ellen Brannigan đanh giọng. “Cô nói không thể nghĩa là thế nào?”.
Tracy thấy vẻ giận dữ trên mặt Sue Ellen và nghĩ mình không được phép trả lời vậy. Bà ta có thể gọi ông tổng giám thị và mình sẽ bị đưa lại buồng giam.
Nàng gượng cười. “Ý tôi là ... Amy chưa ăn trưa. Con bé sẽ đói”.
“Tôi đã bảo đầu bếp chuẩn bị sẵn đồ ăn nhẹ cho cả hai. Cô có thể dẫn nó đi dạo ở ngoài đồng cỏ và ăn ngoài đó, Amy thích dạo chơi lắm phải không, con gái yêu?”.
“Con thích lắm”. Con bé nhìn Tracy, về cầu khẩn. “Ta đi chứ, cô Tracy? Ta đi chứ, cô?”.
Không? Được. Thận trọng. Vẫn có thể được. Tracy nghĩ.
Miễn là có mặt lúc 13 giờ 30.
Tracy nhìn bà Brannigan. “Mấy giờ bà muốn tôi đưa cháu trở về?”.
“Ồ, khoảng 15 giờ. Khi đó thì khách đã đi rồi”.
Và cả cái xe nữa, nàng nghĩ. Và cả thế giới như sụp đổ trước mặt nàng.
“Tôi ...”.
“Cô có khỏe không? Trông cô có vẻ xanh”.
Đúng thế. Sẽ nói là nàng ốm. Sẽ đi bệnh xá. Nhưng rồi họ sẽ khám và giữ lại đó. Nàng sẽ không thể nào ra đúng giờ. Phải có cách nào khác mới được.
Sue Ellen đang chăm chú nhìn.
“Tôi vẫn khỏe”.
Cô ta có chuyện gì đó, Sue Ellen quả quyết. Dứt khoát mình sẽ đòi George kiếm người khác.
Cặp mắt Amy sáng lên hoan hỉ. “Cháu sẽ dành cho cô cái bánh kẹp to nhất, cô Tracy. Cô cháu mình sẽ tha hồ vui, phải không cô?”.
Tracy không trả lời.
Đoàn khách viếng thăm hoàn toàn bất ngờ. Chính thống đốc bang William Haber tháp tùng đoàn Ủy ban cải cách chế độ nhà tù. Đây là chuyện mà mỗi năm, tổng giám thị Brannigan phải gặp một lần.
“Trong phạm vi nhà tù, George”, ông thống đã căn dặn, “quét dọn sạch sẽ, bảo các tiểu thư ấy hãy tươi cười, và chúng ta sẽ có thêm kinh phí”.
Sáng đó, người phụ trách bảo vệ đã nói:
“Dẹp tất cả những ma túy, dao rựa, và những dụng cụ thủ dâm”.
Thống đốc Haber và đoàn khách tới vào lúc 10 giờ sáng. Họ sẽ thanh tra bên trong khu nhà giam trước, rồi thăm khu trồng trọt, sau đó sẽ dùng bữa trưa với tổng giám thị tại nhà riêng của ông.
Bertha Lớn thấy sốt ruột. Khi yêu cầu gặp tổng giám thị người ta trả lời rằng. “Sáng nay ông ấy rất bận. Ngày mai gặp ông ấy dễ hơn.
cần ngày mai”. Bertha Lớn nổi giận. “Tôi muốn gặp ngay bây giờ. Việc quan trọng”, Một nữ tù khác mà nói năng như vậy thì khó lòng tránh khỏi sự trừng phạt, song với Bertha Lớn thì khác. Những người phụ trách nhà tù này quá biết về thế lực của mụ. Họ đã chứng kiến mụ khởi đầu những vụ nổi loạn, và họ cũng lại chứng kiến mụ dập tắt những vụ nổi loạn đó. Trên thế gian này, không nhà tù nào có thể được quản lý tử tế một chút mà không có sự hợp tác của mấy kẻ cầm đầu đám tù nhân, mà Bertha Lớn thì là một trong những kẻ đó.
Mụ được người ta để ngồi chờ trong phòng tiếp khách của ông tổng giám thị tới gần một giờ đồng hồ, tấm thân lừng lững như che khuất cả cái ghế mụ đang ngồi. Cô ta là một con vật ghê tởm, thư ký của ông tổng giám thị nghĩ. Cô ta sẽ mang cả rận rệp vào đây mất.
“Bao lâu nữa.” Bertha Lớn hỏi.
“Chắc là không quá lâu đâu. Đang phải tiếp một nhóm khách. Sáng nay ông tổng giám thị rất bận”.
Bertha Lớn nới. “Ông ta sẽ bận hơn cho mà xem”. Mụ nhìn đồng hồ đeo trên tay. 12 giờ 45. Còn nhiều thời gian.
Một ngày thật đẹp trời, trong veo, ấm áp, và từng làn gió nhẹ mang theo mùi hương phảng phất thổi ngang cánh đồng xanh ngát. Tracy trải tấm vải trên đám cỏ ngay bên hồ nước, và Amy thích thú nhai cái bánh kẹp phết trứng.
Tracy liếc nhìn đồng hồ. Đã gần 13 giờ. Nàng không tin vào mắt mình nữa. Sao mà buổi sáng trôi qua quá chậm chạp thế, còn buổi chiều thì cứ lướt đi vèo vèo.
Nàng phải nghĩ cho được một cách gì đó, hoặc là thời gian sẽ cướp đi cơ hội cuối cùng của nàng.
giờ 10. Trong phòng khách của tổng giám thị Braunigan cô thư ký đặt ống nghe xuống.và nói với Bertha Lớn. “Rất tiếc. Ông tổng giám thị nới là không thể tiếp cô hôm nay được. Ta hãy thỏa thuận một cái hẹn vào ...”.
Bertha Lờn chồm dậy. “Ông ấy phải gặp tôi. Đó là ...”.
“Chúng tôi sẽ bố trí vào ngày mai”.
Bertha Lớn đã toan nói, “Ngày mai thì quá muộn”, song kịp ghìm lại. Không ai khác ngoài ông tổng giám thị được biết điều mụ đang làm, chứ đám lau nhau dễ gây chuyện rắc rối lắm. Nhưng mụ không có định chịu thua.
Không đời nào mụ chịu để Tracy thoát khỏi. Mụ bước vào thư viện nhà tù và ngồi xuống bên cái bàn rồi viết vào một mẩu giấy, và nghi người giám thị bước tới bên một người tù khác, Bertha Lớn thả mẩu giấy lên mặt bàn của bà ta và bỏ đi.
Người giám thị quay lại bàn và thấy mẩu giấy bèn mở ra xem. Bà ta đọc tới hai lần dòng chữ viết hoa:
HỔM NAY PHẢI KIỂM TRA CHIÊC XE CHỠ ĐỒ GIẶT.
Không thấy chữ ký. Một trò đùa? Cẩn thận vẫn hơn. Bà ta nhấc điện thoại.
“Cho tôi gặp phụ trách đội bảo vệ ....”.
giờ 15. “Cô không ăn à?” Amy nói. “Cô có muốn ăn mấy cái bánh kẹp của cháu không?”.
“Không? Để yên cho tôi nhờ”. Quả thật nàng không định tâm nói gay gắt như thế.
Amy ngừng ăn. “Cô giận cháu à, cô Tracy? Đừng, cháu yêu cô lắm mà.
Cháu không bao giờ giận cô cả”. Đôi mắt trong trẻo của con bé rưng rưng.
“Cô không giận”.
“Cháu cũng không đói nếu cô không muốn ăn. Ta chơi bóng đi cô, cô Tracy”.
Và Amy lôi quả bóng cao su từ trong túi ra.
giờ 16 phút. Lẽ ra nàng đã phải đi rồi. Để tới căn phòng chứa đồ mất ít nhất là mười lăm phút. Nhanh lên một chút thì còn kịp. Nhưng không thể bỏ Amy lại một mình. Tracy nhìn quanh và trông thấy một nhóm tù tự giác đang hái đậu ở đằng xa. Ngay tức khắc, Tracy biết mình phải làm gì.
“Cô không muốn chơi bóng à, cô Tracy?”.
Tracy đứng lên. “Được. Bây giờ ta chơi một trò mới.
Hãy thi xem ai có thể ném trái bóng đi xa nhất nào. Cô sẽ ném trước rồi thì tới lượt cháu. Tracy nhặt quả bóng lên và dùng hết sức ném mạnh về phía những người tù kia.
“Ôi, xa quá”. Amy nói đầy khâm phục “Xa thật đấy”.
“Cô sẽ chạy đi nhặt bóng”, Tracy nói, “còn cháu thì chờ ở đây”.
Và nàng chạy, chân như bay trên thảm cỏ. Lúc này là 18 giờ 18 phút. Nếu muộn, họ có đợi không? Nàng chạy nhanh hơn nữa. Từ phía sau, có tiếng gọi của Amy, song nàng không để ý đến nữa. Những người tù kia đang chuyển qua hướng khác. Tracy la lên và họ dừng lại. Khi tới chỗ họ, nàng gần như không thở được nữa.
“Có gì vậy?” Một người trong số họ hỏi.
“Không có gì”. Nàng thở dốc. “Con bé đằng kia, chị nào trông nó hộ chút nhé. Tôi có chút việc gấp phải làm. Tôi ...”.
Tracy nghe tiếng gọi tên mình từ đằng xa bèn quay lại Amy đang đứng trên bờ tường bê tông ở sát bến hồ nước. Con bé vẫy vẫy. “Nhìn cháu này, cô Tracy”.
“Không. Xuống ngay!” Tracy hét lên.
Và trong khi Tracy đứng nhìn chết trân, hoảng hốt thì Amymất thăng bằng và ngã xuống hồ.
“Ôi, lạy Chúa?” Tracy mặt cắt không còn hột máu.
Nàng không còn biết phải làm thế nào, không còn cách lựa chọn nào cả.
Mình không thể giúp con bé được. Bây giờ thì không được rồi. Ai đó sẽ cứu nó.
Mình còn phải cứu mình. Mình phải thoát khỏi chốn này, không thì mình sẽ chết - Lúc này là 13 giờ 20.
Tracy lao mình chạy, chưa bao giờ trong đời nàng lại chạy nhanh như thế.
Những người khác gọi theo, song nàng không nghe thấy gì hết. Nàng chạy như bay, không cả biết rằng đôi giày đã tuột khỏi chân, bất chấp những đất đá lổn nhổn. Tim đập thình thịch, ngực đau tức và nàng vẫn cố chạy nhanh hơn, nhanh hơn nữa. Nàng đã tới sát bức tường và bám tay nhảy lên. Tít bên dưới, trong làn nước sâu, nàng thấy Amy đang vùng vẫy, cố ngoi lên.
Không một giây lưỡng lự, Tracy lao mình xuống. Và khi vừa chạm mặt nước, Tracy mới chợt nghĩ - Ôi, lạy Chúa!
Mình không biết bơi.
 
Chương 12


NEW ORLEANS.
Thứ Sáu, 25 tháng Tám - 10 giờ
Lester Torrance, thủ quỹ ngân hàng First Merchants New Orleans, thường tự mãn ở hai điểm năng lực t.ình d.ục và đánh giá khách hàng. Lester đã ngót năm mươi, là một người đàn ông có bộ mặt xương xương, tái nhợt với tóc mai để dài, và bộ ria mép kiểu Jon Selleck. Ông ta đã hai lần không được nâng lương, và để trả đũa, Lester dùng nhà băng làm phương tiện cho việc hẹn hò trai gái. Từ xa cả dặm, ông ta đã có thể phát hiện ra các cô gái làng chơi, và thích thú với việc thuyết phục các cô cho hưởng lạc mà không phải trả tiền gì hết. Các bà góa là những miếng mồi đặc biệt ngon ăn. Họ đến đây với nhiều dáng vẻ, tuổi tác, tâm trạng, và sớm hay muộn cũng sẽ xuất hiện trước ô cửa của Lester.
Nếu như họ tạm thời lạm chi thì ông ta sẽ thông cảm lắng nghe và trì hoãn việc trả về những tấm séc đã hết tiền trong tài khoản. Để đáp lại, có thể là một bữa cơm chiều ở đâu đó. Nhiều nữ khách hàng phải tìm đến sự giúp đỡ của ông ta và thú nhận những bí mật tế nhị giấu chồng vay một khoản tiền ... cần giữ kín một vài tấm séc bí mật mà nàng đã viết ... đang dự tính ly hôn và Lester có thể giải quyết cái tài khoản chung của hai vợ chồng ngay được không? ... Dĩ nhiên là Lester sốt sắng làm họ hài lòng. Và ông ta cũng được toại nguyện.
Vào cái buổi sáng thứ sáu đặc biệt này, Lester đã biết mình gặp may khi thấy cô gái bước vào nhà băng. Đẹp đến sững sờ:
mớ tóe đen óng ả phủ xuống vai, váy ngắn bó khít lấy người và cái áo mỏng làm thấy rõ một thận hình mà một vũ nữ Las Vegas cũng phải ghen tị.
Nhà băng có bốn thủ quỹ và cặp mắt của cô gái lướt từ ô cửa này sang ô cửa khác, vẻ như tìm kiếm một sự giúp đỡ.
Khi cô ta đưa mắt tới Léster, ông ta vội vã gật đầu và mỉm cười mời mọc. Cô ta bèn đi lại, quả như Lester dự đoán.
“Xin chào”, Lester nồng nhiệt. “Tôi có thể giúp gì cô được?” Ông ta có thể thấy hai núm vú cô gái hằn rõ trên làn lụa mỏng dính của chiếc áo và thầm kêu lên - cô bé, giá mà ta được dày vò em!
“Tôi e là mình đang gặp khó khăn”, cô gái than thở bằng cái giọng miền Nam dễ chịu nhất mà Lester từng được nghe.
“Thì tôi ở đây là vì thế”, ông ta hồ hởi nói, “để giải quyết những mắc mớ”.
“Ôi, được thế thì tất quá. Tôi sợ rằng tôi đã làm một điều khủng khiếp”.
Lester mỉm cười thân tình, vẻ như thầm nói với cô gái là hãy tin cậy ở ông ta. “Tôi khó mà tin một cô gái dễ thương thế này lại có thể làm một điều gì khủng khiếp”.
Ôi, thật vậy đấy”. Cặp mắt màu nâu nhạt của cô gái mở to, đầy vẻ lo lắng.
“Tôi là thư ký của Joseph Romano, ông chủ bảo tôi đặt những tấm séc mới cho ông ta từ cách đây một tuần, thế mà tôi quên khuấy đi mất, và bây giờ chỗ chúng tôi sắp hết cả séc rồi. Nếu biết chuyện này thì thật không hiểu ông ta sẽ làm gì với tôi nữa”. Những lời thốt ra sao mà mềm mại, mượt mà.
Lester đã quá quen với cái tên Joseph Romano. Đó là khách sộp của nhà băng này, mặc dù chỉ có một khoản tiền nhỏ trong tài khoản. Ai cũng biết là những khoản tiền lớn của ông ta đang nằm đâu đó.
Lão ta biết chọn thư ký lắm, Lester nghĩ bụng. Ông ta mỉm cười. Được, có gì nghiêm trọng lắm đâu, thưa bà?”.
“Cô Hartford. Lureen Hartford”.
Cô Thật là một ngày may mắn. Lester có cảm giác mọi chuyện sẽ diễn ra hết sức thú vị. “Ngay bây giờ, tôi sẽ đặt những tấm séc mới cho cô và cô sẽ nhận được trong hai tuần nữa, và ...”.
Cô gái khẽ kêu lên. “Ôi, vậy thì quá muộn, và ông Romano sẽ nổi giận với tôi mất. Ông biết đấy, tôi không còn đầu óc nào mà làm việc nữa”. Cô hơi tỳ người về trước, hai bầu vú chạm khẽ vào thành ô cửa. Cô nói trong hơi thở hồi hộp, “Nếu ông có thể xuất ngay những tấm séc đó, tôi sẽ vui lòng trả một món tiền”.
Lester nói vẻ khổ sở. “Thật rất tiếc, cô Lureen, không thể nào ... Ông ta thấy cô đã gần phát khóc.
“Nói thật với ông, chuyện này có thể làm cho tôi mất việc đấy Xin ông ... Tôi sẽ làm bất cứ điều gì ...”.
Lester như nghe thấy những nốt nhạc thánh thót.
“Tôi sẽ nói với cô việc tôi phải làm nhé”, Lester tuyên bố. “Tôi sẽ yêu cầu làm gấp, và cô sẽ nhận những tấm séc đó vào thứ hai. Vậy được chứ?”.
“Ôi, ông thật tuyết vời!” Giọng cô gái đầy vẻ biết ơn.
“Tôi sẽ gửi về địa chỉ nào?”.
“Tôi đến nhận thì tốt hơn, bởi không muốn để ông Romano thấy tôi đã ngu ngốc đến thế nào?”.
Lester mỉm cười lả lơi. “Không phải là ngu ngốc, Lureen. Đôi lúc ai mà chất lơ đễnh”.
Cô gái nói khẽ. “Tôi sẽ không dám quên ông. Hẹn gặp ông vào thứ hai”.
“Tôi sẽ có mặt ở đây”.
Có trời mà khiến ông ta đi đâu vào hôm đó.
Cô gái mỉm cười làm ông ta sững sờ vừa chậm rãi đi ra, dáng đi thật mê hồn.
Lester vừa tủm tỉm cười một mình vừa đi lại tủ hồ sơ, y ra số tài khoản của Josepha Romano và gọi điện yêu cầu một số séc mới cho tài khoản đó.
Cái khách sạn trên đường Carmen y hệt cả trăm khách sạn khác ở New Orleans, chính vì vậy mà Tracy đã chọn nó. Nàng thuê một phòng nhỏ, bày biện sơ sài, tuy vậy so với cái phòng giam kia thì đây vẫn là một cung điện.
Sau cuộc gặp Lester trở về Tracy tháo bộ tóc giả màu đen, vuốt lại mái tóc óng ả của nàng, tháo đôi mắt kính mềm đeo sát tròng mắt, rồi rửa sạch lớp son phấn trên mặt, ngồi xuống chiếc ghế tựa duy nhất trong phòng và thở phào nhẹ nhõm. Mọi việc đang trôi chảy. Tìm ra tài khoản của Joe Romano nằm trong nhà băng nào không có gì khó khăn. Nó có trong đóng giấy tờ mẹ nàng để lại những tấm séc đã bị hủy do Romano viết. “Romano Cô không thể động tới hắn được”, đó là lời Ernestine.
Ernestine đã nhầm và Joe Romano mới chỉ là kẻ đầu tiên. Còn nữa. Từng kẻ một.
Tracy nhắm mắt và nhớ lại điều kỳ diệu đã đưa nàng đến đây ...
Lại là cảm giác làn nước tối sẫm, lạnh giá tràn qua đầu nàng đang chìm xuống và thấy sợ hãi. Nàng quờ quạng và nắm được vào con bé, đẩy nó lên mặt nước. Amy vùng vẫy lung tung, lại kéo cả hai chìm xuống, tay và chân con bé quẫy đạp điên cuồng. Lồng ngực Tracy đau tức khi cố ngoi lên khỏi mặt nước, tay vẫn túm chặt con bé, và cảm thấy đuối sức. Không được nữa rồi, nàng nghĩ.
Cả hai cùng chết mất. Có những tiếng nói ồn ào và nàng cảm thấy Amy bị gỡ tuột khỏi tay mình, nàng thét lên. “Ôi., Chúa ơi, không?” Những bàn tay nào đó giữ chặt ngay lấy nàng và một giọng nói cất lên. “Giờ thì ổn rồi, bình tĩnh lại.
Mọi chuyện đều đã qua”.
Tracy mở mắt nhìn quanh và thấy con bé đang trong tay một người đàn ông.
Ít giây sau nàng đã thiếp đi.
Tai nạn này bình thường ra thì cũng chẳng có gì hơn ngoài một mẩu tin ở trang trong của các tờ báo buổi sáng, song ở đây lại là việc một tù nhân không biết bơi đã liều mạng để cứu lấy đứa con nhỏ của viên tổng giám thị. Do vậy, chỉ qua một đêm, báo chí và các hình luận viên truyền hình đã biến Tracy thành một nữ anh hùng. Đích thân thống đốc Haber đã cùng với tổng giám thị Brannigan tới bệnh xá nhà tù thăm Tracy.
“Cô đã có một hành động dũng cảm”, tổng giám thị nói. “Sue Ellen và tôi muốn được bầy tỏ lòng biết ơn với cô”. Giọng ông nghẹn ngào xúc động.
Tracy vẫn chưa phục hồi hẳn. “Amy thế nào rồi?”.
“Con bé sẽ khỏe thôi”.
Tracy nhắm mắt lại. Mình không thể chịu nổi nếu có chuyện gì xảy ra cho con bé. Tracy thầm nghĩ. Nàng nhớ lại sự lạnh lùng của mình khi mà tình thương yêu là tất cả những gì mà con bé muốn có, và nàng thấy xấu hổ. Sự kiện xảy ra đã cướp đi cơ hội vượt ngục, song nàng biết rằng nếu như được làm lại thì nàng vẫn sẽ như thế.
Cũng có một cuộc tra xét ngắn ngủi về chuyện xảy ra.
“Con có lỗi”, Amy nói với bố. “Con và cô đang chơi bóng, cô Tracy chạy đi nhặt bóng và bảo con chờ, nhưng con lại trèo lên tường để có thể nhìn theo cô rõ hơn và ngã nhào xuống nước. Cô Tracy đã cứu con bố ạ”.
Họ giữ Tracy tại bệnh xá đêm đó để theo dõi và sang hôm sau nàng được đưa tới phòng làm việc của tổng giám thị Brannigan. Giới thông tấn đang chờ.
Họ không bỏ lỡ bao giờ những câu chuyện hấp dẫn, và thế là các phóng viên của UPI và AP đã có mặt, còn đài truyền hình địa phương thì cử tới hẳn một nhóm phóng viên.
Đêm hôm đó tin và bài về hành động anh hùng của Tracy được tung ra, các tình tiết được đưa lên màn ảnh truyền hình quốc gia, và câu chuyện lan nhanh.
Các tờ Times, Newsweek, People và hàng trăm tờ khác đã đăng tải câu chuyện.
Trong khi giới báo chí rầm rộ như thế, thì nhiều thư và điện đổ tới nhà tù đòi ân xá cho Tracy.
Thống đốc Haber thảo luận vấn đề với tổng giám thị Brannlgan.
“Tracy Whitney bị đưa đến đây vì một tội nặng”, tổng giám thị báo cáo.
Vị thống đốc trầm ngâm. “Thế nhưng cô ta không có tiền án gì, đúng không, George?”.
“Đúng vậy, thưa ngài?”.
“Tôi cũng chả ngại nói để cậu biết là tôi đang phải chịu một sức ép ghê gớm về cô ấy”.
“Tôi cũng vậy thưa thống đốc”.
“Dĩ nhiên là không thể để công luận dạy bảo chúng ta phải điều hành nhà tù của ta thế nào, có phải không?”.
“Chắc chắn là không rồi”.
“Mặt khác vị thống đốc thận trọng, “cô Whitney này rõ ràng đã chứng tỏ lòng can đảm của mình, hoàn toàn xứng đáng là một nữ anh hùng”.
“Cái đó thì rõ rồi”. Tổng giám thị đồng tình.
Vị thống đốc châm một điếu xì gà. “Ý kiến cậu thế nào, George. George Brannigan thận trọng lựa lời. “Tất nhiên là ngài biết đấy, thưa thống đốc, tôi có một sự quan tâm hết sức cá nhân trong chuyện này. Đứa bé được cứu sống là con gái tôi. Thế nhưng, gác chuyện đó qua một bên thì tôi vẫn không nghĩ rằng Tracy Whitney là một tội phạm thực sự, và tôi không tin cô ấy, nếu ở bên ngoài, lại là một đe dọa đối với xã hội chúng ta, Tôi xin đề xuất rằng hãy ân xá cho cô ta”.
Vị thống đốc, người cũng đang sắp loan báo ý định ứng cử một nhiệm kỳ mới, đã nhận ra ý hay trong lời đề xuất đó “Chúng ta hãy làm như đang chơi cờ vậy”. “Ông đáp”.Trong chính trị, thời điểm là tất cả”.
Sau khi bàn bạc với chồng, Sue Ellen bảo Tracy. “Ông tổng giám thị và tôi rất muốn cô chuyển đến ở đây, chúng tôi còn dư một phòng ngủ ở phía sau. Cô có thể trông nom Amy suốt ngày được”.
“Cảm ơn bà”, Tracy đáp với vẻ biết ơn. “Thế thì tốt quá”.
Thật là tuyệt diệu. Chẳng những đến đêm không còn bị nhất vào phòng giam, mà quan hệ giữa nàng với Amy cũng hoàn toàn thay đổi. Amy yêu quý Tracy và cũng được đáp lại. Nàng thích được có con bé xinh xắn, dễ thương này luôn ở bên mình. Hai cô cháu chơi những trò chơi cũ, xem những cuốn phim của Disney trên ti vi và cùng đọc sách với nhau. Không khí phần nào có vẻ như trong gia đình vậy.
Song bất kỳ khi nào có việc gì đấy mà Tracy phải đi tới khu nhà giam thì thế nào nàng cũng lại chạm trán với Bertha Lớn.
“Đồ chó may mắn” Bertha Lớn hằm hè. “Song rồi mày cũng sẽ bị đưa trở lại đây như mọi kẻ khác. Tao sẽ làm việc đó, cô bé ạ”.
Khoảng ba tuần sau vụ tai nạn đó, một hôm Tracy và Amy đang chơi trò đuổi bắt ngoài sân thì Sue Ellen Brannigan từ trong nhà chạy ra. Bà đứng nhìn hai cô cháu một thoáng rồi nói. “Tracy, ông tổng giám thị vừa gọi điện về. Ông muốn cô tới phòng làm việc của ông ngay”.
Tracy chợt thấy sợ hãi. Liệu điều này có nghĩa là nàng sắp bị đưa trở về nhà giam? Bertha Lớn đã sắp đặt bằng ảnh hưởng của mụ? Hay là bà Brannigan cho là nàng và Amy đang trở nên quá thân thiết?
“Thưa bà, vâng”.
Khi Tracy được đưa tới thì ông tổng giám thị đang đứng ngang ngưỡng cửa.
“Cô ngồi xuống”, ông nói.
Tracy cố tìm câu trả lời cho số phận của mình qua giọng nói của ông.
“Tôi có một tin cho cô”. Ông ngừng lời với vẻ xúc động mà Tracy không hiểu nổi. “Tôi vừa mới nhận được lệnh của thống đốc bang Louisiana, dành cho cô một sự ân xá hoàn toàn, hiệu lực tức thời”.
Lạy Chúa, có phải ông ấy vừa nói cái điều mà con nghe thấy không? Nàng sợ hãi, không dám hỏi lại.
“Tôi muốn cô hiểu rằng”, ông tổng giám thị nói tiếp.
“Điều này không phải vì cô đã cứu sống con gái tôi. Cô đã hành động như bất kỳ công dân đáng kính nào khác sẽ làm, nếu ở vị trí cô lúc ấy. Dù thế nào chăng nữa, tôi thực sự không tin rằng cô có thể là một đe dọa đối với xã hội”.
Ông cười và nói thêm “Amy sẽ nhớ cô. Chúng tôi cũng vậy”.
Tracy không còn biết nói gì. Giá mà ông tổng giám thị biết được sự thật rằng nếu cái tai nạn đó không xảy ra chăng nữa, thì nhân viên của ông cũng sẽ phải mở cuộc truy lùng cô - một kẻ chạy trốn.
“Ngày kia, cô sẽ được trả lại tự do”.
Ngày “thức dậy” của nàng. Và Tracy vẫn Chưa hết ngỡ ngàng. “Tôi ... tôi.
không biết phải nói gì”.
“Cô không phải nói gì hết. Mọi người ở đây đều tự hào về cô Bà Brannigan nhà tôi và cá nhân tôi mong chờ cô làm được những việc tất đẹp ở bên ngoài”.
Vậy đúng là sự thực? Nàng được tự do Tracy bủn rủn đến nỗi phải tỳ vào thành ghế để ngồi được vững. Và sau cùng, khi cất tiếng, giọng nàng cứng rắn.
“Thưa ông tổng giám thị, có nhiều việc tôi muốn làm”.
Hôm cuối cùng, một tù nhân ở cùng khu với Tracy bước lại gần, hỏi. “Vậy là cô sắp ra khỏi đây?”.
“Đúng vậy?”.
Người đàn bà kia, Betty Franciscus, chừng ngoài bốn mươi, vẻ người hấp dẫn.
“Ở ngoài đó, nếu cần giúp đỡ gì, cô nên tới gặp một người tên là Connađ Morgan ở New York”. Chị ta chìa cho Tracy một mẩu giấy. “Ông ta thường mươn giúp đỡ những người mới ra tù”.
“Cám ơn, nhưng tôi không nghĩ là mình sẽ cần”.
“Biết thế nào được. Cứ cầm lấy địa chỉ của ông ta”.
Hai giờ sau, Tracy đi ra khỏi cổng nhà tù, ngay trước những ống kính truyền hình. Nảng không nói gì với các phóng viên, nhưng khi Amy vùng khỏi tay mẹ và nhào vào vòng tay của Tracy thì các máy quay đều chớp lấy. Và hình ảnh này đã được đưa ngay lên bản tin truyền hình tối hôm đó.
Tự do! Với Tracy, giờ đây nó không chỉ là một từ trừu tượng mà là một cái gì đó rất cụ thể, cảm nhận được hẳn hoi, một điều kiện sống mà người ta yêu quý và thưởng thức nó. Tự do - có nghĩa là được hít thở không khí trong lành, sự riêng tư, đi ăn không phải xếp hàng và không phải nghe những tiếng chuông đầy khó chịu. Nó có nghĩa là được tắm nước nóng với xà phòng thơm, có nghĩa là những đồ lót mềm mại, những váy áo đẹp và những đôi giày cao gót. Nó có nghĩa là được mang một tên gọi chứ không phải một con số. Tự do - có nghĩa là thoát khỏi Bertha Lớn, thoát khỏi nỗi lo sợ bị cưỡng dâm tập thể, và thoát khỏi sự buồn tẻ khủng khiếp hàng ngày trong nhà tù.
Song Tracy cũng phải mất ít thời gian để làm quen với sự tự do mới mẻ của mình. Đi ngoài phố, nàng phải chú ý để khỏi xô phải người khác. ở trong tù, việc đụng chạm ấy có thể dẫn tới một cuộc đánh lộn giữa các tù nhân.
Chính việc không có những sự đe dọa thường xuyên là điều mà Tracy khó làm quen nhất. Giờ đây không có ai đe dọa nàng cả.
Và nàng được tự do thực hiện kế hoạch trả thù của mình. Ở Philadelphia, Charles Stanhope III thấy Tracy trên màn ảnh ti vi, đang rời nhà tù. Nàng vẫn đẹp, anh ta nghĩ. Nhìn nàng người ta không thể tin rằng đã từng phạm tội. Anh ta nhìn sang cô vợ mũm mĩm của mình đang ngồi bình thản kia, khâu vá gì đó.
Mình e rằng mình đã phạm sai lầm. Charles nghĩ thầm.
Daniel Cooper thấy Tracy trên bản tin truyền hình buổi tối trong căn phòng của ông ta ở New York, và hoàn toàn thờ ơ với việc cô ta được ra tù. Ông ta tắt ti vi và tiếp tục với cái hồ sơ mà đang xem xét.
Joe Romano xem ti vi và hắn cười lớn. Whitney quả là một con chó may mắn. Chắc hẳn nhà tù đã dạy cho nó nhiều. Giờ nó mới thực sự ngon lành đây.
Có ngày ta sẽ gặp nhau.
Romano tự thấy, hài lòng với mình. Hắn đã chuyển bức tranh của Renoir cho đồng bọn, và nó đã được bán lại cho một người sưu tầm ở Zurich. Năm trăm nghìn lấy từ công ty bảo hiểm, và hai trăm nghìn nữa từ đồng bọn. Dĩ nhiên là hắn đã chia chác với Anthony Orsatti. Romano rất thận trọng việc này bởi hắn từng thấy những gì xảy ra đối với những ai xử sự không biết điều trong các giao dịch với Orsatti.
Buổi trưa ngày thứ hai đã hẹn, Tracy trong hình dáng của Lureen Hartford quay lại ngân hàng First Merchants New Orleans. Vào giờ đó, khách hàng đông nghẹt, có tới dăm bảy người đang đứng trước ô cửa của Lester. Tracy đứng vào hàng, và khi thấy nàng, Lester tươi cười gật đầu Nàng thậm chí còn đẹp hơn nhiều so với hình ảnh mà Lester ghi nhớ.
Lát sau, khi Tracy đã tới trước ô cửa, Lester vồ vập. “Thật chẳng dễ dàng gì, song tôi đã 1àm được cho cô đấy, Lureen”.
Một nụ cười ấm áp, biết ơn sáng lên trên gương mặt Tracy. “Ông thật quá tuyệt vời”.
“Thưa vâng, có đấy”. Lester mở một ngăn kéo lấy ra hộp séc đã cất cẩn thận và đưa ra. “Đây. Bốn trăm tấm séc trắng, đủ chứ?”.
“Ồ, quá đủ rồi, trừ phi ông Romano chỉ có ngồi miệt mài viết séc thôi”.
Lester cảm thấy rạo rực. “Tôi tin rằng con người phải xử đẹp với nhau, cô có tin vậy không, Lureen?”.
“Ồng hoàn toàn đúng, ông Lester”.
“Cô biết đấy, cô nên mở một tài khoản riêng ở đây. Tôi sẽ quan tâm thật chu đáo cho cô. Thật chu đáo”.
“Tôi tin là ông sẽ làm thế”, giọng Tracy mềm mại.
“Tại sao ta lại không bàn chuyện này trong một bữa ăn chiều yên ả ở đâu đó được nhỉ?”.
“Chắc là tôi sẽ thích thế”.
“Tôi có thể gọi điện cho cô chứ, Lureen?”.
“Ồ, tôi sẽ gọi cho ông, ông Lester,” và nàng bước đi.
“Đợi một phút ...”.
Người khách tiếp theo bước tới và chìa cho Lester đang thất vọng một túi đầy tiền xu.
Ngay giữa gian phòng lớn của nhà băng có bốn chiếc bàn, trên đó là các hộp chứa các phiếu gửi và rút tiền, và các bàn này bao giờ cũng đầy người bận rộn ghi vào các phiếu đó. Tracy đi vòng tránh khỏi tầm nhìn của Lester.
Và khi một người khách vừa rời khỏi bàn thì Tracy liền ngồi ngay xuống.
Cái hộp mà Lester trao cho nàng chứa tám tập séc trắng. Thế nhưng không phải là Tracy quan tâm tới những tấm séc mà là những phiếu gửi tiền ở phía dưới những tập séc đó.
Nàng cẩn thận lựa chọn những tấm phiếu gửi tiền ra khỏi các tập séc và chưa đầy ba phút sau, đã có trong tay tám mươi tấm. Khi cầm chắc là không có ai để ý, nàng đặt hai mươi tấm này vào chiếc hộp trên bàn.
Nàng chuyển sang bàn bên và đặt vào đó hai mươi tấm phiếu nữa, Sau ít phút, số phiếu còn lại được đặt nốt lên hai chiếc bàn kia. Các tấm phiếu gửi tiền đều mới nguyên, chưa ghi gì cả, song mỗi tấm phiếu, ở phía dưới đều mang một mã số từ tính mà máy tính dùng để chuyển vào các tài khoản thích hợp. Ai gửi tiền thì không quan trọng bởi vì do mã số từ tính này, máy tính sẽ tự động chuyển các khoản tiền gửi vào tài khoản của Romano. Từ kinh nghiệm làm việc ở nhà băng, Tracy biết rằng chỉ trong hai ngày thì số phiếu gửi tiền của Romano mà nàng đặt ở đó sẽ được dùng hết và phải ít nhất là năm ngày thì sự nhầm lẫn này mới có thể bị phát hiện. Vậy lả quá đủ thời gian cho nàng thực hiện kế hoạch.
Trên đường về khách sạn, Tracy ném số séc trắng vào thùng rác. Ông Joe Romano sẽ không cần tới chúng nữa.
Điểm dừng tiếp theo của Tracy là hãng vận chuyển du lịch New Orleans.
Người phụ nữ trẻ ngồi sau bàn hỏi.
“Tôi có thể giúp gì cô?”.
“Tôi là thư ký của ông Joseph Romano, và ông muốn đi Rio de Janeiro vào thứ sáu này”.
“Một vé?”.
“Vâng Hạng nhất. Một ghế đặc biệt được hút thuốc lá?”.
“Khứ hồi?”.
“Một chiều”.
Cô nhân viên quay sang chiếc máy tính đặt trên bàn.
Ít phút sau cô ta nói “Chúng ta đã được việc. Một chỗ hạng nhất trên chuyến bay 728 của Pan American, khởi hành lúc 6 giờ 35 chiều thứ sáu, có dừng ở Miami”.
“Ông ấy sẽ rất hài lông”, Tracy nói.
“Tất cả là một nghìn chín trăm hai mươi chín đô la. Trả bằng tiền mặt hay làm hóa đơn?”.
Ông Romano luôn trả bằng tiền mặt lúc nhận hàng. Chị có thể cho chuyển chiếc vé tới văn phòng ông ấy vào thứ năm này không”.
“Nếu cô muốn vậy”.
“Thứ năm, lúc 11 giờ, được không?”.
“Vâng! Địa chỉ?”.
“Ông J. Romano, 217 phốPoydras, phòng 408”.
Cô nhân viên ghi lại. “Rất tốt. Tôi sẽ cho chuyển tới vào trưa thứ năm này”.
Đúng 11 giờ”. Tracy thêm. “Xin cảm ơn chị”.
Cách đó nửa dãy nhà là một cửa hàng hành lý thượng hạng. Tracy xem xét số hàng trưng bày trong tủ kính trước khi bước vào bên trong.
Một nhân viên lại gần. “Xin chào. Liệu tôi có thể giúp gì cô?”.
“Tôi muốn mua một vài thứ hành lý cho chồng tôi”.
“Bà đến đúng chỗ rồi. Chúng tôi biết phục vụ ở đây hiện có một số hàng đẹp, và không đắt”.
“Không”. Tracy nói. “Tôi không muốn thứ rẻ tiền”.
Nàng bước tới chổ bày những chiếc vali Vuitton kê sát tường.
“Còn hơn cả thứ tôi muốn tìm. Chúng tôi có một chuyến đi xa”.
“Ồ, tôi tin là ông ấy sẽ rất hài lòng với một trong số những chiếc vali này, Chúng tôi có ba cỡ khác nhau. Cỡ nào sẽ là ...”.
“Tôi lấy mỗi loại một chiếc”.
“Ồ, tuyệt Thanh toán bằng hóa đơn hay trả ngay?” “COD” Tên Joseph Rmano. Ông có thể chuyển chúng tới văn phòng của chồng tôi vào sáng thứ năm này không “Sao cơ, chắc chắn là thế rồi, thưa bà Romano”.
“Đúng 11 giờ nhé?”.
“Tôi sẽ lo việc đó”.
Và như cân nhắc, Tracy nói thêm. “Ôi ... ông có thể in các chữ cái đầu tên ông ấy lên đó không, mạ vàng ấy?
Chữ J.R ...
“Tất nhiên. Chúng tôi rất vui lòng, thưa bà Romano”.
Tracy mỉm cười và đưa cho ông ta địa chỉ cần thiết.
Tới một bưu điện gần đấy, Tracy gửi một bức điện trả tiền ngay đến khách sạn Rio Othon Place ở Copacabana, Rio de Janeiro. Bức điện viết:
YÊU CẦU MỘT PHÒNG HẠNG NHẤT, BẮT ĐẦU TỪ THỨ SÁU NÀY, TRONG HAI THÁNG, ĐỀ NGHỊ BÁO LẠI BẰNG ĐIỆN TÍN. JOSEPH ROMANO, 217 PHỐ POYDRAS, PHÒNG 408, NEW ORLEANS, LOUISIANA, USA.
Ba ngày sau Tracy gọi điện thoại tới nhà băng xin nói chuyện với Lester Torrance. Khi nghe thấy giọng ông ta, nàng dịu dàng, “Có thể là ông đã quên tôi rồi, ông Lester, đây là Lureen Harford, thư ký của ông Romano và ...”.
Không nhớ cô ta? Giọng ông ta sốt sắng. “Chắc chắn là tôi nhớ cô Lureen.
Tôi ...”.
“Thật à? Tôi thật lấy làm hãnh diện. Ông phải gặp bao nhiêu người hàng ngày?”.
“Song không ai giống cô cả”, Lester cam đoan. “Cô chưa quên việc chúng ta hẹn ăn cơm chiều với nhau chứ?”.
“Ông thật không biết tôi mong chờ dịp đó thế nào. Thứ ba này liệu có tiện cho ông không, ông Lester?”.
“Tuyệt”.
“Vậy là hẹn nhé. Ôi, tôi thật ngớ ngẩn quá. Nói chuyện với ông thật là hồi hộp nên suýt quên mất việc phải hỏi. Ông Rơmano bảo tôi kiểm tra lại cán cân thu chi trong tài khoản của ông ấy. Ông có thể cho tôi biết con số đó không “Được chứ. Không có gì phiền phức cả”.
Bình thường thì Lester Torrance đã phải hỏi về ngày sinh hoặc một thông tin nào đó để xác định người gọi, song trong trường hợp này thì điều đó chẳng cần thiết.
“Cầm máy, Lureen” ông ta nói.
Ông ta bước lại chỗ hồ sơ, rút tấm phiếu của J.Romano, và ngạc nhiên. Có một số tiền gửi khác thường vào tài khoản của Romano trong vài ngày qua. Từ trước tới giờ chưa khi nào Romano để nhiều tiền trong tài khoản đến thế. Lester Torrance băn khoăn, không biết chuyện gì mà lạ vậy. Rỡ ràng chuyện lớn đây.
Khi nào ăn chiều với Lereen Harford, ông phải mời cô về chuyện này. Một chút thông tin từ nội bộ chẳng bao giờ là thừa cả. Ông ta quay lại bên máy điện thoại.
“Ông chủ cơ đã làm chúng tôi bận bịu đấy”, ông ta bảo Tracy “Có trên ba trăm nghìn trong tài khoản tiết kiệm”.
“Ô, tốt. Đó cũng là con số mà chúng tôi có”.
“Liệu ông ấy có muốn chuyển sang tài khoản kinh doanh không? Tiền nằm đây thì cũng chẳng mang lại lời lãi gì và tôi có thể ...”.
“Không. Ông ấy muốn giữ nguyên ở đó”. Tracy nói.
“Tốt thôi”.
“Cảm ơn ông nhiều, ông Lester. Ông thật là một người dễ thương”.
“Đợi một phút. Tôi sẽ gọi cô tại văn phòng để hẹn cụ thể cho chiều thứ ba chứ?”.
“Tôi sẽ gọi ông, bạn thân mến”. Tracy đáp.
Và nàng gác máy.
Tòa nhà cao tầng hiện đại mà Anthony Orsatti sở hữu đứng sừng sững trên phố Poydras ở khoảng giữa bờ sông và công trình khổng lồ mái vòm Louislana.
Văn phòng của công ty xuất nhập khẩu Thái Bình Dương chiếm toàn bộ tầng thứ tư của tòa nhà. Đầu đằng này là khu phòng làm việc của Orsatti và đầu kia là các phòng của Joe Romano. Khoảng giữa là của bốn cô tiếp tân trẻ trung những cô gái luôn có mặt vào các buổi tối để mua vui cho bạn bè và các mối làm ăn của Orsatti. Trước phòng của lão có hai gã đàn ông lực lượng ngồi canh, và mạng sống của hai gã này có thể được hy sinh để bảo vệ ông chủ chúng. Hài gã cũng kiêm luôn cả tài xế, người đấm bóp và chạy việc vặt.
Vào sáng thứ năm đó, Orsatti ngồi trong phòng làm việc của lão, đang kiểm tra lại các khoản thu hôm trước từ trò sổ số điện tử, cá cược đua ngựa, mãi dâm, và một tá các hoạt động sinh lợi khác mà công ty xuất nhập khẩu Thái Bình Dương này kiểm soát.
Anthony Orsatti độ chừng cuối tuổi sáu mươi, có dáng người quái lạ với tấm thân to và nặng nề còn đôi chân thì ngắn và gầy nhẳng, như được tạo ra cho một người nhỏ hơn. Khi đứng dậy, lão trông như một con ếch đang ngồi.
Bộ mặt lão chằng chịt vết sẹo, giống như cái mạng do một con nhện say rượu chẳng nên, với cái miệng rộng ngoác và cặp mắt đen hơi lồi. Lão hói đầu từ tuổi mười lăm, sau một lần bị rụng hết tóc, và dùng tóc giả từ đó. Bộ tóc giả này thật chẳng hợp với lão chút nào, song ngần ấy năm tháng qua không ai dám nói tới điều đó trước mặt lão.
Mắt lão lạnh lùng, là cặp mắt của kẻ cờ bạc, chẳng bao giờ bỏ lọt cái gì, và bộ mặt lão, trừ khi ở bên năm đứa con gái mà lão yêu quý, lúc nào cũng lạnh tanh. Dấu hiệu duy nhất gắn liền với cảm xúc của Orsatti là giọng nói. Lão có giọng khản đặc, lại the thé, hậu quả của một sợi dây siết chặt cổ họng vào ngày sinh nhật lần thứ hai mươi mét của lão - và rồi lão đã bị bỏ mặc chờ chết. Hai gã giết thuê đã phạm sai lầm này được khiêng vào nhà xác ngay tuần lễ sau đó.
Một khi Orsatti thực sự giận dữ, giọng nói của lão trầm xuống như một tiếng thì thầm bị bóp nghẹt, khó mà có thể nghe thấy được.
Anthony Orsatti là một ông vua trị vì vương quốc của mình bằng hối lộ, súng đạn và tống tiền. Lão cai quản cả New Orleans và sự giàu có của lão thì không kể xiết. Các ông trùm của gia đình Mafia khác trên khắp Hoa Kỳ kính nể lão và thường xuyên tìm kiếm lời khuyên bảo của lão.
Vào lúc này, Anthony Orsatti đang trong tâm trạng vui vẻ Lão mới ăn sáng với tình nhân, ả đàn bà mà lão giữ trong căn hộ của một tòa nhà mà lão là chủ ở bên hồ Vista. Lão tới với ả ba lần một tuần, và sáng nay thì đặc biệt hài lòng. Ả làm với lão trên gi.ường những trò mà mọi người đàn bà khác khó lòng hình dung ra được, và Orsatti thực bụng tin rằng đó là vì ả yêu lão ghê gớm. Tổ chức của lão hoạt động trôi chảy, bởi lẽ Anthony Orsatti biết cách giải quyết những khó khăn trước khi chúng biến thành những rắc rối. Lão đã có lần giải thích cái triết lý của mình cho Romano. “Đừng bao giờ để một khó khăn nhỏ trở thành một cái rắc rối lớn, Joe, nếu không thì nó sẽ phình ra như quả cầu ấy. Anh có một thủ hạ nào đó bắt đầu nghĩ rằng nó phải được chia phần lớn hơn, anh cho nó lặn luôn, hiểu không. “Sẽ chẳng còn quả cầu tuyết nào nữa. Hay anh gặp một thằng ngu nào đó ở Chicago. Đòi được mở một hoạt động nhỏ nào đó ở đây, tại New Orleans này. Anh phải hiểu ngay rằng các hoạt động nhỏ kia sẽ trở thành một hoạt động lớn và làm hụt lợi nhuận của anh. Vậy anh nói đồng ý và khi hắn đến đây, anh cho tiêu luôn cái thằng chó đẻ ấy đi. Không còn quả cầu tuyết nào nữa. Hình dung ra bức tranh chưa hả?”.
Joe Romano đã hình dung được.
Anthony Orsatti yêu quý Romano. Với lão, hắn như một đứa con trai vậy, Orsatti đã nhặt hắn từ khi hắn còn là thằng nhãi con bụi đời và đã rèn cặp để giờ đây thì hắn đã khá cứng cáp. Hắn tinh ranh, và Lại thành thật. Trong mười năm Bomano đã leo lên địa vị phó, giám sát toàn bộ các hoạt động của gia đình và chỉ phải báo cáo cho Orllatti.
Lucy, thư ký riêng của Orsatti, gõ cửa rồi bước vào. Cô ta hai mươi bốn tuổi, tết nghiệp đại học, với gương mặt và thân hình đã từng giành chiến thắng trong vài cuộc thi hoa hậu vùng. Orsatti vốn thích có những cô gái trẻ đẹp vây quanh mình.
Lão nhìn đồng hồ trên bản, 10 giờ 45. Đã bảo Lucy là không muốn bị quấy rầy cho tới trưa kia mà, lão cáu kỉnh. “Cái gì?”.
“Tôi xin lỗi vì đã quấy rầy, ngài Orsatti. Có một cô Gìgi Dupres nào đó gọi tới. Cô ta có vẻ bị kích động, nhưng nhất định không chịu nói với tơi là muốn gì. Cô ta khăng khăng đời nói trực tiếp với ngài. Tôi nghĩ rằng có chuyện gì dó quan trọng”.
Orsatti ngồi yên, những cái tên vùn vụt trôi qua óc lão Gigi Dupres? Một trong những cô ả mà lão đã đưa vào phòng lần tới Las Vegas mới rồi chăng?
Gigi Dupres? Lão không nhớ nổi cái tên đó, vậy mà lão vẫn tự hào là cái dầu của lão không bao giờ quên cái gì. Vì tò mò, Orsatti nhấc máy lên và vẫy tay cho Lucy ra ngoài.
“Hả, ai đấy?”.
“Đó có phải ngài Anthony Orsatti không?”.
Cô ta nói giọng Pháp.
“Có chuyện gì?”.
“Ôi, ơn Chúa là tôi đã gặp được ngài, ngài Orsatti!”.
Lucy nói đúng. Con mẹ quả đang bị kích động.
Anthony Orsatti không muốn quan tâm. Lão định gác máy thì cô ta tiếp tục.
“Xin ngài chặn ngay ông ta lại”.
“Cô gái, tôi không hiểu cô đang nới về ai, và tôi rất bận ...”.
“Về Joe của tôi, Joe Romano. Ông ấy hứa sẽ mang tôi đi cùng, ngài có hiểu không?”.
“Này, có chuyện gì với Joe thì hãy nói với anh ta. Tôi không phải bảo mẫu của hắn”.
“Ông ấy nói dối tôi? Tôi mới phát hiện rằng ông ấy sẽ đi Brazil mà không cho tôi đi cùng. Một nửa số ba trăm ngàn đô la đó là của tôi”.
Tới lúc này thì Anthony Orsatti đã quan tâm tới câu chuyện. “Cô nói ba trăm ngàn nào vậy?”.
“Số tiền mà Joe cất giữ trong tài khoản của ông ấy chứ còn gì nữa. Khoản tiền mà ông ấy nói thế thế nào nhỉ? À, chớp được”.
Anthony Orsatti trở nên rất quan tâm.
“Xin ngài bảo Joe phải cho tôi cùng đi Brazil với ông ấy. Xin ngài! Ngài sẽ làm thế chứ?”.
“Được” Anthony Orsatti hứa. “Tôi sẽ lưu ý việc này”!.
Phòng làm việc của Joe Romano rất hiện đại, toàn màu trắng, do một trong những nhà trang trí nội thất nổi tiếng nhất New Orleans trình bày. Những mảnh màu duy nhất là ba bức họa của trường phái ấn tượng Pháp treo trên tường.
Romano rất tự hào về óc thẩm mỹ của mình. Hắn đã phải lăn lộn suốt, bắt đầu từ các khu nhà ổ chuột của New Orleans, và trên con đường đó hắn đã học được nhiều. Hắn biết thưởng thức đôi chút đối với cả hội họa lẫn âm nhạc. Và hắn cũng rất rành về các loại rượu trên đời này. Nếu sự thực là Anthony Orsatti sở hữu vùng New Orleans này thì sự thực cũng lại là Joe Romano điều hành nó cho lão già.
Thư ký của hắn bước vào. “Thưa ông Romano, có người chuyển tới một chiếc vé đi Rio de Janeiro. Tôi sẽ viết séc chứ ạ? COD mà”.
“Rio de Janeiro?” Romano lắc đầu. “Bảo anh ta biết là có sự nhầm lẫn gì đó”.
Người giao hàng đứng lấp ló ở ngưỡng cửa. “Tôi được Bai mang tới cho ông Joseph Romano ở địa chỉ này mà”.
“Ô, người ta đã bảo anh sai. Cái gì vậy, một trò quảng cáo mới của ngành hàng không chăng?”.
“Không thưa ngài. Tôi ...”.
“Đưa xem nào”. Romano cầm tấm vé từ tay người giao hàng. “Thứ sáu. Tại sao tôi lại phải đi Rio vào thứ sáu nhỉ!”.
Đó là một câu hỏi hay đấy”. Anthony Orsatti nói. Lão đã đứng ngay sau người giao hàng. “Tại sao lại phải đi thế, Joe?”.
“Một nhầm lẫn ngớ ngẩn nào đó, Thony”. Romano đưa trả chiếc vé cho người giao hàng. “Mang nó về nơi cũ của nó và ...”.
“Đừng nhanh quá thế”. Anthony Orsatti cầm lấy chiếc vé, xem xét. “Một chiếc vé hạng nhất, ghế đặc biệt, được hút thuốc, đi Rio de Janeiro vào thứ sáu.
Một chiều?”.
Joe Romano cười lớn. Ai đó đã nhầm lẫn”. Hắn quay sang cô thư ký.
“Madge, gọi cho đại lý vận chuyển và bảo rằng họ là một lũ ngốc. Một gã ngớ ngẩn tội nghiệp nào đó sắp mất toi chiếc vé rồi”.
Joleen, thư ký phụ bước vào. “Xin lỗi, thưa ông Romano. Hành lý đã tới.
Ông có cho phép tôi ký nhận không ạ?”.
Joe Romano lừ mắt nhìn cô ta. “Hành lý nào? Tôi không đặt mua bất kỳ thứ gì cả”.
“Bảo họ mang vào đây”, Anthony Orsatti ra lệnh. “Lạy Chúa”. Joe Romano nói. “Mọi người đã hóa điên cả rồi hay sao không biết”.
Một người giao hàng bước vào mang theo ba chiếc va li Vuitton.
“Thế này là thế nào? Tôi chưa bao giờ đặt mua những thứ đó cơ mà”.
Người kia kiểm tra lại phiếu giao hàng. “Phiếu viết là ông Joseph Romano, phố Poydas, phòng 408, phải không ạ?”.
Joe Romano mất bình tĩnh. “Tao không quan tâm nó viết cái mẹ gì. Tao không đặt mua. Mang đi ngay”.
Orsatti xem xét mấy chiếc va li. “Họ in cả chữ cái đầu tên của anh lên đây mà, Joe”.
“Cái gì? Ồ đợi một phút? Có khi là một thứ quà tặng gì đó.
“Hôm nay sinh nhật anh à?”.
“Không. Song ông biết bọn đàn bà đấy, Tony. Họ luôn luôn tặng quà cho cánh đàn ông”.
“Anh có chuyện gì ở Brazil thế”. “Anthony Orsatti căn vặn. Brazil?” Joe Romano cười lớn. “Đây có thể là sự đùa bỡn của một kẻ nào đó. Tony”.
Orsatti mỉm cười lịch thiệp, rồi quay sang mấy cô thư ký và hai người giao hàng, nói nhẹ. “Ra ngoài”.
Khi cánh cửa đã đóng lại sau lưng họ, Anthony Orsatti lên tiếng. “Joe, anh có bao nhiêu tiền gửi trong tài khoản nhà băng Joe Romano nhìn lão ngạc nhiên.
“Tôi không rõ. Một nghìn năm trăm, tôi đoán chừng vậy, có thể là một hai nghìn gì đó, sao cơ?
“Không có gì, sao anh không gọi tới nhà băng kiểm tra lại xem?”.
“Để làm gì? Tôi ...”.
“Kiểm tra xem sao, Joe”.
“Được thôi. Nếu điều đó làm ông vui lòng”. Hắn bấm chuông gọi thư ký.
“Cho tôi nói chuyện với kế toán trưởng của ngân hàng First Merchant”.
Một phút sau chị ta đã chờ ở đầu dây kia.
“Chào người đẹp. Joseph Romano đây. Cho tôi biết cán cân tiền mặt hiện nay trong tài khoản của tôi nào. Ngày sinh của tôi là 14 tháng Mười”.
Anthony Orsatti cầm ống nghe của chiếc máy phụ.
Một lát sau, người kế toán trưởng đã trở lại trên máy.
“Xin lỗi đã để ông phải chờ, ông Romano. Cho tới sáng nay, trong tài khoản của ông có ba trăm mười ngàn chín trăm lẻ năm đô la và ba mươi lăm xu”.
Romano tái mặt. “Bao nhiêu?”.
“Ba trăm mười ngàn chín trăm lẻ năm ...”.
“Đồ ngu như lợn?” Hắn quát lên. “Tao không cần ngần ấy tiền trong tài khoản của mình. Mày nhầm rồi. Cho tao nói chuyện với ...”.
Hắn thấy cái ống nghe bị nhấc khỏi tay, và Anthony Orsatti đã gác nó xuống máy. “Tiền đó ở đâu ra thế, Joe?”.
Mặt Joe Romano xanh nhợt. “Thề có Chúa, Tony, tôi không hề biết tý gì về số tiền đó”.
“Không à?”.
“Trời, ông phải tin tôi? Ông có biết chuyện gì đang xảy ra? Kẻ nào đó đang chơi tôi”.
“Phải là một người rất thích anh. Hắn tặng anh một, món quà tống tiễn tới ba trăm ngàn đô la”.
Orsatti nặng nề ngồi xuống chiếc ghế bành kiểu scalamander bọc lụa và nhìn Joe Romano hồi lâu, rồi nói rất bình thản. “Tất cả đã được thu xếp, hả? Chiếc vé một chiều đi Rio, hành lý mới ... Có vẻ như anh đang chuẩn bị cho một cuộc sống mới ấy nhỉ”.
“Không!” Vẻ hết hoảng lộ rõ trong giọng nói của Joe Romano. “Lạy Chúa, ông biết tôi rõ hơn thế nhiều, Tony.
Tôi đã luôn luôn đúng mực với ông. Với tôi, ông như một người cha”. Hắn toát mồ hôi. Có tiếng gõ cửa, và Madge ló đầu vào, chìa ra một chiếc phong bì.
“Tôi xin lỗi vì đã đường đột, ông Romano. Có một bức điện gửi cho ông, nhưng mà ông phải tự ký nhận nó”.
Với bản năng của một con thú bị sa bẫy, Joe Romano đáp, Lúc khác. Tôi đang bận”.
“Tôi sẽ nhận cho”, Anthony Orsatti nói và lão đã rời chiếc ghế trước khi cô thư ký kịp khép cửa. Lão đọc bức điện kỹ càng, rồi nhìn Joe Romano chằm chằm.
Bằng giọng trầm đục mà Romano khó có thể nghe được Anthony Orsatti nói “Tôi sẽ đọc cho anh nghe, Joe”. VUI LÒNG GHI NHẬN VIỆC NGÀI ĐẶT THUÊ CĂN HỘ CÔNG CHÚA CỦA CHÚNG TÔI TRONG HAI THÁNG BẮT ĐẦU TỪ THỨ SÁU, NGÀY MỒNG MỘT THÁNG CHÍN. Dưới ký.
MONTALBAND, GIÁM ĐỐC, RIO OTHON PLACE, RIO DE JANEIRO. Đó là căn buồng anh đặt mà, Joe. Anh sẽ không cần tới nó nữa, có phải không?”


-----------------------------------------------------------
 
Chương 13


Andre Gillan đang ở trong bếp bận bịu với món salát kiểu Ý thì chợt nghe những tiếng động chối tai đầy quái gở và chỉ một tích tắc sau tiếng êm dịu của máy điều hòa không khí lạch xạch rồi tắt ngấm.
Andre giậm chân kêu lên. “Cứt thật! Lại vào đúng tối nay cơ chứ”.
Anh ta chạy ra cái buồng xép nơi để bảng điện và đóng mở từng cầu dao.
Chẳng có gì tốt hơn.
Ôi, ông Pope sẽ nổi giận mất. Chắc chắn là thế. Andre biết rõ là ông chủ của mình ngóng đợi cuộc bài poker tối thứ sáu hàng tuần nảy như thế nào. Đó là một thói quen từ nhiều năm nay, với cùng một nhóm người chơi ổn định.
Không có điều hòa không khí, ngôi nhà trở nên không thể chịu nổi. Thực sự là không thể chịu nổi. New Orleans vào tháng Chín này chỉ hợp với đám người nhếch nhác mà thôi. Ngay cả khi mặt trời đã lặn thời tiết vẫn cứ nóng và ấm.
Andre quay vào bếp và nhìn đồng hồ. Bốn giờ chiều rồi. Khách khứa sẽ đến vào lúc tám giờ đúng. Andre đã nghĩ tới việc gọi điện cho ông chủ để báo về sự rắc rối này, nhưng rồi lạl nhớ ông luật sư đã nói là sẽ bận rộn cả ngày ở tòa án.
Ông chủ đáng kính thật quá bận - Andre nghĩ, ông ấy cần được nghỉ ngơi. Và giờ thì thế này ...
Andre rút ngăn kéo, lấy ra chiếc điện thoại màu đen và quay số.
Sau ba hồi chuông, một giọng đều đều cất lên. “Bạn đang làm việc với hãng thch vụ điều hòa không khí Eskimo.
Lúc này chúng tôi không có sẵn các kỹ thuật viên. Nếu bạn để lại tên, địa chỉ và một lời chỉ dẫn ngắn, chúng tôi sẽ tìm tới bạn ngay khi có thể. Xin hãy đợi tín hiệu”.
Đến chịu thật? Andre rất bực bội khi phải nghe lời một cái máy.
Một tiếng “Bip” khó chịu réo vào tai. Ạndre nói. “Đây là nhà riêng của ngài Perry Pope, 42 Phố Charles. Hệ thống điều hòa không khí của chúng tôi đã ngừng hoạt động. Đề nghị phái người tới đây càng sớm càng tốt”.
Anh ta đặt sầm ống nghe xuống. Tất nhiên là không sẵn thợ rồi. Có thể là điều hòa không khí của cái thành phố chết tiệt này đều đang hỏng cả. Có ai đến ngay được thì tốt quá. Andre lẩm bẩm. Ông Pope hay cáu kỉnh lắm.
Đã ba năm nay, Andre làm đầu bếp cho ông luật sư, và đã biết chủ của mình đầy thế lực ra sao. Thật ghê gớm.
Chỉ cần búng ngón tay là khối kẻ phải nhảy dựng Andre Gillan thấy ngôi nhà dường như bắt đầu bực bội. Nếu không làm được một cái gì đó để cứu vãn tình thế này thì mọi chuyện sẽ thật tệ hại.
Ba mươi phút sau đó, khi tiếng chuông cửa reo vang thì quần áo Andre đã ướt đẫm mồ hôi, và căn bếp thì như một cái lò. Gillan vội chạy ra mở cánh cửa hậu.
Hai anh thợ trong bộ đồng phục đứng ngay trước cửa, vai đeo những hòm đồ nghề. Một da đen cao lớn và một da trắng, thấp hơn, với bộ mặt buồn ngủ, đầy mệt mỏi. Ở lối đi ra phía sau có chiếc xe chuyên dùng của họ.
“Máy điều hòa trục trặc phải không?”. Người da đen hỏi.
Đúng. ơn Chúa các anh đã đến. Hãy cho nó làm việc trở lại, và nhanh lên.
Khách khứa tới bây giờ rồi. Người đàn ông da đen bước lại bên lò nướng hít hít và nói. “Thơm đấy”.
“Nào!” Gillian giục. “Làm gì đi chứ”.
“Hãy cho bọn này ngó cái nơi đặt máy đã”. Người da trắng nói. “Nó ở đâu?”.
Andre vội đưa họ tới phòng kho, nơi đặt hệ thống điều hòa không khí.
“Cái máy này tốt lắm, Ralph”. Người da đen nói với bạn đồng nghiệp.
“Ừ Ai. Họ đâu có làm những cái như thế này nữa”.
“Thế thì chuyện quỷ quái gì mà nó không chạy được?”.
Gillian kêu lên.
Họ quay lại nhìn anh ta.
“Thì đã có chúng tôi”, Ralph nói vẻ chắc nịch. Anh ta quỳ xuống, mở một cái nắp nhỏ ở phía dưới chiếc máy, lấy ra cái đèn bấm, rồi nằm rạp xuống để ngó vào bên trong.
Sau một lát, anh ta lồm cồm đứng lên. “Chỗ hỏng không phải ở đây”.
“Vậy thì ở đâu?” Andre hỏi.
“Có thể là có chỗ chập mạch ở mạng ngoài và làm chập cả hệ thống. Có bao nhiêu máy điều hòa lẻ trong nhà?”.
“Mỗi phòng có một chiếc. Để xem nào. Vậy ít nhất là chín”.
“Đó có thể là vấn đề đấy. Quá tải. Hãy cho chúng tôi kiểm tra xem”.
Cả ba kéo nhau trở ra. Khi họ đi ngang phòng khách.
Ai nói. “Ông Pope có căn phòng quả là đẹp”.
Căn phòng khách được bày biện tinh tế, đầy những đồ cổ, đáng giá cả một gia tài lớn. Những tấm thảm Ba Tư màu sắc rực rỡ được trải kín sàn. Bên trái phòng khách là phòng ăn lớn, và phía bên phải là một phòng kín đáo, trong kê một cái bàn để chơi bài, phủ nỉ xanh ở góc trong là cái bàn tròn sẵn sàng cho bữa ăn tối. Hai anh thợ bước vào căn phòng này, rọi đèn bấm vào chiếc máy điều hòa không khí gắn cao trên tường.
Hừ?” Anh ta lẩm bẩm và nhìn lên khoảng trần phía trên cái bàn chơi bài.
“Bên trên phòng này là cái gì?”.
“Căn buồng áp mái đấy mà”.
“Cho chúng tôi xem nào”.
Hai anh thợ theo Andre lên căn buồng áp mái, một cái buồng dài, trần thấp, bụi bặm và đầy mạng nhện.
Al bước tới một cái bảng điện gắn trên tường. Anh ta kiểm tra cái búi dây điện. “Ha?”.
“Anh thấy rồi à?” Anđre sốt sắng hỏi.
“Cái bình ngưng hỏng rồi. Do độ ẩm cao. Chúng tôi gặp hàng trăm trường hợp như thế này trong tuần. Nó bị chập Ta sẽ phải thay bình mới”.
“Ôi lạy Chúa! Có lâu không?”.
“Không. Chúng tôi có bình mới ở ngoài xe”.
“Xin nhanh lên cho”. Anđre cẩn thận. “Ông Pope sắp về đến nơi rồi”.
“Anh cứ để đấy cho bọn này”, Al đáp.
Andre thú thật. “Tôi phải làm cho xong món trộn xa-lát.
Các anh có thể tự tìm lối trở lại căn buồng mãi không? Al giơ một tay lên.
“Có gì đâu. Anh cứ làm việc của anh đi, bọn tôi sẽ làm việc của mình”.
“Ồ, cám ơn. Xin cám ơn anh”.
Andre trông theo hai anh thợ đi ra ngoài xe và trở lại với hai túi đựng dụng cụ kềnh càng. “Nếu cần gì”, anh ta bảo hai người “thì cứ gọi tôi nhé”.
Hai anh thợ đi lên trên gác, còn Andre thì trở vào bếp.
Khi Ralph và Al tới căn buồng áp mái, họ mở túi đồ nghề và lấy ra một ghế gấp nhỏ, một cái khoan với một mũi khoan thép, một khay bánh kẹp, hai lon bia và một cặp ống nhòm cỡ 12 - 40 dùng quan sát các mục tiêu ở xa trong ánh sáng yếu, và hai con chuột bạch đã được tiêm ba phần tư ống axêtin promadun.
Hai người bắt tay vào việc.
“Mụ Ernestine yêu quý sẽ phải tự hào về tôi”. Al cười giòn tan.
Lúc đầu, Al đã khăng khăng phản đối.
“Chắc chắn là em loạn óc rồi. Anh sẽ không dính dáng gì với Perry Pope đâu. Thằng cha đàng điếm sẽ quật anh đến nát mông ra mất”.
Nhưng rồi anh không bao giờ còn phải e ngại về hắn nữa. Bời hắn sẽ chẳng còn có thể làm phiền ai”.
Họ đang nằm trần truồng trên cái gi.ường đệm nước trong căn phòng của Ernestine.
“Thối được, vậy em được gì trong vụ này, em yêu?” Al căn vặn.
“Hắn là đồ đểu cáng”.
“Này, cô bé, thế giới này đầy rẫy những đồ đểu cáng, em đâu có dành cả đời vào việc bóp chết chúng nó được”.
“Cứng phải. Song em làm điều này vì một người bạn”.
“Tracy phải không?”.
“Đúng vậy”.
Al rất mến Tracy. Họ đã cùng ăn chiều với nhau ngày nàng mới ra tù.
“Cô ấy là một tiểu thư có học”. Al thừa nhận. “Nhưng tại sao ta lại phải chìa cổ ra vì cô ấy?
“Bởi vì nếu không, cô ấy sẽ phải kiếm một người khác - người mà chẳng thế nào tốt bằng nửa anh thôi, và nếu bị tóm, chúng sẽ ném cô ấy trở lại nhà tù mất”.
Al ngồi dậy trên gi.ường và nhìn Ernestine đầy tò mò.
“Điều này có nhiều ý nghĩa với em hả, cô bé?”.
“Vâng, anh yêu”.
Không bao giờ cô có thể làm cho anh ta hiểu điều ấy, song sự thật thì đơn giản là Emestine không chịu nổi ý nghĩ việc Tracy bị ném trở lại nhà tù với Bertha Lớn.
Không hẳn là Ernestine chỉ quan tâm tới Tracy, mà còn chính là bản thân mình nữa. Cô đã tự đặt mình làm người bảo hộ cho Tracy và nếu Bertha Lớn có thể động hay vào Tracy thì điều đó có nghĩa là Ernestine thất bại.
Vậy mà giờ đây cô chỉ nói. “Vâng, nó có nhiều ý nghĩa đối với em lắm, anh yêu quý. Anh sẽ làm chứ?”.
Al càu nhàu. “Quỷ quái, nhưng chắc chắn một mình anh không thể làm nổi”.
Và Ernestine biết là chị đã đặt ý định. Chị hôn dọc tấm thân dài và khơẻ mạnh của anh, thì thào. “Thế chẳng phải là Ralph yêu quý của chúng ta đã được thả ra cách đây ít hôm rồi à? ...”.
Tới 18 giờ 30, hai anh thợ mới trở xuống bếp, khắp người đẫm mồ hôi và bụi.
“Lắp xong chưa?” Andre sốt ruột hỏi.
“Thật khốn nạn” Al đáp lại “Anh biết đấy, cái của anh là bình kiểu AOIDC”.
“Đừng dài dòng”, Andre sốt ruột cắt ngang. “Anh đã lắp vào chưa?”.
“Rồi. Xong cả rồi. trong năm phút nữa chúng tôi sẽ làm cho nó hoạt động trở lại, tốt như môi tinh”.
“Tuyệt diệu! Nếu các anh để lại hóa đơn ...”.
Ralph lắc đầu “Đừng bận tâm chuyện đó, Công ty sẽ thanh toán sau”.
“Chúc các anh may mắn. Tạm biệt”.
Andre trông theo hai người thợ đi ra qua cửa sau, mang theo các túi đồ nghề lỉnh kỉnh. Khi đã khuất tầm mắt anh ta, họ đi vòng ra sân trước và mở cái tủ đựng bình ngưng phía ngoài của hệ thống điều hòa không khí cả ngôi nhà.
Ralph soi đèn bấm cho AI nói ô lại những nơi đây mà chính anh ta đã gỡ ra một vài giờ trước đó. Ngay lập tức, hệ thống hoạt động trở lại.
AI ghi lại số điện thoại trên tấm phiếu dịch vụ gắn trên bình thường. Một lát sau khi gọi đến số máy ấy và nghe giọng nói ghi âm của Hãng dịch vụ điều hòa không khí Eskimo, AI nói. “Đây là nhà riêng của ông Perry Pope, 42 phố Charles. Hệ thống điều hòa không khí của chúng tôi hiện đã hoạt động tốt. Xin đừng phái người tới nữa. Chúc một ngày đẹp đẽ”.
Cuộc chơi bài Poker tối thứ sáu hàng tuần ở nhà Perry Pope luôn được những người tham gia hào hứng trông đợi. Đó là một nhóm cố định và được lựa chọn cẩn thận, gồm có:
Anthony Orsatti, Joe Romano, thẩm phán Henry Lawrence, một ủy viên hội đồng thành phố, một thượng nghị sĩ, và dĩ nhiên là chủ nhà nữa. Tiền đặt bài cao, đồ ăn hảo hạng, và người chơi thì đầy quyền lực hắc ám.
Ở trong phòng ngủ, Perry Pope đang mặc chiếc quần trắng tinh và chiếc áo sơ mi kiểu thể thao. Hắn lẩm nhẩm khoái chí, mơ tưởng tới cuộc bài buổi tối.
Dạo này hắn đang gặp vận đỏ. Thực tế thì cả cuộc đời mình đúng là một chuổi dài may mắn, hắn nghĩ.
Bất kỳ ai ở New Orieans muốn được một sự thuận lợi pháp lý nào đó, thì Perry Pope chính là vị luật sư cần tìm tới Quyền lực của hắn có được từ các mối liên hệ với gia đình Orsatti. Người ta gọi hắn là người dàn xếp, và thực tế hắn có thể thu xếp mọi chuyện từ một cái vé tâu xe tới một lời tố cáo dính tới ma túy, hay một lời buộc tội giết người. Cuộc sống, với hắn, thật dễ chịu.
Khi Anthony Orsatti đến, lão mang theo một người khách. “Joe Romano sẽ không chơi nữa”, Orsatti loan báo.
“Các anh chắc đều chưa biết thanh tra Newhouse”.
Mấy người đàn ông bắt tay làm quen với nhau.
“Thưa các vị, đồ uống ở bàn bên”, Perry Pope nồi, “chúng ta sẽ ăn tối Bau.
Tại sao không bắt đầu đi nhỉ?”.
Họ ngồi xuống những cái ghế quen thuộc của mình quanh chiếc bàn phủ nỉ xanh trong căn phòng nhỏ riêng biệt kề phòng khách. Orsatti chỉ vào cái ghế trống vốn là chỗ của Joe Romano và nói với thanh tra Newhouse, “Từ giờ trở đi đó sẽ là chỗ của anh, Mel”.
Trong khi những người kia mở mấy bộ bài mới, Pope bắt đầu chia các phần.
Hắn giải thích với thanh tra Newhouse. “Những phần đen là năm đô la, phần đỏ là mười đô la, xanh năm mươi đô la, trắng một trăm. Trước tiên mỗi người mua lấy một số phần trị giá năm trăm đô la, chúng ta chơi theo lối đặt cửa, ha người xướng bài, nhà cái chọn.
“Hợp với tôi đấy”. Gã thanh tra đáp.
Anthony, Orsatti đang ở trong một tâm trạng khó chịu. “Nào, bắt đầu đi”, giọng lão như tiếng thì thầm nghẹn lời. Một dấu hiệu chẳng hay ho gì. Perry Pope sẵn lòng bỏ ra một đống tiền để biết được chuyện gì xảy ra với Romano, song gã biết rõ là không nên nêu ra. Khi nào có thể thì lão sẽ bản luận với gã.
Những ý nghĩ của Orsatti thật đen tối:
Mình đã như bố nó, thằng Joe Romano. Mình tin cậy nó, cho nó làm phó. Và thằng chó đẻ ấy đã đâm vào lưng mình. Nếu con đàn bà người Pháp kia không cuống cuồng gọi tới thì nó chuồn mất rồi. Hừ, nó sẽ chẳng bao giờ mang được cái gì mà chuồn nữa. Khi mà nó đang ở đó. Nếu nó thông minh đến thế thì cứ ở đó mà chơi với đám cá.
“Tony, ông thế nào?”.
Anthony Orsatti chú ý trở lại vào ván bài. Trên cái bàn này, những món tiền lớn đã mất và được. Anthony Orsatti luôn bực bội khi thua, và không phải vì chuyện tiền bạc. Lão không thể chịu nổi tư thế thua trong bất kỳ chuyện gì. Lão nghĩ về mình như một kẻ sinh ra là để chiến thắng. Trong cuộc sống, chỉ những kẻ chiến thắng mới có được vị trí như lão. Đã sáu tuần lễ qua, Perry Pope gặp vận đỏ một cách khủng khiếp và tối nay Anthony Orsatti quyết không để thế nữa.
Thế nhưng tối nay, dù chơi thế nào chăng nữa Anthony Orsatti vẫn thấy là lão đang thua. Lãơ bắt đầu tăng tiền đặt, chơi một cách táo bạo hòng gỡ lại. Tới nửa đêm, khi họ ngừng lại để ăn bữa tối mà Andre dọn lên, thì Orsatti đã thua tới mấy nghìn đô la và Perry Pope là kẻ thắng lớn.
Các món ăn thật quyến rũ. Thường thường thì Orsatti rất khoái bữa ăn này, song đêm nay lão chị ngong ngóng trở lại canh bạc. Ông không dùng à, Tony”.
Perly Pope hỏi.
“Ta không đói”. Orsatti với chiếc bình cà phê bằng bạc ở bên cạnh, rót vào cái ly sứ Herend và ngơi xuống bàn poker. Lão nhìn mấy kẻ đang ăn và chỉ muốn họ ăn mau lên. Lão sốt ruột gỡ lại tiền. Khi bắt đầu uống cà phê, thì một vật nhỏ xíu rơi vào trong ly của lão. Nhăn mặt, lão dùng thìa vớt cái vật đó lên xem, thì ra lạ một mẩu vữa trát tường. Lão ngước nhìn lên trần, và một cái gì đó rơi đúng trán lão. Lão đột nhiên nghe thấy cả những tiếng động phía trên đầu.
“Quỷ quái gì trên gác thế” Orsattl hỏi.
Perry Pope đang kể giữa chừng giai thoại gì đó cho thanh tra Newhouse.
“Xin lỗi, ông nói gì cơ ạ, Tony?”.
Lúc này những tiếng động càng trở nên rõ hơn. Những mẩu vữa liên tiếp rơi xuống mặt bàn.
“Tôi cảm tưởng như là có chuột ở trên đó”. Viên thượng nghị sĩ nói.
“Trong nhà này thì không thể có chuột”, Perry Pope bực mình.
“Hừ, chắc chắn là anh phải có một thứ quái quỉ gì trên đó”, Orsatti cáu kỉnh.
Một mẩu vữa lớn lại rơi xuống mặt bàn.
“Tôi sẽ sai Andre coi việc này”. Pope nói. “Nếu ta đã ăn xong, sao không trở lại bàn chơi đi nhỉ”.
Anthony Orsatti chăm chú nhìn một lỗ nhỏ trên trần nhà ngay phía trên đầu lão. “Khoan đã. Ta hãy lên đó ngó xem chuyện gì”.
“Để làm gì, Tony? Andre có thể ...”.
Orsatti đã nhỏm dậy và đi về hướng cầu thang.
Những người kia nhìn nhau rồi vội vã đi theo lão.
“Có thể là một con sóc đã lọt vào căn buồng áp má!”, Perry Pope đoán. “Vào thời gian này trong năm, đám sóc có ở mọi nơi. Có thể là chúng muốn giữ gìn cái của nợ kia cho mùa đông tới”. Hắn cười lớn với câu đùa của mình.
Khi bọn họ tới căn buồng áp mái, Orsatti đẩy cánh cửa ra và Perry Pope bật đèn lên. Họ thoáng thấy ngay hai con chuột bạch đang điên cuồng chạy quanh căn buồng”.
“Chúa ơi,” Perry Pope kêu lên. “Có chuột thật”.
Anthony Orsatti không để ý Pope nói gì, lão đang chăm chú quan sát. Ỡ ngay giữa buồng là một cái ghế kiểu dùng khi đi cắm trại, trên có một gói bánh kẹp và hai lon bia đã mở. Cạnh cái ghế, ngay trên sàn, là một ống nhòm. Orsatti bước lại, lật từng thứ lên xem xét. Rồi lão quỳ xuống trên mặt sàn bụi bặm. Và gạt cái ống nhỏ chặn trên cái lỗ được khoan xuyên xuống qua trần nhà, Orsatti ghé mắt nhìn qua lỗ đó. Ngay bên dưới lão là cái bàn chơi - nhìn thấy khá rõ ràng.
Perry Pope đang đứng như trời trồng giữa buồng. “Ma quỷ nào mang những thứ linh tinh để đây không biết? Tôi sẽ cho thằng Andre một trận về vụ này”.
Orsatti chậm rãi đứng lên và phủi bụi trên quần.
Perly Pope đưa mắt nhìn xuống sàn. “Trông kìa!” Hắn kêu lên. “Chúng để lại cái lỗ ma quỷ kia trên trần. Đám công nhân ngày nay chẳng đáng một cục cứt”.
Hắn cúi xuống và nhìn qua cái lỗ, mặt đột nhiên tái đi Hắn đứng dậy hoảng hốt nhìn quanh, và thấy cả mấy người kia đang đứng nhìn hắn chằm chằm.
“Trời!” Perly Pope nói. “Các vị không nghĩ là tôi ...?
Nào các vị, tôi đây. Ôi, không biết tý gì về chuyện này cả.
Tôi không lừa các vị đâu. Lạy Chúa chúng ta là chỗ bạn bè”. Tay hắn vụt đưa lên miệng, và hắn bắt đầu giận dữ gặm gặm vào đó.
Orsatti vỗ vỗ lên cánh tay hắn. “Đừng bận tâm về việc đó”. Giọng lão gần như không nghe được nữa. Perry Pope vẫn tuyệt vọng cắn chặt ngón tay cái của mình.
 
Chương 14


“Thế là xong hai kẻ, Tracy”. Ernestine Littlechap cười giòn tan. “Ngoài phố người ta xì xào rằng ông bạn luật sư Perry Pope của cô không còn hành nghề luật nữa rồi. Ông ta đã gặp một tai nạn vô cùng đáng tiếc”.
Họ đang nhấm nháp bánh với cà phê sữa trong một tiệm cà phê nhỏ trên phố Royal.
Ernestine cười khúc khích nói. “Cô thật có cái đầu, cô bé ạ. Thế cô không làm ăn cùng với tôi à?”.
“Cảm ơn, chị Erllestine. Tôi còn có những kế hoạch khác”.
Ernestine sốt sắng hỏi. “Tiếp theo là kẻ nào vậy?”.
“Lawrence. Thẩm phán Henry Lawrence”.
Henry Lawrence bắt đầu sự nghiệp của ông ta từ chỗ là một viên luật sư tỉnh lẻ ở Leesvilla, Louisiana. Ông ta có rất ít năng khiếu về luật. Thế nhưng lại có hai thứ quan trọng:
Diện mạo gây ấn tượng, và rất uyển chuyển về mặt đạo lý.
Tnết lý của ông ta là coi luật pháp như một cái cần câu mảnh mai để cớ thể uốn cong sao cho phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Tâm niệm điều đó, trong đầu, thì việc ông ta hành nghề phát đạt với một nhóm khách hàng đặc biệt chỉ sau khi chuyển đến New Orleans ít lâu, chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Ông ta từ chỗ nhận những vụ vi phạm nhỏ nhặt, tai nạn giao thông đến chỗ nhận giải quyết những vụ vi phạm lớn và những trọng án, trọng tội và cho tới lúc ông ta đã là một chuyên gia trong việc mua chuộc bồi thẩm đoàn, làm mất uy tín các nhân chứng, và hối lộ ai là người có thể giúp mình trong kiện tụng. Nói tóm lại ông ta là một kiểu người ưa thích của Anthony Órsatti, và hai kẻ này gặp nhau là điều không tránh khỏi. Đó là một cuộc hôn nhân trên thiên đường của Mafia.
Lawrence trở thành người phát ngôn của gia đình Orsatti, và khi thời cơ đến, Orsatti đã đưa ông ta vào cái ghế thẩm phán tòa án.
“Tôi không biết là cô sẽ làm cách nào để trừ khử lão thẩm phán này”.
Ernestine nói. “Lão ta giàu có, nhiều thế lực và không thể nào đụng tới được”.
Lão ta giàu có và nhiều thế lực”, Tracy đáp. “Thế nhưng không phải là không thể nào đụng tới được”.
Tracy tính toán kế hoạch của mình, song khí gọi điện tới phòng làm việc của thẩm phán Lawrence thì thấy ngay là phải thay đổi nó.
“Xin cho tôi nói chuyện với thẩm phán Lawrence”.
Một cô thư ký trả lời. “Rất tiếc, thẩm phán Lawrence không có ở đây”.
“Liệu khi nào ông ấy trở về?”.
“Thực sự là tôi không thể nói trước”.
“Có việc rất quan trọng. Sớm mai ông ấy có ở đấy không “Không. Thẩm phán Lawrence hiện không có trong thành phố”.
“Ôi, Liệu tôi có thể tìm được ông ấy ở đâu?”.
“Tôi sợ rằng điều đó là không thể được. Ngài đang ở nước ngoài”.
Tracy phải cố giấu vẻ thất vọng trong giọng nói. “À! ra vậy. Cho phép tôi hỏi ở đâu được không?”.
“Ngài đang ở châu Âu, tham dự một hội nghị luật gia quốc tế”.
“Thật đáng tiếc”. Tracy nói.
“Xin cho biết ai gọi vậy?”.
Đầu óc Tracy tính toán rất nhanh. “Tôi là Elizabeth Rowane Dastin, chủ tịch phân hội miền Nam của Hội luật gia Mỹ. Chúng tôi sẽ tổ chức buổi lễ trao giải thưởng hàng năm tại New Orleans vào ngày hai mươi tháng này, và đã chọn thẩm phán Henry Lawrence là nhân vật nổi tiếng nhất trong năm của chúng tôi”.
“Thật là tuyệt”. Cô thư ký nói. “Song tôi sợ rằng lúc đó ngài vẫn chưa trở về được”.
“Thật đáng buồn. Chúng tôi đều trông chờ được nghe một bài diễn văn của ông ấy. Ủy ban lựa chọn của chúng tôi đã nhất trí chọn thẩm phán Henry Lawrence đấy”.
“Ngài sẽ thật thất vọng nếu lỡ dịp này”.
“Vâng. Tôi chắc cô cũng biết đây là một vinh dự lớn.
Một số thẩm phán lừng danh nhất của chúng ta đã được trao giải thưởng trong quá khứ. Đợi một chút. Tôi có ý kiến thế này. Cô éo nghĩ rằng ông thẩm phán sẽ có thể ghì băng một bài đáp từ cho chúng tôi không - một vài lời cảm ơn chẳng hạn”.
“Ồ tội tôi thật không thể nói. Ngài có một chương trình rất bận”.
“Sẽ có rất nhiều tin tức trên báo chí và truyền hình quốc gia đấy”.
Có một chút im lặng. Thư ký của thẩm phán Lawrence biết rõ là ông ta thích được xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng. Sự thực thì theo chỗ cô biết, chuyến đi hiện nay của ông ta dường như chủ yếu nhằm vào mục đích đó.
Cô ta nói, “Có thể ngài sẽ dành ra được thời gian để ghi lại ít lời cho chị. Tôi có thể hỏi ngài về việc này”.
“Ổi, thế thì thật tuyệt vời”. Tracy khuyến khích. “Tất cả buổi tối của chúng tôi là ở việc đó”.
“Chị có muốn ngài phát biểu ý kiến về một điều gì cụ thể không?”.
“Ồ, dứt khoát là thế rồi. Chúng tôi mong ông ấy nói về” Giọng nàng tỏ ra lưỡng lự. “Tôi sợ rằng sẽ hơi phức tạp một chút. Nếu tôi có thể trực tiếp giải thích với ông ấy thì tốt quá”.
Một chút im lặng nữa. Cô thư ký gặp một tình thế tiến thoái lưỡng nan. Cô đã được lệnh không được để lộ hành trình của sếp. Mặt khác, rất có thể ông thẩm phán sẽ mắng cô nếu vì cô mà ông ta lỡ mất dịp nhận một giải thưởng quan trọng như thế này.
Cô ta nói. “Thực ra tôi không được phép đưa ra bất kỳ một thông tin nào song tôi tin rằng ngài sẽ bằng lòng cho phép có một ngoại lệ vì một vấn đề mang tính uy tín như thế này. Chị có thể liên lạc được với ngài ở Matxcơva, tại khách sạn Rossia. Ngài sẽ ở đó trong suốt năm ngày tới và sau đó thì ...”.
“Tuyệt diệu. Tôi sẽ liên lạc với ông ấy ngay. Cảm ơn cô nhiều.
“Cảm ơn chị, chị Dastin”.
Các bức điện đã được gửi tới cho thẩm phán Henry Lawrence ở khách sạn Rossia, Matxcơva. Bức điện thứ nhất viết:
CUỘC HỌP HỘI ĐỒNG THẨM VẤN LẦN TỚI GIỜ ĐÂY ĐÃ ĐƯỢC DÀN XẾP. XÁC ĐỊNH NGÀY THUẬN TIỆN THỂ THEO YÊU CẦU XẾP CHỖ. BORIS.
Bức điện thứ hai tới ngày hôm sau, viết:
THÔNG BÁO VỀ TRỤC TRẶC CỦA SƠ ĐỒ HÀNH TRÌNH CHUYẾN BAY CỦA EM GÁI BẠN VỀ MUỘN, SONG HẠ CÁNH AN TOÀN. MẤT HỘ CHIẾU VÀ TIỀN. CÔ ẤY SẼ ĐƯỢC ĐƯA VÀO KHÁCH SẠN THỤY SĨ HẠNG NHẤT, SẼ THU XẾP TÀI KHOẢN SAU. BORIS.
Bức điện sau cùng viết:
EM GÁI BẠN SẼ CỐ GẮNG LIÊN HỆ VỚI SỨ QUÁN MỸ ĐỂ LẤY HỘ CHIẾU TẠM THỜI. CHƯA CÓ THÔNG TIN GÌ VỀ THỊ THỰC MỚI.
NGƯỜI THỤY SĨ LÀM CHO NGƯỜI NGA CÓ VẺ THÁNH THẦN LẮM.
SẼ ĐƯA EM GÁI BẠN BẰNG TÀU BIỂN TRỞ VỀ VỚI BẠN NHANH NHẤT. BORIS.
Cơ quan an ninh của Liên Xô đã đợi xem còn bức điện nào nữa không, và khi thấy đã hết họ bèn bắt giữ thẩm phán Lawrence.
Cuộc thẩm vấn kéo dài mười ngày đêm.
“Ông gửi thông tin cho ai?”.
“Thông tin nào? Tôi không hiểu các ông nói gì?”.
“Chúng ta đang nói về các đồ án. Ai giao cho ông các đồ án đó?”.
“Đồ án nào?”.
“Đồ án về các tàu ngầm nguyên tử Xô-viết”.
“Các ông điên rồi. Tôi biết gì về các tàu ngầm Xô viết “Đó là cái mà chúng tôi sẽ tìm ra. Ông có những cuộc họp mặt bí mật với ai?”.
“Cuộc họp bí mật nào? Tôi không có gì bí mật cả”.
“Được Vậy nói xem ai là Boris?”.
“Boris, ai cơ?”.
“Người chuyển tiền vào tài khoản ở Thụy Sĩ của ông ấy mà”.
“Tài khoản Thụy Sĩ nào?”.
Họ bực bội. Họ nói vào mặt ông ta rằng. “Ông là một thằng ngốc bướng bỉnh. Chúng tôi sẽ công bố rõ về ông, và tất cả những người Mỹ làm gián điệp khác mưu toan phá hoại Tổ quốc chúng tôi”.
Cho tới khi đại sứ Mỹ được phép tới thăm thì thẩm phán Henry Lawrence đã sút tới tám cân, không còn nhớ nổi lần cuối cùng được ngủ là khi nào, và ông ta chỉ còn là một cơ thể tàn tạ, run rẩy.
“Tại sao họ lại xử sự thế này với tôi hả?” Ông ta rên rỉ.
“Tôi là một công dân Mỹ. Tôi là một thẩm phán. Vì Chúa, hãy đưa tôi ra khỏi đây”.
“Tôi đang làm mọi thứ có thể”. Viên đại sứ bảo đảm.
Ông bị sốc với dáng vẻ của Lawrence. Chính ông đã đón thẩm phán Lawrence và các thành viên cùng đi khi họ tới đây, hai tuần lễ trước. Người đàn ông mà đại sứ gặp khi đó không hề giống cái con người quy luy, rúm ró đang phủ phục trước mặt ông này.
Lần này người Nga họ mưu tính cái quỷ quái gì thế không biết” Ông đại sứ băn khoăn. Ông thẩm phán cũng như mình, không phải là một điệp viên. Rời ông gượng gạo nghĩ, cho rằng mình đã có thể có một chứng cứ rõ ràng hơn.
Ổng đại sứ đòi gặp người đứng đầu Bộ Chính trị Liên Xô và khi yêu cầu này bị khước từ, ông đành nhận lời gặp một trong số các bộ trưởng.
“Tôi buộc phải đưa ra lời phản kháng chính thức”, ông đại sứ giận dữ tuyên bố. “Sự đối xử của đất nước ông với thẩm phán Henry Lawrence là không thể chấp nhận được.
“Gọi một người như ông ta là gián điệp thì thật là lố bịch”.
“Nếu như ông đã nói xong rồi”, vị bộ trưởng lạnh lùng đáp “Xin mời ông xem những thứ này”.
Ông ta đưa những bản sao các bức điện cho ông đại sứ.
Ông đại sứ đọc rồi nhìn lên, lúng túng. “Có gì sai trái đâu? Chúng hoàn toàn vô tội”.
“Thực vậy sao? Có thể ông nên đọc lại một lần nữa. Đã giải mã”. Ông ta trao cho ông đại sứ một bản sao khác của những bức điện. Các từ khóa đều được gạch dưới.
CUỘC HỌP CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN LẦN TỚI ĐÃ ĐƯỢC DÀN XẾP. XÁC ĐỊNH NGÀY THUẬN TIỆN THỂ THEO YÊU CẦU XÊP CHỖ BORIS.
THÔNG BÁO VỀ TRỤC TRẶC CỦA SƠ ĐỒ HÀNH TRÌNH, CHUYẾN BAY CỦA EM GÁI BẠN VỀ MUỘN, SONG HẠ CÁNH AN TOÀN MẤT HỘ CHIẾU VÀ TIỀN. CÔ ẤY SẼ ĐƯỢC ĐƯA VÀO KHÁCH SẠN THỤY SĨ HẠNG NHẤT. SẼ THU XẾP TÀI KHOẢN SAU. BORIS.
EM GÁI BẠN SẼ CỐ GẮNG LIÊN HỆ VỚI SỨ QUÁN MỸ ĐỂ LẤY HỘ CHIẾU TẠM THỜI. CHƯA CÓ THÔNG TIN GÌ VỀ THI THỰC MỚI.
NGƯỜI THỤY SĨ LÀM CHO NGƯỜI NGA CÓ VẺ THẦN THÁNH LẮM.
SẼ ĐƯA EM GÁI BẠN BẰNG TÀU BIỂN TRỞ VỀ VỚI BẠN NHANH NHẤT. BORIS.
Mình thật xấu hổ, ông đại sứ nghĩ thầm.
Báo chí và công chúng bị ngăn không được tham dự phiên tòa. Bị cáo vẫn tiếp tục bướng bỉnh, tiếp tục phủ nhận việc ông ta đang hoạt động gián điệp ở Liên Xô. Pbía tòa đã hứa khoan hồng nếu ông ta tiết lộ các cấp chỉ huy của mình và thẩm phán Lawrence sẵn sàng đổi tất cả để có thể làm được điều đó, song đáng tiếc, ông ta không thể.
Ngày hôm sau báo Pravđa đăng một mẩu tin ngắn về phiên tòa, thông báo rằng thẩm phán Henry Lawrence, một điệp viên Mỹ tai tiếng, đã bị buộc tội làm gián điệp và bị kết án 14 năm lao động khổ sai ở Sibêri.
Cộng đồng tình báo Mỹ rối trí lên vì vụ Lawrence.
Những lời xì xầm lan đi trong nội bộ CIA, FBI, cơ quan mật vụ và Bộ Tài chính.
CIA nói. “Ông ta không phải là người của chúng tôi. Có thể là người của Bộ Tài chính”.
Bộ Tài chính công bố không hề biết gì về vụ này.
“Không, thưa các ngài, Lawrence không phải là người của chúng tôi. Có thể bọn FBI khốn kiếp lại xía vào lãnh vực này một lần nữa”.
“Chưa bao giờ nghe nói về ông ta”. FBI tuyên bố. “Có thể là Bộ Ngoại giao, hoặc DIA sử dụng ông ta”.
Cục tình báo Quốc phòng DIA cũng mò mẫm như mấy cơ quan kia, thận trọng ra thông cáo “Miễn bình luận”.
Mỗi cơ quan trong cộng đồng tình báo Mỹ đều tin rằng một trong số các cơ quan kia đã phái thẩm phán Henry Lawrencera nước ngoài.
“Quả thật tôi khâm phục lòng dũng cảm của ông ta”, ông giám đốc CIA nói.
“Ông ta thật cứng cựa, không hề thú nhận và không hề chỉ ra một cái tên nào khác. Nói thực là tôi mong muốn có nhiều người như thế nữa”.
Mọi chuyện đang diễn biến rất xấu đối với Orsatti, và lão trùm đã không thể hiểu nổi vì sao. Lần đầu tiên trong đời vận may rời bỏ lão. Đầu tiên là sự đào tẩu của Joe Romano, rồi đến Perry Pope và giờ đây lại mất nốt tay thẩm phán. Họ chính là nhóm nòng cất trong bố máy của Orsatti, những người mà lão phải dựa vào.
Joe Romano là một trụ cột trong tổ chức của lão, và lão đã không tìm được ai để thay thế hắn. Việc điều hành công việc trở nên luộm thuộm và xuất hiện những lời phàn nàn từ những kẻ trước đây chưa bao giờ dám phàn nàn. Đã có dư luận rằng Tony Orsatti đang trở nên già cả, lú lẫn, rằng lão không còn có thể duy trì trật tự trong đám tay chân, rằng tổ chức của lão đang tan rã.
Cọng rơm cuối cùng là một cú điện thoại gọi đến từ New Jersey.
“Chúng tôi nghe nói ông bạn đang có chút rắc rối ở đó, Tony. Chúng tôi muốn giúp đỡ ông”.
“Tôi không gặp rắc rối gì hết”, Orsatti nổi giận. “Quả là có một vài vấn đề gần đây, song chúng đã được giải quyết”.
“Đó không phải là điều chúng tôi được nghe, Tony. Có tin rằng, khu vực của ông đang trở nên lung tung, không có ai kiểm soát cả”.
“Tôi kiểm soát”.
“Có thể là quá nặng đối với ông. Có thể là ông đã làm việc quá mệt mỏi. Có lẽ ông nên nghỉ ngơi một chút”.
“Đây là khu vực của tôi. Không ai có thể giật nó khỏi tay tôi cả”.
“Này Tony, ai nói tới chuyện giật nó khỏi tay ông nhỉ?
Chúng tôi chỉ muốn giúp đỡ. Các gia đình ở miền Đông này đã nhóm họp và quyết định gửi dăm người của chúng tôi xuống đó để chìa ra cho ông một bàn tay bé nhỏ. Như vậy chẳng có gì là sai quấy giữa những bạn bè cũ, phải không nào?”.
Ernestine đã chuẩn bị món tôm cho bữa ăn chiều và nó đang âm lên trên bếp trong khi cô ta và Tracy đang chờ Al trở về. Cái nóng ngột ngạt của tháng Chín đã làm cho thần kinh của mọi người trở nên bức bối, bởi vậy khi mà Al bước vào căn phòng hẹp thì Ernestine gào lên. “Quỷ tha ma bắt, anh đi đâu đấy?
Đồ ăn trên bếp đang cháy rồi kia kìa, cả tôi cũng vậy nữa”.
Thế nhưng Al không để ý vì tâm trạng đang quá phấn chấn. “Tôi quả có bận một chút và hãy đợi nghe tôi nói đây này”. Anh ta quay sang Tracy. “Bọn Maphia miền Đông đã động đến Anthony Orsatti rồi”. Khuôn mặt anh ta rạng lên. “Cô đã quật ngã cái đồ chó đẻ đó”. Anh ta nhìn vào mắt Tracy và nụ cười bỗng tắt ngấm. “Cô không thấy hạnh phúc à, Tracy?”.
Một từ lạ lẫm, Tracy thầm nghĩ. Hạnh phúc, nàng đã quên mất nghĩa thực của từ đó và băn khoăn liệu mình có còn bao giờ thấy hạnh phúc nữa không, liệu nàng có còn bao giờ có được cảm xúc bình thường nữa không. Đã từ lâu lắm rồi, mọi ý nghĩ của nàng đều tập trung vào việc báo thù những kẻ đã h.ãm hại mẹ con nàng. Và lúc này thì mọi việc đã gần xong, trong nàng chỉ còn lại một nỗi trống trải.
Sáng hôm sau, Tracy dừng chân trước một quầy bán hoa. “Tôl muốn gửi một ít hoa tới viếng Anthony Orsatti.
Một vòng hoa tang gồm hoa cẩm chướng trắng với một dải băng lớn. Tôi muốn trên dải băng có dòng chữ “HÃY AN NGHỈ”. Nàng viết một tấm thiếp CON GÁI CỦA DORIS WHITNEY GỬI VIẾNG.
 
Chương 15


PHILADELPHIA.
Thứ ba, 7 tháng Mười - 16 giờ.
Bây giờ là lúc tính đến Charles Stanhope III. Những kẻ kia đều xa lạ.
Charlés từng là người tình của nàng, là cha của đứa con không được sinh ra của nàng, và anh ta đã quay lưng lại với cả hai mẹ con nàng Ernestine và Al cùng có mặt tại sân bay New Orleans để tiễn Tracy.
“Tôi sẽ nhớ cô lắm”. Ernestine. “Hiển nhiên là cô đã làm cho cả cái thành phố này thức tỉnh. Họ phải bầu cô làm thị trưởng mới phải”.
“Cô sẽ làm gì ở Powilly?” AI hỏi.
Nàng đã nói với họ một nửa sự thật. “Trở lại với công việc cũ ở nhà băng”.
Ernestine và Al đưa mắt nhìn nhau. “Họ .... ờ ... có biết cô đang trở lại không?”.
“Không. Nhưng ông phó chủ tịch nhà băng quý tới. Sẽ không có gì vướng mắc đâu. Bây giờ rất khó kiếm chuyên viên máy tính giỏi”.
“Ồ, chúc may mắn. Giữ liên lạc, nghe chưa? Và tránh xa các rắc rối ra, cô bé”.
Ba mươi phút sau, Tracy đã ở trên bầu trời. Máy bay đang hướng về Philadelphia.
Nàng thuê buồng ở khách sàn Hilton và việc đầu tiên phải làm là lấy ra bộ váy áo tươm tất duy nhất, hơ nó trên bồn tắm đầy nước nóng để làm cho nó phẳng phiu trở lại. Hôm sau, lúc 11 giờ, nàng tới nhà băng và gặp thư ký của Claremce Desmond.
“Xin chào, Mae”.
Cô gái kia nhìn Tracy chằm chằm như thể là đang nhìn thấy một bóng ma.
“Tracy!” Cô ta muốn tránh ánh mắt nàng. “Chị có ... khỏe không?”.
“Tết thôi, có ngài Desmond ở đây không?”.
“Tôi ... tôi không biết. Để xem đã. Xin lỗi”. Cô ta đứng dậy, lúng túng, rồi vội vã đi vào phòng làm việc của viên phó chủ tịch nhà băng.
Mấy giây sau, cô ta trở ra. “Chị có thể vào”. Cô ta lách người ra khi Tracy bước qua.
Claremce Desmond đang đứng bên bàn làm việc của ông ta.
“Xin chào ngài Desmond. Thế là tôi đã trở về”. Tracy cởi mở.
“Để làm gì?” Giọng ông ta đầy vẻ thiếu thiện cảm.
Tracy sững người ngạc nhiên, và hơi dằn giọng. “Ờ, ngài chả từng nói tôi là một chuyên viên máy tính tốt nhất mà ngài từng thấy, và tôi nghĩ ...”.
“Cô nghĩ là tôi nhận cô về với công việc cũ của cô ư?”.
“Thưa ngài, vâng. Tôi đã không hề quên cái kỹ năng nghề nghiệp của mình.
Tôi có thể vẫn ...”.
“Cô Whitney”. Ông ta không còn gọi là Tracy nữa. “Tôi rất lấy làm tiếc song không thể bàn tới cái mà cô yêu cầu.
Tôi chắc cô hiểu rằng khách hàng của chúng tôi không mong muốn phải tiếp xúc với một người từng phải ngồi tù vì tội cướp có vũ trang và mưu sát. Điều đó khó mà phù hợp được với hình ảnh tất đẹp cửa nhà băng này. Tôi nghĩ rằng, với tiểu sử của cô, khó có một nhà băng nào còn muốn nhận cô vào làm việc. Tôi cho rằng cô nên cố gắng tìm kiếm một chỗ khác phù hợp với hoàn cảnh của mình. Tôi hy vọng cô hiểu rằng không có vấn đề cá nhân gì ở đây cả”.
Tracy nghe từng lời của ông ta, đầu tiên là với sự choáng váng và sau là nỗi căm giận ngày càng tăng. Ông ta coi nàng như một kẻ bị xua đuổi, một con hủi.
Chúng tôi không muốn mất cô. Cô là một trong những nhân viên quý giá nhất của chúng tôi - Ông ta đã từng nói những lời như thế.
“Còn gì nữa không, cô Whitney?” Một lời đuổi khéo.
Có hàng trăm điều Tracy muốn nói, nhưng nàng biết cũng chẳng có ích gì.
“Không, tôi nghĩ là ngài đã nói cả rồi”. Tracy quay đi và bước ra khỏi phòng, mặt nóng bừng. Dường như tất vả các nhân viên nhà băng đều tò mò nhìn nàng.
Mae đã đưa chuyện:
Kẻ tội phạm trở về.
Tracy đi ra, cổng, đầu ngẩng cao mà lòng đầy cay đắng.
Mình không thể để họ đối xử thế này với mình. Lòng tự trọng là tất cả những gì mà mình có, không kẻ nào có thể tước đoạt cái đó được.
Tracy ở lỳ trong phòng suốt ngày, đau khổ tràn đầy.
Sao mà nàng cớ thể ngây thơ tin rằng họ sẽ dang tay đón cơ chứ? Giờ đây nàng là một người đầy tai tiếng. TIN VỀ EM ĐƯỢC ĐƯA BẰNG TÍT LỚN TRÊN TỜ TIN TỨC HÀNG NGÀY PHILADELPHIA NEWS. ôi, quỷ tha ma bắt Philadelphia đi cho rảnh, Tracy nghĩ, nàng còn chút việc dở dang ở đó, nhưng khi nào xong nàng sẽ ra đi. Nàng sẽ đi New York, nơi sẽ không ai biết đến nàng. Và Tracy thấy dễ chịu hơn khi quyết định như vậy.
Chiều tối hôm đó, Tracy đến ăn tại nhà hàng cà phê Hoàng Gia. Sau buổi gặp đầy khó chịu với Claremce Desmond vào buổi sáng, nàng thấy cần có bầu không khí thoải mái của ánh sáng dịu, khung cảnh tươi vui, và âm nhạc êm ả.
Tracy gọi một ly rượu mạnh và khi người bồi bàn mang tới, ngước mắt lên, nàng đột nhiên thắt lại.
Phía bên kia căn phòng, Charles và vợ anh ta đang ngồi trong một cái ghế đôi kín đáo. Họ chưa nhìn thấy nàng.
Cảm giác thôi thúc đầu tiên của nàng là đứng dậy bỏ đi vì chưa sẵn sàng đối mặt với Charles.
“Cô muốn gọi đồ ăn bây giờ chưa?” Người phục vụ hỏi.
“Tôi còn ... Tôi còn đợi, cảm ơn”. Nàng phải quyết định xem có nên ngồi lại không.
Nàng nhìn lại Charles lần nữa, và cảm thấy ngạc nhiên, dường như đang nhìn vào một người lạ vậy. Đó là người đàn ông hói đầu, tuổi trung niên, khuôn mặt dài thượt vàng vọt với cặp vai so lại và vẻ chán chường không tả nổi lộ rõ trên nét mặt. Thật không thể nào tin nổi rằng nàng đã từng nghĩ là nàng yêu người đàn ông này, rằng nàng đã ngủ với anh ta, dự định cùng chung sống với anh ta suốt đời. Tracy liếc nhìn vợ anh ta. Cô ta cũng mang vẻ chán chường giống như Charles. Họ tạo ra ấn tượng của hai con người bị trói buộc vào với nhau và với thời gian đã trở nên khô cứng. Họ chỉ ngồi yên đó mà không nói với nhau một lời nào. Tracy có thể hình dung thấy những năm dài tẻ nhạt còn chờ đợi họ trước mặt. Không tình yêu. Không niềm vui. Đó là sự trừng phạt đối với Charles, Tracy thầm nghĩ và nàng đột nhiên cảm thấy thư thái, một cảm giác được giải thoát khỏi chuỗi tình cảm đen tối, sâu thẳm đã từng trói buộc lấy nàng.
Tracy ra dấu gọi người phục vụ lại và nói. “Tôi muốn gọi đồ ăn bây giờ”.
Tất cả đã qua đi. Quá khứ, sau cùng, đã được chôn vùi.
Cho mãi tới khi đã trở về khách sạn, tối hôm đó, Tracy mới nhớ ra rằng nàng còn một khoản tiền lương ở quỹ lương của nhà băng. Nàng ngồi xuống và tính toán số tiền đó là 1375 đô la và 65 xu.
Nàng thảo một bức thư gửi cho Claremce Desmond và hai ngày sau nhận được thư trả lời của Mae.
Cô Whitney thân mến.
Đáp lại yêu cầu của cô, ngài Desmond đã đề nghị tôi thông báo cho cô rằng, thể theo chính sách truyền thống của nhà băng trong chương trình tài chính đối với nhân viên, phần tiền của cô đã được chuyển sang quỹ chung. Ngài muốn bảo đảm với cô rằng ngài không có ác ý gì với cô.
Mae Trenton.
Thư ký của phó chủ tịch Tracy không thể nào tin được. Họ đã ăn cắp tiền của nàng, và nấp dưới cái cớ bảo vệ các nguyên tắc truyền thống của nhà băng. Không kẻ nào còn có thể lừa gạt nàng nữa.
Tracy đứng bên ngoài chiếc cổng quen thuộc của nhà băng. Nàng mang một bộ tóc giả đen và dài, mặt đánh phấn dày, sẫm mầu, với một cái sẹo đỏ sần sùi trên cằm.
Nếu có gì xấu xảy ra, họ sẽ nhớ tới cái sẹo đó. Vậy mà Tracy vẫn cảm thấy trần trụi vì rằng nàng đã làm việc trong nhà băng này tới năm năm trời và nơi đây đầy những người biết nàng quá rõ, sẽ phải hết sức thận trọng để khỏi lộ diện.
Nàng lấy từ trong bóp ra chiếc nút chai và đặt nó vào trong giầy, rồi khập khiễng đi vào nhà băng, tới trước một trong những chiếc bàn tiếp khách, và người đàn ông ngồi sau bàn, vừa nói chuyện điện thoại xong, ngước lên hỏi.
“Có gì vậy?”.
Đó là Jon Creighton, gã cuồng tín trong nhà băng.
Anh ta căm ghét người Do Thái, người da đen và người Pucetô Rico, song không hẳn là theo thứ tự như vậy. Anh ta là nỗi khó chịu của Tracy trong suốt mấy năm làm việc ở đây Lúc này thì trên vẻ mặt anh ta không có dấu hiệu gì tỏ vẻ là nhận ra Tracy.
“Chào ông”, Traey chào bằng giọng Tây Ban Nha. “Tôi muốn mở một tài khoản tiết kiệm. Nàng nói bằng giọng Mehico, cái giọng mà cô đã nghe người bạn tù Paulita nói suốt mấy tháng trời.”.
Trên mặt Creighton lộ rõ vẻ khinh miệt. “Tên?”.
“Pita Gonzales”.
“Thế cô muốn gửi vào tài khoản đó bao nhiêu?”.
“Mười đô la”.
Giọng anh ta mỉa mai “Séc hay tiền mặt?”.
“Tôi nghĩ là tiền mặt”.
Nàng cẩn thận lấy từ ví ra một tờ đô la rách nát, cuộn tròn và đưa nó cho anh ta và nhận lại một tờ khai mẫu.
“Điền vào đây”.
Tracy không hề có ý định để lại chữ viết của mình. Cô nhăn mặt. “Thưa ông tôi xin lỗi. Tôi đau tay vì một tai nạn. Ông làm ơn viết hộ tôi được không ạ?
Creighton xì mũi. Cái bọn lưng trần vô học này. “Cô nói tên là Rita Gonzales phải không?”.
“Vâng”.
“Địa chỉ?”.
Nàng nói địa chỉ và số điện thoại của khách sạn cô ở.
“Tên họ mẹ cô là gì?”.
“Gonzales. Mẹ tôi, bà ấy lấy một người chú”.
“Còn ngày sinh của cô?”.
“20 tháng Mười Hai năm 1958”.
“Nơi sinh?”.
Thành phố Mehico!.
“Mehico City. Ký vào đây”.
“Tôi sẽ phải dùng tay trái đấy”. Tracy nói. Nàng cẩm cái bút lên và nghuệch ngoạc một chữ ký không thể đọc nổi. Jon Creighton viết một cái phiếu gửi tiền.
“Tôi sẽ cho cô một cuốn séc tạm thời. Những tấm séc in sẽ được gửi bưu điện tới cho cô trong vòng ba hoặc bốn tuần”.
“Xong rồi”.
Anh ta nhìn cô đi ra khỏi nhà băng, mồm lẩm bẩm “Nói gì mà khó nghe thế cơ chứ”.
Có rất nhiều cách thức bất hợp pháp để có thể tiếp xúc với một máy tính, và Tracy là một chuyên gia. Nàng đã tham gia vào việc thiết lập hệ thống báo động ở cái nhà băng này, và giờ đây phải chống lại nó.
Bước đầu tiên là tìm tới một cửa hiệu bán máy tính, nơi nàng có thể sử dụng như một điểm trung chuyển để sờ tới cái máy tính của nhà băng.
Một người bán hàng sốt sắng tiến lại phía Tracy. “Xin phép được giúp cô”.
“Xin ông đừng bận tâm. Tôi chỉ xem thôi”.
Chợt ông ta thấy một thiếu niên đang chơi một trò chơi điện tử, bèn vội vã bước tới chỗ đó. Tracy dừng lại ở chiếc máy tính kiểu để bàn ngang trước mặt, nó được nối với một điện thoại. Xâm nhập vào hệ thống máy tính thì dễ dàng thôi, song không có mã số sử dụng thích hợp thì thật khó được việc gì, thế mà cái mã số đó lại được thay đổi hàng ngày. May mà Tracy đã có mặt ở cuộc họp quyết định chọn cái mã số chính thức nguyên thủy.
“Chúng ta phải thay đổi nó thường xuyên”, Claremce Desmond nói, “để không kẻ nào có thể xâm nhập được, tuy vậy lại phải giữ sao cho nó đơn giản thôi để tiện cho những người có thẩm quyền sử dụng nó”.
Cái mã khóa mà sau cùng họ lựa chọn là sử dụng tên gọi của bốn mùa trong năm và kết hợp với con số chỉ ngày.
Tracy bật máy và bấm gọi số mã của Ngân hàng Tín nhiệm và Bảo hiểm Philadelphia - Cái nhà băng vốn quen thuộc với nàng, và nghe thấy một tín hiệu âm thanh lãnh lót với màn ảnh nhỏ trên máy bừng sang:
XIN MÃ SỐ CÓ THẨM QUYỀN.
Hôm nay là ngày mồng mười Tracy bấm phím, MÙA THU 10.
Trên màn ảnh hiện lên dòng chữ:
MÃ SỐ KHÔNG THÍCH HỢP. Sau đó màn ảnh trở nên trắng xóa.
Họ đã thay đổi mã rồi Chăng? Qua khóe mắt, Tracy thấy người bán hàng đang đi tới. Nàng bước tới bên một máy tính khác bình thản nhìn ngó rồi tiếp tục lững thững theo dọc lối đi. Người bán. hàng dừng bước. Một người xem hàng thôi, ông ta nghĩ rồi vội vã ra đón hai người khách có vẻ muốn mua hàng hơn đang đi vào. Tracy quay lại với chiếc máy tính kiểu để bàn.
Nàng đặt mình vào trong suy nghĩ của Claremce DesmOnd. Ông ta là một người của thói quen, và Tracy tin chắc rằng ông ta sẽ không thay đổi quá nhiều.
Có thể là vẫn giữ nguyên mẫu ban đầu về mùa và các con số, thế nhưng đã sửa đi như thế nào? Nếu đảo những con số thì sẽ quá phức tạp, vậy thì có thể ông ta đã hoán vị tên gọi của các mùa mà thôi.
Tracy thử lại.
XIN MÃ SỐ CÓ THẨM QUYỀN?
MÙA ĐÔNG 10.
MÃ SỐ KHÔNG THÍCH HỢP. Màn ảnh lại trắng xóa.
XIN MÃ SỐ CÓ THẨM QUYỀN?
MÙA XUÂN 10.
Màn ảnh trắng đi trong giây lát, rồi một dòng chữ hiện lên:
XIN MỜI SỬ DỤNG.
Vậy là ông ta đã chuyển các mùa. Nàng nhanh chóng gõ trên các phím chữ:
GIAO DỊCH TIỀN TỆ NỘI BỘ.
Ngay tức khắc, thực đơn của nhà băng - danh mục các giao dịch có thể tiến hành bừng sáng trên màn ảnh:
BẠN MUÔN A - GỦI TIỀN B - RÚT TIỀN TIẾT KIỆM D - CHUYỂN NGANG E - RÚT TIỀN TỪ TÀI KHOẢN SÉC XIN MỜI ĐƯA LỰA CHỌN CỦA BẠN VÀO MÁY.
Tracy cho “B”. Màn ảnh trắng đi giây lát và một biểu mục khác xuất hiện.
SỐ LƯỢNG TIẾN CHUYỂN GIAO?
CHUYỀN TỚI ĐÂU?
CHUYỂN TỪ ĐÂU?
Tracy bấm lên các phím chữ:
TỪ QUỸ DỰ TRỮ CHUNG TỚI RITA GONZALES. Khi phải đưa yêu cầu số lượng tiền vào, nàng lưỡng lự một chút.
Cám dỗ quá, Tracy nghĩ bụng. Bởi vì đến lúc này không cô hạn chế nào cho số lượng tiền mà cái máy tính ngoan ngoãn này sẽ chuyển đi. Nàng có thể lấy hàng triệu. Nhưng nàng đâu có phải kẻ ăn cắp. Tất cả những gì Tracy muốn chỉ là khoản tiền thực sự là của nàng mà thôi.
Nàng đưa con số 1.375 Đô la và 65 xu vào tài khoản của Rita Gonzales.
Trên màn ảnh hiên lên:
GIAO DỊCH ĐÃ HOÀN THÀNH, BẠN CÓ MUỐN THỰC HIỆN GIAO DỊCH NÀO NỮA KHÔNG?
KHÔNG.
BUỔI LÀM VIỆC ĐÃ XONG. XIN CẢM ƠN BẠN.
Khoản tiền đó sẽ được CLIPS - hệ thống thanh toán liên ngân hàng, tự động chuyển giao. Hệ thống này mỗi ngày kiểm soát việc chuyển một khoản tiền lên tới 220 tỷ đô la từ ngân hàng này sang ngân hàng khác.
Người bán hàng đang đi tới, cau có. Tracy vội vã ấn một cái nút và màn ảnh tắt ngấm.
“Cô muốn mua cái máy này ư?”.
“Không cám ơn”, Tracy nói vẻ xin lỗi. Tôi không hiểu gì về những chiếc máy tính này”.
Từ một cửa hiệu thuốc gần đó nàng gọi điện thoại tới nhà băng và yêu cầu được nói chuyện với người thủ quỹ tiền mặt.
“Xin chào. Tôi là Rita Gonzales. Tôi muốn chuyển tài khoản séc của tôi tới chi nhánh của ngân hàng Hanover I ở thành phố New York”.
“Số tài khoản, thưa cô Gonzales?”.
Tracy trả lời cô ta.
Một giờ sau, Tracy trả phòng ở khách sạn Hilton và lên đường đi New York.
Khi Ngân hàng Hanover I New York mở cửa lúc 10 giờ sáng hôm sau, Rita Gonzales đã có mặt để rút hết tiền khỏi tài khoản của mình.
“Còn bao nhiêu trong đó?” Nàng hỏi.
Người thủ quỹ kiểm tra rồi đáp, “Một nghìn ba trăm tám mươi lăm đô la, sáu mươi lăm xu”.
“Vâng, đúng thế”.
“Cô muốn một tấm séc bảo đảm ư, cô Gonzales?”.
“Không, cám ơn”. Tracy nói. “Tôi không tin các nhà băng. Tôi sẽ lấy tiền mặt”.
Ngày ra tù, Tracy đã được cấp hai trăm đô la theo chế độ, cộng với một khoản tiền nhỏ trả cho việc trông nom Amy, thế nhưng cộng cả số tiền rút ra được khỏi nhà băng nữa, nàng cũng không được bảo đảm chắc chắn gì về mặt tài chính. Việc phải nhanh chóng tìm chỗ làm là rất khẩn cấp.
Nàng thuê buồng ở một khách sạn rẻ tiền trên đường Lexington và bắt đầu gửi đơn xin việc đến các nhà băng ở New York. Giờ đây thì Tracy thấy rằng cái máy tính đột nhiên trở thành kẻ thù của mlnh. Cươc đời nàng không còn là một cái gì riêng tư nữa. Các bộ nhớ của máy tính đã lưu giữ câu chuyện về nàng và sẵn sàng kể lại cho bất kỳ ai ấn đúng nút cần thiết. Ngay khi cái tiền án của nàng được đưa ra thì lập tức đơn xin việc của nàng bị bác bỏ.
Tôi nghĩ rằng, với số tiền sử của cô, khó có thể có nhà băng nào còn muốn nhận cô vào làm việc”. Claremce Desmond đã nói đúng.
Tracy tiếp tục gửi đơn xin việc tới các công ty bảo hiểm và một loạt các ngành nghề có sử dụng tới máy tính. Câu trả lời luôn luôn là:
Không.
Được lắm, Tracy nghĩ, mình còn có thể có một cách nữa. Nàng mua tờ The New York Tines và xem kỹ những quảng cáo tìm người làm việc.
Có một công việc được ghi là làm thư ký trong một công ty xuất khẩu.
Nhưng ngay khi Tracy bước vào cửa, viên phụ trách nhân sự đã kêu lên.
“Này, tôi thấy cô trên ti vi. Cô cứu sống một đứa trẻ trong nhà tù, có phải không nào?
Tracy bỏ đi ngay.
Ngày tiếp theo, nàng được thuê vào làm chân bán hàng ở một cửa hàng cho trẻ em ở đường Saks. Tiền công thấp hơn nhiều so với tiền lương của nàng trước đây, nhưng ít nhất thì cũng là đủ sống.
Vào ngày làm việc thứ hai thì một khách hàng quá khích động đã nhận ra nàng và thông báo cho người quản lý biết là bà ta không muốn được phục vụ bởi một kẻ giết người đã từng dìm chết đuối một đứa trẻ. Người ta không để cho Tracy có cơ hội giải thích. Nàng bị sa thải ngay.
Với Tracy, lúc này dường như những kẻ mà nàng đã báo thù, sau cùng 1ại vẫn là kẻ chiến thắng. Chúng đã biến nàng thành một kẻ tội phạm trước công luận, một kẻ bị xua đuổi. Sự bất công của những gì đang xảy ra với nàng làm nàng mệt mỏi, chán chường. Nàng không biết là sẽ làm sao để sống, và lần đầu tiên nàng bắt đầu có một cảm giác tuyệt vọng. Tối hôm đó nàng kiểm lại tiền xem còn bao nhiêu, và tận trong một góc của chiếc ví nàng thấy mẩu giấy mà Bety Franciscus đã đưa cho ở trong tù. CONRAD MORGAN, CHỦ TIỆM KIM HOÀN, 640 ĐẠI LỘ 5, THÀNH PHỐ NEW YORK. Ông ta tham gia vào việc cải tạo tội phạm. Ông thường muốn giúp những người mới ra tù - chị ta bảo nàng thế.
Conrad Morgan và Công ty là cơ sở kinh doanh bề thế, với một người gác cửa mặc đồng phục phía ngoài và một người bảo vệ có vũ trang phía trong. Bản thân cửa hiệu này thì cũng không có vẻ gì thật ghê gớm nhưng đồ kim hoàn của nó thì toàn là loại tinh xảo và đắt tiền.
Tracy nói với người tiếp tân. “Xin cho gặp ngài Conrad Morgan”.
“Cô có hẹn không?”.
“Không. Một ... một người bạn đã khuyên tôi gặp ông ấy”.
“Tên cô?”.
“Tracy Whitney”.
“Xin đợi một chút”.
Cô ta nhấc điện thoại và thì thầm gì đó mà Tracy không thể nghe được, rồi gác máy và bảo. “Ngài Morgan hiện đang bận. Ông ấy mời cô trở lại lúc 6 giờ”.
“Vâng, cảm ơn cô”. Tracy đáp.
Nàng ra khỏi cửa hiệu và đứng bên lề đường. Không biết phải làm gì. Việc đến New York đã là một sai lầm.
Có thể là Conrad Morgan không làm gì được để giúp nàng cả. Và tại sao lại phải giúp? Nàng hoàn toàn xa lạ đối với ông ta. Tracy thầm nghĩ:
Ông ta sẽ thuyết giảng và cho một ít tiền. Hừ mình chẳng cần gì đến hai thứ đó từ ông ta hay bất kỳ ai. Mình đã sống sót. Và bằng cách nào đó mình sẽ vẫn sống được.
Thây kệ Conrad Morgan. Mình sẽ không trở lại gặp ông ta làm gì.
Tracy lang thang trên đường phố với bước chân vô định, ngang qua những căn phòng lộng lẫy trên đại lộ số 5, những tòa nhà có người bảo vệ trên đại 1ộ Công Viên, các cửa hiệu tấp nập trên đại lộ Lexlngton và đại lộ số 3 ...
Nàng đi trên các đường phố New York, đầu óc trống rỗng, mắt nhìn lơ đãng, lòng tràn ngập nỗi tuyệt vọng, đắng cay.
Vào lúc 6 giờ, Tracy tự thấy mình đứng trước ngôi nhà của Conrad Morgan và công ty trên đại lộ số 5. Người gác không còn ở đó và trên cánh cửa được khóa chặt. Tracy đấm mạnh lên cánh cửa trong một cử chỉ đầy thách thức?
Và rồi quay đi, nhưng ngạc nhiên vì cánh cửa đột ngột mở ra.
Một người đàn ông vẻ kể cả đang đứng đó ngó nàng. Ông ta hói, lơ thơ vài nhúm tóc bạc phía trên hai tai khuôn mặt đỏ rựng như một chú lùn giữ cửa.
“Chắc cô là Tracy Whitney?”.
“Vâng ...”.
“Tôi là Conrad Morgan. Xin mời cô vào?”.
Tracy bước vào cái cửa hiệu vắng ngắt.
“Tôi đang chờ cô”, Conrađ Morgan nói. “Hãy vào nói chuyện trong phòng làm việc của tôi”.
Ông ta dẫn nàng đi ngang qua những tủ kính tới trước một cánh cửa khép kín, và lấy chìa khóa mở cửa.
Phòng làm việc của ông ta bày biện tinh tế và có vẻ giống phòng ở hơn nơi làm việc, chỉ có mấy cái đi văng, mấy cái ghế tựa, và mấy cái bạn nhỏ được xếp đặt khéo léo. Trên tường đầy những bức họa cổ.
“Cô có muốn uống một chút không?” Conrad Morgan mời. “Bia, nước quả, hoặc có thể là rượu anh đào?”.
“Không, không gì hết, cảm ơn ông”.
Tracy đột nhiên cảm thấy hồi hộp. Nàng đã dẹp bỏ ý nghĩ là người đàn ông này sẽ làm gì để giúp nàng, ấy vậy mà đồng thời nàng thấy mình mong muốn đến tuyệt vọng rằng ông ta có thể ...
“Betty Franciscus khuyên tôi nên tìm đến ông, ông Morgan. Cô ấy nói ông có thể giúp những người mới ... gặp khó khăn”. Nàng không thể nói “ở tù ra”.
Conrad Morgan đan hai tay vào nhau, và Tracy để ý thấy hai bàn tay ấy được chăm chút đẹp đẽ.
“Tội nghiệp Betty. Một phụ nữ đáng yêu như vậy, cô biết đấy, cô ta rủi ro quá”.
“Rủi ro?”.
“Đúng. Cô ta bị tóm”.
“Tôi ... tôi không hiểu”.
“Thật đơn giản, Betty vốn làm việc cho tôi, được bảo vệ chu đáo. Thế rồi cô gái hội nghiệp đó phải lòng anh tài xế ở New Orleans và bỏ đi làm ăn riêng và, hừ ... họ tóm cô ta”.
Tracy bối rối. “Cô ta làm nghề bán hàng ở đây ư?”.
Conrad Morgan ngả người ra cười đến chảy cả nước mắt. “Không, cô bạn thân mến ạ. Rõ ràng là Betty đã không nói gì với cô cả”. Ông ta nhổm người trên ghế và chìa mấy ngón tay giơ lên. “Tôi có một chút việc ngoại lệ mang lại lợi nhuận rất lớn, và tôi vui lòng chia sẻ những lợi nhuận đó với các bạn đồng nghiệp của mình. Tôi thấy tốt nhất là tìm được những người như cô, xin cô thứ lỗi, những người từng có thời gian ở tù”.
Tracy nhìn vào mắt ông ta và càng bối rối hơn.
“Cô biết đấy, tôi ê một vị trí hết sức độc đáo. Tôi có đám khách hàng đặc biệt giàu có. Những người khách hàng trở thành bạn của tôi. Họ tin cậy tôi”.
Ông ta đập đập tay vào nhau một cách tế nhị”. Tôi biết rõ khi nào thì khách hàng của tôi có những chuyến đi xa. Rất ít người mang đồ kim hoàn đi đường trong thời buổi đầy rẫy những nguy hiểm này, do vậy vàng bạc, kim cương của họ thường được cất kỹ trong nhà. Tôi đề xuất cho họ mấy biện pháp an ninh mà họ cần làm để bảo vệ cho số châu báu đó. Tôi biết chính xác về số châu báu mà họ có, bởi lẽ họ đã mua chúng ở đây mà. Họ ....” Tracy đứng dậy. “Xin cảm ơn ông đã dành thì giờ cho tôi, ông Morgan”.
“Chắc là cô chưa đi ngay chứ?”.
“Nếu như tôi nghĩ đúng về điều ông đang nói”.
“Đúng thôi. Thực sự là tôi nói thế đấy”.
Nàng cảm thấy hai má nóng bừng. “Tôi không phải là một tội phạm. Tôi đến đây là để tìm một việc làm”.
“Và tôi đang dành cho cô một việc, cô bạn thân mến”. Cô sẽ chỉ mất một hay hai giờ đồng hồ, và tôi hứa trả cô 25 ngàn đô-la”. Ông ta mỉm cười đắc ý. “Miễn thuế, lẽ dĩ nhiên”.
Khó khăn lắm Tracy mới kiềm được cơn giận. “Tôi không thích. Xin ông để tôi ra chứ?”.
“Chắc chắn rồi, nếu đó là điều cô muốn”. Ông ta đưa nàng ra cửa. “Cô Whitney, cô phải hiểu rằng nếu có nguy cơ, dù là nhỏ nhất thì tôi đã chẳng dính vào chuyện này. Tôi cũng cần bảo vệ tiếng tăm của tôi chứ”.
“Tôi hứa với ông là sẽ không hé răng về chuyện này với ai”, Tracy lạnh lùng nói.
Ông ta gằn giọng. “Thực ra thì cũng không có gì để cô phải hé răng, cô bạn thân mến, phải thế không nào? Ý tôi muốn nói, ai sẽ tin cơ cơ chứ? Còn tôi là Conrad Morgan - luôn luôn là thế”.
Khi họ ra tới bên ngoài, Morgan nói. “Nếu cô có đổi ý thì hãy cho tôi biết nhé, được không? Tất nhất là gọi cho tôi sau 6 giờ chiều. Tôi chờ điện thoại của cô đấy”.
“Khỏi”, Tracy đáp cộc lốc, và bước vào màn đêm đang tràn tới. Khi trở về phòng, nàng vẫn còn run rẩy và nàng sai thằng bé giúp việc duy nhất của khách sạn ra mua một cái bánh kẹp cùng ít cà phê, cảm thấy không muốn gặp mặt ai hết. Cuộc nói chuyện với Conrađ Morgan làm nàng thấy bứt rứt, khó chịu. Ông ta đã gộp nàng vào những tội phạm, và đáng buồn là nàng đã từng chung sống với họ, dù không phải là người như bọn họ. Nàng là Tracy Whitney, một chuyên viên máy tính, một công dân lương thiện, biết tôn trọng pháp luật.
Người mà chẳng ai muốn nhận vào làm việc.
Tracy suốt đêm trằn trọc về tương lai. Nàng không có việc làm và chỉ còn lại một chút tiền. Nàng quyết định hai việc:
sáng ra sẽ chuyển tới một nơi rẻ tiền hơn và sẽ đi tìm việc làm. Bất kỳ việc gì.
Cái nơi rẻ tiền hơn ấy là căn hộ một phòng ảm đạm trên tầng bốn không có thang máy, nằm ở khu Lower East Side. Từ phòng mình, qua những tấm vách mỏng bằng giấy, Tracy có thể nghe thấy những người hàng xóm mắng chửi nhau bằng những thứ tiếng nước ngoài. Các cửa sổ và các cửa ra vào của các cửa hiệu nhỏ dọc trên các hè phố đều được bịt bằng các song sắt mà Tracy không thể hiểu nổi vì sao. Cả khu vực dường như toàn gồm những kẻ say rượu, đĩ điếm ...
Trên đường đi mua đồ ăn, Tracy đã ba lần bị quấy rầy, hai lần bởi.hai người đàn ông và một lần là đàn bà.
Mình có thể chịu đựng được. Mình sẽ không ở đây lâu mà, Tracy tự an ủi mình.
Nàng đến một hãng tìm việc làm nhỏ, cách nơi ở vài dãy phố. Cơ sở này do một bà tên là Murphy, một phụ nữ nặng nề, vẻ khắc nghiệt, điều hành. Bà ta ghi tóm tắt về Tracy rồi tò mò nhìn nàng, nói. “Tôi không hiểu sao cô lại cần tới tôi. Có tới cả tá công ty xin đổi tất cả để có một người như cô ấy chứ”.
Tracy thở dài. “Tôi có một chút rắc rối”. Nàng giải thích và bà Murphy lắng nghe và sau đó nói một cách thẳng thắn. “Cô có thể quên chuyện tìm một công việc về máy tính đi”.
“Nhưng bà chả vừa nói ...”.
“Các công ty đang cuống cuồng vì các vụ phạm pháp bằng máy tính kia kìa.
Họ sẽ không thuê bất kỳ ai có một tiền án, tiền sự gì đó”.
“Nhưng tôi cần việc làm. Tôi ...”.
“Có những loại công việc khác. Cô nghĩ sao về một người bán hàng?”.
Tracy nhớ việc xảy ra ở cái cửa hàng cho trẻ em nọ nàng không chịu nổi một lần thứ hai như thế. “Còn gì nữa không ạ?”.
Người đàn bà lưỡng lự. Tracy Whitney thì rõ là quá uổng đối với công việc mà bà Murphy nghĩ tới. “Xem nào”, bà ta nói. “Tôi biết ìa việc này thì chẳng phải để cho cô, nhưng đấy, có một công việc làm hầu bàn ở tiệm Jackson Hole.
Đó là một tiệm bán humberger ở khu phố Upper East Side.
“Nghề hầu bàn à?”.
“Phải. Nếu cô nhận, tôi sẽ không đòi cô phải trả gì hết. Tôi ngẫu nhiên biết chỗ đó thôi mà”.
Tracy cấn nhắc. Nàng đã từng làm hầu bàn ở trường đại học. Hồi đó, làm vậy cho vui. Còn bây giờ là vấn đề sinh sống.
“Tôi sẽ cố gắng xem”.
Jackson Hole là một tiệm ăn hỗn loạn, đầy những thực khách ồn ào và sốt ruột, với những đầu bếp cáu kỉnh, bẳn tính. Đồ ăn thì khá ngon và giá cả phải chăng nên lúc nào tiệm ăn này cũng đông nghẹt khách. Các cô hầu bàn phải làm việc luôn chân luôn tay không có lấy một giây thư thả và đến cuối ngày làm việc đầu tiên thì Tracy thấy như kiệt sức. Thế nhưng tiền kiếm được thì cũng khá.
Vào buổi trưa ngày hôm sau, khi Tracy đang phục vụ một bàn ăn cho gã bán hàng thì một trong số họ đưa tay luồn vào trong váy, thế là nàng đánh rơi chiếc chén đựng hạt tiêu xay lên đầu anh ta. Vậy mà cũng bị đuổi việc.
Nàng trở lại chỗ bà Murphy và kể lại chuyện xảy ra.
“Có lẽ tôi có tin tất lành cho cô đây”, bà Murphy nói.
“Đằng chỗ Wellington Arms cần sự giúp việc cho người quản lý. Tôi sẽ gửi cô tới đó”.
Wellington Arms là một khách sạn nhỏ, xinh xắn trên đại lộ Công Viên chuyên phục vụ những người giàu có và nổi tiếng. Người quản lý đã phỏng vấn Tracy và quyết định nhận nàng. Công việc không khó khăn gì, những người cùng làm đều khá dễ chịu, và thời gian làm việc cũng không nhiều lắm.
Sau một tuần lễ, Tracy được gọi tới văn phòng của người quản lý. Viên trợ lý giám đốc cũng có mặt.
“Hôm nay, cô đã kiểm tra phòng 827 chưa?” Người quản lý hỏi Tracy. Căn phòng này là của Jennifer Maloewe, một nữ diễn viên Hollywood. Một phần công việc của Tracy là kiểm tra các buồng xem những người hầu đã làm bổn phận của họ một cách thích đáng chưa.
“Rồi, sao cơ ạ?”.
“Lúc mấy giờ?”.
“Lúc 14 giờ. Có gì không ạ?”.
Viên trợ lý giám đốc lên tiếng. “Lúc 15 giờ, cô Malowe trở về và phát hiện rằng mất một chiếc nhẫn kim cương đắt tiền”.
Tracy thấy toàn thân căng lên.
“Cô cố vào phòng ngủ không, Tracy?”.
“Có Tôi kiểm tra tất cả các phòng”.
“Khi ở trong phòng ngủ, cô có thấy thứ nữ trang nào ở đâu đồ không?”.
“Sao ... không. Tôi không nghĩ vậy”.
Viên trợ lý giám đốc chộp ngay. “Cô không nghĩ vậy?
Cô không chắc chứ gì? “ “Tôi không tìm đồ nữ trang làm gì”, Tracy nói. “Tôi chỉ kiểm tra gi.ường đệm và khăn mặt”.
“Malowe quả quyết rằng khi cô ấy đi thì cái nhẫn kim cương để trên mặt bàn phấn”.
“Tôi không biết gì về chuyện đó”.
“Không còn ai khác được đến phòng đó. Những người hầu khác thì đã ở đây với chúng tôi nhiều năm rồi”.
“Tôi không lấy”.
Viên trợ lý giám đốc thở dài. “Chúng tôi sẽ phải gọi cảnh sát tới điều tra vậy”.
“Phải là một kẻ nào đó”, Tracy kêu lên. “Hoặc không phải cô Malowe để ở đó”.
“Với tiểu sử của cô ...” viên trợ lý giám đốc nói.
Vậy đó, người ta đã nói trắng ra. “Với tiểu sử của cô ...”.
“Tôi sẽ phải yêu cầu cô đợi trong phòng bảo vệ cho tới lúc cảnh sát tới”.
Tracy thấy mặt mình đỏ bừng. “Vâng, thưa ngài”.
Nàng được dẫn tới phòng bảo vệ bởi một người gác, và thấy dường như lại đang ở trong tù. Nàng đã từng nghe những người tù bị săn đuổi vì tiền án của họ, song chưa bao giờ tin cái loại chuyện đó lại có thể xảy ra với mình.
Họ đã gắn một cái nhãn hiệu độc ác lên nàng, và tin nàng sẽ sống mãi với cái đó. Hoặc là khuất phục với cái đó, Tracy cay đắng nghĩ.
Ba mươi phút sau, viên trợ lý giám đốc bước vào, mỉm cười “Cô Malowe đã tìm thấy cái nhẫn. Hóa ra là đã để nó lẫn vào đâu đó. Một sự nhầm lẫn nhỏ”.
“Tuyệt vời”. Tracy thốt lên.
Nàng bỏ đi, và hướng về phía ngôi nhà của Conrad Morgan và Công ty.
“Thật hết sức đơn giản”, Conrad Morgan nói. “Một khách hàng của tôi, Lois Bel1amy, đã đi châu Âu. Nhà bà ta ở khu Sea Cliff, trên Đảo Dài. Vào cuối hàng tuần, tất cả các người hầu đều không đến làm việc, do vậy ở đó không có ai. Cứ 4 tiếng đồng hồ thì có một nhóm bảo vệ tư nhân tới kiểm tra qua loa. Cô có thể vào rồi ra khỏi ngôi nhà trong ít phút đồng hồ”.
Họ ngồi trong phòng làm việc của Conrad Morgan.
“Tôi biết hệ thống báo động và tôi biết các khóa mở két. Tất cả những gì cô phải làm, cô bạn thân mến, là bước vào, nhặt lấy chỗ kim cương, rồi đi ra. Cô mang chỗ kim cương đến cho tôi, tôi sửa lại đôi chút rồi mang bán lại”.
“Nếu đơn giản vậy, sao ông không tự làm lấy?”. Tracy hỏi thẳng.
Cặp mắt ông ta đầy ranh mãnh. “Vì lẽ tôi sắp đi khỏi thành phố vì công việc.
Bất kỳ khi nào một “vụ” nho nhỏ kiểu đó xảy ra, tôi đều đang đi vắng vì công việc gì đó”.
“Tôi hiểu”.
Nếu như cô áy náy gì về việc mất mát này làm cho bà Beliamy đau khổ, thì dẹp đi. Đó thực sự là một người đàn bà ghê gớm, có nhà cửa trên khắp thế giới với đầy đồ đạc quý giá. Ngoài ra, bà ta còn được bảo hiểm số kim cương đó tới gấp hai lần trị giá thực của chúng. Tất nhiên, tôi là người đánh giá chúng”.
Tracy nhìn Conrad Morgan, nghĩ ngợi. Mình điên à.
Mình ngồi đây bình thản bàn đến việc cướp đoạt kim cương của người ta, với gã đàn ông này.
“Tôi không muốn trở lại nhà tù, ông Morgan ạ”.
“Không hề có nguy cơ đó. Chưa bao giờ người của tôi bị tóm cả. Không, chừng nào họ đang làm việc cho tôi. Ồ ... ý cô thế nào?”.
Điều đó là quá rõ. Nàng sẽ nói không. Toàn bộ ý đồ này là điên rồ.
“Ông nói 25 ngàn đô la phải không?”.
“Trả tiền mặt lúc giao hàng”.
Đó là cả một gia tài. Nàng nghĩ tới căn phòng chật hẹp, ảm đạm đang ở, với những tiếng la hét của những người thuê nhà khác, và tiếng hét của khách hàng.
“Tôi không muốn một kẻ sát nhân phục vụ tôi” và cả lời viên trợ lý giám đốc kia, “Chúng tôi sẽ phải gọi cảnh sát tới điều tra vậy”.. Nhưng vẫn không thể nào nói là đồng ý.
“Tôi đề nghị vào đêm thứ bảy này”. Conrad Morgan nói. Đám phục vụ đều ra về từ buổi trưa các ngày thứ bảy. Tôi sẽ lo liệu cho cô một bằng lái xe và một thẻ mua hàng với cái tên giả. Cô sẽ thuê một chiếc ô tô ở Manhattan này và lái tới Đảo Dài, đến đó vào lúc 23 giờ.
Cô sẽ nhặt số kim cương, lái xe quay lại New York và trả lại chiếc xe ... Cô biết lái xe chứ?”.
“Biết”.
“Tuyệt vời. Có một chuyến xe lửa đi St.Louis lúc 7 giờ 45 sáng. Tôi sẽ đặt một khoang cho cô rời sẽ đón cô tại nhà ga St. Louis, cô trao cho tôi chỗ kim cương và tôi sẽ trao 25 ngàn đô la cho cô”!
Ông ta làm mọi chuyện có vẻ đơn giản.
Đây là lúc phải nói “Không”, rồi đứng dậy và ra đi.
Nhưng mà đi đâu cơ chứ?
Khi Tracy đã đi, Conrad Morgan ngồi yên trong bóng tối của căn phòng làm việc ngẫm nghĩ về nàng. Một cồ gái đẹp Thật sự là rất đẹp. Thật xấu hổ. Lẽ ra, phải nói cho nàng biết rằng ông ta thực sự không hiểu rõ hệ thống báo động chống ăn cắp rất đặc biệt đó.
 
Chương 16


Với một ngàn đô la mà Conrad Morgan ứng trước, Tracy mua hai bộ tóc giả - một vàng hoe và một đen, do rất nhiều bím tóc nhỏ xíu kết thành. Nàng mua một bộ đồng phục màu xanh sẫm, một bộ áo liền quần màu đen, và một vali Gucci giả của người bán đồ trên đường Lexington. Cho tới lúc này mọi chuyện đều êm xuôi. Như Morgan đã hứa, Tracy nhận được một phong bì trong đó có bằng lái xe mang tên Eiien Branch, một chỉ dẫn về hệ thống bảo vệ của ngôi nhà bà Bel1amy, mã số mở cái két sắt trong phòng ngủ, và chiếc vé xe lửa đi St. Lolns, một khoang riêng.
Mình sẽ không bao giờ ở một nơi như thế này nữa, nàng tự hứa với mình.
Nàng thuê ôtô và lái về hướng Đảo Dài. Thế là nàng đã trên đường thực hiện một vụ trộm.
Chuyện mà nàng đang làm có cái ảo tưởng của một giấc mộng, và nàng thấy sợ hãi. Nếu bị bắt thì sao? Sự mạo hiểm này có đáng không?
Thật hết sức đơn giản, Conrad Mọrgan đã nói.
Ông ấy sẽ không dính vào một chuyện như thế này nếu không thấy chắc ăn.
Ông ta cần giữ tiếng tăm. Mình cũng phải giữ cho mình chứ, Tracy cay đắng thầm nghĩ, và tất cả thật là tồi tệ. Bất kỳ khi nào có một viên kim cương bị mất, mình sẽ cảm thấy tội lỗi cho đến khi chứng tỏ được là vô tội Tracy biết là nàng đang lâm gì? Nàng đang tạo cho mình một sự căm giận, chuẩn bị tâm lý để thực hiện một hành vi phạm tội. Điều đó không thành. Cho tới lúc tới khu Sea Cliff, nàng vẫn run rẩy vì sợ hãi, hai lần suýt lái xe lao khỏi mặt đường. Có thể là cảnh sát sẽ giữ mình lại vì tội lái xe cẩu thả, nàng thầm hy vọng, và mình có thể nói với Morgan rằng gặp chuyện trục trặc.
Song không hề thấy bóng dáng một chiếc xe cảnh sát nào cả. Hẳn là thế, Tracy nghĩ bụng, họ chẳng bao giờ có mặt khi người ta cần tới.
Nàng tiếp tục chạy xe theo như lời chỉ dẫn của Conrad Morgan. “Ngôi nhà kề sát biển, Morgan mô tả. “Nó là một biệt thự kiểu Phục Hưng. Cô không thể nào không nhận ra nó”.
Giá mình đừng nhận ra nó. Tracy thầm cầu khẩn.
Thế nhưng nó lại hiện ra sừng sững trong bóng tối, giống như tòa lâu đài có ma trong một cơn ác mộng, có vẻ như bị bỏ hoang. Sao những người hầu lại dám nghỉ hết vào cuối tuần nhỉ, Tracy bực bội nghĩ. Họ đáng bị đuổi việc.
Tracy lái xe vào sau một hàng cây lớn, nơi nó được che khuất và tắt máy, ngồi lắng nghe tiếng côn trùng rả rích trong đêm. Ngoài ra chỉ còn sự yên tĩnh, vắng lặng. Ngôi nhà cách xa đường trục chính và giờ này trong đêm thì cũng chẳng còn xe cộ đi lại gì nữa.
“Đám cây cối che khuất tất cả, cô bạn thân mến, và kẻ hàng xóm gần nhất cũng cách đó cả dặm, do vậy cô đừng lo bị nhìn thấy. Đội tuần tra sẽ đến vào lúc 22 giờ và trở lại vào lúc 2 giờ sáng thì cô đã đi lâu rồi còn gì”.
Tracy nhìn đồng hồ. Đã 23 giờ.. Lần kiểm tra thứ nhất đã qua. Nàng còn ba giờ trước khi đội tuần tra sẽ đến kiểm tra lần thứ hai. Hoặc là chỉ ba giây đồng hồ để quay xe chạy về New York và quên hẳn cái chuyện điên rồ này đi. Nhưng trở về đâu được? Những hình ảnh cứ lóe lên trong đầu nàng. Viên phó quản lý ở cửa hàng đồ dùng trẻ em:
“Tôi rất lấy làm tiếc, cô Whitney, nhưng mà khách hàng của chúng tôi phải được hài lòng ...”.
Bà Murphy:
“Có thể quên chuyện tìm_một công việc về máy tính đi. Họ sẽ không thuê bất kỳ ai có tiền án, tiền sự gì đó.
Morgan. “25 ngàn đô la, miễn thuế, trong một hai giờ đồng hồ. Nếu cô áy náy ... bà ta thực sự là một người đàn bà ghê gớm.
Mình đang làm gì thế này? Tracy nghĩ. Mình không phải là kẻ cắp. Không phải kẻ cắp thực thụ. Mình chỉ là một tay nghiệp dư ngờ nghệch sắp suy sụp rã rời vì căng thẳng.
Chỉ cần biết nghĩ một chút thôi, mình sẽ đi khỏi đây, khi hãy còn kịp, trước khi đội tuần tiễu tới, một phát súng nổ và họ mang mình ném vào nhà xác. Mình có thể còn hình dung ra một cái tít trên báo:
TỘI PHẠM NGUY HIỂM CHÊT TRONG MỘT VỤ TRỘM BỊ NGĂN CHẶN.
Sẽ có ai đến khóc trong đám tang mình? Ernestine và Amy. Tracy nhìn đồng hồ. Ôi, lạy Chúa, nàng đã ngồi đó mà mơ màng mất đến hai mươi phút. Nếu làm, tốt nhất là bắt đầu đi thôi.
Tracy không nhúc nhích được, cứng hết cả người vì sợ hãi. Mình không thể nào cứ ngồi mãi ở đây, nàng tự nhủ.
Sao mình không đi ra để ngó ngôi nhà một chút nhỉ? Xem qua thôi mà.
Tracy hít thật mạnh và ra khỏi xe. Nàng đang mặc bận áo liền quần màu đen, hai đầu gối run lẩy bẩy, chậm rãi tiến đến gần ngôi nhà, và thấy nó tối thui.
Nhớ mang gang tay - nàng nhớ lời Conrad Morgan và lấy ra, xỏ vào. Ôi, Chúa ơi, mình đang làm gì đó. Thực sự là mình đang bắt đầu rồi. Tim đập thình thịch đến nỗi nàng không còn nghe thấy tiếng gì khác nữa.
“Chuông báo động ở bên trái cửa ra vào phía trước. Có năm nút bấm. Đèn đỏ sáng - nghĩa là hệ thống báo động sẵn sàng làm việc. Để tắt nó đi, thì cần bấm -2-4-1-1. Khi vào rồi thì nhớ khép cửa lại, đùng cái đèn bấm này, đừng bật đèn trong nhà, ngừa trường hợp có ai đó ngẫu nhiên chạy xe qua. Phòng ngủ chính ở trên lầu, phía tay trái, trông ra cửa vịnh. Cô sẽ tìm thấy cái két sau một bức chân dung của Louis Bel1amy. Đó là một cái két rất đơn giản. Cô chỉ cần quay theo mã số này”.
Conrad Morgan đã dặn dò nàng kỹ lưỡng.
Tracy đứng như trời trồng, run rẩy, sẵn sàng chạy trốn nếu có một tiếng động nhỏ nhất. Đêm yên tĩnh. Chậm rãi, nàng với tay ấn vào hàng nút bấm của hệ thống báo động, lòng thầm mong không đạt hiệu quả gì. Ngọn đèn đỏ phụt tắt.
Bước tiếp theo sẽ trói buộc nàng, và nàng nhớ cách nói của những phi công về hoàn cảnh này:
Điểm không quay lại được.
Tracy cho chìa vào ổ khóa, cánh cửa bật mở. Nàng đứng đợi cả nguyên phút đồng hồ trước khi bước vào bên trong. Mọi dây thần kinh trong nàng đều căng thẳng tới tột độ trong khi nàng đứng lặng, nghe ngóng, không dám nhúc nhích.
Toàn bộ ngôi nhà chìm trong yên tĩnh. Nàng lấy đèn bấm ra, bật sáng và nhìn thấy cầu thang bèn tiến lại và leo lên. Giờ đây tất cả những gì nàng muốn là làm cho xong càng sớm càng tất và rồi chạy khỏi đây ngay.
Cái hành lang trên lầu trông thật bí hiểm trong luồng sáng của chiếc đèn bấm, và nó còn làm cho các bức tường như lay động. Tracy ngó vào từng phòng đi qua. Tất cả đều trống trơn, không hề có ai.
Căn phòng ngủ chính ở cuối hàng láng, trông ra vịnh, đúng như Morgan mô tả. Nó thật đẹp, toàn một màu hồng sẫm, với chiếc gi.ường có màn che và chiếc tủ commốt được trang trí với những bông hồng đỏ thắm. Có hai ghế dài kê đối diện nhau, một lò sưởi và một cái bàn nhỏ kê ngay trước đó chắc để làm bàn ăn sáng. Tracy nghĩ, lẽ ra thì mình đã sống trong một căn nhà giống như thế này cùng Charles và đứa con của mình với anh ta.
Nàng bước tới bên cửa sổ và ngắm nhìn các con tàu bỏ neo xa xa ngoài vịnh.
Cho con biết, lạy Chúa, cái gì đã làm cho Chúa định rằng Lois Beliamy sống trong ngôi nhà đẹp đẽ này và con thì đang, ở đây để ăn trộm? Nào. Cô bé. Tracy tự nhủ, đừng có băn khoăn gì nữa. Đây là chuyện chỉ xảy ra một lần. Nó sẽ qua đi trong vài phút, song nếu cứ đứng đây thì chẳng bao giờ làm được gì hết.
Nàng rời cửa sổ và bước tới bức chân dung mà Morgan đã mô tả. Lois Bel1amy đầy vẻ cứng rắn và tự phụ. Đúng thật. Có vẻ là một người đàn bà ghê gớm - nàng nghĩ bụng. Bức tranh mở ra và sau đó là một cái két nhỏ.
Tracy nhớ lại mã số. Ba vòng bên phải, dừng lại ở 42. Hai vòng về bên trái, dừng ở 10. Một vòng về bên phải, đừng ở 30. Hai tay run rẩy đến nỗi nàng phải làm lại lần thứ hai, và nghe tiếng “cạch”, cửa cái két mở ra.
Trơng két đầy những phong bì và giấy tờ. Nhưng Tracy bỏ qua chúng. Ở phía trong, trên mặt cái giá nhỏ là chiếc túi da sơn dương. Tracy với tay nhấc nó ra. Đúng lúc đó, tiếng chuông báo động vang lên, và đó là thứ âm thanh to nhất mà Tracy từng nghe thấy. Nó như dồn dập vang lên từ mọi góc phòng đến xé cả tai. Nàng đứng chết lặng, đứng người.
Có sai sót gì vậy? Conrad Morgan đã không biết gì về bộ phận báo động đặt trong két - tín hiệu báo động sẽ phát ra khi túi kim cương bị nhấc khỏi giá đỡ chăng?
Phải rời đây thật nhanh, nàng ấn cái túi da vào trong áo rời chạy ra hướng đầu thang gác. Và lúc này, ngoài các tín hiệu báo động đang dồn dập nàng còn nghe thấy một âm thanh khác nữa, âm thanh của tiếng còi xe cảnh sát đang lao đến gần. Tracy đứng dừng lại ở đầu cầu thang, hoảng sợ, tim đập cuồng lên, miệng khô đắng. Nàng chạy lại bên một cửa sổ, vén rèm lên và ghé ra ngoài.
Một chiếc xe tuần tiễu sơn hai màu trắng đen đang dừng lại trước ngôi nhà, và một cảnh sát chạy ra phía sau, trong khi viên cảnh sát thứ hai tiến tới cửa trước.
Không còn lối thoát nào cả. Tiếng chuông báo động vẫn vang vang và bỗng nhiên nàng thấy nó thật giống tiếng chuông khủng khiếp trong các hành lang của nhà tù Nam Louisiana.
Trung úy Melvin Durkin đã phục vụ trong lực lượng cảnh sát ở Sea Cliff tới 10 năm. Đây là một khu vực yên tĩnh và hoạt động chính của cảnh sát là đối phó với những kẻ phá phách gàn dở, một vài vụ trộm xe hơi, rồi thỉnh thoảng là dăm ba vụ gây lộn giữa những sâu rượu. Tiếng chuông báo động ở ngôi nhà của Bellamy là một loại hoàn toàn khác. Chính vì loại tội phạm này mà trung úy Durkin gia nhập lực lượng cảnh sát. Anh biết bà Lois Bellamy và cũng biết về bộ sưu tập tranh và số nữ trang quý giá của bà:
Từ hôm bà ta đi vắng, anh đã xếp ngôi nhà này thành một điểm kiểm tra thường xuyên, vì nó là mục tiêu thèm khát của những kẻ đào tường khoét vách. Và giờ đây, trung úy Durkin nghĩ bụng, có vẻ là mình đã tóm được một tên. Anh chỉ cách đây hai khu phố khi có thông báo bằng rađio từ công ty bảo vệ. Vụ này sẽ được ghi nhận vào hồ sơ của mình đây. Thật tuyệt - anh thầm nghĩ.
Trung úy Durkin ấn chuông cửa. Anh muốn có thể đàng hoàng ghi trong báo cáo rằng đã nhấn chuông ba lần trước khi đột nhập bằng vũ lực. Người đồng nghiệp của anh đã bao phía sau, vậy chẳng còn cơ hội nào cho tên trộm tẩu thoát. Anh hoàn toàn có thể ẩn mình đợi bên ngoài, thế nhưng cũng lại muốn bất ngờ xuất hiện ngay trong nhà. Không tên trộm nào có thể trốn thoát khỏi tay Melvin Durkin.
Khi viên trung úy với tay định bấm chuông lần nữa thì cửa trước đột ngột mở ra. Anh đứng ngây người nhìn. Trong ngưỡng cửa là một phụ nữ trong chiếc áo ngoài mỏng tang đến mức chẳng cần phải tưởng tượng thêm gì mấy. Mặt cô ta trát một lớp kem phấn gì đó và đầu thì đội chiếc mũ để giữ tóc.
Cô ta cật vấn. “Chuyện quỷ quái gì vậy, hả?”.
Trung úy Durkin nuốt nước bọt. “Tôi ... cô là ai?”.
“Tôi là Ellen Branch. Tôi là khách ngủ lại của nhà bà Lois Bellamy. Bà ấy đang đi châu Âu”.
“Tôi biết rồi”. Viên trung úy lúng túng. “Bà ấy không nói với chúng tôi rằng cô một người khách ở nhà”.
Người phụ nữ gật đầu, đầy vẻ hiểu biết. “Bà Lois chẳng vẫn vậy đó thôi?
Xin lỗi. Tôi không thể chịu nổi cái âm thanh này”.
Nói đoạn người khách của Lois Bellamy với tay lên bấm mấy cái nút của hệ thống báo động và tiếng chuông ngừng bặt.
“Vậy dễ chịu hơn”, cô ta nói nhẹ. “Tôi không thể nói hết sự sung sướng được thấy ông”. Rồi dịu dàng. “Tôi đang chuẩn bị lên gi.ường ngủ thì chuông báo động kêu vang lên. Tôi tin rằng có bọn trộm trong nhà, tôi ở đây chỉ có một mình. Những người giúp việc thì đã về từ trưa rồi”.
“Cô có bằng lòng để chúng tôi được ngó quanh một chút không?”.
“Xin mời, chính tôi muốn thế đấy”.
Chỉ mất ít phút là viên trung úy và đồng nghiệp của anh ta có thể tin chắc rằng không có kẻ nào đang lẩn trốn quanh quẩn đâu đây.
“Không có gì cả”, trung úy Durkin nói. “Báo động nhầm. Có cái gì đó trục trặc thôi. Không thể lúc nào cũng tin vào ba cái đồ điện tử này được. Cô nên báo cho công ty bảo vệ và yêu cầu họ kiểm tra lại hệ thống báo động”.
“Nhất định tôi sẽ làm thế”.
“Thôi, có lẽ chúng tôi sẽ lại lên đường”. Viên trung úy nói.
“Xin cảm ơn về việc các ông đã đến đây. Bây giờ, tôi cảm thấy an toàn hơn”.
Cô ta có tấm thân tuyệt vời, trung úy Durkin nghĩ bụng. Anh băn khoăn không biết vẻ mặt cô ta trông thế nào nếu như không có lớp kem phấn và những cái lô cuốn tóc kia. “Cô sẽ ở đây lâu chứ, cô Branch?”.
“Một hoặc hai tuần nữa, tới lúc bà Lois trở về”.
“Nếu tôi có thể làm gì giúp cô, xin cho biết nhé”.
“Cám ơn ông, tôi sẽ chờ ông”.
Tracy đứng nhìn theo chiếc xe cảnh sát lao vào màn đêm. Nàng nhẹ bẫng người đi. Khi chiếc xe đã khuất, nàng chạy vội lên gác, rửa sạch lớp kem phấn, gỡ mấy cuộn lộ của Lois Bellamy ra khỏi đầu và trút bỏ cái váy ngủ, mặc trở lại bộ đồ màu đen và rời khỏi nhà bằng cửa trước, thận trọng đặt lại chuông báo động.
Cho mãi tới lúc chạy nửa quãng đường về Manhattan, sự liều lĩnh kia mới tác động đến cân não và nàng bỗng cười khúc khích, rồi cười to đến mức không kìm được, phải dừng xe lại bên đường. Nàng cười mãi cho tới lúc nước mắt giàn giụa. Đó là lần đầu tiên nàng cười trong suốt một năm trời. Cảm giác đó thật tuyệt, tuyệt.
 
Chương 17


Khi đoàn tàu rời khỏi ga Pennsylvania, Tracy mới thấy bớt lo ngại. Từng giây đồng hồ, nàng đã đợi một bàn tay nặng nề chộp lấy vai, một giọng nói cất lên “Cô đã bị bắt”. Nàng cẩn thận để ý các hành khách khi họ lên tàu, và không thấy có biểu hiện gì lo ngại. Tuy vậy, đôi vai nàng vẫn run run vì căng thẳng, cố tự nhủ rằng khó ai có thể phát hiện ra vụ trộm vào lúc này, và ngay cả trong trường hợp như vậy, cũng không có chứng cớ gì liên hệ tới nàng được. Conrad Morgan sẽ chờ nàng ở St. Louis với 25 ngàn đô la. Hai mươi lăm ngàn mà nàng có thể tự tiêu pha! Nàng phải làm việc ở nhà băng cả năm trời mới có thể kiếm được số tiền đó. Mình sẽ đi châu Âu, Tracy nghĩ. Paris. Không, không phải là Paris. Charles và mình định đi tuần trăng mật ở đó. Mình sẽ đi London. Ở đó mình sẽ không còn là một con chim trong lồng nữa. Cứ như nàng vừa được tái sinh vậy.
Khóa cánh cửa ngăn riêng của mình lại, nàng lấy cái túi da và mở xem. Một dãy những viên đá lấp lánh tràn xuống tay. Có ba cái nhẫn kim cương lớn, một cái nạm ngọc, một cái vòng đeo bằng Saphia, ba đôi khuyên tai, và hai dây chuyền, một bằng ngọc Rubi, một bằng ngọc trai.
Chỗ nữ trang này trị giá tới hơn một triệu đô la. Tracy sững sờ cả người.
Và trong lúc con tàu đang băng băng lướt qua vùng Đồng quê, nàng ngả người trong ghế và đầu óc thoáng hiện lại những diễn biến của buổi tối. Thuê xe ... chạy tới Sea Cliff ... sự yên lặng của màn đêm ... ngắt hệ thống báo động và xâm nhập vào ngôi nhà ... mở két ... choáng váng vì tiếng chuông báo động ... sự xuất hiện nhanh chóng của cảnh sát. Họ không thể nào hình dung được rằng người phụ nữ mặt đầy kem phấn, tóc quấn lô lại chính là tên trộm mà họ đang tìm kiếm.
Giờ đây, ngồi thanh thản trong ngăn riêng trên chuyến tàu đi St. Louis, Tracy cho phép mình mỉm một nụ cười hài lòng. Việc qua mặt cảnh sát làm nàng thấy thích thú. Có cái gì đó thật hấp dẫn khi kề sát một nguy hiểm nào đó rồi lại vượt qua được. Nàng cảm nhận thấy sự táo bạo, thông minh, và sự chiến thắng trong chuyện đó, có cảm giác thật khoan khoái.
Có tiếng gõ vào ngăn của nàng. Tracy vội vã cho đồ nữ trang vào túi da và đặt cái tín vào trong vali, lấy chiếc vé tàu ra, và mở cửa. Một người chừng ngoài ba mươi, còn người kia thì già hơn khoảng chục tuổi. Người trẻ tuổi hơn vẻ khôi ngô, ria mép nhỏ gọn, mang một cặp kính gọng sừng và đằng sau đó là đôi mắt ra vẻ thông minh. Người lớn tuổi hơn dáng dấp nặng nề, tóc dầy đen, mắt nâu, lạnh như tiền:
“Tôi có thể giúp gì các ông?” Tracy hỏi.
“Vâng, thưa tiểu thư”. Người lớn tuổi đáp. Ông ta móc ví và giơ ra một tấm căn cước ...
CỤC ĐIỀU TRA LIÊN BANG BỘ TƯ PHÁP - HOA KỲ.
“Tôi là nhân viên đặc biệt Dennis Trevor. Đây là nhân viên đặc biệt Thomas Bowers”.
Miệng Tracy chợt khô đắng, nàng cố gượng cười.
“Ôi ... e rằng tôi chẳng hiểu gì cả. Có chuyện gì chăng?”.
“Tôi e là như thế đấy, thưa cô”, người nhân viên trẻ lên tiếng. Anh ta nói giọng miền Nam mềm mại. “Cách đây vài phút, đoàn tàu này đã vào địa phận New Jersey.
Việc chuyên chở đồ ăn cắp từ bang này sang bang khác là một hành vi vi phạm pháp luật Liên bang”.
Tracy muốn ngất xỉu. Như có một tấm phim mờ chắn trước mắt vậy, tất cả đều nhòa đi.
Người đàn ông đứng tuổi, Dennis Trevor nói. “Mời cô mở hành lý ra nào?”.
Đó không phải một đề nghị, mà là mệnh lệnh.
Hy vọng duy nhất của nàng là chỉ còn cách giả vờ như không biết gì. “Dĩ nhiên là tôi sẽ không mở! Tại sao các ông lại dám xông vào buồng tôi như thế này!” Giọng nàng đầy vẻ phẫn nộ. “Có phải tất cả công việc của các ông là đi vòng vòng quấy nhiễu các công dân vô tội không? Tôi sẽ gọi người phụ trách toa xe”.
“Chúng tôi đã nói với người phụ trách toa xe này rồi” Trevor nói.
Sự giả vờ của nàng thật không đạt kết quả gì. Nàng lắp bắp. “Các ông ... có giấy phép khám xét không?”.
Người đàn ông trẻ nói nhẹ nhàng. “Chúng tôi không cần phải có giấy phép đó, thưa cô Whitney. Chúng tôi đã biết từ khi hành động phạm tội của cô đang diễn ra cơ”.
Vậy là họ thậm chí biết cả tên. Nàng đã bị sập bẫy. Không còn lối thoát nào.
Hết cả rồi.
Trevor bước đến mở va li. Việc ngăn lại chẳng còn ích gì Tracy đứng nhìn trong lúc người đàn ông trẻ lục lọi và lôi cái túi da ra, mở xem nó và nhìn đồng nghiệp rồi gật đầu. Tracy không còn đứng nói. Nàng ngồi sụp xuống ghế.
Trevor móc trong túi quần ra một danh mục, làm vẻ kiểm tra mấy thứ đồ trong cái túi da theo danh mục đó và nhét cái túi vào người. “Đủ cả đấy, Tom”.
“Làm sao ... Làm sao mà các ông phát hiện ra?” Tracy đau đớn hỏi.
“Chúng tôi không được phép đưa ra một thông tin gì”, Trevor đáp. “Cô đã bị bắt. Cô có quyền im lặng và có quyển thuê một luật sư đại diện cho cô trước khi cô nói bất cứ điều gì. Mọi điều cô nói lúc này có thể được dùng làm bằng chứng chống lại chính cô. Cô hiểu chưa?”.
Nàng lí nhí đáp, “Vâng”.
Thomas Bowers nói. “Tôi rất lấy làm tiếc về chuyện này. Ý tôi muốn nói, tôi biết lai lịch cô, vả tôi thực sự lấy làm tiếc”.
“Lạy Chúa”, người đàn ông lớn tuổi kêu lên. “Đây đâu phải là một cuộc thăm viếng xã giao”.
“Tôi_biết, nhưng tuy vậy ...”.
Người đàn ông lớn tuổi chìa ra trước Tracy chiếc còng tay. “Yêc cầu đưa tay đây”.
Tracy thấy tim thắt lại vì đau khổ, bỗng nhớ cảnh ở sân bay New Orleans khi mà họ khóa tay nàng, những ánh mắt dòm ngó. “Xin ông. Các ông ... các ông có buộc phải làm thế không?”.
“Vâng, thưa cô”.
Người trẻ tuổi nói khẽ. “Tôi có thể nói riêng với anh một chút không, Dennis?”.
Dennis Trevor nhún vai. “Được”.
Hai người bước ra ngoài hành lang. Tlacy thờ thẫn và tuyệt vọng, lõm bõm nghe tiếng hai người kia.
“Lạy Chúa, Dennis, không nhất thiết phải còng cô ta làm gì. Cô ta sẽ chẳng trốn đi đâu:..”.
“Đến khi nào thì mới thôi cái kiểu đa cảm này đi, hả” Khi mà anh cũng đã phục vụ ở cơ quan này lâu như tôi tồi ...”.
“Nào. Nương tay cho cô ta một chút. Cô ta đã đủ hoảng hốt lắm rồi và ...”, Không cần biết chuyện cô ta sẽ làm gì ...”.
Nàng không nghe được phần cuối, và cũng không muốn nghe gì nữa hết.
Họ trở vào. Người đàn ông lớn tuổi có vẻ bực dọc.
“Thôi được” ông ta nới. “Chúng tôi sẽ không còng tay cô nữa. Tới ga sau chúng tôi sẽ đưa cô xuống. Chúng tôi sẽ báo trước cho xe của Cục ra chờ. Cô không được rời khỏi đây rõ chưa?”.
Không còn có thể làm gì được nữa. Bây giờ thì không được rồi đã quá muộn.
Nàng đã bị bắt quả tang. Bằng cách nào đó, cảnh sát đã theo dõi được nàng và thông báo cho FBI biết.
Hai người nhân viên đang ở ngoài hành lang nói chuyện gì đó với người phụ trách toa xe. Bower chỉ Tracy và nói gì mà nàng không nghe được. Người phụ trách toa xe gật đầu. Bowes đóng cánh cửa lại, và với Tracy, nó như cánh cửa phòng giam vừa sập vào.
Cảnh đồng quê lướt nhanh, những bức tranh thoáng hiện qua khung cửa sổ, thế nhưng Tracy không hề thấy gì hết. Nàng ngồi đó, chết lặng vì sợ hãi, lo âu.
Tai nàng ù lên, dù không phải do tiếng động của con tàu. Nàng sẽ không có thể còn một cơ hội thứ hai nữa. Nàng là một tội phạm nguy hiểm. Họ sẽ dành cho nàng bản án nặng nhất, và lần này thì sẽ không còn có dứa con nhỏ của ông tổng giám thị để mà cứu nữa, sẽ không còn gì cả ngoài những năm tù khủng khiếp gần như kéo dài vô tận. Và Bertha Lớn nữa.
Làm sao mà họ biết được nhỉ? Tracy tự hỏi. Người duy nhất biết về vụ này là Conrad Morgan, và ông ta không có lý do gì để trao nàng và túi kim cương cho FBI cả. Có thể là một nhân viên nào đó trong cửa hiệu của ông ta đã biết chuyện và báo trước cho cảnh sát. Nhưng dù chuyện thế nào thì với nàng cũng chẳng có gì khác cả. Nàng đã bị bắt. Tại ga tới nàng sẽ lại bị đưa trở lại nhà tù. Sẽ có một cuộc hỏi cung sơ bộ, rồi phiên tòa, và rồi ...
Tracy nhắm nghiền mắt lại, không muốn nghĩ thêm gì nữa, cảm thấy những giọt những mắt nóng hổi lăn xuống hai bên má.
Đoàn tàu bắt đầu chạy chậm lại. Tracy thở mạnh, như thấy ngạt hơi vậy.
Hai nhân viên FBI kia sẽ quay lại bây giờ thôi Một nhà ga hiện ra và ít giây sau đoàn tàu dừng hẳn lại. Đã đến lúc phải đi. Tracy đóng va li lại, mặc áo khoác và lại ngồi xuống, nhìn chằm chằm vào cánh cửa, chờ đợi nó bật mở. Mấy phút trôi qua. Không thấy hai người đàn ông kia xuất hiện. Họ đang 1àm gì nhỉ? Nàng nhớ lời họ nói. “Chúng tôi sẽ đưa cô xuống ở ga sau. Chúng tôi sẽ báo trước cho xe của Cục ra chờ. Cô được được rời khỏi đây”.
Nàng nghe tiếng người phụ trách toa xe. “Tất cả đã lên ...” Tracy bắt đầu lo.
Có thể ý họ là sẽ chờ nàng ở dưới sân ga. Chắc là vậy. Nếu nàng cứ ngồi lại trên tàu, họ sẽ buộc nàng thêm tội định chạy trốn, và điều đó sẽ làm cho tình hình xấu hơn nữa. Tracy chộp lấy cái va li và vội vã bước ra hành lang.
Người phụ trách toa xe chạy lại. “Cô xuống đây à, thưa cô?” Ông ta hỏi. “Cô nên nhanh lên đi. Để tôi giúp nào. Một người phụ nữ trong tình trạng sức khỏe như cô thì không nên mang vác gì”.
Tracy nhìn ông ta. “Tình trạng sức khỏe của tôi sao cơ?
“Cô chẳng việc gì phải ngượng ngùng. Hai người anh cô đã bảo tôi là cô đang có thai và đề nghị tôi lưu ý tới cô một chút”.
“Các anh tôi ...”.
“Những chàng trai rất tốt. Họ thực sự lo lắng cho cô đấy”.
Tracy thấy tất cả đều quay cuồng, chao đảo.
Người phụ trách toa xe giúp Tracy bước xuống. Đoàn tàu bắt đầu chuyển bánh.
“Ông có biết các anh tôi đi đâu không?” Tracy gọi với lên.
“Thưa cô, không. Khi tàu mới dừng bánh thì họ đã nhảy vào một chiếc tắc xi”.
Với túi kim cương bị lấy cắp trị giá cả triệu đô la, Tracy hậm học nghĩ.
Tracy quyết định ra sân bay. Đó là nơi duy nhất mà nàng có thể nghĩ tới.
Nếu bọn chúng lên tắc xi có nghĩa là bọn chúng không có phương tiện riêng, và chắc chắn là chúng muốn chuồn khỏi thị trấn này càng sớm càng tốt.
Nàng ngả người trên ghế tắc xi, giận dữ vì điều chúng đã làm đối với nàng và xấu hổ vì đã để chúng lừa gạt quá dễ dàng. Ồ, nhưng chúng quả là giỏi, cả hai gã thực sự giỏi, đã tạo ra vẻ hết sức thuyết phục. Nàng thấy đỏ mặt vì đã bị bẫy bằng những cái trò cảnh sát thật - cảnh sát giả quá cũ kỹ.
Lạy Chúa, Dennis, không cần thiết phải còng tay cô ta làm gì. Cô ta sẽ chẳng trốn đi đâu ...
“ôĐến khi nào thì mới thôi cái kiểu đa cảm này đi, hả. Khi mà anh cũng phục vụ ở cơ quan này lâu như tôi rồi ...
Cơ quan này? Có thể cả hai gã cũng đang là những kẻ bị truy nã. Được, nàng sẽ giành lại số kim cương đó cho bằng được. Nàng đã trải qua quá nhiều gian nguy và không đời nào chịu để hai kẻ lừa đảo này qua mặt. Miễn rằng phải đến được sân bay kịp thời. Nàng dướn lên nói với người lái xe. “Xin chạy nhanh hơn nữa được không?”.
Họ đang đứng trong hàng người chờ lên máy bay ở cổng đi và thoạt đầu nàng đã không nhận ra họ ngay được. Gã trẻ hơn, kẻ tự xưng là Thomas Bowers đã bỏ kính, bỏ ria mép, và màu mắt đã chuyển từ xanh sang xám. Người kia, Deunis Trevor, giờ đây hói đầu chứ không phải là có mớ tóc dày và đen nữa.
Tuy nhiên, không thể nhầm họ được. Họ đã không đủ thời gian để thay quần áo.
Khi Tracy đến thì hai gã đã gần sát tới cổng vào.
“Các ông quên một thứ”. Tracy nói.
Họ cùng quay lại và giật mình. Gã trẻ hơn cau mặt.
“Cô làm gì ở đây hả? Người ta đã phái một chiếc xe ra đón cô cơ mà”. Giọng nói miền Nam của gã đã biến đâu mất.
“Vậy tại sao ta không cùng quay lại kiếm chiếc xe?”.
Tracy đề nghị.
“Không thể. Chúng tôi đang theo một vụ khác.
Trevor giải thích. “Chúng tôi phải kịp chuyến bay này”.
“Trước hết, hãy trả lại tôi túi kim cương”, Tracy đòi.
“Sợ rằng chúng tôi không thể làm thế được”, Thomas Bower nói. “Đó là tang vật. Chúng tôi sẽ gửi cho cô một giấy biên nhận”.
“Không. Tôi không cần giấy biên nhận. Tôi muốn trả lại túi kim cương kia”.
“Rất tiếc”, Trevor đã giơ giấy lên máy bay cho nhân viên kiểm soát. Tracy nhìn quanh, tuyệt vọng, và thấy một viên cảnh sát sân bay đứng gần đó, nàng kêu lên, “Ống sĩ quan! Ông sĩ quan!”.
Hai gã đàn ông kia nhìn nhau, hất hoảng.
“Cô làm cái quỷ quái gì thế, hả? “ Trevor khẽ rít lên.
“Cô muốn cả bọn đều bị tóm hả?”.
Viên cảnh sát đã đến bên họ. “Gì vậy, cô gái? Có việc rắc rối gì không?”.
“Ôi, không có rắc rối gì đâu”, Tracy vui vẻ nói. “Hai quý ông tuyệt diệu này đã tìm thấy chỗ nữ trang mà tôi đánh mất, và họ mang trả lại cho tôi. Tời đã sợ rằng phải đến FBI vì việc này rồi đó”.
Hai gã kia cuống cuồng nhìn nhau.
“Họ cho rằng có thể ông sẽ vui lòng đưa tôi ra tắc xi”.
“Chắc chắn là thế, rất vui lòng”.
Tracy quay sang hai gã kia. “Bây giờ thì an toàn rồi, các ông trao chỗ kim cương lại cho tôi. Ông sĩ quan đáng mến này sẽ giúp tôi”.
“Không nên như thế”. Tom Bowers phản đối. “Sẽ tốt hơn nhiều nếu chúng tôi ...”.
“Ồ không, tôi muốn vậy”. Tracy giục. “Tôi biết việc đi kịp chuyến bay này là rất quan trọng đối với các ông.
Hai gã nhìn viên cảnh sát, rồi nhìn nhau, bất lực. Họ không còn có thể làm gì được. Rất miễn cưỡng, Tom Bowers móc túi ra lấy ra cái túi da.
“Nó đây rồi!” Tracy kêu lên, đỡ cái túi từ tay gã, mở ra xem, “ơn Chúa, đủ cả”.
Tom Bowers cố vớt vát. “Tại sao không để chúng tôi giữ hộ cho đến lúc cô”.
“Chẳng cần phải thế”. Tracy vui vẻ đáp rồi mở ví cất chỗ kim cương vào và lấy ra hai tờ 5 đô la, đưa cho mỗi gã một tờ. “Đây là một chút tượng trưng cho sự đánh giá cao của tôi đối với việc mà hai ông đã làm”.
Tất cả hành khách đã vào hết. Nhân viên hàng không nói. “Đây là lời nhắc cuối cùng. Tất cả quý khách phải lên máy bay ngay”.
“Cảm ơn các ông một lần nữa”. Tracy mỉm cười bước đi với viên cảnh sát.
“Thời buổi bây giờ thật khó tìm được người lương thiện”.
 
Chương 17


Khi đoàn tàu rời khỏi ga Pennsylvania, Tracy mới thấy bớt lo ngại. Từng giây đồng hồ, nàng đã đợi một bàn tay nặng nề chộp lấy vai, một giọng nói cất lên “Cô đã bị bắt”. Nàng cẩn thận để ý các hành khách khi họ lên tàu, và không thấy có biểu hiện gì lo ngại. Tuy vậy, đôi vai nàng vẫn run run vì căng thẳng, cố tự nhủ rằng khó ai có thể phát hiện ra vụ trộm vào lúc này, và ngay cả trong trường hợp như vậy, cũng không có chứng cớ gì liên hệ tới nàng được. Conrad Morgan sẽ chờ nàng ở St. Louis với 25 ngàn đô la. Hai mươi lăm ngàn mà nàng có thể tự tiêu pha! Nàng phải làm việc ở nhà băng cả năm trời mới có thể kiếm được số tiền đó. Mình sẽ đi châu Âu, Tracy nghĩ. Paris. Không, không phải là Paris. Charles và mình định đi tuần trăng mật ở đó. Mình sẽ đi London. Ở đó mình sẽ không còn là một con chim trong lồng nữa. Cứ như nàng vừa được tái sinh vậy.
Khóa cánh cửa ngăn riêng của mình lại, nàng lấy cái túi da và mở xem. Một dãy những viên đá lấp lánh tràn xuống tay. Có ba cái nhẫn kim cương lớn, một cái nạm ngọc, một cái vòng đeo bằng Saphia, ba đôi khuyên tai, và hai dây chuyền, một bằng ngọc Rubi, một bằng ngọc trai.
Chỗ nữ trang này trị giá tới hơn một triệu đô la. Tracy sững sờ cả người.
Và trong lúc con tàu đang băng băng lướt qua vùng Đồng quê, nàng ngả người trong ghế và đầu óc thoáng hiện lại những diễn biến của buổi tối. Thuê xe ... chạy tới Sea Cliff ... sự yên lặng của màn đêm ... ngắt hệ thống báo động và xâm nhập vào ngôi nhà ... mở két ... choáng váng vì tiếng chuông báo động ... sự xuất hiện nhanh chóng của cảnh sát. Họ không thể nào hình dung được rằng người phụ nữ mặt đầy kem phấn, tóc quấn lô lại chính là tên trộm mà họ đang tìm kiếm.
Giờ đây, ngồi thanh thản trong ngăn riêng trên chuyến tàu đi St. Louis, Tracy cho phép mình mỉm một nụ cười hài lòng. Việc qua mặt cảnh sát làm nàng thấy thích thú. Có cái gì đó thật hấp dẫn khi kề sát một nguy hiểm nào đó rồi lại vượt qua được. Nàng cảm nhận thấy sự táo bạo, thông minh, và sự chiến thắng trong chuyện đó, có cảm giác thật khoan khoái.
Có tiếng gõ vào ngăn của nàng. Tracy vội vã cho đồ nữ trang vào túi da và đặt cái tín vào trong vali, lấy chiếc vé tàu ra, và mở cửa. Một người chừng ngoài ba mươi, còn người kia thì già hơn khoảng chục tuổi. Người trẻ tuổi hơn vẻ khôi ngô, ria mép nhỏ gọn, mang một cặp kính gọng sừng và đằng sau đó là đôi mắt ra vẻ thông minh. Người lớn tuổi hơn dáng dấp nặng nề, tóc dầy đen, mắt nâu, lạnh như tiền:
“Tôi có thể giúp gì các ông?” Tracy hỏi.
“Vâng, thưa tiểu thư”. Người lớn tuổi đáp. Ông ta móc ví và giơ ra một tấm căn cước ...
CỤC ĐIỀU TRA LIÊN BANG BỘ TƯ PHÁP - HOA KỲ.
“Tôi là nhân viên đặc biệt Dennis Trevor. Đây là nhân viên đặc biệt Thomas Bowers”.
Miệng Tracy chợt khô đắng, nàng cố gượng cười.
“Ôi ... e rằng tôi chẳng hiểu gì cả. Có chuyện gì chăng?”.
“Tôi e là như thế đấy, thưa cô”, người nhân viên trẻ lên tiếng. Anh ta nói giọng miền Nam mềm mại. “Cách đây vài phút, đoàn tàu này đã vào địa phận New Jersey.
Việc chuyên chở đồ ăn cắp từ bang này sang bang khác là một hành vi vi phạm pháp luật Liên bang”.
Tracy muốn ngất xỉu. Như có một tấm phim mờ chắn trước mắt vậy, tất cả đều nhòa đi.
Người đàn ông đứng tuổi, Dennis Trevor nói. “Mời cô mở hành lý ra nào?”.
Đó không phải một đề nghị, mà là mệnh lệnh.
Hy vọng duy nhất của nàng là chỉ còn cách giả vờ như không biết gì. “Dĩ nhiên là tôi sẽ không mở! Tại sao các ông lại dám xông vào buồng tôi như thế này!” Giọng nàng đầy vẻ phẫn nộ. “Có phải tất cả công việc của các ông là đi vòng vòng quấy nhiễu các công dân vô tội không? Tôi sẽ gọi người phụ trách toa xe”.
“Chúng tôi đã nói với người phụ trách toa xe này rồi” Trevor nói.
Sự giả vờ của nàng thật không đạt kết quả gì. Nàng lắp bắp. “Các ông ... có giấy phép khám xét không?”.
Người đàn ông trẻ nói nhẹ nhàng. “Chúng tôi không cần phải có giấy phép đó, thưa cô Whitney. Chúng tôi đã biết từ khi hành động phạm tội của cô đang diễn ra cơ”.
Vậy là họ thậm chí biết cả tên. Nàng đã bị sập bẫy. Không còn lối thoát nào.
Hết cả rồi.
Trevor bước đến mở va li. Việc ngăn lại chẳng còn ích gì Tracy đứng nhìn trong lúc người đàn ông trẻ lục lọi và lôi cái túi da ra, mở xem nó và nhìn đồng nghiệp rồi gật đầu. Tracy không còn đứng nói. Nàng ngồi sụp xuống ghế.
Trevor móc trong túi quần ra một danh mục, làm vẻ kiểm tra mấy thứ đồ trong cái túi da theo danh mục đó và nhét cái túi vào người. “Đủ cả đấy, Tom”.
“Làm sao ... Làm sao mà các ông phát hiện ra?” Tracy đau đớn hỏi.
“Chúng tôi không được phép đưa ra một thông tin gì”, Trevor đáp. “Cô đã bị bắt. Cô có quyền im lặng và có quyển thuê một luật sư đại diện cho cô trước khi cô nói bất cứ điều gì. Mọi điều cô nói lúc này có thể được dùng làm bằng chứng chống lại chính cô. Cô hiểu chưa?”.
Nàng lí nhí đáp, “Vâng”.
Thomas Bowers nói. “Tôi rất lấy làm tiếc về chuyện này. Ý tôi muốn nói, tôi biết lai lịch cô, vả tôi thực sự lấy làm tiếc”.
“Lạy Chúa”, người đàn ông lớn tuổi kêu lên. “Đây đâu phải là một cuộc thăm viếng xã giao”.
“Tôi_biết, nhưng tuy vậy ...”.
Người đàn ông lớn tuổi chìa ra trước Tracy chiếc còng tay. “Yêc cầu đưa tay đây”.
Tracy thấy tim thắt lại vì đau khổ, bỗng nhớ cảnh ở sân bay New Orleans khi mà họ khóa tay nàng, những ánh mắt dòm ngó. “Xin ông. Các ông ... các ông có buộc phải làm thế không?”.
“Vâng, thưa cô”.
Người trẻ tuổi nói khẽ. “Tôi có thể nói riêng với anh một chút không, Dennis?”.
Dennis Trevor nhún vai. “Được”.
Hai người bước ra ngoài hành lang. Tlacy thờ thẫn và tuyệt vọng, lõm bõm nghe tiếng hai người kia.
“Lạy Chúa, Dennis, không nhất thiết phải còng cô ta làm gì. Cô ta sẽ chẳng trốn đi đâu:..”.
“Đến khi nào thì mới thôi cái kiểu đa cảm này đi, hả” Khi mà anh cũng đã phục vụ ở cơ quan này lâu như tôi tồi ...”.
“Nào. Nương tay cho cô ta một chút. Cô ta đã đủ hoảng hốt lắm rồi và ...”, Không cần biết chuyện cô ta sẽ làm gì ...”.
Nàng không nghe được phần cuối, và cũng không muốn nghe gì nữa hết.
Họ trở vào. Người đàn ông lớn tuổi có vẻ bực dọc.
“Thôi được” ông ta nới. “Chúng tôi sẽ không còng tay cô nữa. Tới ga sau chúng tôi sẽ đưa cô xuống. Chúng tôi sẽ báo trước cho xe của Cục ra chờ. Cô không được rời khỏi đây rõ chưa?”.
Không còn có thể làm gì được nữa. Bây giờ thì không được rồi đã quá muộn.
Nàng đã bị bắt quả tang. Bằng cách nào đó, cảnh sát đã theo dõi được nàng và thông báo cho FBI biết.
Hai người nhân viên đang ở ngoài hành lang nói chuyện gì đó với người phụ trách toa xe. Bower chỉ Tracy và nói gì mà nàng không nghe được. Người phụ trách toa xe gật đầu. Bowes đóng cánh cửa lại, và với Tracy, nó như cánh cửa phòng giam vừa sập vào.
Cảnh đồng quê lướt nhanh, những bức tranh thoáng hiện qua khung cửa sổ, thế nhưng Tracy không hề thấy gì hết. Nàng ngồi đó, chết lặng vì sợ hãi, lo âu.
Tai nàng ù lên, dù không phải do tiếng động của con tàu. Nàng sẽ không có thể còn một cơ hội thứ hai nữa. Nàng là một tội phạm nguy hiểm. Họ sẽ dành cho nàng bản án nặng nhất, và lần này thì sẽ không còn có dứa con nhỏ của ông tổng giám thị để mà cứu nữa, sẽ không còn gì cả ngoài những năm tù khủng khiếp gần như kéo dài vô tận. Và Bertha Lớn nữa.
Làm sao mà họ biết được nhỉ? Tracy tự hỏi. Người duy nhất biết về vụ này là Conrad Morgan, và ông ta không có lý do gì để trao nàng và túi kim cương cho FBI cả. Có thể là một nhân viên nào đó trong cửa hiệu của ông ta đã biết chuyện và báo trước cho cảnh sát. Nhưng dù chuyện thế nào thì với nàng cũng chẳng có gì khác cả. Nàng đã bị bắt. Tại ga tới nàng sẽ lại bị đưa trở lại nhà tù. Sẽ có một cuộc hỏi cung sơ bộ, rồi phiên tòa, và rồi ...
Tracy nhắm nghiền mắt lại, không muốn nghĩ thêm gì nữa, cảm thấy những giọt những mắt nóng hổi lăn xuống hai bên má.
Đoàn tàu bắt đầu chạy chậm lại. Tracy thở mạnh, như thấy ngạt hơi vậy.
Hai nhân viên FBI kia sẽ quay lại bây giờ thôi Một nhà ga hiện ra và ít giây sau đoàn tàu dừng hẳn lại. Đã đến lúc phải đi. Tracy đóng va li lại, mặc áo khoác và lại ngồi xuống, nhìn chằm chằm vào cánh cửa, chờ đợi nó bật mở. Mấy phút trôi qua. Không thấy hai người đàn ông kia xuất hiện. Họ đang 1àm gì nhỉ? Nàng nhớ lời họ nói. “Chúng tôi sẽ đưa cô xuống ở ga sau. Chúng tôi sẽ báo trước cho xe của Cục ra chờ. Cô được được rời khỏi đây”.
Nàng nghe tiếng người phụ trách toa xe. “Tất cả đã lên ...” Tracy bắt đầu lo.
Có thể ý họ là sẽ chờ nàng ở dưới sân ga. Chắc là vậy. Nếu nàng cứ ngồi lại trên tàu, họ sẽ buộc nàng thêm tội định chạy trốn, và điều đó sẽ làm cho tình hình xấu hơn nữa. Tracy chộp lấy cái va li và vội vã bước ra hành lang.
Người phụ trách toa xe chạy lại. “Cô xuống đây à, thưa cô?” Ông ta hỏi. “Cô nên nhanh lên đi. Để tôi giúp nào. Một người phụ nữ trong tình trạng sức khỏe như cô thì không nên mang vác gì”.
Tracy nhìn ông ta. “Tình trạng sức khỏe của tôi sao cơ?
“Cô chẳng việc gì phải ngượng ngùng. Hai người anh cô đã bảo tôi là cô đang có thai và đề nghị tôi lưu ý tới cô một chút”.
“Các anh tôi ...”.
“Những chàng trai rất tốt. Họ thực sự lo lắng cho cô đấy”.
Tracy thấy tất cả đều quay cuồng, chao đảo.
Người phụ trách toa xe giúp Tracy bước xuống. Đoàn tàu bắt đầu chuyển bánh.
“Ông có biết các anh tôi đi đâu không?” Tracy gọi với lên.
“Thưa cô, không. Khi tàu mới dừng bánh thì họ đã nhảy vào một chiếc tắc xi”.
Với túi kim cương bị lấy cắp trị giá cả triệu đô la, Tracy hậm học nghĩ.
Tracy quyết định ra sân bay. Đó là nơi duy nhất mà nàng có thể nghĩ tới.
Nếu bọn chúng lên tắc xi có nghĩa là bọn chúng không có phương tiện riêng, và chắc chắn là chúng muốn chuồn khỏi thị trấn này càng sớm càng tốt.
Nàng ngả người trên ghế tắc xi, giận dữ vì điều chúng đã làm đối với nàng và xấu hổ vì đã để chúng lừa gạt quá dễ dàng. Ồ, nhưng chúng quả là giỏi, cả hai gã thực sự giỏi, đã tạo ra vẻ hết sức thuyết phục. Nàng thấy đỏ mặt vì đã bị bẫy bằng những cái trò cảnh sát thật - cảnh sát giả quá cũ kỹ.
Lạy Chúa, Dennis, không cần thiết phải còng tay cô ta làm gì. Cô ta sẽ chẳng trốn đi đâu ...
“ôĐến khi nào thì mới thôi cái kiểu đa cảm này đi, hả. Khi mà anh cũng phục vụ ở cơ quan này lâu như tôi rồi ...
Cơ quan này? Có thể cả hai gã cũng đang là những kẻ bị truy nã. Được, nàng sẽ giành lại số kim cương đó cho bằng được. Nàng đã trải qua quá nhiều gian nguy và không đời nào chịu để hai kẻ lừa đảo này qua mặt. Miễn rằng phải đến được sân bay kịp thời. Nàng dướn lên nói với người lái xe. “Xin chạy nhanh hơn nữa được không?”.
Họ đang đứng trong hàng người chờ lên máy bay ở cổng đi và thoạt đầu nàng đã không nhận ra họ ngay được. Gã trẻ hơn, kẻ tự xưng là Thomas Bowers đã bỏ kính, bỏ ria mép, và màu mắt đã chuyển từ xanh sang xám. Người kia, Deunis Trevor, giờ đây hói đầu chứ không phải là có mớ tóc dày và đen nữa.
Tuy nhiên, không thể nhầm họ được. Họ đã không đủ thời gian để thay quần áo.
Khi Tracy đến thì hai gã đã gần sát tới cổng vào.
“Các ông quên một thứ”. Tracy nói.
Họ cùng quay lại và giật mình. Gã trẻ hơn cau mặt.
“Cô làm gì ở đây hả? Người ta đã phái một chiếc xe ra đón cô cơ mà”. Giọng nói miền Nam của gã đã biến đâu mất.
“Vậy tại sao ta không cùng quay lại kiếm chiếc xe?”.
Tracy đề nghị.
“Không thể. Chúng tôi đang theo một vụ khác.
Trevor giải thích. “Chúng tôi phải kịp chuyến bay này”.
“Trước hết, hãy trả lại tôi túi kim cương”, Tracy đòi.
“Sợ rằng chúng tôi không thể làm thế được”, Thomas Bower nói. “Đó là tang vật. Chúng tôi sẽ gửi cho cô một giấy biên nhận”.
“Không. Tôi không cần giấy biên nhận. Tôi muốn trả lại túi kim cương kia”.
“Rất tiếc”, Trevor đã giơ giấy lên máy bay cho nhân viên kiểm soát. Tracy nhìn quanh, tuyệt vọng, và thấy một viên cảnh sát sân bay đứng gần đó, nàng kêu lên, “Ống sĩ quan! Ông sĩ quan!”.
Hai gã đàn ông kia nhìn nhau, hất hoảng.
“Cô làm cái quỷ quái gì thế, hả? “ Trevor khẽ rít lên.
“Cô muốn cả bọn đều bị tóm hả?”.
Viên cảnh sát đã đến bên họ. “Gì vậy, cô gái? Có việc rắc rối gì không?”.
“Ôi, không có rắc rối gì đâu”, Tracy vui vẻ nói. “Hai quý ông tuyệt diệu này đã tìm thấy chỗ nữ trang mà tôi đánh mất, và họ mang trả lại cho tôi. Tời đã sợ rằng phải đến FBI vì việc này rồi đó”.
Hai gã kia cuống cuồng nhìn nhau.
“Họ cho rằng có thể ông sẽ vui lòng đưa tôi ra tắc xi”.
“Chắc chắn là thế, rất vui lòng”.
Tracy quay sang hai gã kia. “Bây giờ thì an toàn rồi, các ông trao chỗ kim cương lại cho tôi. Ông sĩ quan đáng mến này sẽ giúp tôi”.
“Không nên như thế”. Tom Bowers phản đối. “Sẽ tốt hơn nhiều nếu chúng tôi ...”.
“Ồ không, tôi muốn vậy”. Tracy giục. “Tôi biết việc đi kịp chuyến bay này là rất quan trọng đối với các ông.
Hai gã nhìn viên cảnh sát, rồi nhìn nhau, bất lực. Họ không còn có thể làm gì được. Rất miễn cưỡng, Tom Bowers móc túi ra lấy ra cái túi da.
“Nó đây rồi!” Tracy kêu lên, đỡ cái túi từ tay gã, mở ra xem, “ơn Chúa, đủ cả”.
Tom Bowers cố vớt vát. “Tại sao không để chúng tôi giữ hộ cho đến lúc cô”.
“Chẳng cần phải thế”. Tracy vui vẻ đáp rồi mở ví cất chỗ kim cương vào và lấy ra hai tờ 5 đô la, đưa cho mỗi gã một tờ. “Đây là một chút tượng trưng cho sự đánh giá cao của tôi đối với việc mà hai ông đã làm”.
Tất cả hành khách đã vào hết. Nhân viên hàng không nói. “Đây là lời nhắc cuối cùng. Tất cả quý khách phải lên máy bay ngay”.
“Cảm ơn các ông một lần nữa”. Tracy mỉm cười bước đi với viên cảnh sát.
“Thời buổi bây giờ thật khó tìm được người lương thiện”.
 
Chương 18


Thomas Bowers - tức Jeff Stevens - ngồi bên cửa sổ nhìn ra ngoài trong lúc chiếc máy bay cất cánh. Anh đưa khăn mùi xoa lên mắt và hai vai rung rung lên xuống.
Dennis Trevor - tức Brandon Higgins - ngồi kế bên, ngạc nhiên. “Này”, ông ta nói. “Chỉ là chuyện tiền bạc, có gì mà phải khóc”.
Jeff Stevens quay sang, nước mắt giàn giụa, và Higgins ngơ ngác nhận ra rằng Jeff đang cười rũ rượi. “Có chuyện quỷ quái gì với cậu thế Higgins hỏi.
“Cũng có gì đáng cười đâu”.
Với Jeff thì lại khác. Cái cách mà Tracy Whitney đã qua mặt họ ở sân bay là một trò bịp tuyệt vời nhất mà anh được chứng kiến. Thật quả là kẻ cắp gặp bà già. Conrad Morgan đã bảo rằng người phụ nữ này chỉ là một kẻ nghiệp dư. Lạy Chúa, Jeff nghĩ, cô ta sẽ đến thế nào nếu là chuyên nghiệp nhỉ? Tracy Whitney chắc chắn là người đàn bà đẹp nhất mà Jeff Stevens từng thấy. Và thông minh nữa. Jeff vốn tự hào là người giỏi nhất trong nghề lừa bịp này, thế mà cô ta đã vượt qua anh. Chú Willie cũng sẽ phải mến cô ta, Jeff nghĩ bụng.
Chú Willie là người dạy dỗ Jeff. Mẹ Jeff, người được thừa kế một tài sản lớn, đã cưới một người đàn ông đầy ảo tưởng với những giấc mộng làm giàu mau chóng, chỉ có điều những giấc mộng đó chẳng bao giờ thành hiện thực cả Cha Jeff là một người đàn ông đầy sức hấp dẫn, cực kỳ đẹp trai và mồm miệng thì không ai sánh kịp. Chỉ năm năm sau ngày cưới, ông đã phá tan cả cái cơ nghiệp được thừa kế của vợ. Những hồi ức sớm nhất của Jeff khi còn rất nhỏ là việc cha mẹ cãi lộn về tiền bạc và những cuộc ngoại tình của cha. Đó là một cuộc hôn nhân khủng khiếp và cậu bé quyết tâm:
Mình sẽ không bao giờ lấy vợ cả:
Không bao giờ.
Người em của cha cậu, chú Willie, làm chủ một gánh tạp kỹ nhỏ lang thang đây đó, và bất kỳ khi nào đi ngang vùng Marion, Ohio, nơi mà gia đình Stevens sống, chú cũng đến thăm. Chú là một người đàn ông vui vẻ nhất mà Jeff từng biết, đầy nhưng lời hứa hẹn về một ngày mai tươi đẹp Chú luôn luôn mang tới những thứ quà hấp dẫn, và dạy Jeff những trò ảo thuật tuyệt diệu. Chú Willie đầu tiên làm nghề ảo thuật trong một gánh xiếc và khi nó sắp tan vỡ thì chú bèn nắm lấy nó.
Khi Jeff mười bốn tuổi, mẹ cậu chết trong một tai nạn xe hơi. Hai tháng sau, cha Jeff cưới một cô hầu bàn mười chín tuổi. “Một người đàn ông sống độc thân là hoàn toàn phi tự nhiên”. Cha giải thích như thế. Song cậu thì hết sức bất bình, cảm thấy sự phản bội ở vẻ vô tình của cha.
Cha Jeff làm nghề giao hàng và phải vắng nhà ba ngày trong tuần. Một đêm, khi Jeff ở nhà một mình với người mẹ kế, cánh cửa buồng ngủ của cậu bị mở ra đã làm cậu thức giấc. Tí tẹo sau cậu cảm thấy một tấm thân trần truồng, mềm mại áp sát vào mình. Jeff hoảng hất nhổm dậy.
“Ôm chị đi, Jeff bé bỏng”, người mẹ kế trẻ tuổi thầm thì. “Chị sợ sấm lắm”.
“Làm ... làm gì có sấm”. Jeff lắp bắp.
“Nhưng mà có thể có. Báo nói là trời mưa mà”. Cô ta áp chặt tấm thân trần truồng lên người cậu bé. “Làm tình với chị đi”.
Jeff hoảng sợ. “Được. Ta chơi trong gi.ường của bố nhé”.
“Được chứ?” Cô ta cười khoái chí. “Cho thêm lạ, phải không?”.
“Tôi sẽ sang đó ngay”. Jeff hứa.
Cô ta trườn ra khỏi gi.ường đi sang phòng ngủ kia. Jeff chưa bao giờ mặc quần áo nhanh đến thế. Cậu nhảy qua cửa sổ đi về phía Cimarron, bang Kansas, nơi gánh tạp kỹ của chú Willie đang biểu diễn, không hề ngoái cổ lại.
Khi chú Willie hỏi vì sao bỏ nhà ra đi, cậu chỉ nói:
“Cháu không hợp với mẹ kế”.
Chú Willie gọi điện cho cha Jeff, và sau một hồi nói chuyện dài đã đi đến quyết định là cậu bé sẽ ở lại gánh tạp kỹ. “Nó sẽ học ở đây được nhiều hơn ở bất cứ một trường học nào”, chú Willie hứa hẹn.
Bản thân gánh tạp kỹ là cả một thế giới. “Không phải chúng ta diễn một thứ trò vặt ngày chủ nhật ở trường học”, chú Willie giải thích cho Jeff. “Chúng ta là những nghệ sĩ lừa gạt. Thế nhưng, con ạ, phải nhớ rằng, không thể bịp người ta trừ phi họ bắt đầu nổi lòng tham”.
Những thành viên trong gánh đều trở thành bạn của Jeff. Gánh cũng có một nhóm các cô gái trẻ, và họ bị cậu bé trẻ trung hấp dẫn. Jeff thừa hưởng tính nhạy cảm của mẹ và vẻ đẹp của người cha, và các cô gái đã tranh giành nhau xem ai là người “được” làm mất đi sự trinh tiết của Jeff.
Bài học vỡ lòng về t.ình d.ục của Jeff diễn ra với một cô gái xinh đẹp phụ trách tiết mục uốn dẻo và trong vài năm liền cô ta đã là cái mẫu để những người đàn bà khác noi theo.
Chú Willie đã thu xếp để Jeff có cơ hội được làm tất cả các ngón nghề khác nhau của gánh tạp kỹ.
“Một ngày nào đó, tất cả những thứ này sẽ là của cháu”, chú Willie bảo, “và cách duy nhất để có thể nắm giữ nó là phải rành về nó hơn bất kỳ kẻ nào khác”.
Jeff bắt đầu với trò “ném mèo”, một trò mà người chơi phải trả tiền để có bóng ném vào sáu con mèo làm bằng giấy bồi với đế gỗ sao cho chúng rơi vào một cái lưới.
Người diễn trò sẽ chứng minh rằng ném ngã chúng thật là dễ dàng, nhưng khi người chơi bắt đầu ném, một “xạ thủ nấp sau tấm vải phông sẽ nâng một cái cần để giữ vững đế gỗ của các con mèo giấy. Có trời mà đánh ngã được chúng.
“Trời, ném hơi quá thấp đấy”, người diễn trò sẽ la lên.
“Chỉ có một việc là ném cho thật ngon lành”.
Từ “ngon lành” là một ám hiệu, ngay khi người diễn trò nói vậy, kẻ giấu mặt kia sẽ hạ cái cần xuống và người diễn trò sẽ ném ngã con mèo. Khi đó anh ta sẽ nói. “Thấy chưa?” và đó là ám hiệu để kẻ giấu mặt lại nhấc cái cần giữ lên. Và dĩ nhiên, luôn luôn có một anh chàng công tử nào đó muốn khoe với cô bạn gái đang khúc khích cười cánh tay tuyệt vời của mình.
Jeff cũng diễn trò số đếm. Một trò mà khách bỏ tiền để được ném vòng cao su lên những cái ghim cài vải có đánh số. Họ được hứa rằng nếu tổng các con số ném được bằng đúng 20 thì sẽ được thưởng một thứ đồ chơi đắt tiền.
Nhưng điều mà khách chơi không biết là người diễn trò có thể đánh tráo các con số để bảo đảm con số 20 không bao giờ đạt được.
Một hôm, chú Willie nói với Jeff. “Làm tất đấy, bé con, chú tự hào về cháu, cháu sẽ được chuyển sang diễn trò Skilô”.
Đám người diễn trò Skilô này là những thành phần tinh túy nhất, và các thành viên khác đều nhìn họ ghen ty. Họ kiếm được nhiều tiền hơn người khác, ngủ khách sạn hạng nhất và lái những chiếc xe bóng lộn. Trò này ồm một hình tròn phẳng được chía các ô có gài một con số đánh dấu với một mũi tên thăng bằng ở giữa. Người chơi sẽ quay một cái vòng và khi nó dừng, mũi tên chỉ con số nào thì con số đó được nhấc ra. Người diễn trò giải thích rằng khi nào tất cả các con số đều bị nhấc ra hết thì người chơi sẽ được thưởng một khoản tiền lớn.
Khi người chơi đã gần tới đích, người diễn trò bèn khuyến khích đặt thêm tiền cược. Anh ta sẽ nhìn quanh với vẻ hồi hộp và thì thào. “Tôi muốn anh thắng, bởi có thể anh sẽ thưởng cho tôi một ít mà”.
Người diễn trò còn có thể dúi cho người chơi 5 hoặc 10 đô la và nói. “Đặt thêm cho tôi được không? Anh không thể thua được”. Và kẻ máu mê kia bỗng cảm thấy mình có một đồng minh, hắn sẽ dốc túi ra. Jeff trở thành sành nghề trong việc moi túi người chơi. Khi khả năng tới đích đã rất lớn, sự kích động cũng tăng lên.
Jeff sẽ kêu lên. “Giờ thì anh không thể trượt nữa rồi”, Kẻ kia sẽ đặt thêm tiền và có khi còn chạy về nhà lấy nữa, dĩ nhiên là hắn ta chẳng bao giờ được cả.
Keren, một vũ nữ xinh đẹp còn rủ rê Jeff chơi trò “Chìa khóa”.
“Sau khi đã xong việc mồm mép cám dỗ mọi người”, vào tối thứ bảy, Karen nói với Jeff. “Gọi vài ông khách ra, từng người một, và bán cho họ một chiếc chìa khóa của cái buồng ngủ lưu động của tôi nhé”.
Mỗi chiếc chìa này giá 5 đô la. Tới nửa đêm, cả tá đàn ông, có khi nhiều hơn nữa, đợi chờ tới nhoài người ra quanh chỗ xe ngủ của Keren. Trong khi đó, ở một khách sạn trong thành phố, Karen đang trần truồng ôm Jeff. Hôm sau, khi đám đàn ông này kéo tới để trả thù thì gánh tạp kỹ đã lên đường lâu rồi.
Trong bốn năm từ khi bỏ nhà ra đi, Jeff đã hiểu được nhiều về bản chất con người. Cậu phát hiện ra rằng để gợi lên lòng tham của ai đó thật là dễ dàng. Họ tin vào những điều không thể tin được chỉ vì lòng tham đã buộc họ phải tin vào đó. Vào tuổi 18, Jeff đẹp trai đến mức làm các cơ gái phải choáng váng. Ngay một phụ nữ hờ hững nhất cũng lập tức để ý và mến mộ cặp mắt tơ màu xám, dáng người cao và mớ tóe đen quăn của cậu. Những người đàn ông thì khoái vẻ hài hước, thoải mái, thông minh mà Jeff có. Thậm chí đám trẻ con, dường như thấy mình cũng đang nới chuyện với một đứa trẻ trong con người Jeff và bao giờ cũng đặt ngay lòng tin vào cậu. Đám khách nữ luôn phỉnh phờ tán tỉnh Jeff nhưng chú Willie cảnh cáo cậu.
“Tránh xa bộn con gái thành phố ra, cậu bé của ta. Cha chúng nó thường là cảnh sát trưởng cả đấy?”.
Việc Jeff phải từ giã gánh tạp kỹ ra đi là do vợ của người ném dao. Đoàn tới biểu diễn ở Milledgeville, bang Goergia, và những ngôi lều được dựng lên. Một tiết mục mới đã được ký hợp đồng với nghệ sĩ ném dao người Sicin được mệnh danh là Zobini vĩ đại và cô vợ tóc vàng hấp dẫn của ông ta.
Trong khi Zorbini vĩ đại đang cùng đoàn dàn dựng các đồ nghề thì vợ ông ta mời Jeff tới phòng riêng của vợ chồng họ trong khách sạn ở thành phố.
“Zorbini sẽ bận bịu suốt ngày”. Chị ta nói với Jeff.
“Chúng ta hãy vui với nhau một chút nhé”.
Nghe được quá.
“Hãy đi đâu một giờ rồi trở lại đây “. Chị ta nói.
“Sao lại phải đi đâu một giờ vậy?” Jeff hỏi.
Chị ta nhoẻn cười. “Phải chừng ấy thì tôi mới chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng được”.
Sự tò mò của Jeff tăng lên, và sau cùng, khi quay lại, chị ta đón cậu ở cửa vào, trần truồng. Jeff choàng tay ôm, nhưng chị ta ngăn lại và nói. “Vào đây đã”.
Cậu ta theo vào phòng tắm và trố mắt ngạc nhiên. Chị ta đã bơm đầy nước ấm vào bồn và hòa vào đó sáu thứ nước trái cây có ga.
“Cái gì thế này?” Jeff hỏi.
“Món khai vị đó. Cởi quần áo ra, chàng trai”.
Jeff làm theo.
“Nào, vào đây”.
Jeff bước vào bồn tắm và ngồi xuống, cảm giác thật là đặc biệt. Thứ nước thơm tho, trơn trơn này như thấm vào từng thớ thịt, xoa bóp khắp cơ thể. Người phụ nữ tóc vàng cũng ngồi vào theo.
Giữa lúc đó, cửa phòng tắm bật mở và Zorbini vĩ đại xông vào. Người đàn ông Sicin thoáng nhìn cảnh tượng ấy và gầm lên.
Jeff không kịp nghe ông ta quát gì nữa, nhưng cái cơn giận đó thì cậu biết, và khi Zorbini vĩ đại lao ra ngoài để lấy dao thì Jeff vụt nhảy ra khỏi bồn tắm, người bóng nhầy lớp nước quả và vớ vội quần áo, nhẩy qua cửa sổ, vẫn trần truồng, lao người chạy dọc xuống sườn đồi. Cậu nghe thấy một tiếng thét phía sau và cảm thấy tiếng rít của lưỡi dao vụt qua đầu cậu. Vèo, một lưỡi dao nữa, và lúc này cậu đã ở ngoài tầm ném. Cậu vội vã mặc quần áo và đi ra bến xe, nhảy lên một chiếc xe buýt và rời khỏi thành phố.
Sáu tháng sau, Jeff đã ở Việt Nam.
Mỗi người lính nghĩ về cuộc chiến tranh mỗi khác và Jeff rời Việt Nam với sự bất mãn nặng nề đối với giới cầm quyền và sự khinh ghét bộ máy quan liêu. Anh đã tham gia hai năm vào một cuộc chiến tranh không thể chiến thắng và sững sờ bởi sự phung phí tiền của và sinh mạng con người, ghê tởm với sự phản bội và lừa gạt của các tướng lĩnh và các chính sách - những kẻ miệng lưỡi dối trá. Ta đã bị lôi kéo vào một cuộc chiến tranh không ai mong muốn, Jeff nghĩ.vậy. Một trò bịp. Trò bịp lớn nhất thế giới này.
Một tuần sau khi giải ngũ, Jeff nhận được tin về cái chết của chú Willie.
Gánh tạp kỹ đóng cửa. Quá khứ đã kết thúc. Bây giờ đã đến lúc Jeff phải sống với tương lai.
Tiếp theo là một loạt những cuộc phiêu lưu. Đối với Jeff, cả thế giới này lả một màn tạp kỹ và mọi người đều là đối tượng để anh lừa gạt. Jeff đã đăng quảng cáo trên báo bán mỗi tấm hình màu của tổng thống với giá một đô la đặt mua rồi gửi cho nạn nhân một con tem bưu điện có hình tổng thống trên đó.
Jeff cho loan báo trên các tạp chí nhắc nhở công chúng chỉ còn sáu mươi ngày để gửi vào 5 đô la, rằng sau hạn đó là thôi không nhận nữa. Lời quảng cáo không nói cụ thể 5 đô la sẽ mua được cái gì, thế mà tiền vẫn cứ đổ vào.
Jeff yêu thích các loại tàu thuyền và có hôm, một người bạn mách rằng có chỗ làm việc trên một chiếc tàu đi Tahiti, Jeff đã ký hợp đồng làm thủy thủ trên tàu đó.
Con tàu thật là đẹp, dài khoảng sáu mươi mét, nổi bật lên dưới ánh nắng.
Tất cả các cánh buồm đều rộng mở. Mặt boong đóng bằng gỗ tếch, thân tàu đóng bằng gỗ lim sam Ogeron.
Trên tàu có một phòng ăn lớn cho mười hai người, một phòng bếp ở phía mũi trước. Ngoài thuyền trưởng, một người phục vụ và một đầu bếp, nhóm thủy thủ gồm có năm người. Công việc của Jeff là rút kéo buồm lên, lau bóng những khu cửa sổ bằng đồng, và leo trèo trên các xà ngang để rút gấp buồm lại.
Chuyến đi này con tàu chở một nhóm hành khách gồm tám người.
“Chủ của nó là Hollander”. Người bạn của Jeff nói vậy.
Trên thực tế, chủ con tàu là cô Louise Hollander xinh đẹp, tuổi hai mươi lăm, có mái tóc vàng óng ả. Cha cô là chủ của cả nửa vùng Trung Mỹ. Các hành khách khác đều là bạn bè cô chủ mà đám đồng nghiệp của Jeff giờ là những kẻ trên tiền.
Ngày đầu tiên ra khơi, trong lúc Jeff đang làm việc dưới ánh nắng gay gắt, đánh bóng những tay vịn bọc đồng trên boong thì Louise Hollanđer dừng lại bên.
“Cậu mới lên tàu này?”.
“Jeff nhìn lên. “Vâng”.
“Cậu có một cái tên chứ?”.
“Jeff Stevens”.
“Đó là một cái tên đẹp”. Jeff im lặng. “Cậu biết tôi là ai không?”.
“Không”.
“Tôi là Louis Hollander, chủ con tàu này”.
“Tôi hiểu. Vậy là tôi làm việc cho cô”.
Cô ta nở một nụ cười hờ hững. “Đúng vậy”.
“Vậy thì nếu muốn đồng tiền của cô là có ích, hãy nên để tôi tiếp tục công việc của mình”. Jeff bước tới cái trụ tiếp theo.
Ở các phòng nghỉ của họ, vào ban đêm, đám thủy thủ thường kể những câu chuyện giễu cợt về đám hành khách. Thế nhưng Jeff phải tự thú nhận với mình rằng cậu rất ghen tỵ với họ - về tiểu sử, học vấn, và phong cách thoải mái vân vân ... Họ xuất thân từ các gia đình giàu có và được học hành ở các trường hạng nhất. Còn trường học của cậu chỉ là chú Willie và gánh tạp kỹ khốn khổ kia.
Một trong những thành viên của gánh đã từng là giáo sư khảo cổ học trước khi bị ném ra khỏi trường vì tội đánh cắp và bán các di vật quý báu. Ông ta và Jeff thường có những cuộc trò chuyện dài và vị giáo sư đã khơi dậy ở Jeff long nhiệt tình với khảo cổ học. “Con có thể nhìn vào quá khứ để thấy cả tương lai nhân loại”. Vị giáo sư nói. “Nghĩ về nó một chút, con trai ạ. Hàng nghìn năm trước đây đã có những người như ta và con, mơ ước những giấc mơ, sáng tác những câu chuyện dân gian ... sống hết đời họ, và sinh ra các tổ tiên của chúng ta”. Cặp mắt ông nhìn về xa xăm. “Carthage - đó là nơi ta muốn tiến hành một cuộc khai quật. Ngay từ rất lâu trước khi Jesus ra đời, nó đã là một thành phố lớn, một Paris của châu Phí cổ đại. Dân chúng đã có những môn thể thao, các cuộc đua xe và có nhà tắm công cộng lớn. Sân vận động Maximuc ở đó lớn bằng năm cái sân bóng đá bây giờ vậy” Ông ta nhìn thấy vẻ thích thú trong cặp mắt của cậu bé. “Con có biết Cato lớn đã thường kết thúc các bài nói của ông ấy trước thượng viện La Mã thế nào không? Ồng ấy bảo, Catharge phải bị phá hủy.
Mong mỏi của ông ấy sau cùng đã trở thành hiện thực. Người La Mã đã biến nơi đó thành một đống gạch vụn và hai mươi lăm năm sau đã quay lại xây dựng trên đống tro tàn này một thành phố lớn. Ta mong rằng một ngày nào đó có thể đưa con tới nơi ấy làm một cuộc khai quật, cậu bé của ta ạ”.
Một năm sau, vị giáo sư đã chết vì say rượu, còn Jeff thì tự hứa với mình rằng sẽ có ngày tiến hành một cuộc khai quật ở Carthege để tưởng nhớ vị giáo sư.
Đêm cuối cùng trước khi con tàu cặp bến Tahiti, Jeff được gọi đến phòng riêng của Louise Hollander. Cô ta khoác trên người cái áo choàng bằng lụa mỏng.
“Cô muốn gặp tôi ư, cô chủ?”.
“Anh có phải là kẻ đồng tính luyến ái không, Jeff?”.
“Tôi không tin rằng đó là việc liên quan tới cô, thưa cô Hollander, thế nhưng câu trả lời của tôi là không. Tôi là một kẻ khó chiều”.
Louise Hollander mỉm môi lại. “Anh thích loại đàn bà nào? Gái làm tiền chăng?”.
“Thỉnh thoảng. Còn gì không, cô chủ?”.
“Có Tôi sẽ mở một bữa tiệc vào tối mai. Anh có muốn dự không?”.
Jeff nhìn người phụ nữ hồi lâu trước khi trả lời. “Sao lại không”.
Chuyện bắt đầu theo cách đó.
Louise Hollander đã có hai đời chồng trước khi đến tuổi hai mươi mốt, khi gặp Jeff thì luật sư của cô ta cũng chỉ mới vừa hoàn thành một giải pháp đối với ông chồng thứ ba. Đêm thứ hai kể từ khi họ buông neo trong cảng Papecte, và vào lúc khách khứa cùng đám thủy thủ đã lên bờ cả, Jeff nhận được lệnh đến khu ca bin của Louise Hollander. Khi Jeff tới nơi, cô ta xuất hiện trong tấm váy áo bằng lụa sặc sỡ, xẻ hai bên tới tận đùi.
“Tôi đang cố cởi cái thứ này ra”, cô ta nói. “Vậy mà cái khóa kéo bị hỏng”.
Jeff bước lại xem xét. “Nó làm gì có khóa kéo”.
Cô ta nhìn vào mắt Jeff và mỉm cười. “Tôi biết chứ.
Cái đó chính là chỗ rắc rối đấy”.
Họ làm tình với nhau ngay trên mặt boong, nơi những làn gió nhiệt đới nhẹ nhàng vuốt ve th.ân thể họ như một sự âu yếm. Sau đó, họ nằm nghiêng người, quay mặt vào nhau. Jeff chống khuỷu tay lên và nhìn xuống Louise. “Cha cô không phải là cảnh sát trưởng chứ?” Jeff hỏi.
Cô ngồi dậy, ngạc nhiên. “Cái gì?”.
“Cô là người thành phố đầu tiên mà tôi đã ăn nằm cùng. Chú Willie đã cảnh cáo tôi rằng cha của các cô gái thành phố thường là cảnh sát trưởng cả”.
Từ đó, đêm nào họ cũng làm tình. Lúc đầu bạn bè của Louise thấy buồn cười. Họ đã nghĩ Jeff lại là thứ đồ chơi mới của Louise. Thế nhưng khi cô ta thông báo ý định sẽ cưới Jeff thì họ sững người vì ngạc nhiên.
“Hãy vì Chúa, Louise, cậu ta chả là cái gì cả. Cậu ta xuất thân từ một gánh tạp kỹ thôi mà. Lạy Chúa, có thể là cậu đang định cưới một gã lực điền. Cậu ta đẹp trai ... đành rằng thế. Và cậu ta có thể làm tình tuyệt vời. Nhưng ngoài chuyện t.ình d.ục, hai người dứt khoát là không có gì chung cả, bạn thân mến”.
“Louise, Jeff chỉ là thứ lót dạ chứ đâu phải bữa tiệc chiều”.
“Cô còn phải tính đến địa vị xã hội nữa chứ”.
“Nói thẳng ra thì cậu ta sẽ không thể nào phù hợp được, phải vậy không, thiên thần của tôi?”.
Nhưng không gì có thể lay chuyển Louise. Jeff là người đàn ông tuyệt diệu nhất mà cô ta từng biết. Cô đã phát hiện ra rằng những người đàn ông quá đẹp trai đều hoặc là ngu xuẩn hoặc là chậm chạp tới mức không chịu được còn Jeff thì vừa thông minh, vừa hóm hỉnh, và sự kết hợp của hai thứ đó là một sự quyến rũ khó mà cưỡng lại.
Khi Louise đề cập tới chuyện cưới xin, Jeff cũng kinh ngạc y hệt như bạn bè của cô ta.
“Tại sao lại thế. Cô đã có thể xác tôi rồi còn gì. Tôi không thể hiến cho cô cái mà tôi không có”.
“Thật đơn giản thôi, Jeff. Em yêu anh. Em muốn chia sẻ cuộc sống của em với anh cho tới cuối đời”.
Chuyện cưới xin vốn là một ý nghĩ xa lạ, và đột nhiên vấn đề trở thành ngược lại. Dưới vẻ bề ngoài tinh tế và quảng giao của Louise Hollander, thực ra là một cô gái yếu đuối, đáng thương. Cô ấy cần có mình, Jeff nghĩ. Ý nghĩ về một cuộc sống gia đình ổn định, và con cái, bỗng trở nên hấp dẫn mạnh mẽ. Đối với Jeff thì có vẻ như là anh đã liên tục chạy một quãng đường quá dài ... dài đến không còn tới được nữa. Đã đến lúc phải dừng lại.
Ba ngày sau, họ kết hơn tại tòa thị chính Tahiti.
Khi họ quay trở về New York, Jeff được triệu đến văn phòng của Forgarty, luật sư riêng của Louise, một người đàn ông bé nhỏ, lạnh lùng, miệng luôn mím chặt.
“Tôi có một văn bản để anh ký đây”, viên luật sư tuyên bố.
“Loại văn bản gì vậy?”.
“Một cam kết. Nó chỉ xác nhận rằng trong trường hợp cuộc hôn nhân của anh với Louise Hollander ...”.
“Louise Stenvens chứ?”.
“Với Louise Stenvens tan vỡ, anh sẽ không đòi chia sẻ về tài chính đối với ...”.
Jeff nghiến răng. “Ký vào đâu?”.
“Anh không muốn ngồi đọc xong à?”.
“Không. Tôi không cho rằng ông hiểu vấn đề. Tôi không cưới cô ta vì cái chuyện tiền bạc chết tiệt ấy”.
“Đúng vậy, ông Stenvens? Tôi chỉ ...”.
“Ông muốn tôi ký vào đó hay không?”.
Viên luật sư đặt tờ giấy ra trước Jeff. Anh nghuệch ngoạc ký vào rồi hầm hầm bỏ ra ngoài. Chiếc xe hơi sang trọng của Louise và người tài xế đã đợi sẵn.
Khi chui vào xe, Jeff bật cười. Có trời mà biết tại sao mình lại nổi đóa lên như thế” Cuộc đời mình là cuộc đời của một kẻ lường gạt, và lần đầu tiên khi mình định ngay thẳng thì người ta lại sợ bị lừa - Jeff thấy mình xử sự thật kỳ cục.
Louise đưa Jeff tới một hiệu may hạng nhất ở Manhattan “Trông anh sẽ thật tuyệt vời trong bộ đồ buổi tối đấy” cô ta dỗ dành. Và quả là thế thật. Chị chưa đầy hai tháng sau ngày cưới, cô bạn thân nhất của Louise đã cố quyến rũ chàng thanh niên tuấn tú mới xuất hiện này, thế nhưng Jeff lờ hết. Anh quyết tâm làm cho cuộc hôn nhân trở thành tốt đẹp.
Budge Hollander, anh trai của Louise, tiến cử Jeff làm một chân hội viên trong câu lạc bộ dành riêng Pilgrim New York, và được chấp thuận. Budge 1à một người đàn ông to béo, tuổi trung niên, chủ một công ty tàu biển, một đồn điền trồng chuối, nhiều đồng cỏ chăn nuôi, một công ty đóng thịt hộp, và nhiều thứ khác nữa mà Jeff không đếm xuể. Budge Hollander đã chẳng cần giấu giếm sự khinh thị của ông ta với Jeff.
“Thật ra thì cậu không thuộc tầng lớp chúng tôi, phải vậy không? Nhưng chừng nào cậu làm hài lòng Louise trên gi.ường, thì chừng đó mọi chuyện sẽ tết cả. Tôi rất yêu quý em gái tôi”.
Jeff đã phải dùng hết sức mạnh ý chí để tự kiềm chế. Mình không cưới cái lão khốn kiếp này. Mình cưới Louise - anh tự nhủ.
Những hội viên khác của câu lạc bộ Pilgrin thì cũng tệ hại như vậy. Họ thấy Jeff thật đáng tức cười, các buổi trưa bọn họ đều ăn tại câu lạc bộ, và đề nghị Jeff kể cho nghe chuyện về quá khứ của mình. Và Jeff đã cố tình làm cho những câu chuyện càng thêm vẻ tàn nhẫn.
Jeff và Louise sống trong một biệt thự 25 phòng, với đầy kẻ hầu người hạ, ở khu Đông Manhattan. Louise có các dinh cơ ở Long Island và Bahamans, có biệt thự ở Sardinia, và căn hộ lớn trên đại lộ Foch ở Paris. Ngoài chiếc du thuyền, Louise còn có một.chiếc Maserati, một chiếc Rolls Corniche, một chiếc Lamborghini và chiếc Damler - những chiếc xe hơi hảo hạng.
Một buổi sáng Jeff tỉnh dậy trên chiếc gi.ường kiểu thế kỷ Mười tám, mặc lên người áo ngủ Sulka, và đi tìm Louise. Anh thấy vợ trong phòng ăn sáng.
Anh phải kiếm một việc làm, Jeff nói với vợ.
“Để làm gì chứ, anh yêu? Chúng ta không cần tiền mà”.
“Không phải là chuyện tiền nong. Em đừng nghĩ rằng tôi có thể hài lòng ngồi không và được bưng đồ ăn tới tận miệng. Anh phải làm việc “.
Louise nghĩ ngợi một lát. “Cũng được, thiên thần của em. Em sẽ nói với Budge. Anh ấy có một hãng cổ phiếu. Anh có muốn trở thành một người mua bán cổ phiếu không, anh yêu?”.
“Gì cũng được, miễn là có việc làm”. Jeff càu nhàu.
Thế Jeff đi làm công cho Budge. Trước đây, anh chưa bao giờ có việc làm mà giờ giấc ổn định cả. Mình sẽ yêu thích công việc, Jeff hy vọng.
“Khi nào thì em và anh sẽ có một đứa con? “Jeff hỏi Louise, sau bữa ăn sáng hôm chủ nhật.
“Ngay thôi mà, anh yêu. Em đang cố đấy”.
“Lên gi.ường nào. Chúng ta lại thử một lần nữa xem sao”.
Jeff được xếp ngồi cùng bàn ăn dành riêng cho ông anh vợ và dăm ông chủ khác trong câu lạc bộ Pilgrin.
Budge loan báo. “Các bạn thân mến, chúng tôi mới công bố báo cáo hàng năm của công ty thịt hộp. Lợi nhuận lên tới 40 phần trăm”.
“Thì làm sao không lời thế được chứ?” Một người trong bọn cười lớn. “Anh đã hối lộ cái bọn thanh tra chết tiệt ấy” Ông ta quay sang nói với mấy người kia.
“Ông bạn Budge khôn ngoan của chúng ta đây mua thịt phế phẩm, cho đóng mác thượng hạng vào rồi bán mà”.
Jeff giật mình. “Mọi người ăn thứ thịt đó, lạy Chúa. Họ cho cả trẻ con ăn nữa. Ông ta đùa vậy thôi, phải không anh Budge?”.
Budge cười phá lên. “Trông anh chàng đạo đức kìa!”.
Trong ba tháng tiếp theo đó Jeff đã biết rõ về những người ngồi ăn cùng bàn với mình. Edxeller đã bỏ ra cả triệu bạc hối lộ để có thể xây dựng một nhà máy ở Libi. Mike Quincef, đứng đầu một tổ hợp công nghiệp, là một tên kẻ cướp chuyên mua lại các công ty chứng khoán và mách nước bất hợp pháp cho đồng bòn khi nào nên bán hoặc nên mua các cổ phiếu. Alan Thompson, người giàu nhất a bàn ăn này đã khoe khoang chính sách của công ty hắn, “Trước khi người ta thay đổi các điều luật đó, chúng tôi thường sa thải những người già một năm trước khi họ đến tuổi về hưu. Tiết kiệm được cả một gia tài đấy”.
Tất cả bọn họ đều trốn thuế, gian dối trong lĩnh vực bảo hiểm, đưa ra những báo cáo chi phí láo toét, và đưa tình nhân của mình vào danh sách trả lương dưới danh nghĩa thư ký hoặc trợ lý gì đó.
Lạy Chúa, Jeff nghĩ. Bọn họ cũng chỉ là những kẻ lường gạt ăn mặc sang trọng mà thôi.
Những bà vợ thì cũng chẳng khá hơn. Họ vơ vét tất cả những gì mà bàn tay tham lam của họ có thể với tới và lừa dối những ông chồng của mình. Bọn họ đều chơi trò “Chìa khóa”, Jeff nghĩ mà thấy kinh tởm.
Khi Jeff cố gắng kể lại cảm nghĩ của mình với Louise, cô ta cười phá lên.
“Đừng có ngây thơ, Jeff. Anh đang sung sướng với cuộc sống này, phải không nào?”.
Sự thật thì không phải là anh sung sướng gì. Jeff cưới Louise bởi vì tin rằng cô ta cần đến mình, và cho rằng con cái sẽ biến chuyển mọi thứ.
“Chúng ta hãy có một đứa con đi. Đến lúc rồi. Chúng ta đã cưới nhau đã một năm còn gì”.
“Thiên thần của em, hãy kiên nhẫn. Em đã tới bác sĩ, và ông ta bảo em không có vấn đề gì. Có thể là anh nên đi kiểm tra xem có bình thường không”.
Jeff “không có trục trặc gì trong việc sản sinh ra những đứa con khỏe mạnh”, ông bác sĩ bảo đảm như vậy.
Vậy mà vẫn không có gì xảy ra.
Vào cái ngày thứ hai đen tối đó, thế giới của Jeff tan vở. Nó bắt đầu vào buổi sáng khi anh vào tủ thuốc của Louise để kiếm một viên Apspirin, và thấy cả một giá đầy những thuốc tránh thai. Trong số đó có một hộp đã được dùng gần hết.
Nằm ngay bên cạnh nó là một cái lọ đựng thứ bột trắng tinh và cái muỗng nhỏ mạ vàng. Và tất cả chỉ mới chỉ là bắt đầu của ngày hôm đó. Buổi trưa, trong lúc Jeff đang ngồi trong một chiếc ghế bành lớn, sâu lút ở câu lạc bộ Pilgrin để chờ Budge thì nghe tiếng hai người đàn ông nói chuyện phía sau.
“Cô ả thề sống thề chết rằng cái thằng cha ca sĩ người Ý đó làm tình khỏe lắm”.
“Ồ, ả Louise thì luôn thích cái của đó”.
Họ đang nói về một Louise nào khác, Jeff tự nhủ.
“Có thể đó là lý do mà ả cưới vội cái thằng tạp kỹ kia. Thế mà ả đã tự kể những mẩu chuyện khôi hài về thằng nhóc đó. Anh sẽ không thể tin nổi những điều hắn đã từng làm hồi trước ...”.
Jeff đứng phắt dậy và loạng choạng bỏ ra khỏi câu lạc bộ, giận dữ khủng khiếp, một cảm giác chưa bao giờ có. Jeff muốn giết chóc, muốn giết cái anh chàng người Ý nào đó, muốn giết Louise. Trong một năm qua, không biết cô ta đã ăn nằm với bao nhiêu người đàn ông khác nữa? Bọn họ đã cười vào mũi anh trong suốt thời gian vừa rồi. Budge, Ed Zeller, Mike, Quincy, Alan Thompson và mấy mụ vợ đã và đang giễu cợt, nhạo báng anh. Và cả Louise nữa, cái người phụ nữ mà Jeff muốn che chở. Phản ứng đầu tiên của Jeff là muốn thu xếp hành trang và xéo đi ngay. Nhưng thế thì không hay ho gì, bọn khốn nạn kia sẽ là người có tiếng cười sau cùng.
Chiều hôm đó, khi Jeff về nhà anh thì Louise vẫn chưa về. “Bà đi từ sáng”, Pickens, người quản gia nói. “Tôi nghĩ là bà mắc hẹn gì đó”.
Thì chắc vậy, Jeff nghĩ, với thằng cha ca sĩ người Ý đó chứ còn gì nữa. Lạy Chúa.
Cho tới lúc Lomse trở về thì Jeff đã hoàn toàn bình tĩnh.
“Một ngày tốt lành cả chứ, em?” Jeff hỏi.
“Ôi, vẫn những chuyện tẻ nhạt hàng ngày ấy mà, anh yêu đi sửa sang đầu tóc, mặt mũi một chút này, đi mua sắm này ... Còn anh thế nào, thiên thần của em?”.
“Rất thú vị”, Jeff nói đúng sự thực. “Anh đã hiểu biết thêm nhiều điều”.
“Anh Budge nói với em là anh làm việc rất tốt”.
“Đúng vậy”. Và anh sẽ làm tốt hơn nữa”.
Louise vuốt ve tay Jeff. “Đức ông chồng tuyệt vời của em. Lên gi.ường với em sớm đi nào”.
“Tối nay thì không”, Jeff. “Anh nhức đầu lắm”.
Suốt cả tuần tiếp theo, Jeff tính toán các kế hoạch của mình.
Một bữa trưa tại câu lạc bộ, anh bắt đầu. “Có ai trong số các ông biết tí gì về những vụ lừa gạt bằng máy tính điện tử không?”.
“Sao vậy?” Ed Zeller muốn biết. “Cậu định làm một vụ à?”.
Tất cả cười ồ lên.
“Không, tôi nói chuyện nghiêm túc đấy”, Jeff nói chắc nịch. “Đó là một vấn đề lớn. Người ta đang lợi dụng các máy tính điện tử để cướp đoạt các nhà băng, công ty bảo hiểm và các ngành khác nữa hàng tỷ đô la. Và tình hình ngày càng tệ hại thêm”.
“Có vẻ đúng lĩnh vực của cậu.đấy”. Budge làu bàu.
“Tôi đã gặp một người có cái máy tính mà ông ta cam đoan rằng không thể nào lợi dụng nó được”.
“Và cậu muốn quật ngã hắn à?” Mike Quincy đùa.
“Trên thực tế, tôi quan tâm tới việc hùn tiền để tài trợ cho ông ta. Tôi chỉ băn khoăn không biết có ai trong các ông biết đôi chút về máy tính không”.
“Không”. Budge cười lớn. “Nhưng bọn ta biết mọi thứ về việc tài trợ cho một nhà sáng chế, có phải thế không, anh bạn?”.
Cả bọn lại cười phá lên.
Hai ngày sau, Jeff bỏ qua cái bàn thường lệ vẫn ngồi và giải thích với Budge.
“Tôi xin lỗi, tôi không ngồi cùng các ông hôm nay được. Tôi có mời một người khách ăn trưa ở đây”.
Khi Jeff đã bỏ sang bàn khác, Alan Thompson cười cợt.
“Có lẽ là chú nhóc sẽ ăn trưa với cô ả có râu ở rạp xiếc đấy”.
Một người đàn ông tóc bạc dáng gù gù bước vào phòng ăn và được đưa tới bàn Jeff.
“Lạy Chúa!” Mike Quincy kêu lên. “Đó có phải là giáo sư Ackerman không?”.
“Giáo sư Arkerman là ai vậy?”.
“Anh không bao giờ đọc gì khác ngoài các báo cáo tài chính ư, Budge?
Vernon Ackerman được in hình trên trang bìa của tờ Time hồi tháng trước đấy.
Ông ta là Chủ tịch Ủy ban khoa học quốc gia của Tổng thống. Hiện đang là nhà khoa học danh tiếng nhất đất nước”.
“Ông ta có chuyện quỷ quái gì với cậu em rể yêu quý của tôi thế nhỉ?”.
Jeff và vị giáo sư mải mê trao đổi một câu chuyện gì đó suốt cả bữa trưa, còn Budge và bạn hữu của ông ta thì càng trở nên tò mò hơn. Khi vị giáo sư về, Budge vẫy Jeff lại bàn mình.
“Này, Jeff. Ai đó?”.
Vẻ mặt Jeff đầy ngượng nghịu “ờ ... ý anh muốn hỏi Vernon ấy à?”.
“Phải. Hai người nói chuyện về vấn đề gì vậy?”.
“Chúng tôi ... Ờ ...” Những người kia nhìn vẻ mặt cũng thừa biết Jeff muốn lẩn tránh câu hỏi này. “Tôi ... ờ ... Định viết một cuốn sách về ông ta. Ông ta là một nhân vật rất thú vị”.
“Tôi đã không biết rằng cậu còn là một nhà văn đấy”.
“Ồ, tôi nghĩ là chuyện gì mà chẳng cần phải có sự khởi đầu”.
Ba ngày sau, Jeff có một vị thực khách khác. Lần này thì Budge là người nhận ra ông ta. “Kìa! Đó là Seymonr Jarett, Chủ tịch Hội đồng quản trị của công ty máy tính quốc tế Jarett đấy. Lão ta có chuyện trời đánh gì với Jeff không biết?”.
Và Jeff cùng với vị khách của anh lại trao đổi một câu chuyện dài đầy sôi nổi. Khi bữa trưa đã qua, Budge tìm bằng được Jeff.
“Jeff thân mến, cậu có chuyện gì với Seymonr Jarett vậy?”.
“Có gì đâu”, Jeff đáp nhanh, “chỉ một chút chuyện phiếm ấy mà”. Anh định bỏ đi. Budge chặn lại.
“Đừng vội thế, cậu bé thân mến. Seymonr Jarett bận trăm công ngàn việc.
Không đời nào ông ta ngồi lê nói chuyện suông đâu”.
Jeff nghiêm chỉnh trở lại. “Thôi được. Sự thực là Seymonr sưu tầm tem, Budge ạ, và tôi nói với ông ta về một con tem tôi có thể kiếm được cho ông ta thôi mà”.
Sự thực cái đít tao đây này, Budge nghĩ.
Tuần lễ sau đó, Jeff ăn trưa tại câu lạc bộ với Charlie Bartlett, chủ tịch. của hãng Bartlett Bartlett, một trong số những hãng đầu tư tư nhân lớn nhất thế giới.
Budge, Ed Zeller, Alan Thompson và Mike Quincy kinh ngạc nhìn hai người trò chuyện, đầu ghé sát vào nhau.
“Cậu em rể của anh đạo này chắc hẳn có những người bạn đường tầm cỡ”, Zeller bình luận. “Không biết nó đang toan tính gì thế nhỉ, Budge?”.
Budge bực bội đáp. “Tôi đâu có biết, quỷ tha ma bắt đi nếu như tôi không mò ra điều đó. Nếu mà Jarett và Bartlett đã quan tâm đến, thì dứt khoát chuyện phải liên quan tôi một hũ tiền”.
Họ thấy Bartlett đứng lên sốt sắng bắt tay Jeff và ra về Khi Jeff đi ngang qua bàn họ, Budge túm lấy cánh tay anh. “Ngồi xuống, Jeff. Chúng tôi có câu chuyện nhỏ muốn nói với cậu”.
Tôi phải trở lại văn phòng”, Jeff khước từ:
“Tôị.”.
“Cậu làm việc cho tôi, cậu nhớ chứ? Ngồi xuống”. Jeff miễn cưỡng ngồi.
Budge tiếp tục. “Cậu ăn trưa với ai thế”.
Jeff ngập ngừng. “Không có gì đặc biệt đâu. Một người bạn cũ ấy mà”.
“Charlie Bartlettt mà là một người bạn cũ?”.
“Đại loại thế”.
“Vậy cậu và ông bạn cũ Charlie quý hóa đó bàn chuyện gì vậy, Jeff “Trời ... chủ yếu là về ô tô. Ông bạn Charlie rất khoái những chiếc ô tô cổ kính, và tôi có nghe về một chiếc Packard 37, bốn cửa, có thể tháo rời ...”.
“Dẹp mẹ chuyện đó đi?” Budge quát lên. “Cậu không sưu tầm tem hay bán chác xe cộ, hay viết sách siếc mẹ gì hết. Cậu thực sự đang bận tâm về việc gì hả?”.
“Không có gì cả. Tôi ...”.
“Cậu đang kiếm tiền cho một vụ gì đó phải không, Jeff “ EdZel1er hỏi thẳng.
“Không mà”. Anh đáp hơi quá nhanh một chút.
Budge choàng cánh tay lực lưỡng ôm ngang người Jeff. “Này, anh bạn, đây là anh rể cậu. Chúng ta là người nhà, cậu nhớ chứ? “ Ông ta ôm chặt lấy Jeff.
“Đó là chuyện liên quan tới cái Máy tính loại an toàn mà cậu đã nhắc tới hồi tuần trước phải không?”.
Nàng vẻ mặt Jeff họ có thể thấy rằng đã bắt nọn được anh.
“Thì đúng vậy đấy”.
“Tại sao cậu đã không nói với chúng tôi về sự tham gia của giáo sư Ackerman?”.
“Tôi không nghĩ rằng các ông sẽ quan tâm”.
“Cậu đã nhầm. Khi cần vốn, cậu phải tới gặp bạn bè”.
“Ngài giáo sư và tôi đâu có cần vốn”, Jeff nói. “Jarett và Bartlett ...”.
– Jarett và Bartlett là những con cá mập khốn khiếp! Bọn họ sẽ nuốt sống cậu”. Alan Thompson kêu lên.
Ed Zeller chộp lấy cái ý đó. “Jeff, khi cậu làm ăn với bạn bè, cậu sẽ không bị thua thiệt”.
“Mọi việc đã được thỏa thuận rồi”, Jeff bảo bọ.
“Cậu đã ký một thứ gì chưa?”.
“Chưa, nhưng tôi đã hứa”.
“Vậy thì chưa có gì được thỏa thuận cả. Trời đất, Jeff, trong chuyện kinh doanh người ta thay đổi ý kiến từng giờ”.
“Tôi thực là không nên thảo luận chuyện này với các ông”, Jeff lớn tiếng.
“Không được nhắc đến tên của giáo sư Ackerman. Ông ấy đang làm việc theo hợp đồng cho một cơ quan của chính phủ”.
“Chứng tôi biết thế”, Thompson nới vẻ thông cảm. “Ngài giáo sư có cho là cái máy đó chắc chắn bảo đảm không?”.
“Ồ, ông ấy biết chắc điều đó”.
“Nếu đối với Ackerman mà nó là tốt, thì với chúng tôi nó cũng tất, phải vậy không các bạn?”.
Tất cả đều tỏ ý tán thành.
“Nhưng này, tôi không phải là một nhà khoa học”. Jeff nói. “Tôi không thể bảo đảm bất kỳ điều gì. Theo chỗ tôi hiểu, các thứ này có thể là chẳng có giá trị gì cả”.
“Được rồi. Chúng tôi hiểu. Nhưng vẫn bảo rằng nó có giá trị của nó, Jeff ạ.
Cái máy này có thể to bằng chừng nào”.
“Anh Budge, thị trường cho cái máy này sẽ rộng khắp thế giới. Thậm chí tôi không biết nói thế nào cả. Tất cả mọi người đều có thể sử dụng nó”.
“Khoán tài trợ ban đầu mà cậu đang tìm kiếm là bao nhiêu?”.
“Hai triệu đô la, nhưng hiện tất cả chúng tôi chỉ còn là hai trăm năm mươi nghìn đôla, Bartlett đã hứa ...”.
“Quên Bartlett đi. Ngần đó là gì đâu, anh bạn thân mến. Chúng ta sẽ tự thu xếp lấy, giữ nó trong phạm vi gia đình. Phải không”.
“Phải quá đi chứ”.
Budge ngẩng lên và búng ngón tay, một người bồi bàn vội chạy đến.
“Dominick này, mang cho ông Stevens vài tờ giấy và một cây bút”.
Giấy bút được cung cấp gần như tức khắc.
“Chúng ta có thể gói ghém câu chuyện này vào đây”.
Budge nói với Jeff. “Cậu làm ngay văn bản, dành mọi quyền cho chúng tôi, và chúng tôi sẽ ký vào đó, sáng mai cậu sẽ nhận một tấm séc bảo đảm, trị giá hai trăm năm mươi ngàn đô la. Cậu thấy thế được không nào?”.
Jeff cắn môi. “Anh Budge, tôi đã hứa với ông Bartlett ...”.
“Kệ mẹ lão Bartlett”, Budge gầm lên. “Cậu đã lấy em gái lão hay em gái tôi?
Nào, viết đi”.
“Chúng tôi chưa có bằng phát minh của cái máy này, và ...”.
“Viết đi, quỷ tha ma bắt?” Budge ấn cái bút vào tay Jeff. Vẻ đầy miễn cưỡng, Jeff viết:
“Văn bản này sẽ trao toàn bộ quyền bản hiệu, và lợi nhuận của tôi đối với chiếc máy điện toán mang tên SUCABA cho những người mua lại bản quyền là Donald Budge Hollanđer, Eđ Zekker, Alan Thompson và Mike Quincy với giá hai triệu đô la, trả ngay hai trăm năm mươi ngàn đô la khi ký văn bản này. SUCABA cần được thử nghiệm rộng rãi, giá rẻ, vận hành bảo đảm không có trục trặc, và sử dụng ít năng lượng hơn so với bất kỳ một máy điện toán nào khác hiện đang lưu hành trên thị trường. SUCABA không có yêu cầu bảo dưỡng hoặc thay thế linh kiện trong một giai đoạn ít nhất là mười năm?
Tất cả bọn họ đều đứng ngay sau nhìn Jeff viết.
“Lạy Chúa!” Ed Zel1er nói. “Mười năm? Không ai dám tuyên bố báo đảm như vậy cho bất kỳ một chiếc máy nào khác trên thị trường”.
Jeff tiếp tục. “Những người mua hiểu rằng cả giáo sư Vernon Ackermman lẫn tôi đều chưa cầm bằng phát minh của chiếc SUCABA ...”.
“Chúng tôi sẽ lo chuyện đó”, Alan Thompson sốt ruột cắt ngang. “Dĩ nhiên là tôi có một luật sư chuyên về bằng phát minh”.
Jeff vẫn đang viết tiếp. “Tôi đã nói rõ với những người mua rằng SUCABA có thể không hề có giá trị gì, và rằng cả giáo của Ackkekrman và tôi đều không làm bất kỳ một sự giới thiệu hay bảo đảm gì về SUCABA trừ những điều nói trên.
Anh ký xuống dưới và giơ tờ giấy lên. “Các ông có hài lòng không?”.
“Cậu chắc về chuyện mười năm chứ”“ Budge hỏi.
Bảo đảm. Tôi sẽ làm một bản sao nữa”. Jeff nói. Họ theo dõi anh thận trọng chép lại những gì đã viết.
Budge chộp lấy mấy tờ giấy từ tay Jeff và ký tên lên đó Zeller, Quincy, và Thompson làm theo.
Budge cười hể hả. “Một bản cho chúng tôi, một bản cho cậu. Vậy là các ông bạn Seymour Jarett và Charlie Bartltt sẽ bị ném trứng thối vào mặt, ha, phải không các bạn? Tôi nóng lòng chờ đợi lúc họ biết rằng họ đã bị loại khỏi vụ này”.
Sáng hôm sau, Budge đưa cho Jeff một tấm séc bảo đảm trị giá hai trăm năm mươi ngàn đô la.
“Cái máy tính đâu?” Budge hỏi.
“Tôi đã thu xếp để nó được chuyển lên đây, tại câu lạc bộ này, vào lúc buổi trưa. Tôi nghĩ rằng như thế là phù hợp nhất vì rằng chúng ta sẽ đều có mặt khi anh nhận nó”.
Budge vỗ vỗ vào vai Jeff. “Cậu biết đấy, Jeff, cậu là một tay khá. Hẹn gặp lại vào buổi trưa”.
Khi trưa đến, một người giao hàng mang một cái hộp xuất hiện trước cửa phòng ăn của câu lạc bộ Pilgrin và được đưa tới bàn của Budge, nơi ông ta cùng ngồi với Zeller, Thompsom và Quincy.
“Đây rồi?” Budge kêu lên. “Lạy Chúa! Cái máy lại còn xách tay được cơ chứ”.
“Chúng ta có nên đợi Jeff không”“ Thompson hỏi.
“Kệ mẹ nó. Cái này giờ đây là của bọn ta”. Budge xé bỏ lớp giấy bọc ngoài của cái hộp. Trong đó là một ổ rơm. Ông ta thận trọng tới mức gần như kính cẩn nhắc cái vật nằm trong đó ra. Cả bọn ngồi lặng nhìn chằm chằm vào đó. Nó là một cái khung hình chữ nhật nhỏ nhắn, có một loạt cái que ngang, trên đó có sâu những viên gỗ nhẵn bóng, tròn tròn. Tất cả im lặng hồi lâu.
“Cái gì vậy?” Sau cùng thì Quincy cất tiếng.
Alan Thompson nói. “Nó là một cái bàn tính. Một trong những thứ mà người phương Đông dùng để đếm ...”.
Mặt ông ta chợt tái ngắt. “Lạy Chúa SUCABA là cách viết đảo ngược của chữ ABACUS - nghĩa là bàn tính”. Ông ta quay sang Budge. “Một kiểu đùa giỡn gì chăng”.
Zelle dằn từng tiếng. “Vận hành bảo đảm không trục trặc kỹ thuật, tiêu hao ít năng lượng hơn so với bất kỳ một máy tính điện toán nào hiện có trên thị trường ... chặn ngay cái séc ngớ ngẩn kia lại”.
Cả bọn lao tới bên máy điện thoại.
“Séc bảo đảm của ngài ư? “ Người kế toán trưởng đáp, “Không có gì phải lo ngại cả. Sáng nay ông Stevens đã rút tiền mặt rồi ạ”.
Pickens, người quản gia hết sức bối rối. “Nhưng quả thực là ông Jeff Stevens đã sắp xếp hành lý và đã ra đi.
Ông ấy nói gì đó về một chuyến đi xa”.
Chiều hôm đó, Budge cuống cuồng tìm cách liên lạc với giáo sư Vernon Ackerman.
“Đúng vậy. Jeff Stevens. Một chàng trai hấp dẫn. Ông nói là em rể ông à?”.
“Thưa giáo sư, ngài và Jeff đã thảo luận về chuyện gì thế?”.
“Tôi cho rằng chả có gì phải bí mật cả. Jeff sốt sắng muốn viết một cuốn sách về tôi. Cậu ta đã thuyết phục tôi rằng thế giới muốn biết về con người thật của một nhà khoa học”.
Seymonr Jarett rất kín miệng. “Tại sao ông lại muốn biết ông Jeff Stevens và tôi đã bàn bạc gì? Ông là một người sưu tầm tem cạnh tranh với Jeff à?”.
“Không tôi ...”.
“Ồ, ông sẽ không lợi lộc gì trong việc xía ngang thế này đâu. Hiện chỉ còn duy nhất có một con tem như vậy thôi, và ông Stevens đã đồng ý bán cho tôi khi ông ta kiếm được”.
Budge đã biết Charlie Bartlett sắp nói gì trước cả khi ông ta mở miệng. “Jeff Stevens? Ồ, phải, tôi sưu tầm xe hơi cổ. Cậu Jeff biết nơi có chiếc Packard 37 bốn cửa có thể tháo rời, vẫn còn mới nguyên” ...
“Đừng lo”, Budge nói với đồng bọn. “Chúng ta sẽ thu hồi tiền của ta lại và ném thằng chó đẻ ấy vào tù cho tới mãn đời nó. Kiệm một cái lệnh bắt”.
“Ông có cái hợp đồng đó ở đây không, Budge?”.
“Có ngay đây”. Ông ta đưa cho Fogarty văn bản mà Jeff đã thảo ra và ông ta đã ký vào.
Viên luật Sư nhìn lướt qua một lượt rồi chậm rãi đọc lại. “Hắn có cưỡng ép các ông ký tên vào đây không?”.
“Sao, không!” Mike Quincy nói. “Chúng tôi đòi ký”.
“Các ông có đọc trước không?”.
Ed Zeller bực bội đáp. “Dĩ nhiên là chúng tôi đã đọc.
Ông nghĩ rằng chúng tôi ngu ngốc cả à?”.
“Cái đó xin để các ông tự đánh giá. Các ông đã ký một hợp đồng xác nhận là các ông đã được cho biết rằng cái mà các ông mua với số tiền hai trăm năm mươi ngàn đô la là một đồ vật chưa được cấp bằng phát minh và có thể hoàn toàn chẳng đáng giá gì. Theo cách nói của một giáo sư già cả như tôi thì, các ông đã bị chơi một vố thật đau một cách hết sức trịnh trọng”.
Ở Reno, Jeff đã xin ly dị. Và chính trong thời gian ổn định nơi ăn chốn ở tại đó anh đã gặp Conrađ Morgan, người đã có một thời gian làm việc cho chú Willie. “Cậu có thể sẵn lòng giúp tôi một việc nhỏ không, Jeff Conrad Morgan nêu vấn đề, “Có một phụ nữ trẻ đi trên xe lửa từ New York tới St. Louis mang theo một ít kim cương ...”.
Jeff lơ đãng nhìn qua cửa sổ máy bay và nghĩ về Tracy. Trên mặt anh thoáng một nụ cười.
Khi Tracy trở lại New York, nơi dừng đầu tiên của nàng là trụ sở Conrad Morgan và công ty. Morgan đưa Tracy vào phòng làm việc của ông ta, đóng cửa lại, xoa xoa tay và nói. “Cô bạn thân mến, tôi đang rất lo lắng.
“Tôi đã đợi cô ở St. Louis và ...”.
“Ông đã không đến St. Louis”.
“Cái gì? Ý cô định nói gì vậy?” “Cặp mắt xanh của ông ta nhướn cao, sáng lên tinh quái”.
“Tôi muốn nói là ông đã không đi St. Louis. Ông chưa bao giờ có ý định đón tôi ở đó cả”.
“Chắc chắn là không phải thế đâu. Cô có chỗ kim cương và tôi ...”.
“Ông đã cử hai gã đàn ông đi cướp nó khỏi tay tôi”.
Vẻ lúng túng hiện rõ trên khuôn mặt Morgan. “Tôi không hiểu gì cả”.
“Lúc đầu tôi nghĩ là có sự rò rỉ trong tổ chức của ông, nhưng hóa ra không phải vậy, đúng không nào? Chính là ông. Ông bảo với tôi rằng ông đích thân lo vé tàu cho tôi, bởi vậy ông là kẻ duy nhất biết số ngăn tôi ngồi. Tôi dung một cái tên khác và đã hóa trang, nhưng người của ông đã biết chính xác nơi phải tìm tôi”.
Khuôn mặt tròn ngộ nghĩnh của ông ta đẩy vẻ ngạc nhiên. “Cô đang định nói với tôi rằng có mấy kẻ nào đó đã cướp đoạt số kim cương của cô ư?”.
Tracy mỉm cười “Tôi đang định nói với ông rằng họ đã không làm được điều đó”.
Lần này thì vẻ ngạc nhiên trên mặt Morgan hoàn toàn thành thực. “Cô có trong tay chỗ kim cương”.
“Đúng. Đám tay chân của ông vì quá vội ra sân bay nên đã bỏ chúng lại”.
Morgan nhìn Morgan soi mói giây lát. “Xin lỗi”.
Ông ta đi qua một cái cửa riêng sang phòng bên, còn Tracy thả mình ngồi xuống đi văng một cách thoải mái.
Conrad Morgan mất dạng tới gần mười lăm phút, khi trở lại, khuôn mặt ông ta vẫn còn đọng vẻ hết hoảng. “Tôi sợ rằng đã có một sai lầm. “Một sai lầm lớn.
Cô là một phụ nữ thông minh, cô Whitney. Cô đã kiếm được 25 ngàn đô la của cô”. Ông ta mỉm cười thán phục. “Trao cho tôi kim cương và ...”.
“Năm mươi ngàn”.
“Xin cô nói lại?”.
“Tôi đã đánh cắp chúng hai lần. Vậy là phải năm mươi ngàn đô la, thưa ông Morgan”.
“Không được”, ông ta nói dứt khoát. Cặp mắt tôi lại. “Tôi e rằng tôi không thể nào đưa cho cô tới ngần ấy được”.
Tracy đứng dậy. “Hoàn toàn được thôi. Tôi sẽ thử tìm ai đó ở Las Vegas mà người đó cho rằng vậy là phải giá”.
Nàng bước ra cửa.
“Năm mươi ngàn đô la cơ à?” Conrad Morgan hỏi lại.
Tracy gật đầu.
“Chỗ kim cương đó ở đâu?”.
“Trong một hộp thư lưu ở ga Penn, ngay khi nào ông trao tiền - tiền mặt - và đưa tôi ngồi vào một chiếc tắc xi, tôi sẽ trao ông chìa khóa”.
Conrad Morgan thở dài cam chịu thất bại. “Cô đã ngã giá xong”.
“Cảm ơn ông”, Tracy đáp vui vẻ. “Làm ăn với ông thật là dễ chịu”.
 
×
Quay lại
Top