Kiến thức thám tử-Tư duy và tâm lý

Các kỹ năng cơ bản để trở thành thám tử

1: Là chính bạn.
Khi làm gián điệp, hãy ra vẻ như 1 người bình thường. Bạn ko cần phải mặc đồ tối màu hay áo khoác dày để thành gián điệp ( điệp viên ). Bạn cần hòa mình với mọi người, chỉ là 1 người khác giữa đám đông.
2: Biết đường quanh thị trấn.
Bạn nên biết loại đấy này được tìm thấy ở đâu, nơi nào có mưa. Các thông tin đó bạn có thể tìm thấy ở đôi giày hay chiếc lốp ô tô, nơi đối tượng đã đến.
3: Mang theo điện thoại di động có camera hay một chiếc camera kĩ thuật số nhỏ mọi lúc.
Luôn có điều thú vị nào đó xảy ra.
4: Thông minh với những kẻ theo sau.
Đừng đi quá gần phía sau và đừng nhìn vào cửa sổ các cửa hàng mỗi khi đối tượng quay lại nhìn, hãy chỉ đi bộ mà thôi. Thậm chí nếu đối tượng phát hiện ra bạn, một người đi trên đường sẽ ít đáng ngờ hơn là những người liên tục nhảy vào các con hẻm hay cửa hàng.
5: Luyện mắt cho những thứ chi tiết.
Hãy tạo thói quen quan sát môi trường xung quanh, ngay cả khi không có gì đặc biệt để quan sát. Bạn ko bao giờ biết mình sẽ phát hiện cái gì, và bạn sẽ rèn luyện được kĩ năng của mình.
6: Học cách " đọc " khuôn mặt.
Chú ý đến ngôn ngữ của nguời nói dù nó có vẻ tự nhiên và đồng ý với những lời của họ.
7. Giỏi tìm kiếm thông tin.
Tìm hiểu hồ sơ công cộng là gì và làm thế nào để có được chúng.
8. Học cách hỏi.
Bạn nên có khả năng nắm được bản chất ( cốt lõi ) của vấn đề mà không cần đưa ai đó vào phòng tra hỏi gây khó chịu cho họ, không cần thiết.
9. Ghi chép cẩn thận những gì bạn tìm thấy.
10. Có một bộ dụng cụ riêng.
Nên có một cái kính lúp, ống nhòm, bột làm hiện dấu vân tay, etc. Nếu bạn không thể mua bộ dụng cụ đó, hãy cố tìm một nơi nào đó có thể cho bạn biết cách làm một bộ dụng cụ với những thứ quanh nhà hay dễ dàng có được.
11. Hiểu rõ những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống, dù là nhỏ đến đâu đi chăng nữa, nó có thể giải quyết vụ án.
12. Hiểu biết kĩ thuật.
Biết tìm kiếm thông tin qua internet có thể là khả năng quí báu nhất của bạn.
13. Có một đội gồm một " anh chàng công nghệ ( tức am hiểu về công nghệ thông tin ) " và một nông dân (?) ( có lẽ là biết nhiều về thiên nhiên, môi trường ) để giúp đỡ bạn.

(bất cứ ai cũng có thể trở thành thám tử)

 
SUY DIỄN LOGIC {Tư duy}
Suy diễn logic là gì?

Suy diễn lôgic, lập luận bằng suy diễn hay suy diễn là lập luận mà trong đó kết luận được rút ra từ các sự kiện được biết trước theo kiểu: nếu các tiền đề là đúng thì kết luận phải đúng. Nghĩa là các sự kiện cho trước đòi hỏi rằng kết luận là đúng.

Kiểu lập luận này khác với và trong đó các tiền đề có thể tiên đoán một xác suất cao của kết luận nhưng không đảm bảo kết luận là đúng.

Suy diễn còn được định nghĩa là kiểu từ trường hợp tổng quát hơn tới trường hợp cụ thể hơn, hay là suy luận mà trong đó kết luận có độ xác tính ngang bằng với các tiền đề

Ví dụ :

Người ta có thể nói rằng: “Vì trời mưa nên chắc chắn đường ướt”. Tuy nhiên, có một trong câu này: “Nếu trời mưa thì đường ướt.”. Sử dụng tiền đề “Nếu trời mưa thì đường ướt.”, ta có thể tranh luận rằng “Vì trời mưa nên chắc chắn đường ướt”, mà không thể rằng “đường ướt cho nên chắc chắn trời đang mưa”. Hoặc ta có thể nói: “Đường không ướt, do đó trời không mưa”, nhưng không thể “Trời không mưa, do đó đường không ướt.

Đó là vì đường ướt là một kết quả không tránh khỏi của mưa, nhưng đường ướt không nhất thiết phải do mưa.

Tính hiệu lực và tính có cơ sở :

Các luận cứ suy diễn có thể có hiệu lực hoặc không có hiệu lực. Các có hiệu lực tuân theo các quy tắc đã định trước. Đối với tính hiệu lực, việc các quy tắc định trước đúng hay sai không được xét đến.

Do đó, các kết luận có hiệu lực không nhất thiết là kết luận đúng, và các kết luận không có hiệu lực có thể không sai.

Khi một luận cứ vừa có hiệu lực vừa đúng, nó được coi là có cơ sở (sound). Khi nó có hiệu lực, nhưng không đúng, nó được coi là không có cơ sở.

Ví dụ:

Suy diễn có hiệu lực:

Do là một người,và do tất cả mọi người đều không bất tử,do đó Socrates cũng không bất tử.

Suy diễn trên còn được coi là có cơ sở, do hai tiền đề “Socrates là người” và “tất cả mọi người đều không bất tử” là đúng.

Suy diễn không có hiệu lực:

Tất cả các thí sinh thi trượt đều không được học bổng,tất cả các thí sinh đỗ vớt đều không được học bổng,do đó tất cả các thí sinh đỗ vớt đều thi trượt

Sưu tầm
 
Định nghĩa về tư duy suy luận {Tư duy}
Tư duy suy luận nghĩa là cách suy nghĩ đúng đắn trong việc theo đuổi với tri thức thích hợp và đáng tin cậy về thế giới. Miêu tả cách khác đó là lối suy nghĩ đầy kỹ năng, có trách nhiệm, có suy tư và hợp lý được tập trung vào việc quyết định xem nên tin tưởng hoặc thực hiện điều gì.



Người có tư duy suy luận có thể hỏi nhiều câu hỏi phù hợp, thu thập thông tin liên quan, qua phân loại một cách hiệu quả và sáng tạo những thông tin này, rồi từ đó suy luận có lô gich để đi đến những kết luận đáng tin cậy về thế giới mà trong đó giúp cho con người sống và làm việc được thành công. Sự tư duy suy luận không thể xử lý thông tin đủ tốt để biết được phải dừng khi có đèn đỏ hay liệu bạn đã nhận được đúng số tiền thừa ở siêu thị hay không. Sự suy nghĩ ở mức độ thấp như vậy, cho dù có thể nó quan trọng hay hữu dụng đi chăng nữa thì cũng chỉ phù hợp cho sự tồn tại cá nhân; Hầu hết mọi người đều nắm vững điều này. Tư duy suy luận thực sự là lối suy nghĩ ở mức độ cao hơn, ví dụ như giúp người ta đánh giá một cách có trách nhiệm những ứng cử viên chính trị, hoàn thành tốt nghĩa vụ trong bồi thẩm đoàn xét xử vụ giết người, khảo sát nhu cầu của xã hội đối với những nhà máy điện hạt nhân, và đánh giá những hậu quả của việc trái đất đang nóng lên. Cách tư duy suy luận giúp từng cá nhân trở thành người công dân có trách nhiệm góp phần xây dựng cho xã hội chứ không đơn thuần chỉ hưởng thụ những gì mà xã hội đem lại.

Trẻ em khi sinh ra không có khả năng tư duy suy luận và chúng cũng không phát triển khả năng này theo lẽ tự nhiên vượt ra ngoài cách suy nghĩ ở mức độ tồn tại. Tư duy suy luận là khả năng phải trải qua công việc học tập và dạy dỗ mới có được. Hầu hết mọi người chẳng bao giờ chịu học điều đó cả. Đa số các bậc phụ huynh đều không thể dạy cho con em của mình cách tư duy suy luận. Rất cần có những người chỉ dẫn hiểu biết và được đào tạo để truyền đạt những kỹ năng và thông tin đúng đắn. Các giáo viên dạy Toán và khoa học có những kỹ năng và thông tin này một cách chính xác. Tại sao vậy?

Cách tư duy suy luận có thể được miêu tả như phương pháp khoa học được áp dụng bởi những con người bình thường cho thế giới bình thường. Điều này là đúng bởi vì lối tư duy suy luận rất giống phương pháp điều tra khoa học nổi tiếng: nhận dạng câu hỏi, diễn giải rõ ràng giả thuyết, tìm kiếm và tập hợp cơ sở dữ liệu thích hợp, đánh giá và thử nghiệm giả thuyết một cách lô gich, và rút ra từ kết quả những kết luận đáng tin cậy. Tư duy suy luận bao gồm tất cả các kỹ năng của việc điều tra khoa học, chính vì vậy mà lối suy nghĩ đó không gì hơn là phương pháp mang tính khoa học được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày hơn là trong những sự nỗ lực hay nguyên tắc khoa học cụ thể. Tư duy suy luận là sự suy nghĩ có tính khoa học. Nhiều sách báo đã đưa ra những mục đích và phưng pháp của lối tư duy này giống như những mục đích và phương pháp khoa học tưng tự. Một người hiểu biết về khoa học chẳng hạn như giáo viên Toán hay khoa học, đã học cách tư duy suy luận nhằm đạt được mức độ nhận thức khoa học. Nhưng bất cứ ai có bằng cấp cao ở bất kỳ một trường đại học nào chắc chắn đã học được những kỹ năng tư duy suy luận.

Tư duy suy luận là khả năng nghĩ cho bản thân ai đó và đưa ra quyết định đầy tính trách nhiệm có ảnh hưởng đến cuộc sống của người đó. Nó cũng là sự tìm hiểu cặn kẽ, vì vậy những người có lối tư duy như vậy thường xuyên tìm hiểu vấn đề, đặt ra những câu hỏi, đưa ra những câu trả lời mới phản biện lại tình trạng hiện thời, khám phá thông tin mới mà có thể đực sử dụng trong trường hợp tốt hay xấu, thắc mắc các học thuyết và những sự thừa nhận truyền thống, thách thức các học thuyết cũng như giáo điều đã được thừa nhận, và thường chấm dứt khả năng xử lý trong xã hội lớn hơn những con số của chúng. Có lẽ xã hội hay nền văn hoá mang tính thực dụng chỉ có thể chấp nhận một số ít những người có lối tư duy suy luận mà việc học tập, quy về bản chất và thực hiện cách suy nghĩ khoa học này lại không được khuyến khích. Hầu hết mọi người đều tuân theo những gì đã được công nhận: Hầu hết không đặt câu hỏi, không tò mò và cũng chẳng thắc mắc các học giả khi họ công bố vốn kiến thức đặc biệt sâu sắc. Vì vậy mọi người hầu như chẳng nghĩ cho bản thân mình nhưng lại phụ thuộc vào người khác để nghĩ cho mình. Hầu hết mọi người đều miệt mài theo lối suy nghĩ cảm xúc, hy vọng, mong muốn, cho rằng những gì họ tin tưởng là đúng bởi vì họ mong muốn, hy vọng hay cảm nhận đó là sự thật. Vì vậy, họ không tư duy một cách thấu đáo.

Lối tư duy suy luận có nhiều yếu tố cấu thành. Cuộc sống có thể được miêu tả như là một trình tự các vấn đề mà mỗi cá nhân phải tự giải quyết. Các kỹ năng tư duy suy luận không gì hơn là những kỹ năng giải quyết vấn đề để dẫn tới tầm hiểu biết đáng tin cậy. Con người luôn luôn tiếp nhận thông tin. Lối tư duy suy luận là sự thực hiện xử lý thông tin trong cách thức điêu luyện nhất, chính xác nhất và nghiêm khắc nhất có thể, bằng cách đó nó sẽ dẫn tới những kết luận đáng tin cậy và lô gích, nhờ đó người ta có thể có được những quyết định đầy tính trách nhiệm về cuộc sống, cách cư xử và hành động của mình với kiến thức đầy đủ về các giả thiết và kết quả của những quyết định đó.

Raymond S.Nickerson (1987) chuyên gia về cách tư duy suy luận, mô tả người có suy nghĩ suy luận tốt về lĩnh vực tri thức, khả năng, thái độ và hành vi theo thói quen. Sau đây là một số nét đặc điểm của người có lối tư duy này:
• Sử dụng chứng cứ một cách công bằng và thành thục
• Sắp xếp các ý tưởng và thực hiện chúng một cách cô đọng và mạch lạc
• Phân biệt được những sự suy luận có giá trị và không có gía trị thật lô gich
• Chưa đưa ra ý kiến khi thiếu bằng chứng thích hợp để hỗ trợ quyết định
• Hiểu được sự khác nhau giữa suy luận và lý luận
• Cố gắng tiên liệu trước được hiệu quả có thể xảy ra của những hoạt động thay thế
• Hiểu được ý tưởng về mức độ thừa nhận
• Nhận thấy sự khác nhau tương tự không hoàn toàn rõ ràng
• Có thể tự học và thường xuyên quan tâm thực hiện điều đó
• áp dụng những kỹ năng giải quyết vấn đề trong các phạm vi ngoài những gì đã biết
• Có thể tổ chức những vấn đề tiêu biểu tuỳ ý bằng cách sử dụng các kỹ năng theo quy ước như dùng toán học để giải quyết
• Có thể loại bỏ tranh cãi về những gì không thích hợp và diễn giải nó trong những phạm vi cần thiết
• Thường xuyên đặt câu hỏi cho những quan điểm của một ai đó và cố gắng hiểu được cả những giả thiết phân biện và cả những ẩn ý trong những quan điểm đó
• Nhạy cảm với sự khác biệt giữa tính hiệu lực của sự thừa nhận và cường độ cao mà được tổ chức cùng với chúng
• Nhận thức được tầm hiểu biết của con người luôn luôn có giới hạn vì thế phải luôn có thái độ học hỏi
• Nhận ra được những ý kiến của ai đó có thể là sai, xác suất thiên lệch trong những ý kiến đó, và nguy cơ về các bằng chứng mang nặng tính cá nhân.


Sưu tầm
 
{Tâm lý}
Niềm vui của người lừa dối

Niềm vui của người lừa dối
Tại sao con người lừa dối khi phần thưởng là nhỏ?

Nói ngắn gọn, lý do con người thỉnh thoảng lừa dối, mặc cho những phần thưởng họ thu được là nhỏ, đó là họ cảm thấy vui.

Dù chúng ta có xu hướng giả định rằng việc lừa dối nên gây ra những cảm xúc tiêu cực như tội lỗi, thì đó không phải là kết luận của một loạt nghiên cứu được thực hiện bởi Nicole E. Ruedy (University of Washington) và các cộng sự.

Trong những nghiên cứu của họ, những người gian lận trong một nhiệm vụ giải quyết vấn đề - dù họ thu được ít lợi lạc - đã trải nghiệm một kiểu 'niềm vui của người lừa dối' (Ruedy et al., 2013). Họ cảm thấy hài lòng hơn về bản thân và hạnh phúc hơn những người không gian lận.

Khi được hỏi, hầu hết mọi người trong nghiên cứu nghĩ rằng một ai đó đã gian lận sẽ cảm thấy tồi tệ, hoặc ít ra là có sự mâu thuẫn trong tư tưởng. Nhưng dự đoán của họ về việc những người gian lận sẽ cảm thấy thế nào là sai hoàn toàn.
Một lý do con người có ít cảm xúc tiêu cực trong nghiên cứu này đó là bản thân hành vi gian lận không làm hại ai. Những người tham gia đơn giản chỉ là liếc nhìn những câu trả lời cho những bài toán và logic.

Nicole Ruedy giải thích:

"Khi con người làm việc gì đó sai trái, làm hại người khác, ví dụ như cho điện giật người khác, thì phản ứng nhất quán của họ trong nghiên cứu trước là họ cảm thấy tồi tệ về hành vi của họ. Nghiên cứu của chúng tôi tiết lộ rằng con người thực sự có thể trải nghiệm một 'niềm vui của người gian lận' sau khi làm một việc gì đó trái đạo đức nhưng không trực tiếp làm hại ai."

Nếu bạn từng tự hỏi tại sao con người gian lận, ví dụ, ăn cắp một món hàng trong cửa hàng khi giá trị món hàng là nhỏ, thì nghiên cứu này có thể giải thích về điều đó:

Con người có cảm xúc tốt đẹp khi họ gian lận có thể là một lý do họ vô đạo đức ngay cả khi phần thưởng là nhỏ.

posted_0.gif

“Tình yêu” – Một kinh nghiệm xa lạ với một tội phạm
Bài này không phải là nơi để định nghĩa về tình yêu. Tuy nhiên, nếu bạn đồng ý rằng một mối quan hệ yêu thương có những phẩm chất sau, thì nó là chính xác khi nói rằng tội phạm không có khái niệm về tình yêu là gì.

* Một mối quan hệ cho và nhận (có qua có lại), thường là cho đi nhiều hơn nhận lại;

* Đặt bản thân vào vị trí của người khác;

* Đáng tin và có thể tin cậy người khác;

* Chung thủy

Bạn không nên bị đánh lừa bởi cách dùng từ “yêu” của một tội phạm. Thường thì từ đó bước vào từ điển của anh ta để chỉ về hoặc là t.ình d.ục, hoặc là ý kiến đối với người khác. Nhiều tội phạm từng nói với tôi rằng anh ta yêu mẹ nhiều như thế nào – người lúc nào cũng ở cạnh anh ta bất kể những việc anh đã làm. Nhưng khi người này phản đối anh, cố gắng kìm chế anh hoặc đương đầu với anh, bà ấy trở thành đối tượng của cơn thịnh nộ của anh. Anh sẽ trút giận lên bà và bà có thể trở thành nạn nhân của anh ta. Đây không phải là tình yêu!

Tội phạm là người tự cho mình là trung tâm. Anh ta không đặt bản thân vào vị trí của người khác. Do đó, anh ta không nghĩ đến bạn đời, bố mẹ, con cái hoặc bạn bè đang trải nghiệm điều gì. Vì cái nhìn một phía về tình huống của anh ta và tính tự yêu bản thân của anh (narcissicism), nên anh ta vốn là người không thể tin tưởng được. Anh ta là một người nhận, không phải một người cho. Anh ta “yêu” người nào đó chừng nào họ là con tốt của anh, đối tượng để anh ta kiểm soát.

Những tên tội phạm có thể tỏ ra yêu thương và rộng lượng. Nhưng động cơ của họ là phục vụ bản thân. Trong chớp mắt, họ có thể thay đổi từ việc bộc lộ tình cảm dạt dào đến việc bạo hành về th.ân thể hoặc tinh thần. Một người đàn ông từng nói “Tôi có thể thay đổi từ những giọt nước mắt thành cục đá và ngược lại.”

Một người đang khuyên bảo những tội phạm cần hiểu rằng những kiểu suy nghĩ đó phải thay đổi để một tội phạm bước vào cái gọi là một mối quan hệ yêu thương thực sự. Một người đang dính mắc về tình cảm với một tội phạm phải tin vào bản năng của anh/cô ấy khi mối quan hệ này chỉ từ một phía và tìm kiếm một lối thoát.


posted_0.gif

Tại sao hầu hết tội phạm là đàn ông

Trong mọi xã hội loài người không có 1 ngoại lệ, đàn ông phạm hầu hết các tội và hành động bạo lực. Tại sao đàn ông hung bạo và phạm nhiều tội hơn phụ nữ?

Có nhiều cái chung thuộc văn hóa – những đặc điểm của xã hội loài người được chia sẻ bởi tất cả các nền văn hóa được biết đến. Donald E. Brown cung cấp danh sách “những đặc điểm chung ở loài người” trong cuốn sách Human Universals (1991), và Steven Pinker cập nhật danh sách vào năm 2002 trong cuốn sách của ông The Blank Slate. Có thể có nhiều đặc điểm chung thuộc văn hóa vì văn hóa loài người là 1 sự biểu hiện của bản chất con người ở mức độ xã hội, và bản chất con người là chung với tất cả mọi người. Đây là lý do tại sao tất cả các nền văn hóa loài người ít nhiều gì đều giống nhau, và có nhiều đặc điểm chung về văn hóa. Và trong số nhiều đặc điểm chung về băn hóa, thực tế là đàn ông trong mọi xã hội đều hung bạo và phạm tội nhiều hơn so với phụ nữ.

Trong lịch sử tiến hóa, loài người theo chế độ nhiều vợ, và nhiều người đàn ông đã kết hôn có nhiều vợ. Trong 1 xã hội theo chế độ đa thê, 1 số đàn ông độc chiếm quyền tiếp cận sinh sản với tất cả phụ nữ trong khi những người đàn ông khác bị bỏ lại; trong 1 xã hội như vậy, 1 số đàn ông không có con, trong khi hầu hết phụ nữ đều có con. Nói cách khác, có 1 sự khác biệt giới lớn trong sinh sản; sự khác biệt giữa “những người thắng” và “những người thua” trong trò chơi sinh sản lớn hơn nhiều trong số những đàn ông hơn là trong số những phụ nữ. Sự khác biệt giới lớn về sinh sản làm đàn ông có tính cạnh tranh cao với nỗ lực không bị bỏ lại trong trò chơi sinh sản. Sự cạnh tranh này trong số những người đàn ông dẫn đến mức độ bạo lực cao (giết người, hiếp dâm và hành hung) trong số họ. Số lượng lớn những kẻ giết người trong số đàn ông (so với số lượng kẻ giết người trong số phụ nữ, hoặc giữa các giới) là 1 hậu quả trực tiếp của sự cạnh tranh của đàn ông vì bạn tình.

Trong nghiên cứu toàn diện về các tên giết người, các nhà tâm lý học tiến hóa hàng đầu Martin Daly và Margo Wilson nhận thấy hầu hết những kẻ giết người trong số những người đàn ông bắt nguồn từ “cuộc đấu khẩu tầm thường”. 1 kiểu giết người thông thường trong đời thực không phải là kiểu được miêu tả trong phim Columbo: mưu tính trước, lên kế hoạch tốt và được thực hiện gần như hoàn hảo bởi 1 kẻ sát nhân thông minh và cẩn thận. Thay vào đó, nó bắt đầu từ 1 mâu thuẫn về những vấn đề tầm thường liên quan đến danh dự, địa vị và danh tiếng giữa những người đàn ông (ví dụ khi 1 người đàn ông xúc phạm người đàn ông khác hoặc tán tỉnh bạn gái của người khác). Mâu thuẫn leo thang vì không ai sẵn sàng rút lui cho đến khi họ trở nên hung bạo và kết thúc là cái chết của 1 người trong số những người đàn ông đó.

Vì phụ nữ thích kết đôi với đàn ông có địa vị cao và danh tiếng tốt, địa vị và danh tiếng của 1 người đàn ông tương quan trực tiếp với sự thành công sinh sản của anh ta; địa vị và danh tiếng càng cao, anh ta càng có nhiều thành công trong sinh sản. Do đó đàn ông bị thúc đẩy (dù là vô thức) để bảo vệ danh dự của họ và thường đi đến mức cực đoan để làm điều này. Daly và Wilson giải thích về những kẻ giết người trong số những người đàn ông theo quan điểm của khao khát (phần lớn là vô thức) bảo vệ địa vị và danh tiếng của họ với nỗ lực có được quyền sinh sản với phụ nữ.

Cưỡng hiếp dường như là 1 ngoại lệ với kiểu lập luận này, vì không giống như hành hung và giết người, những nạn nhân của hiếp dâm thường là phụ nữ, và do đó không có sự cạnh tranh của đàn ông vì địa vị và danh tiếng. Tuy nhiên, cơ chế tâm lý tương tự thúc ép đàn ông đạt được quyền sinh sản với phụ nữ bằng cách cạnh tranh với những đàn ông khác cũng có thể thúc ép đàn ông phạm tội hiếp dâm. Những tên hiếp dâm đa phần là những người đàn ông có tầng lớp và địa vị thấp hơn, những người có viễn cảnh không tươi sáng trong việc đạt được quyền sinh sản hợp pháp với phụ nữ. Trong khi nó không phải là 1 sự biểu lộ của cuộc cạnh tranh cùng giới và bạo lực của đàn ông, hiếp dâm có thể bị thúc đẩy bởi những cơ chế tâm lý của đàn ông thôi thúc họ đạt được quyền sinh sản bất hợp pháp với phụ nữ khi họ không có những phương tiện hợp pháp để làm điều đó.

Đây là lý do vì sao án tử hình có thể không làm nhụt chí kẻ sát nhân. Logic của án tử hình giả định là hầu hết những kẻ sát nhân là có mưu tính trước. 1 kẻ sát nhân tiềm năng cân nhắc 1 cách cẩn thận và lý trí những lợi ích và cái giá phải trả của hành động, và quyết định không giết người nếu cái giá phải trả lớn hơn lợi ích. Điều này có thể mô tả về 1 tên sát nhân hư cấu trong Columbo, nhưng không phải là những tên sát nhân ngoài đời thực, người không dừng lại để suy nghĩ trước những cuộc đấu khẩu tầm thường leo thang đi đến những cuộc đánh nhau gây chết người.

Logic của án tử hình cũng giả định rằng thi hành án tử là số phận tồi tệ nhất có thể. Từ quan điểm tâm lý học tiến hóa, còn có 1 thứ tồi tệ hơn cả cái chết, và nó là sự thất bại trong sinh sản dành cho bất kỳ người đàn ông nào không cạnh tranh vì bạn tình trong 1 xã hội đa thê. Nếu họ cạnh tranh và chiến đấu với những người đàn ông khác, họ có thể chết, bằng cách hoặc là bị người đàn ông khác giết hoặc bị án tử. Nhưng nếu họ không cạnh tranh thì họ dứt khoát sẽ chết về mặt sinh sản bởi không để lại bản sao gen của họ. Do đó họ có thể cạnh tranh ngay cả trước nguy cơ của cái chết; vì phương án thay thế tồi tệ hơn nhiều.



Mặt tích cực của những đầu óc đen tối


1 số nét tính cách của kẻ sát nhân có thể làm thế giới trở thành 1 nơi tốt đẹp hơn

Lần tới khi bạn đang đi trên đường, hãy nhìn ngó xung quanh: Trong đám đông 100 người, khả năng là 1 vài người trong số đó rơi vào phổ nhân cách bệnh lý (psychopathic). Đừng lo, hãy chọn người qua đường trông đáng sợ nhất. Người đó cũng có thể đẹp trai như Don Draper trong bộ comle đắt tiền, và bạn có thể muốn hỏi anh ta 1 vài điều.

Trong cuốn sách The Wisdom of Psychopaths, nhà tâm lí Kevin Dutton cho rằng, 1 số nét tính cách thúc đẩy những kẻ giết người và hủy hoại người khác, thực sự có thể làm thế giới thành 1 nơi tốt đẹp hơn. Bằng cách so sánh những lính biệt kích, những bác sĩ phẫu thuật, những giám đốc điều hành doanh nghiệp và những tên tội phạm nguy hiểm đặc biệt, Dutton trình bày 1 bản đồ nhân cách bệnh lý cung cấp thông tin cơ bản về sức mê hoặc, tính can đảm, tính tàn nhẫn và 1 sự tập trung nhanh như laze. Ở mức cực đoan, những tính cách đó sẽ đưa bạn vào tù nhưng nếu được áp dụng 1 cách khôn ngoan, thận trọng thì họ có thể trở thành những người hùng và những vị thánh.

Các thực nghiệm cho thấy người có số điểm tương đối cao trong thang đo nhân cách bệnh lý – và áp dụng những đặc điểm tính cách đó vào những bối cảnh phù hợp – thường hành động có lý trí hơn những người không có nhân cách bệnh lý, có xu hướng không đắm chìm vào những cảm xúc hoặc cảm thấy bị tổn thương. Trong khi nhiều giao dịch viên Wall Street sụp đổ bởi những mất mát của họ, thì những người có nhân cách bệnh lý gạt bỏ sự thất bại và bắt đầu lại lần nữa vào ngày tiếp theo. Theo nhà tâm lý học tội phạm Robert Hare, 1 người có nhân cách bệnh lý có khả năng trở thành người đứng đầu 1 công ty cao hơn gấp 4 lần so với người quét nhà. Và trong 1 bài báo gần đây, nhà tâm lý Scott Lilienfeld và các cộng sự ở đại học Emory liên hệ về tính thống trị dũng cảm của 1 người có nhân cách bệnh lý với hào quang của tổng thống. Teddy Roosevelt từng có 1 bài phát biểu với 1 viên đạn nằm trong ngực của ông; ông có 1 phong thái như sư tử, mà không có xu hướng chống đối xã hội và tính bốc đồng của những tên tội phạm.

Khi ở trong tình huống, bạn sẽ giết 1 người để cứu 5 người chứ? Những người có nhân cách bệnh lý “thiết thực” đã biết câu trả lời của họ, làm cho họ là người không thể thiếu được.





Cái ác nằm trong đôi mắt người nhìn
(part1)


Thủ phạm nghĩ gì?

Dù tội ác có thể tồn tại rõ ràng trong tâm trí của nạn nhân thì bạn không thể chỉ dựa vào 1 mình sự giải thích của nạn nhân để giải thích hoặc hiểu về tội ác. Thủ phạm của những tội ác thường là người bình thường với những động cơ, lý do và sự hợp lý hóa của riêng họ về những gì họ làm.

Những lý thuyết chỉ áp dụng với những kẻ giết người hàng loạt thường không hữu ích trong việc hiểu được con người nói chung, vì ít hơn 1% của 1% của dân số là những kẻ giết người hàng loạt. Vì những sự kiện hằng ngày tương đối dễ dàng để nghiên cứu, 1 người có thể nghiên cứu chúng rất kỹ lưỡng và đi đến những kết luận vững chắc. Ngược lại, những thủ phạm của những tội ác khác thường, hiếm có thì rất khó nghiên cứu: họ thường ở trong tù hoặc lẩn trốn ở đâu đó; thường không có đủ số lượng có sẵn để làm 1 mẫu thống kê; và những khó khăn về kỹ thuật, pháp luật cho các nhà nghiên cứu.

Để nghiên cứu cách những thủ phạm suy nghĩ, tôi và cộng sự đã thiết kế 1 nghiên cứu để xem mọi người sẽ nói như thế nào về 1 điều gì đó mà họ đã làm mà người khác nghĩ rằng ít nhất họ đã làm sai. Chúng tôi yêu cầu họ viết 1 bài giải thích về 1 tai nạn gần đây mà họ đã làm điều gì đó khiến 1 ai đó rất tức giận. Và chúng tôi cũng yêu cầu họ viết 1 bài giải thích về 1 sự kiện mà ai đó đã làm họ tức giận. Mỗi người viết 1 câu chuyện “thủ phạm” và 1 câu chuyện “ nạn nhân”. Và chúng tôi phát hiện thấy những sự khác biệt chủ chốt khi chúng ta chuyển từ quan điểm của nạn nhân sang quan điểm của thủ phạm:

- Đối với thủ phạm thì những hành vi dường như ít xấu xa, sai trái hơn so với nạn nhân. Các nạn nhân có xu hướng nhìn sự việc theo kiểu hoàn toàn đúng hoặc sai, trắng hoặc đen; còn các thủ phạm nhìn theo kiểu màu xám. Nhiều thủ phạm thú nhận họ đã làm 1 việc gì đó sai phần nào, nhưng họ cũng nghĩ rằng không thể đổ lỗi hoàn toàn cho họ và hành vi đó không xấu như nạn nhân khẳng định. Khẩu hiệu đầu tiên của thủ phạm là “Nó không quá xấu”, khẩu hiệu thứ 2 là “Tôi không thể kiểm soát được.” Từ quan điểm của thủ phạm, những nhân tố ngoại cảnh vượt quá sự kiểm soát của họ và đóng 1 phần rất lớn. Những nguyên nhân ngoại cảnh đó làm giảm trách nhiệm của họ. Ví dụ, những lính Quốc xã nói “Tôi chỉ tuân theo mệnh lệnh”. Những lý do tương tự vẫn tồn tại thời nay.

- Sự khác biệt quan trọng khác giữa nạn nhân và thủ phạm là khoảng thời gian của những câu chuyện của họ. Nạn nhân sử dụng 1 khoảng thời gian rất dài. Khi mô tả về điều gì đã xảy ra với họ cách đây rất lâu, họ thường cung cấp bối cảnh dẫn đến vụ tai nạn, mô tả những hậu quả và thậm chí liên quan đến câu chuyện hiện tại của họ. Nạn nhân có thể tiếp tục lải nhải, nghiền ngẫm về những tổn thương tâm lý và đau khổ của họ hàng thập kỷ. Những xã hội và những nền văn hóa có thể nuôi dưỡng mối đau thương hàng thế kỷ.Phương châm của nạn nhân là “Không bao giờ quên.”

- Ngược lại, phương châm của thủ phạm là “Để quá khứ là quá khứ.” 1 lý do quan trọng cho sự khác nhau về khoảng thời gian giữa nạn nhân và thủ phạm là những lợi lạc mà thủ phạm có được nhìn chung nhỏ hơn so với những mất mát của nạn nhân, và do đó thủ phạm ít có lý do gì để tái tạo lại những kí ức. Sự kiện tác động đến nạn nhân lớn hơn so với thủ phạm và do đó nó không tránh khỏi kéo dài trong trí nhớ.

- Xem người khác tấn công mình. 1 phát hiện quan trọng đó là xu hướng của thủ phạm xem hành vi của người khác như là tấn công họ. Những kẻ bắt nạt, những kẻ đánh vợ và những người bạo lực khác có xu hướng nghĩ rằng người khác đang tấn công hoặc xúc phạm họ ngay cả khi người khác không diễn giải theo cách như vậy. Những nghiên cứu về bạo lực gia đình: những người đàn ông đánh vợ có xu hướng giải thích những hành động vô hại hoặc mơ hồ của vợ như sự tấn công cá nhân có chủ ý. Kiểu suy nghĩ như vậy phổ biến ở những anh chồng bạo hành. Họ có xu hướng nghĩ rằng lòng tự trọng của họ bị tấn công bất cứ khi nào có bất kỳ sự bất đồng hoặc xung đột nào. Người chồng bạo hành có xu hướng diễn giải nhiều hành động của vợ như sự tấn công lòng tự trọng của chồng.

Như vậy, chúng ta có thể dự đoán người nào có khả năng trở nên nguy hiểm hoặc bạo lực. Những người quá nhạy cảm thường nghĩ rằng lòng tự trọng của họ bị tấn công và họ có thể trở nên nguy hiểm. Sự quá nhạy cảm này trước những sự xúc phạm cũng làm ta có thể hiểu về những bạo lực dường như vô nghĩa. 1 người đàn ông có thể đánh bạn gái hoặc 1 người lạ ở quán bar dường như là 1 kẻ hung ác trong mắt những người quan sát. Nhưng trong mắt anh ta, anh ta chỉ đang bảo vệ bản thân trước 1 sự tấn công. Nhiều người bạo lực tin rằng những hành động của họ là chính đáng.

Ai đúng?

Tội ác nằm trong đôi mắt người nhìn. Rõ ràng là nạn nhân nhìn sự việc rất khác và tồi tệ hơn so với thủ phạm. Nhưng sẽ không an toàn khi ta xem câu chuyện của nạn nhân là sự thật khách quan. Bạn không thể dựa vào hoặc là câu chuyện của nạn nhân hoặc câu chuyện của thủ phạm; thực tế có thể nằm ở đâu đó ở giữa.

Thủ phạm không nhìn sự việc 1 cách đơn giản, hoàn toàn trắng hoặc đen theo cách mà những nạn nhân thích. Đối với thủ phạm, những sự kiện là phức tạp và mơ hồ về mặt đạo đức. Họ có thể xem 1 số việc họ làm là sai nhưng họ cũng xem họ bị ảnh hưởng như thế nào bởi những yếu tố ngoại cảnh, bao gồm cả những yếu tố vượt tầm kiểm soát của họ. Trong những trường hợp khác, các thủ phạm xem bản thân là hành động theo 1 cách hoàn toàn đúng và chính đáng. Có lẽ quan trọng nhất là những thủ phạm thường có những lý do và động cơ có lý đối với họ. Nạn nhân có thể xem những hành vi vô cớ đó là tội ác, nhưng thủ phạm hiếm khi nhìn hành động của họ theo cách đó. Chúng ta không thể dựa vào nạn nhân để nói cho chúng ta biết lý do tại sao thủ phạm đã làm những gì họ làm.


4 nguồn gốc của cái ác


1.Tham lam, thèm khát và tham vọng: Cái ác như 1 phương tiện để đạt được 1 mục đích

1 số tội ác nảy sinh trực tiếp từ khao khát đạt được vật chất. Khao khát tiền, quyền lực và niềm vui bắt nguồn sâu sắc trong tâm hồn con người. Vô số phương tiện được dùng để theo đuổi những khao khát đó và 1 số trong số chúng là tội ác.

Tiền, niềm vui và quyền lực không phải vốn sẵn là xấu hoặc theo đuổi chúng là có tính hủy hoại. Cái ác được dùng như là phương tiện để theo đuổi những điều trên. Do đó kết tội những mục đích nhìn chung là ngu ngốc. Câu hỏi quan trọng là: Điều gì làm con người chọn phương tiện cái ác hơn những phương tiện khác- được chấp nhận hơn? Câu hỏi này dẫn đến trung tâm của tội phạm: tại sao 1 ai đó đi cướp của người khác thay vì kiếm được nó thông qua những phương tiện chính đáng hơn?

Câu trả lời là phương tiện cái ác thường có vẻ như dễ dàng hơn những phương tiện hợp pháp khác. Trong cuốn sách “A general theory of crime”- Michael Gottfredson và Travis Hirschi chi ra, hầu hết các tội phạm đòi hỏi ít kỹ năng, sự kiên nhẫn, bằng cấp hoặc lên kế hoạch. Để kiếm tiền thông qua phương pháp hợp pháp, 1 người thường phải có bằng cấp và những khả năng, tất cả những điều đó tốn nhiều năm đi học hoặc huấn luyện.

Quan điểm về tính hiệu quả: những phương tiện cái ác được sử dụng vì mọi người tin là chúng hiệu quả hơn những phương tiện khác. Nó dường như là con đường tắt để lấy được cái 1 người muốn. Nó hứa hẹn đạt được 1 mục tiêu được khao khát và trong thời gian ngắn. Điều đó mang lại 1 câu hỏi trung tâm khác: Liệu những phương tiện cái ác có hiệu quả?

Câu trả lời không đơn giản. Câu trả lời dường như phụ thuộc vào thời gian. Tội phạm có thể đem lại những lợi ích trong ngắn hạn, nhưng về lâu dài hầu hết tội phạm không giàu. 1 nghiên cứu gần đây kết luận rằng số tiền trung bình từ phạm tội của 1 đàn ông da đen trẻ ở Boston là từ 10-20$ mỗi giờ, trong khi tiền lương sau thuế hợp pháp chỉ khoảng 5.6$. Do đó, tội phạm (đặc biệt là bán ma túy) có vẻ được trả nhiều tiền hơn. Nhưng nếu kể cả nguy cơ bị ngồi tù được tính toán thì sự vượt trội về kinh tế của 1 công việc phạm tội có thể bị loại bỏ hoặc thậm chí ngược lại. Câu hỏi về tính hiệu quả của cái ác từng được xem xét bởi rất nhiều học giả, bằng cách xem xét những kết quả của những kiệu phạm tội cụ thể. Và họ dường như đều đi đến 1 kết luận giống nhau: cái ác không hiệu quả, đặc biệt khi nhìn từ quan điểm đem lại sự thỏa mãn lâu dài.

Những phần thưởng từ trộm cắp

Chúng ta bắt đầu với thu nhập tiền bạc từ ăn trộm. Nhiều tội phạm đã cố gắng nhưng không thành công. Ngay cả trong những vụ phạm tội thành công thì tiền lương từ việc phạm tội vẫn khá nhỏ. Theo báo cáo của các nạn nhân, thiệt hại trung bình từ trộm cắp là khoảng 80$. Thiệt hại trên 250$ tương đối hiếm. Nhiều vật bị trộm mất đi phần lớn giá trị của chúng khi bán lại. Chúng ta đã thấy 1 khuôn mẫu chung mà ở đó thiệt hại của nạn nhân lớn hơn lợi lạc của thủ phạm.

Ngay cả những tên trộm may mắn kiếm được nhiều tiền thì số tiền cũng nhanh chóng hết. Katz đã phỏng vấn nhiều tội phạm và họ thường tiêu tiền cho quần áo, phụ nữ, đánh bạc, thức ăn và những thú vui khác và tiền nhanh chóng hết. Họ không đầu tư vào vào bất động sản hoặc những quỹ đầu tư hoặc bất cứ thứ gì sẽ sinh lợi về lâu dài.

Tội phạm giết người

Thường có 2 kiểu giết người. (1) 2 người đã biết nhau đang tranh cãi, thường bắt đầu từ 1 số vấn đề dường như nhỏ nhặt, tầm thường. Tranh cãi leo thang thông qua những câu từ tục tĩu hoặc bạo lực nhỏ. Cuối cùng, 1 người rút súng hoặc dao và giết người kia. Kiểu bạo lực này có hiệu quả không? Thủ phạm có thể thắng cuộc tranh cãi, nhưng cái giá phải trả về lâu dài có xu hướng lớn hơn so với cái lợi của chiến thắng, đặc biệt nếu tranh cãi chỉ vì 1 vấn đề tầm thường. Người ta thường thấy hối hận sau khi đã giết hoặc làm tổn thương 1 ai đó.

(2) liên quan đến trộm cướp gặp kháng cự bất ngờ của nạn nhân thúc đẩy thủ phạm dùng bạo lực để đạt được điều ý muốn, dẫn đến cái chết của nạn nhân.



2.Con người có thể có được niềm vui từ việc gây tổn thương cho người khác?

Sadims: tính thích thú những trò tàn ác.

Thuật ngữ đó được dùng để mô tả việc có được niềm vui và sự thỏa mãn từ việc gây tổn thương cho người khác cũng như khao khát có được niềm vui đó. Điều không may là thuật ngữ sadism đôi lúc cũng được dùng để mô tả về 1 kiểu hành vi t.ình d.ục liên quan đến việc thống trị người khác.

Cảm thấy như thế nào khi gây tổn thương cho người khác?

Hầu hết mọi người đều có 1 số kinh nghiệm với việc gây tổn thương cho người khác. Nó thường không phải là 1 trải nghiệm thú vị, trái ngược với lý thuyết sadism. Hầu hết mọi người cảm thấy khó chịu 1 cách sâu sắc khi gây đau đớn hoặc gây ra cái chết cho người khác. Niềm vui của sự tàn ác thường thấy trong những bộ phim, ở đó những kẻ ác cười khi bắn giết, cưỡng hiếp hoặc tra tấn những nạn nhân bất lực, hầu hết biến mất khi bạn xem những câu chuyện và những kinh nghiệm của thủ phạm.Ví dụ về những người lính trong thế chiến 2 cảm thấy khó khăn khi bắn kẻ địch, những lo lắng, trầm cảm, những cơn ác mộng ám ảnh....

Tại sao họ cười?

Satan cười khi con người đau khổ. Những bộ phim giải trí đều mô tả về những kẻ hung ác cười thích thú trước nỗi đau của những nạn nhân của chúng. Chúng ta đã thấy những phản ứng khi gây tổn thương cho người khác thường bao gồm sự ghê tởm, trầm cảm và đồng cảm. Nó rất đối lập với sự vui thích.

Vấn đề ở đây là các nạn nhân đôi lúc thông báo rằng những kẻ tra tấn họ đang cười. 1 lý do chính cho việc nhấn mạnh tiếng cười đó là điều hoang đường của cái ác thuần túy (pure evil). Liệu tiếng cười chứng minh sự tồn tại của tính thích thú những trò tàn ác? Và nếu không, tại sao người ta cười trước nỗi đau khổ và cái chết của người khác?

Kết luận của riêng tôi đó là tiếng cười không phải là bằng chứng thuyết phục cho niềm vui trước những trò tàn ác, dù nó tiết lộ về cảm xúc của thủ phạm. Con người có thể cười vì nhiều lý do khác nhau. Quả thật, cười là 1 phòng vệ chống lại 1 cú sốc hoặc 1 nhiệm vụ ghê tởm. Ví dụ, 1 phần quan trọng của đào tạo y khoa là quen dần với việc nhìn thấy những cơ thể bị thương, và các sinh viên y nổi tiếng về những trò đùa và những câu chuyện cười về cơ thể của xác chết. Sự hài hước đó giúp vượt qua những phản ứng thông thường trước cú sốc và sự ghê tởm mà 1 bác sĩ không thể chịu đựng.

1 thực nghiệm của Bella dePaulo và Matthew Ainsville quay lại những phản ứng trên khuôn mặt của con người trước 1 loạt cảnh, và 1 trong những cảnh đó có 1 tấm ảnh 1 nạn nhân vụ tai nạn gớm guốc. Đàn ông thường đáp ứng lại cảnh tượng đó với 1 nụ cười (dù phụ nữ thì không). Đó không phải là 1 nụ cười của niềm vui mà nó cho thấy sự bối rối và 1 nỗ lực tạo khoảng cách giữa bản thân với cú sốc hoặc phản ứng khó chịu.

Tiếng cười có thể xuất hiện từ sự lo lắng hoặc sự không chắc chắn về việc phản ứng như thế nào. Trong những thực nghiệm của Milgram, 1 số người tham gia đã cười khi họ tuân theo yêu cầu để cho điện giật những người khác khi những người khác đập từơng và la hét yêu cầu họ dừng lại. Milgram nhất trí rằng tiếng cười này không phải là 1 dấu hiệu của niềm vui hoặc sự ngạc nhiên mà tiếng cười phản ánh 1 số nỗ lực để đương đầu với sự căng thẳng, khó chịu của 1 người trước 1 tình huống khó chịu mà ở đó họ gây tổn thương cho 1 ai đó. 1 phản ứng tương tự có thể là bằng chứng khi con người đôi khi cười để phá tan sự căng thẳng, trong thời điểm cảm thấy lo lắng hoặc không chắc chắn hoặc thậm chí trong suốt 1 bộ phim đáng sợ. Nhưng các nạn nhân thì không phân biệt được sự khác nhau giữa những tiếng cười, đặc biệt khi tiếng cười sẽ làm tăng cường sự giải thích của họ cho thấy những kẻ đang làm họ đau khổ là độc ác.

Con người muốn xem phim bạo lực. Sản xuất phim để kiếm tiền và do đó những nhà làm phim làm những phim mà con người muốn xem. Nếu con người không muốn xem cảnh bạo lực thì sẽ có rất ít phim như vậy, vì sẽ không có ai trả tiền để xem chúng. Nhưng con người muốn xem chúng. Rõ ràng là có rất rất nhiều người.

Gần như luôn luôn vẫn vậy, mọi người dừng lại để xem bất cứ khi nào có cơ hội nhìn thấy 1 người bị thương hoặc ai đó đang rất đau khổ. Nhiều vụ tắc đường có thể tránh được nếu mọi người không đi chậm lại để xem 1 vụ tai nạn. Tương tự, khi có cháy nhà, hàng xóm và người lạ tụ tập lại để...xem. Sự thu hút của bạo lực không chỉ giới hạn ở thời hiện đại. Thời Trung cổ, khán giả muốn nhìn thấy 1 ai đó (bất kỳ ai) bị ăn bởi những con sư tử. Như vậy, con người thích nhìn thấy ai đó đau khổ và chết. Nhưng điều này không chứng tỏ rằng mọi người có thể thích gây tai họa, đau khổ cho người khác. Nhưng cũng khó mà cãi lại thực tế là họ có thể có được niềm vui khi thấy người khác bị tổn thương.

*Con người có thực sự thích gây tổn thương?

Thích những trò tàn ác dường như giống với nghiện ngập. Rất ít người có nhiều sự vui thú ở ly bia đầu tiên, điếu thuốc lá đầu tiên, cốc cafe đầu tiên, trải nghiệm hút ma túy đầu tiên của họ. Hơn nữa, hầu hết những người uống bia không phải là người nghiện, và có bằng chứng cho thấy nhiều người hút thuốc lá không phải người nghiện thuốc. Do đó sự nghiện ngập chỉ làm khổ 1 số người dùng, và chỉ 1 số thủ phạm là những kẻ thích thú những trò tàn ác. Và sự nghiện ngập cũng giống như sadism thường là 1 quá trình phát triển dần dần và leo thang theo thời gian.

Có 1 số dấu hiệu cho thấy sự vui thích những trò tàn ác được trải nghiệm như 1 sự nghiện ngập, theo ý nghĩa 1 người đi đến chỗ khao khát niềm vui đó và muốn nó ngày càng mạnh mẽ hơn. 1 nhà nghiên cứu phát hiện thấy 1 số kẻ hiếp dâm mô tả về nó như sự hình thành thói quen, nói rằng “Hiếp dâm giống như hút thuốc. Bạn không thể dừng 1 khi bạn bắt đầu.”

Những quá trình nghiện ngập

1 trong những lý thuyết quan trọng nhất về nghiện, được gọi là lý thuyết quá trình đối lập (oponent process theory) của Richard L.Solomon và John D.Corbit (những năm 1970). Lý thuyết của họ bắt đầu với khuynh hướng tự nhiên của cơ thể là duy trì 1 trạng thái cân bằng ổn định, được gọi là nội cân bằng (homeostasis). Để duy trì trạng thái này, cơ thể phải có những quá trình để phục hồi nội cân bằng bất cứ khi nào nó bị làm xáo trộn. Ví dụ, chạy đua sẽ làm cơ thể phấn khích khi kết thúc cuộc chạy, nhịp tim của người đó sẽ đập nhanh hơn và thở mệt nhọc hơn. Khi kết thúc cuộc chạy, tim không thể tiếp tục đập nhanh mãi mãi, do đó phải có những quá trình bên trong để làm nó chậm lại. Do đó, cơ thể vận hành theo những quá trình đối lập cơ bản 1 quá trình di chuyển ra khỏi nội cân bằng (tăng tốc) và quá trình khác có ảnh hưởng ngược lại (làm chậm lại).

1 điểm rất quan trọng của lý thuyết quá trình đối lập là quá trình phục hồi thứ 2 có xu hướng trở nên mạnh mẽ hơn theo thời gian. Nó như thể cơ thể học được và trở nên hiệu quả hơn trước việc chống lại trạng thái khác thường. Chạy 1km sau khi không luyện tập 1 năm và bạn sẽ thở mệt nhọc lâu hơn, nhưng chạy 1km mỗi ngày trong 1 năm và sau đó bạn sẽ thở lại bình thường 1 cách nhanh chóng sau đó. Khi quá trình phục hồi thứ 2 mạnh mẽ hơn thì quá trình đầu tiên trở nên yếu hơn. Cùng với nhau, 2 xu hướng đó kéo chúng ta ra khỏi sự cân bằng.

Bây giờ hãy xem xét việc uống rượu. Rượu tạo ra những cảm xúc và niềm vui khác nhau, như thư giãn và sự khoan khoái. Nó đưa cơ thể ra khỏi trạng thái bình thường. Sau đó cơ thể có những cơ chế của nó để làm tỉnh rượu. Khi trạng thái say rượu là rất thoải mái và dễ chịu thì trạng thái tỉnh rượu là khó chịu và không thoải mái. Khi người đó tiếp tục uống rượu nhiều lần, người đó phát triển 1 sự chịu đựng đối với rượu, vì vậy liều lượng rượu giống nhau tạo ra ít cú hích hơn. Trong lúc ấy, tình trạng tỉnh rượu trở nên lâu hơn và trầm trọng hơn. Và người nghiện ngĩ rằng dùng thêm liều là cách duy nhất để cảm thấy tốt trở lại nhanh chóng, thay vì chờ đợi cho cơ thể trở lại trạng thái ban đầu.

Với rượu và ma túy, khoái cảm nằm ở giai đoạn đầu (giai đoạn A) và quá trình phục hồi (giai đoạn B) là không thoải mái. Đang uống rượu cảm thấy tốt; tỉnh rượu cảm thấy tệ. Nhưng không có lý do gì để giả định rằng giai đoạn đầu luôn luôn là thú vị. 1 số quá trình đối lập cho thấy khuôn mẫu ngược lại: Giai đoạn A có thể khó chịu và giai đoạn B là thoải mái. Ví dụ, những người nhảy dù và leo núi. Nỗi sợ bị ngã vốn là bản chất của con người, và hầu hết mọi người đều phản ứng lại với nỗi hoảng sợ. Do đó, giai đoạn A là sự cực kỳ khó chịu: hoảng sợ. Nhưng tất nhiên cơ thể sẽ không duy trì 1 trạng thái hoảng sợ mãi mãi. Để phục hồi nội cân bằng, cơ thể có 1 số quá trình để làm bản thân thấy tốt hơn, ví dụ như phóng thích 1 số hóa chất sẽ làm dịu nỗi sợ và bù đắp bằng sự vui thích. Chắc chắn là con người sẽ thấy nỗi sợ bị ngã ngay lập tức bị thay thế bằng sự thư giãn và khoan khoái. Bề ngoài, nó dường như là ngu ngốc khi tìm kiếm niềm vui bằng cách nhảy dù, vì đó có vẻ là 1 cách chắc chắn để tạo ra những cảm xúc tồi tệ; nhưng cảm xúc thoải mái mãnh liệt theo sau đó có thể là đáng khao khát. Hơn nữa, khuynh hướng đối với quá trình B sẽ trở nên mạnh hơn và quá trình A trở nên yếu hơn, có nghĩa là lặp đi lặp lại theo thời gian, con người sẽ có được sự thỏa mãn nhiều hơn và nhiều hơn. Lần nhảy dù đầu tiên có thể rất đáng sợ đến nỗi sự thỏa mãn sau đó dường như không đáng. Tuy nhiên, sau hàng tá trải nghiệm như vậy, nỗi sợ biến mất và sự thỏa mãn càng mạnh mẽ hơn. Bất kỳ ai khi đạt đến điểm đó có thể thấy trải nghiệm đó là hấp dẫn và anh í có thể bắt đầu khao khát lặp lại nó thường xuyên hơn. Ví dụ anh í có thể muốn nhảy từ độ cao hơn.

Chúng ta hãy áp dụng lý thuyết quá trình đối lập với sự yêu thích những trò tàn ác. Chúng ta thấy phản ứng ban đầu khi gây tổn thương cho người khác thường là rất khó chịu. Con người bị sốc, ghê tởm, tức giận, mất tinh thần, mất can đảm. Nhưng họ không ở trong trạng thái đó mãi mãi; cơ thể tìm thấy 1 cách để quay trở lại bình thường. Vì phản ứng lúc đầu là khó chịu nên phản ứng đối lập phải là thoải mái và tích cực. Do đó, lần đầu họ gây tổn thương hoặc giết ai đó, họ sẽ cảm thấy tồi tệ nhưng cơ thể sẽ tạo ra những cảm xúc tốt 1 cách tinh vi để phục hồi và quay lại trạng thái bình thường.

Nếu người đó gây tổn thương người khác những lần tiếp theo thì sự cân bằng giữa tốt và xấu sẽ thay đổi theo lý thuyết quá trình đối lập. Cú sốc và sự ghê tởm sẽ trở nên yếu hơn và niềm vui sẽ mạnh hơn và rõ ràng hơn. Theo cách này, sự thích thú với những trò tàn ác có thể bắt đầu mang lại niềm vui. Niềm vui 1 người có được từ việc gây tổn thương người khác hoặc giết họ, tất cả đều ở quá trình B, không phải quá trình A. Những người thích thú trước những trò tàn ác theo thời gian sẽ trở nên độc ác hơn, để tìm kiếm nhiều niềm vui hơn.


posted_0.gif




 
PA, ngươi dựa vào cái này để trở thành thám tử sao?
 
@Kid Lý thuyết và thực hành =)). Nói ít hiểu nhiều
 

Làm thế nào để suy nghĩ như 1 tội phạm



Kẻ bị kết tội giết người hàng loạt Michael McGray gần đây đã gây ra cái chết của 1 bạn tù, không chịu trách nhiệm cho tội ác mới nhất của anh ta. Trong thực tế, anh ta xem mình như là nạn nhân.
Người đàn ông 61 tuổi John Thompson nói rằng ông ta cũng là 1 nạn nhân của 1 đứa trẻ 7 tuổi bị. Ông Thompson, bị kết tội tấn công t.ình d.ục trẻ vị thành niên, hiện đang đe dọa kiện cô gái trẻ bởi vì cô ấy "tán tỉnh ông".

Họ đang nghĩ gì?

Chúng ta từ lâu đã nhận ra những lối suy nghĩ sai lầm đi kèm với những rối loạn tâm thần - Hãy xem xét kiểu suy nghĩ bi thảm (catastrophic thinking) (Tôi biết cô ấy ăn trưa trễ vì cô ấy đã chết trong 1 vụ tai nạn) có thể đi cùng với nỗi lo lắng hoặc những niềm tin vô lý (Tôi sẽ không bao giờ cảm thấy tốt hơn; cuộc đời tôi đã hết) thường cùng tồn tại với sự trầm cảm. Hiện nay chúng ta biết rằng cũng có những suy nghĩ và niềm tin đóng 1 vai trò trong việc khởi xướng và duy trì hành vi phạm tội.

Trong thực tế, nghiên cứu tâm lý cho thấy những kiểu nhận thức nhất định có liên quan với những tỷ lệ cao hơn về bạo lực, bốc đồng, tâm bệnh. Đó là những lối suy nghĩ khiến những người bảo vệ pháp luật nổi điên, vì chúng chỉ ra 1 mô hình suy nghĩ loạn chức năng (dysfunctional thinking) chỉ có thể dẫn đến hành vi phá hoại. 1 số kiểu suy nghĩ phổ biến trong số đó bao gồm ý thức về quyền được phép làm (những luật lệ không áp dụng đối với tôi), không chấp nhận trách nhiệm, thiếu sự lo xa (thất bại trong việc học hỏi từ quá khứ hoặc lên kế hoạch cho tương lai), không nhạy cảm trước ảnh hưởng tiềm tàng của hành vi của 1 người, và 1 thái độ tiêu cực trước nhà cầm quyền.

Sau đây là 1 số lối suy nghĩ tôi từng nghe:

"Tôi xứng đáng với tất cả những điều tốt đẹp trong cuộc sống."
"Cuộc sống quá ngắn ngủi và không thể dự đoán được để lãng phí thời gian lên kế hoạch cho tương lai."
"Đó là sự lãng phí thời gian để cảm thấy tồi tệ về những vấn đề của người khác."
"Nếu bạn bộc lộ những điểm yếu, người khác sẽ lợi dụng bạn."
"Vì cô ấy quá cả tin nên cô ấy xứng đáng với bất kỳ sự đối xử nào cô nhận được."
Và, lối suy nghĩ phổ biến nhất "Cô ấy yêu cầu điều đó."

Suy nghĩ đi trước hành động, vì vậy có lẽ ta không ngạc nhiên khi những tội phạm có xu hướng chia sẻ những kiểu suy nghĩ chung. Hy vọng rằng, khi chúng ta biết nhiều hơn, chúng ta có thể nhắm đến những niềm tin loạn chức năng đó trong điều trị, giảm tỷ lệ tái phạm và cho phép người đó hướng đến 1 cuộc sống không phạm tội.



Nguồn: PsychologyToday
 
Lí do mình ghét làm thám tử cũng là vì mấy cái lí thuyết này=)) Hại não, nặng óc, thật sự thì đâu có thằng tội phạm nào suy nghĩ giống nhau đâu=))
 
@Kid Vạn biến thần thông, chả ai là hoàn hảo cả :3
 
Thì đừng có cố bù đắp vào, sống thật với chính mình đi :v
 
Vì nếu bổ sung quá nhiều điều sẽ làm mình trở nên khác đi mà thôi
 
Làm thế nào để suy nghĩ như Sherlock Holmes

Tham khảo sách "Mastermind: How to think like Sherlock Holmes" - Maria Konnikova.


--


Bằng cách đi theo lối suy nghĩ của Holmes ở những trang dưới đây, chúng ta sẽ học cách làm thế nào để áp dụng phương pháp luận của anh í vào cuộc sống hằng ngày của chúng ta, trở nên chú ý hơn và xử lý trước mỗi sự lựa chọn, mỗi vấn đề, mỗi tình huống với sự cẩn thận, quan tâm mà nó xứng đáng. Lúc đầu nó sẽ có vẻ không được tự nhiên. Nhưng với thời gian và sự tập luyện, nó sẽ trở thành bản năng thứ 2 của chúng ta như đối với Holmes.

Những cạm bẫy của bộ não chưa được huấn luyện

1 trong những điều tạo nên đặc trưng của lối suy nghĩ của Holmes - và lý tưởng về mặt khoa học - là sự hoài nghi và tò mò trước thế giới. Mọi việc đều được xem xét cẩn thận rồi sau đó mới được chấp nhận. Điều không may là, tâm trí chúng ta ở trạng thái tự nhiên (default state) của nó, chống lại lối tiếp cận như vậy. Để suy nghĩ giống Sherlock Holmes, chúng ta đầu tiên cần vượt qua sự kháng cự tự nhiên ảnh hưởng đến cách chúng ta nhìn thế giới.

Hầu hết các nhà tâm lý bây giờ đều đồng ý rằng tâm trí chúng ta hoạt động theo 2 hệ thống cơ bản. 1 hệ thống thì nhanh, theo trực giác, phản xạ-1 kiểu chiến đấu-hoặc-bỏ chạy. Nó không đòi hỏi nhiều suy nghĩ ý thức hoặc nỗ lực. Hệ thống kia thì chậm hơn, suy nghĩ cân nhắc, thận trọng hơn, logic hơn, nhưng nó cũng tốn nhiều năng lượng thần kinh/nhận thức hơn.

Vì phí tổn tinh thần của hệ thống này nên chúng ta dành hầu hết thời gian suy nghĩ của chúng ta trong hệ thống phản xạ. Tôi gọi hệ thống này là hệ thống Watson. Hệ thống kia là hệ thống Holmes.

Hãy nghĩ hệ thống Watson như là cái tôi ngây thơ của chúng ta, hoạt động bởi những thói quen suy nghĩ lười biếng. Nghĩ về hệ thống Holmes như cái tôi khao khát của chúng ta, cái tôi mà chúng ta sẽ học cách làm thế nào để áp dụng phương pháp suy nghĩ của Holmes vào cuộc sống hằng ngày của chúng ta và loại bỏ những thói quen suy nghĩ của hệ thống Watson.

Khi chúng ta suy nghĩ về 1 vấn đề, tâm trí chúng ta được tiền định trước để chấp nhận bất cứ điều gì. Đầu tiên, chúng ta tin, và sau đó chúng ta nghi ngờ, kiểm tra. Nói cách khác, nó giống như bộ não chúng ta đầu tiên nhìn thế giới như 1 bài kiểm tra đúng/ sai khi câu trả lời còn thiếu luôn luôn là đúng. Và khi bạn không tốn bất kỳ nỗ lực nào để duy trì cách thức đúng, thì chuyển sang câu trả lời "sai" đòi hỏi thời gian, năng lượng và sự thận trọng.

Nhà tâm lý Daniel Gilbert mô tả nó theo cách này: Bộ não chúng ta phải tin vào 1 điều gì đó để xử lý nó, dù chỉ trong 1 giây. Hãy tưởng tượng tôi yêu cầu bạn nghĩ về những con voi hồng. Bạn rõ ràng biết rằng voi hồng không thực sự tồn tại. Nhưng khi bạn đọc câu trên, bạn phải dành 1 lúc để tưởng tượng 1 con voi hồng trong đầu bạn. Để nhận ra voi hồng không tồn tại, bạn phải tin trong 1 giây rằng nó đã tồn tại.

Nếu chúng ta bận rộn, stress, bị sao lãng hoặc tinh thần suy yếu, chúng ta có thể tin 1 điều gì đó là đúng mà không dành thời gian để xác minh nó - khi đối mặt với rất nhiều đề nghị, năng lực tinh thần của chúng ta là có hạn để có thể xử lý tất cả mọi thứ cùng 1 lúc. Và quá trình kiểm tra là 1 trong những điều đầu tiên phải ra đi. Khi điều đó xảy ra, chúng ta còn lại với những niềm tin không đúng, những điều mà sau này chúng ta sẽ nhớ lại như là điều đúng khi trong thực tế, chúng là sai.

Trong thực tế, chúng ta không chỉ tin mọi điều mà chúng ta nghe, ít nhất là lúc đầu, mà ngay cả khi chúng ta được nói rõ ràng rằng 1 câu là sai trước khi chúng ta nghe nó, chúng ta có khả năng xem nó là đúng.

Chúng ta giả định rằng những điều 1 người nói là những điều người đó thực sự tin. Và chúng ta lưu giữ giả định đó ngay cả nếu chúng ta được nói rằng nó không như vậy.

Mẹo của Holmes là xem mọi ý nghĩ, mọi kinh nghiệm và mọi nhận thức theo cách anh xem 1 con voi hồng. Nói cách khác, hãy bắt đầu với 1 chút hoài nghi lành mạnh thay vì cả tin vốn là trạng thái tự nhiên của tâm trí bạn. Nghĩ về mọi thứ như là vô lý như 1 con voi hồng không có khả năng tồn tại trong tự nhiên.

Bạn sẽ hỏi bản thân câu hỏi đơn giản, Holmes sẽ nghĩ và làm gì trong tình huống này. Đó là những ý nghĩ bạn chưa bao giờ nhận ra trước đây là đã tồn tại bị dừng lại và xem xét, kiểm tra trước khi cho phép chúng xâm nhập vào tâm trí bạn.

Với sự luyện tập, tâm trí bạn sẽ thấy sự quan sát liên tục và không bao giờ dừng xem xét sẽ trở nên dễ dàng hơn. Nó sẽ trở thành bản năng thứ 2.

Để chuyển từ hệ thống Watson sang Holmes đòi hỏi sự chú ý (mindfulness) và động cơ (motivation) (và luyện tập rất nhiều). Chú ý nghĩa là chú tâm và chủ động quan sát thế giới. Động cơ có nghĩa là chủ động dấn thân và khao khát.

Khi chúng ta làm những việc tầm thường như để chìa khoá không đúng chỗ hoặc làm mất kính, chúng ta đổ lỗi cho hệ thống Watson: chúng ta làm tự động và không chú ý những hành động của chúng ta khi chúng ta làm. Đó là lý do tại sao chúng ta thường quên những gì chúng ta đã làm nếu chúng ta bị làm gián đoạn, giải thích tại sao chúng ta đứng giữa bếp và tự hỏi tại sao chúng ta bước vào đây. Hệ thống Holmes phá vỡ tính tự động và nhớ lại ở đâu và lý do tại sao chúng ta đã làm những gì chúng ta đã làm. Chúng ta không bị thúc đẩy hoặc chú ý liên tục. Đôi lúc chúng ta làm việc gì đó mà không lưu tâm để giữ gìn những nguồn lực của chúng ta cho việc khác quan trọng hơn là chỗ để chìa khoá.

Nhưng để phá vỡ kiểu tự động, chúng ta phải được thúc đẩy suy nghĩ theo cách có chú tâm. Để suy nghĩ giống Holmes, chúng ta phải muốn suy nghĩ giống anh í.

Động cơ dự đoán về kết quả học tập cao hơn, kết quả làm việc tốt hơn. Ví dụ, nếu chúng ta bị thúc đẩy học 1 ngôn ngữ, chúng ta có nhiều khả năng thành công. Khi chúng ta học bất kỳ điều gì mới, chúng ta học tốt hơn nếu chúng ta là những người học có động cơ cao. Ngay cả trí nhớ cũng biết chúng ta có động cơ hay không: chúng ta ghi nhớ tốt hơn nếu chúng ta có động cơ vào thời điểm ta muốn nhớ. Nó được gọi là mã hoá có động cơ.

Và cuối cùng là luyện tập, luyện tập, luyện tập. Những chuyên gia trong tất cả lĩnh vực, từ chơi cờ cho đến trinh thám có trí nhớ ưu việt trong lĩnh vực của họ. Kiến thức về tội phạm của Holmes cực kỳ rộng lớn. Nhà tâm lý Anders Ericsson lập luận: những chuyên gia nhìn thế giới 1 cách khác biệt trong lĩnh vực chuyên gia của họ. Họ có thể thấy rõ ngay lập tức những khuôn mẫu mà 1 đôi mắt không được huấn luyện không thấy; họ thấy những chi tiết như 1 phần của cái toàn thể và biết ngay điều gì là quan trọng và điều gì là phụ, không cốt yếu.

Bạn có thể chắc chắn là trong thế giới tiểu thuyết, Holmes được sinh ra với hệ thống Watson. Nhưng anh không để bản thân sống theo cách đó. Anh tập cho hệ thống Watson hoạt động theo những quy tắc của hệ thống Holmes. Anh đã tập cho hệ thống Watson từ lố nhanh chóng đánh giá theo lối tiếp cận biết suy nghĩ. Và nó chỉ tốn vài giây đối với Holmes để đưa ra những quan sát ban đầu về tính cách của Watson. Đó là lý do tại sao Holmes gọi nó là trực giác. Trực giác chính xác, trực giác mà Holmes sở hữu bắt buộc phải dựa trên luyện tập hàng trăm, hàng ngàn giờ. Holmes không được sinh ra để trở thành thám tử. Anh í đã luyện tập tâm trí tiếp cận với thế giới, theo thời gian đã hoàn hảo nghệ thuật của anh đến mức độ mà chúng ta thấy.

"Lúc ấy cả 1 loạt những suy nghĩ, xét đoán đã lướt nhanh qua óc tôi khiến tôi đi thẳng đến kết luận ấy. Tuy vậy, có tồn tại những chặng đường. Cách lập luận phối hợp của tôi như sau: vị này thuộc giới bác sĩ, nhưng lại có dáng dấp 1 quân nhân, vậy thì chắc chắn là 1 bác sĩ quân y. Anh ta vừa mới ở vùng nhiệt đới về vì nước da rất sẫm nhưng không phải là da tự nhiên bởi da ở 2 cổ tay rất trắng. Anh ta đã phải trải qua nhiều ngày kham khổ, đau ốm, điều đó có thể thấy rõ trên nét mặt. Anh ta đã bị thương ở cánh tay vì cánh tay này cử động hơi gượng gạo. 1 bác sĩ quân y người Anh, sống ở vùng nhiệt đới nào mà lại bị thương ở cánh tay và phải sống kham khổ thiếu thốn? Tất nhiên là ở Afghanistan. Tất cả chuỗi suy nghĩ này diễn ra trong không đầu 1 giây đồng hồ."

* Tâm trí chúng ta không yêu điều gì hơn là nhanh chóng nhảy ngay đến những kết luận.

Watson nhanh chóng rơi vào cái bẫy của hiệu ứng hào quang (nếu 1 yếu tố- ở đây là ngoại hình - là tích cực, bạn có khả năng xem những yếu tố khác cũng là tích cực, và mọi thứ nếu không phù hợp sẽ dễ dàng, và trong tiềm thức được hợp lý hoá). Watson dễ rơi vào thành kiến phù hợp cổ điển: mọi thứ tiêu cực về Mary sẽ được xem là do những yếu tố ngoại cảnh - stress, xui xẻo, bất cứ điều gì.

Hãy tưởng tượng bạn cần 1 người vào nhóm. Để tôi kể cho bạn 1 chút về Amy. Đầu tiên cô í thông minh và chăm chỉ.

Dừng lại ở đây. Có thể bạn đã nghĩ, OK, cô í sẽ là 1 người tuyệt vời để làm việc cùng, thông minh và chăm chỉ là 2 điều tôi thích ở 1 đối tác. Nhưng điều gì xảy ra nếu tôi tiếp tục với "đố kỵ và ngoan cố." Không còn tốt nữa, đúng không? Nhưng thành kiến ban đầu của bạn sẽ đặc biệt mạnh. Bạn có thể giảm bớt những đặc điểm sau và xem 2 đặc điểm đầu quan trọng hơn - tất cả là do trực giác ban đầu của bạn. Đảo ngược cả 2, điều ngược lại xảy ra, bao nhiêu thông minh và chăm chỉ cũng không thể cứu 1 người mà ban đầu bạn xem là đố kỵ và ngoan cố. Đó là ấn tượng ban đầu sẽ kéo dài, Watson bị sự quyến rũ của Mary (tóc, mắt, váy) tiếp tục làm sai lệch sự đánh giá của anh về cô và nhận thức của anh về những gì cô í làm và không có khả năng làm. Chúng ta thích sự nhất quán và chúng ta không thích sai. Và do đó, như ấn tượng ban đầu của chúng ta có xu hướng có ảnh hưởng lớn, bất kể những bằng chứng có thể theo sau. Sau khi Mary về, Watson nói "Thật là 1 phụ nữ quyến rũ." Holmes chỉ đáp lại đơn giản "Vậy sao, tôi không để ý." và sau đó tuân theo sự nhắc nhở của anh phải cẩn thận không để những phẩm chất cá nhân ảnh hưởng đến sự đánh giá của bạn. Liệu theo nghĩa đen, có phải Holmes không chú ý? Holmes đã quan sát tất cả những chi tiết ngoại hình như Watson, nhưng Holmes không đưa ra đánh giá như Watson: cô í là 1 phụ nữ rất quyến rũ. Trong câu đó, Watson đã đi từ quan sát khách quan đến ý kiến chủ quan. Đó chính xác là những gì Holmes cảnh báo. Anh biết nếu anh để cho những đặc điểm ngoại hình phụ, thứ yếu ảnh hưởng, anh sẽ gặp nguy cơ đánh mất tính khách quan trong sự quan sát của anh. Anh biết nếu anh nhanh chóng đi đến 1 sự đánh giá, anh sẽ bỏ qua nhiều bằng chứng chống lại nó và chú ý nhiều hơn đến những yếu tố ủng hộ nó. Holmes không phải 1 người máy như Watson gọi anh khi Holmes không chia sẻ với Watson sự say mê với Mary. Holmes sẽ có 1 ngày gọi 1 phụ nữ là đáng chú ý - Irene Adler. Nhưng chỉ sau khi cô thắng anh trong 1 trận chiến trí tuệ, cho thấy cô là 1 đối thủ ghê gớm, nam hoặc nữ, hơn những người anh đã gặp.

* Sức mạnh của những điều không cốt yếu/ ngẫu nhiên.

Trong trường hợp của Mary Morstan hoặc Joe và Jane Stranger, những yếu tố ngoại hình đã kích hoạt những thành kiến của chúng ta. Nhưng đôi lúc, những thành kiến của chúng ta bị kích hoạt bởi những yếu tố hoàn toàn không liên quan gì đến những gì chúng ta đang làm. Chúng có thể hoàn toàn nằm bên ngoài nhận thức của chúng ta, và chúng có thể dễ dàng ảnh hưởng sâu sắc đến sự đánh giá của chúng ta.

Trong truyện "Adventure of the Coer Beeches", Watson và Holmes đi tàu ra nước ngoài. Khi họ đến Aldershot, Watson ngắm qua cửa sổ những ngôi nhà. "Chúng không đẹp và mát mẻ sao" Watson nói. Nhưng Holmes "Tôi phải nhìn mọi thứ có liên quan đến lĩnh vực đặc biệt của tôi. Anh nhìn những ngôi nhà và bị ấn tượng bởi vẻ đẹp của chúng. Tôi nhìn chúng và ý nghĩ duy nhất đến với tôi là 1 cảm giác về sự cô lập của chúng và nơi tội phạm lần trốn ở đó."

Holmes và Watson quả thực cùng nhìn những ngôi nhà, nhưng những gì họ nhìn là khác nhau. Ngôi nhà an toàn như thế nào là vấn đề quan trọng rất nhiều. Bạn có muốn 1 mình gõ cửa 1 ngôi nhà nếu có khả năng những người sống sau cánh cửa đó là tội phạm.

* Sức mạnh của sự chú ý, quan sát (observation)

Lần đầu gặp nhau, Watson tự hỏi làm sao Holmes biết "Anh đã từng ở Afghanistan", Watson đơn giản nghĩ rằng không thể nào 1 người có thể nói 1 điều chỉ từ việc...nhìn.

Sự quan sát của Holmes là quá trình thụ động, để cho những đối tượng nào vào tầm thị giác của bạn. Bạn biết quan sát cái gì và quan sát như thế nào và theo đó hướng sự chú ý của bạn: bạn tập trung vào những chi tiết nào? Bạn bỏ qua những chi tiết nào. Mọi thứ chúng ta chọn để chú ý có tiềm năng trở thành 1 sự cung cấp, trang bị trong tương lai. Do đó, chúng ta phải lựa chọn 1 cách thông minh. Lựa chọn thông minh nghĩa là có sự chọn lọc. Nó không chỉ là nhìn mà còn nhìn đúng, nhìn có suy nghĩ. Nó có nghĩa là nhìn với sự hiểu biết rằng những gì bạn đang chú ý và bạn chú ý nó như thế nào, sẽ hình thành nền tảng, cơ sở cho bất kỳ suy luận nào trong tương lai bạn có thể đưa ra. Nó có nghĩa là nhìn toàn bộ bức tranh, chú ý đến những chi tiết quan trọng và hiểu làm thế nào để đặt những chi tiết đó trong 1 bố cảnh rộng hơn.

Nhiệt đới, ốm, bị thương : kết hợp chúng với nhau, như những phần của 1 bức tranh lớn hơn. Afghanistan. Mỗi sự quan sát được đặt trong bối cảnh không chỉ là 1 phần đứng 1 mình mà nó là 1 điều gì đó góp phần vào 1 cái toàn thể. Holmes không chỉ quan sát. Anh hỏi những câu hỏi phù hợp về những quan sát đó, những câu hỏi sẽ cho phép anh đặt tất cả với nhau, suy ra được đại dương từ những giọt nước.

Làm thế nào chúng ta học cách tự mình đưa ra kết luận như vậy? Tất cả đến từ 1 từ duy nhất: chú ý.

Khi Holmes và Watson lần đầu gặp nhau, Holmes ngay lập tức đã suy luận chính xác lịch sử của Watson. Nhưng còn những ấn tượng của Watson về Holmes thì sao. Khi Watson đến phòng thí nghiệm, ở đó có Holmes. Ấn tượng đầu tiên của Watson là ngạc nhiên trước sức mạnh của Holmes. Ngạc nhiên thứ 2 là sở thích của Holmes với thí nghiệm hoá học. 2 Ấn tượng đó là những ấn tuợng hơn là những sự quan sát. Tại sao Holmes không nên mạnh mẽ? Tại sao Holmes không nên hứng thú với hoá học?

Tại sao thiếu ý thức, những đánh giá rất chủ quan và nông cạn? Watson đã trả lời cho chúng ta khi anh liệt kê những khuyết điểm của mình với Holmes sau tất cả "tôi cực kỳ lười." Watson không đơn độc. Khuyết điểm đó hành hạ tất cả chúng ta, ít nhất là khi nói về sự chú ý. Tại sao quá khó để chú ý. Đó không nhất thiết là lỗi của chúng ta. Nhà thần kinh học Marcus Raichle sau vài thập kỷ nghiên cứu bộ não, cho rằng tâm trí chúng ta thích đi lang thang. Đó là trạng thái nghỉ ngơi. Mỗi thông tin mới đi vào, mỗi 1 yêu cầu mới chúng ta đặt ra đối với sự chú ý của mình giống như 1 con thú săn mồi. Bộ não nói "có lẽ tôi nên chú ý đến điều đó." Kết quả? Chúng ta chú ý đến mọi thứ và không có thứ gì là quan trọng, tất nhiên.

Hãy để ý cách Watson chú ý Holmes lần đầu tiên gặp Holmes. Không phải Watson không nhìn thấy bất kỳ thứ gì. Mà Watson chú ý đến "vô số thứ". Những cái bàn rộng thấp, những cái đèn...Tất cả những chi tiết đó, nhưng không có chi tiết nào tạo ra 1 sự khác biệt cho nhiệm vụ trước mắt - lựa chọn bạn cùng phòng tương lai.

Sự chú ý là 1 nguồn lực có hạn. Chú ý đến 1 điều này bắt buộc phải bỏ qua điều khác. Chúng ta không thể phân bổ sự chú ý của mình đối với nhiều việc cùng 1 lúc và kỳ vọng nó vận hành cùng mức độ so với khi chúng ta chỉ tập trung vào 1 nhiệm vụ. Chúng ta không thể nhận thức được điều gì nếu chúng ta không chú ý đến nó.

Nếu bạn đầu tiên học cách làm thế nào lựa chọn đúng, để hoàn thành chính xác những gì bạn muốn hoàn thành, bạn sẽ có thể hạn chế những nguy hại của hệ thống Watson. Điều quan trọng là huấn luyện sự chọn lựa đúng cùng với khao khát và động cơ chinh phục quá trình suy nghĩ của bạn.

Cải thiện khả năng chú ý của chúng ta

Chúng ta không chú ý mọi thứ vì chú ý mọi thứ, từng âm thành, mùi, hình ảnh, từng cái đụng chạm sẽ làm chúng ta phát điên (trong thực tế, thiếu khả năng sàng lọc là dấu hiệu của nhiều bệnh tâm thần)

Điều chúng ta cần học là làm thế nào để nói với bộ não của chúng ta những gì cần sàng lọc và sàng lọc như thế nào, thay vì để cho bộ não lười biếng và quyết định thay chúng ta. Holmes cho thấy 4 yếu tố cho phép chúng ta làm điều đó.

1. Chọn lựa
Chúng ta có xu hướng hướng đến cảm xúc của sự ngẫu nhiên: chúng ta quên tất cả những lần chúng ta sai và không có điều gì xảy ra và chỉ nhớ những lúc trùng hợp - vì đó là những điều chúng ta chú ý trước tiên. Bà bầu chú ý những bà bầu khác ở mọi nơi, con người chú ý những giấc mơ dường như sau đó trở thành sự thực (và quên tất cả những giấc mơ khác); nhìn con số 11 ở mọi nơi sau sự kiện 11/9. Không có điều gì trong môi trường thực sự thay đổi, không đột nhiên có nhiều bà bầu hơn.

Hãy lựa chọn về sự chú ý của bạn. Thoạt đầu điều này dường như phản trực giác: không phải chúng ta đang cố gắng chú ý nhiều hơn, chứ không phải ít hơn sao? Nhưng có sự khác biệt quan trọng giữa chất lượng và số lượng. Chúng ta muốn học cách chú ý tốt hơn, trở thành những người chú ý, quan sát giỏi, nhưng chúng ta không thể đạt được điều này nếu chúng ta chú ý đến mọi thứ 1 cách không thận trọng, không suy nghĩ. Dù tình huống là gì, trả lời câu hỏi, 1 cách cụ thể, bạn muốn hoàn thành điều gì sẽ đặt bạn vào cách biết làm thế nào để tối đa hoá nguồn lực chú ý có giới hạn của bạn. Nó sẽ hướng tâm trí bạn đến những mục tiêu và những suy nghĩ thực sự quan trọng.

Holmes định nghĩa những đối tượng của anh và những yếu tố bắt buộc để đạt chúng. Anh biết đâu là mục tiêu chú ý. Holmes không phí thời gian vào bất kỳ điều gì khác. Anh phân phối sự chú ý của anh 1 cách chiến lược.

Vì vậy, chúng ta phải xác định đối tượng của mình để biết những gì chúng ta đang tìm kiếm và tìm nó ở đâu.

Hệ thống Watson có thể tốn nhiều năm để trở nên giống hệ thống Holmes. Bạn có thể đặt ra những mục tiêu để giúp bạn sàng lọc thế giới, nhưng cẩn thận đừng để việc bạn sử dụng những mục tiêu đó như những kẻ che mắt. Mục tiêu của bạn, những ưu tiên của bạn, câu trả lời của bạn cho câu hỏi "tôi muốn hoàn thành điều gì" phải đủ linh hoạt để thích nghi với những hoàn cảnh thay đổi.

3/ Dấn thân
Tâm trí bạn cần năng động, dấn thân vào những gì nó đang làm. Vấn đề động cơ rất quan trọng. Động cơ dừng thì hiệu suất giảm.
Khi chúng ta dấn thân vào những gì chúng ta đang làm, chúng ta kiên trì lâu hơn trước những vấn đề khó, có khả năng giải quyết chúng.

Tri giác đến từ 2 kiểu : thụ động và chủ động.

Hệ thống Watson là cái chủ động. Hệ thống Holmes là thụ động. Là người tri giác thụ động, chúng ta chỉ quan sát. Ý tôi là chúng ta không làm bất cứ điều gì khác. Nói cách khác, chúng ta không làm nhiều việc cùng 1 lúc. Holmes tập trung tất cả năng lực vào đối tượng của sự quan sát (John Hector). Anh nghe theo thói quen với đôi mắt nhắm và những ngón tay. Từ thụ động có thể gây hiểu lầm. Cái thụ động ở đây là thái độ của anh đối với phần còn lại của thế giới. Anh sẽ không bị sao lãng bởi bất kỳ nhiệm vụ khác.

Người tri giác chủ động theo nghĩa đen là làm nhiều việc cùng lúc. Không bỏ qua 1 thứ gì. Watson là người lo lắng về cái chuông cửa, lo về tờ báo, lo khi nào bữa trưa sẽ được phục vụ, lo Holmes có cảm xúc gì, tất cả cùng 1 lúc. Đó là 1 trạng thái dường như bạn chủ động và có năng suất, nhưng thực sự thì bạn không làm gì với tiềm năng trọn vẹn nhất, bạn đang phân tán nguồn lực chú ý của bạn.

Khi chúng ta muốn dấn thân, tin tôi, chúng ta có thể.

* Sức mạnh của tưởng tượng

Tại sao nhiều người không nhìn thấy sự thay thế? Họ quên mất giữa quan sát và suy luận có 1 khoảnh khác tinh thần quan trọng. Hệ thống Watson của họ - hành động, hành động, hành động, đánh giá thấp nhu cầu quan trọng đối lập: khoảnh khắc yên tĩnh để suy ngẫm.

Điều khiến Holmes là Holmes là sự sẵn sàng dấn thân vào những điều chưa biết, đi theo những giả thiết, giải trí bởi những phỏng đoán, đó là khả năng có những suy nghĩ sáng tạo và suy ngẫm tưởng tượng. Xã hội ít đề cao những thứ không đo lường được như tưởng tượng và tập trung vào sức mạnh của trí tuệ. Chúng ta chỉ đánh giá cao sự sáng tạo trên bề mặt, nhưng sâu thẳm trong tim chúng ta, tưởng tượng có thể làm chúng ta sợ hãi. Chúng ta không thích sự không chắc chắn. Chúng ta nỗ lực để giảm bất kỳ điều gì không chắc chắn, thường bằng cách đưa ra những sự lựa chọn theo thói quen để bảo vệ trạng thái hiện tại. Sự sáng tạo, ngược lại, đòi hỏi tính mới lạ. Tưởng tượng bao gồm tất cả những khả năng mới. Nghiên cứu cho thấy chúng ta có thể lưu giữ 1 thành kiến vô thức chống lại những ý tưởng sáng tạo.
Holmes có 1 yếu tố mà máy vi tính thiếu: tưởng tượng.

* Tầm quan trọng của khoảng cách

1 trong những cách quan trọng nhất để tạo điều kiện cho suy nghĩ tưởng tượng là thông qua khoảng cách.

Bắt tâm trí của bạn lùi lại 1 bước là điều rất khó làm. Nó dường như phản trực giác khi chạy khỏi 1 vấn đề mà bạn muốn giải quyết. Nhưng trong thực tế, đặc điểm đó không đáng chú ý đối với cả Holmes lẫn những người suy nghĩ sâu sắc. Nó đáng chú ý đối với Watson.

Nhà tâm lý Yaacov Trope lập luận rằng khoảng cách tâm lý có thể là 1 trong những bước quan trọng nhất bạn có thể làm để cải thiện tư duy và việc ra quyết định. Nó có nhiều hình thức: thời gian, khoảng cách thời gian (cả tương lai và quá khứ); không gian, khoảng cách không gian (bạn gần hoặc xa về mặt vật lý đối với điều gì đó); xã hội, khoảng cách giữa con người; và giả thiết, khoảng cách thực tế (mọi việc có thể xảy ra như thế nào).

Dù hình thức là gì, tất cả những khoảng cách đó có điểm chung: tất cả chúng đòi hỏi bạn vượt quá khoảnh khắc tức thời trong tâm trí bạn. Tất cả chúng đều yêu cầu bạn lùi lại 1 bước.

Trope khẳng định rằng chúng ta càng tạo khoảng cách thì quan điểm và sự diễn giải của chúng ta càng trở nên trừu tượng và khái quát hơn, và chúng ta càng di chuyển ra xa khỏi quan điểm của chúng ta, chúng ta càng có thể xem xét bức tranh rộng lớn hơn.

Ngược lại, chúng ta càng tiến lại gần thì những suy nghĩ của chúng ta càng trở nên cụ thể hơn, thực tế hơn, và chúng ta càng duy trì quan điểm vị kỷ, bức tranh càng nhỏ hơn và hạn chế hơn.

Khoảng cách tâm lý đạt tới 1 điều quan trọng: hệ thống Holmes. Nó buộc bạn yên lặng suy ngẫm. Khoảng cách tâm lý được chứng minh là cải thiện năng lực nhận thức, từ xử lý vấn đề thực sự đến khả năng tập luyện tự kiểm soát. Trẻ em sử dụng những kỹ thuật khoảng cách tâm lý (ví dụ, tưởng tượng những cây kẹo bông như những đám mây) có khả năng trì hoãn sự thoả mãn và chờ đợi phần thưởng lớn hơn sau này.

* Holmes tạo khoảng cách thông qua những hoạt động không liên quan
Hút xì gà, Holmes đặt cái tẩu thuốc giữa anh í và vấn đề. Anh cho trí tưởng tượng của anh thời gian để làm những việc của nó mà không bị quấy rầy.

Cái tẩu là 1 phương tiện để đạt đến 1 mục đích nhưng nó là 1 phương tiện quan trọng. Quan trọng ở đây là chúng ta đang xử lý với 1 đối tượng thực sự và 1 hoạt động thực sự. 1 sự thay đổi trong hoạt động, đến 1 việc gì đó có vẻ không liên quan đến vấn đề, là 1 trong những yếu tố có lợi nhất để tạo ra khoảng cách cần thiết cho trí tưởng tượng. Quả thật nó là 1 chiêu mà Holmes thường sử dụng và có hiệu quả tốt. Anh í hút xì gà, chơi violon, đếm rạp hát nghe nhạc, đó là những cơ chế tạo khoảng cách được ưa thích của Holmes.

Hoạt động đó huấn luyện những ý nghĩ của bạn theo 1 hướng khác. Nó cần có những đặc điểm sau: nó cần không liên quan đến những gì bạn đang cố gắng hoàn thành (nếu bạn đang xử lý 1 vụ phạm tội, bạn không nên chuyển sang vụ khác; nếu bạn đang cân nhắc 1 vụ mua sắm quan trọng thì bạn không nên đi mua sắm những thứ khác...); nó cần là 1 việc gì đó không làm bạn tốn quá nhiều nỗ lực (nếu bạn đang cố gắng học 1 kỹ năng mới, não bạn sẽ quá bận tâm đến nỗi nó sẽ không thể giải phóng những nguồn lực cần thiết. Holmes chơi violon - trừ khi bạn giống anh í là 1 người chơi giỏi, bạn không cần áp dụng theo cách đó; và nó cần là 1 việc gì đó mà bạn dấn thân vào ở 1 số mức độ ( ví dụ, nếu Holmes ghét hút thuốc, anh sẽ khó mà thu được lợi lạc từ hút 3 tẩu thuốc, nếu anh thấy hút xì gà là nhàm chán, tâm trí anh có thể uể oải để thực sự suy nghĩ được bất kỳ điều gì.

Khi tạo khoảng cách, chúng ta đã chuyển vấn đề mà chúng ta đang cố giải quyết từ ý thức sang vô thức. Trong khi chúng ta có thể nghĩ là chúng ta đang làm việc gì khác thì bộ não chúng ta không thực sự dừng làm việc với vấn đề ban đầu.

Watson không có khả năng tạo khoảng cách giữa anh và vụ án có lẽ vì anh không tìm thấy 1 hoạt động thích hợp để dấn thân. Trong 1 số trường hợp anh cố gắng đọc sách. 1 nhiệm vụ quá khó: không chỉ anh không tập trung được vào việc đọc, do đó đánh mất ý nghĩa của hoạt động mà anh còn không thể dừng tâm trí của anh khỏi việc quay về với điều anh không nên suy nghĩ về. Nhưng đối với Holmes, đọc sách quả thực là 1 phương pháp tạo khoảng cách phù hợp. Ai đã đọc cuốn "Polyphonic Motets of Lassus" chưa? Lúc khác Watson thử ngồi yên lặng. Quá nhàm chán. Anh í nhanh chóng ngủ gật. Cả 2 trường hợp, việc tạo khoảng cách thất bại. Tâm trí đơn giản không làm điều nó nên làm - cách ly nó khỏi môi trường hiện tại và tham gia vào hệ thống khác.

1 hoạt động đơn giản khác là đi bộ. Đi bộ từng được chứng minh là kích thích ý nghĩ sáng tạo và giả quyết vấn đề, đặc biệt nếu đi bộ trong thiên nhiên như trong rừng hơn là trong thành phố (nhưng cả 2 đều tốt hơn so với không đi bộ). Sau khi đi bộ, con người trở nên giải quyết vấn đề tốt hơn, kiên trì hơn trước những nhiệm vụ khó, và họ có thể có 1 giải pháp bừng ngộ.

Ngay cả nếu bạn không đi đến bất kỳ kết luận hay quan điểm nào trong thời gian bạn tạo khoảng cách với vấn đề thì cơ hội là bạn sẽ quay lại với nó 1 cách tràn đầy năng lượng và sẵn sàng nỗ lực nhiều hơn.

Hiệu ứng Zeigarnick : tâm trí chúng ta muốn kết thúc, muốn biết điều gì xảy ra tiếp theo. Nó muốn tiếp tục làm việc, và nó sẽ tiếp tục làm việc ngay cả nếu bạn bảo nó dừng. Thông qua những nhiệm vụ tạo khoảng cách đó, nó trong tiềm thức sẽ nhớ những công việc còn dang dở. Đó là sự quyến rũ của 1 công việc còn dang dở. Đó là 1 khao khát của tâm trí chúng ta muốn đi đến trạng thái kết thúc của sự không chắc chắn và muốn xử lý những công việc còn dang dở. Nhu cầu này thúc đẩy chúng ta làm việc hăng hơn, tốt hơn.

* Nếu bạn sợ sự sáng tạo, bạn sẽ không bao giờ giống Holmes.

* Nghệ thuật suy luận
Phân biệt giữa những chi tiết quan trọng và không quan trọng
Ví dụ, khi nói đến những thứ như cơ hội và xác suất, chúng ta có xu hướng là những người lý luận ngây thơ (và khi cơ hội và xác suất đóng 1 vai trò lớn trong nhiều suy luận của chúng ta). (đọc thêm sách)

* Không bao giờ dừng học

Liên tục thách thức bản thân và xem xét những thói quen của bạn.
Bất kể chúng ta nghĩ mình tinh thông trong 1 lĩnh vực nào đó, chúng ta phải luôn giữ ý thức và động cơ trong bất kỳ điều gì mình làm.
Tuy nhiên, khi chúng ta luyện tập, khi mọi việc trở nên đơn giản nhiều hơn và nhiều hơn và ở thành bản năng thứ 2, chúng di chuyển đến hệ thống Watson.

Holmes phải liên tục thách thức bản thân không để bản thân chịu đựng những điều tương tự. Ngay cả khi những thói quen chú ý của anh đã rất nhạy bén thì chúng có thể làm anh đi chệch hướng nếu anh không liên tục áp dụng chúng. Nếu chúng ta không thách thức những thói quen suy nghĩ của chúng ta, chúng ta có nguy cơ để cho sự chú ý mà chúng ta đã trau dồi cẩn thận trượt vào vùng hệ thống trước Holmes.

Khi chúng ta cảm thấy mình đã hoàn thành 1 điều gì đó đáng giá, hệ thống Watson của chúng ta sẽ không thích gì hơn là nghỉ ngơi. Tại sao phải đi xa hơn nếu bạn đã hoàn thành mục tiêu ?

Sự học hỏi của con người phần lớn bị thúc đẩy bởi RPE (reward prediction error). Khi 1 điều gì đó được thưởng nhiều hơn kỳ vọng, ví dụ tôi quay trái, tôi không đâm vào tường khi tôi học lái xe. RPE dẫn đến sự phóng thích dopamine trong não. Sự phóng thích đó xảy ra thường xuyên khi chúng ta bắt đầu học điều gì đó mới mẻ. Nhưng tôi không còn ngạc nhiên khi đã lái xe thạo. Tôi không còn ngạc nhiên khi tôi không mắc lỗi đánh máy. Tôi không còn ngạc nhiên khi tôi có thể nói rằng Watson đến từ Afghanistan. Tôi biết tôi sẽ có thể làm nó trước khi tôi thực sự làm nó. Và do đó không có RPE. Không RPE thì không có dopamine. Không niềm vui. Không có nhu cầu học thêm.

Holmes không tham gia những vụ án đơn thuần để giảm tội phạm mà còn để thách thức 1 số khía cạnh tư duy của Holmes. Để tiếp tục nuôi dưỡng nhu cầu học và tiến bộ. Không bao giờ nói không với nhiều kiến thức hơn, dù nó có thể đáng sợ hoặc phức tạp.
 
Ngươi nghĩ bao nhiêu người sẽ thực hiện theo cách này?
 
@Kid Ở đây có cách sao? Mỗi người sẽ tự đúc kết ra một phương pháp riêng và hình thành một kỹ năng riêng biệt phù hợp với bản thân họ. "Sáng tạo từ bài học là điều tuyệt vời nhất của con người"
 
*lắc đầu*
Có cũng chính là lí do vì sao cậu chẳng bao giờ biết tớ là ai, bao nhiêu tuổi cả=))
 
@Kid Cậu cũng thế, như nhau cả thôi =))
 
@Kid Chiều chièu ta up tiếp án 3, rảnh thì giải cho ta xem tài ha =))
 
×
Quay lại
Top