Hoàn Dòng Máu - Sidney Sheldon

Monmunmon

Thành viên thân thiết
Thành viên thân thiết
Tham gia
1/1/2012
Bài viết
4.527
CHƯƠNG 1
ISTANBUL
Thứ bảy, mồng 5 tháng Chín, 10 giờ tối.
Ngồi một mình trong bóng tối, đằng sau bàn làm việc của Hajib Kafir, anh thờ ơ nhìn qua khung cửa sổ bụi bặm của văn phòng hướng về phía những ngọn tháp muôn tuổi của các giáo đường Hồi giáo Istanbul.
Anh đã thân thuộc không ít các thủ đô trên thế giới nhưng Istanbul vẫn là một trong những nơi được anh ưa thích hơn cả. Nhưng không phải Istanbul với phố Beyolu đầy khách du lịch hay quầy rượu cầu kỳ Laleab của khách sạn Hilton mà là một Istanbul với những khu vực khuất nẻo chỉ được biết đến bởi người Hồi giáo: những yalis và những khu chợ nhỏ nép mình sau những Souks và Teli Baba, nghĩa trang chôn một người duy nhất, rồi có rất nhiều người hàng ngày đến cầu nguyện cho linh hồn đã yên nghỉ nầy.
Anh ngồi chờ đợi bằng sự nhẫn nại của một tay thợ săn, sự trầm tĩnh của người có đủ nghị lực để kiềm chế được thể xác và cảm xúc của mình. Anh vốn là dân xứ Welsh, mang vẻ đẹp mạnh mẽ nhưng cũng hết sức thâm trầm, một vẻ đẹp đặc trưng của dân xứ nầy. Tóc anh đen, khuôn mặt rắn rỏi, cặp mắt thông minh màu xanh sẫm. Anh cao trên 1m80 với thân hình vạm vỡ rắn chắc chỉ có được ở những người chịu khó chăm sóc cho sức khoẻ của mình. Cả văn phòng ngập ngụa mùi mồ hôi dầu chua loét của Hajib Kafir, mùi thuốc lá thơm sực nức, mùi cà phê Thổ hăng hăng.
Rhys Williams không hề để ý những thứ đó. Anh đang nghĩ đến cú điện thoại từ Chamonix cách đó một giờ.
- Một tai nạn khủng khiếp! Tin tôi đi, ông Williams, tất cả chúng tôi đều lâm nạn. Chuyện xảy ra nhanh đến độ không ai kịp trở tay để cứu ông ấy cả. Ông Roffe đã chết ngay lập tức…
Sam Roffe, chủ tịch tập đoàn Roffe và các con, tập đoàn dược phẩm lớn thứ hai trên thế giới, một giang sơn trị giá nhiều tỉ dollar trải rộng khắp toàn cầu. Thật không thể tưởng tượng là Sam Roffe đã chết.
Ông vẫn luôn tràn đầy sinh lực, nhanh nhẹn, hoạt bát, một người đàn ông năng động, thường xuyên phải sống trên máy bay đưa ông tới các nhà máy, văn phòng của công ty trên khắp thế giới, những nơi mà ông đã giải quyết những công việc tưởng chừng như không ai làm nổi, xây dựng những ý tưởng mới, thúc đẩy mọi người làm việc nhiều hơn và hiệu quả hơn. Dù đã có gia đình, đã trở thành ông bố, thú vui duy nhất của ông vẫn là kinh doanh. Sam Roffe là một nhân vật vô cùng lỗi lạc. Ai có thể thay thế ông đây? Ai có đủ khả năng điều hành cái giang sơn khổng lồ ông để lại? Sam Roffe đã không kịp chọn người kế vị mình. Bởi vì, ông đâu có biết là mình sẽ không sống quá tuổi năm mươi hai? Ông vẫn luôn nghĩ rằng mình còn khối thời gian.
Và giờ đây, thời gian của ông đã hết.
Đèn trong phòng bỗng bật sáng và Rhys Williams nhìn về phía cửa, không nhận ra ai bởi loá mắt.
- Ông Williams! Tôi không biết là trong phòng vẫn còn người.
Đó là Sophie, một trong những nữ thư ký của công ty người được giao việc phụ giúp Rhys Williams mỗi khi anh đến Istanbul. Cô ta là người Thổ Nhĩ Kỳ, khoảng hai mươi tư, hai mươi lăm, gương mặt xinh đẹp, thân hình mềm mại đầy quyến rũ, hứa hẹn. Cô ta đã khôn khéo ngỏ ý với Rhys, rằng lúc nào cũng sẵn sàng chiều lòng anh nếu anh muốn, nhưng Rhys chẳng hề để tâm.
- Tôi quay lại để làm mấy bức tlìư cho ông Kafir. - Và cô ta dịu dàng nói thêm, - Có lẽ tôi giúp được cho ông việc gì chăng?
Khi cô ta tiến lại gần cái bàn, Rhys nhận thấy mùi như mùi xạ hương của con thú hoang trong mùa giao phối.
- Ông Kafir đâu?
Sophie lắc đầu nói vẻ tiếc nuối.
- Ông ta đã rời khỏi từ lâu rồi. - Cô ta nhẹ nhàng vuốt mặt trước của chiếc váy bằng bàn tay điêu luyện. - Tôi có thể giúp ông việc gì chứ? - Cặp mắt cô ta đen láy và ướt át.
- Có. - Rhys đáp. - Tìm ông ta về đây.
Cô ta cau mày.
- Tôi không thể biết giờ nầy ông ta ở đâu…
- Hãy thử chỗ Kervansaray hoặc Mermara xem.
Có thể đây là nơi một trong số các cô bồ của Hajib Kafir làm vũ nữ múa bụng. Khó mà biết được với Kafir, Rhys nghĩ. Cũng rất có thể ông ta đang ở cùng với vợ.
Sophie tỏ ra hối lỗi.
- Tôi sẽ cố gắng, nhưng… tôi e là…
- Cho ông ta biết rằng nếu một giờ nửa không có mặt ở đây ông ta sẽ bị sa thải.
Sắc mặt cô ta thay đổi.
- Tôi sẽ thử xem mình làm được gì ông Williams. - Và cô ta bước về phía cửa.
- Tắt đèn cho tôi.
Dù sao, ngồi suy nghĩ trong bóng tối vẫn dễ dàng hơn. Hình ảnh của Sam Roffe vẫn luẩn quẩn trong đầu Rhys. Vào khoảng thời gian nầy trong năm, những ngày đầu tháng Chín, núi Mont Blanc rất dễ trèo. Trước kia Sam đã một lần thứ trèo ở đây nhưng ông không thể vượt qua bão tố để lên đến đỉnh núi. "Nhưng lần nầy tôi sẽ cắm được cờ của công ty lên đó", ông hứa với Rhys bằng giọng bỡn cợt.
Và cách đây một lát, khi Rhys đang làm thủ tục trả phòng tại khách sạn Pera Palace thì điện thoại gọi cho anh. Rhys có thể nghe được giọng nói thổn thức trong máy. "Mọi người đang vượt qua dòng sông băng… ông Roffe bị trượt chân và sợi dây cáp của ông ấy đứt ông ấy rơi xuống một kẽ nứt sâu thăm thẳm…"
Rhys hình dung ra thân hình của Sam đập mạnh vào tảng băng ác nghiệt và lăn nhanh xuống kẽ nứt.
Anh cố ép mình quên đi cảnh tượng khủng khiếp đó.
Dù sao cũng là quá khứ rồi. Hiện tại còn quá nhiều điều khiến anh phải lo nghĩ. Các thành viên trong gia đình Sam Roffe hiện đang ở khắp nơi trên thế giới cần phải được thông báo về cái chết của ông. Và bản thông cáo cho báo chí cũng cần phải chuẩn bị.
Cái tin nầy hiện đã như một đợt sóng thần lan khắp giới tài chính quốc tế. Giữa lúc công ty đang lâm vào tình trạng khủng hoảng tài chính thì ảnh hưởng do cái chết của Sam Roffe gây ra phải được giảm đến mức thấp nhất có thể. Đây chính là công việc của Rhys.
o O o
Lần đầu tiên Rhys Williams gặp Sam Roffe đã cách đây chín năm. Rhys lúc đó hai mươi lăm tuổi và đang giữ chức cố vấn thương mại cho một công ty dược phẩm nhỏ. Anh năng động, thông minh và khi hãng nầy mở rộng thì danh tiếng của Rhys theo đó mà nổi lên như cồn. Anh được đề nghị làm việc tại tập đoàn Roffe và các con và khi anh rời bỏ công ty cũ, Sam Roffe đã mua lại công ty ấy và giao nó cho anh. Cho đến tận bây giờ anh vẫn không thể quên được mãnh lực khó cưỡng được của Sam Roffe trong lần đầu tiên hai người gặp mặt.
- Ở đây anh là người của Roffe và các con, - Sam Roffe cho anh biết. - Thế nên tôi đã mua lại cái công ty lạc hậu cũ của anh.
Rhys thấy vừa tự hào vừa hơi bực tức.
- Nếu tôi không ở lại thì sao?
Sam Roffe mỉm cười và trả lời một cách tự tin:
- Anh sẽ ở lại. Anh và tôi đều có điểm chung, Rhys. Đó là nhiều hoài bão: Chúng ta muốn làm chủ thế giới Và tôi sẽ cho anh biết phải làm như thế nào.
Những lời nói như có ma lực, một bữa tiệc đầy hứa hẹn cho nỗi khát khao mãnh liệt đang bùng cháy trong lòng anh, bởi vì anh biết một điều mà Sam Roffe không biết: Chẳng có Rhys Williams nào cả. Anh chỉ là một sự tưởng tượng được tạo ra từ sự liều lĩnh, nghèo nàn và tuyệt vọng.
o O o
Anh ra đời gần khu mỏ Gwent và Carmarthen, những thung lũng đầy những vết nứt nẻ mầu đỏ của xứ Wales, nơi những lớp sa thạch, đá vôi và than đá rạch nát mặt đất xanh tươi. Anh lớn lên cùng mảnh đất có vô số các truyền thuyết, mà ngay đến những cái tên thôi cũng tràn đầy thi vị như: Brecon và Peny Fan, Penderyn và Glyncorrwg hay Maesteg. Đây là mảnh đất huyền thoại với than đá ngập sâu dưới lòng đất được tạo thành từ hai trăm tám mươi triệu năm trước, với phong cảnh đã từng bị bao phủ bởi quá nhiều cây cối, nhiều đến nỗi một con sóc cũng có thể đi từ vùng đồi Brecon đến tận bờ biển mà chân không hề chạm đất. Nhưng rồi cuộc cách mạng công nghiệp cũng đã tìm đến đây và những thân cây xinh đẹp kia lần lượt gục ngã trước bàn tay của đám thợ đốt than để trở thành nguyên liệu cho những lò lửa tham lam của ngành luyện thép.
Cậu bé lớn lên cùng những vị anh hùng thuộc về một thế giới khác, một thời gian khác. Robert Farren bị đưa lên giàn hoả của Nhà thờ Thiên chúa giáo La mã vì ông không chịu thề sống độc thân và bỏ rơi bà vợ; Vua Hywel the Good, người mang pháp luật đến cho xứ Wales ở thế kỷ thứ 10; chiến binh dũng cảm Brychen, bố của mười hai con trai và hai mươi tư con gái, người đã đập tan tất cả các cuộc tấn công vào vương quốc của mình. Đó là mảnh đất của những trang sử vẻ vang, nơi cậu bé được nuôi nấng. Nhưng cũng không phải bất cứ thứ gì ở đây cũng vẻ vang.
Tổ tiên của Rhys đều là thợ mỏ và cậu bé thường được nghe những câu chuyện chi tiết về địa ngục do bố cậu và các bậc chú bác kể lại. Họ nói về những thời gian khủng khiếp khi không có việc làm, khi những mỏ than giàu có của Gwent và Carmarthen bị đóng cửa do xảy ra những cuộc chiến quyết liệt giữa đám thợ mỏ và các công ty chủ mỏ, mà cuối cùng, những người thợ mỏ vì cảnh bần cùng đã đánh mất cả phẩm cách, cả hoài bão, niềm kiêu hãnh bị xói mòn, đã phải đầu hàng.
Khi các khu mỏ được mở cửa lại thì một kiểu địa ngục khác cũng xuất hiện.
Hầu hết các thành viên trong gia đình Rhys đã bỏ mạng trong khu mỏ. Một số khác thì chết trong các hầm mỏ dưới lòng đất hoặc rồi cũng qua đời với bệnh ho hen do hai lá phổi đã đen kịt bụi than. Chỉ có một số rất ít là vượt qua được tuổi ba mươi.
Rhys thường lắng nghe bố và các bác tranh luận về quá khứ, về những sự khuất phục, sự lụn bại và những cuộc đình công, hoặc về những thời kỳ tươi sáng cũng như đen tối, và đối với cậu bé thì tất cả xem ra đều như nhau. Đều tồi tệ cả: Ý nghĩ về việc phí hoài những năm tháng cuộc đời trong bóng tối của lòng đất đã làm cho Rhys kinh hãi. Cậu bé hiểu rằng mình phải trốn đi.
Cậu bé bỏ nhà đi khi mới lên mười hai. Cậu rời khỏi thung lũng than và đi về phía bờ biển, tới vịnh Sunny Ranny và Lavernock, nơi tràn ngập đám du khách giàu có, và cậu bé cố gắng tỏ ra mình là người hữu ích, dìu các quý bà sang trọng tuột xuống vách đá tới bãi biển, mang vác các giỏ hành lý nặng cho các cuộc cắm trại, đánh xe ngựa ở Pernarth và làm việc ở khu giải trí tại vịnh Whitmore.
Cậu chỉ ở cách xa nhà có mấy giờ đường nhưng sự xa cách thì không thể nào đo lường được. Mọi người ở đây như thể đến từ một thế giới khác vậy. Rhys Williams chưa bao giờ tưởng tượng được lại có những người đẹp đến thế, những bộ trang phục đẹp đến thế.
Người phụ nữ nào nhìn cũng như nữ hoàng còn đám đàn ông thì ai cũng thanh lịch đến tuyệt vời. Đây mới là thế giới của cậu và không có gì mà cậu không thể chiếm về cho mình.
Lúc đó Rhys được mười bốn tuổi, và cậu đã dành dụm đủ tiền cho cuộc hành trình đến London. Cậu bỏ ra ba ngày đầu tiên chỉ để đi dạo trong thành phố đồ sộ nhìn ngắm mọi thứ, tận hưởng bằng hết những cảnh tượng kỳ lạ, những âm thanh và những mùi vị khác nhau.
Công việc đầu tiên của cậu là làm nhân viên giao hàng cho một cửa hiệu bán vải. Ở đó có hai nam thư ký, trịch thượng như nhau, và một nữ thư ký, người đã làm trái tim cậu bé xao xuyến mỗi khi nhìn cô ta.
Hai gã kia đối xử với Rhys như thể chẳng còn cách đối xử nào khác với một kẻ rác rưởi. Cậu bé đúng là kỳ lạ. Cậu ăn mặc khác người, điệu bộ chẳng giống ai và nói năng bằng một giọng rất khó nghe. Bọn họ còn không phát âm đúng cả tên của cậu. Họ gọi cậu là Rice, rồi Rye và Rise "Phải gọi là Roffe mới đúng", Rhys luôn bảo họ như vậy.
Còn cô gái thì tỏ ra thương hại cậu. Tên cô ta là Gladys Simpkins và cô ta sống cùng 3 người bạn gái khác trong một căn nhà bé tí ở Tooting. Một hôm, cô cho phép cậu đưa về sau giờ làm việc và mời cậu lên nhà uống trà. Rhys đã trở nên hồi hộp quá mức.
Cậu đã vội nghĩ đây sẽ là kinh nghiệm yêu đương đầu tiên trong đời, nhưng khi choàng tay qua người Gladys, cô nhìn sững cậu rồi cười phá lên.
- Tôi sẽ chẳng cho cậu cái đó đâu. - Cô nói. - Nhưng tôi sẽ cho cậu một lời khuyên. Nếu cậu muốn làm chuyện gì đó cho bản thân mình, đầu tiên phải biết ăn mặc quần áo sạch sẽ, có một chút văn hoá tối thiểu và phải tự học cách xử sự đi. - Rồi cô ngắm nhìn gương mặt gầy gò nhưng đầy vẻ thiết tha của chàng trai trẻ và nhẹ nhàng nói tiếp, - Nhất định cậu sẽ khá hơn khi lớn lên đấy.
o O o
Nếu cậu muốn làm chuyện gì đó cho bản thân mình… Đó chính là giây phút để anh chàng Rhys Williams giả hiệu ra đời. Rhys Wllliams thật vốn là một người vô giáo dục, dốt nát, không có cả quá khứ lẫn tương lai. Nhưng anh có trí tưởng tượng, sự thông minh và cả một hoài bão lớn đang bùng cháy. Như thế là quá đủ. Anh đã bắt đầu với hình ảnh của con người mà anh muốn trở thành, có ý định trở thành. Khi nhìn vào gương anh không còn thấy một cậu bé vụng về, bẩn thỉu với giọng nói buồn cười mà thay vào đó là một chàng trai khéo léo, lịch thiệp và thành công. Từng bước từng bước một, Rhys khớp mình với các hình ảnh đó trong đầu. Anh theo học các lớp buổi tối, trải qua những ngày nghỉ cuối tuần trong các gallery nghệ thuật.
Anh cũng thường ra vào các thư viện công cộng, đến nhà hát, ngồi ngoài hành lang nghiên cứu những bộ quần áo đắt tiền của cánh đàn ông trước sân khấu.
Anh dè xẻn đối với việc ăn uống sao cho cứ một tháng một lần lại đủ tiền để vào nhà hàng sang trọng, nơi mà anh có thể học được cách xử sự trên bàn ăn của những người khác. Anh quan sát, học hỏi và ghi nhớ.
Anh giống hệt một miếng bọt biển, từ từ xoá bỏ quá khứ và hút lấy tương lai.
Chỉ trong một năm ngắn ngủi Rhys đã học đủ để nhận ra nữ hoàng Gladys Simpkins của anh chỉ là một cô gái thành thị rẻ tiền, làm cho anh chán ngấy.
Anh bỏ tiệm bán vải và vào làm chân thư ký cho một hiệu thuốc thuộc một mạng lưới lớn. Lúc đó trông anh đã già hơn rất nhiều so với tuổi 16 của mình. Anh đã đầy đặn hơn và cao hơn. Đám đàn bà đã dần chú ý đến vẻ đẹp xứ Wales trầm tĩnh và miệng lưỡi lanh lẹ của anh. Anh đã nhanh chóng thành công ở cửa hàng. Nhiều khách hàng nữ sẵn sàng chờ cho đến khi Rhys rảnh rỗi để săn sóc họ. Anh ăn mặc lịch sự, nói năng đúng mức và anh biết mình đã đi vượt khỏi Gwent và Carmarthen một quãng đường dài nhưng mỗi khi nhìn vào gương, anh vẫn chưa hoàn toàn thoả mãn.
Cuộc hành trình mà anh định thực hiện vẫn còn ở phía trước.
Trong vòng hai năm Rhys đã lên đến chức quản lý cửa hàng nơi anh làm việc. Vị giám đốc khu vực của mạng lưới nói với anh:
- Đây mới là sự khởi đầu thôi, Williams. Hãy cố gắng làm việc và một ngày kia anh sẽ thấy mình trở thành quản lý của cả nửa tá cửa hàng ấy chứ.
Rhys suýt nữa thì cười to. Tưởng rằng thế đã là đỉnh cao của một hoài bão lớn hay sao? Rhys không hề gián đoạn việc học hành. Anh tiếp tục theo học ngành hành chính kinh doanh, tiếp thị thị trường và luật thương mại. Anh muốn vươn cao hơn nữa. Hình ảnh của anh trong gương là ở đỉnh thang, còn Rhys cảm thấy mình mới đang đứng ở bậc thấp nhất. Cơ hội tiến thân của anh đã đến khi một hôm, một người bán hàng dược phẩm bước vào và quan sát Rhys dụ dỗ các bà các cô mua những thứ mà họ không cần dùng tới. Ông ta nói:
- Anh đang lãng phí thời gian ở đây. Lẽ ra vị trí của anh phải ở trong một cửa hàng lớn hơn.
- Ý định của ông là sao? - Rhys hỏi.
- Để tôi nói chuyện với ông chủ của anh đã.
Hai tuần sau Rhys đã làm bán hàng tại một công ty dược phẩm nhỏ. Anh chỉ là một trong năm mươi nhân viên bán hàng, nhưng khi anh nhìn vào tấm gương đặc biệt của mình thì, anh biết đó không phải là sự thực. Đối thủ cạnh tranh duy nhất của anh chính là bản thân anh. Anh đang tiến gần hơn đến hình ảnh của mình, với nhân vật giả hiệu do anh tạo ra. Một người thông minh, có văn hoá, sành điệu và quyến rũ. Những gì anh đang cố đạt tới là rất khó khăn.
Ai cũng biết rằng con người được sinh ra với những đặc tính có sẵn, chúng không thể bị tạo ra sau nầy. Nhưng Rhys đã tự tạo ra. Anh đã trở thành cái hình ảnh mà anh đã tưởng tượng ra.
Anh đi chào bán sản phẩm trên khắp đất nước, trò chuyện và lắng nghe. Anh trở lại London với rất nhiều những đề nghị khả thi và anh bắt đầu leo lên các bậc thang. Ba năm sau ngày gia nhập công ty, Rhys đã trở thành giám đốc thương mại. Dưới sự lãnh đạo khéo léo của anh, công ty bắt đầu mở rộng phạm vi thế lực.
o O o
Và bốn năm sau, Sam Roffe đã bước vào cuộc đời anh. Ông đã nhận ra hoài bão trong con người anh.
- Anh giống tôi, - Sam Roffe nói. - Chúng ta muốn làm chủ thế giới. Tôi sẽ cho anh biết phải làm như thế nào.
Sam Roffe là một nhà cố vấn đầy kinh nghiệm.
Trong vòng chín năm sau đó dưới dự chỉ dẫn của ông, Rhys Williams đã trở thành tài sản vô giá của tập đoàn. Thời gian tiếp tục trôi qua, anh càng ngày càng được giao nhiều trách nhiệm hơn, tổ chức lại nhiều khu vực, dàn xếp những vụ rắc rối ở khắp mọi nơi trên thế giới, phối hợp nhiều chi nhánh khác nhau của tập đoàn, sáng tạo ra nhiều khái niệm mới. Cuối cùng thì ngoài Sam Roffe ra, Rhys là người hiểu biết về việc điều hành công ty nhiều hơn cả. Rhys Williams được coi là người kế vị chức vụ chủ tịch hợp lý nhất.
Một buổi sáng, khi Rhys và Sam Roffe từ Caracas trở về trên máy bay riêng của công ty, một chiếc Boeing 707-320 sang trọng lộng lẫy trong đội máy bay tám chiếc, Sam Roffe đã khen ngợi Rhys về một vụ giao dịch có lời mà anh đạt được với chính phủ Venezuela.
- Sẽ có một phần thưởng lớn cho anh trong vụ nầy, Rhys.
Và Rhys đã trầm ngâm trả lời:
- Tôi không muốn nhận phần thưởng, Sam. Tôi sẽ thích hơn nếu có một chân trong Hội đồng quản trị và một số cổ phần.
Anh đã kiếm được nó, và cả hai người đều hiểu điều đó Nhưng Sam trả lời:
- Tôi xin lỗi. Tôi không thể phá bỏ quy luật, dù là vì anh. Roffe và các con là tập đoàn gia đình trị. Không một ai khác ngoài các thành viên trong gia đình được có mặt trong Hội đồng quản trị hay nắm giữ cổ phần cả.
Dĩ nhiên là Rhys biết điều đó. Anh được tham gia tất cả các buổi họp của Hội đồng quản trị, nhưng không phải với tư cách thành viên. Anh vẫn chỉ là người ngoài. Sam Roffe là người đàn ông cuối cùng trong dòng họ Roffe. Những người khác trong dòng họ, các em họ của Sam, đều là phụ nữ. Và các ông chồng của họ nghiễm nhiên trở thành thành viên Hội đồng quản trị. Walther Gassner lấy Anna Roffe; Ivo Palazzi lấy Simonetta Roffe, Charles Martel lấy Helene Roffe và Sir Alec Nichols có mẹ là một người mang họ Roffe.
Thế nên Rhys buộc phải đi đến quyết định. Anh thừa biết rằng mình xứng đáng có chân trong Hội động quản trị, rằng một ngày nào đó anh sẽ điều hành tập đoàn. Tình thế hiện tại không cho anh làm điều đó, nhưng tình thế lại có cách thay đổi. Rhys quyết định hoãn binh, chờ xem chuyện gì sẽ xảy ra. Sam đã dạy anh phải kiên nhẫn. Và bây giờ Sam đã chết.
o O o
Đèn trong văn phòng lại bật sáng và Hajib Kafir đứng ở ngưỡng cửa. Kafir là giám đốc thương mại của Roffe và các con ở Thổ Nhĩ Kỳ. Ông ta thấp, mập, nước da ngăm đen, bụng phệ, tay đeo nhẫn kim cương và tỏ ra tự hào về chúng. Ông ta có vẻ xộc xệch của một người phải vội vã mặc quần áo. Như vậy là Sophie đã không tìm thấy ông ta trong hộp đêm. Vậy cũng tốt Rhys nghĩ. Một tác dụng phụ của cái chết của Sam Roffe.
- Rhys! - Kafir thốt lên. - Đồng nghiệp thân mến, tha lỗi cho tôi. Tôi không biết rằng anh vẫn còn ở Istanbul. Khi anh vừa lên đường ra phi trường thì tôi cũng có một công việc khẩn cấp phải…
- Ngồi xuống, Hajib. Và ông nghe cho rõ đây. Tôi muốn ông gửi bốn bức điện bằng mật mã của tập đoàn. Chúng sẽ được chuyển tới các nước khác nhau. Tôi muốn chúng được tận tay đánh đi bởi người của chúng ta. Ông hiểu chứ?
- Dĩ nhiên, - Kafir bối rối trả lời. - Rất hiểu.
Rhys liếc nhìn chiếc đồng hồ vàng mỏng dính hiệu Baume & Mercier nơi cổ tay ông ta.
- Bưu điện New City sắp đóng cửa. Hãy gửi chúng từ Yeni Posthane Cad. Tôi muốn chúng được đánh đi trong vòng 30 phút nữa.
Anh trao cho ông ta bản copy bức điện tín anh đã viết. Bất kỳ ai thảo luận về chuyện nầy sẽ lập tức bị đuổi việc.
Kafir liếc qua mảnh giấy và đôi mắt ông ta mở to.
- Chúa ơi! - ông ta nói. - Lạy Chúa! - Ông ta ngước mắt lên nhìn vào gương mặt rầu rĩ của Rhys. - Chuyện… chuyện khủng khiếp nầy đã xảy ra như thế nào?
- Sam Roffe chết trong một tai nạn. - Rhys trả lời.
Bây giờ, lần đầu tiên Rhys cho phép ý nghĩ của mình hướng về điều mà anh đã cố xua đuổi khỏi tâm trí: Elizabeth, con gái của Sam. Năm nay nàng đã hai mươi tư tuổi. Lần đầu tiên Rhys gặp nàng là năm nàng lên mười lăm, miệng ngậm dây đeo quần, nhút nhát và phục phịch. Nhiều năm trôi qua, Rhys đã chứng kiến Elizabeth phát triển thành một thiếu nữ đặc biệt với sắc đẹp của mẹ, trí thông minh và nghị lực của bố. Nàng đã trở nên gần gũi với Sam. Rhys biết cái tin nầy sẽ ảnh hưởng mạnh đến nàng như thế nào. Anh sẽ phải tự mình báo tin cho nàng.
Hai giờ sau Rhys Williams đã ngồi trong phi cơ của tập đoàn bay trên bầu trời Địa Trung Hải, nhắm thẳng về hướng New York.
 
CHƯƠNG 2
BERLIN
Thứ 2, ngày 7 tháng Chín, 10 giờ sáng
Anna Roffe Gassner biết rằng mình không thể hét lên lần nữa nếu không muốn Walther quay lại và giết chết mình. Bà nằm co ro trong phòng ngủ, người run lên không kiềm chế được, và chờ chết. Câu chuyện bắt đầu từ cảnh thần tiên lãng mạn đã chấm dứt trong sự ghê rợn khủng khiếp, ghê rợn đến khó nói thành lời. Bà đã mất rất nhiều thời gian mới đương đầu được với sự thật. Người mà bà lấy làm chồng là một tên sát nhân cuồng loạn.
Anna Roffe chưa hề biết yêu ai trước khi cô gặp Walther Gassner, kể cả cha, mẹ và bản thân cô. Anna vốn yếu ớt bệnh hoạn và thường xuyên phải chịu đau đớn do các cơn choáng váng ngất xỉu. Cô cũng không nhớ nổi quãng thời gian ra khỏi bệnh viện hay các nữ y tá hoặc các chuyên gia bay đến từ các miền đất xa xôi. Bởi vì cha cô là Anton Roffe, thuộc tập đoàn Roffe và các con, nên những chuyên gia y khoa hàng đầu đã đến bên gi.ường bệnh của Anna ở Berlin. Nhưng họ đã khám, đã kiểm tra và đã ra đi mà không biết gì hơn những gì họ đã biết. Họ không thể chẩn đoán được căn bệnh của cô.
Anna không thể đến trường như những đứa trẻ khác và càng ngày cô càng trở thành ít nói, tự tạo cho mình một thế giới riêng, đầy những mộng tưởng kỳ diệu, nơi mà không một ai được phép bước vào.
Cô tự vẽ ra bức tranh cuộc đời mình bởi vì những màu sắc của thực tại quá gay gắt khiến cô không sao chấp nhận nổi. Khi Anna lên mười tám, những cơn choáng váng, ngất xỉu đột nhiên biến mất một cách khó hiểu như khi chúng xuất hiện. Nhưng chúng cũng kịp phá hỏng cuộc đời cô. Ở vào lứa tuổi mà phần đông các cô gái đã đính ước hoặc kết hôn thì Anna vẫn chưa hề biết đến một nụ hôn của các chàng trai.
Cô cố tự khẳng định rằng mình chẳng hề quan tâm.
Cô bằng lòng sống cuộc sống mơ mộng của mình, xa lánh mọi việc và mọi người. Năm cô hai mươi lăm tuổi có nhiều người ngỏ lời cầu hôn cô, bởi vì Anna là cô gái có món hồi môn vô cùng lớn và lại là người của một trong những dòng họ danh giá nhất thế giới.
Rất nhiều người muốn được chung hưởng tài sản của cô. Cô đã nhận được lời cầu hôn của một bá tước Thuy Điển, một nhà thơ Italia và năm, sáu hoàng thân từ các quốc gia khác nhau. Nhưng Anna từ chối tất cả.
Anton Roffe đã rên lên trong lễ sinh nhật lần thứ ba mươi của cô. "Rồi tôi sẽ chết mà chẳng có đứa cháu ngoại nào mất".
Trong ngày sinh lần thứ ba nhăm, Anna đến Kitzbuhel ở Áo và cô đã gặp Walther Gassner, huấn luyện viên trượt tuyết, trẻ hơn cô mười ba tuổi.
Lần đầu tiên trông thấy Walther, Anna như mụ mẫm cả người đi. Anh ta đang trượt xuống đường dốc đua Hahnekamm và đó là cảnh tượng đẹp nhất mà cô đã từng thấy. Cô đi đến gần cuối đường trượt để nhìn anh ta rõ ràng hơn.
Trông anh ta như một thiên thần trẻ trung và Anna cảm thấy việc nhìn anh ta cũng đủ khiến cho cô cảm thấy vô cùng thoả mãn. Và anh ta chợt thấy ánh mắt của cô đang nhìn mình.
- Cô không trượt tuyết sao, thưa cô?
Cô lắc đầu cảm thấy không còn tin vào giọng nói của mình nữa và anh ta mỉm cười.
- Vậy cho phép tôi mời cô dùng bữa trưa.
Anna chạy vụt đi trong sự sợ hãi, như một nữ học sinh vậy. Kể từ đó, Walther Gassner ra sức theo đuổi cô Anna Roffe đâu phải khờ dại gì. Cô thừa biết mình không đẹp mà cũng chẳng tài giỏi, cô chỉ là một phụ nữ bình thường, ngoài sự nổi tiếng của dòng họ ra thì chẳng còn gì để dâng hiến cho một người đàn ông. Nhưng Anna cũng biết rằng bên trong vẻ ngoài tầm thường đó cô vẫn là một cô gái nhạy cảm, tràn ngập tình yêu, thơ và nhạc.
Có lẽ vì Anna không đẹp nên cô luôn tỏ ra sùng kính cái đẹp. Cô thường đến các viện bảo tàng lớn và bỏ ra hàng giờ để chiêm ngưỡng các bức tranh và các pho tượng.
Khi cô trông thấy Walther Gassner, cô có cảm giác như tất cả các vị thần đã bừng tỉnh vì cô.
Walther Gassner đến gặp Anna ngay ngày hôm sau khi cô đang ngồi ăn sáng trên sân thượng của khách sạn Tenerhof. Trông anh ta đúng là giống một thiên thần trẻ tuổi. Anh ta nhìn nghiêng trông rất cân đối, nét mặt thanh nhã, nhạy cảm, sinh động. Khuôn mặt anh ta rám nắng và hàm răng trắng tinh đều đặn. Anh ta có mái tóc vàng hoe và cặp mắt xám đen.
Anna có thể cảm nhận được cử động của các bắp thịt trên cánh tay và đùi anh ta đằng sau bộ quần áo trượt tuyết và cô cảm thấy bị kích thích dữ dội. Cô giấu đôi bàn tay vào vạt áo để anh ta không trông thấy sự rung động của cô.
- Tôi đã đi tìm cô trên các đường trượt suốt buổi chiều hôm qua, - Walther lên tiếng. Còn Anna không thể nói được gì. - Nếu cô chưa biết trượt tuyết, tôi sẽ chỉ bảo cho cô. - Anh ta mỉm cười và nói thêm, - Không cần thù lao.
Anh ta đưa cô đến Hausberg, dốc trượt dễ nhất để học bài học đầu tiên. Cả hai đều lập tức nhận ra rằng Anna không hề có khiếu trượt tuyết. Cô liên tục mất thăng bằng và bị ngã, nhưng cô vẫn cố gắng tập tiếp vì cô sợ Walther sẽ tỏ ra coi thường nếu cô bỏ cuộc. Rốt cuộc, sau khi đỡ cô dậy lần thứ mười, anh ta dịu dàng nói:
- Có lẽ cô thích hợp với những việc khác hơn là việc nầy.
- Việc gì? - Anna khổ sở hỏi.
- Tôi sẽ cho cô biết vào bữa ăn tối nay.
Họ đã cùng nhau ăn bữa tối hôm đó và bữa sáng hôm sau, rồi lại bữa trưa và bữa tối. Walther đã bỏ rơi các khách hàng khác. Anh ta đưa Anna vào làng thay vì dạy cô trượt tuyết, dẫn cô đến sòng bạc ở Der Goldene Greif, đi mua sắm, đi xe trượt, đi tản bộ hoặc ngồi nói chuyện hàng giờ trên sân thượng của khách sạn. Đối với Anna, đây quả thực là quãng thời gian tuyệt diệu.
Năm ngày sau khi họ gặp nhau, Walther cầm lấy bàn tay cô và nói:
- Anna, em yêu, anh muốn kết hôn cùng em.
Anh ta đã làm hỏng mọi chuyện. Anh ta lôi cô ra khỏi thế giới thần tiên tuyệt diệu và đưa cô trở về với hiện thực phũ phàng về con người cô. Một chiến lợi phẩm chẳng có gì hấp dẫn và đã ba mươi lăm tuổi tuy vẫn còn trinh trắng dành cho kẻ đào mỏ.
Cô cố bỏ đi nhưng Walther đã ngăn lại.
- Chúng ta yêu nhau, Anna. Em không thể tránh né điều đó.
Cô lắng nghe anh ta nói dối, nghe những gì anh ta nói "Từ trước đến giờ anh chưa hề yêu bất cứ một ai", và cô cố làm cho anh ta cảm thấy thoải mái vì thực ra cô cũng rất muốn tin anh ta. Cô đưa anh ta về phòng mình, họ ngồi xuống nói chuyện và khi Walther kể cho Anna nghe câu chuyện của anh ta, bỗng nhiên cô bắt đầu tin tưởng với một niềm tin kỳ lạ rằng đó cũng là câu chuyện đời mình.
Cũng như cô, Walther chưa hề biết yêu ai. Anh ta bị mọi người xa lánh vì đã có mặt trên đời với tư cách là một đứa con hoang, giống như Anna bị xa lánh bởi bệnh tật của mình. Cũng như cô, Walther tha thiết được dâng hiến tình yêu của mình. Anh ta sống trong cô nhi viện và đến năm mười ba tuổi, khi vẻ đẹp khác thường xuất hiện, đám đàn bà trong đó bắt đầu lợi dụng anh, đưa anh về phòng họ hàng đêm, lên gi.ường cùng anh và chỉ bảo cho anh cách đem lại cho họ nhiều lạc thú. Và bù lại, họ thưởng cho anh đồ ăn, những miếng thịt ngon, những món tráng miệng. Anh ta nhận được mọi thứ, ngoại trừ tình yêu.
Khi Walther đủ tuổi rời khỏi cô nhi viện, anh nhận thấy cuộc đời bên ngoài cũng không có gì khác. Đàn bà muốn lợi dụng vẻ đẹp của anh ta, coi anh ta như món đồ trang sức, nhưng sự việc chỉ dừng lại đến thế.
Họ tặng anh ta tiền bạc, quần áo, vàng bạc đủ loại nhưng chưa bao giờ là chính bản thân họ.
Anna nhận ra Walther chính là người bạn đời của mình, một người giống hệt với mình. Họ kín đáo tổ chức lễ thành hôn ở toà thị chính thành phố.
Anna cứ tưởng rằng bố cô sẽ vui mừng khôn xiết. Nhưng không, ông đã nổi cơn điên khi biết chuyện nầy.
- Sao mày ngốc thế hả con, - Anton Roffe quát vào mặt cô. Mày muốn lấy một thằng đào mỏ chẳng ra gì. Bố đã kiểm tra nó kỹ lưỡng rồi. Cả đời nó chỉ bám váy đàn bà, nhưng cũng chưa kiếm được con nào ngu đến mức chịu lấy nó cả.
- Thôi đi, - Anna thổn thức, - Bố chẳng hiểu gì về anh ấy cả.
Nhưng Anton Roffe biết chắc rằng mình hiểu rất rõ về Walther Gassner. Ông cho mời chàng rể đến văn phòng của mình.
Anh ta nhìn quanh căn phòng có lớp ván lót tường mầu sẫm và treo đầy tranh cổ với vẻ hài lòng rồi nói:
- Con thích chỗ nầy.
- Đúng. Tôi chắc rằng nó đẹp hơn hẳn cô nhi viện.
Walther ranh mãnh nhìn ông, ánh mắt đột nhiên trở nên đề phòng.
- Bố nói gì cơ ạ?
Anton trả lời:
- Bỏ cái giọng ỡm ờ đó đi. Anh đã phạm phải một sai lầm. Con gái tôi không có tiền đâu.
Cặp mắt xám của Walther dường như hoá đá.
- Bố định nói gì đấy ạ?
- Tôi chẳng định nói gì với anh cả. Tôi đang nói thẳng ra đây. Anh sẽ chẳng lấy được gì của Anna đâu, vì nó vốn cũng chẳng có gì cả. Nếu anh tìm hiểu tường tận hơn thì nhất định anh sẽ biết rằng Roffe và các con có tổ chức rất chặt chẽ. Điều đó có nghĩa là không có cổ phần bán ra ngoài. Chúng tôi sống rất thoải mái nhưng chỉ đến thế thôi. Không có tài sản nào được phép bị thất thoát cả.
Ông lục túi, lôi ra một phong bì và ném nó lên bàn, trước mặt Walther.
- Đây là phần đền bù cho những khó nhọc của anh. Tôi cũng hy vọng rằng anh sẽ rời khỏi Berlin lúc sáu giờ. Tôi không muốn Anna nghe thấy tin tức gì của anh nữa.
Walther điềm tĩnh trả lời.
- Chẳng lẽ bố không nghĩ rằng con lấy Anna đơn giản là vì con yêu cô ấy?
- Không. - Anton chua chát trả lời. - Thế anh đã từng nghĩ thế sao?
Walther nhìn ông một lát.
- Để xem con đáng giá bao nhiêu.
Anh ta xé phong bì và đếm tiền. Ngước mắt nhìn lên Anton Roffe, anh ta nói:
- Thế mà con cứ tự cho là mình đáng giá hơn hai mươi nghìn mác nhiều.
- Đó là tất cả những gì anh có. Như thế là đã may mắn lắm rồi đấy.
- Vâng. - Walther nói. - Nếu bố muốn biết sự thật, con nghĩ là con đã rất may mắn. Cám ơn bố.
Anh ta lãnh đạm bỏ phong bì vào túi và bước ra cửa.
Anton Roffe thấy nhẹ nhõm hẳn đi. Ông vừa trải qua cảm giác tội lỗi và ghê tởm về việc mình đã làm nhưng ông biết rằng đây là giải pháp duy nhất. Anna sẽ đau khổ khi bị chú rể bỏ rơi, nhưng như thế còn tốt hơn là để chuyện đó xảy ra sau nầy. Ông sẽ cố tạo cơ hội cho cô gặp gỡ những người đàn ông đầy đủ tư cách và phù hợp với lứa tuổi của cô, ít nhất cũng là những người biết tôn trọng cô nếu như không yêu cô. Một người quan tâm đến bản thân cô chứ không phải là danh tiếng hay tiền bạc của gia đình cô. Người mà không bị mua chuộc bằng hai mươi nghìn mác.
o O o
Khi Anton Roffe về đến nhà, Anna chạy ra chào đón ông, mắt vẫn còn ngấn lệ. Ông ôm chặt cô và nói:
- Anna, con yêu, mọi việc rồi sẽ ổn thôi. Rồi con sẽ quên anh ta…
Và qua vai cô, Anton nhìn thấy Walther Gassner đứng trên ngưỡng cửa. Anna giơ cao ngón tay, nói:
- Bố hãy xem món quà của Walther cho con. Chắc đây là chiếc nhẫn đẹp nhất mà bố từng thấy phải không? Nó trị giá đến hai mươi nghìn mác.
Cuối cùng thì bố mẹ Anna cũng phải chấp nhận Walther Gassner. Để làm quà cưới, họ đã mua tặng đôi vợ chồng một toà nhà có vườn xinh đẹp ở Wannsee với đồ đạc kiểu Pháp, trang trí bằng nhiều tác phẩm mỹ thuật cổ, đi văng và những chiếc ghế êm ái, bàn làm việc kiểu Roentgen đặt trong thư viện và nhiều tủ sách dựng dọc theo tường. Tầng hầm được trang bị nhiều đồ đạc thuộc thế kỷ mười tám mua từ Đan Mạch và Thuy Điển.
- Như thế là quá nhiều rồi, - Walther nói với Anna. - Anh không muốn lấy thêm bất cứ thứ gì từ bố mẹ em hoặc từ em nữa. Anh muốn tự mình mua cho em những thứ tuyệt đẹp khác, em yêu. - Anh ta cười to và nói, - nhưng anh lại không có tiền.
- Dĩ nhiên là anh có. - Anna trả lời. - Cái gì của em cũng là của anh.
Walther mỉm cười với cô và nói:
- Thế à?
Với sự khẩn khoản của Anna, vì Walther có vẻ miễn cưỡng khi nói chuyện tiền bạc, cô giải thích cho anh ta nghe về tình trạng tài chính của mình. Cô có một khoản tiền uỷ thác đủ giúp cô sống thoải mái trọn đời, còn phần lớn tài sản của cô là những cổ phần trong tập đoàn Roffe và các con. Các cổ phần nầy sẽ không được bán ra ngoài nếu không có sự đồng ý của hội đồng quản trị.
- Số cổ phần của em trị giá bao nhiêu? - Walther hỏi.
Anna nói với anh ta, Walther hầu như không tin nổi vào tai mình. Anh ta bảo cô nhắc lại tổng số.
- Vâng. Anh họ Sam của em sẽ không cho ai bán ra cả. Anh ấy nắm giữ những cổ phần có tính quyết định. Một ngày…
Walther bày tỏ sự quan tâm của mình với công việc kinh doanh của gia đình vợ. Nhưng Anton Roffe phản đối quyết liệt.
- Một tay trượt tuyết vô công rỗi nghề có thể làm gì cho Roffe và các con? - ông hỏi.
Nhưng cuối cùng thì ông cũng phải nhượng bộ con gái và Walther được vào làm ở bộ phận hành chính của tập đoàn. Anh ta càng ngày càng tỏ ra xuất sắc trong công việc và thăng tiến nhanh chóng. Hai năm sau đó, khi bố của Anna qua đời, Walther Gassner đã trở thành thành viên của hội đồng quản trị. Anna rất tự hào về chồng mình. Anh ta quả là người chồng và người tình tuyệt vời. Anh ta thường tặng cô hoa và những món quà nhỏ, anh ta luôn tỏ ra thích thú khi được ở nhà cùng cô vào những buổi tối, khi chỉ có hai người bên nhau. Hạnh phúc của Anna dường như quá lớn so với sự tưởng tượng của cô. "Tạ ơn Chúa kính yêu", cô thường tự nhủ như vậy.
Anna học nấu ăn để cô có thể làm cho Walther những món ăn mà anh ta ưa thích. Cô biết làm món Choucroute, một lớp dưa bắp cải giòn và khoai tây nghiền nát như kem phủ lên trên với một miếng sườn hun khói, thêm một khúc xúc xích Frankfork và một khúc xúc xích Nuremberg. Cô nấu món thịt bê bằng bia và gia giảm bằng thìa là Ai Cập, rồi dọn ra với một quả táo nướng đã được bỏ vỏ và hột, bên trong nhồi đầy quả airelle màu đỏ.
"Em là đầu bếp cừ nhất thế giới, em yêu" Walther sẽ nói vậy và mặt Anna sẽ đỏ bừng vì kiêu hãnh.
Ba năm sau ngày cưới, Anna có mang.
Cơn đau kéo dài trong tám tháng đầu tiên, nhưng Anna vẫn sung sướng chịu đựng. Chỉ có một việc khiến cô phải bận tâm.
Nó bắt đầu vào một ngày, sau bữa ăn trưa. Cô vừa ngồi mơ màng vừa đan cho Walther một chiếc áo len thì nghe thấy giọng nói của anh ta:
- Lạy Chúa, Anna, em làm gì mà ngồi trong bóng tối vậy?
Hoàng hôn đã buông xuống và cô nhìn chiếc áo len chưa hề đụng tới trên lòng. Ngày đã trôi qua từ lúc nào? Tâm trí của cô đang trôi về đâu? Sau đó, Anna đã nhiều lần trải qua tình trạng tương tự như vậy và cô bắt đầu tự hỏi liệu có phải việc rơi vào cõi hư vô nầy một điềm báo hiệu cô sắp chết. Cô không nghĩ rằng mình sợ chết, nhưng cô không thể chịu được ý nghĩ phải xa Walther.
Bốn tuần trước ngày em bé ra đời, Anna lại sa vào chốn hư vô và bị trượt trên bậc thang rồi ngã xuống.
Cô tỉnh dậy trong bệnh viện.
Walther đang ngồi bên gi.ường, nắm chặt lấy tay cô.
- Em làm anh lo sợ quá.
Trong cơn hoảng hốt bất ngờ, cô chợt nghĩ "Con mình! Mình không hề cảm thấy nó". Ruột gan cô thắt lại.
- Con em đâu? - Cô hỏi.
Walther ôm chặt lấy cô.
Ông bác sĩ nói:
- Bà đã sinh đôi, bà Gassner.
Anna quay sang Walther, cặp mắt anh ta đẫm lệ.
- Một trai một gái, em yêu.
Cô thấy mình chết ngất vì sung sướng. Cô bỗng khát khao được ôm các con vào lòng. Cô phải nhìn thấy chúng, sờ chúng, ôm ấp chúng.
- Chúng ta sẽ nói về chuyện đó khi nào bà thấy khoẻ hơn, - Ông bác sĩ nói. - Cho đến khi bà khoẻ hơn.
Mọi người tin rằng Anna sẽ bình phục nhanh chóng, nhưng cô lại trở nên sợ hãi. Có cái gì đó đang xảy ra với cô mà cô không thể hiểu nổi. Walther đến, cầm tay cô và chào tạm biệt, còn cô thì ngạc nhiên nhìn anh ta và nói, "Nhưng anh mới ở đây…". Sau đó cô nhìn đồng hồ và thấy rằng đã ba, bốn tiếng đồng hồ trôi qua. Cô không biết thời gian đã trôi đi đâu.
Cô cũng lờ mờ nhận ra rằng họ cỏ mang hai đứa con đến cho cô vào ban đêm và cô đã nhanh chóng thấy buồn ngủ. Cô không thể nhớ rõ ràng, và cô đâm ra ngại hỏi han. Cũng không làm sao cả. Cô sẽ có chúng khi Walther đưa cô về nhà.
Rồi cái ngày tuyệt vời đó cũng đến. Anna xuất viện trên một chiếc xe đẩy, dù cô nhất định bảo rằng mình đã đủ sức để tự bước đi. Quả thật là cô cảm thấy mình còn rất yếu, nhưng cô đã quá hồi hộp được trông thấy các con nên không còn việc gì là quan trọng với cô nữa. Walther đẩy cô vào nhà rồi đưa thẳng cô lên buồng ngủ của họ.
- Không, không! - Cô nói. - Cho em đến phòng các con.
- Đây là lúc em cần nghỉ ngơi, em yêu. Em vẫn còn yếu…
Cô không nghe anh ta nói gì nữa. Cô vùng khỏi tay anh ta và chạy sang phòng bọn trẻ.
Anna phải mất một lúc mới điều chỉnh được mắt do căn phòng chìm trong bóng tối vì các rèm cửa đều đã buông xuống. Lòng cô tràn ngập hồi hộp nên cô càng cảm thấy choáng váng. Cô chỉ lo mình sẽ ngất xỉu.
Walther đi vào sau cô, anh ta đang nói, đang cố giải thích điều gì đó nhưng chẳng còn gì quan trọng nữa.
Vì các con cô ở đó. Chúng đang ngủ trong nôi và Anna nhẹ nhàng bước tới, cố gắng không quấy rầy chúng. Cô đứng đó, chăm chú ngắm nhìn các con. Chúng là những đứa trẻ đẹp nhất mà cô từng thấy. Ngay lúc nầy đây, cô đã thấy đứa con trai có gương mặt đẹp trai và mái tóc hoe của bố. Còn con gái giống hệt một con búp bê với mái tóc vàng mượt như nhung và khuôn mặt nhỏ xinh hình tam giác.
Anna quay sang Walther, giọng nghẹn ngào:
- Chúng đẹp quá! Em… thật hạnh phúc quá.
- Nào, Anna - Walther thì thầm. Anh ta choàng tay qua người Anna và ghì chặt lấy cô, một sự h.am m.uốn mãnh liệt dâng lên trong người. Anna bắt đầu cảm thấy khao khát. Đã lâu rồi họ không làm tình với nhau. Walther nói đúng. Cô còn nhiều thời gian để lo cho bọn trẻ.
Cô đặt tên cho con trai là Peter còn con gái là Brigitta. Chúng là hai điều kỳ diệu tuyệt vời mà cô và Walther đã tạo nên, và Anna thường ở lỳ hàng giờ trong phòng hai con để nô đùa với chúng, chuyện trò với chúng. Mặc dù chúng còn chưa hiểu được cô, nhưng cô cũng biết rằng chúng cảm nhận được tình yêu của cô. Đôi khi, trong lúc nô đùa, cô quay lại và thấy Walther đứng ở ngưỡng cửa, vừa từ nhiệm sở về nhà và Anna nhận ra một ngày đã qua.
- Đến đây với mẹ con em đi, - Cô thường nói. - Chúng em đang nô đùa vui lắm. - Em chưa chuẩn bị bữa tối phải không? - Walther hỏi, và cô chợt cảm thấy có lỗi. Cô định bụng sẽ để ý đến chồng nhiều hơn, bớt chăm lo các con, nhưng rồi sự việc đó lại tái hiện vào ngày hôm sau. Hai đứa bé cứ như những cục nam châm hút chặt lấy cô. Anna vẫn còn yêu Walther rất nhiều và cô cố che giấu mặc cảm tội lỗi bằng cách tự nhủ rằng các con cũng là một phần của anh ta. Đêm nào cũng vậy, khi Walther vừa ngủ say là cô rời khỏi gi.ường và chạy sang phòng bọn trẻ, mải mê ngắm nghía chúng cho đến khi ánh sáng ban ngày lọt vào phòng. Rồi cô lại vội vã quay trở lại gi.ường trước khi Walther kịp thức giấc.
Một lần, giữa đêm khuya, Walther bước vào phòng nuôi trẻ và bắt gặp cô.
- Em đang làm gì ở đây vậy? - Anh ta hỏi.
- Không, anh yêu. Em chỉ…
- Về gi.ường ngủ đi!
Đó là lần đầu tiên anh ta nói với cô như vậy.
Vào bữa điểm tâm, Walther nói:
- Anh nghĩ chúng ta nên đi nghỉ mát một chuyến. Đi xa sẽ tốt cho chúng ta.
- Nhưng, Walther, các con còn quá bé, làm sao đi được?
- Anh chỉ nói là hai chúng ta thôi.
- Em không thể rời chúng được. - Cô lắc đầu
Anh ta cầm tay cô và nói:
- Anh muốn em tạm quên các con đi.
- Quên các con ư? - Giọng nàng sửng sốt.
Anh ta nhìn vào cặp mắt cô và nói:
- Anna, hãy nhớ xem chúng ta đã vui vẻ bao nhiêu trước khi em có mang? Lúc đó hạnh phúc biết bao? Thật tuyệt diệu khi chúng ta được ở bên nhau, chỉ có hai chúng ta, không có ai khác xen vào.
Bấy giờ thì cô đã hiểu. Walther ghen ngay với cả các con của mình.
Thời gian cứ vùn vụt trôi qua. Giờ đây thì Walther không bao giờ chịu đến gần bọn trẻ. Anna đã mua rất nhiều món quà tuyệt vời mừng sinh nhật chúng.
Walther thì luôn cố gắng thu xếp để vắng nhà vì lý do công việc. Anna không thể cứ tiếp tục lừa dối bản thân mãi. Sự thật là Walther không hề thích bọn trẻ chút nào. Anna cảm thấy đây có thể là lỗi của cô, bởi vì cô quá quan tâm đến chúng. Bị ám ảnh là cụm từ mà Walther hay dùng. Anh ta đã đề nghị cô đi khám bác sĩ, và cô đã đi để làm vui lòng anh ta. Những bác sĩ là một gã khờ. Nhưng Anna để mặc cho tâm trí buông trôi, chẳng thèm nghe từ khi ông ta bắt đầu nói chuyện cho đến khi cô nghe thấy.
- Hết giờ rồi, bà Gassner. Chúng ta sẽ gặp lại vào tuần tới chứ?
- Dĩ nhiên.
Nhưng cô chẳng bao giờ quay lại cả.
Anna cảm thấy vấn đề chính vẫn là cả Walther và cô. Nếu lỗi của cô là quá yêu thương các con thì lỗi của Walther lại là không hết lòng yêu thương chúng.
Anna cố tìm cách không đề cập đến các con trước mặt Walther, nhưng cô gần như không thể chờ cho tới lúc anh ta đi làm mới có thể vội vàng chạy vào phòng nuôi trẻ để gần gũi chúng. Hai đứa đã qua sinh nhật thứ ba và Anna có thể thấy chúng thật giống người lớn. Peter trông cao hơn so với tuổi, thân hình rắn chắc khoẻ mạnh như bố nó vậy. Anna thường ôm nó vào lòng và lẩm bẩm:
- Nầy Peter, con sẽ đối xử với các cô gái đáng thương ra sao đây? Hãy dịu dàng với họ, con yêu của mẹ. Họ sẽ không có cơ hội.
Peter mỉm cười bẽn lẽn và ôm chặt lấy mẹ.
Rồi Anna quay sang Brigitta. Cô bé ngày càng xinh đẹp hơn. Nó không giống cả Anna và Peter. Brigitta có mái tóc vàng óng ả và làn da mịn màng như làm bằng sứ vậy. Tính khí Peter nóng nảy như bố và điều đó làm Anna đôi khi phải đánh nhẹ vào mông nó, còn Brigitta thì trái lại, có tính khí như của một thiên thần. Những khi Walther vắng nhà, Anna thường nghe nhạc hoặc đọc truyện cho các con nghe. Cuốn sách mà chúng thích nhất là 10 truyện cổ tích. Chúng thường năn nỉ Anna đọc đi đọc lại cho chúng nghe những câu chuyện ma quái, yêu tinh, phù thuỷ và mỗi đêm, Anna thường đặt chúng vào gi.ường, hát bài hát ru:
Ngủ đi con, ngủ đi
Bố đang chăn cừu…
Anna đã cầu nguyện, mong rằng thời gian sẽ làm dịu bớt đi thái độ của Walther, rằng anh ta sẽ thay đổi. Nhưng không, anh ta đã thay đổi theo chiều hướng còn tồi tệ hơn. Anh ta căm ghét các con. Lúc đầu Anna tự bảo rằng như thế là Walther muốn cô dành tất cả tình yêu cho anh ta, rằng anh ta không muốn chia sẻ tình yêu đó cho ai. Nhưng rồi cô dần nhận ra chuyện đó chẳng liên quan gì đến tình yêu của mình. Anh ta ghét cả cô nữa. Bố cô đã nói đúng. Walther cưới cô chỉ vì tiền. Hai đứa con là nỗi lo ngại của anh ta. Anh ta muốn tống khứ chúng đi. Càng ngày anh ta càng nói nhiều đến chuyện bán cổ phần.
- Sam không có quyền ngăn chặn chúng ta! Chúng ta có thể lấy tất cả tiền và đi thật xa. Chỉ hai chúng ta thôi.
Cô nhìn anh ta:
- Thế còn các con?
Cặp mắt anh ta trở nên háo hức.
- Không. Hãy nghe anh nói đây. Vì lợi ích của đôi ta, phải tống khứ chúng đi. Vậy thôi.
Đến lúc đó thì Anna đã nhận ra rằng anh ta bị điên. Và cô vô cùng hoảng sợ. Walther đã đuổi hết tất cả gia nhân trong nhà, ngoại trừ một người đàn bà đến quét dọn mỗi tuần một lần. Anna và bọn trẻ ở nhà một mình với anh ta, nằm đưới sự khống chế của anh ta. Anh ta cần được giúp đỡ. Có lẽ cũng còn chưa quá muộn để cứu anh ta. Vào thế kỷ mười lăm, những người điên bị bắt và nhốt trọn đời trên những nhà thuyền Narrenschiffe, tàu giam người điên, nhưng ngày nay, với nền y học tiến bộ, cô cảm thấy người ta có thể làm được điều gì đó để giúp Walther.
o O o
Giờ đây, vào ngày nầy của tháng chín, Anna ngồi co ro trên sàn phòng ngủ mà Walther đã khoá ngoài đợi ông ta trở về. Bà biết bà phải làm gì. Vì lợi ích của ông ta, cũng như của bà và các con. Anna loạng choạng đứng lên và đi về phía điện thoại. Bà lưỡng lự một lát rồi cầm máy lên và quay số 110, số điện thoại khẩn cấp của cảnh sát.
Một giọng nói xa lạ vang lên trong tai bà:
- A lô, đây là phòng cấp cứu sở cảnh sát. Tôi có thể giúp gì cho bà?
- Xin ông làm ơn! - Giọng bà nghẹn ngào. - Tôi…
Một bàn tay chợt từ đâu thò ra giật lấy ống nghe của bà và quật mạnh lên giá.
Anna lùi lại.
- Ôi, em van anh, - Bà thổn thức, - đừng đánh em.
Walther tiến lại phía bà, cặp mắt sáng rực, giọng nói dịu dàng đến mức không thể tin nổi.
- Em yêu, anh sẽ không làm em đau đâu. Anh yêu em mà, bộ em không biết thế sao? - ông ta chạm vào người bà và bà cảm thấy sởn cả gai ốc. - Và chúng ta cũng không muốn cảnh sát tới đây, phải không nào? - Bà lắc đầu lia lịa, không cất nên lời vì quá sợ hãi. - Chính bọn trẻ gây ra chuyện nầy, Anna. Chúng ta sẽ tống khứ chúng đi. Anh…
Chuông cửa bỗng reo vang dưới lầu. Walther lưỡng lự đứng yên tại chỗ. Tiếng chuông lại vang lên.
- Ở lại đây - ông ta ra lệnh. - Anh sẽ quay lên ngay.
Anna đờ người ra nhìn ông ta bước ra ngoài phòng ngủ. Walther dập cửa đánh sầm và bà nghe rõ tiếng khoá lách cách bên ngoài.
- Anh sẽ quay lên ngay.
Walther Gassner vội vã chạy xuống nhà, đi ra mở cửa. Một người đàn ông trong bộ đồng phục bưu điện màu xám đứng đó, trong tay cầm một phong bì dán kín.
- Tôi có bức điện tối khẩn gửi cho ông bà Walther Gassner.
- Vâng. - Walther trả lời. - Anh cứ đưa cho tôi.
- Ông ta đóng cửa lại, nhìn chiếc phong bì trong tay và mở nó ra xem. Rất từ từ, ông ta đọc từng chữ trong bức điện.
VÔ CÙNG ĐAU ĐỚN BÁO TIN CHO ÔNG BIẾT, SAM ROFFE ĐÃ CHẾT TRONG VỤ TAI NẠN LEO NÚI.
YÊU CẦU ÔNG CÓ MẶT Ở ZURICH VÀO CHIỀU THỨ SÁU ĐỂ THAM DỰ PHIÊN HỌP KHẨN CẤP CỦA HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ.
Bức điện được ký tên "Rhys Williams! "
 
CHƯƠNG 3
ROMA
Thứ hai, mồng 7 tháng Chín, 6 giờ chiều
Ivo Palazzi đứng giữa phòng ngủ, máu cháy đầm đìa trên mặt.
- Cha mẹ ơi. Chết con rồi?
- Tôi vẫn chưa bắt đầu tiêu diệt anh đâu, đồ con hoang khốn nạn! - Donatella quát lên với ông ta.
Cả hai đều trần truồng trong căn phòng ngủ rộng lớn thuộc căn hộ của họ ở đường Montemignaio.
Donatella có thân hình hấp dẫn, quyến rũ nhất mà Ivo Palazzi từng thấy, và ngay cả lúc nầy, khi máu me đang ròng ròng trên mặt vì những vết cào cấu của cô ta thì ông vẫn cứ cảm thấy bị kích thích đến tột độ Chúa ơi, cô ta đẹp thật. Vẻ đẹp vừa ngây thơ vừa dung tục luôn khiến ông phát điên lên được. Cô ta có khuôn mặt của một con báo, đôi gò má cao, cặp gặm, mút ông và… - nhưng đây không phải là lúc ông nghĩ đến chuyện đó. Ông nhặt một mảnh vải trắng trên ghế để cầm máu và khi nhận ra đó là chiếc sơ mi của mình thì đã quá muộn. Donatella đứng giữa chiếc gi.ường đôi vĩ đại của họ, gào lên:
- Ước gì anh chảy máu đến chết luôn. Khi tôi giải quyết anh xong, đồ háu gái bẩn thỉu, thì anh cũng đáng để cho bọn gái điếm la vào người!
Ivo Palazzi đã tự hỏi mình cả trăm lần rằng làm sao mà ông lại cứ bị rơi vào tình trạng khổ sở thế nầy. Ông vẫn luôn tự hào rằng mình là người đàn ông hạnh phúc nhất và tất cả bạn bè đã đồng ý điều đó. Bạn bè của ông? Tất cả mọi người thì đúng hơn.
Bởi vì Ivo không có kẻ thù. Hồi còn độc thân, ông là một anh chàng La Mã vô tư lự, bất cần đời, một Don Giovani làm cho một nửa đàn ông Italia ghen tị. Triết lý của ông được tóm gọn trong câu ngạn ngữ "Tự lấy làm vinh dự với một người đàn bà". Chuyện đó làm Ivo luôn bận rộn. Ông là người thật sự lãng mạn. Ông yêu liên tục, và mỗi lần yêu ông lại dùng mối tình mới để giúp mình quên đi mối tình cũ. Ivo sùng bái đàn bà và với ông, tất cả bọn họ đều đẹp, từ những cô gái điếm miệt mài kiếm ăn dọc đường Alpha đến những siêu người mẫu bước đi khệnh khạng trên đường Condotti. Ivo chỉ không ưa gái Mỹ. Họ quá khác với sở thích của ông. Vả lại, cũng chả hy vọng gì ở một đất nước với ngôn ngữ tầm thường đến mức đi dịch cái tên Giuseppe Verdi (1) vĩ đại thành Joe Gren.
Ivo luôn thu xếp để có trong tay khoảng một tá gái với nhiều cấp khác nhau. Cấp một là các cô mà ông mới quen. Hàng ngày họ sẽ nhận được điện thoại, hoa và một tập thơ tình mỏng. Cấp hai là những người mà ông sẽ tặng một vài món đồ hiệu Gucci và sôcôla Perugina đựng trong các hộp sứ. Những người ở cấp ba sẽ được nhận kim cương, quần áo đắt tiền và lời mời đi ăn tối ở El Toula hoặc Taverna Flavia. Ngủ chung gi.ường với Ivo là những người cấp bốn và họ sẽ được thưởng thức những tuyệt kỹ chăn gối của ông như một người tình. Mỗi cuộc hẹn hò của Ivo là cả một tác phẩm hoàn hảo. Căn hộ nhỏ của ông trên đường Margutta sẽ có đầy hoa, thường là cẩm chướng hoặc anh túc, nhạc thì là opera, cổ điển hoặc rock tuỳ theo sở thích của cô gái. Ivo là một đầu bếp tuyệt vời và một trong những món "độc chiêu" của ông là pollo alla cacciatora, gà của thợ săn. Sau bữa tối sẽ là một chai sâm banh ngâm đá để uống trên gi.ường.
Vâng, Ivo rất khoái cấp bốn. Nhưng cấp năm có lẽ mới là cấp tinh tế hơn tất cả. Đó là một lời từ giã não nuột, một món quà chia tay đáng giá và một cuộc chia ly đầy nước mắt.
Nhưng tất cả đã lùi về quá khứ. Giờ đây Ivo Palazzi liếc nhanh gương mặt máu me sướt sát của mình qua tấm gương. Phía bên kia gi.ường ngủ và cảm thấy kinh bãi. Trông ông cứ như là đang vừa bị một cái máy gặt đập tấn công vậy.
- Hãy xem em đã làm gì anh đây nầy! - ông kêu lên, - Cara, anh biết là em không định làm như thế mà.
Ông đi sang phía bên kia gi.ường để ôm Donatella vào lòng. Cánh tay mềm mại của cô ta vòng qua người ông và khi ông vừa mới ghì chặt cô ta thì cô ta chợt cắm những móng tay đài nhọn vào lưng ông và cào mạnh như một con thú hoang. Ivo đau đớn rú lên.
- Cứ kêu đi? - Donatella quát. - Nếu có dao ở đây tôi sẽ cắt phăng cái của quý của anh đi rồi chọc vào cái cổ họng khốn nạn kia!
- Thôi mà! - Ivo van vỉ. - Các con nghe thấy hết bây giờ.
- Kệ chúng! - Cô ta rít lên. - Đã đến lúc phải cho chúng biết bố chúng là loại quái vật gì.
Ông bước một bước về phía cô ta.
- Đừng đụng vào tôi! Tôi sẽ hiến thân cho tên thuỷ thủ say rượu giang mai đầu tiên mà tôi gặp ngoài đường trước khi để cho anh đến gần lại.
Ivo đứng sững, cảm thấy niềm kiêu hãnh bị tổn thương. Anh không hy vọng đây là cách mà mẹ của các con anh nói chuyện với anh.
- Anh muốn tôi dịu dàng với anh à? Anh muốn tôi thôi không đối xử với anh như với một tên vô lại à? , - Giọng của Donatella cao dần lên thành một tiếng gào. - Thế thì hãy đưa ra đây những gì tôi muốn đi.
Ivo bồn chồn nhìn ra cửa.
- Carissima… anh không thể. Anh không có cái đó.
- Thế thì cố lấy cho tôi đi. - Cô ta hét lên. - Anh đã hứa rồi mà.
- Cô ta bắt đầu lên cơn kích động, và Ivo quyết định tốt nhất là nên nhanh chóng rời khỏi trước khi đám hàng xóm kịp gọi cảnh sát.
- Muốn lấy được một triệu đô la cần có nhiều thời gian. - ông nói bằng giọng dỗ dành. - Nhưng anh… anh sẽ có cách.
Ông vội vã mặc quần lót rồi quần dài, đi tất rồi xỏ giầy trong lúc Donatella lăn lộn trong phòng, bộ ngực rắn chắc, đầy đặn nhấp nhô trong không khí.
Ivo tự nhủ, Chúa ơi, đàn bà! Thế mà mình vẫn cứ mê mệt mới lạ chứ? Ông với lấy cái áo sơ mi dính đầy máu. Thật là hết cách. Ông mặc nó vào người, cảm thấy lành lạnh ở phía lưng và ngực. Ivo nhìn lại mình lần cuối trong gương. Máu vẫn còn rỉ ra từ những vết cào dài mà móng tay của Donatella để lại trên mặt.
- Carissima, - Ivo rên rỉ, - Mình phải giải thích sao với vợ đây?
Vợ của Ivo Palazzi là Simonetta Roffe, người thừa kế chi nhánh Italia của dòng họ Roffe. Lúc gặp Simonetta, Ivo còn đang là một kiến trúc sư trẻ.
Hãng của ông đã phái ông đi giám sát một số việc sửa chữa trong căn biệt thự Roffe ở Porto Ercole. Ngay từ cái nhìn đầu tiên của Simonetta vào Ivo, quãng thời gian độc thân của ông chỉ còn đếm được từng ngày. Ngay trong đêm đầu tiên Ivo đã cùng cô lên tầng bốn và sa vào vòng hôn nhân với cô chỉ sau đó một thời gian ngắn. Simonetta là người xinh đẹp và có đầu óc quyết đoán, vì vậy cô biết mình muốn gì: đó là Ivo Palazzi. Vì thế Ivo đã biến mình từ một chàng độc thân bất cần đời thành người chồng của một nữ thừa kế trẻ đẹp. Ông từ bỏ không một chút hối tiếc các ao ước về nghề kiến trúc và gia nhập tập đoàn Roffe và các con, với một văn phòng nguy nga tráng lệ ở châu Âu, khu vực Italia, được người tiền nhiệm bất hạnh Duce mở ra với rất nhiều hy vọng.
Ngay từ lúc mới gia nhập, Ivo đã mang lại cho tập đoàn nhiều thành công đánh kể. Ông thông minh, học hỏi nhanh và được tất cả mọi người quý mến. Thật khó có thể không quý mến Ivo. Ông luôn luôn tươi cười luôn luôn quyến rũ. Bạn bè ông thường ghen tức với địa vị tuyệt diệu của ông và tự hỏi ông đã làm thế nào để đạt được nó. Câu trả lời rất đơn giản. Ivo biết cách che giấu mặt trái con người mình. Thực ra ông là một con người đầy cảm xúc, có khả năng căm thù sâu sắc, có khả năng giết người.
Cuộc hôn nhân của Ivo và Simonetta khá thành công. Đầu tiên ông lo ngại rằng hôn nhân sẽ bó buộc dũng khí của ông cho đến chết, nhưng rồi ông nhận ra rằng mình đã lầm. Ông chỉ cần đặt lại cho mình một chương trình chặt chẽ hơn, giảm bớt số bạn gái và mọi việc lại tiếp tục như cũ.
Bố của Simonetta mua cho hai người một căn nhà rộng lớn ở Olgianta, một thế giới riêng rộng lớn cách Rome hai mươi lăm km về phía bắc, được bảo vệ bởi vô số cánh cổng kín và cả một đội bảo vệ mặc quân phục đứng gác.
Simonetta là một người vợ tuyệt vời. Bà yêu Ivo và đối xử với ông như một ông hoàng khiến ông cảm thấy không còn gì tuyệt diệu hơn thế. Simonetta chỉ có một khuyết điểm nhỏ. Đó là khi ghen tuông, bà trở nên vô cùng hung dữ. Một lần bà đã nghi ngờ ông đưa một nữ khách hàng đi công du Brazil. Và ông đã tỏ ra giận dữ một cách chính đáng trước lời buộc tội đó. Trước khi cuộc tranh cãi chấm dứt thì tổ ấm của họ đã kịp biến thành bãi chiến trường. Không một thứ đồ đạc nào còn nguyên vẹn và đa số chúng đều bị vỡ vụn xung quanh đầu Ivo. Simonetta với con dao phay trên tay đuổi theo ông bén gót, đe dọa sẽ giết chết ông rồi tự tử theo và Ivo phải dùng toàn lực mới đoạt được con dao trong tay bà. Họ vật lộn dữ dội trên sàn nhà và cuối cùng Ivo phải xé tan quần áo của bà mới làm cho bà nguôi đi cơn giận. Nhưng sau vụ đó Ivo trở nên vô cùng thận trọng. Ông bảo với cô khách hàng rằng ông sẽ không đi đâu cùng cô ta nữa và ông không bao giờ để mình bị bất kỳ một mảy may nghi ngờ. Ông biết mình là người đàn ông may mắn nhất trên đời. Simonetta vừa trẻ, đẹp, thông minh lại vừa giàu có. Họ có chung các sở thích và bạn bè. Đây là một cuộc hôn nhân hoàn hảo, và khi ông chuyển các cô gái từ cấp hai sang cấp ba, các cô khác từ cấp ba sang cấp bốn, ông tự hỏi mình tại sao lại cứ thích phản bội vợ như vậy. Rồi ông nhún vai như một triết gia và tự nhủ "Vậy ai đó phải làm cho đám đàn bà ấy hạnh phúc chứ".
Ba năm sau lễ thành hôn với Simonetta, Ivo gặp Donatella Spolini trong một chuyến công cán tới Sicily. Phải nói đó là một vụ nổ chứ không phải một cuộc gặp, nó chẳng khác nào hai hành tinh va vào nhau. Simonetta có thân hình mảnh dẻ, uyển chuyển của một phụ nữ trẻ do Manzu tạo thành còn Donatella lại có thân hình đầy đặn, khêu gợi như bức tranh của Rubens. Khuôn mặt cô ta thanh tú và cặp mắt nung nấu màu lục làm Ivo thấy bốc lửa trong lòng.
Họ đã lên gi.ường cùng nhau chỉ một giờ sau khi gặp mặt và Ivo, luôn tự hào về sức lực kỳ diệu của mình với tư cách là một người tình, đã thấy ngay rằng mình chỉ đáng là học trò của cô giáo Donatella. Cô ta đưa ông lên những đỉnh cao mà ông chưa bao giờ đạt tới, và thân hình cô ta đem lại cho ông những cảm giác mà ông chưa từng mơ có được. Cô ta là cả một kho lạc thú vô tận, và khi Ivo nằm trên gi.ường, mắt nhắm nghiền, tận hưởng những khoái cảm kỳ lạ, ông biết rằng mình sẽ là một kẻ ngu ngốc nếu để Donatella đi.
Và như thế, Donatella đã thành tình nhân của Ivo.
Điều kiện duy nhất mà cô ta đưa ra là ông phải rời bỏ tất cả những người đàn bà khác, ngoại trừ vợ của mình. Ivo đã sung sướng tán thành. Tám năm trôi qua và trong suốt quãng thời gian đó Ivo đã không hề phản bội vợ và tình nhân của mình. Đáp ứng một lúc cho cả hai người đàn bà đa tình chắc chắn sẽ làm kiệt sức một người đàn ông bình thường nhưng với Ivo thì hoàn toàn ngược lại. Khi ông làm tình với Simonetta, ông nghĩ đến Donatella cùng thân hình đầy đặn quyến rũ của cô ta và ông cảm thấy mình tràn đầy sự thèm khát. Còn khi ông trên gi.ường cùng Donatella, ông lại nghĩ về bộ ngực trẻ trung mềm mại cùng cặp mông nhỏ nhắn của Simonetta và ông cảm thấy sức lực được tăng lên rất nhiều. Tóm lại là khi ông chăn gối cùng người nầy thì ông lại có cảm giác là mình đang lừa gạt người kia. Điều đó làm tăng hứng thú của ông lên gấp bội.
Ivo mua cho Donatella một căn hộ đẹp ở đường Montemignaio để ông đến với cô ta bất cứ lúc nào có thể. Thỉnh thoảng ông lại sắp xếp một chuyến công cán đột xuất và thay vì lên đường, ông dùng thời gian đó để làm tình với Donatella. Ông cũng thường ghé đến cô ta trên đường đến văn phòng và ngủ trưa ở nhà cô ta. Có một lần, Ivo và Simonetta đến New York trên chiếc tàu thuỷ QE2, ông đã liều lĩnh để Donatella trong một cabin ở boong dưới: Đó là năm ngày thú vị nhất trong đời Ivo.
Vào cái buổi tối khi Simonetta báo cho Ivo biết bà có mang, ông đã vui mừng khôn xiết. Và một tuần sau đó Donatella cũng thông báo rằng cô ta có mang, và lại thêm một lần nữa lòng Ivo tràn ngập hạnh phúc.
Ông tự hỏi tại sao các vị thần lại tốt với mình đến như vậy. Với tất cả sự khiêm nhường, Ivo đôi khi cảm thấy mình không xứng đáng với những lạc thú tuyệt vời mà bề trên đã ban cho.
Theo đúng trình tự, Simonetta sinh hạ một bé gái và một tuần sau đến lượt Donatella với một bé trai.
Nhưng các vị thần vẫn chưa ngừng lại với Ivo. Một thời gian ngắn sau, Donatella thông báo với Ivo rằng cô ta lại mang bầu và đến lượt Simonetta cũng nói như vậy vào tuần lễ kế tiếp. Chín tháng sau, Donatella cho ông một cậu con trai và Simonetta cho ông một cô con gái. Bốn tháng sau, cả hai người đàn bà cùng mang bầu và lần nầy họ sinh cùng ngày. Ivo đã chạy như điên từ Salvador Mundi là nơi Simonetta sinh đến Clinia Santa Chiara, nơi mà ông đã đưa Donatella vào.
- Ông chạy như con thoi giữa hai bệnh viện, vừa lái chiếc Raccordo Anulare vừa vẫy tay với dám con gái ngồi trước những căn lều nhỏ, dọc theo con đường, dưới những chiếc ô màu hồng, đợi khách. Ivo lái xe quá nhanh nên không kịp nhìn họ nhưng ông rất yêu họ và muốn tất cả bọn họ.
Donatella lại sinh một bé trai và phần của Simonetta lại là một bé gái.
Đôi lần Ivo mong ước sự việc được đảo ngược lại.
Thật là trớ trêu khi vợ ông sinh toàn con gái và người tình thì sinh toàn con trai, bởi vì ông vẫn thích có người thừa kế là đàn ông, mang họ của mình. Nhưng dù sao ông vẫn là người mãn nguyện. Ông có ba đứa con ngoài nhà và ba đứa con trong nhà. Ông yêu thương tất cả luôn tỏ ra là một người cha tuyệt vời, nhớ hết ngày sinh, ngày lễ thánh và tên của chúng. Ba đứa con gái tên là Isabella, Benedetta và Camilla còn lũ con trai là Francesco, Carlo và Luca.
Khi bọn trẻ lớn dần lên thì cuộc sống cũng dần trở nên phức tạp hơn với Ivo. Kể cả vợ, người tình và sáu đứa con. Ivo phải lo đến tám buổi sinh nhật, tám ngày lễ thánh và hai kỳ nghỉ trong mỗi vụ hè.
Ông phải chắc chắn rằng trường của bọn trẻ ở cách xa nhau. Lũ con gái học ở Saint-Dominique, tu viện Pháp ở đường Cassia, còn bọn con trai thì ở trường dòng tên Massimo ở EUR. Ivo gặp gỡ và tranh thủ cảm tình tất cả các thầy cô giáo của bọn chúng, giúp đỡ các con làm bài tập ở nhà, chơi đùa với chúng, sửa chữa những đồ chơi mà chúng làm hỏng. Ivo phải sử dụng tất cả tài năng và sự khéo léo để quản lý hai gia đình và giữ cho họ cách xa nhau. Ông đúng là một người cha, người chồng gương mẫu và là một người tình lý tưởng. Vào ngày lễ Noel, ông ở nhà với Simonetta và bọn con gái. Còn trong ngày lễ Befama mồng sáu tháng giêng, Ivo ăn mặc y hệt phù thuỷ Befama, tặng cho lũ con trai nhiều món quà cùng Carbone, thứ kẹo cứng mà chúng rất thích.
Vợ và người tình của Ivo đều đáng yêu còn lũ con của ông đều sáng sủa, xinh đẹp và ông rất hãnh diện về họ. Đời thật là đẹp.
Và rồi các thiên thần bắt đầu trở mặt với Ivo.
o O o
Như những trường hợp bất hạnh nhất, sự việc xảy ra mà không hề có một dấu hiệu gì báo trước.
Sáng hôm ấy, Ivo làm tình với Simonetta trước bữa sáng, rồi đi thẳng đến văn phòng, tại đây ông đã hoàn thành tốt đẹp mọi việc. Vào lúc 1 giờ trưa ông nói với người thư ký nam rằng buổi chiều ông phải có mặt tại một cuộc họp - theo yêu cầu của Simonetta.
Mỉm cười với ý nghĩ về những lạc thú sắp tới, Ivo lái xe vòng theo khu vực xây dựng chắn ngay tường dọc theo Lungo Tevere, nơi người ta đã xây một đường xe điện ngầm vào 17 năm về trước, vượt qua cầu tới đường Francia và 30 phút sau lái xe vào gara tại căn hộ đường Montemiganaio. Ngay khi mở cửa bước vào nhà, Ivo đã biết có điều gì bất ổn. Francesco, Carlo và Luca đứng xung quanh Donatella, còn cô ta nhìn ông với nét mặt đầy căm thù đến nỗi trong một khoảnh khắc Ivo đã tưởng mình vào nhầm nhà người khác.
- Stronzo! - Cô ta hét lớn với ông.
Ivo ngơ ngác nhìn quanh "Carissima! Các con… có chuyện gì vậy?
- Anh đã làm gì? - Donatella đứng dậy, - Đây là cái mà anh đã làm? - Cô ta ném tờ tạp chí Oggi vào mặt ông. - Xem đi!
Vẫn ngơ ngác, Ivo cúi xuống nhặt tờ tạp chí lên.
Đập vào mắt ông trên trang bìa là hình ảnh ông, Simonetta và ba đứa con gái. Đầu đề ghi "Ngưòi bố của gia đình".
Chúa ơi! Ông đã hoàn toàn quên chuyện đó. Nhiều tháng trước, tạp chí nầy đã xin phép viết một bài về ông và ông đã dại dột cho phép. Nhưng Ivo không thể tưởng tượng nổi nó lại được đăng lên mặt báo một cách ồn ào như vậy. Ông nhìn người tình đang nức nở khóc cùng bọn trẻ và lên tiếng:
- Anh có thể giải thích…
- Lũ bạn học của chúng đã giải thích hết rồi!
Donatella rít lên:
- Lũ con tôi khóc lóc chạy về nhà vì cả trường gọi chúng là con hoang?
- Cara, anh…
- Bà chủ nhà và đám hàng xóm đối xứ với chúng tôi như là cùi hủi vậy. Chúng tôi không thể ngẩng mặt lên làm người nữa. Tôi sẽ đưa các con đi khỏi đây.
Ivo nhìn cô ta chằm chằm.
- Em nói cái gì vậy?
- Tôi sẽ rời khỏi Rome, và tôi sẽ đưa các con đi theo.
- Chúng cũng là của anh mà, - ông la lên, - Em không thể làm như thế được.
- Tôi sẽ giết anh nếu anh ngăn cản tôi.
Quả là một cơn ác mộng. Ivo đứng đó, nhìn ba đứa con trai và cô nhân tình đang lên cơn điên loạn, thầm nghĩ "Chuyện nầy không thể xảy ra với mình".
Nhưng Donatella không buông tha cho ông.
- Trước khi chúng tôi đi, - Cô ta thông báo, - Tôi muốn có một triệu đô la. Tiền mặt.
Ivo bật cười vì thấy đòi hỏi nầy quá lố bịch.
- Một triệu…
- Nếu không, tôi sẽ gọi điện cho vợ anh.
o O o
Chuyện đã xảy ra sáu tháng trước. Donatella vẫn chưa thực hiện lời đe dọa nhưng Ivo biết cô ta hoàn toàn có thể. Hàng tuần cô ta lại gia tăng áp lực. Cô ta gọi điện lên văn phòng của ông và nói:
- Tôi không cần biết anh lấy tiền bằng cách nào. Hãy kiếm đi.
Chỉ có mỗi một cách giúp Ivo kiếm được số tiền lớn như thế. Ông phải bán được số cổ phần trong Roffe và các con. Và Sam Roffe là người ngăn chặn việc bán cổ phần, người đang đe dọa vụ hôn nhân của Ivo và cả tương lai của ông. Ông ta phải bị chặn lại. Nếu biết đúng người thì tất cả đều có thể được lo liệu chu tất.
Điều làm Ivo đau đớn hơn hết là Donatella, người tình của ông, không cho ông chạm vào người cô ta.
Ivo được phép hàng ngày thăm các con, nhưng phòng ngủ thì tuyệt đối bị cấm cửa.
- Sau khi anh đưa tiền cho tôi, - Donatella hứa, - Chúng ta sẽ làm tình với nhau.
Vì quá đỗi tuyệt vọng, một buổi chiều, Ivo đã gọi điện cho Donatella và nói:
- Anh đến ngày bây giờ đây. Tiền nong đã được thu xếp ổn thoả.
Ông định làm tình với cô ta trước rồi xoa dịu cô ta sau. Nhưng mọi việc đã không tuân theo dự định của ông. Ông đã cởi được quần áo cô ta, và khi cả hai cùng trần truồng, ông mới nói sự thật:
- Anh vẫn chưa có tiền, Cara, nhưng một ngày gần đây…
Và thế là cô ta nhẩy bổ vào tấn công ông như một con thú dữ.
Giờ đây Ivo đang nghĩ về những việc đó, khi đang lái xe rời khỏi căn hộ của Donatella và rẽ đường Cassia đông đúc ở phía Bắc, hướng về phía nhà ở Olgiata. Ông liếc khuôn mặt mình trong tấm gương chiếu hậu.
Máu đã bớt chảy nhưng những vết cào nhìn rất rõ và đã đổi màu. Ông nhìn xuống chiếc áo sơ mi dính đầy máu. Ông sẽ phải giải thích ra sao với Simonetta về những vết cào trên mặt và lưng đây? Trong một phút liều lĩnh, Ivo đã định kể cho vợ nghe toàn bộ sự thật nhưng ông đã nhanh chóng gạt bỏ ý nghĩ đó.
Ông có thể - chỉ có thể cho Simonetta biết rằng trong một giây phút mềm lòng ông đã lên gi.ường cùng một cô gái và làm cho cô ta có mang, và ông có thể - chỉ có thể thoát khỏi bế tắc. Nhưng còn ba đứa con? Trong thời gian là 3 năm? Cuộc đời ông sẽ không đáng giá dù chỉ là đồng 5 lia. Ông không có lý do gì để không về nhà lúc nầy vì hai vợ chồng ông mời khách đến ăn tối và Simonetta sẽ đang chờ đợi ông. Ivo đã đến đường cùng. Hôn nhân của ông sắp sửa tan vỡ. Chỉ có San Genaro, vị thần hộ mệnh với nhiều phép lạ mới cứu được ông. Ivo chợt thấy một tín hiệu đèn bên lề đường Cassia. Ông đột nhiên đạp phanh, ra khỏi xa lộ và dừng lại.
30 phút sau, Ivo lái xe qua những cánh cổng của Olgiata. Bỏ qua những cái nhìn hiếu kỳ của đám bảo vệ lên khuôn mặt rách nát và chiếc áo sơ mi đầy máu, Ivo lái xe dọc con đường quanh co đến chỗ rẽ dẫn về phía cửa nhà. Ông đỗ xe lại, mở cửa trước và bước vào phòng khách. Simonetta và con gái lớn Isabella đang ở trong phòng. Sắc mặt của Simonetta đầy vẻ kinh hoàng khi bà trông thấy Ivo.
- Ivo? Chuyện gì xảy ra vậy?
- Ông ngượng nghịu mỉm cười, cố giấu vẻ đau đớn và lúng túng thừa nhận, - Anh e rằng anh đã làm một chuyện ngu xuẩn, Cara…
Simonetta đến gần hơn, xem xét kỹ các vết cào trên mặt ông và Ivo thấy cặp mắt bà nheo lại. Và khi lên tiếng, giọng bà đã trở nên lạnh lùng.
- Ai đã cào anh vậy?
- Tiberio, - Ivo thông báo. Từ đằng sau lưng ông đưa ra một con mèo lớn, xấu xí với bộ lông mầu xám đang phun phì phì. Nó nhẩy khỏi tay ông và phóng vụt đi.
- Anh mua nó cho Isabella, nhưng cái con khốn nạn ấy tấn công anh khi anh định nhốt nó vào lồng.
- Thật tội nghiệp cho anh! - Simonetta đến gần hơn bên cạnh ông. - Thiên thần của em! Hăy lên gác và nằm xuống. Em gọi bác sĩ. Và em sẽ bôi thuốc cho anh. Em…
- Thôi, thôi! Anh không sao - Ivo dũng cảm nói.
Ông vẫn co rúm người lại khi bà choàng tay qua người.
- Cẩn thận! Nó cào cả lên lưng anh nữa.
- Anh yêu! Chắc là anh đau đớn lắm phải không?
- Không đau lắm, - Ivo trả lời. - Anh thấy vẫn ổn!
Quả thực là như vậy.
Chuông cửa reo vang.
- Để em ra xem. - Simonetta nói.
- Không, để anh. - Ivo nói nhanh. lAnh… anh đang chờ một số tài liệu quan trọng từ văn phòng.
- Ông bước vội về phía cửa và mở ra.
- Ông Palazzi?
- Vâng.
Một nhân viên bưu điện trong bộ đồng phục màu xám, trao cho ông chiếc phong bì. Bên trong là bức điện của Rhys Williams. Ivo đọc nhanh nội dung. Và ông đứng đó một lúc lâu.
Rồi ông hít một hơi thật dài và đi lên lầu thay quần áo chuẩn bị đón khách.
Chú thích
(1)Nhà soạn nhạc opera vĩ đại của Italia
 
CHƯƠNG 4
BUENOS AIRES
Thứ hai, mồng 7 tháng Chín, 3 giờ chiều
Khu trường đua ở một vùng ngoại vi hẻo lánh của thủ đô Buenos Aires, Argentina chật ních với khoảng 50. 000 khán giả đến xem giải đua xe hơi truyền thống hàng năm. Các tay đua phải vượt qua 115 vòng đua, mỗi vòng dài khoảng bốn dặm. Cuộc đua diễn ra trong vòng năm tiếng dưới ánh nắng mặt trời như thiêu đốt, và số xe sót lại chỉ còn đếm trên đầu ngón tay từ vòng đua đầu tiên. Đám đông nín thở theo dõi. Đây quả là một cuộc đua vô tiền khoáng hậu. Tất cả các huyền thoại tốc độ trên thế giới đều tụ họp ở đây hôm nay. Chris Amon từ New Zealand, Brian Redmad từ Lancashire. Còn có cả tay đua Andreadi Adamici từ Italia, lái chiếc Alpa Romeo Tipo 33, Carlos Maco từ Brazil, lái chiếc xe Mach Fomula 1. Người đang giữ chức vô địch là tay đua Bỉ Jacky Ickx, cùng với tay đua Thuỵ Điển Roffe Wisell lái chiếc BRM.
Đường đua trông như một chiếc cầu vồng sặc sỡ với những cơn lốc xanh đỏ, đen, trắng, vàng của những chiếc Ferrari, McLaren M19 - A s và Lotus Formula 3 s.
Khi các vòng đua liên tục nối tiếp nhau, các người khổng lồ bắt đầu gục ngã. Chris Amon đang ở vị trí thứ tư thì van tiết liệu của xe anh bỗng mở ra. Anh ta đụng mạnh vào sườn chiếc Cooper của Brian Redman trước khi kịp khống chế xe của mình bằng cách tắt động cơ, nhưng cả hai chiếc xe đều bị hỏng. Roffe Wisell đang dẫn đầu trong chiếc BRM và bám sát là Jacky Ickx. Lúc vào cua, hộp số của chiếc BRM bỗng vỡ tung và toàn bộ hệ thống điện bị bốc cháy. Chiếc xe bắt đầu quay tròn và chiếc Ferrari của Jacky Ickx cũng bị cuốn vào đó.
Đám đông như đang lên cơn điên cuồng.
Chỉ còn ba chiếc xe đang cố tăng tốc trên quãng đường còn lại của cuộc đua. Đó là Jorje Amandaris từ Argentina, lái chiếc Surtees, Nils Nilsson từ Thuỵ Điển, lái chiếc Matra, và một chiếc Ferrari 812 B-2, người lái là Martel, đến từ Pháp. Họ đều tỏ ra xuất sắc thách thức những đoạn đường thẳng tắp, những khúc cua chết người, cố gắng vượt lên phía trước.
Jorje Amandaris đang dẫn đầu, và vì là một tay đua bản xứ nên anh ta được đám đông cuồng nhiệt cổ vũ. Theo sát Amandaris là Nils Nilsson, lái một chiếc Matra đỏ - trắng và phía sau anh ta là chiếc Ferrari đen trắng của tay đua người Pháp Martel.
Không ai để ý đến chiếc xe Pháp cho đến 5 phút cuối cùng, khi nó bắt đầu vượt lên trên đường đua.
Đầu tiên là vị trí thứ 10, rồi thứ 7 và thứ 5 và nó càng lúc càng chứng tỏ sức mạnh của mình. Giờ đây, tất cả đều nhìn nó khi nó bắt đầu đe dọa vị trí số hai của Nilsson. Cả 3 chiếc xe đều duy trì tốc độ gần 270 km/giờ. Như thế đã là quá nguy hiểm khi chạy trên các đường đua Brands Hatch hoặc Warkin Glen, nhưng trên đường đua còn thô sơ của Buenos Aires thì chẳng khác nào tự sát. Viên trọng tài mặc áo choàng đỏ đứng bên lề đường đua giơ cao bảng hiệu: "NĂM VÒNG".
Chiếc Ferrari đen trắng định vượt qua chiếc Matra của Nilsson từ phía ngoài, và Nilsson nhích dần lên, chặn đường chiếc xe Pháp. Và họ cùng bỏ qua một chiếc xe Đức ở phía trong đang định vượt lên. Bây giờ nó đã ngang hàng với xe của Nilsson. Chiếc xe Pháp tụt lại rồi đột ngột tăng tốc, lách vào khoảng giữa xe của Nilsson và chiếc xe Đức. Với một nỗ lực tuyệt vời tay đua Pháp đã đẩy bật hai xe sang hai bên và chiếm lấy vị trí số hai. Đám đông nín thở chợt gào lên tán thưởng. Đó quả là một mưu mẹo thông minh và táo bạo.
Bây giờ thì Amandaris vẫn dẫn đầu, Martel ở vị trí số hai và Nilsson ở vị tri số ba với ba vòng còn lại Amandaris đã thấy rõ cảnh tượng vừa rồi. Tay người Pháp cừ thật, anh ta nghĩ thầm, nhưng chưa đủ sức đánh bại ta đâu. Amandaris đã quyết định phải thắng trong cuộc đua nầy. Phía trước anh ta là tấm bảng báo hiệu "HAI VÒNG". Cuộc đua đã sắp kết thúc và người chiến thắng phải là anh ta. Amandaris đã liếc thấy chiếc Ferrari đen vàng đang cố trồi lên bên cạnh. Anh ta nhìn lướt qua cặp mắt lồi, khuôn mặt bẩn thỉu lem luốc của tay lái xe, căng thẳng và kiên quyết. Amandaris thầm thở dài. Anh ta cảm thấy tiếc nuối về việc mình sắp làm, nhưng anh ta không còn sự lựa chọn nào khác. Đua xe không phải là trò chơi của các nhà thể thao mà nó là trò chơi của người chiến thắng.
Hai chiếc xe sắp đến gần đầu phía bắc của đường đua, nơi có một khúc quanh với gờ cao, là đoạn nguy hiểm nhất với khoảng một tá xe đã đâm vào đây.
Amandaris liếc nhanh sang người lái chiếc Ferrari rồi siết chặt tay lái. Khi hai chiếc xe đến gần khúc quanh, Amandaris khẽ nhấc chân ra khỏi cần ga, để cho chiếc Ferrari vượt lên trước. Anh ta thấy tay đua Pháp liếc nhanh mình với vẻ toan tính. Vậy là chiếc Ferrari đã ở phía anh ta, đã rơi vào cạm bẫy. Đám đông đang la hét dữ dội. Jorje Amandaris chờ cho đến khi chiếc Ferrari đen vàng vượt hẳn qua anh ta từ phía ngoài. Đúng lúc nầy Amandaris tăng hết ga và bắt đầu chuyển hướng sang bên phải, chặn đường tay đua Pháp, và chiếc Ferrari chỉ còn cách đâm thẳng vào bờ tường.
Amandaris trông thấy khuôn mặt thất thần, hoảng hốt của tay đua Pháp và anh ta thầm nói: "Xin chào! "
Ngay lúc đó chiếc xe Pháp quay hẳn sang đâm vào chiếc Surtees của Amandaris. Amandaris không thể tin nổi vào mắt mình. Chiếc Ferrari sắp sửa đâm sầm vào xe của anh ta. Hai chiếc xe chỉ còn cách nhau khoảng 1 mét và với tốc độ đó thì Amandaris phải quyết định chớp nhoáng. Ai mà đoán được tay người Pháp đó lại là kẻ hoàn toàn điên rồ? Trong một hành động phản xạ tức thời, Amandaris đánh nhanh tay lái sang trái, cố tránh khối kim loại nặng hàng tấn kia lao vào mình, và phanh gấp để cho chiếc xe Pháp lách lên trong gang tấc và vượt qua mặt anh ta về đích. Trong giây lát, chiếc xe của Amandaris tòe ra như đuôi cá và mất lái, quay tròn như chong chóng vượt qua đường đua và lăn mãi, lăn mãi cho đến khi nổ bùng thành một cột lửa khói đỏ và đen.
Nhưng đám đông vẫn không rời mắt khỏi chiếc Ferrari của tay đua Pháp đang băng qua vạch đích.
Rồi họ rầm rập chạy thành từng đợt về phía chiếc xe, bao vây lấy nó, nói những lời chúc mừng vô nghĩa.
Tay lái xe từ từ đứng dậy và bỏ kính mắt cùng mũ bảo vệ ra.
Đó là một người đàn bà có mái tóc cắt ngắn màu lúa mì, khuôn mặt được cấu thành bới những đường nét khoẻ mạnh, cân đối. Bà ta đẹp một cách lạnh lùng, theo phong cách cổ điển. Thân hình bà ta đang run rẩy, không phải vì kiệt sức mà là vì kích động, nhớ đến khoảnh khắc nhìn vào mắt Jorje Amandaris khi mà bà ta đưa anh ta vào vòng tay tử thần. Thông tín viên gào vào loa đấy phấn khích:
- Người chiến thắng là Hélène Roffe - Martel, người Pháp, lái chiếc Ferrari.
o O o
Hai giờ sau, Hélène và chồng, Charles, đã ở trong khách sạn Ritz ở trung tâm Buenos Aires, nằm trên tấm thảm ở phía trước lò sưởi. Helene trần truồng, cưỡi lên người chồng theo một tư thế cổ điển tên là Chiếc xe ngựa thành Lyon, còn Charles rên rỉ:
- Ô, Chúa ơi! Xin em đừng làm thế với anh! Anh van em!
Những lời van vỉ của ông chỉ làm bà ta tăng thêm độ kích thích và bà ta bắt đầu nhấn mạnh hơn, làm cho ông đau và nhìn những dòng nước mắt ông tuôn ra.
Mình đang bị trừng phạt vô cớ, - Charles nghĩ. Ông khiếp sợ nghĩ đến những hình phạt mà Hélène sẽ đem ra sử dụng với ông nếu bà ta biết những tội lỗi mà ông đã phạm phải.
Charles Martel lấy Hélène Roffe vì dòng họ và tiền bạc của bà ta. Sau khi thành hôn bà ta vẫn giữ họ của mình cùng với họ của chồng, và bà ta cũng giữ luôn tài sản trong nhà. Cho tới khi Charles phát hiện ra mỉnh đã đầu tư vào một món hàng không sinh lợi thì đã quá muộn.
Charles Martel lần đầu tiên gặp Hélène Roffe khi ông còn là luật sư cấp thấp trong một công ty luật lớn ở Paris. Ông được yêu cầu mang một số tài liệu vào phòng họp, nơi buổi họp đang diễn ra. Trong phòng là bốn thành viên cao cấp của công ty và Hélène Roffe.
Charles đã nghe nói nhiều về bà ta. Kể cả mọi người ở châu Âu. Bà ta là một trong những người thừa kế sản nghiệp của tập đoàn dược phẩm Roffe; là người phóng túng và tính khí thất thường, rất được báo chí ái mộ; là nhà vô địch môn trượt tuyết, tự lái chiếc máy bay Learjet của mình, dẫn đầu đoàn thám hiểm leo núi ở Nepal, đua xe và đua ngựa, thay đổi tình nhân như thay áo. Hình ảnh của Helene thường xuất hiện trên các tờ Paris Match và Jours de France. Bà ta đến công ty ông lúc đó để lo việc ly dị của mình.
Lần thứ tư hoặc năm, Charles không biết chắc và cũng không buồn quan tâm. Những người thuộc dòng họ Roffe vốn không cùng thế giới với ông.
Charles đưa tập tài liệu cho cấp trên, bồn chồn, lo lắng không phải vì sự hiện diện của Helene Roffe mà là vì sự có mặt của bốn vị thành viên cấp cao.
Họ tượng trưng cho quyền lực, mà Charles Martel lại là người kính trọng quyền lực. Về cơ bản ông là "type" người khiêm nhường, bằng lòng với cuộc sống giản dị, cư ngụ trong một căn hộ nhỏ ở Passy và đang hoàn thành một bộ sưu tập tem nho nhỏ.
Charles Martel không phải là một luật sư xuất sắc nhưng ông có trình độ, cẩn thận và đáng tin cậy. Thái độ của ông luôn tỏ ra hết sức chững chạc. Ông mới ngoài bốn mươi tuổi, dáng vẻ bề ngoài kém hấp dẫn và ít gây được cảm tình. Có một người vào đó đã nói rằng tính cách của ông giống như cát ướt, và sự mô tả đó không phải là không đúng. Vì thế, thật là ngạc nhiên khi mới có một ngày sau khi gặp Helene Roffe, Charles Martel được gọi đến văn phòng của Michel Sachard, một thành viên cao cấp của công ty, và tại đây ông được biết, Helene Roffe yêu cầu đích thân anh sẽ phụ trách vụ ly hôn của bà ta. Anh phải làm việc ngay lập tức.
Charles Martel hoàn toàn sửng sốt. Ông hỏi.
- Tại sao lại là tôi, ông Sachard?
Sacharad nhìn vào mắt ông và trả lời.
- Tôi cũng không đoán được. Có lẽ là anh hợp ý bà ta.
Vì phụ trách vụ ly dị nên Charles phải thường xuyên gặp gỡ Hélène. Rất thường xuyên, ông cảm thấy như vậy. Bà ta không gọi điện cho ông mà mời ông đến ăn tối tại biệt thự của bà ta ở Le Vesinet để bàn về vụ việc rồi lại mời ông đi xem Opera và đến nhà bà ta ở Deauville. Charles cố gắng giải thích cho bà ta rằng đây là một vụ rất đơn giản, chắc chắn bà sẽ li dị được chồng, nhưng Hélène - bà ta cứ khăng khăng bắt ông gọi là Hélène, trước sự ngại ngùng đầy nhạy bén của ông - vẫn cứ bảo ông rằng bà ta cần sự chắc chắn kiên trì của ông. Sau nầy ông vẫn thường nghĩ lại điều nầy với một chút thích thú xen lẫn sự chua xót.
Trong những tuần lễ sau đó, Charles bắt đầu nghi ngờ rằng Hélène Roffe bắt đầu quan tâm tới ông, theo chiều hướng lãng mạn. Ông không thể tin nổi điều đó ông chỉ là một kẻ tầm thường, còn bà ta là thành viên của một dòng họ vĩ đại, nhưng Hélène đã làm cho ông mau chóng biết được ý định của bà ta.
- Charles, em sẽ lấy anh làm chồng.
Ông chưa bao giờ nghĩ đến chuyện phải kết hôn.
- Ông không khoái đàn bà cho lắm. Bên cạnh đó, ông cũng không yêu Hélène. Thậm chí ông còn không chắc là mình có thích bà ta không nữa. Sự ồn ào và chú ý xung quanh bà ta ở bất cứ nơi đâu họ đến làm ông thấy mất tự nhiên. Ông bị lôi ra trước công chúng nhờ danh tiếng của bà ta và ông thực sự không quen với vai diễn nầy. Ông cũng đau đớn nhận ra sự tương phản giữa họ. Sự rực rỡ của bà ta luôn gây ra nỗi bứt rức cho tính bảo thủ của ông. Bà ta luôn chạy theo thời trang và là một hình ảnh thu nhỏ của sự quyến rũ, trong lúc ông, vâng, chỉ là một luật sư trung niên tầm thường, đơn điệu. Ông không thể hiểu được Hélène tìm thấy cái gì ở mình. Không ai hiểu cả. Bởi sự nổi tiếng của bà ta trong các môn thể thao mạo hiểm dành cho nam giới, nên người ta đồn rằng Hélène là một trong những người chủ trương của phong trào giải phóng phụ nữ. Thực ra thì bà ta khinh miệt phong trào nầy và cũng chẳng tán thành chủ trương nam nữ bình đẳng. Bà ta cho rằng đàn ông chẳng có lý do gì để được đặt ngang hàng với phụ nữ cả. Đàn ông chỉ được xuất hiện khi cần. Họ không thông minh lắm, nhưng họ dễ bảo để có thể mua vui, để châm lửa hút thuốc, lang thang, mở cửa và đem lại khoái cảm trong việc chăn gối. Họ là những "con vật cưng" tuyệt diệu, tự họ chỉ biết chưng diện và tắm mà thôi. Tóm lại chỉ là thứ để tiêu khiển.
Helene Roffe có rất nhiều bạn bè chơi bời, những kẻ liều mạng, những tay tài phiệt, những chàng trai quyến rũ. Nhưng chưa có ai giống Charles Martel. Bà ta biết rõ ông chỉ là một con số không. Một cục đất sét vô dụng.
Và đây thật sự là một thách thức. Bà ta sẽ chiếm đoạt ông, nhào nặn ông để xem mình có thể biến ông thành cái gì. Một khi Hélène Roffe đã quyết thì Charles Martel chẳng còn cơ hội thoát thân nào nữa.
Hôn lễ được tổ chức ở Neuilly và hai người hưởng tuần trăng mật ở Monte Carlo, nơi Charles đã mất trinh cùng những ảo tưởng của mình. Ông dự định trở về làm ở công ty luật.
- Đừng khờ như vậy, - "cô dâu" của ông nói. - Bộ anh tưởng em muốn lấy một gã luật sư tầm thường hay sao? Anh sẽ vào kinh doanh cùng gia đình em. Rồi một ngày nào đó anh sẽ đỉều hành nó. Chúng ta sẽ điều hành nó.
Hélène thu xếp cho Charles vào làm ở chi nhánh Paris của công ty Roffe và các con. Ông báo cáo lại cho bà ta nghe tất cả mọi việc đang diễn ra và bà ta hướng dẫn ông, giúp đỡ ông, chỉ cho ông biết ông phải làm gì. Charles tiến bộ rất nhanh chóng. Ông mau chóng trở thành người phụ trách hoạt động của tập đoàn ở Pháp và trở thành thành viên hội đồng quản trị. Hélène đã biến ông từ một luật sư quèn trở thành một uỷ viên hội đồng quản trị của một trong những tập đoàn lớn nhất thế giới. Nhẽ ra ông phải cảm thấy mình vô cùng hạnh phúc, nhưng thực tế lại hoàn toàn ngược lại. Ngay từ khi mới thành hôn, Charles đã nhận ra rằng mình hoàn toàn bị vợ khống chế.
Bà ta chọn thợ may cho ông, chọn thợ đóng giầy và chọn cả hiệu áo sơ mi. Bà ta đưa ông vào Câu lạc bộ Đua ngựa. Bà ta đối xử với ông như một tên đĩ đực. Lương của ông được trả trực tiếp cho bà ta, và bà ta chỉ đưa lại cho ông một con số khiêm tốn để dằn túi. Nếu Charles cần thêm tiền, ông phải hỏi xin bà ta. Bà ta bắt ông báo cáo chi tiết thời gian biểu và ông hoàn toàn nằm trong sự sai bảo của bà ta.
Bà ta thường có trò gọi đến văn phòng của ông bắt ông về nhà ngay lập tức chỉ để đưa một lọ kem dưỡng da hay một vài thứ vớ vẩn nào đó. Khi ông về đến nơi, bà ta đã trần truồng đợi ông trong phòng ngủ. Bà ta dâm dục không thể tưởng, như một con thú vậy.
Charles đã sống với mẹ đến năm ba mươi hai tuổi, khi bà qua đời vì bệnh ung thư. Bà phải nằm bất động một thời gian dài và ông đã thường xuyên chăm sóc mẹ. Ông chẳng có thời giờ đi chơi với bạn gái hoặc nghĩ đến chuyện lấy vợ. Mẹ ông là cả một gánh nặng và khi bà ra đi, ông đã nghĩ mình có thể ngửi thấy mùi tự do. Nhưng thực ra, ông lại chỉ ngửi thấy mùi mất mát. Ông không khoái đàn bà và t.ình d.ục. Ông đã giải thích với Hélène, với vẻ thật thà ngây thơ về cảm giác của mình khi bà ta lần đầu đề cập đến chuyện hôn nhân "khoản ấy của anh không được khoẻ cho lắm".
Hélène mỉm cười đáp lại.
- Charles tội nghiệp. Đừng lo ngại gì về chuyện t.ình d.ục. Em xin hứa là anh sẽ thích nó.
Ông căm ghét chuyện đó. Nhưng hình như điều nầy chỉ làm tăng thêm sự hứng thú của Hélène. Bà ta thường cười chế nhạo sự yếu ớt của ông và ép buộc ông làm những điều ghê tởm khiến Charles cảm thấy hèn hạ và nôn mửa. Bản thân hành vi t.ình d.ục đã là đê tiện. Nhưng Hélène lại thích thử nghiệm. Charles thường không đoán trước được chuyện gì sẽ xảy ra.
Một lần khi ông đang lên đến tột đỉnh thì bà ta xoa đá vụn vào t.inh hoàn ông, còn lần khác bà ta lại chọc que có điện vào hậu môn ông. Bà ta làm cho ông cảm thấy mình là đàn bà còn bà ta mới là đàn ông. Charles thật sự sợ Hélène. Ông cố tìm cách lấy lại danh dự đàn ông của mình, nhưng, trời ạ, ông chẳng thể nào tìm ra một lĩnh vực nào có thể lấn át được Hélène.
Bà ta nắm rõ luật pháp như ông và thậm chí về khoản luật kinh doanh thì lại còn vượt trội cả ông. Bà ta tranh luận với ông hàng giờ về công ty. Bà ta không bao giờ chán việc đó cả.
- Charles hãy nghĩ đến tất cả những quyền lực đó. Roffe và các con có thể kiến tạo hoặc huỷ diệt hơn một nửa số quốc gia trên thế giới. Em sẽ điều hành Tập đoàn. Ông tổ của em đã sáng lập ra nó. Nó là một phần của em.
Sau mỗi lần như vậy thì Helene lại trở nên cuồng dâm và Charles bị buộc phải thoả mãn bà ta theo những kiểu mà ông không dám nghĩ đến. Ông dần đần trở nên khinh bỉ bà ta. Giấc mơ duy nhất của ông là được ở cách xa bà ta, được bỏ trốn. Nhưng để thực hiện được điều đó thì ông phải có tiền.
Một ngày kia, sau bữa trưa, một người bạn của ông tên René Duchamps, nói chuyện với ông về một cơ hội làm giàu.
- Một ông chú của tôi đang làm chủ một vườn nho lớn ở Burgundy vừa mới qua đời. Vườn nho sắp bị đem bán khoảng 1400 mẫu thượng hạng. Tôi đang nắm lợi thế trong tay. - René Duchamps tiếp tục, - bởi vì đó là họ hàng của tôi. Tôi không đủ sức làm vụ nầy một mình, nhưng nếu có anh tham gia, thì chỉ trong một năm vốn liếng có thể tăng gấp đôi. Dù sao thì anh cũng nên đến xem qua.
Bởi vì không có can đảm thú nhận với bạn rằng mình không có một xu dính túi nên Charles đành phải đến những đồi nho đỏ rực ở Burgundy để xem. Và ông đã thật sự bị ấn tượng mạnh.
René Duchamps nói:
- Mỗi người sẽ đầu tư hai triệu francs. Và trong một năm chúng ta sẽ có bốn triệu.
Bốn triệu francs! Nó đồng nghĩa với tự do, với trốn thoát. Ông có thể đến một nơi mà tài thánh Helene mới tìm ra.
- Để tôi suy nghĩ đã, - Charles hứa với bạn.
Và ông đã suy nghĩ. Cả ngày lẫn đêm. Đây là cơ hội cho cả một đời người. Nhưng bằng cách nào? Charles biết rằng đi vay mượn mà Helene không biết là chuyện không bao giờ có. Cái gì cũng đứng tên bà ta, từ nhà cửa, các bức tranh quý, những chiếc xe hơi, những món nữ trang đắt tiền…
Nữ trang… những món nữ trang đẹp đẽ mà Hélène không sử dụng đều được cất kỹ trong chiếc tủ sắt đặt trong phòng ngủ.
Một ý tưởng dần nảy sinh trong đầu ông. Nếu ông có thể lấy được nữ trang của bà ta, mỗi ngày một ít, thì ông sẽ thay thế chúng bằng những món đồ giả và dùng đồ thật để vay tiền. Sau khi đã kiếm đủ tiền từ vụ vườn nho, ông chỉ cần trả đủ chỗ nữ trang thật vào chỗ cũ và vĩnh viễn biến khỏi cuộc đời Hélène.
Charles gọi điện cho René Duchamps và nói, trái tim đập mạnh vì kích động.
- Tôi quyết định tham gia vụ nầy cùng anh.
Phần đầu tiên của kế hoạch nầy làm Charles sợ hãi đến tột độ. Ông phải đánh cắp được chỗ nữ trang của Hélène trong tủ sắt.
Ý nghĩ về điều khủng khiếp mình sắp làm khiến Charles trở nên căng thẳng đến nỗi hầu như không còn làm được việc gì khác nữa. Ông sống như một người máy, không nghe không thấy mọi việc xảy ra quanh mình. Lúc nào thấy Hélène là ông lại toát mồ hôi. Hai bàn tay ông luôn run rẩy những khi rỗi rãi.
Hélène quan tâm đến ông, như bà ta vẫn quan tâm đến một con vật cưng vậy. Bà ta mời bác sĩ đến khám cho ông, nhưng cũng không tìm ra điều gì bất ổn. "Ông ấy có lẽ hơi căng thẳng đầu óc. Nằm nghỉ một hai hôm có lẽ là ổn thôi".
Hélène nhìn Charles một lúc lâu, trần truồng trên gi.ường và mỉm cười "Cám ơn bác sĩ":
Lúc bác sĩ vừa đi khỏi, Helene bắt đầu cởi quần áo.
- Anh anh cảm thấy không được khoẻ. - Charles tìm cách kháng cự.
- Nhưng em khoẻ. - Helene trả lời.
Chưa bao giờ ông ghét bà ta đến thế.
Cơ hội của Charles đến vào tuần lễ tiếp theo, khi Hélène định đi Garmisch - Partenkirchen trượt tuyết cùng đám bạn. Bà ta quyết định cho Charles ở lại Paris.
- Em muốn đêm nào anh cũng phải ở nhà, - Helene bảo ông, - em sẽ gọi điện về.
Charles nhìn chiếc Jensen màu đỏ của bà ta lao vụt đi và khi nó vừa khuất đạng, ông chạy vội đến bên tủ sắt. Ông đã nhiều lần thấy bà ta mở nó và ông đã biết gần hết mã số. Tuy nhiên cũng phải mất đến cả tiếng đồng hồ ông mới tìm được phần còn lại.
Bằng những ngón tay run rẩy, ông kéo cánh cửa tủ ra. Trong đó, trong cái hộp lót nhung, tự do của ông đang lấp lánh như những ngôi sao nhỏ. Charles đã tìm được một người thợ kim hoàn tên Pierre Richaud, một tay tổ về việc làm nữ trang giả. Charles đã giải thích khá dài dòng về việc ông cần sao chép lại các món nữ trang đó, nhưng Richaud đã thản nhiên trả lời:
- Thưa ông, tôi làm cho tất cả mọi người. Ngày nay chẳng ai dám đeo nữ trang thật ra phố nữa đâu.
Charles đưa cho ông ta mỗi lần một món để sao lại và sau đó thì đổi lấy đồ thật. Ông đã mượn được tiền bằng cách thế chấp các món nữ trang thật ở Quỹ tín dụng thành phố - hiệu cầm đồ của nhà nước.
Việc thực hiện kế hoạch mất nhiều thời gian hơn dự tính của Charles. Ông chỉ mở được tủ khi Hélène không có nhà và việc sao chép nữ trang lắm lúc chậm trễ không thể tưởng. Nhưng rồi cuối cùng, cái ngày Charles có thể nói với René Duchamps đã đến:
- Tôi sẽ gom đủ tiền vào ngày mai.
Ông đã hoàn thành mọi việc. Ông đã là chủ nhân của một nửa vườn nho. Và Hélène không có một mảy may nghi ngờ nào về những việc ông đã làm.
Charles đã bí mật nghiên cứu về công việc trồng nho. Tại sao lại không chứ? Ông không phải là người trồng nho hay sao? Ông học về những loại nho khác nhau: cabemet sauvignon là nho loại phổ thông nhất, bên cạnh đó cũng còn nhiều loại khác: gross cabernet, merlot, malbec, petit verdot… Các ngăn kéo bàn trong văn phòng của Charles chứa đầy những sách về đất đai và phương pháp ép nho. Ông nghiên cứu về cách lên men, cách tỉa cây, cách ghép giống. Và nhu cầu về rượu vang trên thế giới thì vẫn ngày một gia tăng.
Ông thường xuyên gặp gỡ người cùng hùn vốn với mình.
- Mọi thứ thậm chí còn tốt đẹp hơn tôi nghĩ, - René nói với Charles. - Giá rượu vang đang tăng vọt. Chúng ta sẽ kiếm được ba trăm nghìn franc mỗi thùng đợt ép nho đầu tiên.
Nó còn hơn cả những gì Charles từng ước mơ. Nho chính là những cục vàng của ông. Charles bắt đầu mua những tập sách nhỏ viết về các đảo ở miền biển phía Nam, về Venezuela, về Brazil. Chỉ những cái tên thôi cũng đã gợi nên sự kỳ diệu về chúng. Chỉ còn một vấn đề, là có quá ít nơi trên thế giới mà Roffe và các con không đặt văn phòng, nơi mà Hélène không thể tìm thấy ông. Và nếu ông để bà ta tìm ra, ông sẽ bị bà ta giết chết. Ông biết rằng đó là điều hoàn toàn chắc chắn. Trừ khi ông giết bà ta trước. Đó là một trong những mộng tưởng hấp dẫn nhất của Charles.
Ông đã giết đi giết lại Hélène trong đầu bằng hàng ngàn các phương cách khác nhau.
Giờ đây, Charles lại bắt đầu tỏ ra thích thú với thói tật của Hélène. Tất cả những lần bà ta bắt ông thực hiện những điều tệ hại không sao diễn tả, ông lại nghĩ, tôi sẽ sớm ra đi thôi. Tôi sẽ giàu có bằng tiền của chính cô và cô chẳng làm gì được tôi. Và Hélène thường ra lệnh, "Nhanh lên", "Mạnh lên" hoặc "đừng có dừng lại", thì ông ngoan ngoãn làm theo lời bà ta.
Và ông cười thầm trong bụng.
o O o
Trong công việc trồng nho, Charles biết rằng quãng thời gian cao điểm là mùa xuân và mùa hè, bởi vì nho phải được thu hoạch trong tháng Chín, khi mà thời tiết ôn hoà, nắng mưa vừa phải. Trời quá nắng sẽ làm khê mùi vị, còn mưa nhiều sẽ làm loãng mùi vị. Tháng Sáu bắt đầu thật tuyệt vời. Charles kiểm tra thời tiết ở Burgundy một lần, rồi hai lần một ngày.
Ông đang vô cùng nóng ruột, chỉ còn vài tuần lễ nữa là ông có thể hoàn tất giấc mơ của mình. Ông đã chọn vịnh Montego. Jamaica là quốc gia mà Roffe và các con không đặt văn phòng đại diện. Ông sẽ dễ dàng giấu mình ở đó. Ông cũng sẽ tránh xa Round Hill hay Ocho Rios, nơi mà một người nào đó trong đám bạn của Helene có thể nhìn thấy ông. Ông sẽ mua một căn nhà nhỏ trên đồi. Sinh hoạt trên đảo rất rẻ. Ông sẽ thuê người giúp việc, mua đồ ăn ngon và sống một cuộc sống sang trọng.
Và Charles đã là một người vô cùng hạnh phúc trong những ngày đầu tháng Sáu. Cuộc sống hiện tại của ông là cuộc sống nhục nhã, nhưng ông không phải đang sống trong hiện tại mà là bằng tương lai, trên một hòn đảo nhiệt đới đầy nắng ở vùng biển Caribbe:
Thời tiết tháng Sáu ngày một tốt hơn. Vừa có nắng vừa có mưa. Thật tốt cho những trái nho non nhỏ bé. Và nho cứ lớn bao nhiêu thì tài sản của Charles lớn bấy nhiêu.
Ngày mười lăm tháng Sáu, vùng Burgundy có mưa phùn. Rồi mưa ngày một to hơn. Trời mưa từ ngày nầy qua ngày khác, rồi tuần nầy qua tuần khác, cho tới khi Charles không còn tâm trí đâu mà ngồi theo dõi dự báo thờ tiết nữa.
René Duchamps gọi điện đến.
- Nếu trời ngừng mưa vào tháng Bẩy, vụ mùa của chúng ta còn có khả năng được cứu!
Hoá ra tháng bẩy lại là tháng mưa nhiều nhất trong lịch sử của Nha khí tượng Pháp. Cho đến ngày đầu tháng Tám khi Charles đã mất đến đồng xu cuối cùng trong số tiền mà ông lấy trộm được. Lòng ông tràn đầy một nỗi sợ hãi mà ông chưa bao giờ phải nếm trải qua.
- Tháng sau mình sẽ đến Argentina, - Hélène thông báo cho ông biết. - Em đã đăng ký tham gia một cuộc đua xe hơi ở đó.
- Ông đã từng chứng kiến bà ta lao vun vút trên đường đua, và ông đã nghĩ, nếu bà ta bị tai nạn, mình sẽ được tự do.
Nhưng bà ta là Hélène Roffe - Martel. Cuộc sống đã cho bà ta đóng vai người chiến thắng, cũng như ông là kẻ chiến bại.
Chiến thắng trong cuộc đua làm cho Helene kích động hơn bình thường. Họ trở về khách sạn ở Buenos Aires, rồi bà ta bắt Charles cởi quần áo và nằm sấp trên thảm. Khi chợt nhận ra vật bà ta đang cầm trong tay khi cưỡi lên người ông, ông kêu lên:
- Đừng, anh xin em!
Bỗng có tiếng gõ cửa.
- Mẹ kiếp! - Helene văng tục. Bà ta chờ đợi, và tiếng gõ cửa tiếp tục vang lên.
Một giọng nói vang lên:
- Thưa ông Martel?
- Ở yên đó!
Hélène ra lệnh. Bà ta đứng dậy, quấn một tấm lụa quanh thân hình thon thả rắn chắc, đi ra phía cửa và kéo nó ra. Một người đàn ông trong bộ đồng phục bưu điện mầu xám đứng đó, cầm trong tay một phong bì đã bị niêm kín.
- Tôi có điện khẩn gửi cho ông bà Martel.
Bà ta cầm phong bì và đóng cửa lại.
Xé phong bì ra, và lấy bức điện ra, bà ta chậm rãi đọc nó đến hai lần.
- Chuyện gì vậy?
- Sam Roffe đã chết, - bà ta nói. Rồi mỉm cười.
 
CHƯƠNG 5
LONDON
Thứ 2 mồng 7 tháng Chín, 2 giờ chiều
White s Club toạ lạc ở đầu đường St. James, gần Piccaadilly. Đây là Câu lạc bộ cổ nhất và độc đáo nhất nước Anh, được xây dựng từ thế kỷ mười tám làm câu lạc bộ đánh bạc. Các hội viên thường phải ghi tên các con trai của họ từ khi chúng mới chào đời vì ở đây có cả một danh sách chờ đợi đến ba mươi năm.
Mặt tiền của White s là hình ảnh thu nhỏ của sự thận trọng. Những khung cửa rộng trông ra đường St. James có ý tưởng làm cho những người bên trong cảm thấy thoải mái hơn là thoả mãn lòng hiếu kỳ của những du khách đi ngang. Bước lên vài bậc tam cấp đã là cổng rồi, nhưng ngoài các hội viên thì có rất ít người được lọt vào trong đó. Các căn phòng trong đó đều rộng lớn và tráng lệ, được phủ lên lớp vẹt-ni màu đen bóng của thời gian. Đồ đạc trong phòng hầu hết thuộc kiểu cổ và tiện nghi, những chiếc trường kỷ bọc da, giá để báo, những chiếc bàn cổ vô giá và ghế bành lót đệm đã từng được đến nửa tá thủ tướng ngồi qua. Có một phòng chơi cờ thỏ-cáo với một lò sưới lớn đằng sau một tay vịn bằng đồng và một cầu thang uốn cong dẫn lên phòng ăn trên lầu. Căn phòng nầy kéo dài suốt bề ngang của toà nhà, bên trong là một chiếc bàn ăn khổng lồ bằng gỗ gụ dành cho ba mươi người cùng năm chiếc bàn phụ khác. Vào bất kỳ bữa trưa hay bữa tối nào trong căn phòng nầy cũng thấy xuất hiện vài nhân vật có thế lực nhất trên thế giới.
Sir Alec Nichols, nghị sĩ, ngồi ở một bàn nhỏ trong góc, đang dùng bữa trưa với khách Jon Swinton. Bố của Sir Alec được phong tước tòng nam tước, và ông nội cũng như cụ của Sir Alec cũng vậy. Tất cả bọn họ đều là hội viên của White s. Sir Alec người gầy gò xanh xao, xấp xỉ năm mươi tuổi, có khuôn mặt quý phái, nhạy cảm và nụ cười duyên dáng. Ông vừa đi xe hơi đến đây từ nhà ở Gloucestershire, mặc bộ veste sọc nhỏ với chiếc sơ mi ca rô sặc sỡ, đeo chiếc cravate màu đỏ, có vẻ hơi lúng túng trong bầu không khí xa hoa yên tĩnh nầy. Nơi đây thực sự làm cho ông phải hãnh diện.
Jon Swinton nói khi vẫn đang nhồm nhoàm nhai nốt miếng thịt bê.
Sir Alec gật gật.
- Đúng. Mọi thứ đã thay đổi từ khi Voltaire nói: "Người Anh có hàng trăm tôn giáo và chỉ có một là được ưa chuộng".
Jon Swinton ngước mắt lên.
- Voltaire là ai?
Sir Alec bối rối trả lời:
- À, một tay người Pháp.
- Ồ - Swinton tống thức ăn xuống dạ dày bằng một hớp rượu vang. Gã để dao nĩa xuống và lấy khăn lau miệng. - Nào, Sir Alec. Đã đến lúc tôi và ông bàn chuyện công việc.
Sir Alec dịu dàng đáp lại:
- Tôi đã nói cách đây hai tuần là tôi đang tính toán mọi việc, ông Swinton. Tôi cần thêm một chút thời gian nữa.
Một người hầu bàn đến gần họ, mang theo một chồng hộp xì gà bằng gỗ. Anh ta khéo léo đặt tất cả lên bàn.
- Ông chớ phiền lòng nếu tôi nói thật - Jon Swinton nói. Gã xem nhãn hiệu trên các hộp gỗ, huýt sáo một cách thán phục, rồi rút ra một điếu xì gà trong túi áo ngực và châm lửa. Cả người bồi bàn lẫn Sir Alec đều không có phản ứng gì trước thái độ đó.
Người bồi bàn gật đầu với Sir Alec và mang chồng hộp sang bàn khác.
- Các ông chủ của tôi đã vô cùng nhân đạo với ông, Sir Alec. Bây giờ, tôi e rằng, họ đã không còn đủ kiên nhẫn nữa! - Gã nhặt que diêm đã cháy lên, ngả người về phía trước và thả nó vào ly rượu của Sir Alec, rồi tiếp tục, - Tôi xin nói thật giữa ông và tôi, rằng họ hoàn toàn không phải là người tốt khi nổi giận đâu. Chắc ông không muốn họ thất vọng về ông chứ, ông có hiểu ý tôi không?
- Nhưng đơn giản là bây giờ tôi không có tiền.
Jon Swinton cười to.
- Thôi đi ông bạn. Mẹ của ông là người của dòng họ Roffe, đúng không? Ông có một trang trại rộng hàng trăm hecta, một toà nhà sang trọng ở Knightbridge, một chiếc Rolls-Royce và một chiếc Bentley bóng lộn. Rõ là ông không phải là hạng sống nhờ tiền trợ cấp phải không?
Sir Alec nhìn quanh, đau khổ nói nhỏ.
- Không một người nào trong gia đình có tài sản bằng tiền mặt. Tôi không thể…
Swinton nháy mắt và nói.
- Tôi dám cá rằng bà vợ Vivian bé bỏng dễ thương của ông là một tài sản bằng tiền mặt. Bà ta có đến hai chiếc Bristols đẹp tuyệt!
Sir Alec đỏ bừng mặt. Cái tên Vivian trên môi gã đàn ông nầy là cả một sự xúc phạm. Alec nghĩ đến Vivian như lúc ông rời khỏi nàng vào buổi sáng, khi nàng đang còn chìm trong giấc ngủ. Họ ở hai phòng ngủ riêng và một trong những niềm vui lớn nhất của Alec Nichols là được vào phòng ngủ của Vivian để "h.ãm" nàng. Đôi khi Alec dậy sớm và ông đi sang phòng Vivian khi nàng còn đang ngủ và đứng ngắm nàng. Dù thức hay ngủ thì nàng cũng là cô gái đẹp nhất mà ông từng gặp. Nàng thường ngủ trần truồng và thân hình mềm mại của nàng chỉ lộ ra một nửa vì nàng có thói quen quấn mình trong chăn. Nàng có mái tóc vàng, cặp mắt màu xanh nhạt và làn da mịn màng như kem.
Khi Sir Alec lần đầu gặp Vivian tại một dạ hội từ thiện thì nàng còn là một diễn viên hạng xoàng. Ông đã bị mê hoặc bởi nhan sắc của nàng nhưng thứ đưa được ông đến với nàng lại là tính dễ dãi của nàng.
Nàng trẻ hơn Alec đến hai mươi tuổi và còn tràn đầy h.am m.uốn với cuộc sống. Khi Alec tỏ ra xấu hổ hay rụt rè ở mặt nào đó thì Vivian lại hoạt bát và cởi mở. Alec không thể nào xua đuổi hình ảnh của nàng khỏi tâm trí nhưng cũng phải mất hai tuần ông mới có đủ can đảm để gọi điện cho nàng. Nàng đã nhận ngay lời mời trước sự ngạc nhiên và sung sướng của ông. Alec đưa nàng đi xem một vở kịch ở Old Vic và sau đó đi ăn tối tại Mirabelle. Vivian sống trong một căn hộ nhỏ dưới tầng hầm tốỉ tăm ở Notting Hill, và khi Alec đưa nàng về nhà, nàng đã hỏi:
- Anh có muốn vào chơi không?
Ông đã ở lại đó cả đêm và việc nầy làm cho cả cuộc đời ông thay đổi. Đó là lần đầu tiên một người đàn bà có thể đem lại cho ông những kh.oái lạc tột đỉnh. Ông chưa từng gặp một người nào như Vivian. Lưỡi nàng mềm như nhung, mái tóc vàng tha thướt và những quyến rũ ẩm ướt ở sâu thẳm trong nàng khiến ông say mê khám phá cho đến lúc mệt nhoài. Chỉ mới nghĩ đến nàng thôi là trong lòng ông đã trào dâng niềm h.am m.uốn mãnh liệt.
Nhưng tất cả không phải chỉ có thế. Nàng làm cho ông phải cười to, nàng làm cho cuộc sống của ông sinh động hơn. Nàng cười đùa luôn miệng với Alec vì bản tính của ông vốn rụt rè và hơi tẻ, và ông rất thích điều đó. Ông cố gắng đến với Vivian vào bất cứ lúc nào có thể. Mỗi khi Alec dẫn Vivian đến một bữa tiệc nào, nàng luôn là trung tâm của sự chú ý.
Alec rất tự hào về điều nầy nhưng ông cũng ghen tị với đám thanh niên xung quanh nàng và ông không thể không tự hỏi có bao nhiêu người trong số đó đã lên gi.ường với nàng.
Vào những đêm Vivian không thể gặp ông vì có những cuộc hẹn hò khác, Alec thấy mình phát điên lên vì ghen tuông. Ông thường lái xe đến gần nhà nàng, đỗ xe dưới nhà để xem nàng về nhà lúc mấy giờ và đi cùng với ai. Alec biết mình đang xử sự như một kẻ ngốc nghếch nhưng ông không thể nào tự kiềm chế bản thân. Ông đã rơi vào thế kẹt không thể phá vỡ. Ông biết rõ Vivian không hề phù hợp với mình nên việc cưới Vivian là chuyện không thể bàn đến.
Ông là một tòng nam tước, một Nghị sĩ được kính trọng với một tương lai tươi sáng phía trước. Ông là một cổ đông của triều đại Roffe, một uỷ viên hội đồng quản trị của tập đoàn. Còn Vivian, nàng không có một chút vị thế nào để so sánh với thế giới của Alec.
Bố mẹ nàng chỉ là những vũ công hạng hai, biểu diễn ở trong đoàn xiếc tỉnh. Vivian không hề được giáo dục ngoại trừ những gì mà nàng thu lượm được trên hè phố hoặc sau cánh gà. Alec biết rằng nàng vốn bừa bãi và hời hợt. Nàng sắc sảo nhưng lại không thông minh lắm. Nhưng Alec vẫn bị nàng ám ảnh. Ông chống lại điều đó. Ông cố không gặp nàng nhưng điều đó vô dụng. Ở bên nàng ông mới thấy hạnh phúc và khi xa cách nàng, ông thấy vô cùng khổ sở. Cuối cùng, không còn cách nào khác, ông cầu hôn với nàng và khi Vivian gật đầu, Sir Alec Nichols ngây ngất vì sung sướng.
Cô dâu mới của ông được đến ở trong ngôi nhà chung của gia đình, một ngôi nhà cổ xinh đẹp theo kiến trúc Robert Adam (1) ở Gloucestershire, kiểu Georgian với những chiếc cột kiểu Delphi (2) và một đoạn đường cong dài dành cho xe hơi. Toà nhà nằm giữa một thảm cỏ xanh mướt rộng mười hecta, trong một vùng đất phì nhiêu, có khu săn bắn riêng và vô số dòng suối nhỏ để câu cá. Ở sau nhà là một hoa viên do "Capability" Brown thiết kế.
Nội thất của toà nhà mới thật tuyệt vời. Tiền đình với sàn nhà bằng đá và tường bằng gỗ sơn. Có vô số cặp đèn lồng kiểu cổ, bàn lát cẩm thạch kiểu Adam và ghế gỗ gụ. Trong thư viện là các giá sách gắn liền vào tường theo kiểu thế kỷ mười tám và một cặp bàn đặt trên bệ của Henry Holland cùng rất nhiều ghế đóng theo thiết kế của Thomas Hope. Phòng khách là sự pha trộn của Hepplewhite(3) và Chippendale với một tấm thảm Wilton, một cặp chân đèn Waterford bằng thuỷ tinh. Phòng ăn khổng lồ với sức chứa bốn mươi thực khách, ngoài ra còn có phòng hút thuốc lá riêng. Trên tầng hai là sáu phòng ngủ, mỗi phòng có một lò sưởi kiểu Adam và trên tầng ba là khu dành riêng cho gia nhân trong nhà.
Sáu tuần sau khi dọn về đây, Vivian nói:
- Hãy đi khỏi đây đi Alec.
Ông bối rối nhìn nàng.
- Em muốn lên London chơi vài ngày à?
- Ý em là em muốn dọn nhà về London.
Alec nhìn ra cửa sổ, về phía bãi cỏ mầu ngọc bích, nơi ông đã từng chơi đùa hồi còn bé, về phía mấy cây sung và cây sồi cổ thụ, rồi ngập ngừng nói:
- Vivian, ở đây rất yên tĩnh mà. Anh…
Và nàng nói:
- Em biết. Đó là điều em không chịu nổi cái sự yên tĩnh khốn nạn nầy!
Họ dọn nhà về London ngay tuần sau đó.
Alec có một căn nhà bốn tầng rất tao nhã ở Vilton Crescent, phía trước Knightbridge với một phòng khách xinh xắn, phòng làm việc, phòng ăn rộng rãi và ở phía sau nhà là một cửa sổ nhìn xuống một cái động có thác nước, nhiều bức tường và những chiếc ghế dài mầu trắng đặt trong một khu vườn đẹp và gọn gàng. Trên lầu là một phòng ngủ lớn lộng lẫy và bốn phòng khác nhỏ hơn.
Vivian và Alec ở trong phòng lớn được hai tuần, cho đến một buổi sáng Vivian nói:
- Em yêu anh, Alec, nhưng anh ngáy to quá, anh có biết không?
Alec không biết điều đó.
- Em thật sự phải ngủ một mình, anh yêu ạ. Anh không thấy phiền lòng phải không?
Alec rất phiền lòng. Ông rất thích cái cảm giác từ thân hình mềm mại của nàng lúc ở trên gi.ường, khi nàng áp sát vào ông. Nhưng trong đáy lòng, Alec biết rằng mình không kích thích được Vivian như nhiều gã đàn ông khác. Đó là lý do nàng không muốn chung gi.ường với ông. Vì vậy ông đành phải trả lời:
- Dĩ nhiên là anh hiểu.
Theo lời nài nỉ của Alec, Vivian vẫn ở phòng lớn còn ông dọn sang một trong bốn phòng còn lại.
Thời gian đầu, Vivian theo ông đến Nghị viện và ngồi ở khu dành cho khách trong những ngày Alec phải lên phát biểu. Ông thường nhìn lên nàng, lòng tràn ngập một nỗi hãnh diện sâu sắc khó tả. Hiển nhiên nàng là người phụ nữ đẹp nhất ở đó. Và rồi cái ngày đó cũng đã đến, khi Alec hoàn thành bài phát biểu và nhìn lên chờ đợi sự tán thưởng của Vivian thì chỉ thấy một chiếc ghế trống.
Alec tự trách mình vì đã không giúp được Vivian thoả mãn bản tính sôi động của nàng. Bạn bè của ông đều già hơn Vivian và tỏ ra quá dè dặt với nàng.
- Ông khuyến khích nàng mời các bạn nàng đến nhà, cố giới thiệu họ với đám bạn của ông. Kết quả thật là tai hại.
Alec vẫn luôn tự nhủ rằng khi Vivian có con, nàng sẽ ổn định và thay đổi lối sống. Nhưng rồi một ngày kia, không hiểu vì sao, và Alec thà không hiểu còn hơn, nàng bị nhiễm trùng âm đạo và phải giải phẫu.
Alec từ lâu đã ao ước có một cậu con trai. Cái tin nầy làm ông rụng rời, nhưng Vivian thì vẫn thản nhiên.
- Đừng lo, anh yêu. - Nàng nói và mỉm cười. - Họ đã cắt dạ con, nhưng em vẫn có thể sinh hoạt bình thường.
Ông nhìn sững nàng một lúc, rồi quay người bỏ đi.
Vivian rất thích đi mua sắm lung tung. Nàng tiêu tiền bừa bãi và thiếu cẩn trọng vào quần áo, nữ trang, xe cộ, nhưng Alec lại không hề có ý ngăn cản nàng. Ông tự nhủ rằng nàng đã lớn lên trong cảnh nghèo khổ, thèm khát những thứ đẹp đẽ và sang trọng. Ông muốn mua tất cả cho nàng. Thật bất hạnh là ông lại không đủ sức làm việc đó. Tiền lương của ông bị giảm bớt rất nhiều bởi thuế má. Tài sản của ông nằm hết trong cổ phần ở tập đoàn Roffe và các con mà những cổ phần nầy lại bị hạn chế. Ông cố giải thích chuyện đó với Vivian nhưng nàng chẳng hề quan tâm. Những buổi thảo luận việc kinh doanh chỉ càng làm cho nàng thấy ngán ngẩm. Và vì vậy Alec đành phải để nàng tự do mọi việc.
Lần đầu tiên ông nghe được chuyện nàng đánh bạc là khi Tod Michaels, chủ nhân của Tod s Club, một sòng bạc tai tiếng ở Soho ghé vào thăm ông.
- Tôi có giấy nợ một nghìn bảng của vợ ông, Sir Alec. Bà ấy đã thua chúng ở bàn Roulette.
Alec hoàn toàn bị sốc. Ông đã lấy lại tờ giấy nợ ngay tối hôm đó đã nói chuyện với Vivian.
- Chúng ta không đủ khả năng để chơi trò nầy, - ông bảo nàng. Em đã tiêu nhiều hơn số tiền anh kiếm được.
Nàng tỏ ra ăn năn.
- Em xin lỗi, anh yêu. Em thật là một người vợ tồi.
Và nàng đến bên ông, vòng tay choàng qua ông, áp người vào người ông, và ông quên hết cơn giận.
Alec đã có một đêm mỹ mãn khó quên trên gi.ường của nàng. Ông tin chắc rằng bây giờ thì chẳng còn vấn đề gì phải lo nữa.
Hai tuần sau Tod Michaels lại ghé đến nhà Alec. Lần nầy giấy nợ của Vivian lên đến năm nghìn bảng.
Alec vô cùng giận dữ.
- Tại sao ông lại cho cô ấy thiếu nợ? - ông hỏi.
- Bà ấy là vợ ông mà, Sir Alec, - Michaels nhẹ nhàng trả lời. - Làm sao tôi có thể từ chối bà ấy được?
- Tôi sẽ… tôi sẽ phải kiếm tiền. - Alec đã nói. - Hiện tại tôi không có đủ số tiền mặt nhiều như thế.
- Đồng ý! Cứ coi đó là một khoản nợ. Ông hãy trả cho tôi khi nào có thể.
Alec nhẹ hết cả người.
- Ông Michaels, ông thật là người rộng lượng.
Chưa đầy một tháng sau, Alec biết rằng Vivian lại cờ bạc và nợ thêm hai mươi lăm nghìn bảng nữa, và Alec phải trả lãi mười phần trăm mỗi tuần. Lần nầy thì ông thật sự hoảng hốt. Ông không có cách nào kiếm được số tiền mặt nhiều như vậy. Căn nhà, những món đồ cổ tuyệt đẹp, những chiếc xe hơi, tất cả đều thuộc về Tập đoàn Roffe và các con. Cơn giận của ông đã làm Vivian sợ hãi đến nỗi nàng phải hứa là sẽ không đánh bạc nữa. Nhưng cũng đã quá muộn.
Alec thấy mình đã rơi vào tay bọn cho vay nặng lãi.
Dù ông có đưa cho chúng bao nhiêu đi chăng nữa, thì cũng vẫn không xoay sở được đủ tiền để trả đứt nợ. Số nợ cứ chồng lên hàng tháng và đã kéo dài được gần một năm.
Khi đám đàn em của Tod Michaels lần đầu tiên đến thúc ép ông trả nợ, Alec đã đe dọa sẽ báo cảnh sát.
- Tôi có nhiều quan hệ với các cấp cao nhất, - Alec nói.
Gã đàn ông cười nhăn nhở.
- Còn tôi thì lại có nhiều quan hệ với các cấp thấp nhất.
Và bây giờ thì Alec ngồi đây, tại White s Club, với gã đàn ông khốn kiếp nầy, cố gắng đè nén lòng kiêu hãnh xuống và van xin thêm một chút thời gian nữa.
- Tôi đã trả cho họ nhiều hơn số tiền mà tôi nợ. Họ không thể…
- Đó chỉ là tiền lãi, Sir Alec. Ông vẫn chưa thanh toán món nợ gốc.
- Đó là sự tống tiền. - Alec kêu lên.
Cặp mắt Swinton tối lại.
- Tôi sẽ nói lại lời của ông với ông chủ. - Rồi gã từ từ đứng lên.
Alec nói nhanh.
- Không! Làm ơn ngồi xuống cho.
Swinton lại từ từ ngồi xuống ghế:
- Đừng có giở cái giọng đó ra với tôi, - Gã cảnh cáo. - Người cuối cùng dám nói thế với tôi đã phải quỳ trên sàn nhà.
Alec có biết ch.uyện ấy. Anh em nhà Kray đã bày ra nhiều trò để trừng phạt các nạn nhân của họ. Và những người đang là chủ nợ của ông cũng chẳng kém phần tàn độc. Ông cảm thấy vị đắng ngắt đang trào lên trong họng.
- Tôi không có ý như vậy. - Alec thanh minh. - Chỉ vì tôi… tôi không kiếm được tiền mặt nữa.
Swinton búng nhẹ tay cho tàn xì gà rơi vào ly rượu vang của Alec, và nói:
- Ông có một mớ cổ phiếu trong tập đoàn Roffe và các con, phải không Alec thân yêu!
- Đúng, - Alec trả lời, - Nhưng tất cả đều không bán ra và chuyển nhượng được. Nó không có lợi cho bất cứ ai trừ khi Roffe và các con cho phép tung ra thị trường chứng khoán.
Swinton rít một hơi xì gà và nói.
- Và nó sắp sửa được tung ra rồi chứ?
- Chuyện nầy phụ thuộc vào Sam Roffe. Tôi… tôi đang cố thuyết phục ông ấy.
- Ông phải tích cực nữa vào.
- Ông hãy nói cho ông Michaels rằng ông ấy sẽ được nhận đầy đủ số nợ. - Alec nói. - Nhưng xin các người hãy dừng ngay việc thúc giục tôi.
Swinton nhìn ông chằm chằm:
- Thúc giục ông?
Tại sao, Sir Alec, đồ lại cái, ông sẽ biết khi nào chúng tôi bắt đầu thúc giục ông. Cái chuồng ngựa chó chết của ông sẽ cháy rụi và ông sẽ phải ăn thịt ngựa nướng. Sau đó sẽ đến ngôi nhà của ông. Và rồi có thể sẽ đến vợ ông. Gã mỉm cười, và Alec mong gã đừng cười thì hơn:
- Ông đã bao giờ ăn một cái âm hộ hầm chưa?
Mặt Alec tái nhợt.
- Lạy Chúa…
Swinton nhẹ nhàng hạ giọng.
- Giỡn chút thôi mà; Tod Michaels là bạn của ông. Và bạn bè thì phải giúp đỡ nhau, phải không? Trong buổi họp sáng nay chúng tôi đã nói chuyện về ông. Và ông có muốn biết ông chủ tôi nói gì không? Ông ấy nói: Alec là loại người tử tế. Nếu ông ấy không có tiền, ông ấy sẽ nghĩ ra cách khác để làm chúng ta yên lòng.
Alec cau mày.
- Cách gì vậy?
- Ờ - bây giờ, việc trả tiền có gì khó khăn với một người thông minh tài giỏi như ông, phải không? Ông đang điều hành một tập đoàn dược phẩm lớn mà. Ông sản xuất ra những thứ như cocaine chẳng hạn. Chỉ giữa ông và tôi thì ai mà biết được chuyện gì xẩy ra nếu ông gửi nhầm hàng hoá vào đâu đó?
Alec nhìn sững gã.
- Ông điên rồi, - Alec nói. - Tôi, tôi không thể làm vậy.
- Khi cấp bách thì con người có thể làm được những chuyện đáng kinh ngạc. - Swinton ôn tồn nói. Gã đứng dậy. - Hoặc là ông trả đủ tiền cho chúng tôi, hoặc là chúng tôi sẽ cho ông biết địa điểm giao hàng, - Gã dúi điếu xì gà vào đĩa bơ của Alec. - Cho tôi gửi lời hỏi thăm tới bà Vivian, Alec.
Rồi Jon Swinton bỏ đi.
Sir Alec ngồi đó một mình, không còn thấy gì, xung quanh là những thứ tiện nghi quen thuộc vốn là một phần rất lớn của quãng đời đã qua của ông, mà giờ đây đang có nguy cơ biến mất. Vật xa lạ duy nhất là mẩu xì gà ướt nhoét, bẩn thỉu trên đĩa bơ của ông.
Làm sao ông có thể cho phép bọn chúng bước vào cuộc sống của ông như vậy? Ông đã tự cho bọn chúng giở thủ đoạn đẩy ông vào tay bọn hạ lưu dưới đáy xã hội.
Và bây giờ ông biết chúng muốn ở ông một thứ khác còn hơn cả tiền. Tiền chỉ đơn giản là miếng mồi dụ ông vào bẫy. Chúng muốn qua ông móc nối với tập đoàn. Chúng sẽ ép ông phải làm việc cho chúng. Nếu việc ông bị bọn bất lương khống chế lộ ra, lập tức phe đối lập sẽ không bỏ lỡ cơ hội. Đảng của ông có thể sẽ buộc ông từ chức.
Việc nầy sẽ được tiến hành một cách khéo léo và kín đáo. Có thể họ sẽ gây áp lực buộc ông xin chuyển qua Chiltern Hundreds, nơi đây ông vẫn được trả một khoản lương danh nghĩa là 100 bảng một năm. Điều duy nhất đáng ngại là ông sẽ không được nhận lương từ Hoàng gia hoặc Chính phủ nữa. Như thế là Alec sẽ không còn được phục vụ trong Nghị viện. Dĩ nhiên là lý do sẽ không mãi che giấu được. Và ông sẽ bị nhục nhã. Trừ khi ông kiếm được một khoản tiền lớn.
Ông đã hết lần nầy đến lần khác nói chuyện với Sam Roffe, yêu cầu ông ta cho tập đoàn tham gia thị trường chứng khoán, để cho các cổ phần được bán ra.
- Anh hãy quên chuyện đó đi. Ngay giây phút chúng ta để người ngoài lọt vào công ty, sẽ có rất nhiều kẻ lạ mặt đến dạy bảo chúng ta phải điều hành việc kinh doanh như thế nào. Trước khi anh biết được chuyện nầy thì họ đã chiếm lấy hội đồng quản trị rồi cả công ty. Có khác gì với anh đâu, Alec? Anh nhận lương cao, tài khoản chi tiêu của anh là vô hạn. Anh không cần tiền.
Trong khoảnh khắc Alec đã định kể cho Sam ông đang cần tiền một cách khẩn cấp ra sao. Nhưng ông biết làm thế cũng chẳng có lợi lộc gì.
Sam Roffe chỉ biết đến tập đoàn, là một người lạnh lùng vô cảm, không một chút lòng trắc ẩn. Nếu ông ta biết rằng Alec có hại cho tập đoàn dù chỉ ở một phương diện nào đó, ông ta sẽ lập tức thải hồi Alec không một chút do dự. Không, Sam Roffe là người cuối cùng ông có thể nhờ cậy.
Alec đang đối mặt với sự phá sản.
Người gác cổng ở White s Club tiến về phía bàn Alec cùng một nhân viên bưu điện mặc đồng phục đưa thư, cầm theo một phong bì niêm kín.
- Xin lỗi, Sir Alec, - Người gác cổng lên tiếng, - Nhưng người nầy cứ khăng khăng rằng anh ta được lệnh đích thân trao tận tay ông một bức điện.
- Cám ơn, - Sir Alec nói. Người nhân viên bưu điện trao cho ông chiếc phong bì và người gác cổng đưa anh ta quay ra ngoài.
Alec ngồi yên một lúc lâu trước khi với lấy chiếc phong bi và mở nó ra. Ông đọc bức điện ba lần rồi từ từ vò nát nó trong lòng bàn tay, cặp mắt đẫm lệ.
Chú thích
(1) Kiến trúc sư người Anh (1728 - 1792).
(2) Kiểu cột của kiến trúc Hy Lạp cổ
(3) Đồ đạc nhà của công ty Hepplenwhite (thế kỷ 19)
 
CHƯƠNG 6
NEW YORK
Thứ hai, 7 tháng Chín, 11 giờ sáng
Chiếc Boeing tư nhân 707-320 đang hoàn tất chặng cuối cùng đến sân bay Kennedy, lướt nhẹ ra khỏi đường hướng dẫn hạ cánh. Đây là chuyến bay dài, buồn tẻ và Rhys Wilhams đã gần như mệt lả nhưng anh không tài nào ngủ được trong suốt cả đêm. Anh đã quá nhiều lần đi trên chiếc phi cơ nầy với Sam Roffe. Ở đâu cũng thấy tràn ngập sự có mặt của ông.
Elizabeth Roffe đang mong chờ anh. Rhys đã gửi cho nàng một bức điện từ Istanbul, chỉ thông báo là anh sẽ đến vào ngày hôm sau. Anh cũng có thể báo tin cái chết của bố nàng qua điện thoại nhưng nàng đáng được quan tâm hơn thế.
Máy bay đã hoàn toàn tiếp đất và đang hướng đến bãi đậu, Rhys mang theo rất ít hành lý và nhanh chóng làm xong các thủ tục hải quan. Bên ngoài, bầu trời xám xịt và ảm đạm, báo hiệu mùa đông giá lạnh sắp đến. Một chiếc limousine sang trọng đã đợi săn để đưa anh đến toà nhà của Sam Roffe ở Long Island, nơi mà có thể Elizabeth đang chờ anh.
Trong suốt quãng đường, Rhys cố nhẩm lại những lời anh định nói với nàng, cố xoa dịu sự bất hạnh, nhưng khi Elizabeth mở cửa trước đón chào anh, những lời ấy đã nhanh chóng bay khỏi đầu anh. Mỗi khi Rhys thấy Elizabeth, sắc đẹp của nàng lại khiến anh phải sững sờ. Nàng thừa hưởng nhan sắc của mẹ, cùng một gương mặt sang trọng, cặp mắt đen láy dưới cặp lông mi dài và rậm. Da nàng trắng và mịn màng, mái tóc nàng đen bóng. Dáng người nàng đậm đà và rắn chắc. Nàng mặc một chiếc áo lụa hở cổ màu kem với chiếc váy có nếp gấp bằng nỉ xám và mang đôi giầy màu nâu vàng. Không có chút dấu vết nào của cô bé vụng về Rhys gặp lần đầu tiên hồi chín năm trước. Nàng đã trở thành một thiếu nữ với vẻ đẹp trong sáng, nồng nàn và hoàn toàn có ý thức về nó.
Giờ đây nàng đang cười với anh, vui mừng được gặp anh. Nàng nắm tay anh và nói, - Vào đây, Rhys, - rồi dẫn anh vào thư viện rộng rãi có tường lát gỗ sồi.
- Sam về cùng anh chứ?
Không còn cách nào để báo tin một cách nhẹ nhàng.
Rhys hít một hơi dài và nói:
- Sam đã gặp một tai nạn khủng khiếp, Liz ạ.
Anh thấy rõ sắc hồng trên má nàng biến mất. Nàng đợi anh nói tiếp.
- Ông đã chết.
Nàng đứng như bị đóng băng. Cuối cùng khi nàng lên tiếng, Rhys chỉ còn nghe loáng thoáng.
- Chuyện… chuyện gì đã xảy ra?
- Chúng tôi chưa có một chi tiết nào cả. Ông đang leo núi Mont Blanc. Sợi dây bị đứt. Ông rơi xuống một kẽ nứt.
- Họ có tìm thấy…
Nàng nhắm nghiền mắt lại một lúc rồi mở ra.
- Kẽ nứt không đáy.
Mặt nàng đã trở nên trắng bệch. Rhys thấy lo lắng.
- Em không sao chứ?
Nàng mỉm cười và nói:
- Dĩ nhiên. Em không sao, cám ơn anh. Anh có muốn một tách trà hoặc một chút gì để ăn không?
Anh ngạc nhiên nhìn nàng và định lên tiếng, nhưng anh chợt hiểu. Nàng đang bị xúc động mạnh. Nàng nói lung tung mà không có chút cảm giác nào, cặp mắt sáng ngời bất thường, nụ cười bất động.
- Sam là một vận động viên tuyệt vời, - Elizabeth vẫn nói. - Anh đã trông thấy những chiếc cúp của bố em. Ông luôn dành chiến thắng, phải không? Anh biết rằng ông đã từng leo lên ngọn Mont Blanc chứ? Dĩ nhiên anh phải biết. Anh đã một lần đi cùng ông, phải không Rhys?
Rhys để yên cho nàng nói, nàng đang cố tự giải toả nỗi đau, cố xây một lớp bảo vệ bằng ngôn từ để lẩn tránh phút giây phải đối mặt với nỗi đau khổ của chính mình. Trong một lúc, khi đang lắng nghe nàng, anh chợt nhớ về cô bé yếu đuối mà anh đã gặp lần đầu, quá dễ tổn thương, quá đỗi rụt rè đến nỗi không tài nào tự bảo vệ mình trước những sự thật phũ phàng.
Giờ dây nàng đang bị kích động một cách nguy hiểm, căng thẳng tột cùng và xung quanh nàng là một sự yếu ớt khiến Rhys phải lo ngại.
- Để anh gọi bác sĩ, - anh nói. - Ông ấy sẽ giúp em.
- Ồ không. Em vẫn hoàn toàn bình thường mà. Nếu anh không thấy ngại, em nghĩ em nên nằm một phút. Em thấy trong người hơi mệt.
- Em có cần anh ở đây không?
- Cám ơn anh. Có lẽ không cần như vậy đâu.
Nàng đưa anh ra cửa và khi anh bước vào xe, Elizabeth chợt gọi:
- Rhys?
Anh quay lại.
- Cám ơn anh đã đến.
Chúa ơi!
o O o
Nhiều giờ sau khi Rhys Williams đi khỏi, Elizabeth Roffe vẫn nằm trên gi.ường, nhìn chằm chằm lên trần nhà, theo dõi những hình ảnh chợt ẩn chợt hiện được vẽ nên bởi ảnh nắng tháng chín yếu ớt.
Và cơn đau kéo đến. Nàng không uống thuốc vì nàng muốn đau. Nàng và Sam giống nhau ở điểm đó.
Nàng có thể chịu đựng được vì nàng là con gái của Sam. Và nàng cứ nằm đó, suốt ngày suốt đêm, không nghĩ gì, rồi lại nghĩ đến tất cả mọi thứ, hồi tưởng, xúc động. Nàng cười, nàng lại khóc, rồi nàng nghĩ mình đang lên cơn điên loạn. Chẳng sao cả. Không ai nghe thấy gì hết. Nửa đêm, nàng thấy đói cồn cào và xuống bếp ăn ngấu nghiến một chiếc sandwich to rồi lại nôn thốc nôn tháo. Nàng vẫn không thấy khá hơn. Không gì có thể làm dịu cơn đau tràn ngập trong lòng. Nàng cảm giác như các đầu dây thần kinh đang bùng cháy.
Tâm hồn nàng không ngừng trôi ngược về những năm tháng trước với bố nàng. Nàng quan sát bình minh qua cửa sổ phòng ngủ. Một lúc sau, người giúp việc gõ cửa và Elizabeth bảo cô ta đi. Một lần chuông điện thoại reo, tim nàng giật thót lại, nàng với tay về phía nó và nghĩ, là Sam! Rồi nàng chợt nhớ ra và rút tay lại.
Ông sẽ không bao giờ còn gọi điện cho nàng nữa. Nàng cũng không bao giờ được nghe tiếng của ông nữa. Nàng sẽ không bao giờ được gặp ông nữa.
Một kẽ nứt không đáy.
- Không đáy.
Elizabeth nằm đó, để mặc cho dĩ vãng cuốn đi, hồi tưởng lại tất cả.
 
CHƯƠNG 7
Sự ra đời của Elizabeth Rowane Roffe quả là một tấn bi kịch kép. Bi kịch nhỏ là mẹ của Elizabeth qua đời ngay trên bàn đẻ. Bi kịch lớn là Elizabeth là con gái.
Trong chín tháng, cho tới khi cô chào đời, cô là đứa bé được mong đợi một cách tha thiết nhất trên thế giới, người sẽ kế thừa một vương quốc vĩ đại trị giá hàng tỉ tỉ đô la - tập đoàn Roffe và các con.
Vợ của Sam Roffe, Patricia, là một phụ nữ tóc đen có nhan sắc hơn người. Nhiều người đàn bà đã cố tìm trăm phương ngàn kế để lấy cho được Sam Roffe vì địa vị của ông, uy tín của ông, sản nghiệp của ông.
Còn Patricia đã kết hôn với ông vì bà thật lòng yêu ông. Đó là lý do tồi tệ nhất. Sam Roffe luôn tìm cách sắp xếp công việc làm ăn và Patricia rất phù hợp với yêu cầu của ông. Sam Roffe không có thời gian cũng như tính khí của một người đàn ông thuộc về gia đình.
Không còn chỗ nào khác ngoài Roffe và các con trong cuộc sống của ông. Ông miệt mài hiến dâng mình cho tập đoàn và ông trông mong những người xung quanh ông cũng giống như ông vậy. Đối với ông, tầm quan trọng của Patricia chỉ bó gọn trong những gì mà bà đóng góp cho hình ảnh của tập đoàn. Tới lúc Patricia nhận thức được thực trạng cuộc hôn nhân của mình thì đã quá muộn. Sam giao cho bà một vai diễn và bà đã diễn xuất thật tuyệt vời. Bà là một nữ chủ nhân hoàn hảo, một bà Sam Roffe hoàn hảo. Bà không nhận được một chút tình yêu nào từ chồng và bà cũng kịp học cách không ban phát tình yêu. Bà phục vụ Sam không khác gì một cô thư ký hạng bét đang làm công trong Roffe và các con. Bà luôn có mặt để trả lời điện thoại hai mươi tư giờ một ngày, sẵn sàng bay đến bất cứ nơi nào Sam cần bà, thừa khả năng chiêu đãi một công ty vào loại hàng đầu thế giới hay tổ chức một bữa tiệc thịnh soạn cho một trăm thực khách dựa theo thông báo hàng ngày với đầy đủ khăn trải bàn thêu, bộ ly thuỷ tinh Baccarat lóng lánh, bộ đồ ăn bạc kiểu Georgian nặng trịch. Patricia là một thứ tài sản không được liệt kê của Roffe và các con. Bà làm việc quần quật mà vẫn giữ được nhan sắc, nhờ tập luyện và ăn kiêng đều đặn như những người Spartan thuộc đất nước Hy Lạp cổ xưa. Thân hình của bà thật hoàn hảo, quần áo được thiết kế riêng bởi các hãng thời trang nổi tiếng như Norell ở New York, Channel ở Paris, Harnell ở London và Sybil Connoly ở Dublin.
Nữ trang của bà cũng được đặt làm riêng ở tận Bulgaria do tay của Jean Schlumbrger. Cuộc sống của bà luôn bận rộn và đầy ắp nhưng cũng hết sức vô vị và trống rỗng. Việc bà có mang đã làm thay đổi tất cả.
Sam Roffe là người thừa kế nam cuối cùng của triều đại Roffe, và Patricia biết rõ rằng ông tha thiết có một đứa con trai như thế nào. Ông đang trông chờ ở bà. Và bây giờ bà trở thành mẫu hậu, bận rộn với đứa con trong bụng, vị hoàng tử bé tí xíu, người mà một ngày kia sẽ kế thừa vương quốc. Khi họ đẩy xe đưa bà vào phòng đẻ, Sam nắm chặt tay bà và nói "Cám ơn em". Bà qua đời ba mươi phút sau đó vì một cơn tắc mạch, và điều hạnh phúc duy nhất về cái chết của Patricia là bà chết mà không biết mình đã làm ông chồng thất vọng đến nhường nào.
Sam Roffe dảnh bớt thời gian trong thời gian biểu mệt nhoài của ông tổ chức ma chay cho vợ, rồi tập trung vào vấn đề ông phải làm sao với đứa con vừa mới mất mẹ của mình.
Một tuần sau ngày Elizabeth ra đời, nàng được đưa về nhà và giao cho một bà vú, người khởi đầu cho một loạt các bà vú sau nầy. Trong suốt năm năm đầu tiên của cuộc đời, Elizabeth rất hiếm khi được thấy mặt bố mình. Ông không hơn gì một bóng mờ, một người xa lạ luôn chợt đến chợt đi. Ông thường xuyên đi khắp mọi nơi và Elizabeth là một sự phiền toái mà ông phải mang theo, một thứ hành lý thừa.
Một tháng Elizabeth thấy mình sống tại toà nhà ở Long Island với những bãi chơi ki, sân tennis, bể bơi và sân bóng quần. Vài tuần sau, bà vú của nàng lại thu dọn quần áo và nàng bay đến ở tại toà biệt thự của gia đình ở Barritz. Nó có đến năm mươi phòng và ba mươi hecta đất khiến Elizabeth cứ bị lạc luôn.
Ngoài ra, Sam Roffe còn sở hữu một căn nhà mái bằng lớn ở Beekman Place và một toà biệt thự khác trên bờ biển Smeralda ở Sardinia. Elizabeth qua lại tất cả những nơi nầy, từ nhà qua biệt thự, từ biệt thự qua nhà và nàng lớn lên giữa cảnh thanh lịch xa hoa. Nhưng nàng vẫn luôn cảm thấy mình như một người ngoài đi lạc vào một bữa tiệc sinh nhật lộng lẫy được tổ chức bởi những người xa lạ vô tình.
Khi Elizabeth lớn lên, bấy giờ nàng mới hiểu con gái của Sam Roffe là như thế nào. Mẹ nàng đã là một nạn nhân tội nghiệp của tập đoàn, và giờ đây đến lượt nàng. Nếu như nàng không có cuộc sống gia đình, cũng chỉ bởi vì chẳng có gia đình nào cả, mà chỉ có những người giám hộ được trả tiền và hình bóng xa cách của người được gọi là bố của nàng, người dường như không hề để tâm đến nàng, chỉ biết có tập đoàn mà thôi. Patricia có thể chấp nhận hoàn cảnh của mình, nhưng với đứa con thì như thế thật là tàn nhẫn. Elizabeth cảm thấy không ai cần tới mình, không ai yêu thương mình, không biết làm gì để chống đỡ niềm thất vọng và cuối cùng nàng tự trách bản thân mình là không dễ thương. Nàng cố gắng dành lấy tình cảm của bố mình trong vô vọng. Khi Elizabeth đến tuổi đi học, nàng ngồi trong lớp và làm nhiều món đồ cho ông, những bức tranh vẽ bằng màu nước ngây ngô, những chiếc gạt tàn xiêu vẹo, và nàng cẩn thận cất giữ chúng, chờ đợi bố đi công tác về để đem ra làm cho ông ngạc nhiên, làm cho ông vui lòng và nghe ông nói "Đẹp lắm, con yêu. Con thật là giỏi". Khi ông trở về, Elizabeth mang những món quà yêu quý cho ông và ông liếc qua chúng một cách thờ ơ rồi gật đầu hoặc lắc đầu. "Con sẽ không bao giờ trở thành nghệ sĩ, phải không? ".
Có đôi lần Ehzabeth chợt bừng tỉnh giữa đêm khuya, và bước xuống cầu thang dài uốn cong trong căn nhà ở Beekman Place, đi qua đại sảnh mênh mông tới căn phòng làm việc của bố nàng. Nàng bước vào trong căn phòng trống trải như đang bước vào chốn linh thiêng. Đây là phòng của ông, nơi ông làm việc, ký những văn kiện quan trọng và điều hành cả thế giới nầy. Elizabeth bước tới cái bàn khổng lồ bọc da và từ từ miết hai tay lên mặt bàn. Rồi nàng vòng ra đằng sau bàn, ngồi vào chiếc ghế da của ông. Nàng cảm thấy ở đó gần gũi với bố mình hơn. Tức là đến nơi nào ông đã đến ngồi nơi nào ông đã ngồi, nàng sẽ trở thành một phần của ông. Nàng luôn nói chuyện với ông trong trí tưởng tượng, và ông sẽ lắng nghe, sẽ thấy thú vị và sẽ tỏ ra ân cần khi nàng giải bày những vấn đề của mình. Một đêm, khi Elizabeth đang ngồi ở chỗ của ông trong bóng tối, bỗng nhiên đèn trong phòng bật sáng. Bố nàng đang đứng ở ngưỡng cửa. Ông nhìn Elizabeth ngồi sau bàn làm việc, mặc một cái áo ngủ mỏng, và hỏi, "Con làm gì một mình ở đây trong bóng tối vậy? " Rồi ông bế nàng lên, đưa nàng lên gác, tới gi.ường ngủ, và Elizabeth đã thao thức cả đêm đó, nghĩ đến việc bố đã bế mình như thế nào.
Sau lần đó, đêm nào nàng cũng xuống nhà và ngồi trong phòng làm việc của ông chỗ ông đến bế nàng lên gác nhưng chuyện đó đã không bao giờ còn xảy ra.
Không một ai nói chuyện về mẹ với Elizabeth, nhưng có một bức chân dung toàn thân tuyệt đẹp của Patricia treo trong phòng khách và Elizabeth thường đứng ngắm nó hàng giờ. Rồi nàng nhìn lại mình trong gương. Xấu quá. Người ta đã đặt vòng chỉnh răng nên trông nàng cứ như nửa người nửa thú vậy. Chẳng lạ lẫm gì khi bố không hề để ý đến mình, Elizabeth nghĩ.
Chẳng bao lâu sau, nàng liên tục thèm ăn và ăn uống rất ngon miệng, rồi nàng bắt đầu lên cân. Bởi vì nàng đã hiểu ra một sự thật tuyệt vời: Nếu nàng béo ra và xấu xí, sẽ không còn ai trông mong nàng sẽ giống mẹ mình.
Khi Elizabeth được mười hai tuổi, nàng được gửi vào học tại một trường tư thục đặc biệt ở khu Đông Manhattan. Nàng đi học bằng chiếc Rolls-Royce có tài xế riêng, vào lớp và ngồi một chỗ, yên lặng, không biết đến mọi người xung quanh. Nàng không bao giờ xung phong trả lời câu hỏi, và khi bị gọi tên, nàng cũng chẳng bao giờ tỏ ra là biết câu trả lời. Rồi các giáo viên cũng sớm quen đi và phớt lờ nàng. Họ thảo luận về nàng và nhất trí với nhau rằng nàng là đứa bé hư nhất mà họ từng thấy. Trong một báo cáo cuối năm gửi cho bà hiệu trưởng, cô giáo của Elizabeth đã viết:
"Chúng tôi không thu được một tiến triển nào ở trường hợp Elizabeth Roffe. Em xa rời các bạn cùng lớp và từ chối tham gia bất kỳ một sinh hoạt nhóm nào. Em không kết bạn với bất cứ ai trong trường. Điểm số của em không đạt nhưng thật khó xác định đó là bởi vì em không cố gắng hay không đủ khả năng xứ lý mợi việc. Em ngạo mạn và ích kỷ. Nếu bố em không phải là ân nhân lớn của trường, tôi sẽ cương quyết yêu cầu đuổi học em".
Bản báo cáo cách xa thực tế đến hàng năm ánh sáng. Sự thật đơn giản là Elizabeth Roffe không có một tấm lá chắn bảo vệ, không có một cái áo giáp chống lại sự cô đơn tột cùng đã nhấn chìm nàng. Tâm hồn nàng tràn đầy cảm giác sâu sắc về sự vô dụng của mình khiến nàng sợ phải kết bạn, sợ rằng họ sẽ khám phá rằng nàng là đồ vô dụng, khó có cảm tình.
Nàng không ngạo mạn mà chỉ hầu như là bị bệnh nhút nhát quá độ. Nàng có cảm giác rằng mình không thuộc về cùng một thế giới mà bố nàng đang sống. Nàng chẳng thuộc về đâu cả. Nàng miễn cưỡng ngồi xe Rolls-Royce đến trường vì nàng biết rằng mình không đáng được như thế. Trong lớp, nàng cũng biết trả lời các câu hỏi của cô giáo nhưng nàng lại không dám nói ra vì sợ mọi người chú ý đến mình. Nàng thích đọc sách và nàng thường thức khuya để vùi đầu vào sách.
Nàng cũng mơ màng, và những mơ ước thật kỳ quặc nhưng cũng rất dễ thương. Nàng đang ở Paris cùng bố và họ ngồi xe ngựa chạy qua rừng, rồi những căn phòng khổng lồ giống nhà thờ Saint-Patrick, và thiên hạ không ngừng bước vào với giấy tờ trên tay xin ông chữ ký, còn ông thì vừa vẩy tay xua họ đi vừa nói "Các người không thấy tôi đang bận sao? Tôi đang nói chuyện với con gái tôi, Elizabeth".
Nàng và bố đang trượt tuyết ở Thuỵ Sĩ, song song chạy xuống một con đồi dốc, những ngọn gió lạnh buốt đập mạnh vào người họ, đột nhiên ông ngã xuống và kêu lên đau đớn vì chân ông đã gãy và nàng nói "Bố đừng lo! Con sẽ chăm sóc cho bố". Rồi nàng trượt xuống bệnh viện và nói "Nhanh lên, bố tôi đang bị thương", và một tá người mặc áo khoác trắng đưa ông lên một chiếc xe cứu thương bóng loáng, nàng ở bên gi.ường của ông, đút cho ông ăn (có thể là tay ông bị gãy chứ không phải là chân), và mẹ nàng đi vào trong phòng, không hiểu sao bà lại sống lại, và bố nàng nói "Anh không thể gặp em lúc nầy được, Patricia. Anh và Elizabeth đang nói chuyện với nhau".
Hoặc là họ đang ở trong ngôi biệt thự xinh đẹp ở Sardinia, và tất cả đám gia nhân đều đi vắng nên Elizabeth nấu bữa tối cho bố nàng. Ông ăn hết mọi thứ và nói "Con nấu ăn giỏi hơn mẹ nhiều, Elizabeth".
Những cảnh tượng với bố nàng luôn được kết thúc theo cùng một cách. Chuông cửa reo vang và một người đàn ông cao lớn, cao hơn cả bố nàng chợt xuất hiện và cầu xin Elizabeth nhận lời kết hôn với anh ta, và bố nàng liền nài nỉ nàng "Elizabeth, bố xin con, đừng bỏ rơi bố. Bố cần có con".
Và nàng đồng ý ở lại.
Trong tất cả những ngôi nhà mà Elizabeth đã từng ở, căn biệt thự ở Sardinia được nàng yêu thích nhất. Không phải vì nó lớn nhất mà là nó có nhiều mầu sắc nhất, thân thiết nhất. Bản thân Sardinia đã hấp dẫn Elizabeth rồi. Đó là một hải đảo bị núi đá vây h.ãm tạo nên ấn tượng mạnh cách bờ biển phía Tây Nam Italia khoảng 160 hải lý, là một quần thể thiên nhiên hùng vĩ bao gồm núi, biển và trang trại xanh tươi. Những vách đá của núi lửa khổng lồ đã phun lên từ hàng nghìn năm trước từ lờng biển hoang sơ, và những doi đất ven biển quét một hình bán nguyệt đến xa đến ngút tầm mắt, biển Tyrrhenie tạo nên một vành đai xanh xung quanh đảo.
Đối với Elizabeth, hòn đảo có những hương vị riêng đặc biệt độc đáo, đó là mùi của gió biển và rừng cây, mùi hoa macchia trắng và vàng, loại hoa yêu thích của Napoleon. Đó là những bụi cây corbeccola cao khoảng gần hai mét có trái mầu đỏ, vị giống vị quả dâu tây và cây guarcias, cây sồi đá vĩ đại có vỏ được xuất vào đại lục để sản xuất nút chai rượu vang.
Nàng rất thích nghe những hòn đá hát, những hòn đá huyền bí khổng lồ với muôn vàn những lỗ nhỏ xuyên qua. Khi gió thổi qua các lỗ nhỏ ấy, những hòn đá lại phát ra những âm thanh kỳ quái, như tiếng than vãn ai oán, như bài hát buồn của các linh hồn vất vưởng.
Gió vẩn vơ không ngừng thổi. Elizabeth dần dần cũng hiểu được hết các loại gió. Mistrale, ponente, tramontana grecate và levante. Gió dịu dàng và gió hung dữ. Rồi lại còn scirocco, ngọn gió nóng bức khó chịu thổi đến từ sa mạc Sahara.
Biệt thự Roffe ở bờ biển Smeralda, phía trên cảng Cervo, toạ lạc trên một vách đá cao trông xuống biển, tách biệt hẳn bởi những dẫy cây bách và cây ôliu quả đắng mọc hoang. Xa tít xuống phía dưới là cảnh đẹp hấp dẫn của khu bến cảng và xung quanh đó, rải rác trên các ngọn đồi xanh là những ngôi nhà bằng đá trát vữa với những mầu sắc hỗn độn kỳ quặc như bức vẽ nguệch ngoạc của trẻ con.
Toà biệt thự cũng được trát vữa, nhưng là loại vữa trộn với hạt cây bách. Nó được xây theo nhiều nấc với nhiều căn phòng rộng lớn, tiện nghi, mỗi phòng đều có lò sưới và ban công. Phòng khách và phòng ăn có cửa sổ nhìn ra toàn cảnh của hòn đảo. Một cầu thang kiểu tự do dẫn lên lầu trên, nơi có bốn phòng ngủ. Đồ đạc trong nhà kết hợp một cách hoàn mỹ với môi trường xung quanh. Đó là những bàn ăn và ghế dài thô sơ, những chiếc ghế bành êm ái. Cửa sổ được che bằng loại màn xếp len trắng dệt tay trên đảo, sàn nhà được lát gạch serasada sặc sỡ của Sardinia và nhiều loại gạch khác nữa của Tuscany. Phòng tắm và phòng ngủ có trải thảm len địa phương cổ truyền. Ngôi nhà trở nên rực rỡ hơn với nhiều bức tranh, một sự pha trộn giữa trường phái ấn tượng Pháp, các hoạ sĩ bậc thầy Italia và các hoạ sĩ trước thời phục hưng ở trên đảo. Hai bước chân dung Samuel Roffe và Terema Roffe, ông bà tổ của Elizabeth được treo trong phòng lớn của toà nhà.
Nét đặc biệt của toà nhà mà Elizabeth yêu thích nhất là căn phòng trên cùng, ở ngay dưới mái dốc. Nó được nối xuống dưới bằng một cầu thang hẹp từ tầng hai và Sam Roffe dùng nó làm văn phòng. Trong đó có một bàn làm việc lớn và một ghế xoay có lót nệm. Dọc theo các bức tường là các giá sách, các bản đồ phần lớn là có liên quan đến đế chế Roffe. Cái cửa kiểu Pháp dẫn đến một ban công nhỏ xây chìa ra phía trên một vách đá dựng đứng, và đứng đó nhìn ra quang cảnh thấy thót hết cả tim.
Chính trong căn nhà nầy, năm mười ba tuổi Elizabeth đã khám phá ra nguồn gốc gia đình nàng, và lần đầu tiên trong đời nàng cảm thấy mình thuộc về ai đó, rằng nàng là một phần thuộc dòng họ của mình.
Sự việc bắt đầu vào ngày mà nàng tìm thấy Quyển sách. Sam lái xe đi Olbia và Elizabeth đi vẩn vơ lên căn phòng trên cùng. Nàng chẳng hề để ý đến những quyển sách trên giá, đã từ lâu nàng biết chúng là sách khoa học kỹ thuật về dược lý, dược phẩm, những sách viết về các công ty đa quốc gia, luật quốc tế. Buồn tẻ và chán ngắt. Chỉ có một số ít sách viết tay được cất trong tủ kính. Một quyển là sách y học bằng tiếng La tinh tên là Circa Instans được viết từ thời Trung cổ, một quyển khác tên là De Materia Medica.
Vì đang học tiếng La tinh và cũng vì tò mò muốn xem một quyển sách cổ mà cô mở tủ kính lấy nó ra. Đằng sau nó, nằm khá kín đáo trong một góc khuất là một quyển khác. Elizabeth nhấc nó ra. Đó là một cuốn sách dầy, bìa bọc da đỏ và không có tên.
Ngạc nhiên, Ehzabeth mở cuốn sách ra. Như mở cánh cổng đưa nàng sang một thế giới khác. Đó là cuốn tiểu sử của ông tổ nàng, Samuel Roffe, bằng tiếng Anh, in trên giấy da. Cuốn sách không có tên tác giả, không ghi ngày tháng, nhưng Elizabeth chắc rằng nó đã có từ hơn một trăm năm vì hầu hết các trang sách đã bạc mầu, một số trang khác đã ố vàng và long ra vì quá cũ. Nhưng tất cả các điều đó đều không hề quan trọng. Chỉ có câu chuyện trong đó mới thực sự đáng kể, một câu chuyện làm sống lại các bức chân dung treo dưới phòng lớn. Elizabeth đã nhìn các bức chân dung của các cụ tổ nàng hàng trăm lần: một người đàn ông và một người đàn bà cổ lỗ, mặc những bộ quần áo lạ lùng. Người đàn ông không đẹp trai nhưng lại toát ra một sức mạnh đặc biệt và vẻ thông minh trên gương mặt. Tóc ông mầu vàng hoe, gò má cao của dân tộc Slavơ và cặp mắt xanh sáng, tinh nhanh. Người đàn bà rất đẹp. Tóc đen, nước da bóng láng không một tì vết và cặp mắt đen như than. Bà mặc một chiếc váy dài bằng lụa trắng với một áo khoác ngắn, vạt trên thêu kim tuyến. Hai người xa lạ không có ý nghĩa gì với Elizabeth.
Nhưng giờ đây, một mình trong căn phòng áp mái, Elizabeth mở cuốn sách ra và bắt đầu đọc, Samuel và Terenia Roffe trở nên sống động. Elizabeth cảm tưởng như mình đang đi ngược thời gian, đang sống trong khu người Do Thái Krakow vào năm 1853 với Samuel và Terenia. Càng đọc cuốn sách, nàng biết rằng ông tổ Samuel của nàng, người sáng lập ra Roffe và các con, là một người lãng mạn, rất thích phiêu lưu.
Và là một tên giết người.
 
CHƯƠNG 8
Hồi ức xa xưa nhất của Samuel Roffe, như Elizabeth đọc là việc mẹ ông bị giết trong một tàn sát người Do Thái đẫm máu năm 1855 khi Samuel được năm tuổi. Cậu bé trốn trong hầm rượu của căn nhà gỗ nhỏ nơi gia đình Roffe cư ngụ cùng nhiều gia đình khác thuộc khu người Do Thái ở Krakow. Khi cuộc náo loạn cuối cùng trôi qua, hàng giờ đồng hồ dài dằng dặc sau đó và âm thanh duy nhất còn sót lại là tiếng khóc than của những người sống sót, Samuel thận trọng rời khỏi chỗ nấp và đi lên trên phố của người Do Thái tìm mẹ. Đối với cậu bé, cả thế giới dường như đang bốc cháy. Bầu trời bị nhuốm màu đỏ rực từ những căn nhà đang chìm trong lửa, làn khói đen đặc quánh cuồn cuộn khắp nơi. Đàn ông, đàn bà nháo nhác lên tìm kiếm người thân hoặc cố tìm cách cứu lấy căn nhà hoặc số tài sản ít ỏi của họ. Krakow, vào giữa thế kỷ mười chín, có một khu thương mại cho thuê nhưng người Do Thái bị cấm đến đó. Nơi đây, trong khu Do Thái ở ven thành phố, họ buộc phải chiến đấu với sự tàn sát bằng tay không, với nước kéo lên từ giếng, và tạo thành đội quân xô thùng để dập tắt ngọn lửa. Samuel nhìn đâu cũng thấy cảnh chết chóc, vô số các xác đàn ông và đàn bà không còn nguyên vẹn nằm la liệt như những con búp bê dập nát; những phụ nữ bị cưỡng hiếp nằm trần truồng và đám trẻ con, máu vẫn chảy đang rên rỉ kêu cứu.
Samuel thấy mẹ mình nằm trên phố, nửa tỉnh nửa mê, máu me đầm đìa trên mặt. Cậu quỳ xuống bên cạnh bà, tim đập thình thịch "Mẹ ơi! "
Bà mở mắt nhìn thấy cậu, cố cất tiếng nói, và Samuel biết mẹ mình đang hấp hối. Cậu muốn cứu bà nhưng không biết làm cách nào và thậm chí khi cậu nhẹ nhàng lau sạch các vết máu thì việc ấy cũng đã quá muộn.
Lâu sau đó, Samuel đứng nhìn đội mai táng cẩn thận đào đất bên dưới xác mẹ cậu: vì máu bà chảy quá nhiều ướt sũng cả đất, và theo Kinh Thánh, tất cả phải được chôn theo bà thì bà mới được về bên Chúa một cách toàn vẹn.
Chính vào lúc đó Samuel đã quyết định rằng mình cần phải trở thành bác sĩ.
Gia đình Roffe và tám gia đình khác sống trong một căn nhà gỗ hẹp ba tầng. Samuel sống trong một căn phòng nhỏ với bố và bà dì Rachel, và cả đời cậu chưa bao giờ được ở phòng riêng hoặc ăn ngủ một mình.
Cậu cũng không thể nhớ được lúc nào tai cậu không nghe được những tiếng nói, nhưng Samuel cũng không khát khao được riêng tư, vì cậu cho rằng chuyện đó là hoàn toàn không có. Cậu luôn sống trong một trạng thái hỗn độn.
Một buổi tối Samuel và các thân nhân cùng bạn bè bị khoá chặt trong khu Do Thái như những người Do Thái vẫn nhốt dê, bò, gà của họ.
Vào lúc mặt trời lặn, hai cánh cổng gỗ đồ sộ của khu Do Thái được đóng lại và khoá bằng một ổ khoá kim loại lớn. Đến bình minh cổng mới được mở và các thương nhân Do Thái mới được phép đi vào thành phố Krakow để điều khiển việc kinh doanh với những người không phải dân Do Thái, nhưng họ phải trở về ở bên trong khu Do Thái trước khi mặt trời lặn.
Bố Samuel đến từ nước Nga, ông trốn khỏi một cuộc tàn sát ở Kiev và ông đã lên đường đi Krakow, nơi ông gặp gỡ cô dâu của mình. Bố của Samuel lưng hơi gù, tóc hoa râm, gương mặt nhăn nheo và mệt mỏi. Ông là người bán hàng rong với những món đồ lặt vặt nữ trang rẻ tiền và dụng cụ làm bếp, ngày ngày ông đẩy xe qua những đường phố chật hẹp của khu Do Thái. Cậu bé Samuel rất thích được rong chơi trên các con phố lát đá đông đúc và nhộn nhịp. Cậu cũng khoái được hít hà mùi bánh mì nướng xen lẫn với mùi cá khô, pho mát, trái cây chín hoà với mùi mùn cưa và da thuộc. Cậu thích nghe những người bán hàng rong hát rao các món hàng của họ và các bà nội trợ mặc cả bằng giọng xúc phạm dễ mích lòng.
Các loại hàng hoá mà những người bán hàng rong tiêu thụ được thật khó tưởng tượng: vải lanh, đăng ten, vải bọc, đồ da, thịt và rau, kim chỉ, xà phòng, gà nguyên con đã làm sạch lông, nến, nút chai các loại, xirô giầy dép.
Sinh nhật lần thứ mười hai của Samuel cũng là ngày đầu tiên bố cậu đưa cậu vào thành phố Krakow.
Cái ý nghĩ được bước qua cánh cổng gỗ và nhìn thấy tận mắt Krakow, nhà cửa của những người không phải Do Thái khiến tâm hồn cậu tràn đầy những kích thích không sao chịu nổi.
Sáu giờ sáng, Samuel, xúng xính trong bộ quần áo đẹp đứng trong bóng tối bên cạnh ông bố trước cánh cổng vẫn còn khép kín, xung quanh là một đám đông ồn ào với những chiếc xe đẩy thô sơ tự đóng, xe bò hoặc xe ba gác. Không khí lạnh và ẩm thấp làm cho Samuel phải co người vào trong chiếc áo len lông cừu đã xơ chỉ.
Dường như sau đến vài tiếng đồng hồ, vầng mặt trời màu cam sáng chói mới chịu ló dạng ở chân trời phía đông và đám người xôn xao cả lên. Một lúc sau, hai cánh cổng gỗ từ từ mở ra và các lái buôn bắt đầu ào ra như một đàn kiến cần cù, hướng về thành phố.
Càng đến gần thành phố kỳ diệu, khủng khiếp, tim Samuel càng đập nhanh hơn. Cậu đã có thể nhìn thấy những công sự nhô cao khỏi mặt sông Vistula.
Samuel bám vào bố chặt hơn. Cậu đã thực sự ở trong Krakow, xung quanh là những người không phải Do Thái, những người mà đêm nào cũng khoá chặt cánh cổng, giam cầm bố con cậu. Cậu liếc nhanh những người qua lại bằng ánh mắt lấm lét và lo sợ, ngạc nhiên khi thấy họ khác hẳn. Họ không đeo khoá tai, và áo choàng dài đen, và nhiều người trong bọn họ râu ria nhẵn nhụi. Samuel và bố đi dọc theo đường Plante hướng về phía Rynek, nơi họp chợ đông đúc, ở đây họ đi qua gian hàng quần áo và tới nhà thờ có hai cái tháp Saint-Mary.
Samuel chưa bao giờ trông thấy khung cảnh tuyệt vời như vậy. Cái cảm giác kích thích vì được tự do làm cho Samuel ngộp thở. Những ngôi nhà ở hai bên hè phố đều tách biệt với nhau chứ không liền lại một khối và phần lớn chúng đều có một mảnh vườn nhỏ phía trước. Chắc chắn, Samuel nghĩ, mỗi người ở Krakow phải là một triệu phú.
Samuel đi theo bố đến khoảng sáu nhà buôn sỉ, nơi bố cậu mua hàng hoá và chất lên xe đẩy. Khi chiếc xe đã đầy, ông và cậu bé quay trở lại khu Do Thái.
- Mình không thể ở lại lâu hơn sao? - Samuel nài nỉ.
- Không, con trai ạ. Chúng ta phải về nhà.
Samuel không muốn về. Đây là lần đầu tiên cậu được ra ngoài cánh cổng và trọng người cậu tràn đầy cảm xúc khoan khoái mãnh liệt tựa hồ làm cậu nghẹt thở. Những người đó có thể sống thế nầy, tự do đi bất cứ nơi nào họ muốn, làm bất cứ cái gì họ thích… Tại sao cậu không được sinh ra bên ngoài cổng? Ngay lập tức cậu cảm thấy xấu hổ với bản thân vì đã có ý nghĩ bất nghĩa như vậy.
Đêm hôm đó khi lên gi.ường, Samuel đã nằm thao thức rất lâu, nghĩ về Krakow và những ngôi nhà đẹp với mảnh vườn xanh tươi trồng rất nhiều hoa. Cậu phải tìm cách để tự do. Cậu muốn nói chuyện với ai đó về những gì cậu cảm thấy, nhưng không ai có thể hiểu được cậu.
o O o
Elizabeth đặt Quyển sách xuống và ngả người, nhắm mắt, cố hình dung lại nỗi cô đơn của Samuel, sự phấn khích, cảm giác thất vọng của ông.
Đó chính là lúc Elizabeth bắt đầu đồng cảm với ông, cảm thấy mình là một phần của ông. Dòng máu của ông đang chảy trong người nàng, một cảm giác hoà hợp diệu kỳ đang được nung nóng.
Elizabeth chợt nghe thấy tiếng xe hơi của bố và nàng nhanh chóng giấu Quyển sách đi. Nàng không còn cơ hội nào khác để đọc nó ở đây. Nhưng khi trở về New York, Quyển sách đã được giấu kỹ tận đáy va-li của nàng.
 
CHƯƠNG 9
So với ánh nắng mùa đông ấm áp ở Sardinia, New York giống như miền Siberi. Các đường phố ngập tuyết và bùn loãng, gió thổi qua sông Đông lạnh cóng, nhưng Elizabeth chẳng hề quan tâm. Nàng đang ở Ba Lan, ở thế kỷ trước, tham gia những cuộc phiêu lưu của ông tổ nàng. Mỗi buổi chiều sau lúc tan trường, Elizabeth vội vàng chui vào phòng riêng, khoá cửa lại và lôi Quyển sách ra. Nàng đã định bàn luận về Quyển sách với bố nhưng lại sợ ông sẽ lấy nó đi.
Về một phương diện kỳ diệu và bất ngờ, chính cụ tổ Samuel là người đã cho Elizabeth lòng can đảm.
Đối với Elizabeth, họ rất giống nhau. Samuel suốt ngày thui thủi một mình. Ông không có ai để trò chuyện.
Như mình, Ehzabeth nghĩ. Và bởi vì họ gần như cùng tuổi - dù cách nhau cả một thế kỷ - nên nàng vẫn có thể đồng cảm với ông.
o O o
Samuel muốn trở thành bác sĩ.
Chỉ có ba thầy thuốc được phép khám bệnh cho hàng ngàn người sống chen chúc trong những căn nhà bẩn thỉu, thường xuyên bị bệnh dịch quấy rầy của khu Do Thái, và trong ba người đó, người phát đạt nhất là bác sĩ Zeno Wal. Ngôi nhà của ông đứng giữa những kẻ láng giềng nghèo khổ không khác gì một toà lâu đài giữa những căn lều lụp xụp. Nó có ba tầng, qua khung cửa sổ có thể thấy những tấm ren trắng mới giặt và thấp thoáng những đồ đạc sáng loáng. Samuel có thể hình dung ra ông bác sĩ ở bên trong đang khám cho bệnh nhân, giúp đỡ họ, điều trị cho họ lành bệnh: đang làm điều mà cậu mong muốn được làm. Chắc chắn, nếu một người như bác sĩ Zeno quan tâm đến cậu, Samuel nghĩ, người đó có thể giúp được cậu trở thành bác sĩ. Nhưng tới gần được bác sĩ Wal thật khó không khác gì tới gần bất kỳ một người không phải Do Thái nào sống ở Krakow, bên ngoài bức tường cấm.
Thỉnh thoảng Samuel cũng có dịp được liếc nhìn bác sĩ Zeno Wal vĩ đại đi tản bộ dọc theo hè phố, say sưa nói chuyện với một đồng nghiệp. Một ngày kia, khi Samuel đi ngang qua nhà bác sĩ, cửa trước bỗng mở và ông bác sĩ bước ra cùng cô con gái. Cô ta cũng cỡ tuổi cậu và là người xinh đẹp nhất mà cậu từng thấy. Ngay lúc nhìn cô ta, Samuel đã biết người nầy sẽ là vợ cậu. Cậu chưa biết mình sẽ giải quyết điều kỳ diệu đó như thế nào, chỉ biết là mình phải vậy.
Mỗi ngày sau đó, Samuel lại tìm một lý do để đến gần nhà cô ta, hy vọng sẽ thoáng thấy cô ta lần nữa.
Một buổi chiều khi Samuel có việc đi ngang nhà bác sĩ Wal, cậu nghe thấy tiếng dương cầm vọng ra và cậu biết rằng chính cô ta đang dạo đàn. Cậu phải gặp cô ta. Nhìn quanh để chắc chắn không có ai, Samuel bước sang phía ngôi nhà. Tiếng nhạc vọng xuống từ trên lầu, ngay phía trên đầu cậu. Samuel lùi lại và nhìn kỹ bức tường. Có nhiều chỗ bám tay cho cậu trèo lên và cậu bắt đầu ngay không do dự. Tầng hai cao hơn cậu tưởng và khi lên tới cửa sổ thì cậu đã ở cách mặt đất hơn ba mét. Cậu nhìn xuống mặt đất và thấy hơi chóng mặt. Tiếng nhạc đã to dần lên và cậu có cảm giác cô ta đang đánh đàn cho cậu nghe.
Cậu bám vào một chỗ khác và đu người lên tới cửa sổ. Từ từ, cậu ngẩng đầu lên cho đến lúc liếc mắt qua được ngưỡng cửa. Cậu thấy mình đang nhìn vào một phòng khách được bày biện bởi những đồ đạc tuyệt đẹp Cô gái ngồi chơi trước chiếc dương cầm mầu vàng - trắng đang dạo nhạc và đằng sau cô ta là bác sĩ Wal ngồi đọc sách trong chiếc ghế bành. Samuel không hề để mắt đến ông. Cậu chỉ chăm chú vào hình ảnh đẹp đẽ đang ở cách cậu có mấy bước chân. Cậu yêu cô ta! Cậu sẽ làm một điều gì đó thật đặc biệt và can đảm để cô ta có thể yêu cậu. Cậu sẽ… Samuel quá tập trung vào cơn mộng tưởng nên nắm tay lỏng ra và rơi vào khoảng không. Cậu hét to một tiếng và thấy hai khuôn mặt hốt hoảng nhìn vào mình trước khi cậu chạm đất.
Samuel tỉnh dậy trên bàn mổ trong phòng làm việc của bác sĩ Wal, một căn phòng rộng rãi có nhiều tủ thuốc và một bộ dụng cụ giải phẫu. Bác sĩ Wal đang giữ một miếng bông có mùi ghê tởm dưới mũi cậu.
Samuel ngạt thở và ngồi dậy.
- Tốt hơn rồi, - Bác sĩ Wal nói. - Tôi định lấy bộ óc cậu ra cơ, nhưng tôi không biết cậu có nó hay không? Cậu định ăn trộm cái gì ở đây hả nhóc?
- Không gì cả, - Samuel bực bội trả lời.
- Tên cậu là gì?
- Samuel Roffe.
Những ngón tay của ông bác sĩ bắt đầu thăm dò cổ tay phải của Samuel và cậu hét lên vì đau.
- Hừm. Cổ tay cậu đã gẫy, Samuel Roffe. Có thể chúng ta phải để cho cảnh sát lo vụ nầy.
Samuel rên lớn. Cậu đang nghĩ xem chuyện gì sẽ xảy ra khi cảnh sát mang cậu về nhà trong tình trạng nhục nhã thế nầy. Trái tim của dì Rachel sẽ vỡ tung còn bố cậu sẽ giết chết cậu: Nhưng quan trọng hơn, làm sao cậu còn hy vọng chinh phục được con gái của bác sĩ Wal? Cậu là tên tội phạm, một người tay đã nhúng chàm. Samuel chợt thấy cổ tay đau nhói lên một cái, và cậu ngước mắt nhìn ông bác sĩ bằng ánh mắt đầy ngạc nhiên đau buồn.
- Tốt rồi, - Bác sĩ Wal nói. - Tôi đã xong. - ông đặt một thanh nẹp vào cổ tay cậu rồi hỏi, - Cậu sống ở gần đây hả, Samuel Roffe?
- Không ạ, thưa ông.
- Cậu thường lai vãng quanh đây phải không?
- Vâng, thưa ông?
- Tại sao?
- Tại sao? - Nếu Samuel nói ra sự thật, ông ta sẽ cười vào mũi cậu.
- Cháu muốn trở thành bác sĩ, - Samuel thốt lên, không sao dằn lòng được.
Bác sĩ Wal nhìn sững cậu với vẻ hoài nghi:
- Đó là lý do khiến cậu trèo lên tường nhà tôi như một tên trộm sao?
Samuel kể hết tất cả. Cậu kể về người mẹ bị chết trên phố, về ông bố, về chuyến đi đầu tiên đến Krakow và nỗi thất vọng về việc đêm nào cũng bị nhốt trong khu Do Thái như những con vật. Cậu kể về cảm giác của mình với con gái của bác sĩ. Cậu kể tất cả mọi thứ và bác sĩ Wal lắng nghe trong im lặng. Câu chuyện có vẻ lố bịch ngay cả đối với tai của Samuel và khi kết thúc, cậu thì thầm:
- Cháu… cháu xin lỗi.
Bác sĩ Wal nhìn cậu một lúc lâu, rồi ông nói:
- Bác cũng xin lỗi. Cho cháu, cho bác, và cho tất cả chúng ta. Mỗi người là một tù nhân và sự trớ trêu nhất của tất cả là phải trở thành tù nhân của người khác.
Samuel ngỡ ngàng ngước nhìn ông.
- Cháu không hiểu, thưa bác sĩ.
Ông bác sĩ thở dài.
- Một ngày kia cháu sẽ hiểu.
Ông đứng dậy, đi về phía bàn làm việc, chọn một cái ống điếu, từ từ nhét thuốc vào đầy nõ.
- Bác e rằng hôm nay là một ngày tồi tệ cho cháu, Samuel Roffe. - Ông đặt que diêm lên nõ điếu, thổi tắt và quay lại phía cậu bé. - Không phải vì cái cổ tay bị gãy của cháu. Nó sẽ lành lại. Nhưng bác sắp phải gây cho cháu một vết đau mà chắc là sẽ không liền nhanh như vậy.
Samuel nhìn ông, cặp mắt mở to. Bác sĩ Wal đến bên cạnh cậu và khi ông nói giọng ông thật dịu dàng.
- Rất ít người có được một giấc mơ. Còn cháu có đến hai giấc mơ. Và bác e rằng mình sắp phải phá vỡ cả hai giấc mơ của cháu.
- Cháu không… - Hãy nghe cho kỹ lời bác nói, Samuel. Cháu sẽ không bao giờ trở thành bác sĩ, - không bao giờ trong cái thế giới nầy. Chỉ có ba người bọn bác được phép hành nghề trong khu Do Thái nầy. Ở đây có đến hàng tá bác sĩ giỏi đang chờ bọn bác về hưu hoặc chết đi để có thể thế chỗ. Không có cơ hội nào dành cho cháu cả. Không. Cháu đã sinh lầm thời rồi, lầm nơi rồi.
- Cháu có hiểu lời bác nói không, cậu bé?
Samuel nuốt nước bọt.
- Dạ hiểu.
Ông bác sĩ do dự rồi tiếp tục.
- Về giấc mơ thứ hai của cháu, … bác sĩ rằng giấc mơ nầy cũng không thể được. Cháu không có cơ may nào để lấy được Terenia.
- Tại sao? - Samuel hỏi.
Bác sĩ Wal nhìn cậu.
- Tại sao? Vì cùng một lý do khiến cháu không thể trở thành bác sĩ. Gia đình bác sống theo quy tắc, theo truyền thống. Con gái của bác sĩ lấy một người cùng giai cấp với nó, một người có khả năng giúp nó tiếp tục nếp sống mà nó đã từng được sống. Nó sẽ lấy một chuyên gia, một luật sư, một bác sĩ hoặc một giáo sĩ. Cháu… thôi, cháu phải quên nó đi.
- Nhưng… - Ông bác sĩ dẫn cậu ra cửa. - Cháu nhớ giữ gìn mấy thanh nẹp đó trong vài ngày. Nhớ giữ chúng sạch sẽ.
- Vâng, thưa bác sĩ. - Samuel nói. - Cám ơn bác sĩ Wal.
Bác sĩ Wal ngắm nhìn cậu bé tóc vàng có vẻ thông minh trước mặt mình.
- Chào cháu, Samuel.
Đầu giờ chiều ngày hôm sau, Samuel nhấn chuông cửa nhà bác sĩ Wal. Ông lặng lẽ ngắm nghía cậu bé qua khung cửa sổ. Bác sĩ Wal biết mình phải đuổi cậu bé đi.
- Cho cậu ấy vào, - bác sĩ Wal nói với người giúp việc.
Sau đó, cứ mỗi tuần Samuel lại đến nhà bác sĩ Wal đôi ba lần. Cậu giúp bác sĩ làm các công việc vặt và bù lại ông bác sĩ để cho cậu được quan sát khi ông điều trị bệnh nhân hoặc làm việc trọng phòng thí nghiệm, phòng điều chế thuốc. Cậu bé quan sát, nghiên cứu và ghi nhớ tất cả. Cậu quả là một tài năng thiên bẩm. Càng ngày bác sĩ Wal càng cảm thấy mình có lỗi vì ông biết rằng như thế là mình đang khích lệ Samuel, cổ vũ cậu trở thành con người mà cậu không bao giờ có thể đạt tới, nhưng ông lại không nhẫn tâm xua đuổi cậu.
Không hiểu là tình cờ hay cố ý mà Terenia rất hay ở quanh quẩn bên Samuel mỗi khi cậu bé có mặt ở nhà cô. Thỉnh thoảng cậu lại liếc nhìn cô đi qua phòng thí nghiệm hoặc ra khỏi nhà, và một lần cậu đã đâm sầm vào cô ta trong bếp, tim cậu đập mạnh đến nỗi cậu tưởng mình sắp xỉu đi. Cô ta nhìn cậu một lúc lâu, vẻ xét đoán lộ rõ trong mắt, rồi cô ta lạnh nhạt gật đầu và bước đi. It nhất thì cô ta cũng đã chú ý đến cậu! Đó là bước đầu tiên. Còn lại chỉ còn là vấn đề thời gian. Samuel không còn nghi ngờ gì nữa. Đây là số phận. Terenia đã trở thành phần chính trong giấc mơ của cậu về tương lai. Trước kia cậu mơ ước cho bản thân mình thì nay cậu mơ ước cho cả hai người. Bằng cách nào đó cậu sẽ đưa cả hai người ra khỏi khu Do Thái khủng khiếp, cái nhà tù đông đúc bẩn thỉu nầy. Và cậu sẽ trở thành một người thành đạt vĩ đại. Nhưng bây giờ sự thành công của cậu không phải chỉ dành cho mình cậu mà là dành cho cả hai người.
Cho dù việc đó là bất khả thi.
o O o
Elizabeth ngủ thiếp đi trong lúc đọc về cụ Samuel.
Sáng hôm sau khi thức giấc, nàng cẩn thận giấu Quyển sách đi và bắt đầu thay quần áo đi học. Nàng không tài nào gạt được Samuel ra khỏi tâm trí. Làm cách nào ông cưới được Terenia? Làm cách nào trốn thoát khỏi khu Do Thái? Và làm sao để trở nên nổi tiếng?
Elizabeth đã bị Quyển sách lôi cuốn hoàn toàn và nàng luôn cảm thấy bực bội mỗi khi bi bắt buộc phải xa rời nó trở về với thế kỷ 20.
Một trong những môn học bắt buộc của Elizabeth là ba-lê và nàng cảm thấy ghê tởm nó. Nàng thường tự ấn mình vào trong chiếc váy xoè mầu hồng, nhìn kỹ mình trong gương và cố tự bảo với bản thân rằng thân hình của mình thật khêu gợi. Nhưng sự thật thì ở ngay trước mặt. Nàng quá mập. Nàng sẽ không bao giờ trở thành một diễn viên ba-lê.
Một thời gian ngắn sau lễ sinh nhật lần thứ mười bốn của Elizabeth, bà Netturova, cô giáo ba-lê của nàng, thông báo rằng hai tuần nữa lớp học sẽ tổ chức một buổi vũ hội theo thông lệ hàng năm trong giảng đường và các học sinh phải mời bố mẹ đến. Elizabeth rơi vào trạng thái phập phồng lo sợ. Chỉ cần nghĩ đến cảnh phải bước lên sân khấu đứng trước khán giả thôi đã đủ làm cho nàng kinh hoàng rồi. Nàng không thể làm được việc đó.
Một cô bé đang chạy qua đường trước mặt một chiếc xe hơi, Elizabeth trông thấy cô ta, chạy nhanh ra và giật cô bé khỏi nanh vuốt tử thần. Không may thay, thưa các quý bà quý ông, ngón chân của Elizabeth Roffe bị xe bánh xe hơi cán lên, và cô sẽ không thể tham gia buổi vũ hội tối nay.
Một người hầu gái đã sơ ý để bánh xà phòng trên đầu cầu thang. Elizabeth bị trượt chân và ngã lăn xuống các bậc thang, vỡ xương chậu. Bác sĩ cho biết không có gì đáng ngại. Vết thương sẽ lành hẳn sau ba tuần.
Nhưng không may mắn như thế. Vào ngày biểu diễn Elizabeth vẫn hoàn toàn khoẻ mạnh nhưng tâm trạng gần như hoá rồ.
Một lần nữa, lại là cụ Samuel ra tay giúp đỡ nàng. Nàng nhớ lại cụ đã hoảng sợ thế nào nhưng cụ vẫn quay lại gặp gỡ bác sĩ Wal.
Nàng sẽ không làm điều gì để cho cụ Samuel phải mất mặt. Nàng sẽ đương đầu với thử thách.
Elizabeth thậm chí đã không hề nhắc đến buổi biểu diễn với bố nàng. Từ trước đến giờ nàng vẫn từng yêu cầu ông dự các buổi họp hoặc các buổi liên hoan của nhà trường mà các bậc phụ huynh được đề nghị tham gia, nhưng bao giờ ông cung tỏ ra quá bận rộn.
Tối hôm đó, khi Elizabeth chuẩn bị đến vũ hội, bố nàng chợt về nhà. Ông đã vắng nhà suốt mười ngày nay.
Ông đi qua phòng ngủ của nàng, nhìn thấy nàng và nói:
- Chào con, Elizabeth. Con béo ra một chút thì phải.
Nàng đỏ mặt và cố thắt chặt co.
- Vâng, bố ạ.
Ông định nói gì, nhưng lại đổi ý.
- Việc học hành của con ra sao rồi?
- Vẫn tốt, cám ơn bố.
- Không có vấn đề gì chứ?
- Không, bố ạ.
- Tốt.
Đó là đoạn hội thoại mà họ đã lặp đi lặp lại trong mấy năm qua, đoạn kinh cầu nguyện vô nghĩa mà dường như là hình thức giao tiếp duy nhất giữa hai bố con.
Việc học hành của con ra sao rồi vẫn tốt, Cảm ơn bố, không có vấn đề gì chứ không bố ạ, tốt.
Hai người xa lạ nói chuyện thời tiết người nọ lại không lắng nghe hoặc quan tâm đến ý kiến của người kia. Thế đấy, chỉ có một trong hai người quan tâm, Elizabeth nghĩ.
Nhưng lần nầy Sam Roffe vẫn đứng đó, ngắm nhìn con gái với vẻ suy tư trên khuôn mặt. Ông đã quen giải quyết các vấn đề cụ thể và mặc dù ông cảm thấy đây cũng là một vấn đề, nhưng ông không biết nó là gì và nếu ai đó nói cho ông thì câu trả lời chắc sẽ là "Đừng vớ vẩn. Tôi đã cho Elizabeth đủ mọi thứ".
Lúc bố nàng quay lưng rời đi, Elizabeth nghe thấy chính mình nói:
- Lớp… lớp… ba-lê của con tổ chức một buổi biểu diễn. Bố không muốn đến xem hay sao?
Và ngay cả khi nói xong mấy lời đó, trong lòng nàng vẫn tràn đầy cảm giác sợ hãi. Nàng không muốn ông đến đó chứng kiến sự vụng về của nàng. Tại sao nàng lại đề nghị ông? Nhưng nàng biết tại sao. Bởi vì nàng là cô gái duy nhất trong lớp mà bố mẹ thường xuyên vắng mặt tại giảng đường: Dù sao thì điều đó cũng không quan trọng, nàng tự nhủ, vì ông sẽ nói "Không". Nàng lắc đầu, tự giận mình và quay đi. Và đằng sau nàng, không thể tin nổi, nàng nghe thấy giọng bố trả lời, "Bố muốn đến lắm".
o O o
Giảng đường chật ních các bậc phụ huynh, người thân và bạn bè, chăm chú theo dõi các học sinh múa theo tiếng nhạc đệm từ hai chiếc dương cầm lớn ở hai bên sân khấu. Bà Netturova đứng tránh sang một bên, đếm nhịp rất to trong khi bọn trẻ múa, cố thu hút sự chú ý của bố mẹ lũ trẻ.
Một số ít học sinh đặc biệt duyên dáng và tỏ ra thực sự có tài. Còn những em khác thì diễn bằng cả lòng nhiệt tình thay thế cho phần tài năng còn thiếu.
Chương trình thông báo ba đoạn nhạc trích Coppélia, Cinderella và như thường lệ Hồ Thiên Nga. Đặc biệt sẽ có tiết mục múa đơn, mà lúc đó mỗi em sẽ được hưởng một khoảnh khắc vinh quang, một mình.
Đằng sau cánh gà, Elizabeth đang ngập chìm trong sự sợ hãi. Nàng không ngừng liếc ra phía khán đài và mỗi khi nhìn thấy bố mình ngồi ở chính giữa dãy thứ hai nàng lại nghĩ mình thật là dại dột khi đề nghị bố đến đây. Trong suốt buổi trình diễn Elizabeth không tài nào bắt kịp nhạc đệm và nàng luôn phải nấp sau các bạn khác. Nhưng rồi thì đoạn độc diễn của nàng cũng đã đến. Nàng cảm thấy mình phì nộn trong chiếc váy xoè như một đồ vật trong rạp xiếc. Nàng chắc rằng tất cả mọi người sẽ cười ồ lên chế giễu khi nàng đơn độc bước ra sân khấu - và nàng đã mời bố đến xem sự bẽ bàng của mình. Điều an ủi duy nhất của Elizabeth là màn độc diễn của nàng chỉ dài có một phút. Bà Netturova luôn tỉnh táo. Nó sẽ kết thúc rất nhanh để không ai kịp bình phẩm nàng. Tất cả những gì bố của Elizabeth phải làm là liếc qua trong một phút và tiết mục của nàng sẽ kết thúc.
Elizabeth ngắm nhìn các cô gái khác trong lúc họ múa, từng người một, đối với nàng thì họ chẳng khác gì Markova, Maximova, Fontefin. Nàng bỗng giật mình vì một bàn tay giá lạnh nắm vào cánh tay trần của mình, và bà Netturova rít lên.
- Nhón gót lên, Elizabeth, em là người tiếp theo.
Elizabeth cố nói "Vâng, thưa cô" nhưng cổ họng nàng khô khốc đến độ không một lời nào được thốt ra. Hai chiếc dương cầm bắt đầu dạo bản nhạc quen thuộc cho màn diễn của Elizabeth. Nàng đứng đó như bị đóng băng, bất động và bà Netturova thì thầm "Ra ngoài đi! ", rồi Elizabeth cảm thấy lưng bị đẩy mạnh và nàng ở trên sân khấu, gần như trần trụi, trước mắt hàng trăm cặp mắt xa lạ không thiện cảm. Nàng không dám nhìn bố mình. Tất cả những gì nàng muốn là mau mau chóng chóng thoát khỏi thử thách nầy và bỏ chạy thật xa. Việc nàng phải làm thật dễ dàng, vài cái nhún gối, một vài động tác múa và nhảy lên.
Nàng bắt đầu vào các bước đi, cố theo đúng nhạc, tự nghĩ mình mảnh dẻ và mềm mại. Khi nàng kết thúc, có tiếng vỗ tay lịch sự nhưng rời rạc vọng lên từ phía khán giả. Elizabeth nhìn xuống hàng ghế thứ hai, và ở đó là bố nàng, đang mỉm cười tự hào và vỗ tay - vỗ tay cho nàng và lòng nhiệt tình trong Elizabeth chợt trỗi dậy. Nhạc đã ngừng. Nhưng Elizabeth vẫn tiếp tục múa, vẫn nhún gối, vẫn bước qua bước lại, xoay người, như đang trong trạng thái vô thức. Các nhạc công bối rối bắt đầu chơi tiếp, đầu tiên là một chiếc dương cầm, rồi chiếc kia, cố gắng bắt theo nhịp bước của nàng. Đằng sau sân khấu, bà Netturova ra dấu cho Elizabeth một cách cuồng loạn, gương mặt tràn đầy sự tức giận. Nhưng Elizabeth đã không nhận biết được gì hết vì quá sung sướng, cứ tự mình nhảy múa. Điều duy nhất đáng kể với nàng là nàng đang ở trên sân khấu, múa cho bố nàng xem.
- Tôi chắc rằng ông hiểu, ông Roffe, rằng ngôi trường nầy không thể nào tha thứ cho kiểu thái độ đó. - Giọng bà Netturova rung lên vì giận dữ. - Con gái của ông đã không thèm để ý đến ai khác và hành động như… như thể cô ta là một thứ ngôi sao vậy.
Elizabeth có thể cảm thấy bố quay sang nhìn mình và nàng sợ phải thấy ánh mắt của ông. Nàng biết rằng điều nàng vừa làm là không thể tha thứ nhưng nàng đã không tài nào kiềm chế được bản thân. Trong một khoảng thời gian ngắn trên sân khấu nàng đã cố tạo ra một cái gì đó thật đẹp cho bố nàng, cố gây ấn tượng với ông, làm ông quan tâm đến nàng, tự hào vì nàng. Và yêu thương nàng.
Còn bây giờ thì nàng nghe thấy ông nói:
- Cô Netturova, cô hoàn toàn đúng. Tôi sẽ xem xét để trừng phạt Elizabeth một cách đích đáng.
Bà Netturova ném cho Elizabeth một cái nhìn đắc thắng và nói:
- Cám ơn ông, ông Roffe. Tôi xin giao việc nầy cho ông.
Elizabeth và bố đứng ngoài trường học. Ông không hề nói nửa lời từ lúc rời khỏi văn phòng của bà Netturova. Elizabeth cố gắng sáng tác ra một lời xin lỗi - nhưng nàng có thể nói gì đây? Làm sao nàng có thể giải thích cho ông hiểu tại sao nàng lại làm cái điều mà nàng vừa làm? Ông là một người xa lạ và nàng sợ ông. Nàng đã được nghe chuyện ông trút những cơn giận khủng khiếp lên đầu những người khác vì lỗi lầm của họ hoặc vì họ không nghe lời ông. Bây giờ nàng đứng đây chờ đợi sự tức giận tột cùng của ông đổ xuống đầu.
Ông quay sang nàng và nói:
- Elizabeth, tại sao chúng ta không tới Rumpelmayers uống một cốc sôcôla sôđa nhỉ?
Và Elizabeth oà lên khóc.
Đêm đó Elizabeth nằm trên gi.ường thao thức, không ngủ được vì quá kích thích. Nàng ôn lại sự việc xảy ra lúc tối. Và nàng gần như không chịu được sự kích động mà nó gây ra cho mình. Bởi vì đây không phải là mộng mơ giả tạo. Nó đã xảy ra, nó có thật. Nàng có thể thấy mình và bố ngồi trong quán Rumpelmagers, xung quanh là lũ gấu, voi, sư tử, ngựa vằn nhồi bông lớn vàng sặc sỡ. Elizabeth gọi một cốc kem chuối và khi nó được mang tới thì nàng mới thấy là nó thật sự vĩ đại nhưng bố nàng không hề phê bình gì. Ông đang nói chuyện với nàng. Không phải là việc học hành của con ra sao rồi vẫn tốt, Cảm ơn bố, không có vấn đề gì chứ không bố ạ, tốt.. Mà là nói chuyện thực sự.
Ông kể cho nàng nghe về chuyến đi gần đây đến Tokyo và người chủ tiệc đã đặc biệt mời ông món sôcôla đầy châu chấu và kiến ra sao và ông đã phải ăn hết để khỏi làm ông ta mất mặt như thế nào.
Khi Elizabeth đã xử lý xong thìa kem cuối cùng, bố nàng bỗng nói:
- Cái gì đã khiến con làm như vậy, Liz?
Nàng biết mọi việc giờ đây đang sắp sửa hỏng hết, rằng bố nàng chuẩn bị trách mắng nàng, nói với nàng ông thất vọng về nàng biết bao nhiêu.
Nàng trả lời:
- Con muốn giỏi hơn bất cứ người nào. - Nàng không thể kìm được lời nói thêm, - Cho bố thấy.
Ông nhìn nàng, dường như là lâu lắm, rồi phá lên cười:
- Chắc chắn là con đã làm cho đến cả quỷ thần cũng phải ngạc nhiên. - Có chút gì kiêu hãnh lộ ra trong giọng nói của ông.
Elizabeth cảm thấy máu dồn lên má và nàng nói:
- Bố không giận con sao?
Cặp mắt ông ánh lên một vẻ lạ kỳ mà nàng chưa bao giờ được thấy.
- Vì con muốn trở thành người giỏi nhất hay sao? Tất cả người của dòng họ Roffe đều như vậy.
Nhưng ý nghĩ cuối cùng của Elizabeth trước khi nàng chìm vào giấc ngủ là: Bố mình thích, ông thật sự thích mình. Từ giờ trở đi, hai bố con sẽ luôn được ở bên nhau. Ông sẽ đưa mình đi theo ông. Hai người sẽ nói với nhau nhiều chuyện và sẽ trở thành đôi bạn thân thiết.
o O o
Buổi chiều hôm sau, thư ký của bố nàng thông báo cho nàng biết mọi việc đã được lo liệu để gửi Elizabeth sang học ở một trường nội trú tận đất nước Thuỵ Sĩ xa xôi.
 
CHƯƠNG 10
Elizabeth được đăng ký vào học ở International Château Lemand, trường dành riêng cho nữ ở làng Sainte - Blaise, nhìn ra hồ Neuchâtel.
Tuổi của các cô gái học trong trường là từ mười bốn đến mười tám. Đây là một trong những trường tốt nhất trong hệ thống giáo dục tuyệt vời ở Thuỵ Sĩ.
Elizabeth căm ghét mọi giây phút ở đó.
Nàng có cảm giác mình bị đi đày. Nàng bị đưa đi xa nhà, nó giống như sự trừng phạt về một tội lỗi mà nàng không hề phạm phải. Vào buổi tối kỳ diệu duy nhất đó nàng đã cảm thấy mình sắp đạt được điều tuyệt diệu, khám phá được bố nàng, và bố nàng khám phá được nàng, và họ đang trở nên thân thiết.
Nhưng giờ đây nàng đã cách xa bố hơn bao giờ hết.
Elizabeth vẫn có thể theo dõi các hoạt động của bố nàng qua các tờ báo hàng ngày và tạp chí. Trên đó thường xuyên có những bài viết và ảnh về cuộc gặp gỡ của ông với thủ tướng hoặc tổng thống, khánh thành một nhà máy dược phẩm mới ở Bombay, về cuộc leo núi, ăn tối với giáo chủ Iran. Elizabeth dán tất cả những tin tức đó vào một quyển vở và nàng thường xuyên giở ra ngắm nghía. Nàng giấu nó bên cạnh Quyển sách về cụ Samuel.
Elizabeth luôn tìm cách xa rời các sinh viên khác.
Một vài cô gái ở chung phòng với hai hoặc ba cô khác nhưng Elizabeth đã yêu cầu được ở một mình một phòng. Nàng viết cho bố nhiều bức thư dài rồi xé nát những bức nào bộc lộ tình cảm của mình. Đôi khi nàng cũng nhận được những bức thư ngắn của bố và vào ngày sinh nhật là nhiều món quà bọc giấy hoa mua ở các cửa hàng sang trọng, được người thư ký đích thân đưa đến. Elizabeth thấy nhớ bố kinh khủng.
Nàng sắp được gặp ông tại biệt thự ở Sardinia vào lễ Noel, và trong lúc thời gian ngày càng đến gần thì sự chờ đợi thật là không thể chịu đựng nổi. Nàng phát ốm vì kích động. Nàng lập ra một danh sách những việc quyết tâm làm và cẩn thận viết chúng ra:
- Không gây phiền phúc
- Tỏ ra quan tâm
- Không phàn nàn về bất cứ chuyện gì, đặc biệt là chuyện ở trường.
- Không cho bố biết là mình đang cô đơn.
- Không ngắt lời khi bố đang nói.
- Ăn mặc chỉnh tề vào bất kỳ lúc nào, kể cả bữa sáng.
- Cười thật nhiều để cho ông biết mình đang hạnh phúc thế nào.
Những lời ghi chú như cuốn kinh cầu nguyện, lời cầu xin của nàng với các vị thần. Nếu nàng thực hiện tất cả những điều nầy, có thể… có thể… những quyết tâm của Elizabeth sẽ trở thành kỳ cục. Nàng đã điều tra nghiên cứu về thế giới thứ ba và mười chín nước đang phát triển, và bố nàng sẽ nói, "Bố không ngờ là con lại quan tâm đến vậy. (điều số hai). "Con là cô gái xuất sắc, Elizabeth". Sau đó ông sẽ quay sang người thư ký và nói: "Tôi không nghĩ rằng Elizabeth cần trở lại trường. Tại sao tôi không giữ nó ở đây với tôi?
Một lời cầu nguyện.
o O o
Một chiếc Learjet của tập đoàn đón Elizabeth ở Zurich và đưa nàng đến sân bay ở Olbia, nơi có một chiếc limousine đã chờ sẵn. Elizabeth ngồi vào băng sau của xe, im lặng, ép chặt hai đầu gối vào nhau để cho đỡ run. Dù chuyện gì xảy ra đi chăng nữa, nàng quả quyết nghĩ, không được để cho ông thấy mình khóc ông phải không được biết mình nhớ ông thế nào.
Chiếc xe lướt qua xa lộ dài và quanh co dẫn đến bờ biển Smeralda rồi rẽ vào con đường nhỏ chạy vòng quanh lên đỉnh đồi. Con đường nầy luôn làm Elizabeth sợ hãi. Đây là đoạn đường hẹp và dốc, bên nầy là núi cao và bên kia là vực sâu muôn trượng.
Chiếc xe dừng lại ở trước nhà, và Elizabeth bước ra khỏi xe, đi về phía ngôi nhà, và rồi nàng chạy, chạy với hết sức lực của mình. Cửa trước mở ra và Margherita, bà quản gia người Sardinia đứng đó, mỉm cười:
- Chào cô Elizabeth.
- Bố tôi đâu? - Nàng hỏi.
- Ông chủ có việc gấp phải đi Úc. Nhưng ông ấy đã để lại rất nhiều món quà xinh đẹp cho cô.
Một mùa Noel dễ thương lại sắp đến rồi.
 
CHƯƠNG 11
Elizabeth đã cầm Quyển sách theo. Nàng đứng trong phòng lớn của toà biệt thự ngắm nhìn chân dung của Samuel Roffe, và bên cạnh, Terenia, cảm thấy sự có mặt của họ, như thể họ đã sống lại. Một lúc lâu sau, nàng quay lại và đi lên căn phòng áp mái, lấy Quyển sách. Mỗi ngày nàng bỏ ra nhiều giờ ở trong căn phòng đó, đọc đi đọc lại, mỗi lần đọc lại có cảm giác gần gũi hơn với Samuel và Terenia, và thời gian một trăm năm ngăn cách họ cũng đang dần biến mất…
o O o
Suốt vài năm sau đó, Elizabeth đọc, Samuel đã ở lại hàng giờ trong phòng thí nghiệm của bác sĩ Wal, giúp đỡ ông pha chế thuốc mỡ và thuốc uống, nghiên cứu các tác động của chúng. Và đằng sau luôn là Terenia xinh đẹp, quyến rũ. Chỉ cần thoáng bóng của Terenia cũng đủ giữ giấc mơ một ngày nào đó nàng sẽ thuộc về anh sống mãi. Samuel và bác sĩ Wal rất hợp nhau nhưng với mẹ của Terenia thì không. Bà là một phụ nữ miệng lưỡi độc địa, hay gây gổ, hợm mình và bà ghét Samuel. Và anh cố tránh xa bà.
Samuel bị mê hoặc bởi nhiều loại thuốc có thể chữa khỏi bệnh cho con người.
Một quyển sách giấy cói được tìm thấy, trong đó liệt kê 811 toa thuốc được người Ai Cập sử dụng vào năm 1550 trước công nguyên. Tuổi thọ trung bình vào thời đó là mười lăm và Samuel có thể hiểu được khi anh đọc một vài toa: Phân cá sấu, thịt thằn lằn, máu dơi, nước dãi lạc đà, gan sư tử, chân ếch, bột kỳ lân. Dấu hiệu Rx trên mỗi toa thuốc là lời cầu nguyện xa xưa cho thần Horace, vị thần chữa bệnh của người Ai Cập Thậm chí từ "chemistry"(1) cũng xuất phát từ tên cổ của nước Ai Cập, vùng đất của Kahmi hay Chemi. Những tu sĩ - thầy thuốc được gọi là các thầy tư tế, điều mà Samuel mới được biết.
Các nhà thuốc trong khu Do Thái và thành phố Krakow đều rất thô sơ. Đa số các chai lọ được đổ đầy các dược phẩm chưa qua thử nghiệm, một số thì vô dụng còn một số thậm chí có hại. Samuel trở nên quen thuộc với tất cả những thứ đó. Có dầu thầu dầu, caloment, đại hoàng, iôt, codeine, ipecac. Bạn có thể mua thuốc bách bệnh để chữa ho gà, đau bụng, sất thương hàn.
Bởi vì không có biện pháp phòng ngừa vệ sinh nào được thực hiện nên trong thuốc mỡ và thuốc súc họng đầy những xác sâu bọ, gián, phân chuột và lông thú. Phần đông các bệnh nhân uống thuốc đã chết vì bệnh hoặc vì thuốc.
Có vài tờ tạp chí thường đăng các tin tức về dược phẩm và Samuel đọc hết tất cả. Anh thảo luận ý kiến của mình với bác sĩ Wal.
- Hợp lẽ là, - Samuel nói, giọng rung lên vì tin tưởng, - phải có cách điều trị cho tất cả các loại bệnh tật. Sức khoẻ là tự nhiên và bệnh tật là phi tự nhiên.
- Có thể, - bác sĩ Wal trả lời, - nhưng đa số các bệnh nhân của bác thậm chí còn không chịu cho bác thử các loại thuốc mới với họ. - ông lạnh nhạt nói thêm, - Và bác nghĩ rằng họ rất là khôn.
Samuel đọc ngấu nghiến tủ sách về dược phẩm nghèo nàn của bác sĩ Wal. Và khi anh đã đọc đi đọc lại những quyển sách đó, Samuel lại thấy thất vọng bởi quá nhiều những vấn đề chưa được làm sáng tỏ trong đó.
Samuel bị thôi thúc bởi cuộc cách mạng đang diễn ra. Một số nhà khoa học tin rằng có thể chống lại nguyên nhân gây bệnh bằng cách tạo nên sức đề kháng nhằm tiêu diệt cơn bệnh. Bác sĩ Wal cũng đã thử qua một lần. Ông lấy máu của một bệnh nhân bị bệnh bạch hầu và tiêm vào một con ngựa. Khi con ngựa chết, bác sĩ Wal đã bỏ cuộc thí nghiệm. Nhưng chàng trai Samuel lại tin chắc rằng bác sĩ Wal đã đi đúng đường.
- Bác không nên ngừng lúc nầy, - Samuel nói. - Cháu biết việc nầy sẽ có kết quả.
Bác sĩ Wal lắc đầu.
- Đó là vì cháu mới mười bảy tuổi, Samuel. Khi nào cháu bằng tuổi bác bây giờ, cháu sẽ không còn chắc chắn một điều gì nữa. Quên nó đi.
Nhưng Samuel không bị thuyết phục dễ dàng như thế. Anh muốn tiếp tục thí nghiệm của bác sĩ Wal, vì vậy mà Samuel phải cần nhiều thú vật, nhưng anh không biết kiếm ở đâu ra ngoại trừ lũ mèo hoang và chuột anh có thể bắt được. Dù liều lượng có nhỏ đến đâu thì sau khi bị Samuel tiêm, chúng đều chết. Chúng quá nhỏ, Samuel nghĩ. Mình cần một con vật lớn hơn. Một con ngựa, hoặc bò, hoặc cừu. Nhưng phải đi đâu mới tìm được đây.
Một buổi chiều muộn khi Samuel về đến nhà, anh thấy một con ngựa già và một chiếc xe hai bánh đứng trước cổng. Một bên chiếc xe là dòng chữ "Roffe và con trai" được viết một cách sơ sài. Samuel như không tin vào mắt mình, chạy vào nhà tìm bố.
- Con… con ngựa ngoài đó, - anh nói, - Bố lấy nó ở đâu?
Bố anh mỉm cười kiêu hãnh.
- Bố mới mua. Chúng ta có thể đi nhiều nơi hơn với con ngựa nầy. Có thể trong bốn, năm năm nữa chúng ta sẽ mua được một con nữa. Con cứ suy nghĩ đi. Chúng ta sẽ có hai con ngựa.
Đó là phạm vi tham vọng của bố anh, làm chủ hai con ngựa ốm kéo xe qua những con đường đông đúc, bụi bặm của khu Do Thái ở Krakow. Điều nầy làm Samuel muốn khóc.
Đêm ấy, khi mọi người đã ngủ say, Samuel đi ra ngoài chuồng ngựa và kiểm tra con ngựa mà họ gọi là Ferd. Không cần hỏi cũng thấy ngay con ngựa thuộc loại gầy yếu nhất. Nó là một con ngựa già, lưng võng khớp sưng. Không hiểu nó có thể đi nhanh hơn bố của Samuel hay không. Nhưng tất thảy những chuyện đó không quan trọng. Điều quan trọng là Samuel đã có trong tay một vật thí nghiệm ưng ý. Anh không cần phải vừa làm thí nghiệm vừa lo nghĩ chuyện bắt chuột và mèo hoang nữa. Dĩ nhiên là anh sẽ phải hết sức cẩn thận. Bố anh sẽ không bao giờ biết được con trai mình đang làm cái gì. Samuel ve vuốt cái đầu con ngựa già:
- Mày sắp bước vào ngành kinh đoanh dược phẩm rồi đấy. - Anh thông báo cho nó.
Samuel tạo ngay cho mình một phòng thí nghiệm riêng, ở ngay trong góc chuồng ngựa nơi con Ferd bị nhốt.
Anh nuôi vi khuẩn bạch cầu trong một cái đĩa đựng đầy nước thịt luộc. Khi nước trở nên đục, anh san một ít qua một cái đĩa khác rồi làm cho nó yếu đi bằng cách pha thêm nước và đun nóng lên một chút.
Anh rút đầy một ống tiêm và đến gần Ferd.
- Mày nhớ những gì tao nói đấy chứ? - Samuel thì thầm. - Tốt, hôm nay là ngày đặc biệt với mày đấy! - Samuel bơm tất cả nước trong ống tiêm vào chỗ thịt mềm trên vai con ngựa như cách mà anh từng thấy bác sĩ Wal làm. Ferd quay lại nhìn anh trách móc và nó tưới nước tiểu đẫm người anh.
Samuel ước lượng rằng cũng phải 72 giờ sau vi khuẩn mới phát triển trong cơ thể Ferd. Vào cuối thời gian đó Samuel sẽ tiêm thêm vào nó một liều lượng lớn hơn. Rồi lại một lần nữa. Nếu lý thuyết về kháng thể đúng, mỗi lầm tiêm sẽ tạo cho máu một sức đề kháng mạnh hơn với cơn bệnh. Samuel sẽ thu được vaccine. Sau nầy, anh sẽ phải tìm một người để thử, dĩ nhiên, và chuyện nầy sẽ khó khăn lắm. Một nạn nhân của căn bệnh chết người sẽ vui lòng thử loại thuốc có thể cứu sống mình.
Hai ngày đó Samuel luôn ở bên cạnh Ferd khi nó thức dậy.
- Bố chưa thấy ai lại yêu thương một con vật nhiều như vậy, - bố anh nói. - Con không thể xa nó được hay sao?
Samuel lẩm bẩm một câu trả lời không thể nghe rõ. Anh có cảm giác tội lỗi về việc mình đang làm, nhưng anh biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh đề cập nó với bố. Tuy nhiên bố anh không cần phải biết chuyện gì. Tất cả việc Samuel phải làm là trích từ Ferd một lượng máu đủ để làm một hoặc hai lọ nhỏ huyết thanh và anh sẽ là người tài giỏi hơn tất cả.
Sáng ngày thứ ba và cũng là ngày quyết định, Samuel bị đánh thức bởi tiếng la hét của bố anh ở phía trước căn nhà. Samuel vội vàng ra khỏi gi.ường, chạy đến cửa sổ và nhìn ra ngoài. Bố anh đang đứng với chiếc xe, gào thét điên dại. Không thấy con Ferd đâu cả.
Samuel mặc quần áo và chạy vội ra ngoài.
- Mẹ kiếp! - Bố anh gầm lên. - Đồ lừa đảo? Đồ dối trá! Quân ăn cướp.
Samuel lách qua đám đông đang bắt đầu tụ tập trước cửa nhà anh.
- Ferd đâu rồi? - Samuel hỏi.
- Bố rất vui vì con đã hỏi. - Bố anh rên rỉ. - Nó chết rồi. Nó chết gục ngoài phố như một con chó.
Tim Samuel nhói lên.
- Bố và nó đang đi như thường lệ. Bố đi bán hàng, không thúc giục nó, con biết mà, không đánh nó, không hành hạ nó như vài người bán rong khác mà bố biết rõ họ tên. Và nó đã tỏ đúng giá trị như thế nào? Nó lăn quay ra chết. Khi nào bố tóm được thằng ăn cắp đã bán nó cho bố, bố sẽ giết chết hắn.
Samuel quay đi, ngực như thắt lại. Khủng khiếp hơn cả việc Ferd chết. Giấc mơ của Samuel cũng đã chết. Cùng với đó là việc ra khỏi khu Do Thái, tự do, căn nhà xinh đẹp cho Terenia và các con của họ, tất cả đã trở thành mây khói.
Nhưng một tai hoạ lớn hơn lại đổ ập xuống.
Một ngày sau cái chết của Ferd, Samuel được biết bác sĩ Wal và vợ đã thu xếp gả Terenia cho một giáo sĩ Do Thái.
Samuel không thể tin được chuyện đó. Terenia phải thuộc về anh? Samuel chạy đến nhà bác sĩ Wal. Anh tìm thấy hai vợ chồng ông trong phòng khách. Anh đi về phía họ, hít một hơi thở sâu và thông báo:
- Có một sự nhầm lẫn, sự nhầm lẫn của Terenia, Terenia định lấy cháu kia mà.
Họ nhìn sững anh, kinh ngạc.
- Cháu biết là cháu không xứng với cô ấy, - Samuel vội nói tiếp, - nhưng cô ấy sẽ không có hạnh phúc nếu lấy bất cứ một ai khác. Vị giáo sĩ đó quá già…
- Dơ dáng! Cút! Cút! - Mẹ Terenia hét lớn.
Một phút sau, Samuel thấy mình đứng ngoài phố, bị cấm bước vào nhà bác sĩ Wal mãi mãi.
o O o
Vào nửa đêm, Samuel đã nói chuyện rất lâu với đức Chúa.
- Người muốn gì ở con? Nếu con không có được Terenia tại sao Người lại bắt con yêu nàng? Người có cảm giác gì không? - Anh cất cao giọng đầy tuyệt vọng và gào lên, - Người có nghe thấy con nói gì không? Và tất cả mọi người trong ngôi nhà nhỏ đông đúc gào lên trả lời cậu, "Tất cả chúng tôi đều nghe thấy, Samuel. Vì Chúa, hãy im đi và cho chúng tôi được ngủ yên".
Buổi chiều hôm sau bác sĩ Wal cho người đến tìm Samuel. Anh được dẫn vào phòng khách, nơi ông bà Wal và cả Terenia đang chờ.
- Hình như là chúng ta đã gặp vấn đề, - Bác sĩ Wal bắt đầu. - Con gái chúng tôi quả thật là rất bướng bỉnh. Vì một lý do nào đó nó lại có cảm tình với cháu. Bác không thể gọi đó là tình yêu được, Samuel, bởi vì bác không tin là các cô gái trẻ hiểu được tình yêu là gì. Tuy nhiên, nó đã không chịu lấy giáo sĩ Rabinowitz. Nó nghĩ rằng nó muốn lấy cháu.
Samuel lén liếc Terenia và thấy cô mỉm cười với mình, anh gần như phát điên lên vì sung sướng.
Bác sĩ Wal tiếp tục:
- Cháu bảo cháu yêu con gái bác?
- Vâ… vâng, thưa bác, - Samuel lắp bắp. Anh cố lặp lại với giọng nói mạnh mẽ hơn, - Vâng, thưa bác.
- Thế thì để bác hỏi cháu vài điều, Samuel. Cháu có muốn để Terenia sống hết phần đời còn lại để làm vợ một gã bán rong không?
Samuel thấy ngay cạm bẫy, nhưng đã không có cách nào thoát khỏi. Anh nhìn Terenia lần nữa và chậm rãi trả lời:
- Không, thưa bác.
- À vậy là cháu đã nhìn thấy vấn đề rồi. Không một ai trong chúng ta muốn Terenia lấy một gã bán rong cả. Và cháu là một gã bán rong, Samuel.
- Cháu sẽ không mãi như thế, thưa bác sĩ Wal. - Giọng Samuel trở nên mạnh mẽ và quả quyết.
- Vậy cậu sẽ làm gì? - Bà Wal gằn giọng. - Cậu xuất thân từ một nhà bán rong và cậu sẽ vẫn ở trong gia đình bán hàng rong đó. Tôi không cho phép con gái tôi lấy một người như thế.
Samuel nhìn cả ba người, lòng tràn ngập bối rối. Anh đã đến đây trong tâm trạng hỗn loạn và tuyệt vọng, rồi bay bổng lên tột đỉnh hạnh phúc, và bây giờ lại chìm xuống tận đáy đau khổ. Họ muốn gì ở anh?
- Chúng tôi có một sự nhượng bộ, - bác sĩ Wal nói.
- Chúng tôi sẽ cho cháu sáu tháng để chứng tỏ rằng cháu không phải chỉ là một gã bán rong. Nếu hết thời hạn mà cháu không thể mang lại cho Terenia cuộc sống mà nó quen thuộc, thì nó sẽ phải lấy giáo sĩ Rabinowitz.
Samuel nhìn ông chằm chằm, kinh ngạc:
- Sáu tháng!
Không ai có thể thành đạt trong vòng sáu tháng. Chắc chắn không một ai trong số những người sống trong khu Do Thái có thể làm được điều đó.
- Cháu có hiểu không? - Bác sĩ Wal hỏi.
- Dạ có, thưa bác. - Samuel quá hiểu vấn đề. Anh có cảm giác trong bụng anh chứa đấy những chì. Anh không cần giải pháp, anh cần phép màu. Gia đình nhà Wal chỉ bằng lòng với một người con rể là bác sĩ hoặc giáo sĩ hoặc một người giàu có. Samuel nhận định nhanh từng khả năng:
Pháp luật không cho phép anh trở thành bác sĩ.
Còn giáo sĩ? Một giáo sĩ phải bắt đầu nghiên cứu về Do Thái giáo từ năm mười ba tuổi, còn năm nay Samuel đã mười tám.
Giàu có ư? Đây là chuyện không cần nói tới. Nếu anh đi bán hàng rong ngoài phố hai mươi bốn giờ mỗi ngày cho đến năm chín mươi tuổi thì anh vẫn là một kẻ nghèo khó. Ông bà Wal đã giao cho anh một nhiệm vụ bất khả thi. Họ tỏ vẻ nhượng bộ Terenia bằng cách cho cô hoãn lễ thành hôn với tay giáo sĩ, nhưng lại giao cho Samuel những điều kiện mà họ biết chắc rằng anh sẽ không tài nào làm nổi. Terenia là người duy nhất tin tưởng vào anh. Cô có niềm tin rằng anh sẽ tìm ra một cách nào đó để trở nên nổi tiếng hoặc giàu có trong vòng sáu tháng. Cô ấy còn điên hơn cả mình, Samuel tuyệt vọng nghĩ.
o O o
Kỳ hạn sáu tháng bắt đầu và thời gian trôi qua thật nhanh. Ban ngày Samuel đi phụ bố bán hàng rong. Nhưng khi bóng tối bắt đầu liếm dần vào những bức tường của khu Do Thái, Samuel lại vội vã trở về nhà, ăn vội bữa tối và chui vào phòng thí nghiệm của riêng anh. Anh đã điều chế ra hàng trăm mẻ huyết thanh và tiêm cho thỏ, mèo, chó, chim, và tất cả bọn chúng đều chết. Chúng quá bé, Samuel cay đắng nghĩ.
Mình cần một con vật lớn hơn.
Nhưng anh không có con vật nào và thời gian thì cứ vùn vụt trôi qua. Cứ hai lần một tuần Samuel phải vào thành phố Krakow mua thêm những thứ hàng hoá mà bố con anh vẫn bán. Anh thường đứng bên trong cánh cổng bị khoá vào lúc bình minh, xung quanh là những người bán hàng rong khác, nhưng anh không nhìn thấy hoặc nghe thấy họ. Đầu óc anh đang ở một thế giới khác.
Một buổi sáng, khi Samuel đang đứng yên, mơ mộng như vậy thì một giọng nói quát lên:
- Mầy! Thằng Do Thái kia! Đi nhanh lên!
Samuel nhìn lên. Hai cánh cổng đã mở và chiếc xe kéo của anh đang làm nghẽn đường đi. Một trong hai người gác cổng đang giận dữ ra hiệu cho Samuel bước tới. Lúc nào cũng có hai người lính gác túc trực trước cổng. Họ mặc đồng phục màu xanh, mang phù hiệu đặc biệt, được trang bị súng lục và dùi cui. Trên sợi xích quấn quanh lưng một người gác cổng là chiếc chìa khoá lớn để mở và khoá cổng. Dọc theo khu Do Thái là một con sông nhỏ cùng cây cầu gỗ đã cũ bắc qua. Bên kia cầu là đồn cảnh sát, nơi đóng quân của đội lính gác khu Do Thái. Samuel đã từng chứng kiến nhiều người Do Thái bất hạnh bị kéo lê qua cầu. Chỉ có đi mà không có về. Người Do Thái phải trở về bên trong khu Do Thái vào lúc hoàng hôn và bất cứ người Do Thái nào bị bắt bên ngoài cổng sau khi trời tối sẽ bị đưa đến một trại lao động. Đó quả là cơn ác mộng cho bất kỳ người Do Thái nào bị bắt ở ngoài khu Do Thái vào buổi tối hoặc ban đêm.
Cả hai người lính đều có trách nhiệm tuần tra trước cổng khu Do Thái suốt đêm, nhưng hầu như trong khu Do Thái biết rằng sau khi hai cánh cổng được khoá, một trong hai người lính sẽ bỏ vào thành phố chơi bời. Và anh ta sẽ chỉ về trước lúc bình minh để giúp đồng sự của mình mở cổng cho một ngày mới.
Hai người lính thưòng làm nhiệm vụ ở đó tên là Paul và Aram. Paul là người dễ dãi, tính tình xởi lời. Còn Aram thì hoàn toàn ngược lại. Anh ta trông như một con thú, da ngăm đen, khổ người to bè, đôi tay mạnh khoẻ, và th.ân thể thì không khác gì một thùng bia. Anh ta rất khoái các trò hành hạ người Do Thái, và mỗi khi đến phiên trực của anh ta thì tất cả những người Do Thái bên ngoài cổng đều chắc mình phải về sớm, bởi vì không có gì làm Aram kích thích hơn là nhốt một người Do Thái ở bên ngoài cổng, nện cho người đó nhừ tử và kéo lê kẻ phạm tội qua cầu tới đồn cảnh sát.
Lúc nầy, chính là Aram đang quát lên bảo Samuel đẩy xe đi tới. Anh vội vã đi ra khỏi cổng hướng về phía thành phố, cảm thấy ánh mắt của Aram chọc vào lưng mình.
Kỳ hạn sáu tháng của Samuel nhanh chóng rút xuống thành năm tháng, rồi bốn tháng, ba tháng. Không một ngày nào, một giờ nào mà Samuel không nghĩ đến một giải pháp cho vấn đề của anh, hoặc làm việc mê mải trong phòng thí nghiệm tí hon của mình. Anh cố trình bày với một số thương nhân giàu có trong khu Do Thái, nhưng ít có người nào chịu dành thời gian cho anh, và những người có thời gian lại đưa ra những lời khuyên vô bổ.
Anh muốn kiếm tiền à? Hãy để dành từng đồng xu nhỏ cậu bé, và một ngày nào đấy cậu sẽ có đủ tiền để mua cả một cơ sở kinh doanh tốt như của tôi đây.
Đối với họ, thật là quá dễ để nói thế. Đa số bọn họ được sinh ra trong những gia đình giàu có.
Samuel nghĩ đến chuyện bỏ trốn cùng Terenia.
Nhưng đi đâu? Cuối cuộc hành trình vẫn là một khu Do Thái khác và anh vẫn là một gã bán hàng rong nghèo khổ. Không, anh quá yêu Terenia nên không thể đối xử như vậy với cô. Đó quả là cái bẫy thực sự mà anh đã sa chân vào.
Thời gian vẫn trôi qua một cách tàn nhẫn, và ba tháng biến thành hai tháng, rồi một tháng. Điều an ủi duy nhất của Samuel trong suốt thời gian đó là anh được gặp Terenia ba lần một tuần, có người đi kèm, dĩ nhiên, và mỗi lần gặp anh lại thấy yêu nàng hơn. Đó là cảm giác vừa ngọt ngào vừa đắng cay, vì càng được gặp nàng thường xuyên hơn thì việc sẽ mất nàng cũng càng đến gần hơn.
- Anh sẽ tìm được cách! - Terenia luôn trấn an anh như vậy.
Nhưng giờ đây, chỉ còn ba tuần lễ nữa, và Samuel vẫn chưa tiến thêm được bước nào đến giải pháp so với lúc ban đầu.
Một đêm khuya, Terenia đến gặp Samuel ở chuồng ngựa. Nàng choàng tay qua người anh và nói:
- Mình bỏ trốn đi, Samuel.
Anh chưa bao giờ yêu nàng nhiều như lúc nầy.
Nàng sẵn sàng hy sinh bản thân, từ bỏ bố mẹ, từ bỏ cuộc sống tuyệt vời mà nàng đang sống, vì anh.
Anh ôm chặt nàng và nói:
- Chúng ta không thể. Dù có đi đến bất cứ nơi nào thì anh vẫn là một gã bán hàng rong.
- Em không quan tâm.
Samuel nghĩ tới căn nhà xinh đẹp của nàng với những căn phong rộng rãi, những người giúp việc, và anh nghĩ đến căn phòng bé xíu nghèo nàn anh đang ở với bố, với dì, và anh nói:
- Nhưng anh quan tâm, Terenia.
Và nàng quay người bỏ đi.
Sáng hôm sau Samuel gặp Isaac, một người bạn học cũ, đi dọc theo con phố, tay dắt con ngựa. Nó chỉ còn một mắt, bụng đang đau nặng, vừa bị sưng khớp vừa bị điếc.
- Chào Samuel.
- Chào Isaac. Tôi không biết anh đang đi với con ngựa tội nghiệp nầy, nhưng anh nên đi nhanh thì hơn. Trông nó có vẻ không còn sống được lâu nữa đâu.
- Nó không cần phải thế. Tôi đưa Lottie đến nhà máy keo.
Samuel nhìn con vật với một sự phấn khích bất ngờ xuất hiện.
- Tôi không nghĩ là họ sẽ trả nhiều tiền cho anh.
- Tôi biết. Tôi cũng chỉ cần hai đồng florin để mua một chiếc xe kéo thôi mà.
Tim Samuel bắt đầu đập mạnh hơn.
- Tôi nghĩ là tôi có thể giúp anh tiết kiệm được quãng đường. Tôi sẽ đổi chiếc xe của tôi lấy con ngựa của anh.
Không đầy năm phút việc trao đổi đã hoàn tất.
Bây giờ tất cả những gì Samuel phải làm là đóng một chiếc xe khác và giải thích cho bố anh việc anh đã làm mất chiếc xe cũ như thế nào, và anh làm sao có được một con ngựa sắp chết.
Samuel dẫn con Lottie vào chuồng, nơi anh đã từng nhốt con Ferd. Khám xét cẩn thận hơn, Samuel nhận thấy con ngựa còn tệ hơn cái vẻ bên ngoài của nó.
Anh vỗ nhẹ lên mình nó và nói:
- Đừng lo, Lottie, mày sắp làm nên lịch sử y học rồi đấy.
Vài phút sau Samuel đã bắt tay vào việc bào chế một loại huyết thanh mới.
o O o
Do quá đông đúc và tình trạng mất vệ sinh nên các bệnh dịch thường xuyên xảy ra ở khu Do Thái.
Căn bệnh gần đây nhất là sốt dẫn đến những cơn ho đến ngạt thở, làm sưng nhiều tuyến và gây ra cái chết đau đớn. Các bác sĩ không biết được nguyên nhân của chứng bệnh và cách điều trị nó. Bố của Isaac cũng bị nhiễm căn bệnh nầy. Hay tin, Samuel vội vã tới nhà Isaac.
- Bác sĩ đã đến đây, - Isaac vừa khóc vừa nói. - Ông ấy bảo đã hết hy vọng rồi.
Anh có thể nghe từ trên lầu vẳng xuống những tiếng ho khủng khiếp và dường như không bao giờ kết thúc.
- Tôi muốn anh giúp tôi một việc, - Samuel nói. - Hãy lấy cho tôi một chiếc khăn tay của bố anh.
Isaac nhìn sững anh.
- Cái gì?
- Một cái khăn mà bố anh đã dùng. Và hãy cẩn thận khi tiếp xúc với nó. Nó đầy vi trùng đấy.
Một giờ sau Samuel trở về chuồng ngựa, cẩn thận cạo những thứ dính trên khăn vào một cái đĩa chứa đầy nước luộc thịt.
Anh làm việc suốt đêm hôm đó, cả ngày hôm sau, rồi hôm sau nữa, tiêm từng lượng nhỏ chất đó vào con Lottie, rồi liều lượng lớn hơn, chiến đấu với thời gian, cố gắng dành lấy mạng sống của bố Isaac.
Và cố cứu cả cuộc đời của chính anh.
Nhiều năm sau đó Samuel không bao giờ chắc chắn Chúa có trông chờ ở anh hay con Lottie hay không, nhưng con Lottie vẫn chịu được những liều lượng tăng dần và Samuel đã có được lượng kháng thể đầu tiên.
Việc tiếp theo của Samuel là thuyết phục bố của Isaac cho anh tiêm thuốc vào người ông.
Nhưng cuối cùng việc thuyết phục lại không cần thiết. Khi Samuel đến nhà Isaac, trong nhà đã đầy thân nhân họ hàng đang khóc than cho người đang hấp hối trên lầu.
- Bố tôi chỉ còn trụ được chút ít thời gian nữa thôi. - Isaac thông báo cho Samuel.
- Tôi có thể gặp ông ấy chứ?
Hai người đi lên lầu. Bố Isaac đang nằm trên gi.ường, mãt đỏ bừng vì cơn sốt. Mỗi cơn ho kéo dài lại khiến cho thân hình tàn tạ của ông cụ co giầt và làm cho ông càng yếu hơn. Hiển nhiên là ông đang hấp hối.
Samuel hít một hơi thở sâu và nói:
- Tôi muốn nói chuyện với anh và mẹ anh.
- Không ai có chút tin tưởng nào vào cái lọ thuỷ tinh nhỏ mà Samuel mang theo, nhưng dù gì thì cũng chết. Họ nắm lấy cơ hội vì họ đã không còn gì để mất.
Samuel tiêm huyết thanh cho bố Isaac. Anh đợi bên gi.ường ông ba tiếng đồng hồ, và nhận thấy không có gì thay đổi. Huyết thanh đã không có tác dụng.
Nếu có, đó chỉ là những cơn ho dữ dội hơn. Cuối cùng Samuel bỏ về, tránh mắt Isaac.
Sáng sớm hôm sau Samuel phải vào Krakow mua hàng. Anh vô cùng sốt ruột, chỉ mong chóng trở về để xem bố Isaae có còn sống hay không.
Ở tất cả các chợ đều có những đám đông lớn, và Samuel mua hàng mãi vẫn chưa xong. Mãi đến chiều muộn xe của anh mới chất đầy hàng và anh trở về khu Do Thái.
Tai hoạ xảy ra khi Samuel ở cách cổng hai dặm.
Một bánh xe bị gãy làm đôi và hàng hoá đổ ập xuống đường Samuel lâm vào một thế kẹt. Anh vừa phải tìm bánh xe khác ở quanh đâu đó, nhưng cũng không dám bỏ mặc chiếc xe.
Một đám đông đã bắt đầu tụ lại, ngắm nhìn số hàng hoá bằng ánh mắt thèm thuồng. Samuel trông thấy một cảnh sát mặc quân phục tiến tới - một người không phải Do Thái - và anh biết anh sẽ mất hết.
Họ sẽ lấy tất cả của anh. Người cảnh sát lách qua đám đông và quay sang chàng trai đang hoảng sợ.
- Chiếc xe của cậu cần một cái bánh mới.
- V... âng, thưa ông. - Cậu có biết phải mua nó ở đâu không?
- Không, thưa ông.
Người cảnh sát viết vài chữ vào mẩu giấy.
- Đi đến đó, cho ông ấy biết cậu cần gì.
Samuel trả lời:
- Cháu không thể bỏ chiếc xe được.
- Có thể, - người cảnh sát trả lời. Ông ta quét cặp mắt nghiêm khắc về phía đám đông. - Tôi sẽ ở lại đây! Đi nhanh lên.
Samuel chạy không nghỉ. Theo chỉ dẫn trên tờ giấy, anh tìm thấy một hiệu rèn và khi Samuel giải thích tình hình, người thợ rèn đã tìm được một bánh xe vừa cỡ. Samuel trả tiền cho người thợ rèn bằng số tiền trong chiếc túi nhỏ mà anh mang theo. Giờ đây anh chỉ còn lại có sáu gulden.
Anh lại chạy về phía chiếc xe, lăn chiếc bánh xe mới phía trước. Người cảnh sát vẫn còn ở đó và đám đông đã giải tán. Số hàng hoá của anh vẫn còn nguyên.
Với sự giúp đỡ của người cảnh sát, cũng phải nửa tiếng sau anh mới thay xong bánh xe. Anh lại lên đường trở về nhà. Ý nghĩ của anh vẫn hướng về bố của Isaac. Anh sẽ thấy ông còn sống hay đã chết? Anh không hiểu mình có thể chịu đựng được sự hồi hộp hay không.
Giờ đây anh chỉ còn cách khu Do Thái có một dặm. Samuel đã trông thấy những bức tường cao sừng sững trên nền trời. Và anh còn thấy, mặt trời đã khuất về phía chân trời tây, những đường phố xa lạ ngập mình trong bóng tối. Bận bịu lo lắng về những chuyện vừa xảy ra, Samuel đã hoàn toàn quên đi vấn đề thời gian. Mặt trời đã lặn và anh vẫn còn ở bên ngoài cổng? Anh bắt đầu chạy, đẩy chiếc xe nặng nề về phía trước, tim đập mạnh tưởng chừng như sắp vỡ tung ra. Cổng khu Do Thái chắc là đã đóng. Samuel nhớ lại những câu chuyện khủng khiếp mà anh đã nghe được về những người Do Thái ở bên ngoài cổng vào ban đêm. Anh bắt đầu chạy nhanh hơn. Có thể lúc nầy chỉ còn một người lính đang trực. Nếu đó là Paul, người dễ thân thiện hơn, thì Samuel còn có một cơ hội. Còn nếu đó là Aram - Samuel không dám nghĩ đến điều đó. Bóng tối càng lúc càng dầy đặc, bao trùm lên anh như một màn sương đen, và trời bắt đầu có mưa nhỏ. Samuel đến gần khu Do Thái hơn, chỉ còn cách khoảng hai dãy nhà, và bỗng nhiên cánh cổng khổng lồ sừng sững hiện ra. Chúng đã bị khoá chặt.
Samuel chưa bao giờ trông thấy cửa đóng từ bên ngoài. Tựa như cuộc sống bỗng nhiên cạn kiệt, anh rùng mình ghê sợ. Anh đã bị ngăn cách với gia đình, với thế giới của anh, với tất cả những gì mà anh đã quen thuộc. Anh đi chậm lại, cẩn thận tiến gần đến cổng, tìm kiếm hai người lính gác. Không thấy họ đâu.
Samuel bỗng tràn ngập niềm hy vọng. Có thể họ đã được gọi theo một lệnh khẩn cấp nào đó. Samuel sẽ tìm cách mở cổng hoặc trèo qua tường không để ai trông thấy. Khi anh đến cổng, một người lính chợt bước ra từ bóng tối.
- Cứ đi đến đây, - anh ta ra lệnh.
Trong bóng tối Samuel không nhìn thấy rõ mặt người lính. Nhưng anh đã nhận ra giọng nói. Đó là Aram.
- Nữa đi. Cứ đi tới đây.
Aram nhìn Samuel đi đến gần, một nụ cười nhệch trên mặt. Chàng trai loạng choạng đi tới.
- Như thế đấy, - Aram khuyến khích, - Tiếp tục tới nữa đi.
Samuel chậm chạp tiến về phía gã khổng lồ, lòng rối tung, đầu óc lùng bùng.
- Thưa ông, Samuel lên tiếng, - Cho cháu được giải thích. Cháu gặp phải một tai nạn. Cái xe của cháu…
Aram thò bàn tay to lớn ra, túm lấy cổ áo Samuel và nhấc bổng anh lên.
- Đồ Do Thái chó đẻ kia, - hắn ta dịu dàng ngâm nga. - Mày nghĩ là tao quan tâm đến lý do tại sao mày ở bên ngoài ư? Mày đã ở sai vị trí với cánh cổng rồi đấy. Mày có biết chuyện gì sắp xảy ra với mày không?
Samuel lắc đầu một cách sợ hãi.
- Để tao cho mày biết nhé, - Aram nói. - Chúng tao nhận được lệnh mới vào tuần trước. Tất cả những tên Do Thái nào bắt ở ngoài cổng sau khi mặt trời lặn đều bị đưa lên tầu đi Silesia. Mười năm khổ sai. Mày có thích như thế không?
Samuel không thể tin nổi.
- Nhưng cháu… cháu có làm gì đâu. Cháu…
Aram đấm mạnh vào mồm Samuel bằng tay phải rồi thả anh rơi xuống đất.
- Đi, - Aram nói.
- Đi đi đâu? - Samuel hỏi. Giọng anh nghẹn ngào vì hoảng hốt.
- Tới đồn cảnh sát. Sáng mai mày sẽ lên tàu thuỷ cùng một lũ cặn bã khác. Đứng dậy.
Samuel nằm yên, không tài nào tập trung tư tưởng.
- Cháu… cháu phải vào từ biệt gia đình.
Aram lại nhe răng cười.
- Họ sẽ không nhớ gì mày đâu!
- Xin ông hãy làm ơn! - Samuel van vỉ. - Cho cháu… cho cháu ít ra cũng được viết cho họ vài dòng.
Nụ cười của Aram chợt tắt. Hắn đứng phía trên Samuel với vẻ hăm dọa. Nhưng giọng nói của hắn vẫn dịu dàng.
- Tao bảo đứng dậy, thằng Do Thái khốn khiếp kia. Nếu mày còn nói nữa, tao sẽ đá vào dái mày đấy.
Samuel chậm chạp đứng dậy. Aram nắm lấy cánh tay anh trong bàn tay thép của hắn và bắt đầu lôi anh về phía đồn cảnh sát.
Mười năm khổ sai ở Silesia? Không ai có thể quay về từ chỗ đó. Anh ngước nhìn gã đàn ông đang nắm tay anh, lôi anh về phía đồn cảnh sát.
- Xin ông đừng làm thế, - Samuel van nài. - Cho cháu đi đi.
Aram siết tay anh chặt hơn và Samuel cảm thấy như máu mình ngừng chảy.
- Cứ van xin nữa đi, - Aram nói. - Tao rất khoái nghe bọn Do Thái van xin. Mày đã nghe nói về Silesia rồi chứ? Mày sẽ đến đó đúng vào mùa đông. Nhưng đừng lo, ở trong hầm mỏ thì thú vị và ấm áp lắm. Và khi phổi mày đã nám đen vì bụi than và mày lên cơn ho không ngừng, mày sẽ bị bỏ ra ngoài trời tuyết và mày sẽ chết vì lạnh.
Phía trước họ, bên kia cầu, ẩn hiện trong cơn mưa là toà nhà dùng làm đồn cảnh sát.
- Nhanh lên! - Aram nói.
Và bỗng nhiên Samuel biết rằng anh không thể để ai làm thế đối với anh. Anh nghĩ đến Terenia, đến gia đình anh, đến bố của Isaac. Không ai được phép lấy đi cuộc sống của anh. Dù thế nào thì anh cũng phải chạy thoát, phải cứu lấy bản thân. Bây giờ họ đang băng qua cây cầu hẹp, con sông chảy rì rào bên dưới, nước dâng lên cao do những cơn mưa mùa đông.
Chỉ còn một đoạn đường ba mươi mét. Chuyện gì cần làm thì phải làm ngay, lúc nầy Aram có súng và nếu không có thì hắn có thể dễ dàng hạ sát anh. Hắn to gấp đôi Samuel và lại khoẻ hơn anh nhiều. Họ đã đến phía bên kia cầu và đồn cảnh sát nằm ngay trước mặt.
- Nhanh lên, - Aram gầm gừ, lôi Samuel đi. - Tao còn nhiều việc khác phải làm.
Hai người đã đến gần toà nhà đến nỗi Samuel có thể nghe thấy tiếng cười của bọn lính ở bên trong.
Aram siết chặt tay và bắt đầu lôi anh qua khoảng sân lát đá dẫn tới đồn cảnh sát. Chỉ còn vài giây nữa thôi. Samuel cho tay phải vào túi áo và sờ thấy túi tiền với năm, sáu đồng gulden bên trong. Những ngón tay anh cầm chặt nó, máu trong người chảy rần rật vì kích động. Anh cẩn thận lôi cái túi ra khỏi túi áo bằng bàn tay còn lại rồi nới lỏng sợi dây buộc và buông cái túi rơi xuống đất. Nó đập xuống nền đá và phát ra những tiếng kêu leng keng.
Aram đột ngột đứng lại.
- Cái gì vậy?
- Không có gì hết. - Samuel đáp nhanh.
Aram nhìn vào ánh mắt anh và mỉm cười. Vẫn giữ chặt Samuel trong tay, hắn ta lùi lại, nhìn xuống mặt sân và trông thấy cái túi tiền bị mở.
- Mày sẽ không cần tiền ở nơi mày đến. - Aram nói.
Hắn với xuống nhặt cái túi và tay Samuel cũng với xuống cùng lúc đó. Aram hất cái túi ra xa khỏi người anh. Nhưng tay Samuel không hướng về túi tiền.
Nó hướng về một hòn đá to nằm trên sân và khi Samuel đứng thẳng người lên, anh đập mạnh hòn đá vào mắt phải Aram bằng tất cả sức lực của mình, biến nó thành một đám bầy hầy màu đỏ, và anh tiếp tục đập, hết nhát nọ đến nhát kia. Anh thấy cái mũi của Aram trở nên dúm dó, rồi đến cái miệng, rồi cả khuôn mặt hắn ta trở thành một đống máu khủng khiếp. Aram vẫn đứng sững như một con quái vật bị mù vậy. Samuel nhìn hắn ta, gần như buồn nôn vì sợ hãi, và không thể tiếp tục được nữa. Rồi, cái xác khổng lồ bắt đầu gục xuống. Samuel nhìn xuống cái xác của tên lính canh, không thể tin nổi những điều mình vừa làm.
Anh nghe thấy những âm thanh trong trại lính và anh bỗng hiểu rõ mối nguy hiểm khủng khiếp mà anh đang mắc phải. Nếu bọn chúng biết được anh vào lúc nầy, bọn chúng sẽ không tống anh đi Silesia nữa. Chúng sẽ lột da anh và treo cổ anh ở quảng trường thành phố. Hình phạt cho bất kỳ một hành vi tấn công cảnh sát nào cũng là cái chết. Và Samuel đã giết một người cảnh sát. Anh phải nhanh chóng bỏ trốn thôi. Anh có thể tìm cách vượt qua biên giới nhưng sau đó anh sẽ phải trốn chui trốn lủi suốt cả quãng đời còn lại.
Phải có một cách giải quyết khác. Anh nhìn chằm chằm vào khuôn mặt của xác chết và chợt hiểu mình cần làm gì. Anh cúi xuống và lục lọi khắp người xác chết cho đến khi lôi ra được chiếc chìa khoá mở cổng lớn.
Rồi, cố thắng sự tởm lợm, Samuel nắm lấy đôi giầy của Aram và bắt đầu kéo cái xác về phía bờ sông.
Người chết dường như nặng cả tấn. Samuel tiếp tục kéo, anh bị thôi thúc bởi những âm thanh vọng ra từ đồn cảnh sát. Rồi anh cũng tới được bờ sông. Dừng lại một lúc để thở, rồi Samuel đẩy cái xác qua khỏi kè dốc và nhìn nó lăn xuống dòng nước đang chảy ở phía dưới. Một bàn tay mắc vào kè tưởng như dài vô tận, rồi thì cái xác cũng từ từ bị dòng nước cuốn trôi. Samuel đứng đó như bị thôi miên, lòng tràn đầy sợ hãi về việc mình vừa làm xong. Anh nhặt hòn đá vừa dùng để gây tội ác ném luôn xuống sông. Nhưng anh vẫn ở trong tình trạng vô cùng nguy hiểm. Anh quay lại và chạy qua cây cầu về phía hai cánh cổng lớn của khu Do Thái. Không có ai ở xung quanh đó cả. Bằng những ngón tay run rẩy, Samuel đút chiếc chìa khoá lớn vào ổ khoá và từ từ quay một vòng.
Anh kéo mạnh hai cánh cổng gỗ lớn. Không có gì xảy ra. Đối với anh thì chúng quá nặng. Nhưng trong đêm nay thì không có chuyện gì là không thể với Samuel.
Người anh tràn đầy một sức mạnh kỳ lạ đến từ bên ngoài và anh mở được cánh cổng khổng lồ ra. Anh đẩy xe vào bên trong, đóng cổng lại rồi đẩy xe chạy như bay về nhà.
o O o
Những người trong nhà đang tụ tập ở phòng khách và khi Samuel bước vào, họ nhìn anh như thể anh là một hồn ma sống dậy.
- Họ đã cho cậu về?
- Bố… bố không hiểu, - bố anh lắp bắp. - Mọi người đều nghĩ con…
Nhanh chóng, Samuel giải thích mọi chuyện xảy ra và những bộ mặt của họ từ quan tâm trở thành đầy khủng khiếp.
- Chúa ơi! - Bố Samuel rên lên. - Họ sẽ giết tất cả chúng ta mất.
- Không, nếu mọi người nghe lời của con, - Samuel nói. Rồi anh giải thích kế hoạch của mình.
Mười lăm phút sau, Samuel cùng bố và hai người hàng xóm đã đứng trước hai cánh cổng của khu Do Thái.
Samuel đẩy cánh cổng và luồn ra ngoài một mình, thầm nghĩ mình có thể bị tóm bất cứ lúc nào. Anh đặt chiếc chìa khoá vào ổ và quay một vòng. Thế là hai cánh cổng khu Do Thái đã bị khoá chặt từ bên ngoài. Samuel buộc chặt chiếc chìa khoá vào dây lưng, bước vài bước sang phía bên trái cánh cổng. Một lát sau, một sợi dây thò xuống dọc theo tường như một con rắn lớn. Samuel bám chặt vào đó trong khi ở bên kia tường bố anh và hai người kia bắt đầu kéo anh lên. Khi Samuel lên tới đầu tường, anh buộc một đầu dây thành cái thòng lọng và lồng nó vào một cái cọc đóng nhô ra khỏi tường rồi từ từ tuột xuống đất. Khi đã an toàn xuống đến nơi, anh lắc cho sợi dây tuột ra.
- Chúa ơi! - Bố anh lẩm bẩm. - Sáng mai không biết chuyện gì sẽ xảy ra đây? Samuel nhìn ông và trả lời, - Chúng ta sẽ đập mạnh vào cổng, bảo họ cho chúng ta ra.
-
o O o
Vào lúc bình minh, khu Do Thái tràn ngập cảnh sát và binh lính. Họ phải đặt làm một chiếc chìa khoá đặc biệt để mở cánh cổng cho các thương nhân đang la hét đòi được ra ngoài. Paul, người lính gác thứ hai, đã thú nhận rằng mình đã rời bỏ vị trí vào Krakow chơi bời suốt đêm, và anh ta đã bị bắt. Nhưng chừng đó vẫn không đủ để giải thích về cái chết bí mật của Aram. Theo như thường lệ thì việc một lính canh mất tích ở quá gần khu Do Thái như vậy là một lý do đầy đủ cho việc bắt đầu một cuộc tàn sát.
Nhưng cảnh sát lại rất hồ nghi vì hai cánh cổng đã bị khoá từ bên ngoài. Những người Do Thái đã bị khoá chặt hết ở bên trong, hiển nhiên là họ không thể gây hại được cho Aram. Cuối cùng, cảnh sát kết luận rằng Aram có thể đã bỏ trốn cùng một trong những người bạn gái của hắn ta. Họ cho rằng hắn đã ném chiếc chìa khoá nặng nề vào đâu đó và họ tìm kiếm khắp nơi, nhưng không thấy gì. Nó sẽ chẳng bao giờ được tìm thấy vì đã bị vùi chặt dưới nền nhà của Samuel.
Kiệt quệ về cả thể xác cũng như tinh thần, Samuel vừa đặt mình lên gi.ường là đã ngủ ngay lập tức. Anh tỉnh dậy do có ai quát gọi anh. Ý nghĩ đầu tiên của Samuel là: Họ đã tìm thấy xác Aram. Họ đến đây để bắt mình.
Anh mở mắt ra. Isaac đang đứng cạnh gi.ường, trạng thái vô cùng kích động.
- Dừng hẳn rồi! - Isaac gào lên. - Cơn ho đã dừng hẳn. Đây đúng là phép màu! Đến nhà tôi đi.
Bố của Isaac đã ngồi dậy được. Cơn sốt đã biến mất một cách kỳ lạ và cơn ho cũng đã dừng hẳn.
Khi Samuel đến bên cạnh gi.ường, ông già nói:
- Bác nghĩ là bác có thể ăn được ít súp gà!
Và Samuel bắt đầu bật khóc.
Trong có một ngày thôi anh đã lấy đi một mạng người và cứu lại một mạng người.
Cái tin về bố của Isaac lan ra khắp khu Do Thái.
Thân nhân của những người đang hấp hối tụ tập quanh nhà Samuel, van xin anh cho một chút huyết thanh kỳ diệu của mình. Anh không thể nào thoả mãn được hết các yêu cầu của họ. Và anh đến gặp bác sĩ Wal.
Ông cũng đã được nghe nói về những điều mà Samuel đã làm, nhưng vẫn còn bán tín bán nghi.
- Bác phải tận mắt chứng kiến mới được,! - ông nói.
- Cháu hãy điều chế một liều và bác sẽ thử nó lên một trong các bệnh nhân của bác.
Trong số hàng chục bệnh nhân đã chọn, bác sĩ Wal lựa ra một người mà ông thấy đã gần chết thật. Chỉ trong vòng hai mươi bốn giờ người đó đã tỏ ra hồi phục.
Bác sĩ Wal đi đến chuồng ngựa nơi Samuel đang làm việc cả ngày lẫn đêm, điều chế huyết thanh, và nói:
- Nó thật công hiệu, Samuel. Cháu đã thành công rồi. Cháu muốn cái gì làm của hồi môn?
Samuel ngước nhìn ông và mệt mỏi trả lời:
- Một con ngựa khác.
o O o
Năm đó, 1868, là năm khởi nghiệp của Roffe và các con. Samuel và Terenia đã lấy nhau, và phần hồi môn cho Samuel là sáu con ngựa và một phòng thí nghiệm nhỏ nhưng đầy đủ trang thiết bị của riêng anh. Samuel đã mở rộng các thí nghiệm của mình. Anh bắt đầu chưng cất dược phẩm từ các loại thảo mộc và chẳng bao lâu sau những người láng giềng của anh bắt đầu đến căn phòng thí nghiệm bé nhỏ để mua thuốc về điều trị nhưng căn bệnh đang hành hạ họ. Họ được anh tận tình chỉ bảo, và cứ thế, danh tiếng của Samuel lan đi khắp nơi. Với những người không thể trả tiền, Samuel thường nói:
- Đừng lo lắng về chuyện tiền nong. Cứ lấy thuốc về đi.
Và với Terenia:
- Thuốc dùng để cứu người chứ không phải để kiếm lời.
Công việc làm ăn của Samuel vẫn tiếp tục phát triển và anh đã có thể nói với Terenia sau một thời gian ngắn:
- Anh nghĩ đã đến lúc mở một cửa hàng bào chế nhỏ, tại đó chúng ta có thể bán thuốc mỡ, thuốc bột và các loại thuốc không theo toa bác sĩ khác.
Cửa hàng của anh thành công ngay từ ngày đầu tiên. Những người giàu có trước kia đã từng từ chối giúp đỡ Samuel thì nay lại tìm đến anh đề nghị chung vốn.
- Chúng ta sẽ là bạn hàng, - họ nói. - Chúng ta sẽ mở một loạt cửa hàng.
Samuel bàn luận chuyện đó với Terenia.
- Anh rất sợ các cổ đông. Đây là chuyện làm ăn của chúng ta. Anh không thích cái việc những kẻ xa lạ sẽ sở hữu một phần cuộc sống của chúng ta.
Terenia cũng đồng ý với anh.
Khi công việc kinh doanh càng lúc càng thuận lợi và mở rộng thêm nhiều cửa hàng mới thì những lời đề nghị chung vốn cũng càng lúc càng tăng. Nhưng Samuel vẫn tiếp tục từ chối tất cả.
Khi bố vợ hỏi anh lý do vì sao, Samuel trả lời:
- Đừng bao giờ cho một con cáo thân thiện vào trong chuồng gà. Một ngày kia nó sẽ tỏ ra thèm khát.
Công việc kinh doanh phát đạt, hôn nhân của Samuel và Terenia cũng như vậy. Nàng sinh cho anh năm đứa con trai - Abraham, Joseph, Anton, Jan và Pitor - và cứ mỗi đứa trẻ ra đời Samuel lại mở một hiệu bào chế thuốc mới, cái sau lớn đẹp hơn cái trước. Đầu tiên, Samuel thuê một người làm cho mình, rồi hai người, và không lâu sau anh đã có đến hơn hai tá nhân viên trong tay.
Một ngày kia Samuel tiếp một nhân viên chính phủ được phái đến.
- Chúng tôi đang xúc tiến việc bãi bỏ một số hạn chế cho người Do Thái, - ông ta nói với Samuel. - Chúng tôi muốn anh mở một hiệu bào chế thuốc ở Krakow.
Và Samuel đã làm như vậy. Ba năm sau anh đã phát đạt đến mức có thể xây cả một toà cao ốc cho mình trong trung tâm Krakow và mua cho Terenia một căn nhà xinh đẹp trong thành phố. Cuối cùng Samuel đã thực hiện được giấc mơ chạy thoát khỏi khu Do Thái.
Nhưng anh còn có những giấc mơ khác, xa hơn cả Krakow.
Khi các con lớn dần lên, Samuel thuê gia sư riêng cho chúng, và mỗi đứa con được học một thứ tiếng khác nhau.
- Nó điên rồi! - Mẹ vợ của Samuel nói. - Nó đã trở thành trò cười cho hàng xóm láng giềng khi dạy Abraham và Jan nói tiếng Anh, Joseph - tiếng Đức, Anton - tiếng Pháp và Pitor - tiếng Italy. Chúng sẽ nói chuyện với ai đây? Không ai ở đây biết những thứ tiếng man rợ như vậy. Những đứa trẻ thậm chí còn chẳng nói chuyện được với nhau nữa!
Samuel chỉ mỉm cười và kiên nhẫn trả lời:
- Đó là một phần trong vốn kiến thức của chúng.
Anh biết rõ các con mình sẽ nói chuyện với ai.
Khi các con ông được mười bốn, mười lăm tuổi, chúng thường được đi đến các đất nước khác nhau với bố chúng. Trong mỗi chuyến đi Samuel lại đặt nền tảng cho các kế hoạch tương lai của ông. Khi Abraham hai mươi mốt tuổi, Samuel triệu tập gia đình lại và thông báo:
- Abraham sẽ sang Mỹ sinh sống.
- Mỹ! - Mẹ Terenia hét lên. - Ở đó toàn bọn dã man. - Tôi sẽ không để anh làm thế với cháu tôi đâu. Thằng bé sẽ ở đây, nơi mà nó được an toàn.
An toàn. Samuel nghĩ đến những cuộc tàn sát và Aram, và về cái chết của mẹ ông.
- Nó sẽ ra nước ngoài, - Samuel tuyên bố. Ông quay sang Abraham. - Con sẽ mở một nhà máy ở New York và sẽ chịu trách nhiệm về công việc kinh doanh ở đó.
Abraham kiêu hãnh trả lời:
- Vâng, thưa bố.
Samuel quay sang Joseph.
- Vào ngày sinh nhật thứ hai mươi mốt của con, con sẽ đi sang Berlin.
Joseph gật đầu.
Anton nói:
- Và con sẽ đi Pháp. Paris. Con hy vọng như vậy.
- Hãy giữ mình, - Samuel lẩm bẩm. - Một số người không phải Do Thái ở đó chẳng phải vừa đâu.
- Ông quay sang Jan.
- Con sẽ đi Anh Quốc.
Pitor, đứa con út, háo hức nói
- Và con sẽ đi Italia, bố ạ. Bao lâu nữa thì con sẽ đi được?
Samuel cười và trả lời:
- Không phải tối nay đâu, Pitor. Con phải chờ đến năm con hai mươi mốt tuổi.
Và mọi chuyện đều thuận lợi. Samuel đi theo các con ra nước ngoài và giúp đỡ chúng thành lập văn phòng và nhà máy. Trong vòng bẩy năm sau đó, nhiều chi nhánh của gia đình Roffe được lập nên ở năm quốc gia khác nhau. Nó đang dần trở thành một triều đại và Samuel cho các luật sư tổ chức sao cho các công ty con dù hoạt động độc lập vẫn có trách nhiệm với công ty mẹ.
- Không được có người lạ, - Samuel không ngừng cảnh cáo luật sư của mình. - Các cổ phần không bao giờ được rời khỏi gia đình.
- Sẽ không đâu. - Viên luật sư trấn an ông. - Nhưng nếu các con ông không thể bán cổ phần của họ, ông Samuel, làm sao họ xoay sở được? Tôi tin chắc rằng ông cũng muốn họ sống thoải mái.
Samuel gật đầu.
- Chúng ta sẽ sắp xếp cho chúng sống trong những căn nhà đẹp. Chúng sẽ có lương cao, các khoản chi tiêu, nhưng tất cả những thứ khác sẽ phải thuộc về công ty. Nếu chúng muốn bán cổ phần của mình thì phải có được sự nhất trí từ tất cả mọi người. Số cổ phần lớn nhất sẽ thuộc về con trưởng của tôi, và những người thừa kế của nó. Chúng ta sẽ trở nên lớn mạnh. Chúng ta sẽ lớn mạnh hơn cả Rothschilds.
Nhiều năm trôi qua và lời tiên tri của Samuel đã trở thành hìện thực. Việc kinh doanh không ngừng phát triển. Mặc dù gia đình ở rải rác ở khắp mọi nơi, Samuel và Terenia vẫn cố gắng lo liệu sao cho tất cả được gần gũi và thân thiết. Các con trai của họ vẫn về dự những ngày sinh nhật và các dịp lễ lớn trong năm. Tuy nhiên các cuộc viếng thăm của họ thường có nhiều ý nghĩa hơn là về dự những lễ hội thông thường. Họ thường đóng kín cửa và thảo luận chuyện kinh doanh với bố. Mỗi người đều có hệ thống tình báo riêng. Mỗi khi một người con ở một nước nghe được về việc phát triển một loại thuốc mới, người đó liền lập tức thông báo cho những người khác và họ sẽ bắt đầu tự sản xuất loại thuốc đó, vì thế trong lĩnh vực nầy họ vẫn luôn qua mặt được các đối thủ cạnh tranh.
o O o
Bánh xe thế kỷ vẫn tiếp tục quay, những đứa con lấy vợ sinh con và cho Samuel những đứa cháu nội.
Abraham đã sang Mỹ vào ngày sinh nhật lần thứ hai mươi mốt của mình vào năm 1891. Anh cưới một cô gái Mỹ, bảy năm sau đó và năm 1905 đứa cháu nội đầu tiên của Samuel, Woodrow, ra đời, và người nầy lại có một đứa con trai tên là Sam. Joseph lấy một cô gái Đức, sinh được một trai và một gái. Cậu con trai lấy vợ và sinh được một con gái là Anna. Anna lấy một người Đức, là Walther Gassner. Ở Pháp, Anton cưới một cô vợ Pháp, có hai con trai. Một người tự tử chết. Người kia lấy vợ và sinh được một con gái là Hélène. Cô ta đã vài lần kết hôn nhưng vẫn chưa có con. Jan, ở London, kết hôn với một cô gái Anh. Đứa con gái duy nhất của họ lấy một tòng nam tước họ Nichols và có một cậu con trai là Alec. Pitor, ở Rome, lấy một cô gái Italia. Họ có một con trai và một con gái. Khi cậu con trai lấy vợ, vợ anh ta sinh được một cô con gái, Simonetta, người đã yêu và kết hôn với một kiến trúc sư trẻ tuổi, Ivo Palazzi.
Đó là tất cả các con cháu của Samuel và Terenia.
Samuel sống đủ lâu để được thấy những ngọn gió thay đổi thổi qua thế giới. Marconi tạo ra vô tuyến điện và anh em nhà Wright phóng chiếc máy bay đầu tiên ở Kitty Hawk. Rồi vụ án Dreyfuss dành trọn các tít lớn và đô đốc Peary đặt chân tới Bắc Cực. Chiếc ô tô Ford Modern T được sản xuất hàng loạt, ngoài ra còn có đèn điện và điện thoại. Trong lĩnh vực y học, các loại vi trùng gây bệnh lao, thương hàn và sốt rét đã bị cách ly và chế ngự hoàn toàn.
Tập đoàn Roffe và các con, sau gần nửa thế kỷ đã trở thành con vật kếch xù đa quốc gia bao trùm cả thế giới.
Samuel và con ngựa tàn tạ của ông, Lottie, đã gây dựng nên cả một triều đại.
Khi Elizabeth đọc xong Quyển sách, có lẽ đến lần thứ năm, nàng lặng lẽ mang trả nó về tủ kính. Nàng không cần đến nó nữa. Nàng đã là một phần của nó, cũng như nó là một phần của nàng.
Lần đầu tiên trong đời, Elizabeth biết mình là ai và mình từ đâu đến.
Chú thích
(1)chemistry: hoá học
 
CHƯƠNG 12
Elizabeth gặp Rhys Williams lần đầu tiên vào ngày sinh nhật lần thứ mười lăm của nàng, trong học kỳ hai của năm thứ nhất ở trường. Anh ghé qua trường chuyển cho Elizabeth những món quà sinh nhật của bố nàng.
- Ông ấy cũng muốn đích thân đến, - Rhys giải thích, - nhưng ông ấy không thể bỏ đi được.
Elizabeth cố che giấu nỗi thất vọng nhưng Rhys đã nhanh chóng nhận ta. Cô gái trẻ nầy có một cái gì đó đáng thương, một nhược điểm lộ liễu khiến anh thấy mủi lòng. Trong một cơn bốc đồng, anh đề nghị:
- Tại sao chúng ta không cùng đi ăn tối nhỉ?
Đây là một ý tưởng khủng khiếp, Elizabeth nghĩ.
Nàng có thể hình dung thấy cảnh hai người sánh vai nhau bước vào quán ăn, anh ấy, tinh tế và bảnh bao lạ thường, còn mình, cứng nhắc và béo phì.
- Không, cám ơn anh! - Elizabeth khó nhọc trả lời. - Em… em phải học bài.
Nhưng Rhys Williams không chấp nhận câu trả lời không. Anh nghĩ đến những sinh nhật cô đơn mà mình đã từng nếm trải. Anh xin phép bà hiệu trưởng đưa Elizabeth ra ngoài ăn tối. Họ lên xe của Rhys và hướng về phía sân bay.
- Neuchâtel đi đường khác cơ mà. - Elizabeth nói.
Rhys nhìn nàng và hỏi một cách ngây thơ:
- Ai nói là chúng ta sẽ đến Neuchâtel?
- Thế chúng ta đi đâu?
- Maxim s. Đó là nơi duy nhất để tổ chức lễ sinh nhật lần thứ mười lăm.
Họ bay tới Paris trong một máy bay riêng và ăn một bữa tối tuyệt vời. Đầu tiên là món patê gan với nấm, rồi đến món xúp tôm hùm, vịt chiên giòn với cam và món salad đặc biệt của Maxim s và kết thúc bằng rượu champagne và bánh sinh nhật. Rhys lái xe đưa Elizabeth đi dọc đại lộ Champs Elysées, rồi họ trở về Thuỵ Sĩ ngay đêm hôm ấy.
Đó là buổi tối dễ thương nhất trong đời Elizabeth.
Dù gì thì Rhys cũng đã cố làm cho nàng cảm thấy thú vị, tuyệt vời và đây là một kinh nghiệm dễ làm say lòng người. Khi Rhys thả Elizabeth ở trường, nàng nói:
- Em không biết phải cám ơn anh như thế nào. Em… đây là quãng thời gian đẹp nhất mà em từng có.
- Hãy cám ơn bố của em. - Rhys cười to. - Tất cả đều là ý kiến của ông ấy.
Nhưng Elizabeth biết rằng Rhys đã nói dối.
Và nàng tin chắc rằng Rhys Williams là người đàn ông tuyệt vời nhất mà nàng từng gặp. Và cũng hiển nhiên là người hấp dẫn nhất. Cả đêm hôm đó nàng nằm nhớ đến anh. Sau đó nàng ngồi dậy và đi tới chiếc bàn nhỏ ở phía dưới cửa sổ. Nàng lấy ra một mảnh giấy, một cái bút và viết "Bà Rhys Williams".
Nàng nhìn chăm chú những chữ đó rất lâu.
o O o
Rhys đã muộn hai mươi bốn giờ so với cái hẹn với một nữ diễn viên Pháp xinh đẹp nhưng anh chẳng hề bận tâm. Họ đã giải quyết ổn thoả ở Maxim s mà không hiểu sao Rhys không ngừng nghĩ rằng buổi tối với Elizabeth ở đó thật hấp dẫn hơn nhiều.
Rồi một ngày kia nàng sẽ được một người nào đó quan tâm đến.
Elizabeth không bao giờ chắc chắn ai là người chịu trách nhiệm nhiều hơn cho những thay đổi trong nàng - Samuel hay Rhys Williams - nhưng nàng bắt đầu tự hào về chính bản thân mình. Nàng mất đi cảm giác thèm được ăn luôn mồm và thân hình nàng bắt đầu thon thả ra. Nàng bắt đầu thích chơi thể thao và tỏ ra quan tâm đến việc học hành. Nàng cũng cố gắng hoà đồng với những cô gái khác. Họ không thể tin được chuyện nầy. Họ thường mời Elizabeth tham gia các buổi liên hoan áo ngủ nhưng nàng luôn luôn từ chối. Và thật bất ngờ, một đêm nàng đã xuất hiện trong một buổi liên hoan áo ngủ.
Buổi liên hoan được tổ chức trong phòng của bốn cô gái ở chung và khi Elizabeth đến, trong phòng có đến hơn hai tá học sinh, tất cả đều mặc áo ngủ hoặc áo choàng. Một cô nhìn ra và ngạc nhiên kêu lên:
- Nhìn xem ai đến kìa? Chúng tớ đang đánh cuộc là cậu sẽ không đến!
- Tớ… tớ đến đây.
- Không khí trong phòng ngập mùi thơm ngọt ngọt hăng hăng của khói thuốc lá. Elizabeth biết có nhiều cô hút cần sa, nhưng nàng chưa bao giờ thử. Nữ chủ nhân, một cô gái Pháp tên là Renée Tocar, đến bên Elizabeth, mồm ngậm một điếu thuốc to màu nâu. Cô ta rít một hơi dài rồi đưa cho Elizabeth.
- Cậu hút chứ?
Đó là một lời tuyên bố hơn là một câu hỏi.
- Dĩ nhiên, - Elizabeth nói dối. Nàng cầm điếu thuốc lưỡng lự một giây rồi đặt nó giữa đôi môi và rít một hơi. Nàng cảm thấy như mặt mình chuyển sang màu xanh lá cây và hai buồng phổi cuộn lên, nhưng nàng cố mỉm cười và thở phào - Tuyệt!
Lúc Renée vừa quay đi, Elizabeth thả mình xuống đi văng. Nàng vừa trải qua một cơn choáng váng nhưng cảm giác ấy qua rất nhanh. Nàng lại thử rít một hơi nữa. Nàng cảm thấy đầu óc quay cuồng một cách lạ lùng. Elizabeth đã nghe và đọc nhiều về những tác dụng của cần sa. Nó cởi trói cho những sự ức chế, đưa mình ra khỏi bản thân mình. Nàng rít thêm một hơi nữa, sâu hơn, và nàng bắt đầu cảm thấy bồng bềnh thú vị, như thể đang ở trên một hành tinh khác.
Nàng vẫn nhìn thấy các cô gái trong phòng và nghe họ nói chuyện, nhưng không hiểu sao tất cả bọn họ đều mờ ảo và âm thanh thì dường như là từ xa vọng lại ánh đèn dường như rất sáng và nàng nhắm mắt lại. Ngay lúc đó, nàng cảm thấy như mình đang trôi vào khoảng không. Đó là một cảm giác rất dễ chịu.
Nàng thấy mmh đang lượn lờ trên mái nhà của trường học, cao hơn và cao hơn, trên đỉnh Alps tuyết phủ trong một bể mây bồng bềnh. Ai đó gọi tên nàng, gọi nàng quay lại trái đất. Miễn cưỡng, Elizabeth mở mắt ra. Renée đang cúi xuống nàng, trên mặt lộ rõ vẻ quan tâm.
- Cậu không sao chứ, Roffe?
Elizabeth nở một nụ cười chậm chạp, hài lòng và mơ màng trả lời, - Tớ thấy rất tuyệt. - Và trong trạng thái đê m.ê, nàng thú nhận, - Tớ chưa bao giờ hút cần sa cả.
Renée nhìn nàng chằm chằm:
- Cần sa? Đó là thuốc Gauloise.
o O o
Ở phía bên kia làng Neuchâtel là trường nam sinh và các bạn học của Elizabeth thường trốn đi hẹn hò mỗi khi có cơ hội. Các cô gái nói chuyện không ngớt về bọn con trai. Họ nói về thân hình bọn con trai, cỡ chim của họ, về những gì các cô đã cho bọn con trai làm, và các cô đã làm gì lại với họ. Có nhiều lúc Elizabeth cảm tưởng như mình đã bị sập bẫy trong một ngôi trường toàn những phụ nữ cuồng dâm. t.ình d.ục là một nỗi ám ảnh với tất cả bọn họ. Một trong những trò chơi thầm kín trong trường là frôlage (1).
Một cô gái trần truồng nằm ngửa trên gi.ường cho một cô khác vuốt ve từ ngực xuống hai đùi. Tiền công là bánh ngọt mua ở trong làng. Cứ mười phút frôlage đổi lấy một cái bánh ngọt. Đến cuối mười phút, thông thường cô gái sẽ đạt được cơn cực khoái, nhưng nếu cô ta chưa được, thì người thực hiện frôlage sẽ tiếp tục và nhận thêm một cái bánh nữa.
Một trò tiêu khiển t.ình d.ục khác nữa được thực hiện trong phòng tắm. Trường có rất nhiều bồn tắm lớn kiểu cũ với những vòi sen cầm tay có thể lấy xuống từ những chiếc móc treo trên tường. Các cô gái sẽ ngồi trong bồn, mở nước nóng rồi đặt cái đầu vòi sen vào giữa hai chân và cọ tới cọ lui.
Elizabeth không ưa cả trò frôlage lẫn trò vòi sen, nhưng những h.am m.uốn t.ình d.ục trong nàng cứ ngày một mạnh hơn. Vào lúc nầy nàng đã có một phát hiện choáng váng.
Một trong những cô giáo của Elizabeth là một phụ nữ nhỏ nhắn thon thả tên là Chantal Harriot. Cô ta đã xấp xỉ ba mươi tuổi, trông giống một nữ sinh nhiều hơn. Trông cô đầy vẻ hấp dẫn và càng trở nên xinh đẹp hơn khi mỉm cười. Đó là cô giáo tình cảm nhất của Elizabeth và Elizabeth cảm thấy mình rất gắn bó với cô. Mỗi khi Elizabeth không được vui, nàng thường đến với cô Harriot và kể cho cô nghe những vấn đề của mình. Cô Harriot luôn tỏ ra là một người hiểu và thông cảm với nàng. Cô thường cầm tay Elizabeth và vuốt ve nó, rồi cho nàng một lời khuyên nhẹ nhàng cùng một tách sôcôla nóng, bánh cookie, và Elizabeth luôn cảm thấy thoải mái lên ngay.
Cô Harriot dạy tiếng Pháp và dạy luôn cả môn thời trang, và cô thường nhấn mạnh vào kiểu cách và sự hài hoà về màu sắc, các phụ tùng thích hợp.
- Các em hãy nhớ, - cô thường nói, - trang phục lịch sự nhất trên thế giới cũng trở nên không ra gì nếu các em dùng không đúng phụ tùng. "Phụ tùng" là khẩu hiệu của cô Harriot.
Mỗi khi Elizabeth nằm trong bồn tắm, nàng lại thấy mình nhớ đến cô Harriot, nhớ đến nét mặt của cô khi cô nói chuyện với nàng, cái cách mà cô Harriot vuốt ve bàn tay nàng dịu dàng và êm ái làm sao.
Khi Elizabeth học môn khác nàng cũng nhận thấy đầu óc mình cứ vẩn vơ về cô Harriot, và nàng nhớ những lần cô vòng tay quanh người nàng, an ủi nàng, chạm vào ngực nàng. Đầu tiên Elizabeth tin rằng những sự đụng chạm như vậy chỉ là vô tình, nhưng rồi chúng xảy ra thường xuyên hơn, và mỗi lần như vậy cô Harriot lại nhìn Elizabeth bằng ánh mắt dịu dàng dò hỏi mong đợi một sự đồng tình nào đó. Elizabeth có thể hình dung ra cảnh cô Harriot với bộ ngực căng cứng, cặp chân dài, và nàng thường tự hỏi không biết trông cô sẽ ra sao lúc khoả thân nằm trên gi.ường. Đúng lúc ấy một nhận thức đầy đủ đã làm Elizabeth sững sờ.
Nàng là người đồng tính luyến ái.
Nàng không thích bọn con trai, bởi vì nàng thích con gái. Không phải những cô gái trẻ khờ khạo cùng lớp mà là một người nhạy cảm và hiểu biết như cô Harnot. Elizabeth có thể tưởng tượng ra cảnh hai người cùng nhau nằm trên gi.ường, ôm ấp nhau, giúp nhau khuây khoả.
Elizabeth đã đọc và nghe nhiều về những người đồng tính, đủ để hiểu rằng cuộc sống đối với họ khó khăn như thế nào. Xã hội không chấp nhận họ. Chủ nghĩa đồng tính bị coi là một thứ tội ác đi ngược lại với tự nhiên. Nhưng có gì là sai, Elizabeth tự hỏi, khi yêu một người một cách dịu dàng đắm say? Có quan trọng người đó là đàn ông hay đàn bà không? Phải chăng tình yêu tự nó đã là một yếu tố quan trọng? Phải chăng cưới một người khác giới mà không có tình yêu thì tốt hơn là yêu một người đồng giới?
Elizabeth nghĩ đến việc bố nàng sẽ trở nên kinh khủng thế nào khi biết được sự thật về nàng. Thế nào thì nàng cũng sẽ phải đương đầu với chuyện nầy.
Nàng sẽ phải điều chỉnh lại những suy nghĩ về tương lai. Nàng sẽ không bao giờ có được một cuộc sống bình thường như những cô gái khác, với chồng và con.
Nàng đi đến đâu thì cũng sẽ là người bị xa lánh, là một kẻ nổi loạn, sống bên ngoài dòng chảy của xã hội. Nàng và cô Harriot Chantal sẽ tìm một căn hộ ở đâu đó, hoặc một căn nhà nhỏ cũng được. Elizabeth sẽ trang trí nó bằng màu tùng lana, bằng những phụ tùng thích hợp. Trong nhà sẽ có những đồ đạc kiểu Pháp duyên dáng, những bức tranh treo tưòng dễ thương.
Bố nàng có thể giúp đỡ… Không, nàng không được trông chờ vào bất cứ sự giúp đỡ nào từ phía bố nàng. Có thể ông còn không bao giờ thèm nói chuyện với nàng nữa.
Elizabeth nghĩ đến tủ quần áo của mình. Nàng có thể là một người đồng tính nhưng nàng quyết định sẽ không ăn mặc giống như họ. Không vải tuýt hay quần áo cẩu thả, không đồ veste may đo hay mũ đàn ông. Chúng chẳng khác gì chiếc chuông báo hiệu của những người phụ nữ đáng thương mắc bệnh hủi. Nàng sẽ cố sao cho càng ra vẻ phụ nữ càng tốt.
Elizabeth quyết định rằng nàng sẽ đi học để trở thành một đầu bếp giỏi, để có thể nấu cho cô Harriot những món ăn ngon lành. Nàng hình dung ra cảnh hai người ngồi trong căn hộ của họ, hay trong căn nhà nhỏ, thưởng thức bữa tối do Elizabeth nấu dưới ánh nến lung linh. Đầu tiên sẽ là món súp khoai tây và tỏi tiếp theo là món salad dễ thương, sau đó là tôm hùm hoặc bít tết, tráng miệng là món kem nhẹ nhàng. Sau bữa tối họ sẽ ngồi trên nền nhà, trước ngọn lửa bập bùng trong lò sưởi, ngắm nhìn những bông tuyết mềm mại rơi bên ngoài. Những bông tuyết.
Như vậy là vào mùa đông. Elizabeth vội vàng xem xét lại thực đơn. Thay vào món súp khoai tây và tỏi ăn nguội sẽ là món súp hành ngon lành và có thể có cả món thịt hầm. Món tráng miệng sẽ là trứng rán phồng. Nàng sẽ phải học cách tính thời gian để sao cho nó không bị cháy. Sau đó cả hai sẽ ngồi trên bàn, trước ngọn lửa ấm cúng và đọc thơ cho nhau nghe T. S. Eliot, hoặc cũng có thể là V. J. Rajadhon.
Thời gian là kẻ thù của ái tình
Tên trộm đã rút ngắn lại
Tất cả những giờ vàng ngọc của chúng ta
Hồi đó tôi không bao giờ hiểu
Tại sao những người yêu nhau lại đi đếm hạnh phúc của họ
Suốt ngày suốt đêm suốt tháng năm
Trong khi tình yêu của chúng tôi chỉ có thể đo được
Bằng niềm vui, những tiếng thở dài và những giọt lệ của chúng ta.
À, phải, Elizabeth có thể thấy năm tháng trải dài trước mắt họ, và sự lướt qua của thời gian sẽ bắt đầu hoà tan trong một cảm giác ấm áp quý báu.
Và nàng ngủ thiếp đi.
o O o
Elizabeth từng mong chờ điều nầy nhưng nàng vẫn ngạc nhiên khi nó xảy ra. Một đêm nọ nàng bị đánh thức bởi tiếng động của ai đó đi vào phòng và nhẹ nhàng đóng cửa. Elizabeth mở mắt ra. Nàng thấy một bóng đen đang di chuyển qua căn phòng lốm đốm ánh trăng về phía gi.ường của nàng, và một tia sáng trắng nhỏ lướt qua khuôn mặt của cô Harriot. Tim Elizabeth bắt đầu đập mạnh.
Cô Harriot thì thầm "Elizabeth" và, đứng đó, tuột chiếc áo choàng ra. Ở bên trong cô không hề mặc gì cả. Miệng Elizabeth trở nên khô khốc. Nàng vẫn thường nghĩ đến giây phút nầy, và bây giờ khi nó thực sự diễn ra, nàng lại thấy sợ hãi. Thực ra thì nàng cũng không biết chính xác mình phải làm gì hoặc làm như thế nào. Nàng không muốn làm những điều ngớ ngẩn trước mặt người đàn bà mà nàng yêu thương.
- Nhìn cô đây, - Cô Harriot khàn khàn ra lệnh. Elizabeth làm theo. Nàng để cặp mắt mình du ngoạn trên khắp th.ân thể trần truồng. Cô Harriot bằng xương bằng thịt trước mắt nàng không hoàn toàn như những gì Elizabeth vẫn hình dung. Bộ ngực cô trông như hai quả táo dúm dó và hơi xệ xuống. Bụng cô cũng hơi phệ và cặp mông thì - Elizabeth chỉ có thể nghĩ đến một từ duy nhất - lệch lạc.
Nhưng những chuyện đó không quan trọng. Điều quan trọng là những gì nằm bên dưới, tâm hồn của người phụ nữ, sự can đảm và dũng cảm khác với những người khác, để thách thức cả thế giới và muốn chia sẻ phần đời còn lại với Elizabeth.
- Đến đây, thiên thần nhỏ của tôi, - cô thì thầm.
Elizabeth làm theo những gì cô nói, và cô Harriot trườn lên gi.ường, bên cạnh nàng. Ở cô toát ra một mùi vị vừa hoang dại vừa nồng ấm. Cô quay sang Elizabeth, vòng tay qua người nàng và nói:
- Ô, em yêu, cô đã mơ đến phút giây nầy. - Và cô hôn vào môi Elizabeth, ấn lưỡi cô vào miệng Elizabeth và rên lên những tiếng gấp gáp.
Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là cảm giác khó chịu nhất mà Elizabeth từng trải qua. Nàng nằm trong sự choáng váng. Những ngón tay của cô Harriot lướt trên người Elizabeth, bóp chặt vú nàng, từ từ trườn xuống bụng về phía đùi. Và cặp môi của cô lướt trên mình Elizabeth, nhỏ cả nước dãi ra, không khác gì một con vật.
Là đây. Đây là khoảnh khắc đẹp đẽ diệu kỳ. Nếu hai chúng ta hoà làm một, em và cô, chúng ta sẽ cùng làm nên vũ trụ để rung chuyền các vì sao và chuyển động bầu trời.
Tay cô Harriot cứ dịch dần xuống dưới, vuốt ve hai đùi Elizabeth, bắt đầu lần vào giữa hai chân nàng.
Nhanh chóng, Elizabeth cố làm xuất hiện lại bữa ăn tối dưới ánh nến, món trứng rán phồng, buổi tối trước lò sưởi và những năm tháng hai người sẽ cùng nhau chia sẻ, nhưng tất cả đều vô dụng. Cả tâm hồn lẫn thể xác Elizabeth đều bị cự tuyệt, nàng cảm thấy như cơ thể mình đang bị cưỡng hiếp.
Cô Harriot rên rỉ:
- Ồ, em yêu, cô muốn làm tình với em.
Và tất cả những gì Elizabeth có thể nghĩ là cần phải nói "Có vấn đề. Một trong hai chúng ta có phụ tùng không đúng".
Và nàng bắt đầu cười rồi khóc như điên dại, khóc cho ảo mộng đẹp đẽ dưới ánh nến lung linh đã chết, cười vì nàng là một cô gái khoẻ mạnh, bình thường vừa hiểu rằng mình được tự do.
Ngày hôm sau Elizabeth bắt đầu thử vòi sen.
Chú thích
(1)frôlage: sờ soạng (Tiếng Pháp nguyên bản)
 
CHƯƠNG 13
Dịp lễ Phục Sinh và năm học mới ở trường, năm Elizabeth được mười tám tuổi, nàng đã về sống tại biệt thự ở Sardinia mười ngày. Nàng đã biết lái xe và đó là lần đầu tiên được một mình tìm hiểu hòn đảo.
Nàng lái xe dọc theo những con đường dài ven biển và đến thăm những làng chài nhỏ bé. Nàng bơi ở biệt thự dưới ánh mặt trời Địa Trung Hải ấm áp, và ban đêm thì nằm trên gi.ường lắng nghe những tiếng rên rỉ của những hòn đá khi có gió thổi qua. Nàng đến vũ hội hoá trang ở Tempio, nơi toàn thể dân làng xúng xính trong những bộ trang phục truyền thống.
Giấu mình trong những chiếc áo choàng và mặt nạ, các cô gái mời các chàng trai nhảy, và tất cả mọi người đều thấy cho phép mình tự do làm những điều mà họ không dám làm vào lúc khác. Một chàng trai có thể nghĩ là anh ta biết cô gái đã làm tình với mình đêm ấy, nhưng sáng hôm sau anh ta không thể nào chắc chắn được nữa. Hình như, Elizabeth nghĩ, cả làng đang chơi trò Vệ binh (The Guardsman).
Nàng lái xe đến Punta Murra và xem những người dân ở đây nấu thịt cừu non trên bếp lửa ngoài trời. Dân chúng địa phương mời nàng ăn món seada, món pho mát làm từ sữa dê bọc trong bột nhào với một lớp mật ong phủ lên trên. Nàng đã uống selememont tuyệt ngon, thứ rượu vang trắng địa phương không hề có ở một nơi nào khác trên thế giới vì nó quá dễ hỏng nên không thể mang đi xa.
Một trong những địa điểm ưa thích của Elizabeth là quán Sư tử đỏ ở cảng Cervo. Đó là một quán rượu nhỏ dưới tầng hầm với mười bàn và một quầy bar theo kiểu cũ.
Elizabeth gọi kỳ nghỉ nầy là Time of the boys (Thời gian của các chàng trai). Họ đều là con nhà giàu và họ kéo bè kéo lũ đến đây, liên tục mời Elizabeth tham dự các cuộc thi bơi hoặc cưỡi ngựa. Đây là bước đầu tiên trong nghi thức kết bạn.
- Tất cả bọn chúng đều đầy đủ tư cách, - Bố của Elizabeth an ủi nàng.
Nhưng với Elizabeth thì họ chỉ là những kẻ ngu ngơ. Họ uống rượu quá nhiều, nói quá lắm và chỉ thích sờ soạng nàng. Nàng biết chắc rằng họ muốn nàng không phải vì bản thân nàng, không phải vì nàng thông minh hay đáng giá, mà bởi vì nàng mang họ Roffe, là người thừa kế của triều đại Roffe. Elizabeth không hề biết được rằng mình đã trở nên xinh đẹp, chỉ vì tin vào sự thật trong quá khứ bao giờ với nàng cũng dễ hơn là tin vào hình ảnh phản chiếu trong gương.
Các chàng trai mời nàng uống rượu, ăn tối và tìm mọi cách lên gi.ường với nàng. Họ cảm thấy Elizabeth còn trinh trắng và cái tôi ngây thơ của đàn ông đã đánh lừa họ khiến họ tin rằng nếu ai lấy được trinh tiết của Elizabeth thì nàng sẽ yêu người ấy điên cuồng và mãi mãi trở thành nô lệ của anh ta. Cho nên họ không chịu bỏ cuộc. Dù họ có đưa Elizabeth đi đến đâu chăng nữa thì buổi tối bao giờ cũng được kết thúc bằng câu nói "Mình lên gi.ường đi". Và nàng luôn luôn khéo léo từ chối họ.
Họ không biết cái gì đã tạo nên nàng. Họ biết rằng nàng xinh đẹp, và xinh đẹp thường đi kèm với ngu ngốc. Họ không bao giờ nhận ra rằng nàng thông minh hơn họ. Đã có ai từng được nghe nói về một cô gái vừa xinh đẹp vừa thông minh đâu?
Và thế là Elizabeth vẫn cứ đi chơi với các chàng trai để làm vừa lòng bố, nhưng nàng chán họ đến tận cổ.
Rhys Williams đến biệt thự và Elizabeth vô cùng ngạc nhiên trước sự vui mừng phấn khích của mình khi được gặp lại anh. Trông anh bây giờ còn hấp dẫn hơn cả Rhys Williams trong trí nhớ của nàng. Rhys dường như vui mừng khi gặp nàng.
- Chuyện gì xảy ra với em vậy?
- Ý của anh là gì?
- Lâu nay em có thường soi gương không?
Nàng đỏ mặt:
- Không.
Anh quay sang Sam.
- Trừ khi bọn con trai câm điếc và mù chứ còn tôi có cảm giác Liz sẽ không còn ở với chúng ta lâu nữa đâu.
"Chúng ta", Elizabeth cảm thấy thú vị khi nghe anh nói điều đó. Nàng tranh thủ quanh quẩn bên hai người đàn ông càng nhiều càng tốt, rót rượu cho họ, lo việc vặt cho họ, thích thú được ngắm nhìn Rhys. Đôi khi Elizabeth ngồi đằng sau nghe họ thảo luận chuyện làm ăn và nàng cảm thấy thật là hấp dẫn.
Họ nói về những sự liên kết làm ăn, những nhà máy mới, những sản phẩm đã thành công và thất bại cũng như lý do vì sao. Họ nói về các đối thủ cạnh tranh và các kế hoạch chiến lược. Tất cả những thứ nầy đối với Elizabeth chỉ làm cho nàng điên cái đầu.
Một hôm, khi Sam làm việc trong căn phòng áp mái, Rhys mời Elizabeth đi ăn trưa. Nàng đưa anh đến quán Sư tử đỏ và ngồi ngắm anh chơi ném phi tiêu với đám đàn ông ở quầy bar. Elizabeth tự hỏi không biết ở nhà thì Rhys sẽ ra sao? Dường như là anh thích nghi được tất cả mọi nơi. Nàng đã nghe một thành ngữ Tây Ban Nha nhưng nàng chưa bao giờ hiểu nó, và đến bây giờ nàng mới thấm thía được ý nghĩa của nó khi quan sát Rhys. Anh là một người thoải mái từ trong d.a thịt.
Họ ngồi ở một bàn nhỏ trong góc có tấm khăn trải bàn hai mầu đỏ - trắng, gọi món thịt cừu hầm và rượu bia rồi trò chuyện. Rhys hỏi nàng về chuyện học hành.
- Sự thật là không đến nỗi tồi lắm, - Elizabeth thú nhận. - Em đang học để biết một số điều nho nhỏ.
Rhys mỉm cười.
- Có rất ít người học được nhiều ở trường. Tháng Sáu nầy em sẽ ra trường phải không?
Elizabeth tự hỏi không hiểu sao anh lại biết.
- Vâng.
- Thế sau đó em đã biết mình định làm gì chưa?
Đó cũng là câu hỏi mà nàng đang tự hỏi bản thân.
- Chưa. Quả thực là em chưa biết.
- Em có thích lập gia đình không?
Tim nàng mất nhịp trong một thoáng. Sau đó nàng nhận ra chỉ là câu hỏi bình thường.
- Em chưa tìm được người nào ưng ý. - Nàng nghĩ đến cô Harriot và bữa ăn tối ấm cúng trước lò sưởi cùng những bông tuyết rơi, và nàng cười to.
- Bí mật à? - Rhys hỏi.
- Bí mật. - Nàng mong rằng có thể chia sẻ chuyện đó với anh, nhưng nàng lại chưa hiểu rõ về anh lắm. Sự thật là Elizabeth nhận ra, nàng chẳng biết gì về Rhys cả. Anh là một người lạ đẹp trai, quyến rũ, đã một lần thương hại nàng và cùng nàng bay đến Paris ăn một bữa tối mừng sinh nhật. Nàng biết anh rất xuất sắc trong công việc và bố nàng rất tin tưởng ở anh. Nhưng nàng lại hoàn toàn không biết gì về đời tư của anh, và anh thật sự là người như thế nào. Quan sát anh, Elizabeth có cảm giác anh là một người có nhiều khuôn mặt, những cảm xúc biểu lộ ra ngoài là để che giấu những cảm xúc thật ở trong lòng, và Elizabeth thắc mắc không biết có ai thực sự hiểu được anh hay không.
Chính Rhys Williams là người chịu trách nhiệm về việc Elizabeth mất đi sự trinh trắng.
Ý tưởng lên gi.ường với một người đàn ông càng ngày càng thôi thúc Elizabeth. Một phần của nó là những h.am m.uốn xác thịt mãnh liệt đôi khi làm cho nàng bần thần và kẹp chặt nàng trong những làn sóng của sự thất vọng, một cơn đau gấp rút, không rời khỏi cơ thể. Nhưng đó còn là một sự tò mò mạnh mẽ, một nhu cầu muốn biết chuyện đó là như thế nào. Dĩ nhiên là nàng không thể lên gi.ường với bất kỳ ai. Đó phải là một người đặc biệt, một người nàng yêu thương, một người yêu cũng yêu thương nàng.
Vào một đêm thứ bảy, bố của Elizabeth tổ chức một buổi dạ hội ở biệt thự.
- Em hãy mặc chiếc váy đẹp nhất vào, - Rhys bảo nàng. - Anh muốn khoe em với tất cả mọi người.
Sướng run lên, Elizabeth cho rằng Rhys đã hẹn hò với mình. Khi Rhys đến, anh dắt theo một cô công chúa Italia tóc vàng xinh đẹp. Elizabeth cảm thấy mình bị xúc phạm và phản bội nên nửa đêm hôm đó nàng đã rời khỏi dạ hội và lên gi.ường với một hoạ sĩ Nga say mèm, mặt đầy râu ria tên là Vassilov.
Toàn bộ câu chuyện chớp nhoáng đó là một điều bất hạnh. Elizabeth quá bực bội còn Vassilov thì say khướt nên dường như đối với Elizabeth nó không có mở đầu, đoạn giữa và kết thúc. Không có một cử chỉ âu yếm nào, Vassilov cởi quần và ngã phịch xuống gi.ường: Vào lúc đó Elizabeth đã định bỏ chạy nhưng nàng quyết tâm trừng phạt Rhys về sự phản bội của anh. Nàng cũng cởi quần áo và leo lên gi.ường. Một lúc sau, Vassilov đi vào người nàng mà không hề báo trước. Đó là một cảm giác lạ lẫm. Nó không khó chịu nhưng cũng không quá đỗi thích thú. Nàng cảm thấy Vassilov rùng mình một cái và một lát sau đã ngáy khò khò. Elizabeth nằm đó, lòng tràn ngập cảm giác ghê tởm bản thân. Thật khó tin nổi tất cả các bài hát, các cuốn sách, các bài thơ viết về chuyện nầy.
Nàng nghĩ đến Rhys, và nàng muốn khóc. Elizabeth lặng lẽ mặc lại quần áo và trở về nhà. Khi tay hoạ sĩ gọi đến nhà nàng vào sáng hôm sau, Elizabeth cho người quản gia nói với anh ta nàng không có nhà.
Ngay ngày hôm sau Elizabeth quay lại trường học.
Nàng bay trở lại bằng chiếc phản lực của công ty cùng bố nàng và Rhys. Chiếc máy bay vốn được thiết kế để chở hàng trăm hành khách đã được sửa lại thành một con tầu sang trọng. Nó có hai phòng ngủ rộng rãi được trang trí đẹp đẽ nằm ở phía sau, có phòng tắm, phòng làm việc thoải mái, tiện nghi, một phòng khách ở giữa với nhiều bức tranh, một nhà bếp ở đằng trước.
Elizabeth nghĩ rằng nó không khác gì tấm thảm bay của bố nàng.
Hai người đàn ông dùng hầu hết thời gian để bàn chuyện kinh doanh. Khi Rhys rảnh rỗi, anh và Elizabeth chơi cờ với nhau. Nàng hoà với anh một ván và khi Rhys nói "Anh sẽ nhớ" Elizabeth đã đỏ mặt vì sung sướng.
o O o
Những tháng cuối ở trường học trôi qua thật nhanh. Đã đến lúc nàng phải bắt đầu nghĩ đến tương lai.
Elizabeth nghĩ đến câu hỏi của Rhys, Thế sau đó em đã biết mình định làm gì chưa? Nàng vẫn chưa xác định được. Nhưng chính vì cụ tổ Samuel mà Elizabeth đã trở nên hứng thú với việc kinh doanh của gia đình, và nàng biết rằng nàng sẽ thích trở thành một phần của nó. Nàng không chắc rằng mình có thể làm được cái gì. Có thể nàng sẽ bắt đầu bằng việc phụ giúp cho bố. Nàng nhớ lại tất cả những câu chuyện về một bà chủ kỳ diệu mà mẹ nàng đã từng thể hiện, và bà trở thành vô giá thế nào đối với Sam. Nàng sẽ cố gắng thay chỗ mẹ mình.
Đó sẽ là một sự khởi đầu.
 
CHƯƠNG 14
Bàn tay tự do của ngài Đại Sứ Thuỵ Điển ấn mạnh vào mông Elizabeth và nàng cố phớt lờ chuyện đó khi hai người khiêu vũ quanh phòng, đôi môi nàng vẫn mỉm cười, cặp mắt lướt qua các vị khách ăn mặc sang trọng, dàn nhạc, những người hầu mặc lễ phục, mặt tủ buffet để đầy những món ăn độc đáo, rượu vang ngon, và nàng thầm hài lòng với bản thân. Đây quả là một bữa tiệc hấp dẫn.
Họ đang ở trong phòng khiêu vũ thuộc khu nhà ở Long Island. Có khoảng hai trăm khách mời và tất cả bọn họ đều rất quan trọng với tập đoàn Roffe và các con. Elizabeth nhận ra ngài Đại sứ đang ép người vào sát người nàng, cố gắng kích thích nàng. Ông ta đụng lưỡi vào tai nàng và thì thầm:
- Cô nhảy đẹp lắm.
- Ông cũng vậy, - Elizabeth mỉm cười trả lời, nàng bất thần bước hụt và đạp gót giầy nhọn hoắt của mình lên chân ông ta. Ông ta kêu lên đau đớn và Elizabeth lập tức tỏ ý xin lỗi, - Tôi xin lỗi, thưa ngài Đại sứ. Để tôi mời ngài một ly.
Nàng rời khỏi ông ta và lách về phía quầy rượu một cách ung dung giữa đám khách, cặp mắt thận trọng quan sát quanh căn phòng, kiểm tra xem mọi thứ có được hoàn hảo hay không.
Hoàn hảo, đó là những gì bố nàng yêu cầu. Giờ đây Elizabeth đã làm chủ cả hàng trăm buổi yến tiệc do Sam tổ chức, nhưng nàng vẫn không bao giờ thấy thoải mái. Mỗi bữa tiệc là một sự kiện, một đêm khai mạc, với hàng tá những điều có thể sai sót. Nàng chưa từng biết đến sự sung sướng như thế. Giấc mộng tuổi thơ được ở gần bên bố, được bố cần tới đã trở thành hiện thực. Nàng đã biết cách điều chỉnh theo thực tế rằng nhu cầu của bố nàng là không phải dành riêng cho một cá nhân nào, rằng giá trị của nàng đối với ông dựa trên những gì nàng có thể cống hiến cho tập đoàn. Đó là chuẩn mực duy nhất mà Sam Roffe dùng để đánh giá người khác. Elizabeth đã có thể lấp đầy khoảng trống do cái chết của mẹ nàng mang lại. Nàng đã trở thành bà chủ tiệc khéo léo của bố nàng. Nhưng Elizabeth là một cô gái cực kỳ thông minh nên nàng còn tiến xa hơn thế. Nàng được tham dự vào các buổi hội nghị kinh doanh với Sam, trên máy bay cũng như trong các khách sạn sang trọng, trong nhà máy cũng như trong các toà đại sứ và các cung điện. Nàng chứng kiến bố mình thi hành quyền lực, dùng hàng tỉ đô la vào việc mua và bán, phá huỷ và xây dựng. Roffe và các con là một sự phong phú vô cùng tận và Elizabeth thấy bố mình rộng rãi hào phóng với các bạn bè của tập đoàn cũng như siết chặt lòng rộng rãi với các kẻ thù của nó.
Elizabeth nhìn quanh phòng và thấy Sam đang đứng ở quầy bar, nói chuyện với Rhys, cùng một vị thủ tướng và một thượng nghị sĩ từ California. Sam trông thấy Elizabeth và vẫy tay gọi nàng. Elizabeth đi về phía ông, trong đầu nàng nghĩ về quãng thời gian ba năm trước, khi sự việc bắt đầu.
o O o
Elizabeth bay về nhà ngay ngày nàng tốt nghiệp.
Nàng đã mười tám tuổi. Nhà vào lúc đó, đã là căn hộ tại quảng trưòng Beekman ở Manhattan. Rhys cũng ở đó cùng bố nàng. Không hiểu sao nàng lại biết anh sẽ ở đó ở một nơi bí mật trong ý nghĩ của nàng vẫn có hình ảnh của anh, và mỗi khi cô đơn, chán chường hay thất vọng nàng lại lôi chúng ra và sười ấm bản thân bằng hồi ức của mình. Lúc đầu thì chuyện đó dường như là vô vọng. Một cô bé học sinh mười lăm tuổi và một người đàn ông hai mươi nhăm tuổi. Mười tuổi cách biệt đó chẳng khác gì một trăm tuổi.
Nhưng qua một số cách tính toán kỳ diệu nào đó thì đến năm mười tám tuổi sự cách biệt với nàng đã không còn quan trọng như trước. Hình như là nàng già đi nhanh hơn Rhys, cố gắng để bắt kịp anh.
Hai người đàn ông đứng lên khi nàng bước vào thư viện, nơi họ đang thảo luận chuyện làm ăn. Bố nàng thản nhiên hỏi:
- Elizabeth, con vừa về à?
- Vâng.
- À! Thế là đã học xong rồi đấy.
- Vâng.
- Thế thì tốt.
Và đó là lời chào mừng nàng trở về nhà. Rhys đi lại phía nàng và mỉm cười. Trông anh có vẻ thật sự vui mừng vì được gặp nàng.
- Trông em tuyệt quá, Liz. Lễ tốt nghiệp thế nào? Sam cũng rất muốn đến tham dự nhưng ông không thể đi được.
Anh đang nói những điều mà nhẽ ra bố nàng nên nói. Elizabeth giận dữ với bản thân mình vì đã bị tổn thương. Không phải là bố mình không yêu thương mình, nàng tự nhủ, mà đó là vì ông đã được cống hiến cho một thế giới không có phần của nàng trong đó. Ông sẽ đưa một đứa con trai vào thế giới của ông, còn đứa con gái thì chỉ là vật xa lạ mà thôi. Nàng không phù hợp với kế hoạch của tập đoàn.
- Con đang làm gián đoạn phải không. - Nàng đi ra cửa.
- Đợi một lát đã, - Rhys nói. Anh quay sang Sam. - Liz về nhà thật đúng lúc. Cô ấy có thể phụ giúp vào bữa tiệc đêm thứ bảy.
Sam quay sang Elizabeth, ngắm nhìn nàng một cách khách quan, như thể ông đang đánh giá nàng theo một kiểu mới. Nàng rất giống mẹ. Nàng cũng có vẻ đẹp đó vẻ thanh lịch tự nhiên đó. Mắt Sam chợt hiện ra một vẻ gì đó như vô cùng hứng thú. Chưa bao giờ từ trước đến nay ông lại nghĩ con gái mình sẽ là một nguồn vốn tiềm tàng cho Roffe và các con.
- Con có cái váy dài sang trọng nào không?
Elizabeth ngạc nhiên nhìn ông.
- Con…
- Cũng không sao. Con đi mua một cái đi. Con có biết làm sao tổ chức một buổi tiệc không?
Elizabeth nuốt nước bọt và trả lời:
- Chắc chắn là có.
Không lẽ tốt nghiệp trường ở Thuỵ Sĩ mà không làm được sao? Họ đã dạy bạn tất cả các lễ nghi xã hội
- Dĩ nhiên là con biết cách tổ chức một bữa tiệc.
- Tốt. Bố đã mời một số quan khách từ Ả rập. Họ có khoảng… - ông quay sang Rhys.
Rhys mỉm cười với Elizabeth và nói:
- Bốn mươi. Thêm hoặc bớt vài người.
- Để tất cả đấy cho con. - Elizabeth nói với vẻ tự tin.
Bữa tiệc đó là một sự thất bại hoàn toàn.
Elizabeth đã bảo người đầu bếp làm món Cocktail cua đầu tiên, tiếp theo là món ra gu thịt và đậu cho mỗi người cùng với một loại rượu vang nổi tiếng. Thật không may khi trong món ra gu kia có cả thịt lợn và những người Ả rập không bao giờ ăn tôm cua cũng như thịt heo. Họ cũng không uống các thứ nước giải khát có cồn. Họ chỉ nhìn chằm chằm vào các món ăn mà không hề đụng đũa. Elizabeth ngồi ở một đầu chiếc bàn dài, còn đầu kia là bố nàng, lạnh ngắt vì xấu hổ, trong lòng chết lặng.
Chính là Rhys đã cứu vãn cho buổi tối hôm đó.
Anh biến vào phòng làm việc và gọi điện thoại. Rồi anh quay lại phòng ăn, gây hứng thú cho khách bằng những câu chuyện tiếu lâm trong khi đám nhân viên bắt đầu dọn sạch bàn.
Rất nhanh sau đó, một đội xe phục vụ chạy đến và như có phép màu, các món ăn được bầy ra. Thịt cừu nướng chiên bột, cơm, gà quay, cá, cùng với bánh ngọt, phó mát và hoa quả tươi. Tất cả đều hài lòng với các món ăn, ngoại trừ Elizabeth. Nàng quá khó chịu nên không thể nuốt trôi dù chỉ là một miếng nhỏ.
Mỗi khi nàng ngước nhìn Rhys, thì lại thấy anh đang theo dõi mình với vẻ thông đồng trong ánh mắt. Elizabeth không thể nói vì sao, nhưng nàng thấy mất thể diện vì Rhys không những nhìn thấy nỗi nhục của nàng mà còn ra tay cứu nàng ra khỏi nỗi nhục đó. Khi bữa tiệc kết thúc và người khách cuối cùng miễn cưỡng rời khỏi vào mấy giờ sáng, Elizabeth cùng Sam và Rhys ngồi trong phòng khách. Rhys rót một ly rượu mạnh.
Elizabeth hít một hơi thở sâu và quay sang bố:
- Con xin lỗi về bữa tối hôm nay. Nếu không có Rhys…
- Bố tin là lần sau con sẽ khá hơn. - Sam nói dứt khoát.
Và ông đã đúng. Kể từ lần đó, mỗi khi Elizabeth tổ chức yến tiệc, dù cho có bốn hay bốn trăm khách, nàng cũng nghiên cứu họ, tìm xem họ thích và không thích cái gì, họ ăn và uống cái gì, họ thích loại hình giải trí nào. Nàng có cả một quyển hồ sơ từng người.
Những người khách đều cảm thấy thoả mãn khi thấy có đầy đủ các nhãn rượu hoặc whisky hoặc xì gà mà họ quen dùng, cũng như Elizabeth có thể thảo luận chuyện kinh doanh với họ một cách thông thạo.
Rhys có mặt ở hầu hết các bữa tiệc và bên cạnh anh bao giờ cũng là một cô gái xinh đẹp nhất. Elizabeth ghét tất cả bọn họ. Nhưng nàng cũng cố bắt chước họ. Nếu Rhys đi cùng một cô gái kẹp tóc đằng sau Elizabeth sẽ làm tóc giống y như vậy. Nàng cố ăn mặc theo kiểu các cô gái của Rhys, hành động như họ hành động. Nhưng tất cả những việc đó chẳng để lại cho Rhys chút ấn tượng gì. Thậm chí anh còn chẳng buồn để mắt đến. Thất vọng, Elizabeth quyết định mình có sao thì vẫn để vậy thôi.
Buổi sáng hôm sinh nhật lần thứ hai mươi mốt của nàng, khi Elizabeth xuống nhà ăn điểm tâm, Sam nói:
- Con hãy đặt một số vé đi xem hát tối nay. Sau đó sẽ ăn tối ở nhà hàng hai mốt.
Elizabeth nghĩ, ông vẫn nhớ và nàng cảm thấy rất vui sướng.
Rồi bố nàng nói thêm:
- Chúng ta có tất cả mười hai người. Và chúng ta sẽ xem xét bản hợp đồng mới ở Bolivia.
Nàng không nói gì về sinh nhật mình. Nàng nhận được vài bức điện từ các bạn học cũ, nhưng cũng chỉ thế. Đến sáu giờ chiều hôm ấy, một bó hoa to tướng gói trong giấy bóng kính được mang đến. Elizabeth tin chắc rằng nó là của bố nàng. Nhưng trên tấm thiếp viết "Một ngày dễ thương cho một phụ nữ dễ thương" và ở dưới ký "Rhys".
Bố nàng rời khỏi nhà đến nhà hát lúc bảy giờ tối hôm ấy. Ông nhìn thấy bó hoa và hờ hững nói:
- Cũng đẹp đấy chứ?
Elizabeth định nói "Đó là quà sinh nhật", nhưng như thế thì cũng được gì? Nếu bạn định nhắc nhở người mình yêu thương rằng hôm nay là sinh nhật của mình thì thật là phù phiếm.
Nàng nhìn ông bước đi và tự hỏi mình sẽ làm gì cho hết buổi tối đây. Tuổi hai mươi mốt luôn được coi là điểm mốc quan trọng. Nó mang ý nghĩa trưởng thành, có tự do, trở thành đàn bà. Thế đấy, hôm nay là cái ngày kỳ diệu và nàng thấy nó cũng không khác gì so với năm ngoái, hay năm trước nữa. Tại sao ông lại không nhớ nổi cơ chứ? Nếu nàng là con trai thì liệu ông có nhớ hay không?
Người quản gia xuất hiện để hỏi nàng về bữa tối.
Elizabeth không thấy đói. Nàng chỉ thấy trống trải và hoang vắng. Nàng biết rằng mình đang thương xót cho bản thân, nhưng không phải chỉ là cho ngày sinh không được kỷ niệm nầy. Đó là cho tất cả những sinh nhật cô đơn trong quá khứ, cho nỗi đau trưởng thành một mình, thiếu mẹ, thiếu bố, thiếu một người quan tâm săn sóc.
Vào lúc mười giờ, khi Elizabeth đang ngồi trước lò sưởi trong phòng khách tối tăm, mặc một chiếc áo dài, thì một giọng nói vang lên "Sinh nhật vui vẻ". Ánh sáng bừng lên và Rhys Williams đã đứng đó từ bao giờ. Anh đi đến bên nàng và nói với vẻ trách móc:
- Đây không phải là cách mừng sinh nhật. Một cô gái liệu có bao nhiêu lần sinh nhật hai mươi mốt tuổi.
- Em… em nghĩ rằng anh đi cùng bố em đêm nay, - Elizabeth bối rối nói.
- Anh đã đi. Và ông có nhắc rằng đêm nay em ở nhà một mình. Thay quần áo đi. Chúng mình sẽ cùng đi ăn tối.
Elizabeth lắc đầu. Nàng từ chối lòng thương hại của anh
- Cám ơn anh, Rhys. Em… em thật sự không đói.
- Không, anh thì đói và anh rất ghét phải ngồi ăn một mình. Anh cho em năm phút để thay đồ, hay là em sẽ mặc nguyên thế nầy mà đi với anh.
Họ ăn tối tại Long Island, dùng món xúc xích với ớt cùng hành rán kiểu Pháp và uống nước trái cây, và họ nói chuyện, và Elizabeth nghĩ hôm nay còn tuyệt hơn cả hôm ở nhà hàng Maxim s. Tất cả mọi sự chú ý của Rhys đều tập trung vào nàng và nàng có thể hiểu tại sao anh lại hấp dẫn phụ nữ đến như vậy. Không chỉ vì ngoại hình của anh. Sự thật là anh thật sự thích phụ nữ và anh luôn sung sướng khi được ở bên cạnh họ. Anh làm cho Elizabeth có cảm giác rằng nàng là một người đặc biệt và anh muốn được ở bên nàng hơn bất cứ người nào trên thế giới. Cũng không có gì kỳ lạ, Elizabeth nghĩ, khi mà tất cả đám phụ nữ đều say mê anh.
Rhys kể cho nàng nghe đôi điều về tuổi thơ của anh ở xứ Walses, và anh biến nó thành một câu chuyện tuyệt vời, đầy chất mạo hiểm và vui nhộn.
- Anh bỏ trốn khỏi nhà! - anh nói, - bởi vì trong anh có một nỗi khát khao được nhìn thấy tất cả và làm tất cả mọi thứ. Anh muốn trở thành những người như anh thấy. Anh cảm thấy chưa đầy đủ với bản thân. Em có hiểu những gì anh nói không?
- Ồ, dĩ nhiên là nàng hiểu rất rõ!
- Anh làm việc ở công viên, các bãi biển và một mùa hè anh đã hướng dẫn du khách bơi thuyền thúng dọc theo Rhosili, và…
- Khoan đã, - Elizabeth ngắt lời anh. - Rhosili là gì và thuyền thúng… là gì?
Rhosili là một con sông nước xiết, có nhiều ghềnh thác nguy hiểm. Thuyền thúng là một loại xuồng cổ được làm từ khung gỗ và da thú không thấm nước, có gốc gác từ trước thời La Mã. Em chưa bao giờ đến xứ Wales phải không?
Nàng lắc đầu.
- À, thế thì em sẽ thích nó đấy. - Nàng biết là mình sẽ thích. - Có một thác nước ở Vale of Neath và đó là một trong những thắng cảnh đẹp trên thế giới. Và có rất nhiều địa điểm hấp dẫn khác như: Aber Eiddi và Porthclair và Killgetty và Llangwm. - Những từ ngữ đó tuôn ra khỏi lưới anh như một đoạn nhạc. - Đó là những vùng đất hoang vu chưa được khám phá, tràn đầy những bất ngờ kỳ diệu.
- Và anh vẫn rời khỏi xứ Wales.
Rhys mỉm cười với nàng và nói:
- Đó là nỗi khao khát trong anh. Anh muốn làm chủ cả thế giới nầy.
Điều mà anh không nói với nàng là nỗi khát khao đó vẫn còn nguyên vẹn.
o O o
Trong suốt ba năm sau đó Elizabeth trở nên không thể thiếu được với bố nàng. Công việc của nàng ngày càng làm cho cuộc sống của ông thoải mái hơn, để ông có thể tập trung tất cả vào điều quan trọng nhất.
Kinh doanh. Những chi tiết trong việc chăm sóc cuộc sống của ông được dành toàn bộ lại cho Elizabeth. Nàng thuê và sa thải nhân viên, mở và đóng các cửa các căn nhà theo nhu cầu của bố nàng và khiến ông được tiêu khiển.
Hơn thế nữa, nàng đã trở thành tai mắt của ông. Sam mỗi cuộc họp kinh doanh Sam luôn hỏi Elizabeth ấn tượng của nàng đối với một người nào đó, hoặc giải thích cho nàng lý do vì sao ông lại hành động đặc biệt như thế. Nàng quan sát ông đưa ra các quyết định ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng ngàn người, liên quan đến hàng trăm triệu đô la. Nàng đã nghe nhiều vị thống đốc bang phải nài nỉ Sam mở nhà máy, hay van xin ông đừng đóng cửa.
Sau một trong những cuộc họp như thế, Elizabeth nói:
- Thật không thể tin được. Cứ như thể là bố đang điều hành cả một đất nước vậy.
Bố nàng cười và trả lời:
- Roffe và các con có thu nhập còn lớn hơn ba phần tư các quốc gia trên thế giới.
Trong chuyến công du với bố, Elizabeth dần trở nên quen thuộc với các thành viên khác trong gia đình Roffe, các ông chú bà cô của nàng cũng như vợ hoặc chồng của họ.
Hồi còn nhỏ Elizabeth đã gặp họ qua các kỳ nghỉ khi họ đến chơi một trong các ngôi nhà của bố nàng, hoặc khi nàng đến thăm nọ nhân dịp các kỳ nghỉ ngắn ngày ở trường.
Simonetta và Ivo Palazzi ở Rome, luôn luôn là những người vui nhộn nhất.
Họ rất cởi mở và thân thiện, và Ivo luôn làm cho Elizabeth cảm thấy như mình đã lớn khôn. Ông chịu trách nhiệm chi nhánh Italia của Roffe và các con, và ông làm việc rất có hiệu quả. Mọi người đều thích làm ăn với Ivo. Elizabeth nhớ một người bạn học của nàng đã nói khi gặp ông.
- Cậu có biết tớ thích ông chú cậu ở điểm gì không? Đó là ông rất nồng nhiệt và hấp dẫn.
Đó là Ivo, nồng nhiệt và hấp dẫn.
Rồi còn có Helene Roffe - Martel và chồng, Charles, ở Paris. Elizabeth chưa bao giờ thật sự hiểu được Helene, hoặc cảm thấy dễ chịu khi ở bên bà. Bà ta luôn tỏ ra tử tế với Elizabeth nhưng vẫn có một sự lãnh đạm mà nàng không tài nào phá vỡ nỗi. Charles là giám đốc chi nhánh Pháp của Roffe và các con.
- Ông rất có trình độ, mặc dù Elizabeth có nghe bố nàng nói rằng ông không có nghị lực. Ông có thể làm theo các chỉ thị nhưng ông không có óc sáng tạo. Sam không bao giờ thay thế ông bởi vì chi nhánh Pháp hoạt động rất có lời. Elizabeth cho rằng chính Helene Roffe - Martel mới là người đem lại sự thành công cho chi nhánh.
Elizabeth rất thích bà cô người Đức Anna Roffe Gassner và chồng là Walther. Elizabeth nhớ đã nghe gia đình nàng nói chuyện rằng Anna Roffe đã lấy phải một người chồng không môn đăng hộ đối. Walther Gassner đã từng nổi danh là một người có lý lịch xấu, một kẻ đào mỏ, người đã lấy một phụ nữ kém hấp dẫn và già hơn mình đến mười tuổi chỉ vì tài sản của cô ta. Elizabeth lại không nghĩ rằng bà cô họ của nàng kém hấp dẫn. Nàng luôn thấy Anna là một người hay rụt rè, nhạy cảm, hơi lãnh đạm và e ngại cuộc sống. Elizabeth đã yêu thích Walther ở vẻ bên ngoài.
- Ông có vẻ đẹp kinh điển của một minh tinh màn bạc nhưng ông không hề kiêu căng hay đỏm dáng. Ông có vẻ thành thật với Anna và Elizabeth không tin bất kỳ những câu chuyện tồi tệ nào mà nàng được nghe về ông.
Trong tất cả đám cô chú họ thì Alec là người nàng quý mến nhất. Mẹ của ông mang họ Roffe và bà đã kết hôn với Sir George Nichols, vị tòng nam tước thứ ba. Alec là người Elizabeth luôm tìm đến mỗi khi nàng gặp rắc rối.
Không hiểu sao, có lẽ do tính nhạy cảm và lịch thiệp của ông, ông chỉ như một đứa trẻ ngang hàng với nàng, và bây giờ nàng thấy đó như một lời khen đối với Alec. Ông luôn đối xử với nàng như một người bằng vai phải lứa, sẵn sàng giúp đỡ và khuyên giải nàng. Elizabeth nhớ có một lần, trong một cơn thất vọng cùng cực, nàng đã quyết định bỏ nhà ra đi. Nàng đã thu dọn hành trang, và trong một cơn bồng bột bất ngờ, nàng gọi điện cho Alec ở London để chào tạm biệt. Lúc đó ông đang tham dự một hội nghị nhưng ông đã nghe điện thoại và nói chuyện với Elizabeth hơn một tiếng đồng hồ. Khi ông kết thúc, Elizabeth đã quyết định tha thứ cho Sam và dành cho ông một cơ hội. Đó là Sir Alec Nichols. Vợ ông, Vivian, lại là một kiểu người khác hẳn. Alec rộng rãi và chín chắn bao nhiêu thì Vivian lại ích kỷ và khinh xuất bấy nhiêu. Bà là người phụ nữ chỉ coi mình là trung tâm điển hình nhất mà Elizabeth từng biết.
Nhiều năm trước, khi Elizabeth đến nghỉ cuối tuần ở Gloucestershire (Anh), nàng một mình đi picnic. Trời đổ mưa và Elizabeth đã phải trở về nhà sớm, vừa đi đến hành lang thì nghe thấy tiếng cãi nhau từ phòng làm việc vọng ra.
- Tôi chán làm bảo mẫu lắm rồi, - Vivian nói. - Anh có thể tiếp đãi cô cháu gái và giúp nó giải trí đêm nay. Tôi đi London đây. Tôi đã có hẹn ở đó.
- Chắc chắn là em có thể huỷ bỏ nó, Vivian. Con bé chỉ còn ở đây với chúng ta một ngày, và nó…
- Xin lỗi, Alec. Tôi đang muốn làm tình, và tối nay tôi sẽ kiếm được một gã.
- Lạy chúa, Vivian!
- Thôi, xin anh? Đừng có lo hộ cho cuộc sống của tôi nữa.
Vào lúc đó trước khi Elizabeth kịp cử động, Vivian đã lao ra khỏi cửa phòng. Bà liếc nhanh vào bộ mặt khó chịu của Elizabeth và vui vẻ nói "Về sớm thế, cháu yêu! ". Và đi thẳng xuống cầu thang.
Alec bước ra ngưỡng cửa. Ông nhẹ nhàng nói:
- Vào đây, Elizabeth.
Elizabeth miễn cưỡng đi vào phòng làm việc. Gương mặt Alec đỏ bừng vì xấu hổ. Elizabeth rất muốn an ủi ông nhưng nàng không biết phải làm như thế nào.
Alec bước tới bên bàn lớn, cầm cái tẩu lên nhét đầy thuốc sợi vào châm lửa. Elizabeth tưởng chừng như ông không bao giờ châm xong cả.
- Cháu phải hiểu cho Vivian.
Elizabeth trả lời:
- Chú Alec, đây không phải là việc của cháu. Cháu…
- Nhưng về một khía cạnh nào đó thì vẫn có. Chúng ta là người một nhà. Chú không muốn cháu suy nghĩ quá khe khắt về cô ấy.
Elizabeth không thể tin nổi. Sau những gì khác thường mà nàng vừa nghe, Alec vẫn tìm cách bênh vực vợ mình.
- Đôi khi trong hôn nhân, - Alec nói tiếp, - người vợ và người chồng có những nhu cầu khác nhau. - Ông dừng lại với vẻ ngượng ngùng, cố tìm lời để diễn đạt. - Chú không muốn cháu trách Vivian bởi vì chú… chú không thể thoả mãn được một số nhu cầu của cô ấy.
- Đó không phải là lỗi của cô ấy, cháu biết mà.
Elizabeth không thể kiềm chế bản thân.
- Cô ấy có hay đi chơi với những người đàn ông khác không?
- Chú sợ rằng có.
Elizabeth vô cùng kinh ngạc.
- Vậy tại sao chú không bỏ cô ấy?
- Ông dịu dàng mỉm cười. - Chú không thể bỏ cô ấy được cháu yêu ạ. Cháu biết đấy, chú rất yêu cô ấy.
Ngày hôm sau Elizabeth quay lại trường. Kể từ lần đó, nàng càng cảm thấy gần gũi với Alec hơn bất kỳ một người nào khác.
o O o
Bây giờ thì Elizabeth đã trở nên quan tâm nhiều đến bố nàng. Ông có vẻ bận tâm lo lắng đến một vấn đề nhưng Elizabeth không tài nào đoán ra. Khi nàng hỏi ông thì ông trả lời:
- Chỉ là một chuyện nhỏ mà bố cần làm rõ. Bố sẽ cho con biết sau.
Ông trở nên kín đáo hơn và Elizabeth không còn được động tới các giấy tờ của ông nữa. Khi ông nói với nàng "Ngày mai bố sẽ đi Chamonix để leo núi", Elizabeth cảm thấy rất vui. Nàng biết ông cần phải nghỉ ngơi. Ông đã xuống cân, trở nên xanh xao và hay gắt gỏng.
- Con sẽ đặt chỗ trước cho bố. - Elizabeth nói.
- Đừng lo. Họ đã làm xong cả rồi.
Có vẻ chuyện đó không giống ông lắm. Ông đã đi Chamonix vào sáng hôm sau.
Đó là lần cuối cùng nàng nhìn thấy ông. Lần cuối cùng nàng được trông thấy ông…
o O o
Elizabeth nằm trong căn phòng ngủ đầy bóng tối, nhớ lại quá khứ. Dường như cái chết của bố nàng là không thật, có thể bởi vì ông đã quá sống động.
Ông là người cuối cùng mang họ Roffe. Ngoại trừ nàng. Chuyện gì rồi sẽ xảy ra với tập đoàn? Bố nàng đã nắm trong tay số cổ phần quyết định quyền điều khiển tập đoàn. Nàng tự hỏi không biết bố mình sẽ để chúng lại cho ai?
Elizabeth biết được câu trả lời vào cuối buổi chiều hôm sau. Luật sư của Sam xuất hiện tại nhà nàng.
- Tôi mang đến bản sao chúc thư của bố cô. Tôi cũng không muốn đến đây quấy rầy cô trong lúc đau thương nầy, nhưng tôi nghĩ tốt nhất là nên cho cô biết ngay. Cô là người thừa kế duy nhất của bố cô. Điều đó cũng có nghĩa là số cổ phần quyết định quyền điều hành Roffe và các con đang nằm trong tay cô.
Elizabeth không thể tin nổi. Chắc chắn rằng ông đã không trông mong việc nàng sẽ điều hành tập đoàn.
- Tại sao? - Nàng hỏi. - Tại sao lại là tôi?
Viên luật sư ngập ngừng rồi nói:
- Tôi có thể nói thẳng chứ, cô Roffe. Bố cô hãy còn tương đối trẻ. Tôi tin chắc rằng ông ấy không hề cho rằng mình sẽ chết trong vòng nhiều năm tới. Đến đúng thời điểm, ông ấy sẽ cho lập một bản chúc thư khác quyết định quyền lãnh đạo công ty thuộc về ai. Có lẽ lúc nầy ông ấy vẫn còn chưa quyết định được. - Ông ta nhún vai. - Dù sao đó cũng chỉ là phỏng đoán. Điều cốt lõi là bây giờ quyền điều hành đã thuộc về cô. Cô sẽ phải quyết định xem mình phải làm gì với nó, mình phải trao quyền cho ai. - ông ta ngắm nàng một lúc, rồi tiếp tục - Từ trước đến giờ chưa bao giờ có phụ nữ trong hội đồng quản trị của tập đoàn, nhưng, … thôi vậy, lúc nầy cô đang thay thế vị trí của bố cô. Thứ sáu nầy có cuộc họp hội đồng quản trị ở Thuỵ Sĩ. Cô sẽ đi dự chứ?
Sam nhất định đã nghĩ đến điều nầy.
Cả cụ Samuel cũng vậy.
- Tôi sẽ đi. - Elizabeth trả lời.
 
CHƯƠNG 15
BỒ ĐÀO NHA
Thứ tư mồng 9 tháng Chín. Nửa đêm.
Trong phòng ngủ của một căn hộ nhỏ cho thuê trên đường Bombeiros, một trong những ngõ hẹp quanh co đầy nguy hiểm của Alto Estoril, một cảnh quay phim đang được tiến hành.
Có bốn người trong căn phòng.
Một người quay phim, trên gi.ường là hai diễn viên đang trong cảnh quay, người đàn ông khoảng ngoài ba mươi tuổi và cô gái tóc vàng với thân hình bốc lửa. Cô ta không mặc gì trên người ngoại trừ dải băng đỏ chói quấn quanh cổ. Người đàn ông thật cao lớn, có đôi vai của một đô vật và bộ ngực vạm vỡ không lông. Cái chim của hắn, mặc dù đang gục xuống, vẫn to tướng. Người thứ tư trong phòng là khán giả, ngồi ở phía sau, đội một chiếc mũ đen rộng vành và mang kính đen.
Người quay phim quay sang người khán giả với vẻ thăm dò và vị khán giả gật đầu. Người quay phim ấn nút máy quay và tiếng xè xè phát ra. Anh ta nói với cặp diễn viên.
- Xong rồi. Diễn.
Người đàn ông quỳ lên và cô gái ngậm cái của quý của gã vào mồm cho đến khi nó trở nên cứng nhắc. Cô ta buông nó ra và thốt lên:
- Chúa ơi, to quá.
Anh ta đổ người xuống người cô gái và đi vào giữa hai chân cô ta.
- Từ từ thôi anh. - Cô ta cao giọng càu nhàu.
- Hãy làm như cô đang thích thú lắm đi.
- Làm sao tôi làm được. Nó cứ như quả dưa hấu chết tiệt ấy.
Vị khán giả chồm người về phía trước, quan sát từng cử động của người đàn ông.
Cô gái rên rỉ:
- Lạy Chúa, tuyệt quá, làm chậm thôi, anh yêu.
Vị khán giả thở gấp hơn, mắt dán chặt vào cảnh tượng trên gi.ường. Cô gái nầy là người thứ ba, và cô ta thậm chí còn đẹp hơn hai người kia.
Cô ta quằn quại từ bên nầy sang bên kia, thốt ra những tiếng rên rỉ nhỏ.
- Ah… - rồi hổn hển, - tiếp tục đi!
Cô ta ghì chặt cổ người đàn ông, kéo sát vào mình hơn. Động tác của anh ta càng lúc càng nhanh, mạnh hơn còn cô gái thì cào móng tay vào tấm lưng trần của anh ta.
- Ah… - Cô ta rên rỉ, - Được rồi! Tôi tới đây!
Người quay phim nhìn về phía vị khán giả và người nầy gật đầu, đôi mắt sáng quắc lên sau cặp kính đen.
- Nào! - Người quay phim nhắc người đàn ông trên gi.ường. Cô gái, bị cuốn vào cơn điên loạn mãnh liệt của bản thân, không nghe thấy lời nhắc đó. Khi mặt cô ta đã tràn ngập một cơn kh.oái lạc man dại, toàn thân run lên, đôi tay lực lưỡng của người đàn ông khép lại quanh cổ họng cô ta và bắt đầu siết lại làm cho cô ta thấy nghẹt thở. Cô ta nhìn anh ta chằm chằm, hoang mang, và rồi cặp mắt cô ta chợt tràn đầy một sự kinh hoàng tột độ.
Người ngồi xem nghĩ: Đã đến lúc rồi. Là lúc nầy đây! Lạy Chúa! Hãy nhìn vào mắt cô ta. Chúng đang mở rộng với vẻ hoảng hốt. Cô ta dẫy dụa để thoát khỏi chiếc kẹp sắt quanh cổ, nhưng vô dụng. Cô ta vẫn đang trong cơn cực khoái và nó cùng với sự quằn quại của cái chết nhập làm một.
Toàn thân người ngồi xem đầm đìa mồ hôi. Cảm giác kích động dường như không sao tả xiết. Cô ta đã chết giữa cơn kh.oái lạc tột cùng của cuộc đời, mắt còn nhìn sững vào cặp mắt của cái chết. Cảnh tượng thật là đẹp. Mọi việc bất ngờ kết thúc. Người ngồi xem vẫn ngồi đó, mệt lả, thân hình co giật vì cơn hoan lạc, thở những hơi dài và sâu. Cô gái đã bị trừng phạt.
Và vị khán giả cảm thấy mình như Thượng đế.
 
CHƯƠNG 16
ZURICH
Thứ sáu ngày 11 tháng Chín. Buổi trưa
Tổng hành dinh của Roffe và các con chiếm một diện tích khoảng hai mươi tư hecta dọc theo Sprettenbach ở ngoại ô phía đông thành phố Zurich.
Khu hành chính là một toà nhà cao ốc mười hai tầng lắp kính hiện đại, cao vượt hẳn lên so với một tổ hợp các khu nghiên cứu phân xưởng sản xuất, phòng thí nghiệm, khu kế hoạch sản xuất và một đoạn đường sắt. Đó là trung tâm đầu não của đế quốc Roffe và các con.
Tiền sảnh của toà nhà hoàn toàn hiện đại, được trang hoàng bằng hai mầu xanh lá cây và trắng cộng với các đồ đạc kiểu Đan Mạch. Một nữ nhân viên tiếp tân ngồi sau một cái bàn kính và những người được cô ta cho đi vào sâu trong toà nhà đều có một người hướng dẫn đi cùng. Phía đằng sau bên phái của tiền sảnh là một dãy thang máy với một chiếc tốc hành đặc biệt dành riêng cho chủ tịch tập đoàn.
Vào sáng hôm nay, những chìếc thang máy riêng đã được các thành viên hội đồng quản trị sử dụng.
Họ đã đến đây trong vòng vài giờ trước từ nhiều nơi trên thế giới bằng phi cơ, tầu hoả, trực thăng và xe hơi. Họ đang tập trung ở phòng họp trần cao, tường lót gỗ sồi rộng lớn; Sir Alec Nichols, Walther Gassner, Ivo Pallazi và Charles Martel. Người duy nhất không thuộc hội đồng quản trị là Rhys Willlams.
Các loại nươc giải khát và rượu đã được bày sẵn trên tủ búp phê nhưng không ai trong phòng để ý đến.
Tất cả bọn họ đều căng thẳng, hồi hộp, mỗi người đang theo đuổi những ý nghĩ riêng của mình.
Kate Erling, một phụ nữ Thuỵ Điển có năng lực, xấp xỉ năm mươi tuổi, bước vào phòng.
- Xe của cô Roffe đã đến.
Cặp mắt bà ta lướt quanh căn phòng để chắc chắn rằng mọi thứ đã sẵn sàng: bút, giấy, bình nước bạc ở mỗi chỗ, xì gà và thuốc lá, gạt tàn, diêm. Kate Erling đã làm thư ký riêng cho Sam Roffe được năm năm.
Sự thật rằng ông đã chết cũng không khiến cho bà ta hạ thấp các tiêu chuẩn của ông, hoặc của bà ta.
Bà ta gật đầu, hài lòng, và rút lui ra ngoài.
Ở dưới nhà, phía trước toà cao ốc hành chính, Elizabeth đang bước ra khỏi chiếc limousine. Nàng mặc áo vét và váy đen, áo choàng trắng. Gương mặt nàng không trang điểm. Trông nàng trẻ hơn tuổi hai mươi tư của mình, xanh xao và yếu ớt.
Giới báo chí đang đợi nàng. Khi nàng bắt đầu bước vào toà nhà, các phóng viên truyền thanh truyền hình và nhật báo lập tức vậy chặt lấy nàng, tay lăm lăm máy quay phim, máy ảnh và micro.
- Tôi ở tờ L Europeo, cô Roffe. Chúng tôi có thể có một lời tuyên bố chứ? Ai sẽ nắm quyền lãnh đạo tập đoàn hiện nay khi bố cô…
- Cô Roffe, xin hãy nhìn vào đây. Cô có thể cho độc giả của chúng tôi một nụ cười thật tươi!
- Associated Press, cô Roffe. Di chúc của cha cô đã viết gì?
- New York Daily News. Bố cô không phải là một nhà leo núi cừ khôi sao? Họ có phát hiện được…
- Wall Street Journal. Xin cô nói vài điều về tình trạng tài chính của tập đoàn…
- Tôi từ tờ London Times. Chúng tôi dự định thực hiện một bài viết về Roffe…
Elizabeth, được ba nhân viên bảo vệ hộ tống, phải vất vả lắm mới chen qua được đám phóng viên vào trong tiền sảnh.
- Một bức ảnh nữa thôi, cô Roffe…
Và Elizabeth bước vào tháng máy, cửa đóng lại.
Nàng hít một hơi thở sâu và rùng mình. Sam đã chết. Tại sao họ không thể để nàng được yên?
Một lát sau Elizabeth đã đi vào phòng họp. Người đầu tiên chào đón nàng là Alec Nichols. Ông rụt rè vòng tay qua người nàng và nói:
- Chú rất tiếc, Elizabeth. Đây quả là một cú sốc lớn với tất cả bọn chú. Chú và Vivian đã thử gọi điện cho cháu nhưng…
- Cháu biết. Cám ơn, Alec. Cám ơn về bức điện của chú.
- Ivo Palazzi đứng dậy và hôn vào má nàng.
- Cara, chú biết nói gì đây! Cháu vẫn bình thường chứ?
- Vâng, vẫn ổn. Cám ơn, Ivo. - Nàng quay sang. - Chào chú Charles.
- Elizabeth, Hélène và chú hết sức đau lòng. Nếu có bất cứ việc gì…
- Cháu cám ơn.
Walther Gassner đi về phía Elizabeth và nói với giọng ngượng ngùng:
- Anna và chú muốn bày tỏ nỗi tiếc thương vô hạn với những gì đã xảy ra với bố cháu.
Elizabeth gật đầu, mặt ngẩng cao.
- Cám ơn chú Walther.
Nàng không muốn ở đây xung quanh là những người nhắc nhớ đến bố nàng. Nàng muốn bỏ chạy, muốn được một mình cô đơn.
Rhys Williams đứng một bên, ngắm nhìn gương mặt Liz và nghĩ thầm, nếu họ không dừng lại chắc nàng ngã quỵ mất. Anh thong thả đi qua đám người, giơ tay ra và nói:
- Chào Liz.
- Chào Rhys. - Lần cuối cùng nàng gặp anh là khi anh đến nhà báo tin về cái chết của bố nàng. Việc đó dường như đã cách đây nhiều năm rồi. Hoặc mới chỉ có vài giây trước. Nó đã được đúng một tuần.
Rhys nhận ra Elizabeth đang cố gắng giữ bình tĩnh.
Anh nói:
- Bây giờ đã có mặt đông đủ mọi người, sao ta lại không bắt đầu nhỉ?
Nàng cười với Rhys tỏ vẻ cám ơn. Mọi người ngồi vào chỗ của mình quanh cái bàn vuông lớn bằng gỗ sồi Rhys dẫn Elizabeth tới đầu bàn và kéo ghế cho nàng. Ghế của bố mình đây, Elizabeth nghĩ. Sam đã ngồi ở đây, làm chủ toạ những cuộc họp.
Charles lên tiếng:
- Bởi vì chúng ta không có… - ông ngập ngừng rồi quay sang Alec. - Tại sao anh không đại diện?
Alec liếc nhìn xung quanh và những khác tỏ dấu hiệu đồng tình.
- Thôi được.
Alec ấn vào cái nút trên bàn phía trước mặt ông, và Kate Erling đi vào, mang theo một cuốn sổ. Bà ta đóng cửa lại và kéo một chiếc ghế ra, giấy bút sẵn sàng.
Alec nói:
- Tôi nghĩ trong hoàn cảnh nầy thì chúng ta có thể bỏ qua hết các thủ tục. Tất cả chúng ta đều đau đớn vì sự mất mát khủng khiếp. Nhưng… - ông nhìn Elizabeth với vẻ xin lỗi - điều cốt lõi hiện nay là Roffe và các con phải có một bộ mặt đẹp đẽ.
- D accord (1) - Chúng ta chịu búa rìu dư luận như thế đã là đủ lắm rồi. - Charles hầm hừ.
Elizabeth nhìn ông và hỏi:
- Tại sao?
Rhys giải thích:
- Hiện nay tập đoàn đang phải đối mặt với rất nhiều các vấn đề bất thường, Liz. Chúng ta dính vào các vụ kiện cáo nghiêm trọng, phải chịu sự điều tra của chính phủ và một số ngân hàng đang gây áp lực với chúng ta. Điểm chính là tất cả những việc đó gây bất lợi rất lớn đến hình ảnh của tập đoàn. Công chúng mua các sản phẩm y dược bởi vì họ tin tưởng vào nơi đã sản xuất ra chúng. Nếu chúng ta để mất đi niềm tin của họ thì có nghĩa là chúng ta đã mất đi các khách hàng của mình.
Ivo nói bằng giọng trấn an:
- Không có vấn đề nào là chúng ta không giải quyết được. Điều quan trọng là phải tổ chức chấn chỉnh lại tập đoàn ngay lập tức.
- Bằng cách nào? - Elizabeth hỏi.
Walther trả lời:
- Bằng cách bán các cổ phần của chúng ta ra ngoài.
Charles thêm vào:
- Bằng cách đó chúng ta có thể lo liệu các khoản nợ ngân hàng và có đủ tiền… - ông bỏ dở câu nói.
Elizabeth nhìn Alec.
- Chú có đồng ý điều đó không?
- Chú nghĩ rằng rất cả mọi người đều đồng ý, Elizabeth ạ.
Nàng ngả người vào lưng ghế, vẻ trầm tư. Rhys cầm một xấp giấy, đứng lên và mang lại cho Elizabeth.
- Anh đã cho chuẩn bị tất cả các tài liệu cần thiết. Em chỉ việc ký vào là xong.
Elizabeth liếc nhìn xấp giấy nằm trước mặt mình.
- Nếu em ký thì chuyện gì sẽ xảy ra?
Charles nói:
- Chúng ta có đến cả tá công ty môi giới quốc tế sẵn sàng thành lập ra một tổ hợp để bao mua các cổ phần bán ra. Họ sẽ bảo đảm việc bán ra với cái giá mà chúng ta cùng thảo luận. Trong một vụ lớn như vụ nầy sẽ có nhiều tổ chức cũng như cá nhân tham gia.
- Ý chú là các ngân hàng và các công ty bảo hiểm?
Charles gật đầu.
- Chính xác.
- Và họ sẽ cho người của họ vào hội đồng quản trị?
- Đó là chuyện thường…
Elizabeth nói:
- Như thế họ sẽ điều hành Roffe và các con.
- Chúng ta vẫn ở lại hội đồng quản trị. - Ivo nhanh nhẩu chen ngang.
Elizabeth quay sang Charles.
- Chú nói rằng các tập đoàn môi giới sẵn sàng đứng ra lo liệu?
Charles gật đầu.
- Đúng.
- Vậy tại sao họ vẫn chưa làm gì cả?
Ông bối rối nhìn nàng.
- Chú không hiểu.
- Nếu tất cả mọi người đều đồng ý rằng điều tốt nhất dành cho tập đoàn là đưa nó ra khỏi phạm vi gia đình và đưa vào tay người ngoài thì tại sao không làm nó từ lúc trước?
Một sự im lặng khó hiểu bao trùm lên căn phòng.
Rồi Ivo nói:
- Việc đó phải được sự đồng ý của tất cả, Cara. Tất cả mọi người trong hội đồng quản trị phải tán thành.
- Ai không tán thành? - Elizabeth hỏi.
Lần nầy thì sự im lặng kéo dài hơn.
Cuối cùng Rhys lên tiếng.
- Sam.
Và Elizabeth chợt nhận ra điều làm cho nàng thấy khó chịu kể từ lúc bước vào căn phòng nầy. Tất cả đều bày tỏ những lời chia buồn, sự bàng hoàng sự tiếc thương về cái chết của bố nàng, nhưng cùng lúc đó lại có một bầu không khí kích động trong phòng, một cảm giác của… và lạ lùng thay, cái từ hiện ra trong đầu nàng là chiến thắng. Họ đã lo mọi thứ giấy tờ cho nàng, tất cả đã sẵn sàng. Em chỉ việc ký vào là xong. Nhưng nếu những gì họ muốn làm là đúng, thì tại sao bố nàng lại phản đối? Nàng hỏi lớn câu hỏi nầy.
- Sam có cách nghĩ riêng của mình, - Walther giải thích. - Có thể là bố cháu rất ương ngạnh.
Như cụ Samuel vậy, Elizabeth nghĩ. Đừng bao giờ để cho một con cáo thân thiện vào trong chuồng gà. Một ngày kia nó sẽ tỏ ra thèm khát. Và Sam đã không muốn bán. Chắc chắn là ông phải có một lý do đúng.
Ivo lại nói:
- Tin chú đi Cara, tốt nhất là cứ để các chú lo vụ nầy. Cháu không hiểu những thứ nầy đâu.
Elizabeth nói khẽ.
- Cháu cũng muốn đấy.
- Tại sao cháu cứ phải hành hạ bản thân bằng những thứ nầy nhỉ? - Walther phản đối. - Khi cổ phần của cháu được bán ra, cháu sẽ có một số tiền khổng lồ, có thể tiêu cả đời không hết. Và cháu có thể đi đến bất kỳ nơi đâu cháu thích để hưởng thụ số tiền đó.
Những gì Walther nói rất có lý. Tại sao nàng phải dính vào? Tất cả những gì nàng cần làm là ký vào xấp giấy trước mặt, và rời khỏi.
Charles nôn nóng nói:
- Elizabeth, chúng ta đang lãng phí thời gian. Cháu không còn cách chọn lựa nào khác đâu.
Ngay vào lúc đó Elizabeth biết rằng mình đã chọn lựa. Cũng như bố nàng đã chọn lựa. Nàng có thể bỏ đi và để mặc họ làm bất cứ điều gì họ muốn, hoặc nàng có thể ở lại và tìm hiểu tại sao tất cả đều thiết tha với việc bán cổ phần, tại sao họ lại gây áp lực với nàng. Và nàng có thể cảm nhận được áp lực. Nó rất mạnh, và hầu như là sức ép về vật chất. Tất cả mọi người trong phòng đang trông chờ vào chữ ký của nàng.
Nàng liếc mắt về phía Rhys, tự hỏi xem anh đang nghĩ gì. Biểu hiện của anh tỏ vẻ không liên quan. Elizabeth lại nhìn Kate Erling. Bà ta đã làm thư ký cho Sam trong một thời gian dài. Elizabeth ao ước có được một cơ hội để có thể một mình nói chuyện với bà ta. Tất cả bọn họ đều đang nhìn Elizabeth, chờ đợi sự ưng thuận của nàng.
- Cháu sẽ không ký. - Nàng nói - Vào lúc nầy.
Một khoảnh khắc im lặng sững sờ. Rồi Walther lên tiếng:
- Chú không hiểu, Elizabeth. - Mặt ông tái mét. - Dĩ nhiên là cháu phải ký. Mọi việc đã được sắp đặt!
Charles giận dữ nói:
- Walther nói đúng. Cháu phải ký.
Tất cả bọn họ lên tiếng cùng một lúc với thứ ngôn ngữ giận dữ và lộn xộn nhằm vào Elizabeth.
- Tại sao cháu lại không ký? - Ivo hỏi.
Nàng không thể trả lời: Bởi vì bố tôi không ký. Bởi vì các người đang ép tôi. Nàng có cảm giác, bản năng mách bảo rằng có cái gì đó nhầm lẫn ở đây và nàng quyết định tìm hiểu xem đó là cái gì. Vì thế nàng chỉ nói:
- Cháu muốn có thêm chút ít thời gian để suy nghĩ về chuyện nầy.
Những người đàn ông nhìn nhau.
- Bao nhiêu lâu, Cara? - Ivo hỏi.
- Cháu chưa biết. Cháu muốn hiểu rõ hơn những vấn đề liên quan ở đây.
Walther nổi giận.
- Mẹ kiếp, chúng ta không thể…
Rhys kiên quyết ngắt lời ông:
- Tôi nghĩ là Elizabeth nói đúng.
Những người khác quay lại nhìn anh. Rhys nói tiếp:
- Cô ấy nên có cơ hội để làm sáng tỏ các vấn đề mà tập đoàn đang phải đối mặt, rồi mới có thể quyết định.
Tất cả đều đồng ý lời nói của Rhys.
- Tôi tán thành, - Alec nói.
Charles chua chát nói:
- Các vị, chúng ta có đồng ý hay không thì cũng chẳng có gì khác. Elizabeth đang nắm quyền điều hành.
Ivo nhìn Elizabeth.
- Cara… các chú cần một quyết định nhanh chóng.
- Các chú sẽ có nó. - Elizabeth hứa.
Tất cả bọn họ nhìn nàng, mỗi người theo đuổi những ý nghĩ riêng của mình.
Một người trong số họ đang nghĩ "Chúa ơi. Cô ta cũng sẽ phải chết".
Chú thích
(1) Đồng ý (tiếng Pháp).
 
CHƯƠNG 17
Elizabeth cảm thấy sợ hãi.
Nàng vẫn thường đến đây, tổng hành dinh ở Zurich cùng với bố, nhưng luôn như một vị khách. Quyền lực thuộc về bố nàng. Và bây giờ nó đã thuộc về nàng.
Nàng nhìn quanh văn phòng rộng lớn và cảm thấy mình như một kẻ mạo danh. Căn phòng được trang hoàng lộng lẫy bởi tay Ernst Hohl. Một đầu kê cái tủ Roentgen với bức tranh phong cảnh Millet ở phía trên. Trong phòng có lò sưởi, và phía trước nó là một chiếc ghế dài bọc da dê, một chiếc bàn uống nước lớn và bốn chiếc ghế dựa. Trên tường treo nhiều tranh của Renoir, Chagall, Klees và hai bức của Courbet.
Cái bàn làm việc được làm từ nguyên một khối gỗ gụ đen. Bên cạnh đó, trên một cái bàn chân quỳ là một tổng đài liên lạc - một loạt điện thoại nối trực tiếp với các trụ sở tập đoàn trên thế giới. Ngoài ra còn có hai chiếc điện thoại đỏ với bộ xáo trộn âm, một hệ thống thông tin nội bộ phức tạp, một máy điện báo và nhiều thiết bị khác. Chân dung cụ Samuel Roffe được treo trên tường, đằng sau bàn viết.
Một cánh cửa riêng dẫn tới một phòng thay quần áo lớn với vài cái tủ tường bằng gỗ tuyết tùng và một dãy ngăn kéo. Ai đó đã mang hết quần áo của Sam đi và Elizabeth cảm thấy biết ơn. Nàng bước qua một phòng tắm lát gạch vuông có bồn tắm cẩm thạch và vòi hoa sen cố định. Trên giá giữ nhiệt là mấy chiếc khăn sạch của Thổ Nhĩ Kỳ. Tủ thuốc đã trống trơn.
Tất cả các đồ đạc thường dùng của bố nàng đã được lấy đi. Có thể là Kate Erling. Elizabeth tự hỏi vu vơ không biết có phải Kate đã thầm yêu Sam rồi không.
Dãy phòng của các uỷ viên hội đồng quản trị gồm có một phòng tắm hơi lớn, một phòng thể dục đầy đủ thiết bị, một phòng ăn với sức chứa một trăm thực khách. Khi các vị khách nước ngoài được chiêu đãi, một lá cờ nhỏ tiêu biểu cho đất nước họ sẽ được đặt trong một vật trang trí bằng hoa trên bàn.
Ngoài ra Sam còn có một phòng ăn riêng được trang trí nhẹ nhàng với các bức tường được vẽ tranh bích hoạ.
Kate Erling đã giải thích cho Elizabeth:
- Có hai đầu bếp thường trực, một cho ban ngày và một cho ban đêm. Nếu có từ hơn mười hai thực khách cho bữa trưa và bữa tối thì họ cần được báo trước hai tiếng.
Và bây giờ Elizabeth đã ngồi ở bàn làm việc, trước mặt chất đầy giấy tờ, các bản ghi nhớ, thống kê và báo cáo, và nàng không biết phải bắt đầu từ đâu. Nàng nghĩ đến bố nàng đã ngồi đây, tại chiếc ghế nầy, sau chiếc bàn nầy và nàng bỗng dưng tràn ngập cảm giác mất mát không sao chịu nổi. Sam năng lực là thế, tài giỏi là thế. Bây giờ nàng cần ông biết bao?
Elizabeth đã sắp xếp gặp Alec vài phút trước khi ông trở lại London.
- Cứ từ từ - ông khuyên nàng. - Đừng để ai tạo áp lực với cháu cả.
Vậy là ông đã cảm nhận được cảm giác của nàng.
- Alec, chú có nghĩ rằng cháu nên đồng ý với việc bán cổ phần của tập đoàn ra ngoài không?
Ông mỉm cười với nàng và ngượng ngùng trả lời:
- Chú sợ rằng chú sẽ nghĩ như vậy, cháu ạ, vì thế chú mới có vốn riêng để làm ăn, phải không? Các cổ phần của chúng ta cũng không có tác dụng gì với chúng ta trừ khi chúng ta bán chúng đi. Bây giờ thì việc đó tuỳ thuộc ở cháu thôi.
Elizabeth nhớ lại cuộc nói chuyện đó khi nàng ngồi một mình trong văn phòng vĩ đại. Ý định gọi điện cho Alec đang chế ngự nàng. Tất cả những gì nàng phải nói là "Cháu đã đổi ý". Và thoát ra. Nàng không thuộc về chỗ nầy.
Nàng cảm thấy không tài nào thích nghi nổi.
Nàng nhìn vào dãy nút ở hệ thống liên lạc nội bộ trên cái bàn chân quỳ. Đối diện với chúng là một cái nút có đề: RHYS WILLIAMS. Elizabeth đắn đo một lát rồi nhấn vào cái nút đó.
o O o
Rhys ngồi ở phía bên kia cái bàn và quan sát nàng.
Elizabeth biết rõ anh đang nghĩ gì trong đầu, những gì mà tất cả bọn họ đang nghĩ. Rằng nàng không có công việc gì ở đây.
- Gần như là em đã thả một quả bom vào hội nghị sáng nay. - Rhys nói.
- Em rất tiếc nếu như mình đã chọc giận mọi người.
Anh cười to.
- Chọc giận.
- Cũng chưa phải là đúng.
- Em đã đặt mọi người vào tình trạng choáng váng. Mọi việc hầu như đã được coi là xong. Việc bán cổ phần ra ngoài đã sẵn sàng được công khai. - Anh nhìn nàng một lúc. - Điều gì khiến em quyết định không ký hả Liz?
Làm sao nàng có thể giải thích rằng không có cái gì khác ngoài một cảm giác, trực giác? Anh sẽ cười vào mũi nàng. Và vì Sam đã từ chối bán cổ phần của Roffe và các con cho người ngoài. Nàng sẽ phải tìm hiểu lý do vì sao.
Như đọc được tư tưởng của nàng, Rhys nói:
- Ông tổ của em đã sáng lập ra tập đoàn như một công việc kinh doanh gia đình, tránh xa người ngoài. Nhưng hồi đó chỉ là một công ty nhỏ. Mọi thứ đã thay đổi. Chúng ta đang điều hành một trong những tập đoàn dược phẩm lớn nhất thế giới. Ai ngồi vào chiếc ghế của bố em cũng phải đưa ra những quyết định cuối cùng. Đó là một trách nhiệm vô cùng quan trọng.
Nàng nhìn anh và tự hỏi có phải đây là cách Rhys bảo nàng hãy bỏ cuộc.
- Anh sẽ giúp em chứ?
- Em biết là anh sẽ giúp mà.
Nàng cảm thấy lòng nhẹ nhõm hẳn đi và hiểu rằng mình trông mong ở anh biết bao.
- Điều mà chúng ta nên làm, - Rhys nói, - là đi một vòng xem xét nhà máy ở đây. Em có biết về cấu trúc vật chất của tập đoàn chứ?
- Không nhiều lắm.
Điều nầy không đúng. Elizabeth đã tham dự nhiều cuộc họp cùng Sam suốt vài năm qua đủ để nắm bắt được các kiến thức về hoạt động của Roffe và các con. Nhưng nàng muốn được nghe quan điểm của Rhys về nó.
- Chúng ta còn sản xuất nhiều thứ khác ngoài dược phẩm, Liz. Chúng ta chế tạo hoá chất, nước hoa, vitamin, keo xịt tóc và thuốc trừ sâu. Chúng ta cũng chế tạo mỹ phẩm và dụng cụ sinh học điện tử. Chúng ta cũng kinh doanh thực phẩm và ngành nitrate động vật.
Elizabeth biết tất cả những thứ đó nhưng nàng cứ để cho Rhys tiếp tục.
- Chúng ta xuất bản nhiều tạp chí cung cấp cho giới thầy thuốc. Chúng ta làm các loại chất dính, các sản phẩm bảo vệ công trình xây dựng và chất nổ plastic.
Elizabeth có thể cảm thấy anh trở nên bị cuốn hút vào những gì mình đang nói, nàng có thể nghe được một chút gì đó tự hào trong giọng nói của anh và nàng nhớ đến bố một cách kỳ lạ.
- Roffe và các con làm chủ nhiều nhà máy và công ty cổ phần ở hơn một trăm quốc gia. Mỗi nơi trong đó đều phải báo cáo về văn phòng nầy. - Anh dừng lại như để biết chắc rằng nàng đã hiểu vấn đề. - Cụ Samuel bước vào kinh doanh bằng một con ngựa và một cái ống nghiệm. Nó đã lớn mạnh thành sáu mươi nhà máy trên khắp thế giới, mười trung tâm nghiên cứu và một mạng lưới hàng ngàn nhân viên bán hàng.
Họ là những người, theo như Elizabeth biết, thường xuyên đến thăm các bác sĩ và bệnh viện.
- Năm ngoái, mới chỉ riêng nước Mỹ thôi, đã chi hơn mười bốn tỉ vào thuốc men và chúng ta chiếm một phần béo bở ở thị trường nầy.
Thế nhưng Roffe và các con lại đang gặp rắc rối với các ngân hàng. Có cái gì đó nhầm lẫn ở đây.
Rhys dẫn Elizabeth đi một vòng thăm các nhà máy ở khu tổng hành dinh. Thực tế khu vực Zurich có mười hai nhà máy với bảy mươi lăm khu nhà trên một diện tích 24 hecta. Đây là một thế giới thu nhỏ, hoàn toàn tự lực. Hai người đi thăm các nhà máy sản xuất, các phòng nghiên cứu, các phòng thí nghiệm chất độc, các nhà kho. Rhys đưa Elizabeth tới một tầng lầu vững chắc nơi thực hiện những cuốn phim cho công việc nghiên cứu, cho việc quảng cáo rộng rãi trên toàn thế giới và cho các khu sản xuất. Ở đây chúng ta còn dùng nhiều phim, - Rhys nói với Elizabeth, - hơn cả các phim trường lớn ở Hollywood.
Họ đi qua phòng sinh học phân tử và trung tâm chất lỏng nơi có năm mươi thùng thép không gỉ lớn với thước đo mực nước bằng thuỷ tinh treo ở trên trần chứa đầy chất lỏng sẵn sàng rót vào chai. Họ trông thấy những phòng ép thuốc viên, nơi thuốc bột được ép thành viên theo cỡ, in chữ Roffe và các con, đóng gói và dán nhãn, không ai được phép đụng vào. Một số loại chỉ đặc biệt bán theo đơn bác sĩ, còn lại là sản phẩm độc quyền bán ở các cửa hàng.
Có một số toà nhà nhỏ đứng tách biệt ở khu nầy.
Đó là khu dành riêng cho các nhà khoa học: các nhà phân tích hoá học, sinh vật học, hoá học hữu cơ, nghiên cứu ký sinh vật, nghiên cứu bệnh.
- Có hơn ba trăm nhà khoa học làm việc ở đây! - Rhys nói với Elizabeth. - Phần lớn trong số họ là các tiến sĩ khoa học đấy. Em có muốn xem phòng một trăm triệu đô la không?
Elizabeth gật đầu với vẻ tò mò.
Căn phòng đó ở trong một toà nhà cách ly bằng gạch, có một cảnh sát mặc cảnh phục đeo súng đứng gác. Rhys phải trình thẻ an ninh của anh thì mới được phép cùng Elizabeth đi vào một hành lang dài với một cánh cửa thép ở tận cùng. Người cảnh sát dùng hai chìa khoá để mở cửa, và Rhys cùng Elizabeth bước vào trong. Căn phòng không có cửa sổ. Từ sàn nhà cho đến trần là những giá để vô số các loại chai, lọ, bình khác nhau sắp thành hàng dài.
- Tại sao lại gọi đây là phòng một trăm triệu đô-la?
- Bởi vì đó là cái giá để trang bị cho nó. Em có thấy các loại hợp chất trên những cái giá đó chứ?
- Không một chai nào có tên cả, chỉ mang số thôi.
- Đó là những chất không có tác dụng. Chúng bị thất bại.
- Nhưng một trăm triệu…
- Cho mỗi một loại thuốc mới thành công thì có đến hàng nghìn thứ kết thúc trong phòng nầy. Một số loại thuốc đạt hiệu quả tốt trong vòng mấy chục năm, rồi sẽ bị đem bỏ. Mà chỉ một loại thuốc thôi cũng đã mất năm, mười triệu vào việc nghiên cứu trước khi chúng ta phát hiện ra nó không tốt hoặc có ai đó đã đánh bại chúng. Chúng ta không bỏ đi bất cứ loại thuốc thất bại nào bởi vì thỉnh thoảng lại có một người trong số những chuyên gia xuất chúng của chúng ta khám phá ra một thứ khiến cho một số thứ trong căn phòng nầy trở nên có giá trị.
Số tiền chi vào đây thật là đáng nể.
- Đi tiếp nào, - Rhys nói. - Anh sẽ cho em xem phòng - Tổn thất.
Nó ở trong một toà nhà khác, không có người gác, đầy các giá để các loại chai lọ như những căn phòng khác.
- Chúng ta cũng đã mất cả một gia tài ở đây! - Rhys nói, - Nhưng chúng ta đã dự tính được điều đó.
- Em không hiểu.
Rhys bước tới một cái giá và nhấc ra một cái chai. Nó được dãn nhãn "Botulism"(1)
- Em có biết năm ngoái trên toàn nước Mỹ có bao nhiều trường hợp ngộ độc thịt không? Hai mươi lăm. Nhưng chúng ta phải mất hàng triệu đô la để cất giữ loại thuốc nầy. - Anh lấy ngẫu nhiên một chai khác. - Đây là thuốc chữa bệnh dại. Căn phòng nầy toàn là những thứ thuốc chữa bệnh hiếm khi xảy ra như - rắn độc cắn, cây độc. Chúng ta cung cấp miễn phí cho các lực lượng vũ trang và các bệnh viện, như là một dịch vụ công cộng.
- Em thích thế, - Elizabeth nói. Chắc là cụ Samuel cũng thích thế, nàng nghĩ.
Rhys dẫn Elizabeth đến phòng thuốc viên con nhộng, ở đây các chai không được mang đến trên một băng chuyền lớn. Lúc họ đi qua phòng, các chai đều đã được diệt trùng, bỏ đầy thuốc, dán nhãn, đậy bông lên và đóng kín. Tất cả đều tự động.
Ngoài ra còn một nhà máy thổi thuỷ tinh, một trung tâm kiến trúc lo việc xây cất các toà nhà mới, một ban địa ốc tìm mua đất xây nhà. Trong một toà nhà khác là một số người chuyên dịch các tập hướng dẫn thành năm mươi thứ tiếng khác nhau và in thành sách.
Một số nơi đã làm Elizabeth nhớ đến quyển Năm 1984 của George Orwell. Những căn phòng tiệt trùng chìm trong thứ ánh sáng cực tím kỳ lạ. Những căn phòng kế bên được sơn bằng các màu khác nhau: trắng, xanh lá cây hoặc xanh da trời - và công nhân phải mặc các đồng phục phù hợp. Mỗi khi họ vào hoặc ra khỏi phòng, họ phải đi qua một buồng tiệt trùng đặc biệt. Những công nhân mặc đồng phục xanh da trời bị nhốt trong đó gần như suốt ngày. Trước khi họ ăn uống, nghỉ ngơi hoặc làm vệ sinh cá nhân, họ phải cởi bỏ quần áo, bước qua khu vực trung tính màu xanh lá cây mặc quần áo khác và khi trở lại thì họ sẽ phải thực hiện đảo ngược quy trình.
- Anh nghĩ em sẽ thấy thú vị ở đây đấy. - Rhys nói.
Họ bước xuống một hành lang màu xám của một toà nhà trong khu nghiên cứu.
Hai người đi đến một cánh cửa có dòng chữ " CẤM VÀO". Rhys đẩy cửa và anh cùng Elizabeth bước vào. Họ đi qua cánh cửa thứ hai và Elizabeth thấy mình ở trong một căn phòng nhờ nhờ sáng có hàng trăm chuồng nhốt thú vật. Căn phòng nóng và ẩm, nàng có cảm giác như lạc vào rừng sâu. Lúc mắt nàng bắt đầu quen dần với thứ ánh sáng trong phòng, Elizabeth nhận thấy trong lồng đó là khỉ, chuột đồng, mèo, chuột bạch. Tất cả các con vật đều có những phần cơ thể phát triển hẳn ra một cách ghê tởm. Một số thì gào thét và lắp bắp, chạy quanh trong chuồng, trong khi những con khác hôn mê và nằm bất động. Tiếng ồn và mùi hôi thối thật không sao chịu nổi. Cảnh tượng như ở dưới địa ngục vậy. Elizabeth đến gần một cái lồng nhất mỗi một con mèo con lông trắng. Bộ não của nó đã được lấy ra ngoài, bỏ vào một bọc nhựa trong có khoảng nửa tá dây xuyên qua.
- Cái gì… cái gì ở đây thế? - Elizabeth hỏi.
Một người đàn ông trẻ, cao, để râu đang ghi chép trước cái lồng giải thích:
- Chúng tôi đang thử nghiệm một loại thuốc an thần. Hy vọng là nó sẽ dùng được!
Elizabeth nói một cách yếu ớt.
- Em nghĩ là em có thể sử dụng nó. - Và nàng ra khỏi căn phòng trước khi muốn nôn mửa.
Rhys đi cạnh nàng trong hành lang.
- Em không sao chứ?
Nàng hít một hơi thở sâu.
- Em… em không sao. Có thật sự cần thiết phải làm tất cả những thứ đó không?
Rhys nhìn nàng và trả lời.
- Những thí nghiệm đó đã cứu mạng rất nhiều người. Hơn một phần ba nhân loại ra đời sau năm 1950 đã sống sót nhờ vào các thứ thuốc hiện đại. Em hãy nghĩ về điều đó.
Và Elizabeth đã nghĩ về điều đó.
o O o
Phải mất đến sáu ngày để đi hết các khu chính yếu và khi kết thúc, Elizabeth đã mệt lả, đầu óc quay cuồng với sự mênh mông rộng lớn của chúng.
Và nàng nhận ra mình mới chỉ xem qua có một nhà máy của tập đoàn. Ngoài ra còn hàng tá nhà máy khác ở rải rác khắp nơi trên thế giới.
Các sự kiện và hình ảnh khiến nàng sửng sốt.
- Phải mất từ năm đến mười năm mới đưa được một loại dược phẩm mới ra thị trường và cứ hai nghìn hợp chất đem thí nghiệm thì mới thu được ba sản phẩm…
Và "Roffe và các con có ba trăm người làm việc mới chỉ trong khâu kiểm tra chất lượng sản phẩm.
Và "khắp thế giới, Roffe và các con quản lý hơn nửa triệu nhân viên.
Và "Lãi gộp luỹ tiến năm ngoái là…
Elizabeth lắng nghe, cố gắng sắp xếp những hình ảnh khó tin mà Rhys đang tống vào đầu nàng. Nàng đã biết rằng công ty rất lớn, nhưng "lớn" cũng chỉ là một từ ngữ đơn thuần mà thôi. Dịch nó thành những con số về người và tiền của mới thật là nhức óc.
Đêm hôm đó Elizabeth nằm trên gi.ường, nhớ lại tất cả những điều mình đã nhìn và nghe thấy.
IVO: Tin chú đi, Cara, tốt nhất lá cứ để các chú lo vụ nầy. Cháu không hiểu những thứ nầy đâu.
ALEC: Catherine! Chú nghĩ cháu nên bán, lúc bấy giờ chú mới có vốn riêng để làm ăn.
WALTHER: Tại sao cháu cứ phải hành hạ bản thân bằng những thứ nầy nhỉ? Cháu có thể đi đến bất kỳ nơi đâu cháu thích để hưởng thụ số tiền đó.
Tất cả bọn họ đều đúng, Elizabeth nghĩ. Mình sẽ bỏ đi và cho họ làm những gì họ thích với tập đoàn. Mình không thuộc về vị trí nầy.
Vào cái giây phút quyết định, nàng thấy nhẹ nhõm cả người. Và lập tức chìm vào giấc ngủ.
o O o
Ngày hôm sau, thứ sáu, là ngày đầu tiên của kỳ nghỉ cuối tuần. Khi Elizabeth đến văn phòng, nàng cho mởi Rhys đến để thông báo quyết định.
- Ông Williamss đã bay đi Nairobi vào tối hôm qua. - Kate Erling cho nàng biết. - Ông ấy nói với cô là ông ấy sẽ trở về vào ngày thứ ba. Có ai khác giúp cô được không?
Elizabeth lưỡng lự.
- Làm ơn gọi cho Sir Alec.
- Vâng, thưa cô Roffe. - Kate nói thêm với một chút do dự trong giọng. - Sở cảnh sát đã gửi cho cô một gói đồ vào sáng nay. Đó là các đồ đạc cá nhân của bố cô mà ông đã mang theo đến Chamonix.
Lời nhắc nhở đến Sam mang lại cho nàng một cảm giác mất mát, đau buồn sâu sắc.
- Phía cảnh sát xin lỗi vì họ không thể trao nó cho biệt phái viên của cô. Nó đã lên đường đến đây.
Elizabeth cau mày.
- Biệt phái viên của tôi?
- Người mà cô cử đến Chamonix để lấy những thứ đó.
- Tôi chẳng cử ai đến Chamonix cả. - Hiển nhiên đây là một sự lộn xộn quan liêu. - Thế gói đồ đâu?
- Tôi đã để vào tủ của cô.
Đó là chiếc vali Vuitton đựng quần áo của Sam, cùng với chiếc cặp da có khoá. Có thể là báo cáo của tập đoàn. Nàng sẽ để Rhys giải quyết chúng. Sau đó nàng nhớ rằng anh đã đi khỏi. Vậy thì, nàng quyết định, nàng cũng sẽ đi nghỉ cuối tuần. Nàng nhìn cái cặp và nghĩ ngợi. Có thể cũng là đồ đạc cá nhân của Sam. Tốt nhất là nên xem qua nó trước.
Kate Erling báo cáo với nàng qua điện thoại:
- Xin lỗi cô Roffe. Sir Alec không có ở văn phòng.
- Cô hãy nhắn ông ấy gọi lại cho tôi. Tôi ở tại biệt thự ở Sardinia. Cô cũng nhắn cho các ông Ivo, Gassner và Martell như thế.
Nàng sẽ nói với họ rằng nàng sẽ đi khỏi, họ có thể bán cổ phần, làm những gì họ thích với tập đoàn.
Nàng đang hy vọng tới một kỳ nghỉ cuối tuần dài. Toà biệt thự quả là một nơi ấn dật, một cái kén êm ái nơi nàng có thể một mình suy nghĩ về bản thân và tương lai. Các sự kiện đã dồn dập xảy đến với nàng một cách đột ngột khiến nàng không có một cơ hội nào để sắp xếp chúng theo trình tự. Tai nạn của Sam - đầu Elizabeth vấp phải từ "chết", việc thừa kế số cổ phần nắm quyền điều hành Roffe và các con; áp lực cấp bách từ phía gia đình đòi bán cổ phần ra ngoài.
Và bản thân tập đoàn. Nhịp tim kinh khủng của một con vật khổng lồ có quyền lực bao trùm thế giới. Quá nhiều để đương đầu cùng một lúc.
Khi nàng bay đi Sardinia chiều muộn hôm đó, Elizabeth đã mang chiếc cặp da theo.
Chú thích
(1) chứng ngộ độc thịt.
 
CHƯƠNG 18
Nàng đón một chiếc tắc xi từ phi trường về nhà.
Không có một ai ở tại biệt thự vì nó đã đóng cửa và Elizabeth cũng không cho ai biết là nàng sẽ về đây. Nàng tự mình mở cửa và chậm rãi đi qua những căn phòng rộng lớn thân quen, như thể nàng chưa hề rời xa. Nàng không nhận thấy rằng mình đã nhớ chỗ nầy xiết bao. Dường như những kỷ niệm đẹp hiếm hoi của thời thơ ấu của nàng đều diễn ra ở đây.
Một cảm giác kỳ lạ xâm chiếm nàng khi một mình ở trong mê cung nầy, nơi mà luôn có đến nửa tá gia nhân lăng xăng khắp chỗ, nấu nướng, lau chùi, dọn dẹp. Bây giờ chỉ có một mình nàng. Và những tiếng vọng của quá khứ.
Nàng để chiếc cặp da của Sam ở phòng trước dưới nhà và mang vali của nàng lên lầu. Theo thói quen từ nhiều năm nay, nàng đi thẳng đến phòng ngủ của mình ở giữa hành lang, rồi dừng lại. Phòng của bố nàng ở tít phía cuối kia. Elizabeth quay người bước về phía đó. Nàng từ từ mở cửa bởi vì trong khi tâm trí vẫn ý thức rõ ràng về thực tế thì bản năng của nàng lại trông chờ được nhìn thấy Sam ở đây, được nghe giọng nói của ông.
Căn phòng trống không, dĩ nhiên, và không có gì thay đổi kể từ lần cuối Elizabeth nhìn thấy nó. Trong phòng là một chiếc gi.ường đôi lớn, một tủ commốt đẹp, một bàn trang điểm, hai chiếc ghế nệm êm ái và một chiếc tràng kỷ kê phía trước lò sưởi. Elizabeth đặt vali xuống và đi về phía cửa sổ. Nhưng cánh cửa chớp bằng sắt đã đóng chặt, ngăn lại ánh nắng cuối tháng Chín và các bức màn che cũng đã được khép. Nàng mở rộng tất cả để cho bầu không khí trong lành của núi non ùa vào, êm ái, mát mẻ, báo hiệu mùa thu đang tới. Nàng sẽ ngủ tại căn phòng nầy.
Elizabeth xuống nhà và đi vào thư viện. Nàng ngồi xuống một chiếc ghế da êm ái, miết hai bàn tay vào hai thành ghế. Đây là chiếc ghế mà Rhys vẫn ngồi khi anh gặp gỡ bố nàng.
Nàng nghĩ đến Rhys và thầm mong anh có mặt ở đây cũng nàng. Nàng nhớ lại cái đêm Rhys đã đưa nàng về trường sau bữa tối ở Paris, và nàng đã trở về phòng và viết "Bà Rhys Williamss" ra sao. Trong cơn thôi thúc, Elizabeth đi lại phía bàn và chậm chạp viết "Bà Rhys Williamss". Nàng nhìn dòng chữ và mỉm cười, "Mình tự hỏi", - nàng nói to chế nhạo mình, "còn có bao nhiêu kẻ khờ khạo khác đang làm giống như mình".
Nàng không nghĩ đến Rhys nữa nhưng anh vân ở đâu đó tận cùng trong đầu nàng, làm cho nàng có một cảm giác thích thú êm dịu. Nàng đứng dậy và đi lang thang vòng quanh căn nhà. Nàng thăm dò cái bếp kiểu cổ rộng lớn với cái lò sấy bằng gỗ và hai cái lò hấp.
Nàng bước đến mở tủ lạnh. Nó trống trơn. Nhẽ ra nàng phải biết trước chuyện đó, với ngôi nhà đóng cửa như thế nầy. Nàng bỗng cảm thấy đói vì thấy chiếc tủ lạnh trống rỗng. Và nàng kiểm tra tủ búp phê. Có hai hộp cá ngừ nhỏ, một bình Nescafé còn một nửa, một gói bánh quy chưa mở. Nếu nàng định ở đây cho qua một kỳ nghỉ cuối tuần dài, Elizabeth quyết định, tốt nhất là nàng nên lập sẵn kế hoạch. Thay vì lái xe vào thị trấn mỗi bữa ăn nàng sẽ đi mua một số đồ ăn đủ dùng trong vài ngày ở một chợ nhỏ tại Cala di Volpe. Trong nhà có một chiếc xe Jeep luôn đậu sẵn trong gara và nàng tự hỏi không hiểu nó còn đó không. Nàng đi vòng ra phía sau bếp, qua một cánh cửa dẫn tới gara và chiếc Jeep vẫn còn đó. Elizabeth đi xuống bếp, trên một tấm bảng đằng sau tủ búp phê có treo một chùm chìa khoá lớn. Nàng tìm thấy chiếc chìa khoá xe và quay trở lại gara. Không hiểu chiếc xe còn xăng không? Nàng quay chìa khoá và nhấn nút đề máy. Máy nổ gần như ngay lập tức. Như vậy vấn đề đã được giải quyết. Sáng mai nàng sẽ lái xe vào thị trấn và mua những thứ cần thiết.
Nàng quay vào nhà. Khi bước qua hành lang lát gạch gương, nàng có thể nghe rõ tiếng vọng bước chân mình, chúng thật trống rỗng, đơn độc. Nàng mong rằng Alec sẽ gọi đến và khi nàng đang còn nghĩ ngợi thì tiếng chuông điện thoại chợt vang lên khiến nàng giật thót mình. Nàng đi về phía nó và cầm ơng nghe lên.
- Alô.
- Elizabeth. Chú Alec đây.
Elizabeth cười to.
- Có chuyện gì vui vẻ vậy?
- Cháu có nói chú cũng không tin đâu. Chú đang ở đâu vậy?
- Ở Gloucester.
Và Elizabeth bất ngờ cảm thấy thôi thúc được gặp ông lập tức, nói cho ông biết quyết định của nàng về chuyện tập đoàn. Nhưng nói qua điện thoại thì không được.
- Chú có thể làm giúp cháu một chuyện không? Cháu muốn bàn vài việc với chú.
Alec thoáng do dự một lát rồi nói:
- Được.
Không một lời về việc huỷ bỏ các cuộc hẹn, và chuyện đó có thể sẽ dẫn đến rắc rối ra sao. Chỉ là "Được".
Đó là Alec.
Elizabeth buộc mình phải nói:
- Và đưa Vivian theo.
- Chú e rằng cô ấy không thể đi được. Cô ấy… nên ở lại London thì hơn. Chú sẽ đến vào sáng mai. Được không?
- Tuyệt. Cho cháu biết thời gian cụ thể, và cháu sẽ ra sân bay đón chú.
- Cứ để chú đón taxi thì tiện hơn.
- Cũng được. Cảm ơn chú Alec rất nhiều.
Khi Elizabeth đặt ống nghe xuống, nàng cảm thấy dễ chịu hơn nhiều.
Nàng biết mình đã có một quyết định đúng đắn.
Nàng rơi vào tình trạng nầy chỉ bởi vì Sam đã chết trước khi ông kịp có thời gian chỉ định người kế vị mình.
Elizabeth thắc mắc không biết vị Chủ tịch mới của Roffe và các con sẽ là ai. Hội đồng quản trị có thể quyết định chuyện đó vì bản thân họ. Nàng nghĩ đến chuyện đó theo quan điểm của Sam và cái tên lập tức xuất hiện trong đầu nàng là Rhys Williamss. Những người khác đều có khả năng trong các lãnh vực của riêng họ nhưng Rhys là người duy nhất có được kiến thức hoàn hảo về việc điều hành toàn bộ hoạt động của tập đoàn trên khắp toàn cầu. Anh tài giỏi và làm việc có hiệu quả. Vấn đề là, dĩ nhiên, không phải ở chỗ Rhys thiếu tư cách làm chủ tịch. Chỉ vì anh không phải họ Roffe, hoặc kết hôn với người trong dòng họ Roffe, thậm chí anh còn không thể ngồi ở ghế uỷ viên hội đồng quản trị.
Elizabeth đi ra phòng trước và trông thấy chiếc cặp da của bố nàng. Nàng do dự. Chẳng còn lý do nào để nàng phải xem nó nữa. Nàng có thể trao nó cho Alec khi ông đến đây vào sáng mai. Nhưng, nhỡ còn cái gì riêng tư trong đó… Nàng mang chiếc cặp vào thư viện, đặt lên bàn lấy chìa khoá và mở hai chiếc khoá nhỏ ở hai bên. Giữa chiếc cặp là một phong bì lớn dán.
Elizabeth mở phong bì và lôi ra một tập giấy đánh máy nằm rời trong tấm bìa dầy, bên ngoài có ghi:
"ÔNG SAM ROFFE
MẬT
KHÔNG CÓ BẢN SAO"
Đây rõ ràng là báo cáo về một vấn đề nào đó, nhưng không đề tên ai trên tờ bìa nên Elizabeth không biết ai đã soạn thảo nó. Nàng bắt đầu xem lướt qua bản báo cáo, chậm dần rồi ngừng hẳn. Nàng không thể tin vào những điều mình đang đọc. Nàng mang tập giấy ra một chiếc ghế bành, bỏ giầy ra, co chân lên ghế và lật lại từ trang thứ nhất.
Lần nầy nàng đọc từng chữ, lòng tràn ngập kinh hoàng.
o O o
Đó là một tập tài liệu kỳ lạ, một bản báo cáo mật về việc điều tra hàng loạt các sự kiện xảy ra trong mấy năm gần đây.
Ở Chili, một nhà máy hoá chất thuộc Roffe và các con đã phát nổ, tung ra hàng tấn chất độc hại bao phủ một diện tích là hai mươi sáu km vuông. Mười hai người đã chết và hàng trăm người khác phải vào bệnh viện. Tất cả các loại gia súc gia cầm đều bị chết, câv cối bị nhiễm độc. Toàn bộ cư dân trong vùng phải sơ tán. Các vụ kiện cáo chống lại Roffe và các con đã làm tiêu tốn hàng trăm triệu đô la. Nhưng điều gây choáng váng ở đây là vụ nổ đó được cố tình gây ra. Bản báo cáo viết: "Cuộc điều tra của chính phủ Chilê về tai nạn xảy ra rất qua quýt. Quan điểm chính thức là: Tập đoàn thì giàu có, dân chúng thì nghèo khổ, cứ để cho tập đoàn phải đền. Trong đầu ban lãnh đạo điều tra của chúng ta không thấy một nghi vấn nào khác ngoài việc đây đúng là một hành động phá hoại, được thực hiện bởi một hay nhiều người chưa biết rõ, sử dụng chất nổ plastic. Bởi vì đã trái ngược với quan điểm chính thức ở đây nên không thể nào chứng minh được chuyện đó".
Elizabeth vẫn còn nhớ rõ tai nạn nầy. Nhiều tờ báo và tạp chí đã đăng đầy các câu chuyện khủng khiếp cùng với ảnh của các nạn nhân, và báo giới quốc tế đã tấn công Roffe và các con, cáo buộc tập đoàn về tội không quan tâm và bỏ mặc nỗi đau đớn của con người. Chuyện đó đã làm tổn hại nghiêm trọng đến hình ảnh của tập đoàn.
Đoạn tiếp của bản báo cáo nói về nhưng dự án nghiên cứu lớn mà các nhà khoa học của Roffe và các con đã theo từ nhiều năm nay. Có bốn dự án được nêu ra, mỗi cái đều có một giá trị tiềm năng vô giá.
Kết hợp lại, phải mất đến hơn năm mươi triệu để phát triển chúng. Trong từng trường hợp nầy luôn có một công ty dược phẩm cạnh tranh với tập đoàn nhận được bằng sáng chế cho một loại sản phẩm mới, trước Roffe và các con với một công thức giống hệt. Bản báo cáo viết tiếp: "Một tai nạn đến một lần thì có thể coi là tình cờ. Trong một lĩnh vực có vô số công ty cùng nghiên cứu, việc vài công ty cùng nghiên cứu rnột loại sản phẩm là vẫn thường xảy ra. Nhưng bốn sự việc như vậy xảy ra chỉ trong vòng có vài tháng buộc chúng tôi phải kết luận rằng có ai đó ở trong Roffe và các con đã đem cho hoặc bán các công trình nghiên cứu cho các đối thủ cạnh tranh. Bởi vì tính chất bí mật của các cuộc thí nghiệm, rằng chúng được tiến hành trong các phòng thí nghiệm cách ly và được bảo vệ chặt chẽ, các cuộc điều tra của chúng tôi cho thấy rằng có một người, hoặc một vài người đứng sau vụ nầy được phép ra vào các khu được bảo vệ nghiêm ngặt nhất. Vì vậy chúng tôi khẳng định đó phải là người ở cấp bậc điều hành tối cao của Roffe và các con.
Và còn nhiều nữa.
Một mê độc dược lớn bị dán nhầm nhãn và bị gửi đi. Trước khi kịp thu hồi chúng thì đã có vài vụ chết người xảy ra và tập đoàn lại phải chịu thêm nhiều tai tiếng. Không một ai biết số nhãn in sai từ đâu đến.
Một chất độc chết người đã biến mất khỏi phòng thí nghiệm được canh gác cẩn mật. Chỉ trong vòng một giờ một kẻ nặc danh đã tiết lộ chuyện nầy cho báo giới và khởi đầu một cuộc săn đuổi rùng rợn.
Bóng chiều đã dần chuyển sang tối và không khí ban đêm trở nên lạnh lẽo. Elizabeth vẫn hoàn toàn bị thu hút vào tập tài liệu trong tay. Khi phòng làm việc đã tối đen, nàng mới đứng dậy bật đèn rồi tiếp tục đọc kinh hoàng nối tiếp kinh hoàng.
Giọng văn khô khan, cụt lủn trong bản báo cáo không thể nào giấu đi sự bi thảm. Có một việc đã trở nên rõ ràng. Ai đó đang cố làm hại hoặc tiêu diệt Roffe và các con một cách có phương pháp.
"Một người ở cấp quản lý tối cao của tập đoàn". Trên trang cuối là dòng ghi chú bên lề với nét chữ viết tay rõ ràng của bố nàng. "Thêm áp lực bán cổ phần ra ngoài? Đặt bẫy tên khốn".
Bây giờ nàng mới nhớ Sam đã lo lắng thế nào, và ông bỗng nhiên trở nên kín đáo. Ông không biết tin vào ai.
Elizabeth nhìn lại trang đầu của bản báo cáo lần nữa. - KHÔNG CÓ BẢN SAO.
Elizabeth chắc rằng bản báo cáo đã được một hãng điều tra bên ngoài lập ra. Như vậy thì có thể chưa ai biết đến nó ngoại trừ Sam. Và bây giờ là nàng.
Tên tội phạm kia không biết rằng mình đang bị nghi ngờ. Sam có biết hắn là ai không? Elizabeth không biết được chuyện đó. Tất cả những gì nàng biết là có một kẻ phản bội.
Một người ở cấp quản lý tối cao của tập đoàn.
Không một ai khác có cơ hội và khả năng gây ra nhiều sự phá hoại ở các cấp độ khác nhau như thế.
Đó có phải là lý do mà Sam từ chối bán cổ phần ra ngoài? Có phải ông đang cố tìm ra kẻ phản bội trước tiên? Một khi cổ phần được bán ra, việc điều tra sẽ khó tiến hành một cách bí mật và mỗi một động tĩnh lại phải báo cáo cho một nhóm người lạ.
Elizabeth nghĩ đến cuộc họp hội đồng quản trị và việc họ đã thúc ép nàng ra sao. Tất cả bọn họ.
Nàng bỗng nhiên cảm thấy cô đơn trong căn nhà.
Tiếng chuông điện thoại reo vang làm nàng nhảy dựng lên.
- A lô?
- Liz à? Anh là Rhys đây. Anh vừa mới nhận được tin nhắn của em.
Nàng cảm thấy vui vì được nghe giọng nói của anh, nhưng nàng bỗng nhớ ra lý do nàng đã nhắn anh. Để cho anh biết rằng nàng sắp ký vào hồ sơ, để cho cổ phần của tập đoàn được bán ra ngoài. Trong có vài giờ ngắn ngủi mọi việc đã hoàn toàn thay đổi.
Elizabeth liếc ra phòng ngoài, về phía chân dung cụ Samael. Cụ đã sáng lập ra tập đoàn và đã chiến đấu vì nó. Bố của Elizabeth đã vun đắp cho nó, biến nó thành khổng lồ, đã sống vì nó, dâng hiến cả cuộc đời cho nó.
- Rhys, - Elizabeth nói, - Em muốn tổ chức họp hội đồng quản trị vào thứ ba. Hai giờ chiều. Anh vui lòng sắp xếp cho mọi người có mặt đông đủ nhé?
- Hai giờ chiều ngày thứ ba! Rhys tán thành, - Còn gì nữa không em?
Nàng lưỡng lự.
- Không. Chỉ có thế. Cám ơn anh.
Elizabeth từ từ đặt ống nghe xuống. Nàng sắp chiến đấu với họ.
o O o
Nàng đang ở trên núi cao cùng bố, trèo bên cạnh ông.
- Đừng nhìn xuống. Sam luôn miệng nhắc nhở nhưng Elizabeth không nghe và ở bên dưới không có gì khác ngoài muôn trượng không gian trống rỗng sâu thẳm.
Tiếng sấm ầm vang và một tia chớp giáng thẳng xuống họ. Nó đánh trúng sợi dây của Sam, đốt nó thành tro, và Sam bắt đầu rơi vào khoảng không. Elizabeth nhìn thân hình của bố quay cuồng và nàng bắt đầu gào thét, nhưng tiếng gào thét của nàng đã bị tiếng sấm át đi.
Elizabeth bất chợt thức giấc, chiếc áo ngủ ướt đẫm mồ hôi, tim đập thình thịch. Có tiếng sấm rền và nàng nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy trời đang mưa xối xả. Gió tạt những hạt mưa vào phòng ngủ của nàng qua những khung cửa sổ kiểu Pháp. Elizabeth nhanh nhẹn ra khỏi gi.ường chạy ra đóng chúng lại. Nàng nhìn ra những đám mây cuồn cuộn kín đặc cả bầu trời và những tia chớp rạch ngang đường chân trời nhưng không hề thấy chúng.
Nàng đang nghĩ về giấc mơ của mình.
Sáng hôm sau cơn bão đã đi qua hòn đảo, chỉ để lại một cơn mưa phùn nhẹ. Elizabeth hy vọng rằng thời tiết sẽ không làm trì hoãn chuyến đi của Alec.
Sau khi đọc xong bản báo cáo nàng thật sự cần một người nào đó để trò chuyện. Trong lúc chờ đợi nàng quyết định sẽ tốt hơn nếu cất nó vào một chỗ an toàn.
Trong căn phòng áp mái có một tủ két. Nàng sẽ để nó vào đấy. Elizabeth đi tắm, mặc một cái quần cũ và một chiếc áo len rồi đi vào thư viện để lấy bản báo cáo.
Nó đã biến mất.
 
CHƯƠNG 19
Trong căn phòng như thể vừa bị một trận bão quét qua. Gió đã giật tung các cánh cửa sổ kiểu Pháp, và mưa gió thoả sức hoành hành, xới tung mọi thứ lên. Một vài trang báo cáo rời nằm trên tấm thảm ướt, nhưng phần còn lại rõ ràng đã bị gió cuốn đi.
Elizabeth tiến đến những khung cửa sổ kiểu Pháp và nhìn ra ngoài. Không nhìn thấy một tờ giấy nào trên cỏ, nhưng gió có thể dễ dàng thổi chúng qua các vách đá. Chắc chắn là như thế.
KHÔNG CÓ BẢN SAO. Nàng phải tìm cho ra tên của người thám tử mà Sam đã thuê. Có thể Kate Erling sẽ biết. Nhưng bây giờ thì Elizabeth cũng không chắc rằng Sam có tin Kate không. Chuyện nầy đã trở thành một trò chơi khủng khiếp, nơi mà không ai có thể tin ai. Nàng sẽ phải hành động thật thận trọng.
Elizabeth bỗng nhớ trong nhà đã hết nhẵn đồ ăn.
Nàng có thể đi Cala di Volpe mua đồ và trở về trước khi Alec đến. Nàng đi xuống hành lang lấy áo mưa và khăn trùm đầu. Còn nữa, khi tạnh mưa nàng sẽ xuống sân tìm kiếm các trang báo cáo. Nàng vào bếp và lấy chiếc chìa khoá xe Jeep từ chùm chìa khoá rồi đi lối cửa sau dẫn ra gara.
Elizabeth khởi động máy và cẩn thận lùi chiếc xe Jeep ra khỏi gara. Nàng quay xe, hướng về phía cổng, chân giữ phanh vì mặt đất còn ướt. Ra khỏi cống nàng rẽ phải, chạy trên con đường núi hẹp dẫn xuống ngôi làng nhỏ Cala di Volpe ở phía dưới. Trên đường giờ nầy hầu như không có xe cộ qua lại. Elizabeth liếc mắt xuống phía trái và thấy biển cả phía bên dưới đã trở nên tối đen và giận dữ, dâng cao sau trận bão đêm hôm qua.
Nàng lái xe chầm chậm vì đoạn đường nầy trở nên khó đi Nó rất hẹp, có hai làn xe, được khoét sâu vào núi dọc theo một vách đá dốc. Bên làn đường phía trong là núi đá vững chắc, còn bên làn phía ngoài là một dốc đứng cao hàng trăm mét xuống tận biển. Elizabeth cố bám vào lằn đường phía trong, chân giữ phanh để giảm bớt đà trượt trên con đường núi dốc.
Chiếc xe đang tiến gần tới một chỗ cua gấp. Theo phản xạ, Elizabeth nhấn mạnh lên chân phanh để chiếc Jeep chạy chậm lại.
Phanh không ăn.
Một lúc lâu sau Elizabeth mới nhận ra điều đó.
Nàng đạp một lần nữa, mạnh hơn, bằng tất cả sức lực của mình, tim đập thình thịch trong lúc chiếc xe Jeep không ngừng gia tăng tốc độ. Vượt qua khúc cua, nó chạy với tốc độ nhanh hơn, lướt xuống con đường núi dốc, đà trượt tăng từng giây. Nàng đạp phanh thêm một lần nữa. Vẫn không có hiệu quả.
Một khúc cua khác đã ở phía trước. Elizabeth quá sợ, không dám rời mắt khỏi con đường để nhìn xuống đồng hồ tốc độ nhưng qua khoé mắt nàng cũng kịp thấy cây kim cứ nhích dần lên mãi và lòng nàng tràn đầy sự khủng khiếp tê tái. Nàng tới khúc cua và chiếc xe trượt qua với tốc độ kinh hồn. Hai bánh sau của nó lướt về phía mép vực rồi lại bám được vào mặt đường và chiếc xe tiếp tục lao tới phía trước trên con đường núi dốc. Giờ đây không có gì có thể cản được nó, barrier, rào cản, chỉ có những khúc cua chết người đang vẫy tay ở phía trước.
Đầu óc Elizabeth cũng phóng nhanh một cách điên cuồng, cố tìm một cách thoát thân. Nàng nghĩ đến chuyện nhảy ra ngoài. Nàng liếc nhanh vào đồng hồ tốc độ.
Chiếc xe đang chạy với tốc độ một trăm mười km/giờ và nó vẫn không ngừng gia tăng, kẹt giữa một bên là vách núi và một bên là khoảng không chết người.
Nàng sắp chết và trong thoáng chốc, Elizabeth biết rằng mình đang bị mưu sát, và bố nàng cũng đã bị mưu sát. Sam đã đọc bản báo cáo và ông đã bị giết.
Như nàng đang bị giết. Và nàng không biết kẻ giết nàng là ai, kẻ nào đã căm ghét họ đến mức làm ra những việc khủng khiếp nầy. Dù sao thì cũng dễ chịu đựng hơn nếu kẻ đó là một người xa lạ. Nhưng đó lại là một người nàng biết, một người biết nàng. Những gương mặt loé lên trong đầu nàng. Alec… Ivo… Walther… Charles… Nhất định là một người trong bọn họ. Một người ở cấp bậc điều hành tối cao của tập đoàn.
Cái chết của nàng sẽ được coi là tai nạn, giống như Sam. Lúc nầy Elizabeth đã khóc, khóc một cách lặng lẽ, nước mắt hoà vào với bức màn mưa, nhưng nàng không nhận ra điều đó. Chiếc xe Jeep bắt đầu nhẩy lên không kìm h.ãm được trên mặt đường ám ướt và Elizabeth thì cố vật lộn để giữ cho các bánh xe bám vào mặt đường. Nàng biết đây chỉ là vấn đề tích tắc trước khi nàng lao vào vách đá, đi vào cõi hư vô. Toàn thân nàng trở nên cứng nhắc, đôi tay tê liệt không còn nắm chặt được tay lái. Giờ đây không còn gì trong vũ trụ ngoại trừ nàng, đang lao nhanh trên con đường núi với cơn gió gào thét lôi kéo, nói với nàng. Đến đây với ta, giật mạnh cái xe, cố đẩy nó đến bên bờ vực. Chiếc xe lại bắt đầu lồng lên và Elizabeth cố giữ cho nó chạy thẳng, nhớ lại những gì mình đã học. Luôn giữ xe chạy thẳng khi xe bị trượt. Chiếc xe chạy thẳng trở lại và tiếp tục xuống dốc: Elizabeth liếc nhanh xuống đồng hồ tốc độ, một trăm ba mươi km/giờ. Nàng đang phóng xuống một khúc cua hình chữ chi và nàng biết mình sắp chết.
Trong đầu nàng có một cái gì đó đã đóng băng lại và dường như có một tấm màn mỏng chắn giữa nàng và thực tại. Nàng nghe thấy giọng của bố "Con làm gì một mình ở đây trong bóng tối vậy? " và ông bế nàng lên, mang nàng về gi.ường và nàng đang ở trên sân khấu quay mãi quay mãi quay mãi không tài nào dừng lại, và bà Netturova quát lên với nàng (hay đó là cơn gió) và Rhys đứng đó, nói "Liệu một cô gái có bao nhiêu lần sinh nhật 21 tuổi? ". Và Elizabeth nghĩ, mình sẽ không bao giờ được gặp lại Rhys, nàng gào to tên anh và tấm màn biến mất, nhưng cơn ác mộng thì vẫn còn đó. Khúc cua đã lờ mờ ở gần phía trước và chiếc xe vẫn cứ lao hết tốc lực về phía đó như một viên đạn. Nàng sẽ bay qua bờ vực. Mong cho mọi việc xảy ra nhanh, nàng thầm cầu nguyện.
Ngay vào lúc đó, ở phía bên phải ngay trước khúc cua chữ chi, Elizabeth thoáng thấy một rãnh nhỏ làm đai phòng lửa được đục vào vách đá dẫn lên núi. Nàng phải quyết định trong giây lát. Nàng không cần biết cái rãnh đó dẫn đi đâu. Tất cả những gì nàng biết là nó đi lên trên, và nó có thể làm giảm dần đà xe, cho nàng một cơ hội. Và nàng quyết định. Tới giây cuối cùng, khi chiếc xe Jeep chạy đến cái rãnh, Elizabeth đánh mạnh tay lái sang bên phải. Hai bánh sau bắt đầu trượt nhưng hai bánh trước ở trên mặt sỏi và đà xe đã bắt đầu giảm lại. Chiếc xe đã hướng lên phía trên và Elizabeth vẫn đang vật lộn với tay lái, cố giữ cho chiếc xe ở trong cái rãnh hẹp. Có một hàng cây nhỏ trồng dọc theo cái rãnh và cành lá của nó quất vào nàng, cào rách mặt nàng, tay nàng. Nàng nhìn về phía trước và kinh hoàng khi thấy biển. Tyrrhene ở phía dưới. Đường rãnh chỉ dẫn sang phía bên kia của vách đá. Ở đó thì cũng chẳng lấy gì làm an toàn cả.
Càng lúc nàng càng đến gần mép vực, và nàng không thể nhảy ra vì chiếc xe chạy quá nhanh. Bờ vực đã ở phía trước, biển cách mấy trăm mét ở phía dưới. Khi chiếc xe Jeep va vào lề nó bật lên điên cuồng và điều cuối cùng Elizabeth nhớ là có một thân cây sừng sững trước mặt nàng và sau đó là một tiếng nổ lớn bao trùm cả vũ trụ.
Sau đó thế giới trở nên yên tĩnh, trắng xoá, phẳng lặng không còn một tiếng động nào.
 
CHƯƠNG 20
Nàng mở mắt và thấy mình đang ở trong gi.ường bệnh bệnh viện và người đầu tiên nàng trông thấy là Alec Nichols.
- Trong nhà không có gì cho chú ăn đâu, - nàng thì thầm và bắt đầu khóc.
Cặp mắt Alec tràn đầy đau thương, ông choàng tay qua người nàng và siết chặt.
- Elizabeth!
Và nàng lẩm bẩm:
- Không sao, Alec. Mọi thứ đều ổn cả.
Đúng là như thế. Từng phần cơ thể nàng đều thâm tím và đau như dần, nhưng nàng vẫn còn sống và không tài nào tin được chuyện đó. Nàng nhớ lại nỗi kinh hoàng khi chiếc xe lao xuống núi và toàn thân nàng lạnh ngắt.
- Cháu ở đây bao lâu rồi? - Giọng nàng yếu và khàn.
- Họ đưa cháu vào đây từ hai hôm trước. Cháu đã bất tỉnh từ lúc đó. Các bác sĩ nói đây quả là một điều kỳ diệu. Theo như tất cả những người chứng kiến vụ tai nạn thì cháu nhất định sẽ chết. Một đội cấp cứu đã tìm thấy cháu và đưa cháu về đây. Cháu bị chấn động và cả người bầm dập nhưng, tạ ơn Chúa, không có cái gì bị gẫy. - ông bối rối nhìn nàng và nói, - Thế cháu làm gì trên cái vành đai phòng lửa đó?
Elizabeth kể cho ông nghe. Nàng có thể thấy rõ nỗi kinh hoàng trên mặt ông như thể ông đã trải qua chuyện khủng khiếp ấy với nàng. Ông luôn miệng nói:
- Ôi Chúa.
Khi Elizabeth kết thúc, mặt mũi Alec tái nhợt đi.
- Thật là một tai nạn ngớ ngẩn, khủng khiếp!
- Không phải là tai nạn đâu, chú Alec ạ.
- Ông nhìn nàng, vẻ bối rối.
- Chú không hiểu.
Làm sao ông hiểu được. Ông đâu có đọc bản báo cáo.
Elizabeth nói:
- Ai đó đã làm hỏng hệ thống phanh.
Ông lắc đầu với vẻ nghi ngờ.
- Tại sao hắn phải làm như thế?
- Bởi vì…
Nàng không thể cho ông biết được. Chưa được. Nàng tin tưởng Alec hơn bất cứ người nào khác, nhưng nàng chưa sẵn sàng để nói ra. Cho đến khi nàng thấy khoẻ hơn, có thời gian để suy nghĩ kỹ.
- Cháu không biết, - nàng lảng đi. - Cháu chỉ biết chắc là có người đã làm chuyện đó.
Nàng nhìn ông và nhận thấy rõ sự thay đổi trên khuôn mặt. Chúng chuyển từ trạng thái hồ nghi qua bối rối rồi tức giận.
- Được chúng ta nhất định phải điều tra cho rõ.
Giọng ông thật quyết liệt.
Ông nhấc điện thoại lên và một lát sau thì nói chuyện với ông Cảnh sát trưởng ở Olbia.
- Tôi là Alec Nichols, - ông nói. - Tôi… vâng, cô ấy đã khoẻ rồi, cám ơn ông… Cám ơn. Tôi sẽ cho cô ấy biết. Tôi muốn hỏi về chiếc xe Jeep của cô ấy. Xin ông vui lòng cho biết hiện nó đang ở đâu? Xin ông hãy giữ nó ở đó. Và tôi cần một thợ máy giỏi. Tôi sẽ đến đó trong vòng nửa tiếng. - ông đặt ống nghe xuống. - Nó ở trong gara của cảnh sát. Chú sẽ đến đấy.
- Cháu sẽ đi với chú!
Ông ngạc nhiên nhìn nàng. - Bác sĩ dặn cháu phải nghỉ ngơi trên gi.ường ít nhất một, hai hôm nữa.
- Cháu không thể…
- Cháu sẽ đi với chú, - nàng bướng bỉnh lặp lại.
Bốn mươi lăm phút sau, Elizabeth lê tấm thân bầm dập của mình đến gara của sở cảnh sát cùng Alec bất chấp sự phản đối của các bác sĩ trong bệnh viện.
Luigi Ferraro, cảnh sát trưởng Olbia, là một người Sardo trung niên, da ngăm đen, bụng phệ và chân vòng kiềng. Bên cạnh ông ta là thám tử Bruno Campagna, cao hơn hẳn xếp mình. Campagna lực lưỡng, khoảng năm mươi tuổi, trong có vẻ đầy năng lực. Ông ta đứng cạnh Elizabeth và Alec, quan sát người thợ máy kiểm tra gầm chiếc xe Jeep đã được nâng lên bằng cần trục thuỷ lực. Cái cản xe phía trước ở bên trái cùng bộ tản nhiệt đã bị vỡ nát và trên đó còn nhiều vết nhựa cây mà nó đã đâm vào. Elizabeth cảm thấy choáng váng khi nhìn thấy chiếc xe và nàng phải dựa vào người Alec. Ông nhìn nàng với vẻ quan tâm.
- Cháu chắc là chịu được chứ?
- Cháu thấy khoẻ rồi, - nàng nói dối. Nàng thấy yếu ớt và mệt mỏi khủng khiếp. Nhưng nàng phải xem xét vì chính mình.
Người thợ máy chùi tay vào bộ quần áo đầy vết dầu mỡ và đi về phía đám người.
- Họ không còn thiết kế như thế nữa, - anh ta nói.
Ơn Chúa, Elizabeth nghĩ.
- Bất kỳ một chiếc xe nào khác thì đã nát nhừ rồi.
- Thế còn hệ thống phanh? - Alec hỏi.
- Phanh? Chúng vẫn còn tốt.
Elizabeth cảm thấy một cảm giác giả tạo nhấn chìm nàng xuống.
- Ý… Ý anh là gì?
- Chúng vẫn hoạt động tốt. Vụ tai nạn nầy không hề làm hỏng chúng. Đó là điều tôi muốn nói khi tôi nói rằng họ không còn thiết kế…
- Không thể được, - Elizabeth ngắt lời. - Hệ thống phanh của cái xe Jeep nầy không hề hoạt động.
- Cô Roffe tin rằng có ai đó đã phá hỏng hệ thống phanh. - Cảnh sát trưởng Ferraro giải thích.
Người thợ máy lắc đầu.
- Không, thưa ông. - Anh ta quay lại chiếc xe Jeep và chỉ vào dưới sàn xe. - Chỉ có hai cách phá hỏng… - Anh ta quay sang Elizabeth.
- Xin lỗi, thưa cô… hệ thống phanh của chiếc Jeep nầy. Hoặc là cô cắt cái ống nầy hoặc là cô nới lỏng con ốc nầy… - anh ta chỉ một miếng sắt trên sàn xe - và để cho dầu phanh chảy hết. Cô có thể thấy cái ống nầy còn nguyên và tôi cũng đã kiểm tra bình chứa dầu. Nó vẫn còn đầy.
Cảnh sát trưởng Ferraro nhẹ nhàng nói với Elizabeth, - Tôi có thể hiểu, trong hoàn cảnh của cô thì có thể…
- Khoan đã, - Alec ngắt lời, quay sang người thợ máy. - Có thể nào cái ống đã bị cắt đi và được thay bằng ống mới hoặc dầu bị rút hết và đổ đầy lại không?
Người thợ máy quả quyết lắc đầu.
- Thưa ông, những cái ống nầy không hề bị ai sờ vào. - Anh ta lấy miếng giẻ ra và cẩn thận lau chùi vết dầu xung quanh con ốc giữ bình dầu phanh. - Ông thấy con ốc nầy chứ? Nếu có ai đó nới lỏng nó ra thì đã phải có dấu vặn trên đó. Tôi bảo đảm rằng ít nhất sáu tháng rồi cũng không có ai đụng tới nó. Hệ thống phanh không hề có hỏng hóc gì nữa. Tôi sẽ cho ông xem.
Anh ta đi về phía tường và kéo công tắc. Có tiếng kêu vù vù và chiếc cần trục bắt đầu hạ chiếc xe xuống sàn. Họ nhìn người thợ máy ngồi vào xe, khởi động máy và lùi chiếc xe lại. Khi nó sắp chạm vào bức tường đằng sau, anh ta cài số một và nhấn ga. Chiếc xe lao thẳng về phía thám tử Campagna. Elizabeth định hét lên nhưng ngay lúc đó nó đứng khựng lại, chỉ còn cách ông thám tử có vài phân. Người thợ máy bỏ qua ánh mắt của ông thám tử nhìn anh ta và hỏi, - Các vị thấy rồi chứ? Hệ thống phanh thật hoàn hảo.
Tất cả bọn họ nhìn Elizabeth, và nàng biết họ đang nghĩ gì. Nhưng điều đó cũng không làm thay đổi được sự kinh hoàng về đoạn đường xuống núi. Nàng có thể cảm giác được chân nàng đạp phanh và không một phản ứng nào xảy ra. Nhưng người thợ máy của sở cảnh sát đã chứng minh rằng nó vẫn hoạt động tốt.
Trừ khi là anh ta có dính vào vụ nầy. Và như thế có nghĩa là cảnh sát trưởng cũng biết. Mình sắp bị hoang tưởng rồi, Elizabeth nghĩ.
Alec nói một cách bất lực:
- Elizabeth…
- Khi cháu lái chiếc xe, hệ thống phanh đã không hoạt động.
Alec nhìn nàng một lát, rồi nói với người thợ máy:
- Cứ giả sử rằng ai đó đã lắp ráp lại để hệ thống phanh không hoạt động được. Còn cách nào khác để làm được điều đó không?
Thám tử Campagna nói.
- Họ có thể làm ướt má phanh.
Elizabeth cảm thấy một cơn kích động chuyển động trong nàng. –
Như thế thì chuyện gì sẽ xảy ra?
Thám tử Campagua trả lời:
- Khi má phanh ép vào mâm, nó sẽ không bám.
Người thợ máy gật đầu.
- Ông ấy nói đúng. Điều duy nhất là… - Anh ta quay sang Elizabeth. - Hệ thống phanh có hoạt động khi cô bắt đầu lái không?
Elizabeth nhớ lại mình đã dùng phanh khi lùi ra khỏi ga ra và thêm một lần nữa khi nàng đi tới khúc cua đầu tiên.
- Có. - Nàng trả lời. - Chúng hoạt động tốt.
- Đó là câu trả lời, - người thợ máy hân hoan nói.
- Phanh của cô đã bị ướt khi trời mưa.
- Khoan đã, - Alec phản đối, - Tại sao ai đó không thể làm ướt má phanh trước khi cô ấy đi?
- Bởi vì, - người thợ máy kiên nhẫn nói, - nếu phanh bị ướt trước khi cô ấy đi, cô ấy sẽ không thể phanh được vào lúc đầu!
Ông cảnh sát trưởng quay sang Elizabeth.
- Mưa có thể rất nguy hiểm, cô Roffe. Nhất là trên những con đường núi hẹp. Chuyện nầy cũng thường xáy ra.
Alec nhìn Elizabeth, không biết phải làm gì tiếp theo. Nàng thấy mình như một kẻ ngớ ngẩn. Xét cho cùng thì đó đã là một tai nạn. Nàng muốn ra khỏi đây. Nàng nhìn ông cảnh sát trưởng.
- Tôi… tôi xin lỗi vì đã làm phiền ông.
- Khách sáo. Đây là một chuyện thú vị. Ý tôi… tôi rất lấy làm tiếc về chuyện xảy ra với cô, nhưng tôi luôn vui lòng được phục vụ cô. Thám tử Campagna đây sẽ đưa cô về nhà.
o O o
Alec nói với nàng:
- Nếu cháu không thấy phiền lời nói của chú, cháu yêu, trông cháu nhợt nhạt quá. Bây giờ chú muốn cháu vào gi.ường nằm nghỉ ít ngày. Chú sẽ mua các thứ thực phẩm qua điện thoại.
- Nếu cháu cứ nằm ở trên gi.ường thế nầy thì ai sẽ nấu cơm?
- Chú, - Alec khẳng định.
Ông nấu cơm chiều hôm đó và mang đến tận gi.ường cho Elizabeth.
- Chú e rằng mình không phải là một đầu bếp giỏi - ông vui vẻ nói khi đặt cái khay xuống trước mặt nàng.
Đó là lời nói sai nhất trong năm, Elizabeth nghĩ.
Alec là một đầu bếp dở khủng khiếp. Tất cả các món ăn nếu không quá lửa thì cũng là chưa chín hoặc mặn chát. Nhưng nàng vẫn cố nuốt, một phần vì đói, một phần vì không muốn làm Alec tự ái. Ông ngồi cạnh nàng, kể những câu chuyện vui nho nhỏ. Không hề có một từ nào về việc nàng đã xử sự như một con ngốc ở đồn cảnh sát. Nàng yêu ông vì chuyện đó.
Hai người ở trọn hai ngày tiếp theo đó trong toà biệt thự, Elizabeth nằm trên gi.ường, Alec thì lăng xăng lo mọi việc, nấu ăn, đọc sách báo cho nàng nghe. Hình thư với Elizabeth trong suốt thời gian đó chuông điện thoại không hề ngừng reo. Ivo và Simonetta ngày nào cũng gọi đến hỏi thăm, còn Hélène và Charles, và cả Walther nữa. Vivian cũng có gọi. Tất cả bọn họ đều đề nghị được đến ở cùng nàng.
- Cháu đã thật sự ổn rồi, - nàng bảo họ. - Mọi người không cần phải đến đây nữa. Vài ngày tới cháu sẽ trở về Zurich.
Rhys Williamss gọi đến. Elizabeth không nhận ra mình đã nhớ anh xiết bao cho đến khi nàng nghe thấy giọng nói của anh.
- Anh nghe nói em đã nhường Hélène, - anh đùa nhưng nàng có thể nghe thấy sự quan tâm trong giọng anh.
- Sai rồi. Em chỉ chạy từ trên núi xuống thôi mà.
Thật không thể tin nổi nàng lại có thể nói đùa về chuyện đó.
Rhys nói:
- Anh rất mừng vì em không làm sao, Liz.
Tiếng nói của anh cũng như lời nói của anh đã sưởi ấm nàng. Nàng tự hỏi có phải anh đang ở cùng người đàn bà khác, và không biết cô ta là ai. Dĩ nhiên đó là một người rất xinh đẹp. Mặc xác cô ta.
- Em có biết mình được đăng trên các hàng tít lớn không? - Rhys hỏi.
- Không.
- "Nữ thừa kế suýt chết trong một tai nạn xe hơi. Chỉ vài tuần sau cái chết của người bố, một con người nổi tiếng…". Em có thể tự viết lấy phần còn lại.
Họ nói chuyện qua điện thoại suốt nửa tiếng đồng hồ và khi Elizabeth gác máy nàng đã cảm thấy khá hơn rất nhiều. Rhys có vẻ thật sự quan tâm đến nàng, lo lắng cho nàng. Nàng thắc mắc không biết có phải anh đã làm cho tất cả đàn bà quen anh có cái cảm giác đó không. Đó là một phần sức quyến rũ của anh.
Nàng nhớ lại họ đã cùng nhau ăn mừng sinh nhật như thế nào. "Bà Rhys Williams".
Alec đi vào phòng ngủ. Ông nói:
- Trông cháu như con mèo Chesire vậy.
- Thật sao?
Rhys vẫn luôn làm cho nàng có cảm giác như vậy.
Có thể, nàng nghĩ, mình nên cho Rhys biết về bản báo cáo mật đó.
Alec đã sắp xếp một chiếc máy bay riêng của tập đoàn chở họ về Zurich.
- Chú không muốn đưa cháu về sớm thế nầy, - ông nói với vẻ hối lỗi, - nhưng có vài vấn đề cấp bách cần quyết định.
Chuyến bay đến Zurich bình an vô sự. Có rất nhiều phóng viên tụ tập tại sân bay. Elizabeth kể ngắn gọn vụ tai nạn của nàng và sau đó Alec đưa nàng an toàn vào chiếc limousine trở về tổng hành dinh của tập đoàn.
o O o
Nàng ở trong phòng họp cùng tất cả các thành lên hội đồng quản trị và cả Rhys cũng có mặt. Buổi họp diễn ra trong suốt ba giờ đồng hồ, bầu không khí sặc mùi xì gà và thuốc lá. Elizabeth vẫn còn bị chấn động sau vụ tai nạn và đầu nàng đau nhức. Không có gì phải lo, cô Roffe. Khi cơn chấn động ngừng hẳn, cô sẽ không còn thấy đau đầu nữa.
Nàng nhìn quanh căn phòng, vào những khuôn mặt căng thẳng, giận dữ.
- Cháu quyết định không bán.
Elizabeth nói với họ. Họ nghĩ rằng nàng thất thường và bướng bỉnh. Nếu như họ biết được rằng nàng đã nhượng bộ đến nơi rồi. Nhưng bây giờ thì chuyện đó không có nữa. Ai đó trong phòng nầy là kẻ thù của nàng. Nếu nàng bỏ cuộc, kẻ đó sẽ chiến thắng.
Tất cả bọn họ đều cố thuyết phục nàng, mỗi người một kiểu.
Alec nói vừa phải:
- Roffe và các con đang cần một chủ tịch có kinh nghiệm, Elizabeth. Đặc biệt là lúc nầy đây. Vì quyền lợi của cháu, và cũng vì mọi người khác, chú mong muốn được thấy cháu rời khỏi đây.
Ivo sử dụng sự quyến rũ của mình.
- Cháu là một cô gái xinh đẹp, Carissima. Cả thế giới nầy là của cháu. Tại sao cháu lại muốn trở thành nô lệ cho cái việc kinh doanh buồn tẻ nầy khi mà cháu có thể ra ngoài, tận hưởng cuộc sống tươi đẹp, đi du lịch…
- Cháu đã đi du lịch rồi, - Elizabeth nói.
Charles sử dụng tính lô gic của người Pháp.
- Cháu bất ngờ nắm giữ số cổ phầan điều hành qua một tai nạn khủng khiếp, nhưng như thế không có nghĩa là cháu phải cố điều hành tập đoàn. Chúng ta đang gặp phải những vấn đề nghiêm trọng. Cháu chỉ làm cho mọi sự nghiêm trọng hơn thôi.
Walther nói thẳng:
- Tập đoàn đã gặp quá đủ rắc rối rồi. Cháu không biết chúng nhiều thế nào đâu. Nếu bây giờ cháu không bán thì sẽ quá muộn đấy.
Elizabeth cảm thấy như đang ở giữa vòng vây. Nàng lắng nghe tất cả, quan sát bọn họ, đánh giá những gì họ đang nói. Ý kiến của mỗi người trong bọn họ đều vì lợi ích của tập đoàn - nhưng lại có một người muốn phá hoại tập đoàn.
Một việc đã sáng tỏ. Tất cả bọn họ đều muốn nang rời khỏi đây, cho phép họ bán cổ phần của họ, đưa người ngoài vào tiếp quản Roffe và các con. Elizabeth biết rằng giây phút mà nàng làm điều đó thì cơ hội tìm ra ai đứng đằng sau cũng kết thúc luôn. Miễn là nàng còn ở đây thì nàng còn có thể tìm ra kẻ phá hoại. Nàng sẽ ở đây đến khi nào nàng cần.
Nàng đã không trải qua ba năm vừa rồi với Sam mà không học được chút kiến thức gì về kinh doanh.
Với sự giúp đỡ của các đồng sự nhiều kinh nghiệm mà ông đã tạo dựng nên, nàng sẽ tiếp tục chính sách của bố nàng. Áp lực từ phía hội đồng quản trị buộc nàng ra đi chỉ làm cho nàng tăng thêm quyết tâm ở lại Nàng quyết định đã đến lúc kết thúc cuộc họp.
- Cháu đã quyết định rồi, - Elizabeth nói. - Cháu không có ý định điều hành tập đoàn một mình. Cháu thấy rằng cháu còn cần phải học hỏi nhiều. Cháu biết cháu có thể dựa vào sự giúp đỡ của tất cả các chú. Chúng ta sẽ giải quyết từng vấn đề một.
Nàng ngồi ở đầu bàn, vẫn còn xanh xao, trông nhỏ bé và yếu ớt.
Ivo vung tay lên một cách vô vọng.
- Không ai thuyết phục được cô ấy sao?
Rhys quay sang Elizabeth và mỉm cười:
- Tôi nghĩ tất cả sẽ phải đồng ý với những gì quý cô đây muốn làm.
- Cám ơn Rhys. - Elizabeth nhìn những người khác - Còn một chuyện nữa. Bởi vì cháu thay chỗ của bố cháu nên cháu nghĩ tốt nhất là phải chính thức hoá nó.
Charles nhìn nàng.
- Ý của cháu… là cháu muốn trở thành chủ tịch?
- Đúng vậy, - Alec lạnh lùng nhắc, - Elizabeth đã là chủ tịch rồi. Cô ấy chỉ đơn thuần cho chúng ta biết nên lịch sự xử sự tình huống nầy mà thôi.
Charles lưỡng lự rồi nói:
- Được. Tôi đồng ý rằng Elizabeth được bổ nhiệm vào chức vụ chủ tịch của Roffe và các con.
- Tôi đồng ý. - Walther nói.
Đề nghị được thông qua.
Thật là một giai đoạn đen tối cho các vị chủ tịch, hắn buồn bã nghĩ. Có quá nhiều người bị ám sát.
 
×
Quay lại
Top