Đất rừng phương nam

Chương 1:

Có lẽ từ hôm bước lên xóm chợ này, mình đã bắt đầu cuộc sống lưu lạc rồi chăng.

Những đêm giật mình thức giấc nằm nghe tiếng gió rít thê lương từ các cánh đồng xa mông quạnh và lắng nghe tiếng nước chảy ào ào dưới chân cầu nước bắc ra con kênh thẳng tắp chạy dài vô tận trước ngôi chợ này, tôi vẫn thường vơ vẩn nghĩ như vậy

Tôi lạc tới xóm chợ này, tính ra đã có hơn nửa tháng.

Một buổi tối, đoàn thuyền vận tải quân lương của Uy ban kháng chiến Nam BỘ đỗ lại đây. Anh học sinh trường côle người trong ban tiếp tế đã cho tôi theo thuyền từ Hậu Giang đến đây bảo tôi: "Chỉ ghé lại độ nửa giờ cho các chú lên chợ mua thức ăn. Có muốn lên bờ không?.

Tôi lắc đầu. Anh bèn vỗ vai tôi cười lớn: "Vậy thì tốt quá, ngồi lên mui ngó lên bờ chơi cũng được. Trông chừng đồ đạc em nhé!" Anh lần theo cây đòn dài bắc sang một chiếc thuyền khác, và lẹ làng như con sóc, co người trèo qua be mấy chiếc tam bản, mấy chiếc xuồng nhỏ của những người đi chợ đậu ken dọc theo bến rồi nhảy phóc lên bờ.

- Đừng đi đâu nhé Uống cà phê xong anh sẽ xuống cho chú mày cái bánh! - anh xốc khẩu súng mô-de đeo bên hông, vẫy vẫy tôi và rướn hai chân, cố nói thật to để cho tôi nghe thấy.

- Rồi! Nghe rồi... Anh cứ đi đi! - tôi bắc tay lên mồm đáp lại.

Tôi ngồi đong đưa hai chân trên mui chiếc thuyền chở gạo ngóng lên chợ. Đèn măng-sông trong các hiệu buôn, các tiệm ăn của người Hoa kiều thắp lên sáng rực. Chỗ khoảng sân rộng, những ngươi đàn bà nông dân mặc quần áo bà ba đen, khăn rằn đen vắt chéo qua vai ngồi xếp từng dãy dài sau những chiếc cần xé to tướng, nhữngchiếc thúng đựng đầy ắp không trông rõ và không biết đó là thứ gì mà họ mang ra chợ bán. Mỗi người bán hàng đều thắp một ngọn đèn con ở chỗ mình ngồi. Và những người đi chợ, cũng có nhiều ngươi cầm theo trên tay một ngọn đèn.

Đèn người mua, đèn người bán cứ như sao sa.

Từ trong đám người ồn ào và những ánh lửa đèn luôn luôn cử động Ơû tít chỗ cuối chợ, bỗng nổi lên bốn đầu ngọn đuốc cháy đỏ rực cùng với tiếng trống, tiếng thanh la khua rung dồn dập.

- Hát Sơn Đông, chúng mày ơi?

- Lại coi con bé nhào vòng lửa đi!

- Mau lên, chúng mày ơi!

Bọn con nít từ khắp các ngõ ngách, từ trong các chỗ tối, từ dưới thuyền dưới xuồng chèo lên, ba chân bốn cẳng reo hò chạy về chỗ đám hát rong. Tự nhiên hai chân tôi cũng ngứa ngáy muốn tuôn theo. Đã bắt đầu nghe tiếng loa của người Khách mãi võ giới thiệu các môn trình diễn, và tiếng vỗ tay hoan hô cua đám người xem vây quanh.

Tôi kiễng chân lên coi họ làm gì đằng ấy. Xa quá, chỉ thấy đầu ngươi lô nhô và mỗi lúc lại nghe tiếng cười khoái trá dậy lên. lâu nay mình xem chán rồi. Còn lạ gì cái thứ trò ấy?" Tôi tự nhủ thầm như vậy và khinh khỉnh nhìn về đám người huyên náo để nén sự thôi thúc cứ dồn trống trong ngực.

- Thằng An còn ngồi đấy không? - Bác tài công già cầm xâu thịt và một mớ rau cải vừa bước lên đòn dài vừa hỏi, giọng ồm ồm.

Cháu còn đây, bác ơi! - tôi vội đáp, bụng hơi rạo rực.

- Nè, mà mày muốn coi hát Sơn Đông không - bác lại hỏi.

- Các anh bảo cháu ở đây coi chừng thuyền.

Bác tài công vứt sâu thịt vào cái rổ, vặn lưng uốn xương sống nghe rắc rắc, hơi thở nặc nồng mùi rượu:

- Ê! mày đã ăn thịt nai xào cải rổ chưa? Sáng mai tao cho mày ních một trận, phải biết nhá! - Rồi bác cười lớn:

- Tao đã đi khắp ngọn nguồn sông lạch mà chưa thấy ai mập như con mẹ chủ quán này. Nó rót luôn cho tao năm ly rượu tấm bồng mắt thỏ mà không nhậu ra ngoàimột giọt chớ

- Bác có lên chợ uống cà phê không? - Tôi hỏi.

- Tao mà cà phê cà pháo gì mậy? ờ, mà các chả đang làm cà phê trong cái quán chỗ đám hát Sơn Đông đó? Thôi, có tao ở đây rồi. Cho mày lên chợ chơi một lát. Nhớ đường trở xuống bến không? Đừng có đi đâu xa, coi chừng lạc.

Trời ơi, một thằng bé từ lọt lòng mẹ đến giờ sống ở thành phố như tôi mà có thể lạc trong cái chợ nhỏ xứ quê này? Tôi cười thầm trong tối, từ trên mui gieo người nhảy độp xuống sạp thuyền.

- Cười gì đó mậy, An? - bác chướng mắt hỏi tôi.

- Không. Cháu có cười gì đâu

- Bộ mày tưởng tao say hả? Ê, tao còn thấy cái bông bần trôi giữa kênh kia nhá!... Chà, nước giật ròng rồi.

- Cháu lên đây, bác ạ!

Không chờ nghe bác ừ, thoáng cái, tôi đã đặt chân tới bờ. Chao ôi! Chợ gì mà lạ lùng thế này? Bộ Tây sắp đánh tới nơi, nên người ta đem vườn bách thú ra phát mãi hay sao! Một con ba ba to gần bằng cái nong, đặt lật ngửa, cứ ngọ nguậy bơi bơi bốn chân trước ông cụ già ngồi lim dim đôi mắt. Những con rùa vàng to gần bằng cái tô, đều tăm tắp như ở cùng một khuôn ra, nằm rụt cổ trong mấy chiếc giỏ cần xé.

Đây là một con nai người ta vừa xẻ thịt ra bán, cái thủ còn nguyên chưa lột da bày giữa đống thịt đỏ hỏn trên một tấm lá chầm.

Cua biển cũng có, ếch cũng có nghêu sò cũng có.

Còn cá tôm thì nhiều lắm, đủ các loại tôm, không kể xiết.

Tôi bước thêm mấy bước, qua những đống trái khóm chín vàng tỏa thơm mùi mật, thấy hai con trút nằm khoanh, vảy xếp lại như những đồng hào lấp lánh. Có tiếng chim gì mổ nhau kêu quang quác trong chiếc lồng kẽm chỗ tối tối: ngọn đèn vừa bị cánh chim đánh nhau quạt tắt, và người chủ bán chưa kịp thắp lên. Một chú khỉ con cứ nhảy qua nhảy lại lia lịa, chờn vờn trèo lên đống bí ngô. Thấy tôi đi qua, nó nhe răng khẹc khẹc, ngó tôi rồi quay lại nhòm người chủ, dường như muốn bảo tôi hỏi giùm tại sao cái lão rậm râu kia không thả mối dây xích cổ ra để nó được tự do đi chơi như tôi... Đằng chỗ đám hát rong, một tràng pháo nổi lên vang dậy. Tôi chẳng còn tâm trí đâu mà nhìn ngó chung quanh nữa. Tôi lại ba chân bốn cẳng nhắm mắt nhắm mũi lao về phía tiếng ồn ào đang có một sức cuốn hút không cưỡng được.

"Mình chỉ coi một chút thôi!" Tôi nghĩ bụng và đưa mắt nhìn vào trong ngôi quán cà phê nhỏ núp dưới tán cây bã đậu chôm chôm những gai. Cái lưng gù gù anh học sinh trường côle lấp ló qua vai những người dân quân tự vệ đội nón bàng rộng vành thả trễ sau gáy. Tôi muốn vào báo cho anh biết tới đã lên đây, nhưng bụng phân vân:

- Lỡ ảnh bảo xuống thuyền thì sao?... ừ, mà mình chỉ cần coi qua một chút thôi mà?"

- Chen đâu mà chen dữ vậy hả? - một thằng bé lùn lùn, béo ục ịch, trợn mắt hích khuỷu tay vào hông tôi.

- Cho tao coi một chút mà!

Nghe tôi nói bằng một giọng nhường nhịn, thằng bé tức thời nép người qua để cho tôi lách vào, rồi nó nhe răng cườl làm như tôi với nó đã quen từ hồi nào.

- Mày mới tới à? Hồi nãy vừa diễn trò hai con khỉ kéo xe mê lắm?

ừ, mình mới tới! - tôi đáp cho có đáp, không còn chú ý nghe nó kể những gì bên tai nữa.

Người khách mãi võ mặc quần áo chẽn màu đen đã bán qua một lượt thuốc cao, bắt đầu giới thiệu tiết mục "Em bé mười tuổi nhào qua vòng lửa

- Trò này đêm qua nó diễn rồi. Không thể tả được mà!

- thằng bé lùn lùn béo ục ịch lại rỉ tai tôi, giọng đầy tự hào về cái chuyện nó đã được xem trước tôi.

Một em bé vận bộ quần áo bằng xa tanh màu đỏ, tóc tết quả đào, mang đôi hài vải đen bước ra, cúi chào khán giả Chiếc vòng sắt quấn giẻ tẩm dầu lồng giữa một khung gỗ hình chữ nhật, dựng đứng cỡ ngang tầm mắt tôi, bày giữa hiện trường. Dứt loạt vỗ tay chung quanh, người Khách già cầm ngọn đuốc châm vào chiếc vòng quấn giẻ. Tức thời một vầng lửa hình trong như chiếc bánh xe lửa của Na-tra phực cháy vù vù. Em bé lại nghiêng đầu chào mọi người rồi dún chân một cái, chạy tới ba bước gieo mình như một con thoi bay qua vòng lửa.

Mắt tôi hoa lên, chỉ còn thấy cái bóng đỏ lao qua lao lại xuyên ngang vầng lửa, và hai tai tôi ù đi vì tiếng reo hò, tiếng vỗ tay vang dậy-

- Đêm qua, nó nhào sáu lần mà bữa nay nó tăng lên tới tám lần! Mày thấy ghê chưa? - thằng bé lùn lùn béo ục ịch hích tôi, vênh mặt nói.

Trong lúc người Khách cầm mấy chai rượu thuốc đi vòng quanh chào hàng thì em bé vừa đứng thở vừa đưa hai bàn tay nhỏ phủi phủi những sợi tóc cháy trước trán.

Dáng như đêm nay số thuốc bán được ít ỏi quá. Người Khách mặt buồn buồn, đặt mấy chai rượu thuốc lên cái rương lớn màu đen, cố làm ra vẻ tươi tỉnh:

- Ông bà cô bác xem xong trò này, rồi hẵng mua giùm sau cũng dược. Hầy? Tả lồ lên(đánh thanh la lên)"

Tiếng trống, tiếng thanh la lại khua rung dồn dập. Ông ta cầm một nắm dao con sáng loáng tung lên bắt từng chiếc một, rồi lần lượt cắm tất cả mười hai con dao ấy vào những khe hở đục trong cái vòng sắt còn đang rừng rục lửa. Những mũi dao nhọn hình lá trúc đào lấp lánh ánh thép trắng xanh tua tủa chĩa ngược vào trong, càng làm thu hẹp cái khoảng tròn ban nãy vừa đủ một thân mình ngươi chui qua. Ngươi Khách xiếc nhìn mấy người đánh trống đánh thanh la, ra hiệu ngừng tay. ông ta nhường mắt hét lên một tiếng, rùng mình thu người
lại và lập tức dún chân bay qua giữa nhũng mũi dao tua tủa.

Tôi nhắm mắt lại. Trời ơi! Chỉ nhích ra một phân, bất cứ ở phía nào thì những mũi dao sắc nhọn như gươm kia cũng đâm xóc lút vào d.a thịt. Ông ta lao đi lao lại ba lần như vậy mà trông sắc mặt và hơi thở không chút biến đổi.

- Người lớn làm không hay. Em bé làm mới hay? - người Khách vung tay giới thiệu.
Em bé gái bước ra, nghiêng đầu chào mọi người. Hai bàn chân đi đôi hài vái đen nhỏ xíu khơi động giẫm lên giẫm xuống một chỗ trên mặt đất lởm chởm những hòn cuội Tôi hồi hộp qua. Đôi môi em bé run run. RÕ ràng là nó đang cố trấn tĩnh trước phút biểu diễn cái trò vô vùng nguy hiểm này.
CÓ ba Ơû đây, con? - người Khách nói bằng giọng khuyến khích vui vẻ, nhưng cặp mắt ông ta trông nghiêm nghị đáng sợ.
Em bé tức thời hét lên một tiếng như bố, dún chân bay xuyên qua giữa vòng dao rực cháy. Chung quang im phăng phắc. Mọi ngươi không kịp vỗ tay. CÓ lẽ vì sự thán phục cùng với nỗi lo sợ thay cho em bé cùng một lúc ập vào làm choáng ngợp mọi trái tim người. Em bé lao qua vòng dao lần thứ nhất, rất dễ dàng. Em lại mím môi lao
qua lần thứ hai. Đến lần thứ ba, thì một tiếng thét kinh hoàng của những người xem nổi lên chung quanh tai tôi.
Em bé đã ngã bổ xuống bàn chân phải mắc vào một mũi dao.
Người xem chạy ùa vào. ông Khách già ôm ngang lưng con gỡ chiếc hài đen ra khỏi mũi dao. Một dòng máu đỏ từ trong vết thương bàn chân em bé tuôn ra như suối.
Không hề gì mà! Dán một lá thuốc cao, khỏi ngay thôi? - ông Khách vùa nói vừa rắc một ít thuốc cầm máu màu đen để hàn miệng vết thương, và trao đứa con gái cho một bà xẩm vác đưa xuống chiếc thuyền đậu trong một con kênh gần đấy.
Bọn trẻ nhỏ ùn ùn chen lấn chạy theo coi. Mặc dầu đám hát vẫn tiếp tục biểu diễn, nhưng tôi không còn lòng đã nào xem nữa. Tôi cũng chạy theo đám trẻ, lần xuống
mé sông đứng ngó vào thuyền.
Em bé ngồi tựa lưng vào mui, đôi mắt to đen láy nhìn xuống vết thương trên mu bàn chân đã được bó một lá thuốc cao. Không thấy máu chảy nữa. Nhưng bàn chân cứ run run, lâu lâu lại giật một cái, khiến em nhắm mắt lại Bà xẩm cầm ngọn đèn soi vào chân con, tròng mắt đỏ hoe.
- Con có đau lắm không, con?
Em bé nhắm nghiền mắt, hai tay bóp chặt trên ống chân, lắc lắc đầu. Một giọt nhóc mắt người mẹ rơi xuống bàn chân nhỏ của đứa con đau. Em bé mở choàng mắt ra,
hốt hoảng nhìn mẹ, như vừa bị một giọt nước sôi rơi trúng vào chân.
- Ơ không có làm sao đâu, má à? Buốt buốt một tí thôi!
Vừa nói, cô bé vừa quờ tay ôm ngang lưng mẹ và cố nhoẻn cười cho mẹ yên lòng. Nhưng sau đó một chốc, em lại nhắm mắt lại. Mấy giọt mồ hôi rịn rịn ra trên vầng trán nhỏ. Tôi biết chắc chắn rằng em bé đau lắm. Tôi không dám đứng nhìn nữa, bèn trở lên chợ.
Bấy giờ đám hát cũng vừa tan. Tôi sực nhớ ra là mình đã di lâu quá. Tôi liền chạy vào quán cà-phê. Không thấy anh học sinh côle dâu. Tôi nhằm hướng đầu ngọn cây
bàng khô, chạy một mạch về. Đoàn thuyền vận tải quân lương không còn chiếc nào đậu Ơû đó nữa. Tôi chạy dọc theo bến chợ một quãng, hi vọng họ vừa rời di, mình còn có thể đuổi theo kịp.
Trời tối quá. Lửa đèn trên sông dần dần thưa thớt. Chợ cũng đã tan rồi. Tôi trèo lên một đống gạch, đứng ngóng theo làn nước lấp loáng ánh sao xuôi xuôi trên dòng kênh không biết chảy về đâu. Một người đàn bà quảy đôi thùng xuống bến lấy nước, đứng lại nhìn tôi hồi lâu rồi hỏi:
Có Phải mày Ơû trong đoàn thuyền vận tải không?
- Dạ phải! - tôi vội đáp, bụng hơi mừng - HỌ đi dâu rồi dì?
- Trời ơi? Mày đi đâu mà họ tìm mày khắp cả chợ? HỌ đi rồi. Đi từ tám hoánh nào rồi! Nhổ sào từ hồi nước mới ròng. Và người đàn bà chép miệng: - Chà, chừng như họ được lệnh đi ngay hay sao ấy. Gấp lắm thì phải!
- Dì có nghe họ nói đi đâu không - tôi hỏi lại.
- Chuyện quân sự mà, biết sao lọt! Thế mày cũng không biết à? HỌ không nói với mày à?
- Không, dì ạ!
- Mày có ba má, anh em gì trên thuyền không?
- Không. Cháu đi quá giang thôi.
Người đàn bà chành môi ra dài giọng:
Thảo nào?... Người ta có việc của người ta chứ. Ai bảo cứ ham chơi, đi những đâu?.
Người đàn bà không nói gì nữa, lẳng lặng xuống sông gánh nước lên chợ. Tự nhiên tôi thấy trong lòng mình rưng muốn khóc...
Ban ngày tôi thẩn tha đi dọc theo bến, mong có gặp người nào quen trong đoàn thuyền vận tải quân lương trở lại đây không. Ban đêm tôi, tôi vào ngủ trong chợ, chui
dưới gầm một thớt bán thịt lợn của người Hoa kiều.
Nhũng người đàn bà trong chợ gọi tôi là thằng bé tản cư. Nghe đâu hồi tháng trước, chợ này chỉ họp buổi sáng. Hơn tháng nay, chợ nhóm suốt ngày, có đêm mãi chín mười giờ khuya mới tan. Người tản cư Ơû các vùng trên đổ xuống ùn ùn như nước. Mặt nước dòng kênh không mấy lúc ngớt tiếng khua động mái chèo. Cái chợ con nằm trên ngã ba kênh của xứ làng quê hẻo lánh này trở nên đông vui nhộn nhịp như một trấn nhỏ. Người từ Sài Gòn chạy xuống tới đây cũng có. Người vùng Tiền Giang, Hậu Giang cũng có. Nhiều con mụ đàn bà mặc áo lụa trắng rô-dê(tiếng pháp có nghĩa là thêu ), che dù đầm, núng na núng nính rén bước đi lên chợ, mắt cứ ngó xuống chân dép xăng-đan, sợ bùn đất vấy gấu quần. Tiền bạc đựng nứt ví, nhưng mua gì cũng chê ỏng chê eo, trả giá rẻ mạt. Tôi chỉ nghe họ than phiền với nhau rằng: Cánh mình dở quá, không chặn nổi Tây", rằng "chạy vào đây không có nước đá uống, không có nước ngọt tắm". Thấy tôi lảng vảng đến gần chỗ thuyền họ, họ nhìn chòng chọc vào tôi, bộ như muốn ăn thịt: ê đi đi, thằng nhỏ. MÒ mẫm toan an cắp hả?" Tôi ức đến muốn khóc. CÓ ai quen, gặp tôi bây giờ cũng không nhận ra tôi nữa đâu. Ngồi bó gối trên cầu nhìn xuống nước, chính tôi cũng khó nhận ra mình trong cái hình thù quái dị này. Tóc tôi mọc dài gần phủ gáy, hai quầng mắt hõm sâu, cổ gầy nhom như cổ cò ma. Chiếc áo vét tông bằng ka ki trắng của anh học sinh côle cho tôi, giờ đây đã biến thành màu cháo lòng, vạt áo phủ xuống tận gối, cứ kêu loạt xoạt theo mỗi bước đi. Còn chiếc quần đùi bằng vải len của tôi thì bạc phếch ra, hai ống rách te tua như bị cá chốt rỉa.
Ai nhờ việc gì, tôi cũng giúp. Mấy thím bán cá nhờ tôi khiêng thúng mủng, xách nước cho họ thay nước rộng cá.
Em bé? Vác cho qua ( tiếng xưng tôi thân mật của người có tuổi ) bó mía đi!
- Em bé? Đội thúng tôm lên chợ giúp dì đi.
Nhỏ? Nhỏ! Chạy xuống mé kênh cắm lại cây sào của dì sắp trôi kia!
Kẻ cho tôi nắm xôi, người cho tôi gói bắp. Không ai biết tôi từ đâu trôi dạt tới.
Ngày nào tôi cũng tạt qua trước ngôi quán rượu một lần. Biết đâu bác tài công già hôm nọ chẳng qua ngang mà ghé lại đây?
Những ngày đầu mùa mưa năm 1946 cứ ì ạch nặng nề lê đi từng bước khó khăn như ngươi đàn bà sắp Ơû cữ cứ trở dạ mãi mà vẫn chưa đẻ được. Ở cái vùng nước mặn
miền tây Nam bộ này, người ta mong mưa như bọn trẻ con chúng tôi mong mẹ về chợ. Mưa có nước ngọt uống, có nước cầy bừa, nhưng điều quan trọng nhất trước mắt, là mưa có thể làm chậm bước của địch trong các cuộc tiến công, gây trở ngại cho chúng trên các nẻo đường hành quân vì trơn tuột, sình lầy.
Trời càng sắp mưa thì càng oi bức khó chịu, ban ngày mặt trời đổ nắng chang chang, nóng như giội lửa. Chỉ khi đêm đến mới có đôi chút gió lao xao từ vùng vịnh Thái Lan thổi tới. Thường thường, đêm nào người trong chợ cũng xách chiếu ra ngồi dọc bờ kênh hóng mát, coi thuyền tản cư và thuyền chở Cộng hòa vệ binh( tổ chức chính quy của quân đội sau ngày nam bộ cướp chính quyền 1 trong 4 sư đoàn dân quân cách mạng nam bộ ) từ mạn trên trẩy xuống. Quán rượu của dì Tư Béo là nơi tụ họp của những người thức khuya nhất, có khi đến một hai giờ sáng hãy còn đỏ đèn và ran tiếng nói cười.
 
Chương 2:

Tôi thường lân la đến quán dì Tư Béo, bởi lý do mong gặp người quen. Nhưng còn một lẽ khác nữa, là ở đó, tôi có thể nghe đủ mọi thứ chuyện trên đời. Việc gì vừa xảy ra ở bất cứ xó hẻm nào quanh chợ, lập tức trong quán dì Tư Béo mọi ngươi đã biết ngay. Từ những tin nóng hổi ở mặt trận Vàm Xáng như... "một chiến sĩ ta bị thương, khúc ruột lòi ra, anh lấy tay nhét vào, không rên một tiếng", cho đến chuyện "ông Tổ sư Bồ đề truyền dạy phép màu cho Tề Thiên Đại Thánh như thế nào... " tôi đều có thể nghe được ở đây.

Đó là một ngôi quán nhỏ xệch xạc, trống trước trống sau, cất dựa bên bờ kênh dưới bóng một cây gáo cổ thụ.

Mái lá rách thủng lô chỗ, ban ngày nắng soi xuống mặt chiếc bàn dài, thả những bóng trứng vịt xuống bên mâm người ngồi nhậu, và ban đêm, người ta có thể uống cả một vì sao xanh rơi trong lòng cốc.

Quán rượu dì Tư Béo nối tiếng về thứ rượu tăm ngọt giọng, phảng phất mùi cháy khê nồi mà không nhà nào cất được, về tài xào nấu các món thịt rừng mà các lão già cũng hay bông phèng đã nức nở khen rằng "nhắm xong một miếng, thấy người phấn hứng, trẻ tráng ra ngay".

Nhiều người tin như vậy. Chứ như tôi, tôi nghĩ rằng những người lui tới nơi đây là bởi tự thói quen cố hữu của họ. Mà bà chủ quán vốn là một người đãi bôi xởi lởi, không bao giờ để phật lòng bất cứ một ông khách nào dù khó tính đến đâu. Duy chỉ có một điều mà ai cũng biết nhưng cũng chẳng ai nói ra, là trong sự dễ dãi hào phóng của bà ta, dù thế nào thì thế, một đồng xu cũng không lọt được qua cánh tay nhờn nhầy bóng mỡ của bà, vì bà không để mình chịu thiệt với ai bao giờ. Chẳng vậy mà một hôm, bà ta đã bảo tôi: "Tao thấy mày sống hổm rày ở chợ này như con chó hoang. Tội quá! về đây mà ở, tiếp giúp tao việc vặt trong quán. Mày sẽ tha hồ ăn, tha hồ uống. Còn như công xá". Bà ta im lặng một lúc, sụt sịt mũi; "Nói chuyện công xá, hóa ra cháu ở đợ cho dì sao? Dì có một thân một mình. Dì coi cháu như con thôi. Mẹ con mà tính chuyện tiền bạc thì còn ra cái nghĩa gì."

Tôi đứng lặng đi một lúc lâu, bàng hoàng không biết đáp ra sao. Trước mắt tôi, dòng kênh xanh ngắt lặng lẽ chạy hút vào chân trời. Một cánh buồm nhỏ xíu bồng bềnh trên khói nước, ở một nơi nào xa lắm, đôi khi không trông rõ, dường nửa thực nửa hư. Quay nhìn về hướng quê nhà, chỉ thấy mây trời đùn cao như núi. Ngày mai tôi sẽ đi về đâu sống ra sao, tôi chưa biết. Tôi chẳng ở đây thì còn đi đâu nữa? Tôi gật đầu, chẳng nghĩ ngợi gì.

- Vâng. Cháu sẽ ở đây với dì!

Tôi trở thành thằng nhỏ hầu rượu trong quán dì Tư Béo bắt đầu từ hôm đó.

- Cầm hào bạc đây, ra chợ mà cắt tóc ngay đi - bà ta vừa truyền lệnh cho tôi, vừa tháo mấy cây kim băng cài miệng túi áo chích đưa lên ngậm ngang mồm, và móc từ trong miệng túi thâm đen vì bẩn mỡ ra một nắm giấy bạc, nhặt một tờ hào dúi vào tay tôi.

Khi tôi cắt tóc xong, trở về quán thì thấy bà ta lúi húi ngồi khâu bên rổ may.

- Lại ướm thử cái quần đùi coi nào. Dì khâu cho mày đấy.

Bà ta đứng dậy, cầm mảnh lụa đen vừa cắt từ ống quần dài cũ của bà chỉ cần khâu một đường lưng và một đường khoét đáy là thành một chiếc quần đùi. Tôi mặc thử, thấy hãy còn quá rộng.

- Cầm bánh xà phòng thơm của dì, xuống bến tắm đi. Rồi lên mà mặc quần mới, con? - bà ta ngọt ngào bảo tôi.

Bà ta nói với tôi rất ít, lời lẽ dịu dàng, nhưng mỗi câu là một mệnh lệnh. Sau khi tắm rửa xong, tôi vội mặc chiếc quần lụa đen ngắn vào. Bà ta ngồi nheo mắt, cười làm rung rung hai tảng mỡ của đôi gò má bóng nhẫy, ngắm tôi hồi lâu.

- Tươm da! Sạch sẽ thơm tho như vậy mới có thể hầu khách được. Chứ đứng gần người ta mà hôi như cú thì họ gõ chai lên đầu biết không" Mà trông mày mặt mũi cũng sáng láng đấy. Có chữ nghĩa gì bỏ túi không?

- Dạ, cháu đã đỗ xép-phi-ca (tiểu học) tháng sáu năm ngoái.

- Thiệt chứ? Trời, thằng này giỏi đa? Mới mười bốn mười lăm tuổi mà đã dỗ phi-ca thì giỏi lắm. Ờ, hồi tao còn con gái, có một ông giáo phica chú ý đến tao, nhưng duyên trời không định: Chà, ngày xưa đỗ phi-ca là đã nên ông nọ ông kia rồi. Khổ cho mày, gặp thời buổi loạn ly!... Thế ba má cháu đâu?

- Dạ, ở xa lắm! - tôi đáp một cách miễn cưỡng..

Thấy tôi không muốn nói, bà ta cũng thôi không hỏi. Bà ta vốn là người khôn ngoan, lịch thiệp và từng trải, luôn luôn đoán trước ý mọi người, biết lúc nào nên nói, lúc nào nên không và nên chấm dút câu chuyện ở chỗ nào. Điều này, tôi nhận ra trong những đặc tính của bà ta chỉ qua vài ngày sau thôi.

Kể ra thì khách rượu của quán rượu dì Tư Béo không thiếu hạng nào. Những tay vô công rồi nghề, la cà ngồi tán dóc ốt ngày cũng có. Những người tản cư, cắm thuyền tạt lên uống chén rượu rồi quảy qua đi ngay cũng có. Bọn con buôn vào ngồi chỉ cốt lấy chỗ gặp gỡ, trao đổi luồng hàng đương khan hiếm và để kiếm món xào nướng khoái khẩu hơn là vì cần nên đôi khi, một vài người lính Cộng hòa vệ binh có tuổi lén rời chỗ trú quân vào làm một cốc rượu khan, trước khi ra khỏi quán cứ đưa ống tay áo chùi ria mép và dặn đi dặn lại tôi: "Này, chú em, hễ có ban chỉ huy đến hỏi thì nói không có ai tới uống rượn đây cả nhé! Nhớ nhé".

Chỉ trong vài hôm, tôi đã quen mặt hầu hết những đệ tử Lưu Linh của xóm chợ này. Nhưng trong đám người thường lui tới đây, tôi chỉ đặc biệt chú ý có hai người.

Một là lão Ba Ngù. Dường như lúc nào cũng có lão túc trực trong quán. Nói cho đúng thì lão ta cũng không phải là tay mạnh rượu. Nhưng lão có thể lai rai uống được ốt ngày. Những chuyện tiếu lâm, những chuyện giang hồ mã thượng lão kể đi kể lại với mọi người, tôi nghe đến thuộc làu những vẫn thích nghe. Bởi mỗi lần kể, lão thường hay thắt thêm vào những chi tiết bất ngờ khiến tôi phải cười bò ra; hoặc cũng có một đôi chỗ mà lần trước kể dài dòng, lão đã biết khéo léo thu vén bỏ đi cho câu chuyện thêm tròn trĩnh, dễ nghe hơn. Những lúc đông khách, lão đứng dậy nhường chỗ cho người mới tới. Đôi khi lão còn bưng hộ bát thừa giúp bà chủ quán.

Dì Tư béo mến lão vì cái tài đưa chuyện và giữ khách không công của lão, nên thỉnh thoảng bà ta cũng đãi lão cút rượu kèm theo một con khô cá lạt nướng. Ai mời rượu. lão đều uống, không từ chối. Nhưng chỉ uống một chén con cho vui bụng ngươi ta thôi. Không bao giờ lão uống đến chén thứ hai. "Mình là người biết tự trọng. Mình có phải là thằng già nát rượu đâu? " Lão thường lè nhè nói một mình như vậy. Cứ mỗi người một chén rượu mời, mỗi ngày đêm lão Ba Ngù có thể uống tính ra đến một, hai lít? Lão luôn luôn cởi trần, áo chỉ dể vắt hờ bên vai, bảo: "Để vầy cho nó mát". Lão chỉ mặc độc chiếc quần đùi: da mặt, da lưng đỏ như cua luộc. Dường như bấm vào bất cứ chỗ nào trong thân hình lão cũng có thể chảy rượu ra ngay được...

Đó là người thứ nhất.

Người thứ hai là Tư Mắm. Không biết y ở đâu, tên thật là gì. Chỉ biết rằng y thường chở mắm lóc, mắm trê đôi khi chở cả dừa khô và bí rợ trong một chiếc ghe lườn bán dọc theo các xóm bờ kênh, nên đồng bào gọi y là Tư Mắm. Còn người đàn bà chạc ba mươi tuổi mà Tư Mắm bảo là vợ y không mấy khi bước lên bờ. Có lần, tôi nghe thấy lão Ba Ngù che tay lên miệng bảo với dì Tư Béo: "Chà, bộ thằng Tư Mắm có ngải hay sao mà nó chài được con nỡm đẹp quá. Không phải vợ hắn đâu. Dứt khoát là không phải bà chị ạ."

Tư Mắm ngươi dong dỏng cao nước xanh mét, tóc cắt bom-bê, mái tóc trước trán rủ xuống tận gò má bên phải. Đôi mắt y rất bé và sắc lạ lùng, tròng mắt đảo đi đảo lại rất nhanh và không hề nhìn thẳng vào ai bao giờ.

Một buổi sáng, lúc tôi đang bưng rổ tôm càng xanh từ chợ về thì nghe tiếng tàu bay vè vè từ hướng Sóc Trăng lượn đến. Người trong chợ xô nhau nhạy toán loạn.

Chiếc tàu bay đảo hai vòng trên xóm Ngã Ba Kênh, bay rất chậm nhưng thật cao, nghiêng qua nghiêng lại quan sát rồi thả xuống một đống truyền đơn. Những tờ truyền đơn tủa ra, bị gió cuốn đi bay về mạn rừng tràm cách chợ có đến vài ngàn thước. Không biết bọn giặc nói gì trong ấy. Nhưng khi tôi về đến quán thì gặp ngay lão Ba Ngù đứng chửi oang oang:

- Tổ cha thằng Tây. Mày đánh thì xuống đây. Chứ bay trên trời thả giấy xuống thì cũng chưa gọi là bảnh.

Lão níu rổ tôm của tôi lại, hỏi:

- Mày có nhặt được tờ nào đút trong này không?

- Không - tôi đáp.

- Truyền đơn nó kêu gọi Việt Minh đầu hàng đấy!

- Sao bác biết? Bác nhặt được à?

- Nhặt đâu mà nhặt. Thằng Tư Mắm nó vừa bảo đấy. Cái thằng coi vậy mà nhát. Nó mới nghe hơi tàu bay một chút, đã xuống ghe chèo đi tuốt rồi!

Từ đó đến chiều, gặp ai lão Ba Ngù cũng nói đi nói lại có bao nhiêu chuyện đó. Và chuyện giữa người trong quán cứ xoay quanh vấn đề: "Tây sắp tiến công vào đây? Liệu chúng ta có chặn nổi không."

Vào lúc chạng vạng, trời bỗng nổi gió to. Tiếng sấm nổ chát chúa trên những vầng mây đen sì mỗi lúc như muốn xà thấp xuống ngọn cây. Mưa bắt đầu rơi lộp độp những hạt to và nặng trên mái lá. Nhưng chỉ ào qua một loạt rồi tạnh ngay. Lão Ba Ngù đứng trước quán, nhìn theo những làn chớp kêu:

- Mưa đi ông! Muốn mưa thì cứ mưa đi. Sao cứ làm khó khăn cho người ta vậy?

- Nếu mưa to thì Tây còn chưa dám vào đâu, phải không anh Ba?

Dì Tư Béo lạch bà- lạch bạch như con vịt mái xiêm, ra đứng bên cạnh lão, vừa thở dài vừa hỏi phụ họa:

- Dứt khoát là mưa thì nó không dám tiến công. Nó toàn đi giầy, gặp đất trơn trượt ngã bỏ mẹ đi. Hồi đằng cựu (thời cần vương, văn thân khởi nghĩa) các ông rải quả mù trên lộ, Tây đi ngã lạch bạch. Thế là dao, mác, mã tấu mình cứ xông ra chém nó như chém chuối!

Tôi dọn rửa bát đĩa xong, không còn việc gì làm cũng ra đứng hóng chuyện bên lão. Bỗng nghe dưới kênh có người hỏi:

- Quán dì Tư có gì nhậu không?

- À thằng Sáu tuyên truyền - lão Ba Ngù kêu khẽ.

Dì Tư Béo tức thời quát tôi:

- Vào nhóm bếp lên. Con nít mà biết cái gì, lúc nào cũng chực nghe. - Và bà ta đáp vọng ra kênh: - Vô khối! Còn vô khối?

Tôi ngồi trong bếp vừa nhóm lửa, vừa đưa mắt nhìn ra. Nghe tiếng xuồng cập bến, khua lộp cộp. Dì Tư Béo chạy vào cầm cây phất trần bằng cuống quài dừa nước quét lạch xạch trên bàn rượu. Chắc là có khách sộp đây Tôi nghĩ thầm như vậy, vì nghe lão Ba Ngù dạ dạ hai ba tiếng, bộ kính cẩn lắm. Rồi thấy anh Sáu tuyên truyền mồ hôi mồ kê nhễ nhại, tay xách một bao cà rồng công văn giấy tờ, khom người bước qua mái giọt, vào đặt phịch cái bao lên bàn. Lão Ba Ngù khệ nệ ôm một chiếc ba-lô to tướng rằng rịt những dây da, lấm lem bùn đất, thận trọng đi từng bước vào và sẽ sàng đặt lên chiếc chõng tre, cạnh cửa ra vào bếp.

Một người đàn ông chạc hăm sáu hăm bảy tuổi, cao lêu nghêu, mặc bộ quân phục ka-ki màu rêu, thắt lưng da rộng bản, khẩu súng poọc-hoọc đeo trễ bên hông, tay xách đôi giày vải, tay cầm chiếc mũ vải kiểu hướng đạo bước vào đưa mắt ngắm nghía một vòng trong quán rồi thong thả kéo ghế ngồi xuống.

Anh Sáu tuyên truyền giới thiệu với dì Tư Béo:

- Đây là ông Huỳnh Tấn, đặc phái viên của Tổng hành dinh Ủy ban kháng chiến Nam Bộ, ở miền Đông mới tới!

Dì Tư Béo chắp hai tay trước bụng cúi đầu chào, nói gì lí nhí trong mồm không nghe rõ, chỉ thấy dôi môi run run một cách cảm động. ông khách đứng dậy, toét miệng cười, khẽ nghiêng đầu chào đáp lễ rồi nói cách thân mật tự nhiên:

- Kiến cắn bụng dữ rồi đây? Dì có gì cho chúng tòi làm ba hột cho đỡ đói cái đã...

Lão Ba Ngù buột miệng đáp ngay:

- Còn nửa rá bún tươi. Có thể ăn với thịt bò xào lá cách. Còn nhậu thì... đâu như nhà còn mấy con tôm càng nướng, phải không bà chị? Mà rượu hôm nay không đặng ngon?

Dì Tư Béo gật đầu lia lịa:

- Muốn ăn cơm cũng được. Tôi chịu khó nấu. Chẳng mấy thuở mà! Bắt gà làm xé phay ăn thôi.

Anh Sáu tuyên truyền vừa lau mồ hôi vừa nuốt nước bọt, giọng sốt ruột:

- Dì muốn cho ăn thức gì cũng được. Có bao nhiêu cứ dọn hết ra đây. Nhưng phải gấp lên!

Lão Ba Ngù lăng xăng giúp bà chủ quán pha ấm trà, đặt lên bàn mời khách. Anh Sáu tuyên truyền bảo tôi đem cho ảnh một ít bún tươi, rồi ảnh rút trong bao cà-ràng ra một cuộn giấy nhặt lấy hai tờ rộng khổ nhất úp lên bàn, bảo tôi xếp bún vào.

- Chà, có khẩu hiệu gì mới hả chú Sáu? - lão Ba Ngù tò mò hỏi.

- Phải. Vừa lĩnh trên quận về đây. Bác kê giúp cái ghế cho tôi dán lên vách đi.

Anh Sáu tuyên truyền đứng lên ghế, đưa tờ khẩu hiệu ngắm nghía cho cân bằng hai đầu rồi từ từ dán vô vách lá. Dán xong một tờ, anh thong thả dán nốt tờ thứ hai.

Tôi cầm đèn soi lên, nhìn trân trân vào những dòng chữ khắc gỗ in mộc bản mà tôi đã đọc nhiều lần trên các tờ khẩu hiệu dán đầy ở những nẻo đường tôi đã vượt qua.

Độc lập hay là chết !

Nước Việt Nam của người Việt Nam!

Anh Sáu tuyên truyền lại lôi ra một tờ giấy khổ nhỏ in chữ chì, còn thơm phức mùi mực ty-phô, dán vào vách ngang tầm mắt người ngồi ở bàn. Lão Ba Ngù lẩm nhẩm đánh vần:

- Khờ... ông... không, đờ.. i đi... Khô.ng đi lính chờ... o cho... Không đi lính cho giặc!

Đôi mắt tròn ra, nét mặt trang nghiêm, lão Ba Ngù lần lượt vừa đánh vần vừa đọc hết những khẩu hiệu như những lời thề viết lên bằng máu:

Không đi lính cho giặc!

Không bán lương thực cho giặc!

Không đưa đường chỉ lối cho giặc!

Ai có dao dùng dao, có mác dùng mác, mỗi người dân là một người lính, mỗi thước đất là một chiến hào, sẵn sàng hi sinh bảo vệ nền độc lập cho Tổ quốc!

Đọc xong rồi, lão Ba Ngù lẳng lặng bước đến chỗ móc áo lấy cái áo bà ba đen của lão giũ giũ mấy cái. Đoạn lão mặc vào, cài cả cúc cổ cẩn thận. Lão cứ đứng nhìn lên những dòng chữ đỏ chói như máu kia, hai bàn tay vuốt đi vuốt lại những nếp áo nhăn nheo đã lâu không mặc tới.

Không biết có phải vì cơn gió to lúc nãy khiến lão bị lạnh, hay bởi lẽ nào khác tôi không được rõ. Chỉ trông nét mặt im lặng và cử chỉ trang nghiêm của lão thì tôi thấy giống như lão đang đứng bên gi.ường một ngươi bệnh thập tử nhất sinh. Kinh nghiệm ở những nơi khác thì với tình hình này, chắc chắn là chỉ trong vòng một tuần lễ nữa thôi, giặc Pháp sẽ tiến tới đây...

- Trời ơi, mày có bưng đĩa thịt bò ra giùm tao một chút không. Làm gì mà đứng chết gí ngoài đó vậy? - dì Tư Béo trong bếp eo éo gọi vọng ra.

Tôi giật mình chạy vào, suýt nữa ngã bổ xuống ngạch cửa. Lão Ba Ngù không vào giúp tôi một tay như mọi khi, lão lặng lẽ ra đứng trước bến hút thuốc lá một lúc rồi bỏ đi đâu mất. ông Huỳnh Tấn và anh Sáu tuyên truyền đói dữ. Chẳng mấy chốc mà hai người đã làm sạch rá bún và hai đĩa thịt bò xào to tướng. ông Huỳnh Tấn vươn vai đứng dậy, co chân duỗi tay, cười hì hì:

- Từ sáng đến giờ, hai anh em thay nhau chèo một mạch, chẳng có hột cơm bỏ bụng ăn bữa bún ngon quá. Ước chừng còn một rá nữa, chúng tới cũng ních hết?

Anh Sáu tuyên truyền quay sang hỏi dì Tư Béo đang chấp hai tay trước bụng, đứng bên góc bàn hầu khách:

- Độ mấy giờ thì liên lạc ở Thới Bình lên tới?

- Sớm thì cùng chín mười giờ. Trời đất này, ngược nước ngược gió, họ có thể lên khuya hơn... Các ông cứ ở lại nghỉ cho đỡ mệt - dì Tư Béo dáng thong thả, có ý muốn cầm khách.

- Có gì nhậu, dì mang ra vứt đó cho chúng tôi! ông Huỳnh Tấn nói cách vui vẻ - Dằn bụng rồi, bây giờ có thể lai rai được chứ hả, đồng chí Sáu?

Tôi quạt than hơ lại mấy con tôm càng nướng sẵn, to cỡ cổ tay người lớn mà dì Tư Béo còn cất trong chạn.

Trong khi đó, anh Sáu tuyên truyền cầm đèn ra sau quán ngắt mấy ngọn rau răm, còn ông Huỳnh Tấn thì giành với dì Tư để tự ông ta giã bát muối ớt cho vui.

- Bác Ba Ngù đi đâu rồi hả dì Tư? - Anh Sáu tuyên truyền chợt hỏi.

- Ối có trời biết ổng đi đâu? Muốn đến thì đến, muốn đi thì đi.

- Nhậu mà thiếu bác thì không vui?

- Có tôi đây, chú Sáu lão Ba Ngù từ ngoài nói vọng vào May quá, chỉ lo về không kịp? - Lão Ba Ngù bước vào, đặt một lít rượu trong như mắt mèo lên bàn, xoa xoa hai bàn tay rồi đan mười ngón tay vào nhau, nghiêng đầu ngắm chai rượu:

- Tôi chạy vào tận xóm Tràm, nài lại của họ đây. Không mấy thuở... Để khách xa uống không đặng ngon sẽ mang tiếng đất Rạch Giá, Bạc Liêu mình!

Khi ba người đã ngồi vào bàn,sắp sửa rót rượu thì có bóng một người mặc quân phục màu đen, khoác ca- pốt, lom khom bước theo ánh sáng đèn, đi vào quán. Tôi nhận ra ngay đó là anh phân đội trưởng Cộng hòa vệ binh vừa về đóng quân ở xóm trên đã mấy hôm nay.

Ông Huỳnh Tấn bỗng xô ghế đứng dậy, đôi mắt tròn thao láo nhìn anh phân đội trưởng, còn anh phân đội trưởng thì đứng sững lại ở chỗ ngạch cửa mồm há hốc ra.

Hai người im lặng nhìn nhau, rồi cả hai cùng lao tới ôm lấy nhau, tay đấm đấm vào lưng nhau thùm thụp:

- Trời ơi, tao tưởng mày chết rồi?

- Tao cũng tưởng mày chết rồi?

- Vậy ra không thằng nào chết cả...

Hai người cùng tranh nhau nói. Không còn nghe câu nào là của người nào. Những tiếng nói bằng giọng cường tráng sôi nổi vồ vập tuôn ra cùng với những tiếng cười vui vẻ mừng rỡ của đôi bạn tình cờ gặp lại, cứ xoắn lấy nhau.

- Sao nghe mày chết ở mặt trận Gò Công rồi? Ngồi xuống đây? - ông Huỳnh Tấn kéo ghế mời anh phân đội trưởng.

- Chết thế nào được? Ờ mình có bị thương ở Vàm láng, Gò Công anh phân đội trưởng lột áo ca-pốt ném lên chõng, mở cúc áo trỏ vào vết sẹo trên ngực. – Xuyên trước trổ ra sau lưng, thủng một lỗ phổi cầm chiếc đũa thọc qua được. Bọt cứ tuôn ra phì phì. Cả máu cả bọt. Vậy mà chỉ hơn tháng sau mình đã dậy, ra chỉ huy chiến đấu.

- Sức mày canông bắn cũng không chết - ông Huỳnh Tấn cười hì hì.

Anh phân đội trưởng bấy giờ mới ngắm nhìn ông Huỳnh Tấn từ đầu đến chân:

- Mày vừa tới đây à? Bây giờ chắc làm to lắm hả? Nhưng chưa quân sự lắm! Hãy còn cái mã của anh sinh viên

Anh phân dội trưởng bỗng nhếch mép không nhìn vào ông Huỳnh Tấn nữa mà chỉ ngó ra ngoài trời tối đen một lúc rồi từ từ quay lại, giọng trầm hẳn xuống, hơi buồn, pha đượm ít nhiều chua chát:

- Nghe anh em báo là cậu có theo phái đoàn anh Giàu đi hội kiến với Gờ-ra-xây Thằng Gờ-ra-xây bắt bỏ cậu vào bao bố nhận xuống cống Sài Gòn - chợ lớn chết rã thây từ cuối tháng mười năm ngoái mà?

- Ối! Anh em ghét mình, họ bịa ra họ nói vậy, chứ mình có đi hội kiến hội mối bao giờ. Mà họ ghét mình cũng phải thôi. Ông Huỳnh Tấn nói chậm rãi. - Chuyện còn dài, hẵng uống một cốc rượu mừng cái đã.

Lão Ba Ngù đứng dậy, tay phải ngửa ra, tay trái cầm chai rượu nút lá chuối cắn vào mỏm, đặt chai rượu nằm xuôi trên lòng bàn tay phải, từ từ xoay bàn tay úp xuống rót rượu ra cốc; khi cốc vừa đầy, lão nhẹ nhàng uốn ngửa bàn tay đưa cổ chai rượu xốc nghiêng lên. Dòng rượu nhỏ và thanh như bị sợi chỉ cắt đứt khỏi miệng chai, tụt xuống mặt cốc đầy, làm sủi bồng mấy cái tăm nhỏ chạy vòng quanh...

Lão rót luôn bốn cốc, đều tăm tắp như vậy, không hề nhểu ra bàn một giọt rượu nào.

- Trời... ơi. Ông già róc rượu đẹp quá! Như nghệ sĩ biểu diễn ấy - ông Huỳnh Tấn kêu lên.

Lão Ba Ngù vuốt cặp ria, đặt chai rượu xuống bàn:

- Nói các đồng chí tha lỗi, chứ tôi khổ sở và hết nghiệp vì rượu mới chỉ học được cái trò này. Đã uống rượu thì phải biết rót rượu, sao đừng cho giọt phí giọt phạm nào rơi vãi xuống bàn. Cũng như người lính cầm súng, phải bắn bách phát bách trúng, bắn sao cho đừng trật một viên. Chớ để một thằng Tây nào chạy. thoát!

Anh Sáu tuyên truyền cười ha hả:

- Bác Ba bữa nay xuất khẩu thành văn. Vô ban tuyên truyền công tác với tôi đi, cha nội!... Các đồng chí thấy chưa, ngán dân đất. Chắc-băng này chưa? Rượu chưa vào mà lời châu ngọc đã tuôn ra rồi!

Dì Tư Béo vừa cười múm mím vừa cắt chanh ra vắt rưới lên mấy con tôm càng nướng bóc vỏ.

- Bà chủ uống với chúng tôi một ly cho vui ông huỳnh Tấn hai tay bưng cốc rượu lên đưa sang mời dì Tư Béo.

Dì Tư Béo lắc đầu quầy quậy:

- Tôi xin vô phép các ông. Tôi không uống được mà. Để tôi đi lo cho các ông nồi cháo gà dằn bụng (ăn lót dạ). Để buổi khuya đi đường.

Bốn người chạm cốc, uống cạn. Họ hút thuốc lá và thổi khói ra um nhà. Rượu được vài tuần, ông Huỳnh tấn bắt đầu dặng hắng nói:

- Đây toàn đồng chí anh em cả thôi. Chẳng ai xa lạ gì mà phải giấu. Anh em họ không rõ, họ ghét mình là chuyện tất nhiên thôi. Mình chẳng có đi hội kiến với thằng ra-xây đâu, mình là cái thá gì! Vả lại, nói cho đến cùng, nếu cần bảo vệ các anh lớn. thì dẫu vào hang cọp mình cũng chẳng từ nan... Mình có đi làm cận vệ, người cận vệ độc nhất, đưa anh Giàu đi gặp thằng đại tá Nhật ở đình An Lạc để bàn về các thể thức chuẩn bị gặp thằng ra-xây. Thằng giặc già này nó lập kế hoãn binh để chờ tiếp viện, trong khi các sư đoàn quân cách mạng của ta vẫn còn vây đặc chung quanh Sài Gòn-Chợ Lớn. Tất nhiên là sau đó cuộc hội đàm ở khu nhà Huibonhoa trong Chợ Lớn chẳng đem lại kết quả nào. Có thể nói anh em còn thật thà, chứ không phải ngán gì nó đâu.

Anh phân đội trưởng chành môi ra, không biết anh cười hay không cười, chỉ thấy đôi cầu vai rung rung.

- Không ngán mà lại toan đình chiến với chúng nó?

- Anh em nhiều người đã nói và nghi như cậu. Ông Huỳnh Tấn nói chậm rãi, giọng ôn tồn. - Trong lúc toàn thể dân chúng quyết xông ra bóp chết bọn giặt xâm lược mà nói đình chiến thì ai mà không ức? Có thể nói các tướng lãnh của mặt trận Sài Gòn - Chợ Lớn không ai chủ trương vậy đâu!

- Không chủ trương, không tán thành mà có cuộc hội kiến ấy? - Anh phân đội trưởng nhỏm dậy, nói cắt ngang.

Ông Huỳnh Tấn lặng thinh, tự rót rượu cho mình, cầm cốc lên uống từng ngụm nhỏ. Nét mặt của ông trở nên đăm chiêu, rắn rỏi lạ. Dường như ông không phải là con người liến thoắng vui tính như khi mới bước vào quán lúc chập tối. Ông nói:

- Nóng làm gì. Thong thả mình kể cho cậu nghe. Một lần nữa, mình khẳng định không ai chủ trương đình chiến. Bằng cớ là trong hội nghị các tổng lãnh của mặt trận SÀI Gòn - Chợ Lớn tại Tổng hành dinh của Uỷ ban kháng chiến Nam Bộ tại chợ Đệm...

- Có những ai nào - anh phân đội trưởng bấy giờ mới ngồi xuống ghế, chăm chú nghe.

- Đông lắm? Mình không nhớ hết... Tất nhiên là có anh Trần Văn Giàu, anh Huỳnh Văn Tiếng, anh Từ Văn Ri, anh Hai Râu, anh Nguyễn Lưu, anh Mười Trí, anh Tư Tỵ và anh Ba Dương. Cậu nhớ Tư Tỵ không? Trời ơi, có thể nói cha ấy là một ác-xơ nan(kho vũ khí), khắp người đeo đầy vũ khí. Nào dao găm, súng lục, nào gươm Nhật... lại đeo ống nhòm, đội nón sắt, mang ghệt, đi giày đinh. Tư Ty giữ mặt trận Bàn Cờ - Chợ Đủi ấy mà!

- Nhớ rồi Khi mình rút xuống Mỹ Tho, còn nghe nói anh Nguyễn Lưu lãnh đạo công đoàn nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn đánh nhiều trận sướng lắm, phải không?

- Ừ. Nguyễn Lưu nói làm gì nữa? Dân Côn Đảo về mà!

- Nói ngay chỗ cuộc hội nghị ấy nghe nào?

- Lúc đang họp anh Ba Dương đi một chiếc tàu sắt từ Bình Xuyên đi tới. Cậu biết Ba Dương chứ? Xưa nay vẫn vậy Thủ lãnh Bình xuyên, dần anh chị mà lúc nào cũng khiêm tốn, ôn hòa, ít nói. Trong cuộc họp, Ba Dương chỉ lặng lẽ ngồi nghe, hai tay tì vào thành chiếc bàn tròn vòng gõ, mặt cẩm thạch, thứ mặt bàn lúc nào cũng lạnh như nước đá ấy. Mọi người bàn cãi lung tung việc nên ngừng bắn hay không ngưng bắn. Đợi cho mọi người ngớt tiếng, bấy giờ anh Ba Dương mới đứng dậy, thong thả rút trong túi áo bành tô ra một chai, đặt cộp xuống giữa mặt bàn. Biết gì không? Trời ơi, chai toàn là những ngón tay ngâm rượu. Anh nói: "Đây là ý kiến của anh em Bình Xuyên phát biểu với hội nghị, khi nghe nói có lệnh đình chiến. Rồi anh nghiêm giọng, tiếp: "Họ chặt ngón tay thề trước bàn thờ Tổ quốc, trước ảnh Cụ Hồ là nhất định đánh đến cùng... Các anh ra ngoài kia mà coi chiếc tàu của tôi. Tụi Tây ở Rạch Kiến nó bắn tôi như vậy đó.”

- Thế còn đi hội nghị với Gờ-ra-xây làm chó gì nữa? - Anh phân đội trưởng vung tay, nói như quát.

- Đi thì đi, còn đánh là đánh. Hai vấn đề khác nhau. Vấn đề chủ yếu là đánh. Mình kể cho cậu nghe vừa rồi đó. Anh em có ai rút lui đâu? - Ông huỳnh tấn còn định nói điều gì nữa đó, chừng như sắp nói một câu quyết liệt lắm thì phải, nhưng ông lại thôi, mặt lầm lầm, móc thuốc lá ra đốt một cách bực dọc.

Anh phân đội trưởng chấm đầu ngón tay trỏ vào rượu vẽ vẽ lên mặt bàn. Còn anh Sáu tuyên truyền và lão Ba Ngù thì ngồi đưa mắt nhìn nhau. Tôi thấy mọi người im lặng, tự nhiên mình cũng đứng ngây ra, không dám động cựa. Trong quán chỉ còn nghe tiếng củi nổ lép bép và tiếng nước sôi reo đều đều sau bếp. Lâu lâu, trời lại chớp lên một cái. Mặt nước dòng kênh sáng rực trong ánh chớp. Những đầu ngọn cây tràm và chiếc xuồng không đang buộc bên kia bờ hiện lên xanh biếc, dường như trời đất cỏ cây và những ngọn sóng lăn tăn không ngớt vỗ nhẹ đôi bờ kia thảy đều rung rung trong sắc xanh kỳ ảo, mắt người chưa kịp trông rõ đã biến mất vào bóng tối.

Một giọng hát buồn của anh thanh niên nào đó, đang thả thuyền trôi theo dòng kênh, nghe mỗi lúc một gần.

Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi... Phòng vắng...

Lão Ba Ngù tức thời đứng dậy, bước thình thịnh ra ngoài.

- Ê ghe ai chèo lạc xạc đó. - Lão hỏi.

Dưới thuyền có tiếng đáp:

- Đi chở củi về đây, ông nội. Xét giấy hả?

- Dưới ghe có ai bệnh sắp chết phải không? - lão Ba Ngù lại hỏi, giọng cay độc.

- Có ai bệnh gì đâu! đừng có trù mạt.

- Hừ vậy mà tưởng thằng nào đang mắc dịch mắc gió gì dưới ghe đó chớ. Bộ sắp chết sao mà rên khừ khừ vậy? Bây giờ không phái là lúc hát cái giọng mèo ướt đó nữa a, nghe chưa?

Không có tiếng trả lời. Tiếng chèo khua mỗi lúc một xa. Lão Ba Ngù thở phì phì, bước vào quán cởi áo ra ném bên chõng cái xoạch. Anh Sáu tuyên truyền liếc sang ông Huỳnh Tấn và anh phân đội trưởng, cố nín cười. Khi thấy hai người này cũng đang nhịn cười như mình, anh Sáu tuyên tuyền không nín nổi nữa, bèn phì một tiếng và một tràng cười ha hả vụt nổ ra.

- Chú Sáu, chú cười tôi cái gì? - lão Ba Ngù toan ngồi xuống ghế lại thôi, mắt lão dán vào đôi môi đang cười rung rung trong ánh đèn đỏ khé của anh Sáu.

- Ha ha ha... Ai cười gì bác đâu?

- Bộ lão già này nói bậy à? Hừ, chú làm tuyên truyền chú há chẳng biết "Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách" sao? Nước nhà còn mất, đến một thằng mẹ rượt (đồ bỏ đi) như lão đây cũng còn có trách nhiệm mà.

Bây giờ thì ông Huỳnh Tấn, anh phân đội trưởng và dì Tư Béo vừa ở bếp quệt mồ hôi trán bước ra cũng đều cười lên thành tiếng. Khi lão Ba Ngù hiểu ra rằng đó là những tràng cười tán thưởng, lão bèn vuốt ria quay mặt vào trong tối lảm nhảm một mình:

- Ờ có hơi lố bịch một chút! Nhung tôi già rồi, thấy đâu thì nói đó vậy thôi. Nào, bà chị đã cắt tiết gà chưa? Tôi giúp một tay.

- Thôi, cám ơn. Cháo sắp dọn ra được rồi đấy! - Dì Tư Béo nói bằng giọng thanh thanh kéo dài làm duyên kiểu như còn trẻ. Bà ta sễ sàng xắn tay áo lên, bàn tay béo núc cầm chai rượu róc liên tiếp ra bốn chiếc cốc.

Bốn cốc rượu róc bồng mắt thỏ đều tăm tắp, xếp một hàng ngay ngắn dưới ánh đèn lung linh, tưởng như rượu sắp tràn cả ra ngoài nhưng tuyệt nhiên không hề thấy có một giọt ướt nào rơi xuống mặt bàn...

Đêm hôm đó, mãi đến mười hai giờ khuya vẫn không thấy xuồng liên lạc dưới Thới Bình lên. Ông Huỳnh Tấn sốt ruột không chờ được nữa, bèn cậy anh Sáu tuyên truyền tìm người đưa ông đi. Lão Ba Ngù xung phong nhận lãnh chiếc tam bản của anh Sáu tuyên truyền chèo đưa ông Huỳnh Tấn. Anh phân đội trưởng lâu ngày gặp bạn cũ, vẫn còn nấn ná ở lại hàn huyên mãi cho đến lúc chia tay. Còn dì Tư Béo thì chẳng những dứt khoát không nhận món tiền bữa rượu, lại còn biếu ông Huỳnh Tấn và lão Ba Ngù mỗi người một đòn bánh tét nhân tôm thịt mang theo lót dạ dọc đường.

Tôi thu dọn bát đĩa xong, vừa hạ cánh liếp xuống thì nghe tiếng Tư Mắm hỏi vọng từ dưới bến:

- Quán còn thức hả, chị Tư?

- Còn thức. Nhưng mà chẳng có gì ăn đâu. - dì Tư .

Tư Mắm đã lên bờ, tự tay chống cánh liếp cửa, vào quán cầm đèn ra soi xuống bến cho mụ vợ hắn bước lên.

- Chào dì Tư? Khuya rồi mà chúng tôi còn làm phiền dì quá - vợ Tư Mắm chúm chím cười, nói một câu lấy lòng bà chủ quán, đoạn từ tốn nhấc ghế ra, rón rén ngồi xuống.

Đúng như lão Ba Ngù nói, cứ trông hai người này, khó ai tin rằng họ là một cặp vợ chồng. Tư Mắm thì vừa hôi vừa bẩn, vừa hà tiện lại vừa vũ phu. Còn mụ vợ hắn tuy ăn vận mộc mạc ra vẻ một người lam lũ, nhưng từ cách nói năng cho đến dáng đi, cách đứng thì rõ là người hạng phong lưu đài các. Thấy tôi che tay lên miệng ngáp, mụ ta vỗ vỗ nhẹ vào lưng tôi:

- Chịu khó thức một chút. Rồi qua cho tiền sáng mai ăn bánh.

Tư Mắm xuống thuyền xách lên một chai cột nhà vuông (Một loại rượu mạnh của pháp) và một xâu cua biển. Hắn đi thẳng vào nhà bếp, vất xâu cua xuống cạnh lò, mắt đảo một vòng ra tận sân sau. Tôi đi sau lưng hắn, thấy vậy bèn hỏi:

- Chú kiếm rổ hay cái gì, bảo tôi lấy cho.

- À Không - Tư Mắm giật mình quay lại. - Qua coi nhà còn gì nhậu được nữa không thôi mà - Rồi hắn cầm chai rượu ra, rủ rỉ với dì Tư Béo đang loay hoay cầm khăn lau cốc bên bàn: - Nấu nồi cháo cua ăn chơi đi, dì Tư.

- Cháo cua làm gì. Nhà vừa nấu nồi cháo gà cho mấy ông khách. Họ chỉ húp mấy người vài muỗng, vì trước đó đã ních hết rá bún rồi, còn ăn uống gì nữa. Trời, nồi cháo gà nấu đậu xanh, ngọt lắm. Để hâm nóng lại thôi. - Dì Tư Béo miệng nói, tay khoát ra hiệu bảo tôi vào nhóm bếp lò.

- Vậy thì nướng vài con cua nhá chơi còn bao nhiêu biếu dì - Tư Mắm đảo mắt nói. Rồi hắn hỏi trống không:

- Chà khẩu hiệu ai mới dán đây nhỉ?

Dì Tư Béo không đáp. Tính bà ta vốn như vậy, ai hỏi riêng bà thì bà nói, không thì thôi. Mụ vợ tên lái buôn cau mắt nhìn hắn một cái, từ hai trong con ngươi phát ra những tia sáng quắc, nhọn như những mũi kim. Nếu tôi không chú ý mụ từ trước, thì không thể nào bắt gặp cái lườm dữ dội trong thoáng chớp ấy. Tư Mắm tức thời cười hề hề, nói lảng:

- Chèo rã cả tay mà bữa nay chẳng bán được mấy. Chỉ toàn bán chịu cho vài người mới quen.

Mụ vợ hắn hỏi xin quả chanh và một thìa đường trắng, rồi tự tay rót thứ rượu tây của mụ ra cốc, cho đường vào, hâm nóng cốc rượu trong bát nước. Rồi sau khi đã thả vào cốc một lát chanh rồi cầm cái đĩa đậy lên.

- Cháu không biết uống rượu đâu? Mụ cười chúm chím ngó dì Tư - Thuốc giải cảm đấy. Đi nhiều, mệt, uống một cốc này nó ra mồ hôi, khỏe người lại ngay.

Tư Mắm ngồi hút thuốc phì phèo. hắn lại hỏi dì Tư:

- Ờ lúc nãy thấy bác Ba Ngù chèo tam bản đưa ông nào đi đâu vậy, hả dì?

Dì Tư Béo nhướng lông này, làm mặt quan trọng. Bà ta không nhìn Tư Mắm, nghiêng người xuống gần bên con mụ vợ hắn, ngón tay trỏ đặt ngang mồm:

- Đừng có lộ bí mật nhá. ông ấy lớn lắm đấy. Cấp Nam Bộ mà! Chà, ông khỉ gì, quên rồi. Đoạn bà ta quay vào cửa bếp hỏi tôi: - Ông hồi nãy làm chức gì, mày nhớ không?

Tôi không muốn trả lời, nhưng buộc lòng phải đáp cho có đáp: - Cháu không nghe nói.

- Ối! Nó con nít, biết cái gì mà gì hỏi nó - Tư Mắm cười hề hề, nhịp chân rung đùi.

Mụ vợ Tư Mắm ngó ra bến, liếc hắn một cái, thong thả đưa bàn tay ngón búp mang vén mớ tóc mai:

- Bán mấy chỗ mà không ghi chép cả. Mai mốt đây quên đi, làm sao đòi được. Khó quá?

Mụ móc trong túi ra quyển sổ con và cây bút máy, đặt lên bàn. Tư Mắm rời ghế đứng dậy, bước ra ngoài tối.

Nghe hắn nói vọng vào: "Khuya rồi mà không mưa được oi bức quá. Đứng đây một chốc cho mát. Dì Tư, hễ được cháo thì dì nhấc ra, nướng luôn vài con cua, nghe dì!

Thấy tôi lại ngáp, dì Tư Béo bèn bảo tôi xuống chiếc thuyền mui ống của dì vẫn đậu trong mương, đi ngủ trước đi. Mụ vợ Tư Mắm vẫy tôi đến, giúi vào tay tôi tờ giấy bạc năm hào. Tôi không lấy, đặt trả lên bàn...

- Cầm đi mà? - con mụ cười cười, nhìn tôi có hơi ngạc nhiên.

- Ối! Nó không lấy thì thôi, kệ nó? Thằng này có phải như người ta đâu? - dì Tư Béo nói có ý bực tức vì tiếc hộ cho tôi.

Tôi bước ra ngoài, không nghe bà ta nói gì về mình nữa bèn đi thẳng ra mương chui xuống thuyền, rúc vào nóp (Một loại bao đan bằng cỏ bàng, một loại cỏ có nhiều ở đồng tháp dùng tránh muỗi thay màn). Muỗi vo ve kêu dậy trong những lùm cỏ rũ ngọn xuống hai bờ mương. Tôi tưởng nằm xuống là đánh một giấc thẳng cẳng, hóa ra lại không ngủ được.

Không hiểu sao cái lườm của mụ vợ Tư Mắm cứ như xoáy vào óc tôi, khiến tôi sờ sợ. Chưa bao giờ tôi thấy một người đàn bà nói năng mềm mỏng, nhỏ nhẹ mà lại có đôi mắt lạ lùng, vừa đẹp, vừa đáng sợ như vậy. Các bà bán cá trong chợ cãi nhau nhưng lúc giận dữ, mắt long lên sòng sọc vẫn không có nét gì đáng sợ như mắt con mụ này....

Độc lập hay là chết!

Nước Việt Nam của người Việt Nam !

Những dòng chữ rắn rỏi khắc gỗ in mộc bản trên các tờ khẩu hiệu mà anh Sáu tuyên truyền vừa dán vào vách từ chập tối bỗng lại hiện ra, nhảy múa trước mắt tôi.

Trong tai tôi nghe mơ hồ nhạc điệu buồn buồn của tiếng gió phẩy động ngọn dừa nơi một làng quê xa nào đó ở tận Tiền Giang mà tôi không còn nhớ rõ... Tôi lại thấy ông Huỳnh Tấn toét miệng ra cười. Gương mặt ông đang cười bỗng tối sầm lại. "Anh em có ai rút lui đâu? Tiếng muỗi vo ve mỗi lúc một xa dần. Tôi thiếp đi lúc nào cũng không hay biết nữa.
 
Chương 3:

Hai đêm sau đó, trời mưa liên tiếp. Phần vì trời mưa, không mấy người đi chợ, phần vì có lệnh của thôn bộ Việt Minh cấm họp chợ đêm, đề phòng bọn Việt gian trà trộn vào xã không kiểm tra được, nên xóm chợ Ngã Ba kênh vào lúc vừa quá đỏ đèn đã trở nên buồn thỉu buồn thiu.

Chỉ còn quán cà phê dưới tàn cây bã đậu, mấy tiệm hủ tiếu của người Hoa Kiều ở chỗ dãy phố ngói nằm bên trong chợ ngó ra kênh và quán dì Tư Béo là có ánh đèn, lác dác bóng người lui tới.

Chợ chỉ đông ban ngày, nhưng người cũng chỉ nhóm họp lưa thưa. Nhiều gia đình đã rục rịch tản cư xuống Thới Bình. Mấy hôm trước, những lúc trời im gió, dừng ở bờ kênh có thể nghe tiếng trầm trầm của súng đại bác bắn từ xa. Sáng nay, nhiều người còn nghe cả tiếng súng đại liên của tàu giặc ở hướng Ngã Năm. Dì Tư Béo đóng cửa quán, nghỉ một ngày để thu vén công nợ, đi đòi các món tiền rượu chịu của người quanh xóm.

Buổi trưa rảnh rỗi, tôi cũng mò vào chợ chơi, nghe ngóng tình hình. Phòng thông tin trước kia là nơi tụ họp đông người nhất. Vậy mà hôm nay cũng chẳng có mấy người vào xem tin tức, bởi vì toàn những in tức cũ. Một đôi dòng tin mới, viết tay dán vội lên đó thì cũng chẳng hơn gì sự hiểu biết của mọi người, chẳng đáng lưu ý và hấp dẫn bằng những tin đồn nhảm vô căn cứ, thậm chí nhiều khi còn vô lý nữa kia. Lực lượng phòng thủ của ta thế nào? Ngày mai rồi sẽ ra sao? Phần đông người ta đến đó để tự đặt ra những câu hỏi và tự nghĩ ra những câu trả lời. Bọn con gái bưng cả những rổ quả mãng cầu xiêm, vác cả những bó mía vào đựng trong phòng thông tin để ngồi bán. Chúng nó chơi đánh chuyền chuyền hoặc róc mía xả bừa bãi, la hét, cãi nhau om tỏi mà cũng chẳng ai rầy la gì. Tôi ngán ngẩm quá, bỏ phòng thông tin lững thững đi dọc ra bờ kênh. chợt thấy lão Ba Ngù đứng dưới gốc cây bã đậu to nhất Ở gần mé nước, tôi bèn men đến.

- Bác về từ bao giờ đó? - tôi hỏi cho có hỏi, chứ đã nghe dì Tư Béo nói đêm qua với con mụ vợ Tư mắm rằng lão về từ chiều.

- Về từ lúc về ấy! lão cười khà khà đáp giọng đã có chén. - Còn mày, bà chủ của mày bữa nay đi đâu mày sút xiềng (xiềng = dây xích, ý nói thoát khỏi ) dạo chơi đó.

- Bà đi đòi nợ. Đâu như tối mới về...

- Vô nhà lão đi ăn thịt rắn một bữa chơi đi!

- Rắn đâu mà ăn? Bác bắt được rắn à? - tôi hỏi vậy, chứ nghe nói thịt rắn là tôi đã lạnh xương sống rồi.

- Rắn kia chứ đâu, mậy. - Lão vỗ một cái vào lưng tôi, trỏ ra kênh: - Ghe chở rắn dưới U Minh vừa lên đấy?

Tôi trông theo ngón tay lão chỉ. Một chiếc thuyền nhỏ, mui lá, đang đè sóng rẽ vào bờ. Trước mũi thuyền, một thằng bé trạc mười bốn mười lăm tuổi, mặc quần đùi, cởi trần đứng dún hai chân, hai tay cầm cây sào dài chống xuống nước. Bên chân thằng bé có con chó săn, sắc lông màu tro, đang chồm lên chồm xuống, đuôi ngoắt qua ngoắt lại, hóng mõm lên bờ. Đằng sau lái, một ông cụ già cao to, vạm vỡ, chít khăn đầu rìu màu đỏ, áo bà ba đen thả cúc, vạt áo bay phần phật, đang nghiêng người quạt mái chèo đưa thuyền cập bến.

- Rắn ăn được sao? - tôi hỏi lão Ba Ngù.

- Trời ơi, thằng này ná quá (khờ quá)! Chưa ăn bao giờ à? Thịt rắn ngon và bổ số một đấy. Con nít ở đây đều nếm mùi thịt rắn từ hồi còn trong bụng mẹ.

- Cháu chưa ăn lần nào?

- Ngon tuyệt Ngon tuyệt! Rắn hổ đất nấu cháo đậu xanh nước cốt dừa thì biết nhá? Già bảy mươi tuổi ăn món ấy thấy trẻ tráng ra như con trai mười bảy. Sơ sài thì rắn nhóc rắn bông súng uớp xì dầu, cặp gắp nguyên cả con mà nướng, bẻ từng khúc cầm tay xé ra chấm muối ớt nhậu. Thịt ngọt không gì bằng. Cầu kỳ thì rắn hổ đất, mèo mun chưng thuốc bắc, gọi là "long hổ hội". Thường thường thì hoặc băm xào sả ớt, hoặc nấu ca- ri nước dừa... Khối cách ăn. Nhưng gì thì gì, cũng không bằng nấu cháo. Món phổ thông nhất mà. Vừa bổ lại vừa mát.

- Nướng thì còn thơm, chứ nấu cháo không tanh sao, bác?

- Ăn rồi mới biết, thịt rắn thơm như thịt gà, lại giòn dai, không bở như thịt gà. Có phải nấu suông đâu mà tanh? Này nhé, làm lông (lột da) xong, chặt khúc thả vào nồi cháo luộc lấy nước ngọt. Rồi mình gắp ra chứ. rồi mình xé nhỏ ra, băm nhỏ ướp hành tỏi, hạt tiêu, nước mắm. Rồi mình bắc chảo mỡ cho sôi. lên, thả tỏi vào. ấy, bấy giờ mình mới xào hắn ta! Xong, mình mới múc cháo ra bát, rồi mình xúc hắn ra, mình cho vào cháo khoắng khoắng mấy cái... Rồi mình rắc lên một ít hạt tiêu... E hèm! E hèm... Thôi, mày sẽ khắc biết thôi. Ghe đã cập bờ rồi kia!.

- Ra xem rắn, chúng mày ơi? - một giọng trẻ con bỗng hô hoán lên...

Tôi nghe tiếng quen quen, quay lại đã thấy thằng bé lùn lùn béo ục ịch đang dắt một đám trẻ con chạy băng qua sân chợ, lao xuống bến.

- Chào ông bạn già? Có con rắn hổ nào không? - Lão Ba Ngù vẫy tay hỏi.

Ông cụ già chít khăn đầu rìu màu đỏ đã đứng trước mũi thuyền. Nghe hỏi, ông liền đáp, giọng sang sảng:

- Kỳ này không có. Toàn rắn rằn ri cóc, rằn ri cá không thôi. Nhưng được cái rắn béo lắm? - đáp xong, ông bảo thằng bé cầm sào ban nãy: - Cò ơi! Lấy cái giỏ bự ra cho tía (cha, ba, bố ) đi con.

Thằng bé chui vô mui, đẩy hai cái giỏ tre ra khoang trước ông già dặng hắng một tiếng, xắn tay áo, hé sạp thuyền bỏ tay trần vào khoắng. Bọn trẻ nhỏ tức thời kêu lên: "Eo ôi?" và xô nhau lùi lại, vừa lùi vừa tranh nhau ngỏng cổ nhòm tới.

Ông cụ già thong thả lôi từ trong khoang ra từng con rắn một, bỏ vào giỏ. Con nào con nấy to cỡ bắp tay ông. Có một con rắn gì to như bắp chân người lớn nó cứ rúc vào khoang, khiến ông phải khom lưng thò tay vào, nắm cổ nó trì một lúc mới kéo ra được.

- Ông già có bùa, tụi bay ơi.

- Ối có con rắn quấn cánh tay ổng kia kìa!

- Khéo nó cắn, ông ơi?.

- Rắn người ta khâu miệng cả rồi. Cắn quái gì!

Bọn trẻ nhỏ chồm lên chồm xuống theo từng động tác cánh tay lôi của ông cụ già. Có đứa bì bõm lội xuống nước ngập ngang đầu gối, đứng ngó vào trong. Có đứa mặt tái xanh tái xám vì sợ, nhưng vẫn thích xem, cứ nhấp nha nhấp nhổm giẫm bùn sùng sục ở chỗ mé nước.

Khi ông già bậm môi nâng cái giỏ nặng trịch vác lên vai thì con chó săn lập tức phóng một cái, nhảy lên bờ.

Bọn trẻ con chạy dạt ra hai bên, làm nước bắn tung tóe. ông già lần lượt vác cả hai cái giỏ to tướng lên bến, đặt xuống gốc một cây bã đậu.

Những người mua đã trực sẵn chung quanh. Ai trỏ con rắn nào, ông già thò tay vào giỏ bắt ra con rắn ấy. Nói bao nhiêu tiền, họ trả bấy nhiêu, không kì kèo ngã giá như kiểu người ở các chợ tỉnh. Mỗi con rắn bán xong được siết chặt cổ bằng một sợi lạt và trao cho người mua xách về.

Lão Ba Ngù chọn mãi mới mua được một con ưng ý. Chao ôi, nom con rắn mà kinh? Bụng dẹt to cỡ bắp vế, không dài lắm, non mét ruỡi thôi, mà cái đầu thì bé như một quả bàng khô. Lão hất con rắn nằm vắt ra sau gáy, một tay bóp ngang cổ, một tay nắm gần chót đuôi đưa tới trước. Con rắn gồng mình nổi vảy lên chơm chớm như gai mít, sống lưng uốn qua uốn lại trên vai lão Ba Ngù, khiến tôi phát khiếp...

- Đi? Theo lão về nhà làm bữa cháo cho biết! - lão nhướng mắt bảo tôi.

- Để lúc khác bác ạ? Bữa nay cháu bận trông quán cho dì Tư... tôi kiếm cớ thoái thác.

- Hê Hê! Mày trông cái chợ thì có, chứ trông gì quán!

- Thôi, không thích ăn thì thôi. Không ai ép mày? - lão bước đi mấy bước còn quay lại nhìn tôi, cười khà khà: - Chỉ lo chừng mày quen mùi rồi, không đợi mời, mày cũng xách bát xách đũa chạy tới thôi!

Tôi trở về quán nuốt vội ba hột cơm nguội, xem chừng cốc bát đĩa có suy suyển món nào không, rồi quơ cái áo vét tông khoác vào người, đóng cửa quay ra chợ.

Tròi đã xế. Mặt trời đã xuống ngang ngọn cây tràm bên kia bờ kênh. Ông cụ già bán rắn vẫn còn ngồi dưới gốc cây bã đậu, tán lá xanh um ngả bóng đen trên mặt đất Bọn con nít ban sáng bây giờ cũng không thiếu mặt đứa nào, đâu như còn có thêm mấy thằng mới tới. Chúng chen nhau ngồi trước hai giỏ rắn, mặt mày nhem nhuốc, đỏ lơ đỏ lửng vì bêu nắng, vì mồ hôi và bụi bặm. Đứa thì khoanh tay lên gối, dán mắt vào những con vật bò sát kinh tởm đang ló đầu ra mắt giỏ, đứa thì cãi nhau, tiếng nói tiếng cười chí chóe.

Ông cụ già vẫn ngồi đó, tay chậm rãi nhồi thuốc lá vào nỏ tẩu: cán tẩu vừa dài vừa quăn queo trông rất lạ.

Gương mặt ông khoáng đạt, rất dễ mến. Làn da rám nắng hun hun màu đất thó vẫn còn căng ra như da mặt người trẻ, chỉ đôi khóe mắt và trên vầng trán cao là có xếp mấy đường nhăn. Râu ông không dày lắm, nhưng chắc như rễ tre và đen nhánh. Đôi mắt to, sáng quắc, núp dưới cặp chân mày rậm đen. Khi ông cắn tẩu thuốc vào mồm, môi dưới hơi trễ ra, méo xệch một bên vì khối nặng của cái tẩu hình thù kỳ dị và hơi to quá cỡ, thì trông ông như có vẻ dữ tợn.

Tôi ngồi sát vào gốc cây, bên ông cụ già lực lượng ấy. Bộ quần áo bà ba đen đã bạc thếch vì dãi dầu nắng mưa sương gió của ông còn mang nguyên mùi hăng hăng của lá cỏ cây rừng tận những vùng đất hoang sơ, và mùi khói nồng lửa bếp trong chiếc thuyền con lưu động.

Thấy tôi mới tới, thằng bé lùn lùn béo ục ịch hất hàm nháy mắt tôi, rồi ngó vào giỏ rắn:

- Sợ không?

Tôi cười, không đáp. Nói sợ thì nó chê mình nhát, mà nói không thì không đúng.

- Ê, nó sợ rồi tụi bay ơi! - một đứa lập tức kêu lên.

Hình như ông cụ già không biết có đám trẻ nhỏ ngồi chung quanh. Đôi mắt to, đen nhánh đăm đăm nhìn vào khoảng không trước mặt. Không biết ông đang nghĩ gì.

Bọn trẻ nhỏ thấy ông dễ dãi, không rầy la gì, và nhân có tôi mới tới, chúng muốn tỏ ra bạo dạn hơn nên càng nghịch tợn. Chúng nheo mắt, thè lưỡi, có đứa con giả vờ toan thò tay vào giỏ lôi rắn ra để ném vào tôi. Mỗi lần có đứa trẻ nào nhích lại gần giờ rắn thì con chó săn nằm bên chân chủ lại nhổm dậy, vươn cổ ra nhe răng gừ gừ. mấy tiếng. Rắn quấn nhau trong giỏ nằm im nhưng nghe tiếng chó gừ, những con rắn đang ló đầu ra mắt giỏ vội giật mình rụt vào, uốn éo cựa quậy làm cho rắn lớn, rắn bé trong giỏ chuyển lung tung. Mấy đứa lì lợm nhất, cởi trần truồng ngồi chầu hẫu gần bên giỏ rắn, liền co chân bật ngửa ra sau. Chúng nó cười hí hí một cách khoái trá. Nhưng cũng có đứa ngồi ở xa hơn lại mếu máo muốn khóc. Thằng bé lùn lùn béo ục ịch cầm cái que nhổm tới nhổm lui, quơ quơ ra bộ sắp chọc vào giỏ. Con chó săn lại vươn cổ ra gừ...gừ... mấy tiếng.

Lác đác có vài chiếc xuồng cập bến, họp buổi chợ chiều. Năm ba người đàn ông cởi trần, áo vắt vai từ trong dãy tiệm đi men ra, dừng lại dưới bóng cây bóng mát.

Trời oi quá! Chiều rồi mà nắng vẫn chói chang. Không một làn gió động. Những chiếc lá bã đậu như dán chặt lên nền trời, tôi ngửa cổ nhìn lên đến mờ mắt vẫn không tìm ra một chót lá nào nhúc nhích.

- Tàu bay bà con ơi - một người đàn ông bỗng hốt hoảng kêu lên, nhón nhắc ngóng chung quanh.

- Im? Để nghe coi nào! Im nghe chứ.

Mọi người nín lặng. ông cụ già bán rắn nhấc cái tẩu thuốc ra khỏi miệng, ngó xuống chân, cười mủm mỉm.

Tiếng vu vu của một con ong bầu đít vàng bay trong vòm nhánh lá rậm rịt, nghe hệt tiếng máy bay.

- Mồ tổ con ong. Làm người ta giật mình - người đàn ông kêu lên ban nãy nhăn nhó nói một câu chữa thẹn.

Từ hướng biển Đông dậy lên những tiếng ầm... ầm... nối nhau, nghe rung rinh cả chân trời.

- Chắc là tàu giặc, bà con ơi!

- In như máy bay ném bom chứ!

- Mình nghe giống tiếng sấm...

- Để nghe mà... Làm gì mà oà lên như giặc tới vậy?

Mấy người đàn ông cãi nhau một chốc rồi kẻ ngồi xuống gốc cây cầm áo quạt phe phẩy, người đi tới đi lui trong bóng râm hừng hực hơi bóng từ mặt đất xông lên, lặng lẽ không nói gì nữa. Thằng bé lùn béo ục ịch bỗng nhổm dậy.

- Tàu giặc, các chú ơi? Nghe ì... ì... đấy.

- Thằng con nít, đừng có nói bậy. Bộ mày ở ngoải vô sao mà nói đó là tàu? - người đàn ông tóc chơm chởm như gai trừng mắt quát.

Raà... ầ ầm? Rầm...? Rầm.:: Rầm... ầ... ầm! Bốn tiếng nổ bất thần nghe điếc tai. Những tiếng nổ chát óc, rền rền như tiếng súng đại bác, gần làm. Đám con nít thét lên, cắm cổ chạy túa đi. Mấy người đàn ông kia, có người cũng quýnh quáng toan chạy, nhưng cũng có người vẫn đứng yên nghe ngóng. Tôi quen tiếng súng tiếng bom từ mấy tháng nay, nên chỉ co người thụp xuống; khi dứt tiếng nổ, tôi liền đứng lên quan sát chung quanh. Nếu đó là súng giặc bắn vào thì cũng phải trầm tĩnh xem chúng tới từ hướng nào rồi hẵng chạy tránh chứ.

Dưới kênh, thuyền xuồng tranh nhau tách bến, giầm chèo va khua lộp cộp. Một vài chiếc tam bản nhẹ hai chèo đã rời đi xa lắc.

Ông cụ già bán rắn vẫn ngồi đó, phì phèo tẩu thuốc lá mặt bình thản như không. ông đưa mắt nhìn lên nền trời rồi hỏi tôi:

- Cháu không về nhà à?

- Cháu ở gần đây thôi. Đấy, chỗ cái quán đấy!

Tôi đáp, giọng vui vui,bụng có hơi rạo rực một chút vì thấy ông già chú ý tới mình. ông cụ già thong thả đứng dậy, búng tay bóc... boóc mấy cái. Con chó săn ve vẩy đuôi, chồm hai chân trước lên sủa oang oang, vụt lao đi như một mũi tên. Một lúc sau, con chó quay về dắt theo thằng bé cầm sào chống trước mũi thuyền ban sáng.

- Tìm được chú Võ Tòng không? - Ông già hỏi.

- Người ra bảo chú đi rồi. Đêm qua trời mưa, có con beo vào bắt gà dưới xóm Sậy, chú Võ Tòng rình bắn được. Đâu như chú chở con beo ra bán ngoài Ngã Bảy.

Tôi đã toan về, nhưng nghe thằng bé nói vậy bèn dừng nán lại, nghe hai cha con trò chuyện.

- Cò à, khiêng giỏ xuống ghe đi con.

- Không bán nữa sao, tía?

- Thôi. Khiêng đi...

- Tây tới gần rồi sao, tía?

- Tây đâu mà Tây. Dông sắp tới rồi. Dông lớn lắm đây con!

- Lúc này có tiếng sét nổ trên không, kinh quá hở tía.

- Ừ, thôi nhanh nhanh lên, con.

Lúc bấy giờ, gió bắt đầu thổi rao rao nghe mát mát.

Con chó săn đã phóng xuống thuyền, đứng sau lái ngóc mõm lên nhìn trời. Cha con ông cụ bán rắn vừa kịp khiêng hai chiếc giỏ xuống thuyền thì cơn giông ùn ùn thốc tới. Mây ở đây từ dưới rừng xa, lúc nãy còn không trông thấy, giờ đã đùn lên đen sì như núi, bao trùm gần kín khắp bầu trời. Từng cuộn mây khói đen là là hạ thấp xuống mặt kênh làm tối sầm những ngọn sóng đang bắt đầu gào thét, chồm chồm tung bọt trắng xóa. Từng đàn cò bay vùn vụt theo mây, ngửa mặt trông theo gần như không trông kịp. Xóm chợ Ngã Ba Kênh dường như bé lại thu mình cúi rạp xuống mặt đất. Mấy chiếc xuồng ba lá, mấy chiếc tam bản của ngườl trên phố buộc dưới chân cầu nước trồi lên hụp xuống theo lượn sóng nhào, dựng mũi ngóc lên như ngựa muốn bứt dây cương.

Chiếc thuyền chở rắn của cha con ông già đã chèo giạt sang bên kia bờ, xuôi xuống một quãng xa, lắc lư chui vào một con kênh nhỏ, hai bên bờ mọc chen chúc những cây tràm vỏ trắng, cành lá rậm rạp.

Tôi toan chạy đi thì chợt thấy dưới gốc cây bã đậu có một chiếc túi da beo. Thôi, đúng là của ông già bỏ quên đây rồi. Tôi chộp lấy, cắm cổ phóng theo bờ kênh, vừa hú vừa ngoắt sang bên bờ bên kia. Không ai nghe tiếng tôi hú gọi cả. Gió thổi ầm ầm ù ù như có hàng nghìn chiếc cối xay lúa khổng lồ đang quay thẳng cánh trên trời. Bờ kênh chỗ tôi đứng trống huếch trống hoác không một lùm cây bụi cỏ. Nhiều lúc, tôi có cảm giác như gió sắp nhấc bổng tôi lên, thổi tung đi. Dãy phố ngó ra mặt kênh chuyển mình nghe răng rắc, cột gỗ hàng hiên lay lay như đưa theo một chiếc võng vô hình. Ngói bị cuốn tung lên, bay khua lảng cảng trên nóc nhà nhiều nghe đến phát sợ.

Không về đến quán kịp nữa rồi. Tôi vừa thở vừa khom người chạy vào cái miếu cô hồn nằm xê xế phía dưới chợ, chỗ cây đa cổ thụ cành lá rậm xùm xòa đang quằn lên vật xuống như sóng. Trời đất mỗi lúc một tối sầm lại. Vũ trụ quay cuồng trong cơn gió mãnh hệt. Những tia chớp xé rạch bầu trời đen kịt phát ra những tiếng nổ kinh thiên động địa chung quanh ngôi miếu. Tôi thu người lại như một con trút, ngồi sát vào chân bệ thờ. Tường miếu xây bằng đá tổ ong, mái lợp ngói trát vữa rất chắc nhưng tôi bắt đầu cảm thấy không an toàn chút nào. Chà, giữa lúc trời sét mà lại dại dột tìm chỗ trú ẩn ngay dưới một gốc cây to Tôi vốn ghét những chuyện hoang đường quái đản, không bao giờ tin rằng có ma qủy, nhưng không hiểu sao trong giờ phút này bỗng thấy trong người rờn rợn. Pho tượng "ông Tiêu" (Thần quản lý ma quỷ) mặt vằn vện, đầu mọc ba cái sừng, chiếc lưỡi thè dài quá rốn, đứng ngay trên đầu tôi. Mỗi lần trời chớp, tôi đều ngửa mặt nhìn lên pho tượng với một nỗi lo sợ và tò mò không cưỡng được.

Tôi dặng hắng một tiếng rõ to, phủi đít đứng dậy bước ra ngồi ngay ở cửa miếu. Một vài hạt mưa bay chéo hắt vào mặt tôi lạnh buốt như nước đá. Bầy kiến đất bò ra bò vào cạnh chân tôi chúng quơ râu trò chuyện với nhau một cách bình thản, lại còn rủ nhau lũ lượt bò ra ngoài thềm miếu nữa chứ không cuống cuồng chạy rúc vào tôi như những khi trời sắp mưa to.

Cái túi da beo đựng vật gì hơi nặng thì phải. Hình như một con dao, bởi cái sừng ló ra ngoài cồm cộm thúc vào hông tôi. "Thử mở ra coi cái gì trong này?" Tôi vừa nghĩ thế, bỗng nghe từ trong lòng mình văng vẳng có tiếng bảo: "Đừng động chạm đến của cải của người ta. Tò mò vậy không tốt đâu!" Tôi ngồi im một lúc, bàn tay ngứa ngáy không chịu yên lại nắn nắn cái túi. Bây giờ tôi lại nghe tiếng văng vẳng ban nãy cùng phụ họa theo ý nghĩ của tôi: "Xem chút thôi mà! Vả chăng, mình có ý định lấy gì trong túi này đâu!" Thế là cái túi da beo mà tôi đã nhét nửa trong nửa ngoài vào túi áo vét-tông, tự nãy giờ còn nằm yên đã bị bàn tay tôi lôi phăng ra tức khắc.

A! Cái dao găm!

Tôi chợt kêu khe khẽ và từ từ rút lưỡi dao ra khỏi chiếc da bao láng bóng vì đẫm mồ hôi người lâu năm ánh thép xanh xanh của lưỡi dao sắc như nước lóa lên mỗi lần trời chớp. Cán dao bằng sừng, nạm khâu đồng dỏ có chạm hoa văn rất đẹp. Cán bằng sừng gì như sừng nai. "Còn những gì khác nữa trong cái túi bí ẩn này? đằng nào mình cũng đã mở ra rồi. Xem một chút thì có làm sao!"

Sự tò mò náo nức càng thôi thúc tôi hăm hở lật ra. Đây là một gói lưỡi câu đủ cỡ, mươi hai chiếc cả thảy, gói trong một mảnh giấy đầu cỡ bàn tay. Một cục đá và một miếng thép dèn dẹt to và dài, hơn mặt bao diêm. Đây nữa là một gói thuốc. Thuốc gì mà dẻo quánh, xin xỉn vàng, mùi hăng hắc, đưa lên mũi ngửi thấy buồn nôn. Tôi bỏ lại vào túi da beo tất cả các thứ linh tinh ấy, chỉ trừ cái dao găm, rồi thắt miệng túi thật chặt bằng sợi dây gân khô quắt và trơn tuột.

Cầm chặt cán dao trong tay, tôi bỗng thấy người mình như cao lớn hắn lên; dường như sức khỏe tăng lên vạn bội, tôi nghe mạch máu chạy râm ran trong những đầu ngón tay. Trời chớp nhoáng nhoáng. Tôi thong thả đứng dậy rồi bất thần quảy phắt lại, trừng trừng nhìn vào ngôi miếu. Pho tượng kinh khủng vẫn lặng lẽ đứng trên bệ thờ, lè chiếc lưỡi dài màu máu xuống rốn, bốn chiếc răng nanh trắng lòa nhe ra như cười.

Một lúc sau, gió dụi dần, rồi tắt hẳn. Trên ngọn đa tối sầm mà cơn gió cuồng vừa gào rú ghê người ban nãy, mấy con chim chào mào xôn xao chuyền cành nhảy nhót, hót líu lo. Nắng vàng màu da chanh phủ lên cây cỏ một thứ ánh sáng dịu mắt, trong suốt và lung linh dương như có thể sờ được.

Tôi trở ra bờ kênh, đi dọc dài theo bến một lúc, hy vọng sẽ gặp lại chiếc thuyền con của ông cụ giá bán rắn. Nhưng ngóng hoài mà vẫn không thấy tăm dạng chiếc thuyền và cha con ông già đâu cả. Nhìn về nơi tít tắp, chỉ thấy ánh phản quang của ráng chiều sắp tắt từ mặt nước dòng kênh hắt lên những lùm bụi ven bờ. Sực nhớ rằng dì Tư Béo sắp về, tôi bèn gấp buộc trở lại quán dể lo bữa cơm chiều.
 
Chương 4

Từ ngoài góc sân sau, tôi đã thấy trong hơi khói bếp bay tỏa ra xa mùi cháy của cá kho khô ướp nước màu dừa (nước hàng làm bằng nước dừa cô đặc), rưới mỡ béo ngậy và có rắc hạt tiêu thơm phức.

- Ông con ơi? Cơm đã dọn sẵn rồi đấy? - dì Tư Béo mát mẻ nói vọng ra.

Đáng lẽ phải đi nhanh vào và sẵn sàng chịu đựng những câu quát mắng của bà chủ đôi khi cũng bất thần nổi nóng với mình, thì tôi lại bước từng bước một cách hết sức chậm chạp.

Mùi cá kho khô thơm lừng mà ban nãy nghe thấy đã thèm rõ rãi khiến tôi cảm thấy bụng đói cồn cào, bây giờ bỗng bay đâu mất. Tôi không sợ những lời quát mắng.

Thậm chí những câu chửi rủa tục tằn cũng không làm tôi bực túc hay run sợ nữa. Bởi vì, đối với một thằng bé lưu lạc một thân một mình như tôi, thì bất cứ người nào cũng có thể hoạnh họe, bắt nạt, trút giận dữ lên đầu tôi một cách hết sức vô lý được. Điều đó, tôi chẳng coi ra mùi gì. Thực tình thì. ban đầu tôi cũng khổ sở đau đớn vì phải hứng chịu những câu mắng mỏ thô lỗ cục cằn kiểu bọn đầu đường xó chợ mà từ tấm bé, vốn sống được nuông chiều trong một gia đình nề nếp, tai tôi chưa hề quen nghe. Tôi đã nghĩ rằng ngày nào cũng ngửa tai ra mà hứng lấy những lời xấu xa như vậy, thì mình đến vỡ óc ra mà chết thôi. Tôi tự nhủ: "Dại gì mình làm tờ giấy thấm để có giọt mực nào rơi xuống cũng hút lấy? Hãy ném trả lại cho họ". Thế là tôi đã nhanh chóng tìm ra phương pháp chống trả tiêu cực một cách có hiệu quả.

Một là tôi cứ lờ đi, sự phản ứng ngấm ngầm bên trong đã tạo thành một thứ vỏ thép mà những lời cay độc đến mấy bắn vào cũng sẽ lập tức bật ra quay về trúng lại họ.

Chẳng vậy mà những người đã há vành cung miệng, dùng lưỡi bắn tôi đã lồng lộn lên trước thái độ thản nhiên như không của tôi đó sao? Nhưng trái lại, tôi rất sợ - vừa sợ vừa căm ghét - những câu mát mẻ, nói bóng nói gió xa xôi. Thái độ ấy thường gây cho tôi nhiều đau đớn, và những vết thương trong tâm hồn thơ bé của tôi cứ tấy lên mỗi lúc nhớ đến giọng nói mát mẻ, ngọt như mía lùi nhưng lại có xát ớt mà một người lớn đã ném cho một đứa trẻ con...

Thấy tôi lặng lẽ bước vào, dì Tư Béo càng bực tức:

- Bữa nay mày câm rồi à? Thụt lưỡi rồi hay sao?

Tôi chẳng nói chẳng rằng, cứ lẳng lặng đi lau đũa lau bát, dọn mâm ra bàn. Bà ta nhấc nồi cơm, múc cá kho, xới cơm ra bát xong đâu đấy, bèn hứ một tiếng:

- Không ngồi vào mà ăn, còn đợi mời đợi thỉnh nữa sao?

Chưa có lệnh bà chủ, lẽ nào tôi dám tùy tiện, ngồi vào mâm trước? Mà đợi bà phải bảo thì tôi lại mắc vào cái tội chờ mời chờ thỉnh? Đằng nào, tôi cũng có lỗi cả? Mà nào tôi có tội gì cho cam. Bà ta bảo tôi rằng bà ta đi đòi nợ đến tận đỏ đèn mới về. Quái qủy gì đã bắt bà về sớm từ chiều, tôi làm sao rõ được?

Bà ngó nghiêng vào mặt tôi, có lẽ dò xem thái độ hơn là chờ câu trả lời.

- Cháu không đói! - tôi đáp bằng cái giọng không phải của chính mình.

- Mặc mày thôi. Cơm nhà tao cũng chẳng thừa?

Bà ta nói lúng túng, giọng khê đặc như nén lại giữa cổ, bàn tay run run vờ cầm đôi đũa, dôi mắt trừng trừng nhìn tôi. Từ bộ mặt giận dữ, chiếc cằn nung núc lúc nào cũng ướt đầm mồ hôi của bà ta, đến mọi vật quen thuộc trong quán, tất cả cứ mờ dần trước mắt tôi... Tít đằng xa kia, dưới gốc cáy bã đậu ở chỗ ông cụ già bán rắn đã rời đi, một vệt ánh sáng nhờ nhờ phủ dài trên mặt đất bắt đầu sẫm lại. Vẳng trong tai tôi, giọng nói ấm áp đầy trìu mến của ông già xa lạ: "Cháu không về nhà à?" Từ trong ngực tôi như có một cục gì cứ dâng lên, tôi cố nuốt xuống mà nó vẫn cứ trào lên nghẹn ngang giữa cổ. Tôi không nén xuống được nữa, đành để cho nó thoát bật ra thành tiếng nấc và tôi đã khóc.

Hình như dì Tư Béo chỉ chờ đợi có bao nhiêu đó. Nụ cười hả hê, chiến thắng của bà ta lập tức nở ra như miếng bánh phồng tôm thả vào chảo mỡ đang sôi reo. Có lẽ bà ta tưởng rằng thái độ lạnh nhạt và những lời mát mẻ của bà ta đã có hiệu quả trông thấy. Mà như thế là đủ rồi.

Thường thường, những người lớn sau khi thấy mình chiến thắng dược một đứa trẻ con, hành hạ cho nó khổ sở đến điều, lại hay muốn tỏ ra rộng lượng, nhân hậu một cách hết sức buồn cười.

- Chà, hôm nay dì... như con mụ điên ấy? Đừng có chấp nê tao làm gì? Mày mà oán dì thì mày phải tội đó. Chẳng qua là dì giận các lão già, rượu chịu thì cứ uống phứa đi như nước, mà tiền thì một đồng cũng không chịu nhả ra!

Bà chủ quán vừa nhăn nhó làm lành vừa gật gà gật gù thú nhận như vậy.

Bà ta lăng xăng đi thắp đèn, cười nói bả lả, làm như không có chuyện gì vừa xảy ra, một hay bảo tôi ăn cơm đi kẻo nguội.

Tất nhiên là tôi phải ngồi vào bàn cùng ăn với bà ta thôi. Suốt bữa cơm, dì Tư Béo không ngớt phàn nàn cho số phận hẩm hiu của mình. Rằng bọn đàn ông vô sỉ, thấy bà ta một thân một mình giở trò lừa đảo, có đứa còn lợi dụng tình thế gay go giặc sắp đánh vào đến nơi, cứ ỳ ra không trả nợ, thậm chí còn toan bắt nạt bà... Cơn giận làm bà ta phát no, hay vì mải nói quên ăn không biết, bà ta cứ luôn gắp bỏ vào bát tôi, cho đến khi tôi ăn xong rồi mà bát cơm trước mắt bà ta chưa vơi được quá nửa.

- Chúng nó đừng hòng bắt nạt bà! - dì Tư Béo kết thúc tràng kể lể của mình bằng câu quyết liệt ấy, trước khi cầm bát đưa lên miệng để và nốt lưng cơm còn lại.

- Đúng như vậy thôi? - tôi buột miệng nói.

- Mà mày thấy có phải không? Đừng có đứa nào hòng...

- Dạ. Người oai tín như dì thì cháng ai dám động tới chéo áo chứ trông gì bắt nạt.

Bà ta dặng hắng một tiếng, bộ mặt nom rất hả hê. Bây giờ tôi mới nghiệm ra rằng chẳng riêng gì bọn lau nhau chúng tôi, mà người lớn người già lại càng rất thích được khen cho dù đó là lời khen xỏ của một đứa trẻ con. Của đáng tội, nói rộng ra thì chưa biết thế nào, chứ trong cái xóm chợ này, những tay sừng sỏ nhất cũng chẳng dám động đến cái móng chân bà chủ quán rượu cô độc lắm phù phép này. Không có mấy người là không nợ tiền bà. Cứ một đồng thì một ngày năm xu lãi. Cần lúc nào, hỏi lúc nào cũng có. Ai gặp bà ta ngoài đường cũng chào. Bà ta lại là người chắt bóp, tiện cặn, không đánh bài bạc gì, nên hai cái túi bóng mỡ cài nứt kim băng cứ phồng lên, no tròn theo thân hình béo ních của chủ nó. Cuộc đời và uy tín của bà ta, nói tóm lại đều tập trung ở hai cái núi nặng trĩu giấy bạc này.

- Lão Ba Ngù ngày hôm nay có tới đây không? - dì Tư Béo chợt hỏi tôi.

- Không thấy đến. Việc gì thế, dì?

- Không. Cũng chẳng có việc gì. Hỏi thế thôi?

- Lúc sáng cháu có gặp bác ấy ở chợ. Bác ấy mua con rắn to lắm. Bác ấy rủ cháu về theo bác ăn cháo rắn chơi. Nhưng cháu không đi.

- Thảo nào? Chắc là nướng trọn mấy đồng bạc của người ta nhờ lão đưa trả cho tao rồi. Hứ hự

Tôi cất dọn mâm bát xong, không biết làm gì, nhận thấy bếp còn hồng bèn đi lấy ấm đặt lên. Dì Tư Béo thì ngồi nhai trầu tóp tép ngoài chiếc chõng tre, tay không ngớt phẩy quạt xành xạch.

Đêm oi quá. Không có lấy một chút gió nhẹ cho đỡ bức. Dường như cơn dông ban chiều đã phung phí quá trớn, giờ đây, đêm đến, hết sạch gió rồi, đành hổn hển nén sự bực bội vào trong bóng đen dày đặc một thêm nặng nề trùm xuống mặt đất mênh mang.

- Chào dì Tư. Gớm, mắc cơn dông hồi chiều, chèo xuýt chết. Mệt rã người. Về tới quán dì, thấy khỏe ra ngay.

Tiếng cười lanh lảnh của mụ vợ Tư Mắm cùng với chiếc áo bà ba lụa màu xanh nước biển của y xuất hiện trong quán như xua tan bầu không khí ngột ngạt từ nãy giờ.

- Đã cơm nước gì chưa? - dì Tư Béo bước xuống chõng, vặn to ngọn đèn, hỏi cách vồn vã.

Mụ đàn bà uốn lưng như một con mèo cái, đưa mắt nhìn vào tận bếp rồi xòe đôi bàn tay trắng muốt để lên mặt bàn. Mụ thong thả đặt đít xuống ghế, thở phào ra:

- Chừng này chưa có gì bỏ bụng thì có mà chết! Ăn cơm rồi dì ạ. Nhưng nếu nhà còn thứ gì mặn mặn thì dì bắc hộ nồi cháo hoa, chốc nữa húp vài bát cho nó tỉnh người.

- Bữa nay tôi đóng cửa cả ngày, có bán chác gì đâu. Nhà còn một ít cá kho tiêu thôi. Tôi thèm, kho ăn chơi một bữa, hãy còn nửa nồi đây! - dì Tư Béo đáp.

Tư Mắm khom người bước vào quán, nách cắp chai rượu tây, tay cầm con cá mực khô.

- Nướng giùm qua chút, chú em! - hắn nói vọng vào bếp, mắt nhận ra ngay tôi dang đứng trong bóng tối.

Không chờ tôi bước ra, Tư Mắm đi luôn vào bếp giúi con mực khô vào tay tôi. Rồi hắn móc thuốc lá ra, nách vẫn cắp chai rượu, bật lửa lên đốt điếu thuốc hút tại chỗ. Đôi tròng mắt bé ti hí như mắt rắn đảo quanh một vòng rất nhanh, khiến tôi phải sợ sợ, không dám nhìn hắn.

Tôi quạt than đỏ lên, nướng mấy con mực xong, đặt lên cái đĩa kèm theo quả chanh và. một ít hạt tiêu giã nhỏ, bưng ra bàn.

Tư Mắm gọi một xị rượu đế, ngồi ngay ở đầu bàn, chiếc bàn dài chỗ cửa ra vào, rót rượu ra cốc và lặng lẽ xé mực bỏ vào miệng nhai nhồm nhoàm. Mụ vợ hắn ri thì ngồi chỗ góc bàn nhỏ bên trong, kê sát vách. Thấy mụ mở nút chai "cột nhà vuông rót thứ rượu thơm thơm vào chiếc cốc nhỡ, cho thìa đường vào, tôi vội vàng lấy ngay ra bát nước sôi đặt lên bàn, trước mặt mụ ta.

- Thằng bé này ngoan quá! Em phải là đứa làm bồi các nhà hàng lớn ngoài tỉnh, chứ không phải là chú nhỏ hầu rượu chỗ này đâu?

Mụ cười cười khen tôi như vậy và chậm rãi thả cốc rượu ngâm vào bát nước sôi. Hai bàn tay ngón búp măng thoăn thoắt mở con dao xếp kiểu sáu lưỡi ra, cắt gọn nhẹ một lát chanh rồi cho vào cốc, úp đĩa lên đậy lại. Giống hệt như cái lần mụ đã "chế biến món thuốc giải cảm” bận trước.

- Hai ông bà ngồi chơi, nghỉ một chốc đi! Tôi đi tắm một cái cho mát đã, - dì Tư Béo vừa nói vừa bước vào buồng lấy quần áo, và khi trở ra, không quên bảo tôi: - Vo nắm gạo bắc lên bếp nấu nồi cháo đi, con. Nhớ nấu loãng nhá!

Trong một thoáng, tôi đã làm xong việc bà chủ bảo, rồi đến lặng lẽ ngồi bên bếp lửa, chỗ nghỉ ngơi và là nơi trú ẩn tốt nhất cua tôi mỗi khi tôi muốn quan sát một người khách rượu nào đó ở bên ngoài.

Từ trong bếp lửa nhìn ra, không có một cử chỉ nào của Tư Mắm lọt khỏi mắt tôi. Hắn uống hai cốc rượu liền, uống vội vàng, xong lại xé mực nhai nhóc nhách, mắt luôn luôn ngó ra cửa... Hành tung của đôi vợ chồng này có nhiều khác lạ, càng khiến tôi chú ý theo dõi. Những lần trước, quán đông khách, Tư mắm vẫn đến uống rượu.

Mắt hắn luôn luôn nhìn vào cốc rượu, dường như người đăm chiêu nghĩ ngợi, hoặc có một tâm sự đau buồn gì.

Hắn không mấy khi bắt chuyện với ai và không nhìn ai. Chỉ khi nào hắn đưa cốc rượu lên uống, đôi mắt ti hí mới liếc ngang, nhanh như tia chớp, ném cái nhìn trộm ra xung quanh. Đêm nay hắn không nhìn vào cốc rượu, mà chỉ ngó ra cửa.

Không biết con mụ vợ nó làm gì ngoài góc bàn. Chỗ tôi ngồi, khuất tấm vách ngang không trông ra được. "Chà, con qủy cái này là một tay rượu không vừa đâu?". Tôi nghĩ thầm như vậy. Mới cách đây có hai hôm mà nó đã mở thêm một chai "cột nhà vuông" nữa rồi. Dứt khoát không phải là thuốc giải cảm như mụ ta nói. Thuốc thì người ta nhắm mắt, nhắm mũi uống một hơi chứ đâu có ngồi nhấm nháp từng ngụm, thưởng thức một cách khoái trá như những tay bợm rượu sành sỏi? Và bàn tay nó cầm thìa khuấy cốc, ngón út cong lên đầy kiểu cách, có phải là bàn tay của người lam lũ đâu. Giá như đó là những con mẹ che dù đầm từ ngoài tỉnh chạy vào, luôn mồm kêu là không có nước ngọt tắm, không có nước đá uống thì là chuyện dĩ nhiên, không nói làm gì. Vợ một tên lái mắm tèng xí (đồ bỏ, đồ vứt đi) mà chứng học đòi làm sang thế kia ư?

Không? Dứt khoát là không phải. Bộ quần áo bà ba tầm thường của mụ chỉ là cái lốt bên ngoài, không che giấu nổi cốt cách của mụ ta.

Con mụ quái qủy này đang làm gì ngoài đó? Câu hỏi ấy cứ lởn vởn qua hình bóng những lưỡi lửa nhảy múa trước mắt tôi. Tôi không thể chịu được nữa, bèn đứng dậy rón rén bước ra.

Mụ ta đang cắm cúi viết trên một mảnh giấy nhỏ xé ra từ quyển sổ ghi chép các món tiền thu nhập hàng ngày. Cốc rượu vẫn nguyên chưa đụng tới. Làm sao xem được mụ ta viết cái gì đây? Tôi lia mắt sang thấy bát nước hâm rượu không còn bốc hơi nữa, bèn nảy ra ý nghĩ sẽ vờ cầm ấm nước sôi đến rót thay vào bát nước nguội để có thể tới bên bàn mụ ta ngồi. Tôi nén thở, bước rén bằng những đầu ngón chân và đứng sát bên lưng mụ, nhìn qua vai mụ. Trên mảnh giấy, những dòng chữ Pháp viết tháu vội vàng, nhưng vẫn đẹp như cắt, nghĩa như sau:

“llcB-15-5-/946. - Hai trung dội chính quy trang bị đầy đủ. Một súng máy Bữ-ren. Cạnh đền: Một đại đội dân quân vũ khí thô sơ. Đập Đá: Một trung đội hỗn hợp, mười cây súng trường. vài chục lưu đạn tự làm lấy. 13.5: Một cán bộ quân sự cao cấp dã qua đây: Đoàn thuyền vận tải quân lương đi về hướng Thới Bình... "

Những dòng chữ phía đuôi bị khuất qua mớ tóc xõa bên vai mụ ta, không đọc được. Tôi nén thở, rướn người lên, tim đập thình thịch trong ngực. Đột nhiên, mụ ta quay phắt lại khiến tôi giật mình suýt buông rơi cái ấm xuống đất. Nét hốt hoảng vừa thoáng hiện trong đôi mắt to đen lay láy của con mụ đàn bà nham hiểm khi vừa nhìn đến tôi lập tức biến ngay, và nhường chỗ cho những tia nhọn hoắt như những mũi kim phóng vào mặt tôi.

- Xem trộm cái gì? - mụ ta nén giọng hỏi khẽ, cặp môi mỏng dính run run dầy phẫn nộ.

Tư Mắm lập tức xô ghế đứng dậy. Tôi tưởng hắn sẽ nhảy xổ vào bóp họng tôi ngay. Nhưng hắn vẫn đứng nguyên đấy và đưa mắt nhìn mụ vợ, rõ ràng là hắn đang chờ mệnh lệnh mụ ta giống như một con chó săn chờ lệnh chủ.

Trong lúc ấy, tôi đã kịp đủ thì giờ trấn tĩnh. Lúc bấy giờ tôi cũng không hiểu tại sao mình lại tỉnh táo được như vậy... Tôi gãi tai, cười và nói cách hồn nhiên:

- Thím viết đẹp quá! Chữ đẹp như cắt ấy, mà lại không kẻ dòng... Đẹp hơn cả chữ anh Sáu tuyên truyền

- Mày đọc rồi à? - mụ ta trố mắt hỏi, cố nén giận dữ.

- Đọc từ nãy giờ... mà thím viết thứ chữ Tây chữ u gì, cháu không hiểu được. Cháu chỉ đánh vần quốc ngữ bập bẹ và đọc được con số từ một đến một trăm thôi. Nhưng phải đánh vần lâu lắm kia.

Con mụ thở phào một hơi nhẹ nhõm:

- Con nít đừng có nhìn lén, đừng xem trộm khi người lớn đang viết, nhớ không. Vậy là kém lịch sự và vô phép.

Tôi cười hì hì ra vẻ nhận lỗi:

- Cháu đến thay bát nước sôi cho thím chứ. Tại chữ thím viết đẹp quá, cháu cứ mải xem... Cháu đâu có dè thím rầy! Mọi khi, anh Sáu tuyên truyền viết, cháu đứng sau lưng coi mà ảnh chẳng rầy la gì...

- Ừ, thôi. Thay bát nước khác đi! - mụ ta chớp chớp mi mắt, cười với tôi... - Qua ghi các món tiền người ta mua chịu mà. Viết bằng chữ quốc ngữ mới, em không đọc được đó thôi. Đây này - mụ ta vừa nói vừa chìa mảnh giấy đến bên ngọn đèn - con số 15 nầy là người ta thiếu qua mười lăm đồng... Con số năm này là năm ngày nữa họ sẽ trả.

- Cháu biết! - tôi tươi cười.

Con mụ càng cố ý đánh lừa tôi bằng vẻ thành thực thì tôi cũng mượn màu thành thực để lừa lại nó. Trong khi ừ ào với mụ ta, tôi đã đọc nốt những dòng chữ cuối: tấn công tốt nhất vào khoảng bốn giờ sáng. Trạm canh gác chỉ có bốn đứa: hai súng ca-líp 12. Bắt sống. Trời mưa to, có thể núp trong mưa. tắt đường ruộng bất thần đánh vào ban ngày.

Thay bát nước xong - không hiểu sao bây giờ tay có hơi run - tôi cố trấn tĩnh bằng cách đứng lại nói với mụ ta một câu tróc khi quay vào bếp.

- Thím đừng mách dì Tư, dì Tư mắng cháu tội nghiệp?

- Ừ, không mách đâu. Vào xem nồi cháo được chưa...

Tôi không nhìn Tư Mắm nhưng tôi biết Tư Mắm đang cười. Tôi vào đến cửa bếp, còn nghe hai tiếng thở phào ra cùng một lúc của đôi gián điệp vườn này, và tôi biết chắc chắn rằng chúng đang nhìn theo tôi không phải bằng nhũng cặp mắt đầy hoảng hốt và dữ dội như ban nãy.

Dì Tư Béo đã tắm xong, vào ngồi bên chõng rũ tóc ra cầm quạt quạt cho khô tóc.

- Trời oi quá! Tắm rồi mà mồ hôi cứ vã ra như chưa tắm!

Thấy con mụ vẫn cắm cúi viết, dì Tư Béo hỏi:

- Bữa nay người ta mua chịu nhiều lắm sao. Ghi gì mà hết tờ nọ tới tờ kia vậy?

- Cũng chút đỉnh thôi... Biên các số tiền chi tiêu lặt vặt ấy mà? Mà cũng xong rồi đấy. Thôi, dọn cháo ra ăn chơi đi, dì Tư.

- An ơi, lau mâm bát đi, con? - dì Tư Béo gọi vọng vào bếp, bảo tôi.

Tôi vừa toan nhấc nồi cháo xuống, bỗng nghe dì nói tiếp:

- Ngày nào cũng biên chép nhiều như vậy, bảo thằng bé nhà tôi nó viết hộ cho. Nó tốt chữ lắm đấy!

Không biết qủy ma nào giật lưỡi bà ta, mà bà ta ngứa mồm ngứa miệng nói ra làm gì điều đó. Tôi nghe con mụ vợ Tư Mắm "à" lên một tiếng, và mụ ta bưng cốc rượu uống ừng ực một hơi. hình như mụ ta đang xoay xoay cái cốc trong tay, nghĩ ngợi gì lung lắm, vì sau một hồi lâu, tôi mới nghe tiếng cốc dằn hơi mạnh xuống bàn.

- Thằng bé mới mười bốn mười lăm tuổi gì đó mà đã đỗ phi-ca" rồi đấy! "Biết đâu chùa rách Phật vàng... Ai hay trong quán ẩn tàng kim luân" (2 câu trong truyện thơ lục vân tiên). Coi nó lèng quèng vậy mà chữ Tây đọc giòn như bắp rang đó. Hôm nọ nó cầm tờ báo Tây đọc vách vách, còn cắt nghĩa cho thằng Sáu tuyên truyền nghe nữa chứ!.

Tôi nghe bà chủ quán nói một hơi như vậy, túc muốn điên lên. Trời ơi! Tôi có đọc báo Tây và dịch nghĩa dịch ý cho anh Sáu tuyên truyền hồi nào đâu mà bà ta bỗng dưng hứng khẩu khoe tướng lên như vậy? Mà bà ta đã quả quyết như vậy rồi thì tôi còn hòng chối cãi làm sao. Tôi làm sao thoát khỏi tay bọn chúng mà chạy đến báo cho anh Sáu tuyên truyền hay được Tôi đứng im để hết tai ra nghe ngóng, nhưng mạch máu cứ đập trong tai làm tôi không còn nghe gì rõ.

Không thấy vợ chồng Tư Mắm nói gì, bà ta trỗi giọng:

- Bé thế mà đỗ "phi-ca" thì giỏi lắm?... Ngày xưa có một ông giáo "phi-ca" mê tôi lắm, nhưng duyên trời không định...

Từ quán đến chợ thì xa. Ngược lên, đến xóm Tràm nơi trung đội Cộng hòa vệ binh đóng lại càng xa hơn nữa! Tôi mà chạy đi, nhất định Tư Mắm sẽ giết tôi ngay giữa đường. Không làm cách nào bịt mồm bà chủ được, tôi đành liều thôi. Hai tay run lập cập, tôi lần trong bóng tối, tháo miệng túi da beo ra để cho dễ rút con dao găm, rồi cứ để nguyên cả bao da nhét vào bên trong thắt lưng, phủ vạt áo vét tông ra ngoài cho khuất cán. Tôi không thể chuẩn bị trước những câu trả lời với bọn chúng. Biết thế nào được mà chuẩn bị? Tới đâu sẽ ứng phó tói đấy! Nếu chúng giở trò hành hung thì tôi sẽ sử dụng tới con dao.

Ngoài kênh đã không nghe một tiếng chèo. Cũng không một ông khách rượu nào tới quán. Sao mọi đêm, bọn họ khép tới một lúc năm bảy người, tấp nập hết tốp này đến tốp khác, làm tôi chạy chân không bén đất mà hầu, nhưng cũng chẳng kịp - tại sao đêm nay không thấy ma nào mò tới?

- Bưng cháo ra đây, chú em? - tiếng con gián điệp gọi lên lanh lảnh, khiến tôi nổi gai ốc khắp người.

"Sao mày hèn thế" Tôi tự hỏi mình như vậy. Và đột nhiên tôi bỗng nhớ tới gương mặt bầu bĩnh của em bé gái có hai bím tóc tết trái đào:.. Cô bé mặc bộ quần áo xa tanh màu đỏ bắt đầu khởi động, đôi hài đen nhỏ xíu giẫm xuống, mắt nhìn thẳng vào vòng lửa cháy vù vù tua tủa những lưỡi dao nhọn hoắt... Cô bé hét lên một tiếng, nhưng không bay qua vòng lửa mà quay lại nhìn thẳng vào mặt tôi, cười mủm mỉm. Mặt tôi nóng ran lên. Tôi dặng hắng một tiếng, bưng mâm bát bước ra.

Tư Mắm không nhìn tôi. Hắn ngồi xé mực nhai nhóc nhách, mắt ngó ra ngoài tối đen. Con gián điệp cũng không nhìn tôi. Nó vờ như đang chăm chú đọc những khẩu hiệu của anh Sáu tuyên truyền đã dán lên vách hôm nọ, chứ thực ra quả là nó đang rình theo tôi từng cử động. Tôi trở vào bưng ra nồi cháo đặt lên chõng.

- Thôi, để đấy cho dì. Mày xuống thuyền ngủ trước đi con? - dì Tư béo truyền lệnh cho tôi.

Tôi không đi ngay. Tôi còn trùng trình đứng lại múc cháo ra bát, xem thái độ chúng như thế nào, nhưng chẳng thấy chúng tỏ ra lưu ý gì đến tôi. Tôi bèn lặng lẽ bước ra, đi lần đến thuyền mui ống đậu trong mương.

Thế nào Tư Mắm cũng đi theo tôi. Tôi nghĩ như vậy và làm bộ vấp chân, kêu "ái ", một tiếng. Tôi xuýt xoa ngồi xuống, nắn nắn bàn chân nhìn ngang và quả thấy Tư Mắm đã bước ra đứng ở chỗ cửa. Linh tính báo cho tôi biết sẽ có điều nguy biến xảy ra cho tôi trong đêm nay.

Tôi chạy cũng không thoát kịp nữa rồi. Hình như trong giờ phút mấp mé đứng trước cái chết hoặc trước một nguy hiểm tột độ nào đó, con người trở nên bình tĩnh hơn bao giờ hết. Tôi co chân nhảy độp xuống thuyền, lôi chiếc nói ra giũ phành phạch, vờ sửa soạn chui vào nóp.

Nhưng tôi không chui vào, tôi lấy chiếc gối chống dựng một đầu nói lên và kéo cho dầu nóp ló ra ngoài mui thuyền để người đứng trên bờ có thể nhìn thấy được.

Xong đâu đấy, tôi trườn nhẹ ra sau lái, nhẹ nhàng bước trên những chùm rễ gáo và bò theo mé mương. Lên được bờ rồi thì bấy giờ trăng cũng vừa mọc. Chung quanh ngôi quán, mặt đất sáng như ban ngày. Bóng tối chỉ còn lại một vùng đen sâm sẫm dưới gốc cây gáo cổ thụ. Tôi núp theo bóng cây, chui vào một cái hốc có chùm lá ráng phủ bên ngoài mà một hôm tình cờ tôi phát hiện ra.

Tôi không biết mình ngồi thu hình trong hốc cây, nén thở như vậy đã bao lâu. Mồ hôi ướt đầm đìa sau lưng áo.

Bàn chân tôi chạm vào mình con vật gì mềm nhũn như con rắn. Tôi hốt hoảng rụt chân lại. Con vật bò rột roạt theo hốc cây, kêu "tắc kè... tắc kè... tắc kè... " ngay trên đỉnh đầu tôi.

Trong quán đã nghe tiếng thu dọn bát đĩa. Con mụ gián điệp chào dì Tư Béo, không biết nó nói gì mà bà chủ quán của tôi cười lên khấc khấc... Lát lâu sau, nghe nó rửa chân lạc xạc ngoài cầu nước, rồi tiếng chân nó dẫm lên sạp thuyền. Rõ ràng chỉ có mỗi mình con mụ xuống thuyền.

Mỗi một tiếng động, một âm thanh nào đó từ bên ngoài vẳng vào gốc cây ẩm mục, tối om vào hôi hám ngột ngạt đến tức thở này, đối với tôi đều có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó mở cho tôi một tia hi vọng, hoặc đẩy tôi mỗi lúc một chuồi sâu xuống bãi lầy đen kịt mà tôi không phương vùng vẫy.

Cánh liếp trên quán đã sập xuống. Nghe then cửa gài đánh "cách" một tiếng. Luồng sáng tỏ của ngọn đèn từ trong quán chiếu xuyên qua hàng rào mắt cáo, soi ra tận luồng cỏ bấc bên kia mép mương, chớp chớp mấy cái trướt khi tắt phụt.

Tư Mắm đi dò từng bước ra mương. Hắn bước rất khẽ, dáng như chân không chạm vào đất vậy. Hắn ngó trở vào quán rồi quay lại rướn cái cổ dài nhìn xuống chỗ đầu nóp tôi đã kéo ló ra mui thuyền. Hắn đứng im như vậy có đến chừng hai phút. Trong quán, dì Tư đã bắt đầu "khò... khò... khò... khừ", ngáy như kéo cưa.

Tư Mắm đưa tay lên vén tóc, ngó vào gốc cây rồi thong thả bước đến ngồi thụp xuống quay lưng vào mặt tôi cách chừng một thước. Tôi nén thở, nhắm mắt lại cho thần kinh đỡ căng thẳng… Hồi lâu, bỗng nghe tiếng người dặng hắng đâu ở phía sau quán. Tôi mở mắt ra trống ngực đập rộn lên. Cứu tinh đã đến với mình đây rồi? Trời ơi giá mà anh Sáu tuyên truyền đến với tôi trong lúc này..., không phải anh thì lão Ba Ngù, hay không phải lão Ba Ngù thì một người đàn ông nào đó cũng được.

Có tiếng chân giẫm thình thịch vòng sau quán men ra gốc cây Tư Mắm nhẹ nhàng đứng dậy, đưa ngón tay lên mồm xuỵt một tiếng. Thôi, thế là hết? Tia hy vọng cuối cùng và mong manh nhất chợt đến với tôi cũng tắt ngấm từ phút này đây.

- Lộ rồi? - Tư Mắm thều thào nói với bóng đen, và hất hàm về phía đầu nói ló ra mui. Hắn còn thì thào mấy câu gì nữa, nhưng tôi không nghe được.

Tôi không thể nào nhận ra bóng đen đó là ai. Trong tất cả những người đàn ông lui tới quán rượn này, không có hắn. Đôi vai rộng bè khom khom chồm tới trước như một con giả nhơn; khi hắn ngóc lên, tôi vừa kịp trông thấy một nửa bên quai hàm bạnh ra, trán rất thấp, vòm mắt nhô cao, lông mày rậm rịt. Hắn cởi trần, bắp thịt nổi cuồn cuộn lấp loáng dưới ánh trăng. Tôi rùng mình. Bàn tay tôi cấu thử vào sườn mấy cái, thấy đau điếng...

Không? Không phải tôi chiêm bao mà!

Bóng đen khủng khiếp ấy rút con dao dài non năm tấc giắt bên hông ra, cầm lăm lăm trong tay. Trong hốc cây, bàn tay bé nhỏ của tôi cũng lần lần rút con dao găm ra khỏi vỏ.

Tư Mắm cầm khẩu súng lục - không biết hắn lấy ở đây ra từ lúc nào - kẹp khẩu súng vào đùi, tay kéo qui lát "rắc" một tiếng khô gọn, trong khi bóng đen khủng khiếp kia lom khom bò xuống mũi thuyền mà hắn tin chắc rằng tôi đang nằm ngủ dưới đó.

Bỗng nghe con gián diệp ho một tiếng ngoài cầu nước. Tư Mắm quay đầu về phía có tiếng ho. Đêm vắng lặng đến nỗi con mụ nói rất khẽ nhưng tôi vẫn nghe rõ mồn một: "Đừng. Đừng! Xuống lấy cái bao tải. Nhét giẻ vào mồm thôi... " Tư Mắm vừa đi thì tôi cũng vừa lách mình ra khỏi hốc cây. Khi tôi thấy hắn dò dẫm rén chân bước xuống chiếc cầu nước dẫm bùn trơn như mỡ thì nhanh như cắt tôi lập tức phóng ra khỏi gốc cây lao đi như một mũi tên.

Tôi không biết mình chạy đi đâu. Bên tai tôi, gió rít vù vù, lùm cây bãi cỏ rùng rùng xô nhau chạy ngược về phía sau lưng tôi. Dãy phố ngói và những tàn cây bã đậu thấp thoáng trong làn sóng đất; một ngọn đèn le lói từ ngôi nhà ai còn thức, chiếu nhấp nhây, dường như nhảy lên nhảy xuống đằng xóm chợ im lìm kia. Bản năng không tự giác đã điều khiển đôi chân tôi chạy tìm về chỗ có người khi lâm hoạn nạn. Tôi toan kêu lên, nhung không còn đủ sức kêu nữa. Tôi lại tiếp tục chay. Bỗng nhiên tôi cảm thấy ruột gan phèo phổi mình thót lên, đầu chúi tới trước. Một làn sương mù dày đặc từ từ bao trùm khắp người tôi, tôi chỉ còn đủ cảm giác thấy tay chân mình tan ra như nước hòa lẫn vào trong lớp sương mù quái di đó, rồi tôi không còn biết gì nữa...

Khi tôi tỉnh dậy, tay hãy còn nắm chặt cán dao găm. Lưỡi dao cắm ngập vào mặt đất sét ấm, khiến tôi phải ngồi lên mới rút ra được. Tôi đút con dao vào vỏ, nhét trong thắt lưng, định thần một lúc mới nhận ra rằng trong lúc mình chạy, mình đã ngã chúi xuống một đường hào chiến đấu mà các anh thanh niên trong chợ vừa đào mấy hôm nay. Tôi lần nhớ lại các việc đã xảy ra... Quái, tiếng trống tiếng mõ ở đâu mà khua động inh tai thế này? Tôi toan nhảy thóc lên bờ hào, nhưng chưa kịp với vào thành đất đã rơi xuống ngay. Khắp người ê ẩm, chân tay đau buốt, tôi có sức cào đất trườn lên. Khi tôi bò ra khỏi hào thì thấy một vầng lửa đỏ rực dang bao trùm lên ngôi tửu quán. Những lưỡi lửa khổng lồ le lên liếm trụi các cành khô trên ngọn gáo cố thụ. Tre nứa nổ lốp đốp.

Khói cuồn cuộn bốc lên, đưa tàn lửa bay chấp chới như một bầy ong đỏ từ trong đám cháy bị mùi rượn sực nồng xua lên, bay tản mác ra xa.

Tôi lại cố sức chạy trở về ngôi quán thân thuộc đang làm mồi cho thần lửa. Trong ánh lửa dỏ rụt chiếu sáng khắp chung quanh, ở một góc sân sau, hai ngươi đàn ông đang nắm chặt hai cánh tay dì Tư Béo lôi ra. Bà ta giãy giụa, gào thét, hết ngã xuống lại chồm lên. Cả khối thịt của cái thân hình to lớn ấy run lẩy bẩy trông rất dễ sợ.

Tôi lách đám đông chạy sả vào. Người đầu tiên tôi nắm lấy cánh tay kêu lên là anh Sáu tuyên truyền:

- Bắt lấy vợ chồng Tư Mắm? Chúng nó là gián diệp...

Trong những người đứng chung quanh đang bó tay tuyệt vọng, buồn rầu nhìn ngọn lửa hoành hành, tự do thiêu hủy ngôi quán, vừa nghe tôi thét lên như thế, có người tức khắc nhảy chồm lên: "Làm sao mày biết, hở thằng bé kia?" Có người hỏi dồn tôi: "Nhưng chúng nó đâu rồi?”

Tôi kể không ra đầu cua tai nheo gì cả, tiếng được tiếng mất. Nhưng tôi chắc chắn rằng tôi không bỏ sót một chi tiết quan trọng nào. Người ta nhốn nháo đi gọi các anh Cộng hòa vệ binh. ông thưởng công an xã ở tít xóm dưới bây giờ mới vác khẩu súng bắn chim hai nòng lích kích chạy tới:

- Chúng nó chưa đi xa đâu?

- Chia ngươi ra ba cánh, đuổi theo các ngã ba kênh?

- Đuổi cái con khỉ! Không biết chừng nào đã tới Ngã Bảy rồi!

- Này, anh em! Không được giết chết... Bắt sống chúng nó mang về đây, chặt dầu cho đồng bào xem?.

Không biết một người nào đó đứng trong đám đông ồn ào đã truyền lệnh ra như vậy. Và ai nấy đều răm rắp tuân theo. Tôi không theo toán người đi đuổi bắt vợ chồng Tư Mắm. Tôi đến bên dì Tư Béo, cầm lấy bàn tay lạnh ngắt của bà ta, không biết nên nói gì đây. Một câu an ủi trong lúc này, có nghĩa lý gì. Bà chủ khốn khổ của tôi đang tựa lưng vào một vò rượu - không biết tay nào chạy hộ ra đây hay tự bà ta khênh ra kịp thì chẳng rõ - vừa thấy tôi đến, đã quay mặt đi.

- Dì Tư, Dì Tư! - Tôi lo lắng và buồn rầu gọi nho nhỏ.

- Thằng nhỏ nó về rồi đây này? - một người đàn bà nào đó ngồi cạnh bà ta kêu lên.

Dì Tư Béo vẫn quay mặt vào bóng tối. Bỗng nhiên bà ta òa lên: "Con ơi! Con đi đâu mà bỏ dì một thân một mình... " Tôi đứng dậy cầm chiếc khăn rằn phủi bùn đất bám đầy trên vai bà ta. Trước mắt tôi, bà ta chỉ là một con người đáng thương và gần gũi nhất. Tự nhiên, không hiểu sao tôi cũng quay mặt vào bóng tối. Phải rồi, một thiếu niên dù bất cứ ở hoàn cảnh nào cũng không được tỏ ra mềm yếu trước mọi người...

Mãi đến chiếu hôm sau, vẫn không tìm ra tung tích vợ chồng Tư Mắm. Ai gặp tôi cũng hỏi, cũng bắt tôi phải kể đi kể lại có hàng trăm bận. Cả chợ nhao lên. Người ta nhìn nhau, ai cũng có vẻ đáng nghi ngờ. Lão Ba Ngù đứng giữa dám đông, vỗ trán kêu lên:

- Tôi biết cái thằng có đôi vai rộng bè, lưng khom khom như con giả nhơn ấy rồi!

- Lại bịa nữa? Biết thì nói, không thì thới. Chẳng ai ép đâu nhá! - một ông bạn rượu của lão Ba Ngù khịt mũi nói như vậy.

Sao lại không? Nó là thằng cùi. Mấy hôm nọ, tôi thấy nó nằm dưới xóm Đập Đá. Đúng là nó! - Lão Ba Ngù khẳng định như vậy, và chờ cho mọi người đưa mắt ngơ ngác đợi lão nói tiếp, lão mới e hèm mấy cái, tặc lưỡi:

- Chà, nó không phải cùi đâu! Nó lấy thịt thối buộc giẻ rách bó vào chân, ruồi nhặng đến bu vo ve, ai thấy cũng tởm, chẳng ai muốn đến gần. Hóa ra có hồi nó ngồi ngay trước mặt mình mà mình tránh đi, để lúc nó chuồn rồi mới ba chân bốn cẳng chạy đi lùng?

Không biết lão Ba Ngù nói vậy có đúng không, nhưng chẳng thấy ai bác bẻ lại lão. CÓ điều mọi người trong chợ đều nhất trí nhận định là: "Đích thị vợ chồng Tư Mắm đã đốt quán trước khi rút lui. CÓ thể chúng đặt trước một mồi lửa. khi đi xa rồi, quán mới bốc cháy. Dân trong chợ mắc lo chữa cháy dù có biết cũng muộn rồi, không đuổi theo kịp chúng nó nữa".

Quán rượu dì Tư Béo cháy sạch trong đêm đó. Nhưng còn được chiếc thuyền mui ống, nhờ có người đẩy ra kịp mương nên chỉ cháy sém một bên mui. Dầu sao thì hai chiếc túi bóng mỡ cài kim băng của bà chủ quán rượu cô độc cũng chưa hề hấn gì. Bà ta quyết định không cất lại quán trên mảnh đất xúi quẩy này nữa. "Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí" mà?

Phải mau mau rời khỏi chỗ này thôi. Dì Tư Béo không ngớt than vãn như vậy, và sau cùng quả quyết bảo tôi:

- Con ơi? Đi với dì xuống Thới Bình đi!

- Cháu ở lại đây thôi. Cháu còn chờ một ngươi quen...

Tôi đáp với bà ta như vậy, chứ thật ra tôi có chờ ai đâu. May ra trong số người qua lại xóm chợ này, tôi có thể tìm một người quen nào chăng. Ba má tới thì chắc chắn là còn ở bên kia sông Hậu Giang, chẳng bao giờ xuống tới chốn này.

- Số trời bắt tao phải sống một thân một mình. Thôi thì cũng đành! Nếu mai kia mốt nọ... con có dịp về gần Thới Bình, cứ hỏi thăm tên dì, ắt dì cháu ta còn có cơ hội gặp nhau...

Bà ta sụt sịt, giúi vào tay tôi một đòn bánh tét, nặng nề bước xuống chiếc thuyền vừa thoát khỏi trận hỏa tai, rồi nhổ sào tách bến.

Trời sâm sẩm tối. Tôi đứng dưới gốc cây gáo cổ thụ, lổm nhổm những mảnh lu mảnh vại vỡ, bên đám tro tàn còn phảng phất mùi rượu cháy chua tanh Tôi đứng im lặng một mình như vậy, nhìn theo vạt áo trắng của dì Tư đang chèo khuất dần trong bóng tối của mặt nước dòng kênh. Lát lâu sau, tôi bỗng cảm thấy rưng rưng một nỗi buồn lạ lùng không sao xua đi được, một thứ trống rỗng ùa vào tâm hồn, khiến tôi gần như sợ hãi. Tôi chạy theo gọi: " Dì Tư ơi? Dì Tư Chờ cháu với... "

Tôi vấp mấy cái trong bóng tối, suýt ngã xuống nước.

Màn đêm lặng lẽ buông trùm xuống những ngọn sóng xôn xao trên mặt nhóc cuồn cuộn, không biết chảy về đâu.
 
Chương 5

Dì Tư Béo đã đi rồi. Cả bác tài công già trong đoàn thuyền vận tải quân lương và anh học sinh cô-le đã cho tôi chiếc áo vét-tông, hiện giờ cũng không biết ở đâu.

Phải chăng những người mà số mệnh đã run rủi cho tôi gặp họ trên đường giạt trôi vì khói lửa đều vội vàng tất bật buông rơi tôi lại, bỏ tôi trơ trọi giữa đường? Mà tôi chỉ là thằng bé từ lúc còn lẫm chẫm biết đi cho đến mấy tháng trước đây chưa hề rời khỏi thành phố mình sinh trưởng. Hay đó là thử thách của cuộc đời đối với tôi chăng?

Anh Sáu tuyên truyền bảo tôi về ở với anh. Ban ngày tôi theo anh ra quét dọn phòng thông tin, tô lại những khẩu hiệu cũ. Ban đêm thì tôi bạ đâu ngủ đấy. Có khi tôi ăn và ngủ ở nhà anh, nhưng cũng có nhiều bữa tôi ăn cơm nơi nhà người khác, phần đông là các anh thanh niên trong chợ. Bởi họ thấy tôi dễ bảo có chút ít chữ nghĩa, lúc nào cũng sẵn sàng giúp họ viết những khẩu hiệu xanh đỏ lòe loẹt bằng các thứ kiểu chữgô-tích, ba-tông, broa... Đôi khi tôi còn chịu khó ngồi nắn nót vẽ nhũng chữ hoa trên góc các vuông khăn vải phin trắng còn thơm mùi hồ mà các chị phụ nữ Tiền phong đã cậy tôi vẽ để họ thêu...

Tôi làm các công việc vặt này một cách say sưa, bởi đó là thích thú của tôi, đồng thời cũng muốn phô khoe chút tài khéo léo của mình. Anh Sáu tuyên truyền chẳng đã nhiều lần khen tôi là một thằng bé có "hoa tay" đấy ư.

Dẫu sao thì tôi cũng vẫn buồn. Cái hy vọng gặp lại ba má tôi và ngày mình có thể trở về thành phố quê hương cứ khuấy động trong tôi một nỗi buồn nhớ không nguôi.

Nhưng tôi tuyệt nhiên không hề hé môi thốt ra một lời than vãn. Thảng hoặc có một vài người nào đó lưu tâm hời hoàn cảnh gia đình cha mẹ tôi ở đâu... thì tôi đều kiếm cớ nói tránh đi, hoặc lái câu chuyện về một hướng khác. Tôi không muốn thấy ai bày tỏ lòng thương hại đối với mình. Bởi vì, nói cho cùng chung đem lại một kết quả gì mà chỉ gây thêm tủi cực, xót xa hơn cho mình sau đó.

Tôi sống lần hồi ở xóm chợ này được đâu hơn một tháng. Ban ngày, tôi có thể tạm quên nỗi buồn nhớ ba má tôi bằng cách đi chơi đây đó, vui đùa với bọn nhỏ và các anh thanh niên. Nhưng ban đêm, tôi thường giật mình thức giấc thấy mình nghiêng mặt trên cánh cánh tay gối đầu ướt đầm nước mắt..

Những con đường hàng me mượt mà lớp lá xanh non sau những trận mưa đầu mùa, suốt ngày vi vu tiếng kêu của những bầy ong không ngớt bay lượn trên những chùm hoa, làm rơi lả tả những cánh hoa trắng bé xíu trên đầu bọn học trò nhỏ chúng tôi. Những con đường hàng xoài, mùa quả năm nào cũng có những chú pô lít (Cảnh sát) áo vàng cứ trưa lại núp trong các ngõ hẻm rình chộp lấy chiếc giàn thun (giàn ná, súng cao su) của mấy đứa trẻ trốn bố mẹ, vờ đi học sớm để ra đó bắn quả xanh... Những đêm thứ bảy, ba tôi thường dắt tôi ra cầu tàu lục tỉnh ngồi xem ông thả mồi, buông một sợi câu rất dài, câu cá bông lau. Thành phố yên tĩnh dưới trăng khuya. Tiếng gió rì rào trên những ngọn dương trồng dọc con đường đá đỏ chạy cặp theo bờ sông Tiền Giang, lác đác một vài người đi dạo đêm đứng dưới cội cây, hoặc ngồi trên bậc cầu đá nhìn ra dòng nước mênh mang nhấp nhánh ánh lửa thuyền câu.

Tôi đã lớn lên trong cái thành phố vừa đông vui trù mật vừa yên tĩnh dịu dàng, tràn ngập một thứ gió sông nhiễm đầy mùi phù sa và nắng ấm đó cho đến ngày "đằng mình" cướp chính quyền.....

Lần đầu tiên, tôi nghe ba tôi nói hai tiếng "độc lập" với một vẻ mặt dầy xúc động:

- Bà nó ơi, độc lập rồi? Thằng An, mày có biết không, Tổ quốc ta từ nay độc lập rồi.

Ông lắp bắp nói như vậy, mặt mũi tay chân đỏ bừng như con gà trống. Và bằng một dáng điệu rất tự hào, ba tôi đứng nghiêng đầu nhìn lá cờ đỏ sao vàng treo trên bục ảnh HỒ Chí Minh mà các anh thanh niên Tiền phong vừa dựng Ở chỗ ngã ba đường, ngay trước cửa nhà tôi.

Trường học của chúng tôi đóng cổng mấy hôm cho học sinh nghỉ ngơi đi biểu tình mừng ngày độc lập. Thành phố nhuốm màu đỏ rực của băng, cờ, khẩu hiệu ngày đêm rầm rập bước chân của thanh niên, phụ nữ Tiền Phong, của Cộng hòa vệ binh, của các đội dân quân cách mạng vũ trang, của dân chúng từ các làng quận xa xôi kéo về tỉnh mừng ngày hội lớn có một không hai đó. Thực ra thì bấy giờ tôi cũng không hiểu hết ý nghĩa của danh từ "độc lập" là ra sao cả. Chỉ biết rằng thằng cò Tây, bọn lính Tây trong thành san-dá trước đây hay đuổi học sinh chúng tôi và thường bắt bớ đánh đập dân chúng, đã bị mình bắt bỏ vào khám sau một hồi chúng nó nổ súng lẹt đẹt chống cự lại ta, và bọn binh lính Nhật đóng trong thành phố lúc trước, giờ đây ra đường cúi mặt xuống, lê chiếc gươm dài như lê một khúc củi mục mà đi thất thểu.

Và tất cả các công sở, nhà máy trước kia do bọn chủ Pháp, chủ nhật cai quản, nay đầu thuộc về mình.

Chưa được hai mươi hôm, bỗng xôn xao nghe tin giặc pháp lại nổ súng đánh ta ở Sài Gòn. Thành phố tôi còn đang vui tở mở như bọn trẻ chúng tôi thi chỉ qua một đêm nghe biến cố, đã trở nên nghiêm nghị như một cụ già. Ông già Tám đánh xe ngựa ở sát cạnh nhà tôi lúc nào cũng sẵn sàng một ngọn tầm vông, chỉ chờ dịp xông ra đâm chết lũ giặc. Người ta rèn vũ khí, người ta chuẩn bị lương khô, "ai có dao dùng dao. có mác dùng mác" - đúng như lời trong bảng hiệu triệu của hai ông Hoàng Quốc Việt và Cao Hồng Lãnh thay mặt Tổng bộ Việt Minh kêu gọi dân chúng xông ra bảo vệ nền độc lập của Tôi quốc mới phôi thai.

Này thanh niên ơi, đứng lên đáp lời sông núi...

Trong dêm dài mù mịt tầm tã giọt mưa rơi, hay giữa ngày nắng chói chang dưới ánh mặt trời nóng như thiêu như đốt ở khắp góc phố, bờ sông, ngõ hẻm, bãi chợ, đầu cầu trong những khu vườn ngoại Ô lan dài đến tận ruộng đồng và các xóm làng xa, tiếng hát cứ bồng lên như sóng, âm vang chưa dứt đầu này đã nghe nổi.lên dồn dập ở chỗ cuối kia. Hình như không phải là người ta đang hát, mà họ gào lên với tết cả tâm hồn khát khao yêu nước yêu độc lập thì đúng hơn... Ủy ban nhân dân Nam Bộ từ Sài Gòn chuyển về đóng ở thành phố tôi, binh sĩ bị thương ở các mặt trận chung quanh Sài Gòn - Chợ Lớn chở về nằm chật các gi.ường bệnh của y viện tỉnh. Ngày nào cũng có đoàn xe tô chở thanh niên Tiền phong, thanh niên Cứu quốc, cảm tử quân từ trong thành phố chạy ra hướng Trung lương đi về các vùng Phú Lâm, Chợ Đệm, nơi đang diễn ra các trận đánh ác liệt giữa các sư đoàn dân quân cách mạng với bọn giặc Pháp núp sau lưng bọn lính ăng-lê lính Ấn Độ mang danh nghĩa Đồng minh vào tước khí giới Nhật và lén lút từ trong thành phố đánh ra.

Đêm, tôi thường rất ít ngủ. Giấc ngủ cứ chập chờn trong tiếng bánh ôtô chuyển rung động phố chở thanh niên ra mặt trận, trong những lời hát sôi nổi bằng giọng trầm hùng của những anh sinh viên, học anh cỡ lớn

“xếp bút nghiên lên đường tranh đấu, xếp bút nghiên coi thường công danh..."

Có khi tôi chiêm bao thấy mình đã lớn mặc áo sơ mi trắng lồng vào quần sóc đen, đầu đội nón bàng rộng vành, bên lưng đeo dao găm, tay cầm tầm vông đứng gác trước trụ sở Uy ban nhân dân như một anh thanh niên Tiền phong thực thụ. "Đánh giặc cũng vui chứ Tôi thường nghĩ như vậy và háo hức tiếc mình vì còn bé quá, không được theo các anh ra mặt trận.”

Giặc đã tiến xuống đến gần Tân An. Ta vẫn còn án ngữ ở hai đầu cầu quan trọng trên hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, thì chưa dễ gì chúng có thể tới tỉnh Định Tiếng này được...

Một đêm, tôi dang ngủ bỗng giật mình choàng dậy.

Tiếng gì y như tiếng bọn giặc tấn công... Đùng... oang... áng… oàng

Hai chân tôi đạp lung tung mà cũng không rút ra được khỏi chăn. Trong nhà tối đen. Một tiếng nổ, hai tiếng nổ, ba tiếng nổ. Rồi một tràng dài tiếng nổ liền theo, không đếm xuể nữa.

- Ông ơi? Tây tới rồi, ông ơ... ơ... oi! - má tôi hét thất thanh. Tiếng chân má tôi quờ quạng dò tìm đôi guốc.

Ba tôi đập mạnh tay xuống bàn:

- Im! Để nghe coi phải không đã? Làm gì mà cuống lên... như giặc tới vậy?

Má tôi lại hét:

- Tây tới bên nách rồi, ông còn đứng đây chờ nghe? An ơi dậy mau! Tây tới rồi, con ơi!

Tôi nhảy phóc xuống gi.ường, dụi mắt lia lịa. Tôi chạy va đầu vào một cái ghế. Cả người, cả ghế ngã đổ lổng chổng. Tay tôi sờ soạng mãi vẫn không tìm được lối ra khỏi buồng.

Tiếng guốc chạy lốp cốp ra phòng ngoài. Nghe hơi thở hổn hển vụt qua trước mặt, tôi lao tới ôm chầm lấy má tôi súng đại liên nổ pập pập... một tràng dài. Tiếng ào ào khủng khiếp chạy trên rời như một cái chổi khổng lồ bằng sắt quét không khí, cuốn theo những luồng gió hút ghê rợn. Trẻ con các nhà hàng xóm khóc vang dậy. Bỗng nghe cánh cửa chớp bật "kẹt" một tiếng. ánh điện đường ùa vào nhà sáng rực. Ba tôi đã đứng đấy, hai tay vịn vào thành cửa sổ, chồm người ra ngoài quan sát. Má tôi vẫn ngồi trên nền gạch, đầu tóc xòa tung phủ xuống mắt tôi.

Đôi mắt má tôi mở thao láo vì sợ hãi, hai bàn tay bà run run ôm chặt lấy tôi. Tôi toan gỡ tay má tôi.để chạy ra ngoài xem thế nào, thì ánh diện ngoài đường vụt tắt.

Tiếng guốc khua lộp cộp bên các nhà hàng xóm, tiếng trẻ con khóc cũng đồng thời im bặt. Một sự im lặng mênh mông ập xuống nặng nề ghê rợn. Đột nhiên tiếng súng lại đùng đùng... oang... oang nổi lên. Bây giờ, tới phiên có nhiều bà vừa gọi nhau vừa khóc. Trẻ con thì không phải nói. Chúng nó đã khóc thét lên khi tiếng đại bác bắt đầu nổ đợt thứ hai…

Má tôi móc được bao diêm trong túi ra, quýnh quáng đánh lên.. Que diêm cứ trật xoèn xoẹt ngoài vỏ bao. Tôi thớ đến cái công tắc, bèn chạy đến chỗ bật đèn. Tôi cứ vẫn lắc cắc mãi mà trong nhà vẫn tối đen. Thôi, ngoài nhà máy đèn người ta đã cắt điện rồi! Xoẹt... xoẹt!... Lửa bỗng lòe lên. Má tôi cứ cầm cái đèn trứng vịt chạy ra chạy vào.

Ngoài đường, tiếng người kêu thét, tiến chân chạy hỗn loạn. Xe thổ mộ chọc cán roi vào căm xe (nan hoa) khua lách. Ngựa nhảy dựng, hí ran, gõ móng cồm cộp xuống mặt đường, tung vó phi nước đại. ô-tô rú ga hù hù, rít phanh ken két, vừa h.ãm tốc độ máy xong lại hù hù mở máy rú lên lại. Chuông xe đạp leng keng... leng keng... không dứt. Người lạc gọi nhau. Trẻ con kêu khóc... Tất cả cuốn di, xa dần. Rồi lại từ từ kéo đến một tốp người khác, đông hơn, dài hơn. Tốp này đến tốp sau, liên tiếp vượt qua trước nhà tôi, chạy ra khỏi thành phố như một cuộc đuổi bắt khổng lồ.

Trong ánh đèn dầu hỏa lù mù, giữa đống bàn ghế hỗn độn, đồ dạc tháo tung bừa bãi, má tôi cuống lên, loay hoay mãi vẫn không nhét được cái gì vào va-li. Cái gì má tôi cũng muốn mang theo, vừa bỏ ra lại nhặt vào, lại bỏ ra.Ba tôi thì tỏ ra trầm tĩnh hơn. Những thứ nào không cần thiết,ông vất ra ngay. Má tôi vừa giục, vừa càu nhàu vừa khóc Ba tôi không muốn cãi nhau với má tôi trong lúc này, cứ thản nhiên thu xếp đồ đạc vào hai chiếc va-li.

Tôi đã lóc cóc chạy ra khỏi nhà, đứng nhìn đoàn người tản cư diễu qua như nước chảy. Hồi lâu, ba tôi dắt xe đạp ra nhập vào toán ngươi thưa thớt vừa hớt hải chạy tới. Hai chiếc va-li to tướng, ba tôi đã đặt xuôi một chiếc lên ghi dông, một chiếc buộc sau booc-ba-ga. Má tôi khóa cửa xong, tay cầm nón không kịp đội, tay xách chiếc làn mây nhét linh tinh từ chai nước mắm đến cái bàn chải đánh răng, hối hả chạy theo ra đường.

Trời chưa rạng, nhưng một thứ ánh sáng tai tái đã vươn nhẹ trên những đầu cây mận còn im lìm ngái ngủ trước sân những ngôi nhà nhỏ, cửa đóng chặt, chắc là chủ nhà cũng vừa rời đi trước chúng tôi không lâu. Trong các xóm vườn trồng cây ăn quả, có bóng những người đàn ông cởi trần hiện lờ mờ trong sáng, đang chạy đuổi bắt heo, bắt gà vịt. "Thực hiện triệt để vườn không nhà trống khi giặc đến", tôi nhớ tới khẩu hiệu dán chỗ ngã ba nhà tôi mấy hôm trước, và lia cặp mắt thán phục nhìn theo bóng những người đàn ông cởi trần chạy thấp thoáng trong các vươn cây. Đi một quãng, tôi gặp bọn thằng Phi, thằng Tính mặc quần sóc tuýt-xo, áo sơ mi thả cúc, đứng giữa đường cạnh chiếc ô-tô mui hòm sơn đen chết máy đỗ bên lề hai anh em nó thấy gia đình tôi lích kích đẩy chiếc xe đạp thồ va-li cồng kềnh ngang qua, chúng nó thọc tay vào túi quần, nhe răng cười. Dường như chúng nó cười chào.... mà thực ra không phải cười chào. Coi bộ chúng nó không có vẻ gì lo lắng cả. Ba nó ưỡn cái bụng to ra, dừng bên gốc cây vẫn phì phèo hút thuốc lá thơm, xem người tài xế loay hoay chui dưới gầm xe chữa máy. Má nó thì ngồi nhai trầu trong xe bên cạnh có người vú em đang bung búng vào những sợi dây dàn để dỗ em nín khóc. Cho tới cả cây đàn măng-đô-lin, chúng nó cũng mang theo chơi trong lúc chạy giặc!

Tôi bỗng chợt nhớ mình còn quên một món ở nhà, toan chạy trở lại. Nhưng ba tôi lừ mắt nhìn tôi, và ông cứ cắm cúi đẩy chiếc xe đạp cồng kềnh vượt sang ngã ba Đạo Ngạn. Chúng tôi đã ra khỏi thành phố rồi, có quay lại cũng không kịp. Huống chi cửa nhà tôi đã khóa chặt, mà má thì nhất định không trao chìa khóa cho tôi.

Ôi, cái địa bàn bằng quả trứng có cây kim đồng hồ quay quay chỉ về hướng bắc của anh Ba thủy thủ cho tôi năm ngoái, nó còn nằm trong ngăn kéo bàn học, bên cạnh hộp thuốc màu Lơ-phơ-răng và xấp các-pốt-tan( Bưu ảnh) in đủ hình phong cảnh năm châu bốn biển... Tại sao tôi lại có thể quên cái "tài sản quí báu ấy của mình được? Tôi đâm ra giận má tôi. Đến chai nước mắm bà vẫn còn nhớ mang theo, thế mà những thứ ấy bà lại không nhớ giùm tôi.

Không biết hiện giờ anh Ba thủy thủ thân mến của tôi ở đâu? Anh có nhập vào Cộng hòa vệ binh chặn đánh giặc Pháp ở nơi nào đó không Hay anh đang lênh đênh trên một con tàu giữa biển khơi mà không biết rằng giờ đây, giặc Pháp đang đuổi tôi chạy hộc tốc thế này? Chân bước đi mà mặt tôi cứ ngoảnh lại nhìn về thành phố. Mấy đứa bạn nhỏ cua tôi ở bên kia đầu cầu quay, vùng chợ cũ, xóm Đình, xóm cả, chắc đã chạy vế hướng chùa Vinh Tràng đổ về Gò Cát, Bến Tranh rồi... Chà, mai mốt đây cánh thanh niên đuổi giặc ra khỏi thành phố, chúng tôi lại quay về gặp nhau, tha hồ mà kể dủ thứ chuyện nhé?

Tôi vừa có phần lo, lại vừa có phần vui. Có gì đâu mà má tôi lại mặt xanh mày xám thế kia? Lâu lâu, tản cư một lần thế này cũng vui như cái bận quân Đồng minh ném bom bọn Nhật, đi ít hôm lại về: Lúc về, trong các buổi đến trường gặp nhau chúng tôi càng thêm nhiều chuyện vui hơn trước.

Chạy nhanh lên bà con ơi!

Tiếng kêu của một người nào đó khiến chúng tới giật mình quay lại. Cây đang bị chặt ngã, đổ rầm rầm phía sau. Thanh niên bắt đầu đốn cây chặn đường, ngừa giặc tiến về hướng này. Người ta kháo nhau: thằng Tây khôn lắm! Nó chẳng dại gì từ Tân An đánh xuống. Nó vòng ra biển rồi bất ngờ từ cửa Gò công thọc lên. Mình không đề phòng mặt đó thì đến trời cũng chẳng kịp trở tay". Một tiếng nổ vọng rền từ trung tâm thành phố. Cột khói đen sì cuồn cuộn bốc lên. Một chỗ, hai chỗ, ba chỗ lửa đã cháy khắp nơi trong thành phố, từ trên bẹ một ngọn dừa cao chót vót, một cụ già đứng che tay lên mắt, nhìn theo các cột khói.

- Tây chiếm Mỹ Tho rồi, bà con ơi - Tiếng kêu thất thanh của ông lão tắt giữa những tràng tiếng súng liên thanh nặng nổ pãp... pập và tiếng đạn bay vui víu trên trời.

Hai hôm sau, chúng tôi chạy tới Cai Lậy, cách thành phố tỉnh ly chừng ba tầm súng đại bác. Thị trấn vẫn đông vui, chợ nhóm tấp nập như thường nhưng không khí chuẩn bị chiến đấu có phần sôi nổi và căng hơn ở tỉnh Ba má tôi vào ở nhờ nhà một người bà con. Không hiểu sao tôi cũng bắt chước điệu bộ quái quỉ của anh em thằng Phi, thằng Tính, thọc hai tay vào túi quần sooc, nhẩn nha đi dạo phố. Tôi đứng xem các anh thanh niên nông dân mặc quần áo nhuộm màu phèn, tóc tai bù xù từ các thôn ấp xa xôi vác tầm vông nối nhau kéo vào thị trấn. Trông cũng khí thế lắm. Họ ít nói, ít cười, mặt lầm lầm. Chắc là đánh giặc khá lắm. Nhưng họ xếp hàng từng tiểu dội đi la mác, chân tay con chệch choạc, không được đều bước và oai như các anh thanh niên ở tỉnh. Tôi chỉ phục nhất có cậu Lê Văn Tám ở Sài Gòn. Ngày nào tôi cũng vào phòng thông tin xem tranh, đọc báo "Kèn gọi lính" để về kể lại cho má tôi nghe. Cậu này cũng cỡ tuổi tôi thôi, có khi còn bé hơn, thế mà dám tẩm dầu vào người đốt kho xăng địch thì bảnh thật Người họa sĩ nào vẽ bức tranh "Em bé tẩm dầu, đã tô nhiều ngọn lửa quá, khiến tôi chỉ thấy có đôi mắt sáng ngời của cậu bé, còn cả ngươi cậu ta thì đỏ rực như một cây đuốc ấy! Giá tôi có mang hộp thuốc màu theo thì tôi cũng bắt chước vẽ một bức như thế này để khi nào trở về đưa ra treo ở lớp học.

Thường trong lớp, tôi là đứa học trò vẽ giỏi nhất. Thầy giáo đã nhiều lần khen, bảo tôi vẽ những hình con bọ dừa, con bướm phóng đại to như cái quạt treo lên bảng làm bài học cho cả lớp kia mà!

Tôi chẳng đủ thì giờ nghĩ lan man những chuyện đâu đâu nữa. Tôi ở Cai Lây độ tuần lễ thì giặc Pháp mò lên. Gia đình tôi lại chạy về hướng Cái Bè. Chúng tôi cứ chạy truy tầm đại bác của giặc. Rồi Cái Bè cũng mất. Gia đình tôi chạy vào đồng ruộng. Chiếc xe đạp vướng lắm, ba tôi đem biếu nó cho các anh tự vệ dùng để chạy liên lạc trên đường quốc lộ...

Bây giờ thì tiếng súng nổ rền bốn phía chung quanh, không còn biết đâu là đâu nữa. Chúng tôi quá giang theo xuồng của đồng bào đi vào chợ Thiên Hộ( Thiên hộ dương tên một người anh hùng chống pháp ở đồng háp mười ).

Những người nông đần sẵn sàng giúp đỡ ba má tới đủ mọi thứ. HỌ cho gạo thổi cơm, cho mượn xuồng đi chợ...

Những thằng bé con còn dạy tôi cách cầm chĩa ba mũi phóng cá rô dưới kênh... Ở đây cũng thú, chỉ phải cái muỗi và đỉa thì quá lắm! Nhiều đến phát khiếp? Đứng ở sân chợ nhìn về quảng đông, chỉ thấy đồng cỏ mịt mùng, lau sậy nối liền với chân trời. Hóa ra đồng tháp mười là chốn này đây. Tưởng ở yên, nhưng chưa được mấy hôm, tàu bay giặc đã ầm ầm ù ù bay lượn dọc theo các xóm bờ kênh bắn xuống như trấu vãi. Thế là chúng tôi lại đi.

Qua Mỹ An, qua Cái Bèo, chúng tôi lại đổ ra hướng sông Tiền Giang.

Những làng mạc êm đềm, bóng dừa bóng chuối che rợp các khu vườn mát rượi đất phù sa, con đường đất nhỏ lượn trên bờ rạch nước đầy ăm ắp soi bóng những cây sầu riêng, măng cụt... Những ngôi nhà mái đỏ thấp thoáng trong các khu vườn xoài... Tất cả những nơi mắt tôi nhìn thấy, chân tôi bước qua đều đã mất đi sự bình yên phẳng lặng của nó, không khí chiến tranh đã tràn về tận các thôn ấp xa xôi nhất... Và cũng từ những thôn ấp xa xôi, bình yên phẳng lặng ấy, những anh thanh niên, những chị phụ nữ, những em bé, những cụ già chất phác hiền lành cũng đã cầm lấy vũ khí thô sơ. Chao ôi! Những người nông dân xưa kia đi vào thành phố thì củ mỉ cù mì, chẳng thấy nói một câu, bước e dè, sợ sệt từ thằng lính mã tà(lính gác đường) cho đến con mụ góp tiền chỗ, nhẫn nhục mỉm cười trước những cặp mắt rẻ khinh của bọn người thành phố ăn trắng mặc trơn, thì bây giờ, họ đà vùng lên một cách dũng mãnh, sẵn sàng lao vào cái chết để chặn giặc, sẵn sàng cưu mang giúp đỡ những con người đã rời bỏ đô thị chạy đi trước khi giặc tới? Và dù miệng họ không nói ra được ý nghĩ của mình bằng những danh từ bóng bẩy văn hoa, nhưng hành động của họ lại thiết thực và anh dũng biết bao trước lời kêu gọi của Tổ quốc lâm nguy...

Tiến lên đường máu, quốc dân Việt Nam!

Non nước nát tan vì quân thù xâm lấn.

Đồng bào mau hiệp sức ra đấu tranh.

Đi đi... nước mất sao ta nỡ đành...

Tiến lên vì nước, thù kia ta đánh lui

Tiến lên đường máu, núi sông sáng ngời...

Trong tiếng sóng ầm ầm của dòng sông Cửu Long ngày đêm không ngớt thét gào, tiếng hát của họ vờn bay như một cơn bão lốc, âm vang khắp mọi nơi, khi thì như thúc giục gọi kêu, khi thì như giận dỗi trách mắng, lúc lại nghe như buồn bã âu sầu, lúc lại cuồn cuộn lên đầy phẫn nộ... Hay là vì từ trong tấm lòng thơ bé của tôi, từ lúc tâm trạng buồn vui khác nhau làm cho tôi nghe ra như thế, tôi cũng chẳng biết nữa?

Chúng tôi đã vượt sông Tiền Giang và mò mẫm lần hồi, hơn tháng sau đã nghe tiếng sóng vỗ. bờ của dòng sông Hậu Giang trước mắt. Đến đây thì sức má tôi đã yếu lắm. Có những đêm không chạy nổi nữa, chúng tôi phải dừng lại.ngủ giữa cánh đồng trơ trụi, quần áo ướt đẫm sương, có khi phải đội mưa đi suốt ngày; mệt vẫn không dám nghỉ, đói vẫn không kịp ăn... Lo sợ và cực nhọc đã quật má tôi ngã xuống mấy bận ở dọc đường. Tai hại nhất là những cơn sốt liên miên kéo dài, làm cho con người gầy gò như má tôi mỗi ngày một kiệt di. Nhiều bữa, má tôi không ăn uống gì, nằm thở mệt nhọc, bàn tay lạnh ngắt cứ nắm chặt lấy tay tôi. Nhưng đến khi nghe tiếng súng nổ, thì má tôi lại tức khắc ngồi dậy, nhanh nhẹn thu vén đồ đạc, dắt tôi chạy theo đoàn người tản cư.

Hễ có dịp dừng lại một nơi nào yên ổn, là y như một chốc sau, tôi đã lẻn trốn má tôi, nhập bọn với đám trẻ, con những người tản cư khác và bọn trẻ địa phương chưa hề quen biết bao giờ. Chúng tôi đi thật xa, ra tận giữa đồng, hoặc chui vào những khu vườn rậm để người lớn không tìm thấy, ở đó chúng tôi mặc sức bày ra đủ các thứ trò chơi mà trước kia ở thành phố tôi chưa hề nghĩ ra. Chỉ cần một cái mo cau rụng và mươi cọng sậy là chúng tôi đã làm thành chiếc cộ hai ngựa kéo, đưa viên tướng cởi truồng đầu đội mũ tết lá xanh di "quan sát mặt trận theo sau có cả tiểu đội trẻ em bồng súng theo hầu. Với vài bẹ chuối cắt ngắn, cắm đầy que khô thả xuống. con mương nhỏ, thế là chúng tôi đã có cả một đội hải thuyền rồi. Còn đạn trái phá thì tha hồ, cứ nhặt quả mù u rụng ném xuống lệnh uỳnh" làm cho bẹ chuối dập dềnh, nước có bắn tung tóe ướt cả áo quần cũng mặc... Chúng tôi bày ra rồi lại phá đi, ngày này qua ngày khác, nhiều trò chơi cứ lặp lại mãi không đứa nào thấy chán.

- An ơi? Ba má chỉ có mỗi mình con. Giặc bắn phá lung tung mà con chẳng biết lo lắng chút gì! Còn cứ mê chơi đi lung tung, rủi ro bị lạc, hay có nguy hiểm gì xảy ra thì ba má biết con ở đâu mà tìm! - Má tôi thường rầu rầu nét mặt bảo tôi như vậy.

Tôi thương má tôi lắm. Những lúc ấy thì giá có trời xuống rủ đi chơi tôi cũng chẳng đi. Tôi rơm rớm nước mắt, cúi mặt xuống, lòng buồn thỉu buồn thiu.

Nhưng nước mắt và cái buồn của trẻ thơ mau đến và cũng mau tan, như những giọt mưa bóng mây thôi. Quẩn quanh bên chân má tôi được vài buổi, tôi lại lén theo bọn nhỏ, chạy nhảy reo hò như một đám quỉ ranh, hoặc lại đi chơi xa cùng chúng nó.

Một buổi trưa, tôi lẽo đẽo theo mấy đứa chăn trâu mò vào đầm sen bắt cá thia thia. Bỗng có hai chiếc tàu bay khu trục đen sì ầm ầm bay tới. Như hai con ác điểu khổng lồ, chúng gào rú lượn lên sà xuống, quần trên đầu xóm bờ sông, chỗ đám người tản cư vừa dừng lại ban sáng. Bom rơi xuống từng chùm, trông rõ mồn một. Tiếng bom nổ rung rinh cả mặt nước đầm sen. Súng bắn dữ đội. Dường như chỉ có tiếng súng trên trời bắn xuống.

Khói cuồn cuộn phủ mất những đầu cây cao nhất mọc dọc theo bờ sông. Bọn chăn trâu mặt xám ngoét, vất rổ chạy tứ tung. Mãi đến tối, lửa vẫn còn cháy đỏ khắp làng.

Tôi lần về đến nơi thì không.thấy ba má tôi đâu nữa.

Ngôi nhà chúng tôi vào nghỉ nhờ ban sáng giờ chỉ còn lại mỗi đống tro, và những cây cột than gãy đổ vẫn còn đang nghi ngút cháy.

- Còn ở đây à? Giặc đổ bộ rồi, không biết sao?

- Nó đổ bộ lên... ở đâu, anh?

- Đóng ở trong đình ấp dưới chứ còn ở đâu!

Một anh thanh niên tự vệ cầm tầm vông đi qua gặp tôi đã bao tôi như vậy. Tôi hỏi thăm ba má tôi, anh chẳng biết. Tôi hỏi rất nhiều người khác nhưng chẳng ai biết cả. Họ bảo tôi cứ chạy dọc bờ sông, đi về hướng ấp trên xem may ra có gặp không.

Tôi trượt lên ngã xuống, lần theo vết chân những nơừơi chạy trước mà đi mãi. Tôi cũng không biết mình đi đâu Đến một ngã ba sông thì cùng đường. Tôi ngồi xuống một gốc cây xa-kê? Chờ xem có chiếc xuồng nào tới để xin quá giang sang bên kia bờ.

Đêm tối quá. Trời lại lấc rắc đổ mưa. Tôi quên cả mệt cả đói quên cả giặc đằng sau lưng, chỉ lo không tìm được ba má tôi. Vào khoảng nửa đêm thì có một đoàn thuyền vận tải ngang qua... Tôi đã gặp anh học sinh cô-le và bác tài công già tốt bụng, và họ cho tôi xuống thuyền.

Họ bảo tôi cứ đi theo họ, rồi sẽ tìm gặp ba má nay mai thôi. Cho đến bây giờ, rốt lại thì tôi vẫn ngồi một mình ở đây.
 
Chương 6

“Em có biết con panh-goanh (penguin) không? Biết à? ừ, loài chim cánh cụt ở Bắc Băng Dương ấy, người ta bảo rằng nó có một bản năng huyền bí để tìm về tổ cũ.”

Đó là nhũng lời mở đầu của một câu chuyện mà anh Ba thủy thủ đã kể cho tôi nghe cách đây hai năm. Giờ đây, giọng nói ấm áp của anh lại như văng vẳng bên tai.

Đã mấy hôm liền, chiều nào tôi cũng thấy trong người gai gai sốt. Để được nghỉ ngơi và yên tĩnh một mình, tôi ôm nóp mò vào nằm trong ngôi miếu cô hồn. Tôi chỉ nằm đó từ trưa đến chạng vạng thôi. Ban đầu, cũng có hơi rờn rợn. Nhưng qua ngày thứ hai thì tôi đã quen đi, chẳng nhưng không có gì đáng sợ mà lại còn thấy rất dễ chịu.

Trong ngôi miếu vắng vẻ này, tôi không bị ai quấy rầy, tha hồ ngủ, và khi thức dậy, tôi có thể ngồi tự do hàng giờ miên man đắm chìm trong những ý nghĩ và hình ảnh lộn xộn lục ra từ trong mới hồi ức rối tinh của mình.

Lần này, khi tôi cựa mình ngồi dậy, nhìn ra ngoài thì không thấy bóng mặt trời chiếu đỏ rực hạ xuống bên kia bờ kênh như mọi hôm nữa, mà là một bóng trăng xanh lạnh ngắt thấp thoáng sau cành đa, đang chiếu những tia sáng yếu ớt xuống bên thềm miếu.

Có lẽ đã khuya lắm. Đêm vắng vẻ quá. Cơn sốt dữ dội ban chiều đã vật tôi nằm mê man đến tận giờ này. Đầu nhức như búa bổ, miệng đắng ngắt, và một cơn khát cháy khô cổ họng lại bắt đầu đến giày vò hành hạ tôi. Giá tôi đang nằm ở nhà thì mở mắt ra đã thấy có má tôi ngồi một bên. Có lẽ má tôi sẽ đỡ tôi ngồi dậy, nâng cốc nước chanh đến tận miệng tôi, và tôi còn chờ xem má tôi lo lắng thế nào, còn chờ xem má tôi xuýt xoa an ủi dỗ dành một lúc rồi tôi mới uống cũng nên... Cuộc sống trôi nổi trong mấy tháng gần đây đã dạy khôn cho tôi nhiều rồi.mày hãy tự lo lấy cho mày trước đã: Đừng có nghĩ đến việc cậy ai nước rót cơm dâng". Tôi cố sức đứng dậy, lảo đảo đi ra bờ kênh. Chao ôi, làn nước lấp loáng ánh trăng lờ đờ trôi nhẹ dưới kênh kia mới trong và mát làm sao! Tôi cúi xuống vốc những giọt vàng vỡ vụn vào lòng hai bàn tay, uống lấy uống để, tưởng chừng như mình có thể uống cạn cả con kênh này thì mới hả được cơn khát. Những làn nước mát vả vào mặt, vào gáy làm cho tôi dần dần tỉnh hẳn.

Tôi lò dò trở vào ngôi miếu, ngồi tựa lưng vào tường, thở dốc.

- Mau mau tìm cách trở lại nhà thôi.

- Thành phố quê hương mày giặc đã chiếm rồi, mày còn về làm sao được chứ?

- Ước gì mình có được đôi cánh như những con chim.

Những câu tự nhủ và tự hỏi mình cứ vẩn lên trong đầu óc tôi Đột nhiên, tôi bỗng nhớ tới câu chuyện anh Ba thủy thủ đã kể cho tôi nghe về bản năng huyền bí của loài chim cánh cụt những nhà sinh vật học trên thế giới đã chứng minh điều đó... “Họ buộc những mảnh đồng nhỏ, ghi ngày tháng và hòn đảo sinh trưởng của những con chim bắt được. Họ mang nó đi rất xa, xuống tận vùng Nam Băng Dương và thả chúng ra. Thế mà một hai năm sau, người ta lại bắt được những con chim đó ở đúng trên các hòn đảo cũ."

Giọng nói ấm áp, đầy hấp dẫn của người thủy thủ vui tính và nhiều mơ mộng xưa kia khiến cho tôi lúc nào cũng hong hóng chờ nghe, lại văng vẳng bên tai. Tôi ngồi nhìn ra ánh trăng soi lờ mờ, thấy dần dần hiện lên quang cảnh nhộn nhịp của các bến vận hà dọc theo đôi bờ sông trắng của con sông Tiền Giang. Trên cầu tàu lục tỉnh, anh ngồi tựa lưng vào một trụ buộc đỏi (xích), tay cầm tẩu thuốc lá; những làn khói mỏng xanh xanh từ trong tẩu thuốc lá chưa kịp bay lên đã tan mất ngay theo gió. Tôi ngồi bên anh, từ trên sàn cầu qua những khe ván đóng hở, có thể nhìn thấy ngay dưới chỗ mình ngồi những thanh đà sắt bắt chéo vào nhau trong một màu tối âm u, và sâu hơn một chút, dưới kia dòng nước lao nhanh như cắt lúc nào cũng giận dữ réo ào ào, dường như muốn nhổ phăng những chiếc cột tàu bằng thép to tướng mà lôi dìm xuống đáy sâu.

- Sướng nhỉ, anh nhỉ? Được như con chim cánh cụt ấy thì bọn trẻ chúng em không bao giờ sợ lạc! - tôi huơ tay nói như vậy.

- Đó là một con chim đáng thương! Vì cánh nó quá ngắn phải không anh?

- Ừ, cũng có thể... Nhưng không hẳn như vậy đâu. Anh muốn nói với em một vấn đề khác kia...

Người thủy thủ trẻ có khuôn mặt sạm nắng rất đẹp, mái tóc lúc nào cũng bồng lên vì sóng gió đại dương, đăm đăm nhìn về chỗ vạch ngang của dòng sông Cửu Long lòa nhòa gắn liền mặt nước với chân trời. Anh im lặng một lúc; sau khi đã hút mấy hơi khói thuốc dài, giọng anh bắt đầu trầm hẳn xuống, như nói với mình:

Cuộc sống của con người phải đâu chỉ thu hẹp trên mảnh đất vùng quê? Đã đành quê hương là nơi gắn bó với cuộc đời mình nhất, nhưng khi người ta còn trẻ tráng, phải bay nhảy hoạt động, đi đây đi đó chứ. Lúc nào cũng chạnh nghĩ về quê hương, đó là báo hiệu của tuổi già...

Không phải vì có dôi chim cánh cụt mà con panh-goanh không đi xa được đâu. Nó là một con chim không có cánh ở tâm hồn. Nó như một ông cụ già lưng mỏi gối chùn, lúc nào cũng muốn tìm về nằm xuống ở quê hương!

Chiều chiều, sau giờ học, thầy giáo tôi thương dắt học trò ra sông Cửu Long tập bơi. Trên cầu tàu lục tỉnh ấy, tôi đã gặp và quen anh. Anh làm thủy thủ trên một chiếc tàu rất lớn, có ba ống khói to tướng sơn màu xanh da trời. Lâu lâu, tàu anh lại cặp bến một lần. Gặp anh vài bận, tôi đã thấy gắn bó với anh rồi. Mà anh thì cũng rất mến tôi. Bởi tôi hay hỏi đủ mọi thứ chuyện trên trời dưới đất, lung tung, mà anh cũng lấy làm thích thú một thằng bé tò mò, lúc nào gặp anh cũng đặt ra nhũng câu hỏi, khiến anh phải nhồi rất nhiều thuốc lá vào tẩu mới tìm ra lời giải đáp. Tôi mời anh về nhà tôi chơi. Ba má tôi cũng rất quý anh thủy thủ vui tính, biết nhiều chuyện lạ này. Lần nào anh đến chơi, ba má tôi giữ anh ở lại ăn cơm. Nhũng hôm ấy, nhà tôi rộn lên tiếng nói, tiếng cười, vui như có cỗ. Quan hệ mật thiết giữa anh và tôi khiến ba má tôi xem anh như người trong họ hàng.

Cuộc đời anh lênh đênh nhiều năm khắp các mặt biển, trên nhiều chiếc tàu của những công ty hàng hải khác nhau. Anh đã đi qua Ấn Độ Dương, vượt kênh đào Xuy-ê ra Địa Trung Hải, men theo bờ Đại Tây Dương lên tận cảng Lơ Ha-vrơ... Gần khắp mặt biển Thái Bình Dương, cảng nào anh cũng có tới. Anh biết rất nhiều thành phố, nhiều giống người... Chỉ có những xứ ở bên kia tây bán cầu là anh chưa đặt chân tới thôi. Trong những mẩu chuyện anh kể, tôi nghe quen nhiều tên giống người, tên vùng đất, hải cảng, tên thủ đô, thành phố quan trọng trên hầu khắp các lục địa mà tôi đã học say mê trong các bài địa dư ở trường...

- Em coi bộ thích phiêu lưu lắm hả? - có lần anh hỏi tôi như vậy.

- Phiêu lưu là sao, anh?

Anh nhoẻn miệng chơi, bập bập cái tẩu thuốc lá làm cho khói bốc xanh um như một ống khói tàu, hạ thấp giọng:

- Ờ phiêu lưu là nay đây mai đó. Trên rừng, dưới biển, đồng ruộng, núi cao... bất cứ chỗ nào mình cũng đi tới. Càng đi thì càng gặp nhiều chuyện lạ, khiến cho mình say mê... Thôi, bao giờ em lớn lên, em sẽ biết.

Năm ngoái, anh đi đâu bên Thái Lan về, mang cho gia đình tôi nhiều thứ. Quà tặng ba tôi là chiếc hộp thuốc bằng bạc chạm: quà tặng má tôi là một ông Phật bằng đồng to lối nắm tay, ngồi dim mắt trên tòa sen...

Và suy đi nghĩ lại chẳng biết gì hơn - anh vỗ vỗ vai tôi - anh mua tặng em một chiếc địa bàn Chiếc địa bàn bé bằng quả trứng, có cây kim đồng quay quay chỉ về phương bắc, giờ đây lại hiện ra to tướng, lồng vào khung trăng vành vạnh đang treo lơ lưng giữa trời kia. Nó là điềm báo như lời má tôi thường nói chăng? Hay cái vật bé nhỏ, xinh xắn mang trong lòng nó mũi tên chỉ đường cho những kẻ viễn du không may lạc lối trong sương mù, bão tố, giữa rừng rậm, đồng hoang... từ khi cầm nó vào tay, số mệnh đã khiến cho tôi phải rơi vào cuộc sống lênh đênh này chăng? Tôi nghẹo đầu vào vách, nhắm mắt lại, tưởng như nghe lại giọng hát quen thuộc của người thủy thủ trẻ đang vẳng đến từ một chỗ thẳm xa nào:

“Xưa kia có một con tàu nhỏ

Nó chưa hề lướt sóng ra khơi...

Này hỡi những chàng thuỷ thủ

Đang xông pha trên ngọn sóng cao vời.”

Chà, tôi lại khát nữa đây... Tiếng mạch đập trong tai tôi ù ù hay tiếng gió thổi giữa trùng dương. Tôi chóng mặt quá, cứ buồn nôn. Tôi đang nằm đây hay đang đứng trên con tàu lắc lư nhồi theo sóng? Giọng nam trầm của anh Ba thủy thủ cứ dập dềnh đưa tiếng hát bè cao cua tôi chồm chồm bay vút ra xa... "Xưa kia có một con tàu nhỏ... Nó chưa hề lướt sóng ra khơ... ơ...i.” Một lượn sóng thần cao vút như núi hiện lên ở chân trời, băng băng chạy tới trong tốc độ nhanh khủng khiếp, rồi chồm qua phủ mất con tàu và cuốn tôi đi... trôi mãi... trôi mãi.. Tôi càng vùng vẫy thì càng thấy bị chìm sâu xuống đáy, mỗi lúc một ngạt thở đến không còn đủ sức chịu đựng được. Rồi tôi không còn biết gì nữa...

- Thằng bé tỉnh dậy rồi! - giọng mừng rỡ của một chị nào đó dịu dàng nói bên tai tôi.

- Tôi từ từ mở mắt ra, thấy mình còn đang nằm trong ngôi miếu. Một chị cứu thương mặc chiếc áo bà ba màu lục đang ngồi bên cạnh, bàn tay mát rượi của chị hãy còn đặt trên vầng trán nóng như lửa đốt của tôi. Chung quanh tôi, la liệt những thương binh. Một anh bị thương ở đầu quấn đầy băng trắng, đang tựa lưng vào chân bệ thờ hút thuốc lá, mỉm cười nhìn tôi. ánh nắng trời chiếu rọi nghiêng bên mặt anh một quầng sáng lóa. Tiếng súng nổ ran xa xa. Lâu lâu, một tràng đại bác không biết từ đâu bắn tới ùng oang... ùng oang... nổ dữ dội ngoài Ngã Ba Kênh. Không khí sặc sụa mùi lửa cháy nhà và mùi thuốc súng cay nồng nồng.

- Tây đến rồi hả anh? - Tôi hỏi anh thương binh đang mỉm cười nhìn tôi. Tôi cố chống tay ngồi dậy, nhưng lại run run khuỵu xuống.

Cả người tôi rã rời mệt mỏi như vừa qua một trận ốm lâu ngày. Qua lời kể của chị cứu thương tôi mới hay rằng giặc Pháp bắt đầu tấn công vào vùng này từ sáng sớm.

Chúng cho quân xích hầu (trinh sát) ăn mặc giả thường dân mò vào, toan bắt sống mấy anh tự vệ ở đầu trạm canh, nhưng ta đã cảnh giác phát hiện kịp. Tàu bày giặc ném bom đốt cháy xóm chợ từ lúc giữa trưa. Hiện giờ, chúng còn đang ở bên đầu cầu con lộ Cái Chanh...

- Cha chả? Lúc khiêng các anh bị thương vào đây, thấy chú nằm mê man, thỉnh thoảng cứ hét lên, tôi lo quá... Cạy mồm cạy miệng mãi mới nhét được mấy viên thuốc cảm cho chú đấy. Lại hát lảm nhảm những gì gì... Này, nhà chú ở đâu?

- Em không có nhà! - tôi đáp.

Coi bộ thằng bé này chưa tỉnh hẳn đâu. Xem như nó còn mê đấy! Anh thương binh ban nãy thong thả nói như vậy và cầm điếu thuốc lá hít một hơi dài, thản nhiên như một người nhàn nhã đang ở nhà mình. Rồi anh lại nói: - Chị pha cho nó một cốc sữa đi, nó sẽ tỉnh ngay. Lấy hộp sữa trong ba-lô tôi đấy. Tôi chưa cần đến...

Chị cứu thương loay hoay đèn cồn đun nước. Tôi ngồi dậy, đưa đôi mắt mệt mỏi nhìn các anh thương binh đang nằm thiêm thiếp trên nhưng tấm đệm bê bết dấu máu chưa khô. Một anh bị mảnh đạn đại bác cắt giập ống chân, những bắp thịt đùi cứ giật giật khiến anh cựa người nhăn nhó theo, nhưng tuyệt nhiên không hề nghe anh rên một tiếng.

Tôi uống hết cốc sữa. Quả thấy người tỉnh táo lại ngay, nhưng miệng hãy còn khô và đắng lắm, cứ thèm uống nước. Vào lúc gần tối thì giặc Pháp đã vượt được sông Cái Chanh. Đạn súng máy bắn vào khu chợ bay vèo vèo trên nóc miếu. Người ta bắt đầu đưa thương binh xuống xuồng chuyển đi từ lúc ngớt tiếng tàu bay.

Tôi ngỏ ý muốn theo xuồng đưa các anh thương binh đi. Nhưng các ông cụ già bơi xuồng không cho. Và chị cứu thương cũng bảo rằng tôi chưa khỏe hẳn. Chị cho tôi một gói độ mươi viên thuốc cảm và một đòn bánh tét, lại ân cần khuyên tôi nên về nhà mà nghỉ, muốn theo các anh thì còn nhiều dịp, lúc nào chả được. Rõ ràng là không ai ngờ rằng tôi là một thằng bé sống không nhà. Chả nhẽ mỗi chốc lại đem chuyện mình ra kể lể với mọi người sao? Nhất là để cầu lấy một lòng thương?

Không! Tôi không thể làm như vậy được. Mà ngươi ta đang bận tíu tít kia, bao nhiên chiến sĩ bị thương phải chuyển đi, giặc dã đổ bộ qua sông, xóm chợ cũng cháy rồi. Một thằng bé lưu lạc như tôi, đâu phải là đáng bận tâm đối với họ?

Sự tình đã đến nước này thì tôi cũng mặc, tới đâu hay đó Tôi bẻ một số cành cây làm gậy cầm tay, đi dọc theo bờ kênh. Con dao găm còn nằm gọn trong chiếc túi da đeo cồm cộm, ló cán ra bên trong túi áo vét-tông của tôi đây.

Hai bờ kênh, nhà nào cũng đóng chặt cửa. Bàn ghế, lu mái (chum vại ) nhận lổm ngổm dưới mương. Một con chó đứng giữa đường thấy tôi đi tới, cụp đuôi lủi vào bờ dậu. Khi tôi qua rồi, con vật vắng chủ bèn chạy sủa duỗi theo ăng ẳng sau lưng tôi một lúc.

Đêm đó, tôi vào nằm trong một chòi rẫy bỏ hoang giữa đồng. Kinh nghiệm đã dạy tôi nên tránh các đường giao thông thủy bộ quan trọng trong khi giặc sắp tấn công đến nơi. Cả ngày hôm sau, tôi cứ nhằm về hướng những chòm cây có nhà ở mà đi tới. Bây giờ, cơn sốt đã lui rồi. Nhờ mấy viên thuốc cảm và đòn bánh tét của chị cứu thương, tôi đã có thể tiếp tục đi được từ sáng đến chiều, cho tới khi gặp một dòng sông nước đặc như màu cà phê chắn ngang trước mắt.

Tôi không biết mình đang đi tới chốn nào đây? Dọc bờ sông xa xa, người ta bắt đầu đốt lên nhiều đống lửa. Trời không gió. những ngọn lửa cháy thẳng, trông như màu trắng, rực rỡ giữa cảnh trời tà. Một làn ánh sáng tai tái, lờ mờ phảng phất trên mặt nước. Cây cối ngả dần sang màu đen, biến thành những hình thù kỳ dị, như những con quái vật dưới sông trèo lên chồm chỗm ngồi bên bờ.

Trên một doi đất, có đám người xúm xít ngồi dưới chòm cây khô ánh lửa chiếu qua vai những cái bóng quay lưng về mé sông, vờn qua vờn lại trên những chiếc xuồng ghếch mũi kéo lên bãi bùn bên dưới chỗ họ ngồi khiến cho những chiếc xuồng kia trông như động đậy muốn bò lên bãi. Hình như những người ngồi đó đang bàn cãi về chuyện giặc Pháp có dám tiến sâu vào vùng này hay không. Tôi bước đến gần, nhìn vào họ xem họ đang làm gì. Đột nhiên, hai chân tôi bỗng khựng lại... Kìa! ông cụ già bán rắn đang ngồi dạng chân bên đống lửa. Con chó săn nằm sát bên chân chủ, mõm ngóc lên, đuôi vẫy qua vẫy lại. Thằng bé đen trũi cầm sào nhảy lên bờ dạo trước thì ngồi đối diện với bố, đang dùng những đầu ngón chân lật ngựa một con rùa nhỏ. Con rùa bị hất vào lửa, bốn chân bơi bơi trong không khí, cổ vươn ra dài ngoẵng. Mấy người đàn ông cởi trần, vận quần đùi đen, cao to như ông cụ già bán rắn, người nào người nấy mặt đỏ lựng ngồi bình thản, ngắm con rùa lắc lư cái mai, cố dịch ra xa luồng nóng hừng hực từ trong đống lửa phả ra. Một người rung rung đôi vai cười hé… hé... hơi rượu từ cái mồm há hốc bay ra nồng nặc. Hai người đàn bà mặc quần áo đen, ngồi xế bên ngoài một chút, như hai cái bóng, mắt âu sầu nhìn ra sông.

Tôi đánh bạo bước tới một bước nữa. Con chó săn tức thời chồm lên, sủa oang oang. Mọi người chưa kịp ngẩng lên thì con vật tinh khôn đã phóng tới ngoạm vào túi áo vét tông của tôi.

- Luốc? Yên nào! - Ông cụ già quát lên.

Con chó săn buông túi áo tôi ra, lùi về bên chân chủ nhưng mõm vẫn nghếch lên hướng về phía tôi, hai cánh mũi bóng nhẫy luôn luôn động dậy.

- Ông ơi? Có phải cái này của ông không? - Tôi móc chiếc túi da beo ra, chìa về phía ông cụ già bán rắn.

Ông cụ già ngước nhìn lên, sửng sốt. Hai mắt ông dán chặt vào chiếc túi vằn hoa trên tay tôi. Thằng bé bỏ con rùa nằm đấy, nhẩy đến chộp ngay chiếc túi tưởng đã mất rồi. Nó nhe răng, cười như mếu:

- Biết thế nào cũng có người nhặt được mà? Tía cứ bảo rơi dưới kênh!

Tôi đang nhìn ông lão hay nhìn vào ngọn lửa, tôi cũng không biết nữa. Tôi bắt đầu kể:

- Hôm trời nổi dông, khi ông xuống thuyền chèo đi rồi, cháu bắt gặp cái túi này nằm ở chỗ gốc cây bã đậu. Cháu nghĩ là của ông. Cháu nhặt lên, chạy theo gọi mãi mà gió lớn quá, ông không nghe...

Ông cụ già bán rắn lặng lẽ đứng lên. Tôi hơi lùi chân lại một bước. Nhũng người ngồi chung quanh đống lửa cùng đưa mắt nhìn ông. Không thấy ông nói gì. Đột nhiên ông xốc tới, dang hai cánh tay đại bàng ra, cắp lấy hai chân tôi, nâng bổng cả người tôi đưa lên ngang mặt ông.

Đầu lắc qua lắc lại, hàm râu cọ vào bắp vế tôi sào sạo, ông cất tiếng cười ha hả. Con chó săn nhẩy cỡn chung quanh đống lửa, sủa ăng ẳng mấy tiếng, lại lao tới liếm chiếc túi da beo trên tay thằng bé.

- Tốt lắm, chú em! Qua cám ơn chú em đã! - Giọng mừng rỡ của ông lão vang âm rất xa trong đêm tối. Ông ôm tôi quay một vòng rồi mới chịu buông tôi ra, đỡ tôi vào ngồi cạnh đống lửa.

Ông giật chiếc túi da beo trên tay thằng bé, tung lên tung xuống mấy cái trong lòng bàn tay to lớn của mình, đoạn nghiêng người vào gần đống lửa, tháo miệng túi cầm ra từng món, săm soi mãi.

Một người đàn ông vỗ đánh bốp vào vai ông cụ già:

- Bác Hai? Vật đã tìm chủ trở về thì ta phải làm một cái gì chứ.

Ông lão cười khà khà:

- Rồi khắc có ngay! Khắc có ngay mà?

Hai người đàn bà ngồi nhích lên bên tôi. Một bà hỏi:

- Em từ ngoài chợ Thới Bình vô đây à?

- Cháu không biết Thới Bình. Cháu từ trên Chắc Băng xuống đây...

- Ủa, vậy em đi đường nào?

- Cháu cũng không biết... Cháu cứ theo đường mòn lội qua rẫy, lần mò đi mãi vậy thôi?

Nghe nói Tây vô Chắc Băng rồi phải không? Đằng mình bỏ trống cho nó vô à?

- Có đánh chứ! Đánh nhau suốt ngày...

Tôi lần lượt kể lại chuyển những người thương binh trong miếu và chị cứu thương mặc chiếc áo bà ba màu lục Những người ngồi xung quanh đống lửa vừa hút thuốc lá vừa lắng nghe chăm chú. Thỉnh thoáng họ lại à lên một tiếng và đưa mắt nhìn nhau, mỉm cười. Không biết họ trao đổi với nhau những ý nghĩ gì.

- Thế ba má chú em đâu rồi? Ông cụ già gõ cái nõ tẩu vào gót chân để trút tàn thuốc lá ra, chợt hỏi tôi.

- Nhà cháu ở tận bên kia sông Tiền Giang. Cháu lạc mất ba má cháu đã lâu rồi.

- Ở Tiền Giang à? Vùng xã nào? - ông trố mắt hỏi.

- Dạ, ở Mỹ Tho?

- Ờ Mỹ Thon qua cũng có biết...

Người đàn bà ngồi cạnh tôi chép miệng:

- Khổ thân thằng bé! Bây giờ em tính đi dâu?

Tôi cầm vỏ cây khô ném nhẹ vào đống lửa. Tôi lúng túng không biết đáp ra sao. Nhưng tự nhiên tôi bỗng ngước lên, nói rắn rỏi:

- Đi đâu cũng được. Cháu không sợ gì cả. Cháu còn trẻ tráng... đi được tới đâu, cháu đi tới đó? Ơ đâu mà chả thích...

Tôi không biết chính tôi đang nói, hay anh Ba thủy thủ hóa thân vào tôi thốt ra câu ấy. Chắc là bộ mặt ngênh nghênh làm ra vẻ tự hào của tôi có gì buồn cười lắm hay sao, mà khi tôi vừa dứt tiếng, mọi người ngồi chung quanh tôi đều cười rộ lên.

- Đưa tay chú em cho qua coi nào.

Một người đàn ông chụp phăng bàn tay tôi, nắn nắn các ngón tay và kề vào đống lửa ngắm ngiá bàn tay tôi.

- Chú mày có số lênh đênh... và sẽ chịu khổ nhiều. Nhưng rồi tất sau này sẽ khá. Lần đầu tiên tao mới nghe một thằng nhóc nói y như giọng người lớn đấy! Khá lắm. Khá lắm.

Ông cụ già bán rắn hơi ngửa đầu ra, mắt nhìn vào khoảng không trước mặt, miệng ngậm tẩu thở ra những hơi khói thuốc lá đặc sệt. ông khẽ gật gù, quay lại ngó vào tay tôi. Tôi cảm thấy rân rân, dường như đang bị những tia mắt của ông sờ vào khắp người mình vậy.

Thằng bé đen trũi đã chạy xuống mé sông, mò vào thuyền cầm lên chai rượu tổ bố và cái bát sành to tướng.

Đám đàn ông nhịp nhịp đùi, vung tay lên nhao nhao:

- Nào, chúng ta mừng cho bác Hai.

- Vô tửu bất thành lễ!

- Lễ gì vậy?

- Lễ ra mắt của chú bé này... Chúng ta đều cùng họ "lênh đênh".

Cả ông cụ già bán rắn rót rượu ra bát, đưa mắt hỏi tôi:

- Nhấp môi một tí, được chứ.

Tôi cười và lắc đầu. Ông nâng bát rượu lên, tợp một ngụm nhỏ (Theo tục lệ vùng này bao giờ chủ mời cũng uống trước để chứng tỏ trong rượu không có độc) rồi trao chuyền tay cho những người ngồi quanh đống lửa.

Thằng Cò - tôi còn nhớ tên nó trong lần gặp trước, cầm tay tôi kéo lại gần nó. Nó rủ rỉ nói vào tai tôi:

- Mày ăn gì chưa.

- Ăn rồi - tôi đáp.

- Có rùa vàng ngon lắm? Còn mấy con dưới thuyền. Chốc nữa nướng cho mày ăn.

Vừa lúc đó, con chó bỗng chồm lên sủa oang oang. Trong tiếng chó sủa dữ dội bất thình lình, tôi nghe có tiếng con vật gì kêu "ché... ét... ché... ét " ở ngoài bóng tối.

- A ha, Võ Tòng? Cả tháng nay không gặp!

Một người đàn ông búng đầu ngón tay canh cách vào cổ chai rượu, lắc lắc đôi vai, khề khà hát:

“Võ Tòng mà đả hổ

Tại Kiến Dương Cang

Gặp anh thời giữa đàng... "

Con chó nhe nanh, lông gáy dựng lên, hai chân trước chồm chồm ra bóng tối sủa dữ dội.

- Luốc? Yên nào?

Ông cụ già quát một tiếng. Con chó săn tiu nghỉu lùi lại ngoan ngoãn nằm xuống bên chân chủ.

Tôi nắm chặt tay thằng Cò, hãi quá. Một người đàn ông cổ lộ hầu, đen như cột nhà cháy, cởi trần, cao cao lêu nghêu đang hiện ra trong ánh lửa. Hai hố mắt ông ta sâu hoắm, và từ trong đáy hố sâu thẳm đó, một cặp tròng mắt trắng dã, long qua long lại, sắc như dao. Mái tóc hung hung như bờm ngựa phủ dài xuống gáy. Bộ ngực chắc nịch của ông ta ướt đẫm mồ hôi. Dưới lớp mồ hôi bóng như mỡ đó, có hình một con rồng cuộn khúc xanh lè thích chàm bằng những nét tinh vi, phập phồng theo hơi thở của ông ta. Con rồng xanh vươn vây ôm chặt một quả tim, giữa có những chữ gì lấp loáng mồ hôi trông không rõ. Chỗ gò má bên phải, năm cáí sẹo dài sả xuống từ thái dương vắt đến cổ, như đầu móng cọp cào. Một con gì giống như khỉ, hai tay dài nguều ngào, sắc lông đen tuyền, chỉ trừ chỗ hai gò má là có mọc hai chòm lông trắng, đang ngồi vắt vẻo trên vai con người kinh dị ấy.

- Lâu nay có làm dược con thịt nào khá không, ông chúa sơn lâm? - Một người quay mặt ra, hỏi.

Người đàn ông mới đến thở phào một tiếng, thả con vật xuống đất, tháo cánh nỏ đeo bên lưng ra, ngồi vào bên đống lửa nói trống không:

- Tàm tạm vài con heo rừng. Hơn tháng nay còn phơi cái da beo đóng mốc ở lều. Tây đánh gần tới, thiên hạ chạy tứ tán, bán cho ai?

- Làm một hớp rượu đón gió đi, chú! - Ông cụ già bán rắn nghếch râu lên mời.

- Không bán được da thì ta phơi thịt nhậu. Lo gì.

- Bảo Tiểu đồng hầu rượu xem? Cho nó hầu rượu đi, Võ Tòng!.

Võ Tòng búng vào miệng bát một cái, tức thời con vật đưa hai tay dài nguều ngào ra bưng cái bát nâng lên ngang mặt lắc lư đi đến chìa ra trước mặt ông cụ già ông cụ già cầm chai róc thêm rượu vào đầy bát và hất hàm về phía Võ Tòng.

Tôi hỏi thằng Cò:

- Con gì lạ vậy?

- Con vượn bạc má. Khôn lắm. Nó tên là Tiểu Đồng.

Thằng Cò cứ ngó chăm chăm vào con vật, coi bộ thích lắm. Con vượn bạc má đứng thẳng hai chân sau lên như người. Hai tay nó bưng bát rượu đi thẳng đến chỗ Võ Tòng, đưa lên mời chủ. Tiểu Đồng nhe răng kêu "ché... ét, ché...ét", rồi bắt đầu đi vòng quanh đống lửa mời rượu từng người. Con chó săn gừ từ mấy tiếng, vì sợ chủ nên phải nằm yên chứ coi bộ như nó chỉ chực chạy ra cắn một miếng vào đùi con vượn thì mới hả. Đến chỗ hai người đàn bà mặc quần áo đen, Tiểu Đồng nghiêng dầu cúi xuống chào, làm cho những người đàn ông thích chí cười rộ lên. Hai người đàn bà lắc đầu quầy quậy, xua tay từ chối, nhưng con vượn bạc má không chịu đi, cứ đứng giậm chân kêu "Ché~ét, ché...ét". Cho đến khi mỗi bà phải cầm bát rượu lên nhấp môi một ít, Tiểu Đồng mới chịu bưng bát đi mời người khác.

- Chú định đi đâu mà thả ngược lên vùng này vậy? - Ông cụ già bán rắn hỏi Võ Tòng.

- Quần áo rách hết rồi. Nghe Tây sắp đến, đi đón kiếm một bộ ka-ki mặc chơi. - Võ Tòng đáp chậm rãi.

Một người đàn ông vỗ tay đánh bốp:

- Này? Lấy được súng về bán cho anh em đi săn kiếm thịt ăn với nhé?

Võ Tòng nhếch môi cười. Những vết sẹo ở gò má bên phải nhăn nhúm lại, thấy rất dễ sợ.

- Súng để bắn giặc chứ có súng đâu thừa mà đi săn!

- Nhất định là tôi sẽ kiếm được. Chỉ lấy quần áo thôi. Còn súng thì phải để cho anh em tự vệ chứ.

Chợt thấy tôi gật đầu tỏ ý đồng tình, Võ Tòng dừng lại chỉ vào tôi:

- Chú bé này, xem không phải là người cánh ta?

Ông cụ già bán rắn gật gù, thò tay cầm một cái que khô cời vào đống lửa:

- Nhưng nó sẽ là người cánh ta. Chốc nữa, tôi sẽ đưa nó theo tôi... Bà nhà tôi hẳn là phải mừng lắm?

Một bầy chim đêm bay vút qua trên đầu chúng tôi.

Tiếng đập cánh rào rào mất hút trong vòm trời nhấp nháy những vì sao xanh biếc.
 
Chương 007

- Tới nhà rồi. Dậy lên nhà, An ơi!

Tôi nghe tiếng thằng Cò gọi, giật mình mở mắt ra. Bàn tay nó hãy còn đập đập mấy cái lên vai tôi, khiến tôi tỉnh hẳn người. Tôi giụi mắt mấy cái, bàng hoàng một lúc mới nhớ ra là mình đã ngủ dưới thuyền từ đêm qua cho tới bây giờ.

Thằng Cò đã bò ra trước mũi loay hoay cầm sợi thừng buộc thuyền vào gốc cây mọc dựa bờ.

Tôi đưa mắt ngó lên. Một mái lều nhỏ, tiều tụy, nép dưới bóng cây tràm vỏ trắng phản chiếu ánh bình minh như tô phấn. Chung quanh nhà mọc đầy những cây bình bát đại, lá xanh um. Sau những bình cây bát đại là một khoảng rộng trống, và nhìn thẳng vào trong xa, chỉ thấy toàn lau sậy mịt mùng. Trên khoảng sân rộng trước nhà, một vài con buồm đất bay đây đó. Bên góc sân, một dọc da trăn và da rắn vắt trên cây sào phơi. Luồng gió ban mai thổi nhẹ qua, đong đưa những tấm da khô trông như một bầy rắn quấn vào cây sào đang cựa quậy.

Con Luốc nhảy phốc lên sân, sủa mấy tiếng mừng rỡ. Một bà già cao lớn, hơi gầy, tóc bới cao hình bánh lái, mặc chiếc áo bà ba vải đen kiểu xưa, từ trong lều bước ra, chạy đến cúi xuống vuốt ve con chó. Khi thấy trong thuyền có thằng bé lạ, bà bèn buông con chó, ngước lên hỏi:

- Chú em nào đấy?

Thằng Cò đưa tay cho tôi nắm để bước lên bờ, vừa cười vừa nói:

- Anh em với con đấy, má à..

- Con nuôi của tôi đấy? Bà nó dắt con lên nhà đi. - Ông lão gác mái chèo lên mui, đứng sau lái thuyền nói vọng lên.

Bà lão mỉm cười nhìn tôi. Tôi không biết nói gì, chỉ ngượng nghịu cúi đầu chào.

*****

Ở vùng Phong Mỹ, ai cũng khen anh Hai là một thanh niên hiền lành, chịu khó. Anh mồ côi cha mẹ từ lúc mười tuổi, phải ở đợ cố công cho tên địa chủ Khá. Mãi đến năm gần ba mươi tuổi anh vẫn chưa lấy được vợ. Người tá điền ấy giỏi trai, khỏe đến nỗi có thể dùng hai tay nắm hai sừng trâu ghì xuống đất, con trâu vùng vẫy thế nào, cũng không cất đầu lên được.

Bao giờ mày làm cho tao đúng hai mươi năm, trừ hết số nợ cha mẹ mày còn thiếu tao ngày xua, tao sẽ cho mày một số tiền cưới vợ. Tao sẽ cho vợ chồng mày một vuông đất làm nền nhà, và cho mướn một ít ruộng, làm ăn riêng với nhau. Lâu lâu, tên địa chủ già nổi tiếng keo kiệt nhất vùng lại bảo với người đầy tớ trung thành của lão một lần như vậy.

Mỗi lần nghe như vậy, anh Hai lại cố sức làm lụng ngày đêm cho vừa lòng chủ, bao nhiêu nỗi vất vả trong anh thảy đều tan như mây mù dưới ánh mặt trời.

Đến năm anh Hai ba mươi tuổi, không thấy tên địa chủ nói gì, anh bèn nhắc lại lời hứa đó.

- Vậy sao? - Tên địa chủ kêu lên và cười lớn. - Vậy mà tao tưởng mày không tính chuyện lấy vợ, ra ở riêng nữa chứ! Mà đã có con nào bằng lòng lấy mày chưa?

- Bẩm ông chủ, có rồi ạ - anh Hai mừng rỡ đáp.

- Thế con đó có đui què, mẻ sứt gì không?

- Bẩm ông chủ, không ạ?

- Nó cấy gặt, làm lụng được chứ?

- Bẩm ông chủ, được ạ?

Tên địa chủ Khá ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

- Thôi được. Nhưng mày phải dắt nó về cho tao xem người ngợm ra sao đã. Không lại vớ phải thứ cá lọt giỏ, gà lọt bội (thứ không ra gì), quặt quẹo ốm đau, về phải nguôi báo cô thì khổ cho mày?

Anh Hai bơi xuồng suốt đêm, đến nhà người yêu báo tin vui đó. Hai anh chị quen biết nhau đã mấy năm nay. Chị Hai cũng là con nhà cố nông, mồ côi, được người dì mang về nuôi từ bé.

Khi tên địa chủ già trông thấy người con gái xứ Cao Lãnh khỏe mạnh, có hai hàng mi phớt cong trên cặp mắt to đen, có đôi vai nở rộng, đang nghiêng cúi chào hắn, hắn đưa tay lên giụi mắt mấy cái. Hắn ngồi sững sờ hồi lâu không nói gì cả.

Hai anh chị lo quá, lẳng lặng bước ra đứng ngoài thềm, không biết mình đã chót sơ ý, sơ xuất điều gì để ông chủ phải phật lòng chăng? Hồi lâu, tên địa chủ mới đằng hắng một tiếng, gọi anh Hai vào, cho ngồi xuống một bên góc phản, thong thả bảo:

- Thôi được! Cứ hảo nó ở lại đây. Mọi việc sẽ lo liệu... Tao, tao sẽ cho người đến bàn với dì nó... Rồi đâu khắc vào đấy thôi?..

Anh Hai mừng cuống lên, chắp hai tay vái dài toan lui ra. Nhưng ông chủ anh đã vẫy tay, ra hiệu cho anh ngồi lại đó.

- Việc cưới xin của mày thì... hãy thong thả. Rồi tao sẽ liệu cho...

- Vô cùng đội ơn ông chủ.

- Bây giờ mày vào ngay trong chòi ruộng, coi giữ bầy trâu hai mươi con trong đó thay cho thằng Bé. Bảo thằng Bé về lo việc ngoài này, nghe chưa?

Anh Hai vào coi giữ bầy trâu đã hơn nửa tháng. Chiều chiều anh ngồi trên lưng trâu ngong hướng nhà chủ, nóng ruột như lửa đốt. Người đầy tớ hầu hạ chủ suốt hai mươi năm không lạ gì tính háo sắc của ông chủ nổi tiếng ấy. Một tay lão đã vùi dập bao nhiêu đời thiếu nữ. Có nhiều người con gái tá điền trẻ, đẹp, bước vào nhà lão rồi không trở về nhà cha mẹ nữa, mà nằm vĩnh viễn dưới nấm mộ giữa đồng...

Một đêm, giữa lúc khuya, anh nghe trâu khua sừng lộp cộp ngỡ trộm vào dắt trâu, anh chụp con dao rựa nhảy ra.

- Anh Hai ơi? Nguy rồi, anh Hai ơi! - thằng Bé kêu lên trong tối.

Tay anh Hai cầm con dao run bần bật. Linh tính báo cho anh biết đã có điều nguy biến xảy ra cho ngươi yêu anh rồi...

Ngay lúc anh Hai vừa ra khỏi nhà đi vào chòi ruộng, tên địa chủ Khá gọi chị Hai vào, ngon ngọt dỗ dành, bảo chị nếu ưng thuận thì hắn sẽ cưới chị làm vợ thứ ba. Vợ cả hắn còn nằm liệt ở nhà thương tỉnh từ năm này qua năm khác. Vợ thứ hắn thì đang trông coi một đồn điền xa... "Mày chỉ gật đầu một cái tức khắc lên bà". Chị Hai sụp lạy hắn, xin tha cho chị về. Hắn hết dỗ dành rồi dọa nạt. Hắn đã dùng gậy, dùng roi mây đánh chị thâm tím khắp mình mẩy, và lôi nhốt chị trong nhà kho bờ trống với một vò nước lã. Rồi hắn lại mò xuống dụ dỗ, đánh đập, nhưng hơn mười ngày vẫn không xoay chuyển được lòng chị. Chị Hai cứ nằm khóc, và hết khóc lại ngóng ra khe vách, trông chờ người yêu một cách tuyệt vọng. Tên địa chủ cấm tiệt bọn tôi trai tớ gái trong nhà không được hé môi với ai. Thằng Bé ngày nào cũng lén lún đút vào cửa cho chị một nắm cơm.

Ngoài thằng Bé ra, bây giờ chỉ còn có con thằn lằn chắt lưỡi trên vách và con cóc nghiến răng ngoài thềm thương cho cảnh ngộ của chị thôi?

Đã khuya mà ai còn chèo thuyền. ngoài sông hát hò làm chi cho lòng chị Hai thêm đau như muối xát:

“Một tiếng nhục anh để đó, hai tiếng nhục anh để đó, ba tiếng nhục anh ra đi... ".

Chị Hai ôm mặt khóc nấc lên. Chỉ còn có lấy cái chết để bảo toàn trinh tiết, đền đáp lại mối tình của người yêu thôi. Chi thò tay ra lỗ vách thủng, với lấy sợi thừng vải máng bên ngoài.

Thằng Bé ngủ bên hè vựa lúa gần đó. Tiếng khóc của người thiếu nữ xấu số đã khiến nó nhiều đêm không chợp mắt. Nó thường trở dậy đứng bên ngoài vách nhà kho nghe chị khóc, và lòng nặng trĩu xót thương một cách bất lực, nó chỉ biết lặng lẽ cúi đầu, thất thểu dưới ánh trăng đi về, nó không sao ngủ được... Tình cờ thằng Bé đã bắt gặp bàn tay run rẩy thò ra níu sợi dây thừng. Nó chạy đến giật phăng sợi thừng ném ra xa, và trong giây phút đứng trước nỗi đau khổ tột cùng của những người nghèo cũng bị áp bục như nhau, nó không còn nghĩ đến cái gậy quất đến quằn người và những trận đòn khủng khiếp của lên dịa chủ, nó nhắm mắt chạy băng dộng ra chòi ruộng của anh Hai...

Khi anh Hai và thằng Bé về đến nhà kho thì trăng đã lu. Anh sờ soạng vỗ vỗ vào vách gọi mấy tiếng. Không bên trong động cựa gì. Chiếc khóa to tướng nghiến kẽo kẹt trong hai bàn tay nóng rục lửa của người chồng chưa cưới. Anh không bẻ nổi khóa.

- Cạy mẹ cửa đi, anh! - thằng bé trao cho anh con dao mà anh vừa ném bên vách.

Đêm lặng như tờ. Tiếng dao nạy cửa nghiến vào ổ khóa nghe rợn người. Mấy con chó chạy ra, gặp người nhà chúng không sủa, nhưng con nào con nấy cứ nhảy chồm chồm, kêu ư ử ngạc nhiên trước một việc kỳ lạ mà chúng chưa từng chứng kiến trong ngôi nhà này. Chiếc khóa bật ra. Anh Hai đạp cửa lao vào: Anh vấp phải một thân người mềm nhũn nằm trên nền gạch. Anh run run cúi xuống bế thốc lên tay. Chị Hai hãy còn thoi thóp. Cơn xúc động dữ dội đã làm chị ngất đi.

- Chết rồi, anh Hai ơi ông chủ xuống kìa? - thằng Bé đứng bên ngoài kêu lên.

Khi anh Hai bế chị Hai ra sân thì tên địa chủ Khá đã cầm gậy lững thường bước tới.

- Bỏ nó xuống! Kìa! Tao bảo mày bỏ nó xuống!

- Bẩm ông chủ...

- Câm mồm ngay!

- Xin ông thương vợ chồng chúng tôi...

- Vợ mày à?

- Bẩm ông chủ...

- Có bỏ xuống không?

- Ông chủ nỡ nào...

- Nỡ nào? Nỡ nào? Nỡ nào! - Tên địa chủ nén giọng rít lên, và hắn phang gậy xối xả, đập vào đầu vào mặt anh, đập vào cả cái thân hình mềm nhũn trên tay tên đầy tớ dám cưỡng lệnh hắn.

Anh Hai quay lưng ra hứng đòn cho người vợ chưa cưới đang thiêm thiếp trong tay mình. Sức người dù khoẻ đến đâu cũng có hạn thôi. Anh lảo đảo ngã khuỵu xuống. Nhưng anh vẫn còn đủ sức đặt chị Hai nằm đấy, cầm con dao quay lại.

Tên địa chủ Khá hét ầm lên, ba chân bốn cẳng chạy lên nhà. Anh Hai không đuổi theo. Anh ném con dao vào lưng nó và quay lại cõng chị Hai chạy đi. Trống mõ chung quanh nổi lên như nhái kêu. Anh Hai chưa ra khỏi nhà hơn trăm thước thì bị bắt. Con dao không kịp cắm vào lưng tên địa chủ dâm ác. Nó chỉ mới cứa đứt một lằn dài hơn gang tay... Và anh Hai bị dóng trăn (một loại gông) chịu một trận đòn thù đến chết đi sống lại không biết mấy lần, trước khi ra tòa đền tội, cướp đoạt và cố ý sát thương nhà chủ mất hai mươi năm tù khổ sai.

Ở tù được năm năm, anh Hai trốn ra, dắt chị Hai xuống một chiếc xuống để mặc nước cuốn đi.

Đôi vợ chồng cải tên đổi họ, nổi trôi từ vùng này sang vùng khác. Từ những nghề hạ bạc như đóng đáy, câu cá sấu trên sông Cửu Long mênh mông, đến trèo cau, trèo dừa ở Bến Tre, nơi người đi có thể bước suốt ngày dưới những vườn dừa tầu lá ken nhau, trên đầu không lọt xuống một bóng nắng, đến nghề đi làm ruộng thuê cho những tên địa chủ ác bá giầu nứt đố đổ vách của tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu... hai người đều làm tất. Đúng trên các cánh đồng, nhìn bốn mặt chân trời, chỉ thấy lúa vàng gợn lên mênh mông như biển, mà hai vợ chồng không đủ nồi gạo nấu cháo trong lều. Ban đêm phải bò ra những đống lúa cao như núi do tay mình làm ra, lấy trộm một ít thóc đem về, rồi lấy cán dao cà lúa cho ra gạo,không dám giã đã đành, thậm chí đến đèn cũng không dám đốt sợ bọn cập rằng (bọn canh gác) thấy chỗ nào có ánh sáng là sẽ mò tới...

Cho đến khi chị Hai sinh thằng Cò thì tai họa lại bay đến trong gia đình đôi vợ chồng nghèo. Những tên tề địa chủ thấy chị Hai xinh đẹp, liền lập mưu phao vu cho chồng chị làm cộng sản để định bắt anh đầy đi chết rục xương ở Côn Đảo, hòng chiếm đoạt ngươi đàn bà lam lũ nhưng có nhan sắc và duyên dáng kia. May thay anh Hai đã phát hiện kịp, vội vàng thủ tiêu hết tang vật chúng định gán ghép, rồi bồng con dắt vợ xuống thuyền đang đêm trốn đi...

- Vào rừng ở thôi? Chị Hai lau nước mắt, quả quyết bảo chồng như vậy.

Một chiếc thuyền nát, một con dao rựa, một con chó gầy gò ngồi bên mẻ lửa hun khói đuổi muỗi, đuổi bọ mắt trước mũi thuyền, người nông dân cùng đường này chèo đưa vợ con và mấy giạ lúa ăn, lúa giống cuối cùng, mỗi ngày một đi sâu vào rừng rậm.

Hai vợ chồng che một túp lều bên cây tràm độc chiếc, để lấy nơi làm phương hướng tìm về. Và họ ra sức khai phá... Họ làm đủ các thứ nghề để sinh sống qua ngày. Từ giữa chỗ ướt mù sương lam chướng khí, chung quanh chỉ còn nghe tiếng vượn hú, tiếng beo gầm, dù phải chịu đựng không biết bao gian nan cơ cực, nhưng cuộc sống của họ thảnh thơi dễ chịu hơn lúc còn chung đụng với những con người đã cầm vận mệnh họ trong tay trước kia.

Như thế đó? Sức khỏe của một người đàn ông thật thà chỉ biết nai lưng ra làm lụng, và sắc đẹp của một người đàn bà nghèo chung trinh là mối bất hạnh đã dắt tai họa vào cái gia đình cố nông này. Chồng thì bị bóc lột đến cùng kiệt sức lực, vợ thì luôn bị đe dọa cưỡng bức. Còn bọn ăn trắng mặc trơn, không làm gì động đến móng tay, thì vẫn mâm cao cỗ đầy, lên xe xuống ngựa, muốn cho ai sống thì sống, muốn bắt ai chết thì chết? Sao trời nỡ bất công làm vậy?

Đó là câu chuyện về nguồn gốc gia đình của ông Hai bà Hai - gia đình bố mẹ nuôi tôi - mà tôi được biết qua nhiều lần kể của bà mỗi lúc bà kể một quãng, có khi không ra đầu ra đũa gì, có khi đoạn trước nói thành đoạn sau. Cả không gian và thời gian lẫn lộn đã chìm vào lớp sương mù ký ức trong những năm cơ cực đầu tắt mặt tối, lần lần được bà khơi dậy, mỗi lúc lại hiện lên rõ nét trước mắt tôi.

Cuộc sống chung quanh tôi giờ đây đã khác xa với những bài học ở nhà trường đế quốc trước kia biết bao. Con ở đây với tía? Tía má nghèo lắm, chẳng có gì đâu.

- Nhưng con cứ tin rằng cuộc sống của con không đến nỗi như cuộc đời đau khổ của tía má ngày xưa! - má nuôi tôi một hôm đã bùi ngùi cầm tay tôi nói như vậy.

Tôi đẩy má nuôi tôi ra, nước mắt chảy giàn giụa mà không biết rằng mình đang khóc. Tôi bảo bà:

- Đánh chết cha thằng Tây và bọn chủ điền kia thì hết khổ thôi. Bây giờ không phải như ngày xưa nữa... Bây giờ mình đã độc lập rồi, má không biết à. Má đừng ngồi đây gọi trời. Trời làm gì có mà gọi.

Má nuôi tôi ngả người ra sau, nhìn tôi bằng cặp mắt vừa ngạc nhiên vừa có phần lo sợ cho tôi. Nhưng rồi bà cũng mỉm cười, gật gật đầu. Không biết bà có hiểu ý tôi muốn nói gì không? Mà bà làm sao hiểu được, vì chính tôi cũng chưa nói ra được một cách rành rọt những ý nghĩ sôi sục vừa mới thành hình trong đầu óc thơ bé của tôi kia?

Má nuôi tôi đưa tay lau một giọt nước mắt còn đọng trên má tôi. Lần đầu tiên, tôi nhìn thấy giọt lệ mình long lanh trong suốt, lăn rơi trong bàn tay nhăn nheo của một bà lão nghèo đã cúi đầu gánh chịu không biết bao nhiêu nỗi bất hạnh gần suốt cả đời người. Có phải giọt nước mắt nào cũng là biểu hiện của ủy mị và hèn yếu đâu.
 
Chương 008

Má nuôi tôi là một người thuộc khá nhiều chuyện cổ tích và biết hầu hết mọi cung cách làm ăn của những người nông dân nghèo ở khắp mọi vùng Nam Bộ. Có điều là trong tất cả những mẩu chuyện bà kể, chuyện nào cũng pha đượm ít nhiều tính chất thần bí, và bà tin tưởng một cách ngây thơ ở "mệnh trời". Dù vậy tôi cũng thích nghe, thích gợi cho má nuôi tôi kể để tôi nghe say mê...

Thằng Cò còn giống mẹ ở chỗ hay mê tín dị đoan. Nó là một đứa chúa sợ ma! Bao giờ nghe kể chuyện trong lúc ban đêm, mặc dù đã lớn tuồng như vậy mà lúc nào nó cũng nhảy vào lòng má, ngồi rụt lại như một đứa trẻ con.

Tía nuôi tôi hiền lành, ít nói. Ông thường ngồi lặng lẽ đánh những sợi dây gai hoặc giũa lưỡi câu, miệng không rời cái tẩu thuốc lá hình thù kỳ dị làm bằng một gốc ớt hiểm rừng.

Má nuôi tôi kể cho chúng tôi nghe đủ thứ chuyện. Từ những chuyện "Cá bống hai hang, cá trê hai ngạnh, tôm càng hai râu "rất ngây ngô, trẻ con, sang chuyện săn nai, săn khỉ qua rừng, qua chuyện cuộc đời chú Võ Tòng - con người kỳ dị mà tôi đã được gặp một đêm tối ở bờ sông - đến chuyện ma cá sấu, ma cọp, ma nam... mà người nghe yếu bóng vía, dù là người lớn đi nữa, cũng không dám bước ra xa nhà đi đái. Dáng như chuyện nào thằng Cò cũng đã nghe mẹ kể rồi. Nó chẳng chú ý mấy, chỉ hong hóng, chực nghe bà quên mất một đoạn nào đó, thì lập tức chen vào bổ sung ngay, rồi lại nheo mắt nhìn tôi như muốn nói: "thấy chưa, má tao còn không nhớ bằng tao vì mày ở chợ vô đây, rồi còn phải học tao nhiều!" Cái thằng đen trũi, cổ dài ngoằng như cổ cò ma, nhiều lúc tỏ ra "ta đây" một cách khinh khỉnh, dễ ghét. Ngoài mặt tôi từng tỏ ra không phục, nhưng trong bụng tôi vẫn chịu là nó khôn ranh, hiểu biết hơn tôi nhiều. Nó dạy tôi cách hiểu các thứ bẫy, đặc tính của nhiều con thú, và nó đã dắt tôi đi gần thuộc hết các lối ngoắt ngéo trong rừng

- Tía ơi? Để con dắt thằng An đi câu rắn một bữa nghe tía!

Một buổi chiều, đột nhiên thằng Cò hứng lên, đề nghị với bố như vậy. Tía nuôi tôi bị con cá ngát đâm vào bắp chân, hôm nay chân còn sưng tướng, chưa đi được. Ông hỏi:

- Đi không có tao, thằng An thì chưa biết gì, liệu một mình mày có làm nên trò trống gì không đấy? Thôi, để lúc khác con ạ!

Má nuôi tôi liền can thiệp ngay:

- Nó làm được mà? ông thì lúc nào cũng chê ỏng chê eo thằng bé. Để không có ông, coi nó có làm được không?

Thằng Cò nhướng mắt nhìn tôi. Thế là hai đứa tôi bắt tay ngay vào việc chuẩn bị cho buổi câu đêm.

Chúng tôi dắt con Luốc đi dọc theo mé nước, rình đập những con cá thòi lòi biển. Những con cá thòi lòi to bằng ngón chân cái, cặp mắt ốc nhồi mọc trên dầu giống như hai hột mồng tơi, hễ nghe bước chân chúng tôi đến gần là y như chúng giương cái kỳ ngũ sắc trên lưng thành một cánh buồm, phóng ngay trên mặt nước. Giống cá gì mà tinh như qủy bay trên mặt nước như cá thia lia, lặn cũng giỏi, bơi cũng giỏi còn nhảy trên bờ thì thật không thua gì một con ếch. Vậy mà rốt cục hai đứa cũng đập được gần mười con. Riêng phần con Luốc, nó cũng rình chộp được năm sáu con. Vậy là tàm tạm đi khoản mồi câu rồi.

Tía nuôi tôi đi cà nhắc đến ngồi trên một gốc cây cắt ngang giống như một cái đòn sù sì đặt bên cạnh bếp lửa, xem chúng tôi chuẩn bị mồi câu. Thằng Cò muốn chứng minh lời khen của má, hay cố biểu diễn" cho tôi phục nó thì không biết, mà nó làm coi thạo lắm. Nó dùng hai ngón tay banh họng con cá, nhét vào họng mỗi con một quả ớt hiểm chín.

- Ê nướng đi mậy, An? - nó bảo tôi.

- Làm sao nướng đây?

- Lấy cái que xiên bụng nó, kê lên than nướng chứ còn làm sao? Nướng mồi mà cũng không biết!

Nó vót nhọn đầu cái que, xóc ngang con cá mồi, trao cho tôi. Tôi đặt lên than hồng một chốc, con thòi lòi ngậm quả ớt bèn nhe mồm ra, lưng vểnh cong; từ trong họng con cá vàng rộp đó mỡ bắt đầu chảy ra, nhiểu xuống than cháy nghe xèo xèo. Tôi nuốt nước miếng đánh ực một cái:

- Eo ôi, thơm quá!

Thằng Cò cười lớn:

- Mình ngửi mùi cá nướng còn phát thèm, huống gì con rắn?

- Ừ thứ mồi này nhậy lắm. Đêm nay, hai đứa bay ít ra cũng kiếm được năm bẩy con cỡ bắp chân... Cái thứ mồi nhái sống gặp nước bơi lom xom thì chỉ tổ quện cá lóc tới phá mất? - tía nuôi tôi cười hà hà. Khói thuốc lá vón quanh đôi mắt to, sáng lóng lánh. ông vui vẻ nói tiếp: - Thằng An mới ra nghề đêm đầu tiên, đừng có xách giỏ về không đây, con ạ.

Ông kéo thúng gai đến bên chân, cầm lên vuốt từng sợi gai, sau đó lại rút cái giũa giắt bên vách ra giũa lại những chiếc lưỡi câu lụt. Tôi hỏi:

- Tía không đánh gai lại cho săn à, tía?

Thằng Cò cười hì hì:

- Vậy mà mày cái gì cũng khoe giỏi? Tưởng cái gì trong sách của mày cũng có hử ? Tía ơi, đừng bày cho nó nghe tía!

Tía nuôi tôi vỗ vỗ đầu thằng Cò:

- Nó không biết thì phải bảo cho nó chứ. Có ai mẹ đẻ ra không học mà biết được!

Ông cầm một cuộn gai ước chừng bốn năm mươi sợi, to như cổ tay tôi, toàn là những sợi gai rời nhau, dài hơn thước, thong thả buộc chùm hai đầu lại, một đầu buộc vào chiếc lưỡi câu có ngạnh rất sắc. ông vừa cuốn chùm gai vòng quanh cổ tay làm như bộ con rắn quấn, vừa giảng giải.

- Rắn không có tay có chân, nhưng nó khỏe nhờ sức quấn của xương sống. Con trăn bắt nai, quấn con mồi siết chặt mãi, bao giờ mềm, giập hết xương, nó mới nuốt. Thứ rắn rằn ri cóc, có con to cỡ bắp vế, ở dưới nước nó còn khỏe hơn con trăn! Khi mắc câu, nó cuốn dây câu và vặn mình xoay vòng siết lại mãi, dây to đến mấy cũng phải đứt Nhưng loài vật làm sao khôn hơn người được! Đây An, con xem đây! Toàn là những sợi gai rời. Hễ bắt đầu quấn thì gai mới bắt đầu săn. Càng quấn càng săn một lúc, thấy chưa đứt, nó bèn xoay ngược lại. Tức thời cuộn gai lại tháo ra. Cứ thế quấn và tháo ra suốt đêm, chùm gai câu vẫn trơ nguyên, không đứt một sợi?

Khi tía nuôi tôm tôi kiểm tra tất cả những cuộn gai và ướm xong từng lưỡi câu rồi, ông bèn bảo chúng tôi đi dằn bụng cho no, kẻo thức khuya mau đói lắm. Chúng tôi ăn cơm xong thì má nuôi tôi đã ôm nõ, đèn soi, mác và một cái giờ tre to tướng bỏ xuống xuồng rồi.

Tôi chạy ra, hỏi:

- Cần câu đâu, má?

- Ối cần kéo gì, con?

Thằng Cò bật cười lớn:

- Cần câu gởi bà Thủy ở ngoài sông. Ra ngoải lấy.

Thằng Cò giục tôi đi, nhưng tôi chưa muốn đi. Tôi cứ luẩn quẩn theo má nuôi tôi hỏi đủ thứ, như: khi rắn mắc câu rồi thì làm sao bắt, rủi bị nó cắn có làm sao không?

Tía nuôi tôi bảo:

- Cứ đi đi có thằng Cò, đừng ngại. Nó sẽ bảo cho...

Và ông bưng cái mẻ hun (đốt trấu để lấy khói xua muỗi) đặt xuống nước mũi xuồng ngước mắt lên trông ánh chiều sắp lụn:

- Đi bây giờ, ra đến chỗ câu thì vừa?

Tôi ngồi bơi mũi, thằng Cò ngồi bơi lái. Nước từ trong rừng U Minh theo các con lạch nhỏ đổ ra kênh, chảy ào ào như một thứ nước màu cà-phê đặc, cuồn cuộn thoát ra sông.

Bây giờ, mặt trời đã lặn vào những đám mây đỏ thẫm cuối dải rừng xa. Xuồng chúng tôi lướt qua một quãng sông, hai bên bờ lau sậy mọc rậm rịt. trước mắt tôi dần dần mở ra một mảng trời vàng rực. ánh sáng lấp lánh màu bụi vàng kim loại tỏa thành những đường dài rẽ quạt chạy tháng lên không. Một bầy cò nối đuôi nhau bay theo hình mũi tên, trông mệt mỏi vội vàng, những đầu cánh trắng nặng nề nhún lên nhún xuống quạt gió lướt đi cứ như vương vướng những tia vàng hấp hối khiến chúng không bay mau được. Xuồng vẫn trôi băng băng.

Một lúc lâu, qua khỏi cánh đồng ngập tím một màu hoa lục bình, chúng tôi bắt đầu chui vào vòm cây đen thẳm như một cái hang. Trời đã tối, những cành lá dại đan nhau thành một tấm trần kín mít, không để một tia sáng nhỏ lờ mờ của một bóng sao nào lọt xuống được. Tối như bưng mắt. Cái mẻ hun đặt trước mũi xuồng cứ phả khói mù mịt khiến tôi gần như ngạt thở. Tôi khom người chồm tới, thổi phù phù mấy cái vào những dầu củi ngún lem nhem. Lửa phụt nháy lên những ngọn mảng như lụa đỏ, chao qua chao lại. ánh lửa soi sáng hai bên cành lá rậm rịt, vụt kéo trở về những mảng màu xanh lục, đỏ, vàng, lốm đốm của những hình hóa lá bị nhấn chìm trong bóng tối đen ngòm. Tôi vừa thấy mình đỡ hãi hơn một chút, bỗng kêu lên:

- Ý? Cái gì như rắn... Nhiều quá, Cò ơi.

- Rắn đâu mà rắn, mậy? Bộ rắn tới nạp mạng cho tụi mình hả?

- Ơ! Ờ không phải!

Tôi đã kịp nhận ra. Rễ cây mốc thếch quấn vào nhau trông như những nùi rắn đang chen nhau lặn xuống nước, đầu khuất dưới nước rồi mà khúc mình còn mắc trên bờ. Một tiếng tiu... u... ụt nổi lên đột ngột, vang dội cả khu rừng. Con chim ụt to tướng, lông rằn rục, từ trong bóng tối chập chờn lao vèo ngang qua đầu chúng tôi, luồng gió từ đôi cánh rộng quạt ra một mùi tanh, lờm lợm, ngửi thấy phát buồn nôn. Tiếng "u... u... ụt" của con chim đêm kinh tởm vọng rền trên mặt nước như đuổi theo sau lưng chúng tôi, càng làm cho chiếc xuồng như sợi hãi trôi nhanh.

- Chắc con chim ụt đánh hơi mồi rắn của mình, hắn ra muốn nhào vô xuồng kiếm chác hở mấy, Cò? -. tôi nói vu vơ cho đỡ tẻ.

- Tao biết đâu được!

- Cò, mà không biết được "chim" à?

- Không bỡn đâu nhá! Đừng có nói lảng. Tại mày nên bây giờ mới chỉ đi tới đây. Không thì xuồng đã ra tới sông lâu rồi.

Tôi lặng thinh, không dám ừ, cũng tại mình cứ luẩn quẩn theo bên ba má nuôi hỏi linh tinh, chứ như đi sớm hơn, có lẽ bây giờ đỡ phải sợ rừng tối. Bụng tôi cứ hồi hộp như thế nào ấy. Sợ không ra sợ, lo không ra lo.

Vì tôi ngồi bơi mũi cạnh mẻ hun, xông hơi lửa nóng một lúc, nên mồ hôi vã ra ướt cả trán. Muốn thò tay vào ngoài be xuồng vốc nước lên rửa mặt mà không dám. Tay tôi cứ thò xuống lại rụt lên mấy lần.

- Cái gì lóc bóc như cá ăn vậy, Cò?

- Tôm tít búng đấy, chứ có rắn đâu mà sợ mấy? Thằng nhát quá!

Tôi nghe nó nói, có phần vững bụng hơn, bèn thò tay xuống khoát nước lên rửa mặt. ừ, cá ăn tía thì nghe phải giống như nồi cơm sôi kia. Má nuôi tôi có kể rồi, bà còn dặn tôi phải chú ý đề phòng. Cá trê đi từng đàn, bơi đặc cả nước, quẫy móng lách tách lục ục như nước cơm sôi, lăm tăm một quãng dài trên sông. Đi chài mà gặp cá ăn tía, quăng chài xuống, khi kéo lên nếu gặp loại chài cũ bở bở, có thể dứt tung chài. nhưng nguy hiểm nhất là rắn. Rắn hổ đất cứ bơi theo trên mặt nước để ăn bọt nhớt cá. Đó là những con rắn đang luyện nọc, cắn ai thì có trời xuống cứu...Má nuôi tôi nói như vậy.

Chúng tôi đã ra khỏi vòm cây tối đen ban nãy. Vài ngôi sao le lói mọc lưa thưa. Bờ tràm khô đứng im lìm dưới ánh sao xanh biếc. Cành cây trắng ngoằn ngoèo như đám bạch xà ngóc cổ lên trời hứng uống mù sương trong chuyện đời xưa. Dòng sông đen ngòm, ghê rợn. Cây cối hiện hình ma quái, ẩn ấn hiện hiện trong lớp sương giăng bàng bạc. Cây đọt chiếc tròn tròn như ngôi mộ. Cây tràm quấn dây tơ hồng như người đàn bà bồng con đứng xõa tóc, tay vẫy vẫy. Cây dừa nước, lá nhọn hoắt như hai hàng gươm giắt dài theo sống lá tu tủa, chĩa mũi nhọn lên đe dọa trời. Ban ngày trông chẳng ra làm sao. Đêm tối, nhìn cái gì cũng đâm ra sờ sợ.

Muỗi vu vu từ bờ bay ra đuổi theo xuồng như những đám mây.

- Bơi ngược gió lên cái vịnh trên kia đi, An! Không thì nó... thằng Cò chưa nói hết câu đã phun nước miếng phèo phèo.

- Nó chui vô miệng mày hở ?

- Ụa... ụa...

- Tao hỏi nó chui vô mấy con rồi?

Thằng Cò ư... ư... khạc nhổ rồi phun tiếp liền mấy cái, không đáp. Hai tay nó mắc giữ cây giầm kìm lái, nó cởi trần mà lại không thể buông giầm để dùng tay đập muỗi được thành ra người nó cứ phải uốn éo, vặn qua vặn lại cho muỗi đỡ đốt. Tôi gác giầm mũi lên xuồng, chạy đến vuốt vuốt khắp mình cho nó. Eo ôi, hai bàn tay nhớt nhợt, ướt đầy máu.

- Cố chịu đựng vài trăm thước nữa - thằng Cò cười hì hì. Hàm răng nó trắng đều như hạt ngô non, ánh lên trong đêm tối.

Xuồng bơi ngược nước nghe ồ ồ, đi chậm như rùa. Hồi lâu mũi xuồng từ từ rẽ vào bờ, lủi vô một đám nước dừa tối đen. Thằng Cò đứng lên đằng sau lái, cầm giầm chống xuồng đi len lách trong những lùm dừa nước có những chiếc bẹ khô ai đốn từ đời nào, nhô lên chơm chởm. Một lát sau, tôi sốt ruột quá bèn hỏi:

- Tới chỗ câu chưa, mậy?

- Tới rồi. Tao còn chọn chỗ nào ngon sẽ xuống mồi. Đây thôi. Được rồi.

Nó cho xuồng đậu lại bên một tàu lá mọc nghiêng nghiêng:

- Thôi, sắp sửa mồi đi. Thắp đèn lên.

- Có đây.

- Mày coi tao làm đây, coi mà bắt chước

Nó với tay kéo tàu lá dừa quặt xuống, buộc chùm gai vào giữa sống lá. Tôi soi đèn, tay cầm con mồi. Nó làm thoăn thoắt, coi bộ thành thạo lắm. Con mồi câu bị một lưỡi câu móc suốt từ đầu đến gần chót đuôi, còn chừa ra một tí đuôi cho rắn dễ nhầm. Nó kéo cong tàu lá xuống, vừa đủ cho mồi treo lơ lửng cách mặt nước non gang tay.

- Biết để làm gì không? Thế này thì cá lóc hết phương chồm lên phá mồi. Hì hì! Mày chống xuồng thay tao, để tao ngồi mũi buộc câu cho.

Tôi giảu môi hứ một tiếng:

- Không. Để tao buộc. Tao buộc được... Tưởng thứ gì khó kia.

Nó ngẫm nghĩ một chốc:

- Thôi được? Cho mày làm thử một cái thôi nhá!

Tôi cười cười:

- Ừ, mà hễ chừng có rắn mắc câu, tao sẽ giao cho mày bắt.

Hơn chục con mồi đã xuống rồi. Thằng Cò thở ra một hơi dài khoan khoái:

- Vái trời phật cho trúng bữa câu!

- Lần nào cũng khấn thế à?

- Không. Vì bữa nay có mày. Trúng một bữa câu, để cho mày thấy, mày lác mắt chơi vậy mà... Thôi, bây giờ ta ngủ đi.

Nó nói xong, lập tức chui vào nóp. Tôi ngồi bên mẻ hun, quạt cho đỡ muỗi. Hơi nước bốc lên lành lạnh. Im lặng quá. Không có một tiếng hạc sành kêu cho đỡ buồn.

Lâu lắm mới có bầy cá heo lục ục lẹc ẹc bâu dưới lườn xuồng ăn rêu. Rồi bầy cá cũng lội đi. Chỉ còn tiếng lách bách của hai bàn tay tôi đập muỗi.

Thằng Cò cựa quậy rốt roạt trong nóp rồi chui ra:

- Mày không ngủ hử? Ngồi đãi muỗi sao, An?

- Không.

- Sao coi mày buồn vậy?

- Tao nhớ nhà... - Tôi thở ra, không nói nữa.

Thằng Cò tiu nghỉu, bèn nói lảng.

- Mày đừng sợ nhá! Để chừng bắt được con rắn bự, tao bẻ răng nó cho mày coi. Ờ, mà muỗi nhiều đa?

Nói xong, nó lần lưng móc ra một cái vỏ diêm. Nó rút ra một que, đút vào phân nửa, đoạn nó đóng bao diêm lại.

Một tay cầm vỏ diêm, một đầu cầm đầu que diêm phía ngoài, nó bắt đầu kéo ra kéo vô nghe két... két... kít... kít...

- Làm cho muỗi sợ. Nó tưởng dơi. Hì... hì...

Tôi cũng cười theo nó và lần mò tới ngồi bên, coi trò chơi lý thú của nó bầy ra. Quả thật, muỗi nghe két... két... kít... kít, sợ gặp đàn dơi, vo ve dần bay đi hết. Tôi ngồi dựa vào lưng thằng Cò một lúc, thiu thiu buồn ngủ thằng Cò ngáp một hồi, tay buông cái vỏ bao diêm ra. Hai thằng ôm nhau nằm còng queo giữa xuồng.

Đầu canh hai, trăng từ từ mọc lên bên kia dải rừng, to như một cái nong. Tôi mở mắt ra, sờ tay thấy sương thấm ướt khắp người. Trong lớp sương đục nhờ nhờ, vầng trăng đỏ như một cái lòng đỏ trứng khổng lồ. Càng lên cao, trăng càng bé lại. Nhìn qua be xuồng, thấy nước gợn lăn tăn... Tôi vừa thiu thiu chợp mắt lại, bỗng nghe thằng cò vụt nhổm dậy:

- Dậy mau! Dậy mau? Dính một con rồi.

- Tao vừa thức dậy mà. Có thấy cái quái gì đâu ?

- Mày biết cái con khỉ gì? - Nó quát tôi.

Tôi lập tức đánh diêm thắp ngọn đèn soi. Tay tôi run quá, tim cứ đập thình thình. Thằng Cò ấn cây giầm vào tay tôi, ra hiệu cho tôi chống xuồng tới. Nó cầm cái mác trong tay, một tay đưa đèn lên soi phía trước. Ồ, kia rồi?

Tàu lá dừa nước bị ai kéo cứ dập lên dập xuống, làm nước bắn tung tóe. Tiếng dây câu nghiến kìn kịt trong tiếng lá dập xuống nước nghe kinh quá.

Tôi kêu oái một tiếng, đứng chết sững. Một con rắn rằn ri cóc to cỡ bắp chân người lớn đang vung vẫy uốn mình lên quấn lấy chùm dây câu. Cái miệng nó há ra, đầy răng chơm chởm. Chỗ ngạch lưỡi câu mắc bên mép, máu chảy giọt giọt xuống nước. Mỗi lần con rắn vặn mình cố siết cho đứt chùm dây câu, da nó nở ra, vồng lên như gai mít. Thằng Cò buông mác, thò tay nắm đuôi con rắn. Con rắn tháo ra, quấn một khúc vào tay thằng Cò. Thằng Cò chộp ngang lưng con rắn, bàn tay nó bé quá tuột ra vì không nắm hết. Con rắn càng gồng mình siết chặt cổ tay thằng Cò. Mồ hôi tươm ra ướt trán, chảy ròng ròng xuống má, nó bậm môi, cứ mặc thế, ngửa người ra sau lôi nguyên con rắn mắc câu vào xuồng.

- Coi chừng nó cắn chết à, Cò. - Tôi thè lưỡi nhích ra xa.

- Cắn quái gì nữa! Mà thứ rắn này cắn cũng như chó cắn thôi. Đưa miệng giỏ lại đây, mau mau đi.

Tôi kê miệng giỏ hứng con rắn. Thằng Cò ghé răng cắn chót đuôi con rắn một cái, con rắn đau quá vội tháo khỏi cổ tay thằng Cò, tuột gọn vào lòng giỏ.

Thằng Cò một tay đậy nắp, một tay chụp cái mác chặt hai đầu sống lá. Cả khúc sống lá chùm dây câu và con rắn đảo lộn, quẫy soạn soạt trong giỏ.

- Hì.. hi... Da con này lột ra phơi, bán bộn tiền. Mai chúng mình bảo má nấu nồi ca-ri ăn chơi?

Con rắn to nhưng cái đầu nó chỉ bé bằng quả bàng thôi. hai con mắt đục lừ lừ nhìn ngọn đèn soi. Thằng Cò hé nắp giỏ chộp cổ con rắn tháo lưỡi câu ra, lôi khúc sống lá dính chùm dây câu ra khỏi giỏ rồi thong thả đậy nắp, gài chốt lại.

- Để tao thử con rắn cho mày coi - nói xong nó thọc một ngón tay vào mắt giỏ gãi gãi lên lưng con rắn. Khi con rắn quay ngoắt lại toan mổ vào ngón tay thì thằng Cò đã rụt ngón tay ra rồi.

- Cu cậu bị ớt cay, sưng cả miệng đấy, mày thấy không? Vậy, mình mới dễ bẻ răng. Mà nó cũng chẳng cắn mổ gì được nữa...

Tàu lá đằng kia rung lên sàn sạt. Thằng Cò reo lên:

- Sướng rồi? Dính một con nữa rồi!

Tôi chụm chân nhẩy đồm độp trên xuồng, làm chiếc xuồng nghiêng qua lắc lại tí nữa là chìm.

- Ấy là nhờ mình buộc chùm dây câu vào sống lá, phải không Cò? Chứ đến cần câu to bằng cật tre đi nữa thì nó nhổ lên và lôi đi tuột, mày nhỉ!

- Con này của mày đó, An nhá? Của mày buộc câu mà.

- Ừ tao làm cũng được, khó gì mấy Nhưng mà... con này mày cứ bắt nữa đi, Cò ạ. Để tao xem mày bắt vài trận nữa đã. Chừng có con khác mắc câu, tao bắt thử cho mày coi, có được không?

Tàu lá đang bị kéo ghì xuống nước bỗng bật tung trở lên.

- Thôi chết cha tôi rồi, An ơi! Mày buộc làm sao mà nó mới kéo có mấy cái đã tuột luốc rồi!

Tôi không biết nói ra sao, tay buông giầm rơi xuống xuồng cái độp, nhìn theo những giọt nước từ trên tàu lá đổ xuống ròng ròng, tiếc ngẩn tiếc ngơ.
 
Chương 009

Buổi sáng, đất rừng thật là yên tĩnh. Trời không gió, nhưng không khí vẫn mát lạnh. Cái lành lạnh của hơi nước sông ngòi, mương rạch, của đất ấm và dưỡng khí thảo mộc thở ra từ bình minh. ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm rung rung, khiến ta nhìn cái gì cũng có cảm giác như là nó bao qua một lớp thủy tinh.

Tía nuôi tôi đi trước, bên lưng lủng lẳng chiếc túi da beo, lưng mang cái gùi tre đan đã trát chai, tay cầm chà gạc lâu lâu, ông vung tay lên một cái, đầu con dao rừng rất sắc phạt ngang một nhánh gai và dùng cái mấu cong ở đầu lưỡi dao dài có đến sáu bảy tấc ấy lôi phăng nhánh gai chắn đường vứt ra một bên để lấy lối đi. Thằng Cò đội cái thúng to tướng, trong thúng đụng một vò nước, mấy gói cơm nắm và cái áo ướt mồ hôi nó vừa cởi ra cuộn lại, trên thúng úp chiếc nón lá rách. Tôi đã chen vào giữa, quảy tòn ten một cái gùi bé mà má nuôi tôi đã bơi xuồng đi mượn của nhà đi ngoài xóm bìa rừng từ chiều hôm qua. Con Luốc chạy tung tăng sục sạo trong các bụi cây.

Lần đầu tiên tôi theo tía nuôi và thằng Cò đi ăn ong đây. Mấy hôm trước, má nuôi tôi đã kể ti mỉ cho tôi nghe cách gác kèo ong thế nào, nhưng tôi vẫn chưa hình dung được ăn ong ra sao. Những điều má nuôi tôi kể, trong các sách giáo khoa không thấy nói. Khoa học tự nhiên ở trường chỉ mới cho tôi một khái niệm chung chung về xã hội loài ong, về những lợi ích của con ong, đại khái vậy thôi. Hiển nhiên từ những thời xa xôi thuở con người ăn lông ở lỗ cho đến ngày nay, người ta vẫn đi tìm lấy mật rừng bằng cách theo dấu đường bay của những con ong về tổ. Người ta phải khó nhọc lắm mới đưa được con ong rừng về nuôi thành con ong nhà, vì như thế, việc lấy mật sẽ dễ dàng và bảo đảm hơn.

Trong kho tàng kinh nghiệm của những nhà.nuôi ong trên thế giới ghi chép trong các sách vở mà tôi được nghe thầy giáo tôi kể, không thấy có nơi nào nói đến việc lấy mật bằng cách gác kèo như má nuôi tôi đã bảo cho tôi nghe vừa rồi.

Thôi, dừng lại nghỉ một lát Bao giờ thằng an đỡ mệt. ăn cơm xong hẵng đi! - tía nuôi tôi ra lệnh cho chúng tôi như vậy.

Quả là tôi đã mệt thật. Tía nuôi tôi chỉ nghe tôi thở đằng sau lưng ông thôi mà biết chứ ông có quay lại nhìn tôi dâu? Chúng tôi đã bơi xuồng đi từ lúc gà vừa gáy rộ canh tư. Thằng Cò thì coi bộ chưa thấm tháp gì. Cặp chân của nó như bộ giò nai, lội suốt ngày trong rừng còn chả mùi gì nữa là.

Tía nuôi tôi ngồi tựa lưng vào một gốc cây ngái, nhồi thuốc lá vào tẩu. Con chó săn trung thành bao giờ cũng ngồi bảo vệ bên chân chủ. Thằng Cò bưng vò nước ra, ngửa cổ kề miệng vào vò uống nước ừng ực Bỗng nó đặt vò nước xuống, thúc vào lưng tôi.

- Đố mày biết con ong mật là con nào?

Hỏi xong, nó đưa tay trỏ lên phía trước mặt. Tôi đảo mắt nhìn khắp nơi vẫn không thấy gì. Rừng cây im lặng quá. Một tiếng lá rơi lúc nào cũng có thể khiến người ta giật mình. Lạ quá chim chóc chẳng nghe con nào kêu. Hay vẫn có tiếng chim ở một nơi xa lắm, vì không chú ý mà tôi không nghe chăng?

Cao quá đầu tôi một với tay, có những châm chấm đen không nhúc nhích. Đó là ruồi xanh đang bay đứng. óng ánh lướt những lá bông súng dưới vũng kia là con chuồn chuồn bay ngang với những cánh mỏng và dài Bé như hạt khế, cứ lắc lư lắc lư từ đất nhoi lên và đáp vào một cành ngải khô trên đầu tía nuôi tôi là điệu bay của con mối cánh.

- Chịu thua mày đó? Tao không thấy con ong mật đâu cả.

Thằng Cò nghe tôi chịu thua, nó bèn vênh mặt lên cười, quay sang tôi:

- Bây giờ mày cứ nhìn kỹ vào khoảng cách giữa hai nhánh châm cao kìa! ờ! Đúng rồi. Nhìn một chỗ trống ấy thôi nhá. Nó tới liền bây giờ!

Đã lâu lắm mà sao tôi chưa thấy gì cả. Tôi vừa toan đứng dậy th.ì tía nuôi tôi đã đến cầm tay tôi trỏ lên:

- Đó con thấy nó chưa?

- Thấy rồi!

Tôi kêu khe khẽ. ờ, phải rồi Phải hết sức tinh mắt, thính tai mới tìm được những tay sứ giả của bình minh này. Một con. hai con... ba con... Rồi một đàn mười mấy con bay nối nhau như một xâu chuỗi hạt cườm, trong những tầng xanh cây lá, có một. cái chấm nâu đen cỡ đầu đũa vụt qua rất nhanh. Trên nhũng ngọn tràm cao, đang lướt qua một đàn li ti như nắm trấu bay, phát ra những tiếng kêu eo... eo... eo... eo... Tiếng kêu thật nhỏ, không chú ý theo dõi thì không thể nào nghe được.

Chúng tôi giở những nắm cơm vắt ra. Ăn xong, bấy giờ bóng nắng mới bắt đầu lên. Gió cũng bắt đầu thổi rao rao theo với khối mặt trời tròn đang tuôn ánh sáng vàng rực xuống mặt đất. Một làn hơi nhè nhẹ tỏa lên phủ mờ những bụi cây cúc áo, rồi nhè nhẹ tan dần theo hơi ấm mặt trời. Phút yên tĩnh của rừng ban mai dần dần biến mất. Chim hót. líu lo. Nắng bốc hương hoa tràm thơm ngây ngất. Gió đưa mùi hương ngọt lan ra, phảng phất khắp rừng. Mấy con kỳ nhông nằm ươn mình phơi lưng trên gốc cây mục, sắc da lưng luôn luôn biến đổi từ xanh hóa vàng, từ vàng hóa đỏ, từ đỏ hóa tím xanh... Con luốc động đậy cánh mũi, rón rén mò tới. Nghe động tiếng chân con chó săn nguy hiểm, những con vật thuộc loại bò sát bốn chấn, to hơn ngón chân cái kia, liền quật chiếc đuôi dài chạy tứ tán. Con núp chỗ gốc cây thì biến thành màu xám vỏ cây. Con đeo trên tấm lá ngái thì biến ra màu xanh lá ngái.

Chúng tôi tiếp tục đi tới một cái tráng rộng. Giữa vùng cỏ tranh khô vàng, gió thổi lao xao, một bầy chim hàng nghìn con vọt cất cánh bay lên. Chim áo già màu nâu, chim manh manh mỏ đỏ bóng như màu thuốc đánh móng tay, lại có bộ lông xám tro điểm những chấm trắng chấm đỏ li ti rất đẹp mắt... Những con chim nhỏ bay vù vù kêu liu ríu lượn vòng trên cao một chốc, lại đáp xuống phía sau lưng chúng tôi.

- Chim đẹp quá, Cò ơi! - tôi tặc lưỡi, kêu lên.

- Thứ chim cỏ này mà đẹp gì!

- Ơ đây chim nhiều quá. Bữa nào tụi mình đi bắn một bữa đi.

- Thứ đồ bỏ, không ăn thua gì đâu. Mày mà gặp "sân chim" thì mày sẽ biết...

Nó nói cách lơ là như vậy rồi cứ cắm cúi đội cái thúng đi. Tôi muốn hỏi về cái "sân chim", nhưng vì tự ái và nghĩ nếu mình gặp cái gì cũng hỏi thì nó sẽ khinh mình dốt, bèn im im đi tới.

Lội qua mấy vũng lầy sâu quá gối, chúng tôi đã đến chỗ lấy mật.

Tía nuôi tôi ngồi xuống, dáng rất ung dung. ông tháo miệng túi da beo ra, bỏ cái tẩu vào. Rồi ông xé mảnh giấy nhật trình cũ, cuộn một điếu thuốc lá to bằng ngón chân cái bật lửa lên đốt hút.

- Sắp lấy mật đa, này An! - thằng Cò trỏ điếu thuốc lá to tổ bố đang cháy như cây đuốc kia, bảo tôi.

Tôi chẳng hỏi gì thêm, cứ lặng thinh. Nó cũng không thèm chú ý đến vẻ mặt khó đăm đăm của tôi, cứ nắm tay tôi lôi đi lại còn khoát tay ra hiệu bảo tôi đi thật khẽ. Tôi nhìn theo ngón tay nó trở lên một kèo ong gác trên cây tràm thấp. Tổ ong kia rồi. Sự mừng rỡ làm tôi quên phắt cái bực mình vừa qua.

Tôi lại hỏi:

- Sao biết nó về cây này mà gác kèo?

- Thằng mau quên hé! Vậy chớ mấy bữa nay, má nói gì cho mày nghe đó? - nó chành môi ra cười hì hì, trông cái miệng thấy ghét quá.

Tôi ngắm nhìn tổ ong như cái thúng, lúc nhúc không biết bao nhiêu ong, dần dần nhớ lại lời má nuôi tôi kể.

- Rừng thì mênh mông, biết bao nhiêu cây! Một cây còn biết bao nhiêu nhánh? Biết con ong sẽ đóng tổ ở cây nào, nhánh nào? Có phải bạ chỗ nào nó cũng gởi mật đâu? Nhưng làm nghề nào rồi khắc phải thạo nghề ấy con ạ! - Má nuôi tôi đưa mắt trông ra những cánh rừng tràm lờ mờ khuất sau những bụi cây bình bát dại mọc quanh hè, ngẫm nghĩ một lúc rồi nói tiếp: - Gió thổi có hạng, cây tốt cũng có vùng. Chọn được vùng rừng tốt, biết rằng đến mùa xuân tràm sẽ kết nhiều hoa, mình mới định chỗ gác kèo. Phải xem hướng gió, tính trước đường bay của ong mật. Đó là những chỗ "ấm", cây dày, không bị ngọn gió thốc thẳng vào và ít khi có những dấu chân người đi bắt rắn, người đi đốn củi lội đến..

- Kèo là gì, hở má?

- Ờ kèo cũng là nhánh tràm thôi. Nó to cỡ cổ tay mang nhiều nhánh con tua túa vào quãng giữa. Mình chặt lấy một khúc dài hơn thước tây, một đầu có cái nhánh con dùng làm cái mấu. Chọn được vùng rồi, còn phải chọn cây cây nào vừa kín, vừa im, có ít. nhiều bóng nắng kia. Con ong không thích đóng chỗ rợp. Ở những nơi đó, bao giờ mật cũng chua, dễ bị ẩm. Gác chiếc kèo chênh chếch lên cây tràm xong, phải rửa bớt(chặt bớt) những nhánh chung quanh để khi lấy mật khỏi vướng. Kèo chặt vào khoảng giữa tháng mười một.. Những cơn mưa muộn sẽ rửa hết mùi sắt ở hai đầu kèo bị dao rựa chặt, và nhánh kèo cũng đủ thời gian khô đi, cũ đi, giống với những nhánh khô khác trên cây. Kèo nào còn mùi sắt của con dao mới chặt thì con ong mật chúa kỵ, nó không bao giờ đóng tổ đâu...

- Coi bộ cũng không khó lắm hở má?

Má nuôi tôi vò đầu tôi, cười rất hiền lành. Tôi cũng cười theo. Bà dặng hắng, nói:

- Chẳng dễ đâu. con ạ! Nhiều người trở thành "dân ăn ong" đã năm mười năm trong nghề, vậy mà gác kèo xong tới mùa mật, mang gùi lên lưng vào rừng, lại mang gùi không trở về.

- Ủa! Tại sao vậy, má?

- Định không đúng chỗ, đoán sai hướng gió chứ sao?

Mắt tôi vẫn không rời tổ ong lúc nhúc trên cây tràm thấp kia.

Tía nuôi tôi đã đi lần tới, đứng phía trên hướng gió. Ông hít một hơi cho điếu thuốc đỏ lên, và từ từ đưa đầu khói cháy lại gần tổ ong. Quả thật thảo nào người ta hay nói "như ong vỡ tổ"! Ong vỡ tổ là lúc này đây. Không biết cơ man nào là ong. Chúng bay vù vù, đen ngòm, loạn xạ, thành một vầng đen như cái chiếu.

Bỗng thằng Cò kêu "oái" một tiếng hai tay vò trán lia lịa.

- Có ong sắt, tía ơi! Nó đánh con một vết đây nè.

Tôi nhanh trí ngược hướng gió chạy ra xa để tránh bầy ong, và nhân thể bứt vội vàng một nắm cỏ tranh và sậy khô đưa lại cho tía nuôi tôi:

- Tía ơi, đốt nó đi, tía?

Tía nuôi tôi mỉm cười, khoát khoát tay:

- Đừng? Không nên giết ong, con à! Để tía đuổi nó cách khác...

Tía nuôi tôi mở túi da beo, lấy vôi bôi chỗ vết ong đốt trên trán cho thằng Cò. Đoạn ông mở gói giấy, lấy ra cục a nguỵ - cái thứ thuốc dẻo quánh, màu vàng xỉn mà tôi đã thấy dạo trước - véo một miếng gắn vào đầu một cọng sậy ông bảo tôi bật lửa lên, rồi đốt cháy miếng thuốc.

Khói vị thuốc bốc hôi quá Tôi chóng mặt ọe ọe luôn mấy cái tưởng đã nôn rồi. Tía nuôi tôi cầm cọng sậy có gắn miếng thuốc bốc khói đưa lên kê vào gần tổ ong. Bầy ong hoảng hốt nối nhau bay mất không còn một con.

Trên nhánh kèo khô còn trơ lại cái tàn ong sáp trắng to bằng chiếc nón, nặng chĩu những mật vàng. Tía nuôi tôi rướn. chân lên, gượng nhẹ đỡ nhánh kèo xuống. Ông vắt mật vào cái gùi của tôi, còn sáp thì ném vào cái thúng của thằng Cò, thấy tôi vét một tí mật dính chỗ miệng gùi đưa lên mũi, thằng Cò cười hì hì:

- Cho mày ăn thả cửa? Cứ uống no đi. Chỉ sợ mày say không đi được thôi. Mặt nó nhăn nhó, mấy vệt vôi trăng trắng bôi vào giữa trán dúm dó lại coi như mặt hề.

- Mày có thấy khỉ ăn ớt chưa hở Cò? - tôi hỏi nó.

- Ờ? Cho mày cười tao... Chốc nữa, trời xui đất khiến, gặp con ong lỗ nó táng cho mày một vệt, rồi mày sẽ biết.

Từ sáng sớm đến lúc gần về chiều, tía nuôi tôi đã gỡ hơn năm mươi kèo ong. Mật đầy cả hai gùi. Tôi mang gùi mật óc ách đằng sau lưng mà vẫn cảm thấy nhẹ tênh, và tiếc cái gùi bé quá.

- Một tổ nữa kia, tía ơi!

- Thôi để mai. Chà, năm nay mật trúng lắm? Sáng mai phải mang vài thùng thiếc nữa mới lấy hết mật. Mình mới lấy chưa được nửa số kèo đã gác mà! - tía nuôi tôi vừa nói vừa đưa bàn tay dính đầy mật ra cho con chó săn liếm.

Chúng tôi tháo gùi, đặt đồ lề xuống bên một gốc cây. Cần phải nghỉ, ăn cơm cho lại sức trước khi trở về...

- Tía ơi! Ở đây có gấu không, tía? - tôi hỏi.

- Rừng này không có gấu đâu. Con sợ à?

- Không! Con hỏi thế thôi. Gấu nó hay ăn mật lắm. Có gấu, nó sẽ lấy hết mật của mình chứ!

- Ừ, nhưng mà ăn mật thì chẳng lo. Ăn làm sao hết được mật rừng U Minh này? Chỉ lo... nó ăn con ong thôi!

- Gấu cũng án con ong à?

- Không. Những con khác kia. Chuồn chuồn này, bọ ngựa này, nhện này... và còn bao nhiêu thứ chim chóc khác nữa. Cả con ó rằn cũng ăn ong. Chỉ vài con ó rằn là có thể ních trụi một tổ ong ấy!

- Thế ong không đốt họng nó à?

- Đốt thế nào được? Chim ó khôn lắm. Đớp một cái vào mỏ, là nó lừa lựa cắn nát cái kim ở đít ong ngay? Còn như con chuồn chuồn thì nó chộp ngang cổ ong, bộ răng khoẻ như hai lưỡi kéo thép của nó xén đầu con ong làm cho đầu rơi tức khắc, nó không ăn hai cánh đâu, chỉ nhai nuốt khúc mình thôi?

Tôi ngồi nhìn lên kèo ong, thấy nó cũng giống như những tổ ong rừng vẽ trong sách vậy thôi. Nhưng có một điều khác là không phải ngẫu nhiên mà nó đóng trên một cành cây nào đó. Chính tía nuôi tôi đã định sẵn cho chúng nó một nơi về đóng tổ... Theo như lời thầy giáo của tôi bảo, ngươi La Mã xưa kia nuôi ong trong những cái tổ bằng đồng hình chiếc vại, có đục thủng nhiều hạng lỗ con vòng quanh miệng, quanh đáy. Người Mễ Tây Cơ làm tổ nuôi ong bằng đất nung, như một cái ống có hai cái loa hai đầu, giữa lưng ống đắp một hình đầu người nho nhỏ làm vật trang trí, dùng hai sợi thừng treo lên cành cây. Người Ai Cập nuôi ong trong những tổ bằng sành, hình ống dài, xếp chồng lên nhau, đặt trên bãi cỏ. Ở Phi Châu người ta đục ruỗng ruột một khúc thân cây, vít kín hai đầu, chỉ chừa một lỗ khoét nho nhỏ cho ong ra vào, treo lên bằng một đoạn dây nhỏ có mấu, Ở xứ Tây âu, tổ ong lại lợp bện bằng rơm đủ kiểu, hình thù khác nhau...

Không có nơi nào, xứ nào có kiểu tổ ong hình nhánh kèo như vùng U minh này cả.

Những con ong vẫn nối nhau bay đi bay về trên tổ, trước mặt chúng tôi kia. Con nào cũng lượn một vòng tròn trước khi đáp xuống. Người ta bảo rằng đó là vũ điệu báo hiệu cua loài ong.

- Tía ơi ong chỉ lấy mật chung quanh dây thôi à?

- Ờ, có khối hoa trong rừng này? Con thấy không, hễ con ong lượn một vòng trước khi đáp xuống, là báo hiệu nơi khai thác gần đây, còn nó lượn hình số tám là báo hiệu nơi khai thác ở xa đây...

- Sao tía biết? Tôi ngạc nhiên, trố mắt hỏi.

- Để ý xem lâu ngày thì biết.

- Thế mà con nghe người ta nói rằng con ong lượn hình tròn là báo hiệu chỉ đường bay đến nơi lấy mật còn nó lượn hình số tám là báo hiệu đến chỗ lấy phấn hoa.

- Bậy? Bậy! Nhầm rồi. Nó chỉ báo hiệu nơi khai thác gần hay xa thôi. Còn lấy phấn hoa nhồi sáp hay lấy mật gì thì cũng là lấy thôi. Quan trọng đối với con ong là đường bay xa hay gần biết chưa?

Tôi ngẩn người ra một lúc lâu...

- Ê bộ mày còn nhớ nhà sao mà buồn vậy, An? - thằng Cò vừa giở nắm cơm ra vừa hỏi tôi.

- Không, tao choáng váng một chút, thôi mà? - tôi đáp.

Tía nuôi tôi nhìn lên bóng nắng, bảo:

- Thôi liệu dằn bụng đi... rồi còn về, các con.

Chúng tôi ngồi ăn cơm dưới một bụi cây tràm râm mát. Bóng nắng nghiêng nghiêng rọi chếch xuống chỗ tôi ngồi. Mấy con gầm ghì sắc lông màu xanh đang tranh nhau với bầy vẹt mỏ đỏ, giành mổ những quả chín trên cây bồ đề. Lâu lâu, vài ba trái quá vàng rụng rơi lộp bộp, lăn vào cạnh chân tôi như hòn bi.
 
Chương 010

Quá đỏ đèn một chút thì xuồng chúng tôi về đến nhà. Má nuôi tôi nghe giầm khua dưới bến, cầm đèn bước ra, con Luốc chưa kịp phóng lên bờ, tôi đã bô bô khoe với má nuôi tôi:

- Mật nhiều lắm má ơi, ra đây mà khiêng.

Má nuôi tôi ừ, một tiếng, soi đèn ngó xuống xuồng. Chúng tôi ì ạch khiêng hai gùi mật và thúng sáp ong lên nhà rồi, mà vẫn không thấy bà tỏ vẻ gì quan tâm đến kết quả chuyến thu hoạch của tía con chúng tôi lắm. Tôi tiu nghỉu ngồi xuống chõng, bao nhiêu câu sắp sửa kể cho má nuôi tôi nghe về chuyện đi lấy mật lý thú ngày hôm nay tan biến đi đâu mất cả.

- Chú Võ Tòng có đến tìm ông đấy - má nuôi tôi nói với tía nuôi tôi - Chú không chờ được, đã về từ chập tối. Có chuyện gì vậy ông?

- Nào có gặp chú đâu mà biết?

- Ắt có chuyện gì quan trọng. Cứ thấy bộ mặt của chú thì tôi đoán như vậy. Tôi gạn hỏi mấy lần, chú cứ ậm à âm ừ. Cha chả, chú nhặt được ở đâu một cái quần tây, ống ngắn ngủn mặc chí tới nửa ống chân lại còn đeo lưỡi lê nữa chứ

Tía nuôi tôi cười khà khà, gật gù:

- Hôm nọ tưởng chú nói đùa, hóa ra thật! Bà thấy chú có mang súng ống gì không?

- Có. Chú dặn tôi, hễ ông về thì bảo ông lên nhà chú chơi. Ắt có việc gì đấy. Khổ quá, cứ dặn đi dặn lại mãi. Tôi hỏi có chuyện gì hệ lắm không thì chú lại bảo chẳng có việc gì.

- Có thể là...

- Việc gì thế ông?

- Tôi đã biết đâu. Để gặp chú xem đã..

- Thôi mặc các ông. Tôi chẳng hơi đâu... Chuyện gì cũng bô lô ba la nói hết với mọi người, mà vợ con trong nhà hỏi đến cứ ậm à ậm ừ...

Má nuôi tôi bấy giờ mới quay sang hỏi thằng Cò về vết ong đốt. Bà nướng một củ gừng, bảo nó nhai nuốt và trùm mền lại cho nó ra mồ hôi.

- May mà không gặp ong lỗ, thằng An nhớ coi chừng dưới chân dưới cẳng đấy.

- Con biết rồi - tôi đáp.

- Đạp nhầm tổ ong lỗ, nó đốt cho một vết thì thấy tám ông trời? Mày cười ư? Nó đốt trâu còn phải rống, chạy cong đuôi đãy con ạ.

Tía nuôi tôi bảo má nuôi tôi:

- Bà liệu thổi nắm cơm bây giờ đi. Nghỉ ngơi một chốc khoảng nửa đêm tôi đi đấy. Chà mật còn nhiều lắm... Đi sớm một chút, ghé qua nhà chú Võ Tòng xem có chuyện gì.

- Sáng mai hẵng đi, tía à? - thằng Cò đã trùm mền kít mít còn hé thò đầu ra, nói lắp bắp.

- Sốt rồi phải không - Tía nuôi tôi hỏi - Con ở nhà thôi. Ngày mai chưa đi được đâu. Để thằng An đi với tía thôi?

Khuya đêm đó, hai tía con tôi bơi xuồng ra đi, Thằng Cò phải ở nhà nên nó bèn kiếm cớ gỡ. Nó cứ rịt con Luốc lại không cho theo tôi: nó bảo không cho nó đi thì phải để con Luốc ở nhà choi với nó cho có bạn!

Xuồng ra tới sông, tôi hỏi tía nuôi tôi:

- Không đi lối cũ sao, tía?

- Lên nhà Võ Tòng đã. Rồi cũng có kênh đi tắt ra chỗ lấy mật hôm qua. Kênh rạch chằng chịt trong rừng, đi lối nào chẳng được.

Chúng tôi lặng lẽ bơi xuồng đi rất lâu. Tới đã thấm mệt và bắt đầu buồn ngủ. Tía nuôi tôi nghe tôi ngáp, bảo tôi cứ ngủ đi, để một mình ông bơi cũng được. Tôi vừa đặt giầm lên xuồng, chưa kịp chui vào nó thì đôi mắt đã díp lại rồi.

Chắc tôi ngủ một giấc lâu lắm thì phải. Khi tôi mở mắt rá, thấy xuồng buộc lên một gốc cây tràm. Không biết tía nuôi tôi đi đâu. Nghe có tiếng người nói chuyện rì rầm bên bờ. "A! Thế là đến nhà chú Võ Tòng rồi!" Tôi ngồi dậy, giụi mắt trông lên. ánh lửa bếp từ trong một ngôi lều chiếu qua khung cửa mở, soi rõ hình nhưng khúc gỗ xếp thành bậc thang dài xuống bến. Tôi bước ra khỏi xuồng, lần theo bậc gỗ mò lên. Bỗng nghe con vượn bạc má kêu "ché... ét, ché... ét" trong lều, và tiếng chú Võ Tòng nói: thằng bé của anh nó lên đấy!"

- Vào đây An! - tía nuôi tôi gọi.

Tôi bước qua mấy bậc gỗ trơn tuột, và dừng lại trước cửa. Con vượn bạc má ngồi vắt veo trên một thanh xà ngang, nhe răng dọa tôi. Tía nuôi tôi và chú Võ Tòng ngồi trên hai gộc cây. Trước mặt hai người, chỗ giữa lều, có đặt một cái bếp cà-ràng lửa cháy riu riu, trên cà-ràng bắc một chiếc nồi đất đậy vung kín mít.

Chai rượu đã vơi và một đĩa thịt khô nướng còn bày trên nền đất ngay dưới chân chủ và khách, bên cạnh hai chiếc nỏ vắt chéo lên nhau.

- Ngồi xuống đây, chú em! - Chú Võ Tòng đứng dậy, lôi một gộc cây trong tối đặt bên bếp lửa..

Chú cởi trần, mặc chiếc quần ka-ki còn mới, nhưng đã coi bộ đã lâu không giặt (chiếc quần linh Pháp có những sáu túi). Bên hông, chú đeo lủng lẳng một lưỡi lê nằm gọn trong vỏ sắt, đúng như lời má nuôi tôi đã tả. Lại còn thắt cái xanh-tuya-rông nữa chứ.

Tôi không sợ chú Võ Tòng như cái đêm đã gặp chú lần đầu tiên ởbờ sông, mà lại còn có đôi chút cảm tình xen lẫn với ngạc nhiên hơi buồn cười thế nào ấy.

Tía nuôi tôi ngó tôi, cười cười nhấc cái tẩu thuốc lá ở miệng ra..

- Nhai bậy một miếng khô nai đi, chú em. Cho đỡ buồn miệng mà - Chú Võ Tòng nhặt trong lửa ra một ra một thỏi khô nướng to nhất đặt vào tay tôi.

Con vượn bạc má lại kêu "Ché... ét ché.,. ét..., ở phía trên đầu tôi. Tôi cứ mặc kệ nó, vừa xé miếng thịt khô ướp muối sả nướng thơm phúc cho vào mồm nhai, vừa đưa mắt nhìn quanh ngôi nhà lều. Trên vách lều đóng đầy mồ hóng đen sì, một chùm xương sọ khỉ ước chừng vài mươi cái treo lủng láng cạnh những đầu con nhọ nồi khô, những chân tay khỉ, tay chân dọc xâu từng đôi một, gác trên đoạn sào nhỏ. Mùi lông khét xông khói lâu ngày từ trong mớ lổn nhổn ấy tỏa ra, cùng với một làn khói gì mùi hăng hắc, màu xanh xanh bay ra từ chiếc nồi đậy kín vung sôi ục ục. trên bếp cà -ràng, khiến tôi có một thứ cảm giác rợn rợn không tả được. Dường như những cái bóng lặng lẽ ngồi bên bếp đây đang sống lùi lại từ cái thời kỳ loài nguời mới tìm ra lửa vậy.

***

Không ai biết tên thật của gã là gì. Mười mấy năm về trước gã một mình bơi một chiếc xuồng nát đến che lều ở giữa khu rừng đầy thú dữ này. Gã sống đơn độc một mình, đến con chó làm bạn cũng không có. Hồi ấy, rừng này còn nhiều hổ lắm. Một mình gã đã giết hơn hai mươi con hổ. Một buổi trưa gã đang ngủ trong lều, có con hổ chúa mò vào, từ ngoài sân phóng một cái phủ lên người gã. Bất thần gã tỉnh dậy. Gã vớ luôn cái mác thông bên người, cũng không kịp ngồi dậy nữa, cứ nằm ngửa thế mà xóc mũi mác lên đâm thẳng một nhát vào hàm dưới con hổ chúa, hai chân gã đá thốc lên bụng nó, không cho con ác thú kịp chụp xuống người. Con hổ chúa lộn vòng, rơi xuống đất. Lưỡi mác đâm từ hàm dưới thấu lên tận óc, làm nó không há họng được, nhưng vẫn còn cố vớt cái tát cuối cùng, để lại trên mặt gã một hàng sẹo khủng khiếp chạy từ thái dương xuống cổ. Không biết có phải do đấy mà gã mang tên "Võ Tòng" hay không? Chứ theo như một vài ông lão đa sự, thì ngày xưa gã là một chàng trai hiền lành, ở tận một vùng xa lắm. Gã cũng có gia đình đàng hoàng như ai. Vợ gã là một người đàn bà trông cũng xinh mắt. Chị ấy lúc chửa đứa con đầu lòng cứ kêu thèm ăn măng. Gã đàn ông hiền lành, quý vợ hết mực bèn liều xách dao đến bụi tre đình làng xắn một mụt măng. Khi về qua ngang bờ tre nhà tên địa chủ, tên này bắt gã bỏ mụt măng xuống và vu cho gã lấy trộm măng tre của hắn. Gã một mực cãi lại, nhưng tên đại địa chủ quyền thế nhất xã ấy cứ vung ba-toong đánh lên đầu gã. "Đánh đâu thì còn nhịn được, chứ đánh lên đầu là nơi thờ phụng ông bà... thì số mày tới rồi! " Lưỡi dao trên tay gã không cho phép tên địa chủ ngang ngược kia giơ tay đánh ba-toong lên đầu gã đến cái thứ hai. Nhát dao chém trả vào mặt đã gí tên bóc lột và hống hách này nằm gục xuống vũng máu. Nhưng gã không trốn chạy. Gã đường hoàng xách dao đến ném trước nhà việc bó tay chịu tội.

Sau mười năm tù đày, gã trở về làng cũ nghe tin vợ đã làm lẽ tên địa chủ kia, và đứa con trai độc nhất mà gã chưa biết mặt thì đã chết từ khi gã còn ngồi trong khám lạnh.

Người trong xã vốn ghét tên địa chủ hống hách, khấp khởi chờ xem cuộc rửa thù bằng máu lần thứ hai. Nhưng họ đã thất vọng. Gã chỉ kêu trời một tiếng rồi cười nhạt bỏ làng ra đi. Những người đa sự quả quyết rằng chính gã đã mang tên Võ Tòng từ lúc xách dao đến nhà việc chịu tội.

Còn như những chữ bùa xanh lè xăm rằn ri trên người gã, và gã trở nên một người giỏi võ từ lúc nào, thì có kẻ nói đó là dấu vết trong những năm gã Ở tù, lại có người bảo đó là mới có từ lúc gã đi giang hồ. Hơn mười năm sống trơ trọi giữa rừng mặc dầu cũng có nhiều người đánh tiếng mối mai cho gã, nhưng tuyệt nhiên Võ Tòng không để mắt tới một người đàn bà nào nữa. Ở trong rừng lâu năm chầy tháng, gã ngày càng trở nên kỳ hình dị tướng. Nhưng ai cũng mến gã ở cái tính tình chất phác thật thà, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ mọi người mà không hề nghĩ đến chuyện người ta có đền đáp lại mình hay không. Điều đó, má nuôi tôi quả quyết, nói một cách chắc chắn như vậy...

Chú Võ Tòng vẫn ngồi đó, đối diện với tía nuôi tôi, bên bếp lửa. Tía nuôi tôi tay cầm một chiếc nỏ lên ngắm nghía; bật thử sợi dây nỏ trên đầu ngón tay nghe tưng... tưng " rồi lại đặt xuống.

Chú Võ Tòng rót rượu ra bát uống một ngụm, trao bát sang cho tía nuôi tôi, và nói:

- Con dao găm của anh Hai cùng với cánh nỏ này, thừa làm nên chuyện. Mình thì cần gì tới súng? Mấy thằng nhát gan mới cần súng, vì súng ở xa cũng bắn được mà! Phải không anh Hai? Tôi cho rằng súng dở lắm, động tới thì kêu ầm ĩ. Tôi ghét tiếng nổ lắm. Như cái bận tôi làm vừa rồi đấy. Tách một tiếng, chết ngay thằng giặc Pháp râu xồm, mà cái thằng đứng cách năm sáu thước không hay biết gì cả. Tới chừng tôi mò ra tháo cây tiểu liên nghe động sột soạt, nó mới quay lại thấy tôi, liền bắn tôi một phát súng mút nhưng trượt. Tiếng súng của nó bắn ra mà cha con chúng nó hoảng lên, hò hét chạy lung tung mới buồn cười chứ? Tôi xách cây tiểu liên bay vào rừng, chờ tối mò trở ra. May sao cái thây thằng râu xồm còn nằm thẳng cẳng để, đợi tôi đến lột hộ bộ quần áo ka-ki... Hê... hê... hê! Khi lọt lòng mẹ, nó chui ra như thế nào thì chết như thế ấy... cho được thủy chung như nhất? Tôi chỉ lấy cái quần để che chỗ xấu xa của con người thôi, anh Hai à. Còn cái áo và khẩu tiểu liên, tôi biếu cho anh em lính đằng mình.

Trong giọng nói bỡn cợt của Võ Tòng có pha đượm một nói buồn chua chát, khiến tôi vừa ngồi nghe vừa nhìn bếp lửa cháy riu riu mà không khỏi bùi ngùi.

- Chú em cầm hộlọ muối chỗ vách kia đưa giùm qua chút! - chú Võ Tòng đổi giọng, vui vẻ bảo tôi.

Khi tôi cầm lọ muối lên thì thấy chú đã ngồi xổm xuống cạnh bếp, tay mở nắp vung trên nồi ra. Trong nồi một thứ thuốc gì đang sôi cuồn cuộn, đen nhánh và dẻo quánh như nhựa tráng đường, tỏa lên một làn khói mỏng xanh xanh, mùi hăng hắc. Võ Tòng không quay lại, chỉ với tay nhón lấy mấy hạt muối trong lọ tôi cầm đến. Chú bỏ một hạt muối vào món thuốc đen nhánh đang sôi, hạt muối nổ tách một tiếng bắn ngay ra khỏi nồi.

- Được rồi đấy? - chú Võ Tòng nói xong, bỏ nốt những hạt muối còn lại vào nồi, rồi xoa tay đứng dậy.

Tiếng nổ lách tách bắn xa giòn tan chung quanh nồi thuốc. Bây giờ chú mới đến bên vách rút ra một bó tên tre đã vót sẵn, cầm từng chiếc tên nhúng đầu nhọn vào nồi thuốc vừa xoay lăn, cho thuốc quấn nhiều lớp vào đầu mũi tên. Xong một chiếc, chú xếp ra trên cái nong. Và chú tiếp tục cầm một chiếc tên khác, đua lên nheo mắt ngắm, nắn nắn lại cho thật ngay trước khi nhúng vào nồi thuốc để làm lại như lần trước. Tôi đứng xem người thợ săn áo thuốc tẩm thuốc độc vào đầu tên một cách say sưa, đến nỗi không dám thở mạnh.

Vào khoảng cuối canh năm thì ngót năm mươi mũi tên tre đã tẩm thuốc xong và lớp áo ngoài đầu tiên cũng vừa khô mặt. Nắn thấy không còn dính tay, chú Võ Tòng chọn ra hai muối chiếc giắt vào một bao tên làm bằng ống nứa khô.

- Chỉ sầy da một tí, đủ chết ngay anh Hai ạ? Nhưng thuốc này có thể uống được. Đau bụng quằn quại, nuốt vào một tí là khỏi ngay lập tức đấy. Đau mấy cũng khỏi?

Tôi nghe mà phát lạnh xương sống. Tôi không thể nín được buột miệng nói:

- Lỡ trong mồm, trong dạ dày, hay trong ruột bị lở loét gì mà nuốt vào thì bỏ mạng, chú ạ?

Võ Tòng chăm chú nhìn tôi một lúc, rồi còn lớn:

- Chú em nói ngẫm cũng đúng. Nhưng mà.. những người nghèo, những người không ăn bậy, ít khi đau mồm và đau dạ dầy lắm?

Bên ngoài, trời rạng dần. Đã nghe một vài tiếng chim rừng ríu rít gọi nhau trở dậy đón bình minh trên những ngọn cây chung quanh lều. Chú Võ Tòng trao chiếc nỏ và ống tên thuốc cho tía nuôi:

- Cứ tình hình này thì chúng nó sẽ mò tới đây thôi. Tôi quý anh Hai là bậc can trường, nên mới dám chọn mặt gửi vàng. Chứ những mũi tên độc này mà lọt vào tay một người hèn nhát, thì nó sẽ gây nhiều tác hại đấy. Sở dĩ tôi không dám nói với bà chị, là còn e bà chị ngại điều nguy hiểm, biết đâu sẽ ngăn trở công việc của chúng ta.

Tía nuôi tôi vội đỡ lời:

- Chú phòng xa như vậy cũng phải. Đàn bà nhà tôi còn mê tín dị đoan, tin có trời có phật. Nhưng về cái gan dạ thì... chú cứ tin lời tôi, bả không thua anh em ta một bước nào đâu.

- Vậy thì tôi có lỗi với chị Hai quá trời, để bữa nào ta làm một bữa rượu để tôi tạ lỗi với bà chị của tôi mới được.

Tôi đã bước xuống cởi dây buộc xuồng mà con vượn bạc má còn chạy theo ra cửa nhe răng nháy nhó, dọa tôi.

Tía nuôi tôi dập đập tay vào lưng chú Võ Tòng:

- Xin đa tạ chú! Đa tạ chú!

- Có gì đâu anh Hai. Vì nghĩa chung mà!

Tía nuôi tôi lưng đeo nỏ, hông buộc ống tên bước xuống xuồng. Tôi cầm giầm bơi nhưng còn ngoái lên, nói với:

- Chào chú ạ! Hôm nào chú sang chơi, nhớ mang theo một con nai hay một con heo rừng be bé, chú nhá!

- Ờ thể nào cũng có chứ? Chú nuôi đầy rừng, muốn con cỡ nào chú bắt cho đúng con cỡ ấy! - chú Võ Tòng vẫy vẫy tay, cười lớn một thôi dài.
 
ta vừa mới post mà
 
Chương 011
Tía con chúng tôi bơi đi, ước độ hai nghìn thước thì bị cạn không bơi được nữa, phải dùng sào chống xuồng lướt trên mặt bùn xắp nước.

Năm nay mùa khô sớm đấy? Mọi năm, dạo này nước còn ngập ngang bụng, tía nuôi tôi vừa nói vừa nhướn người thọc mạnh chân sào xuống tận lớp đất sét cái, hai tay nắm chặt đầu sào đẩy xuồng trườn tới.

Chống đi một lúc nữa, gặp cái lung còn nhiều nước, tía nuôi tôi bảo tôi vác đồ lề lên bờ, rồi ông nhận xuồng chìm xuống nước và vớt lục bình, vớt rong phủ lên để xuồng khỏi bị nẻ nắng..

Quanh co trong rừng, chẳng biết đâu là đâu, thế mà chỉ chừng một giờ sau tía nuôi tôi đã dắt tôi ra đúng chỗ bụi cây tra chúng tôi ngồi nghỉ ăn cơm chiều bữa trước...

Những ngày nắng ráo như hôm nay, rừng khô hiện lên với tất cả vẻ uy nghi tráng lệ của nó trong ánh mặt trời vàng óng. Những thân cây tràm vỏ trắng vươn thẳng lên trời, chẳng khác gì những cây nến khổng lồ, đầu lá rũ phất phơ như những đầu lá liễu bạt ngàn. Từ trong biển lá Xanh rờn đã bắt đầu ngả sang màu úa, ngát dậy một mùi hương lá tràm bị hun nóng dưới mặt trời, tiếng chim không ngớt vang ra, vọng mãi lên trời cao xanh thẳm không cùng. Trên các trảng rộng và chung quanh những lùm bụi thấp mọc theo các lạch nước, nơi mà sắc lá còn xanh, ta có thể nghe tiếng gió vu vù bất tận của hàng nghìn loại côn trùng có cánh không ngớt. bay đi bay lại trên những bông hoa nhiệt đới sặc sỡ, vừa lộng lẫy nở ra đã vội tàn nhanh trong nắng. Mùi hương ngòn ngọt nhức đầu của những loài hoa rừng không tên tuổi đằm vào ánh nắng ban trưa, khiến con ngươi dễ sinh buồn ngủ và sẵn sàng ngả lưng dưới một bóng cây nào đó, để cho thứ cảm giác mệt mỏi chốn rừng trưa lơ mơ đưa mình vào một giấc ngủ chẳng đợi chờ.

Tôi đã ngủ một giấc dài như vậy, sau khi tía con chúng tôi đã lấy mật đầy vào hai thùng sắt tây. Cái gùi bé của tôi cũng vừa chất vun ngọn những bánh sáp trắng muốt mà tôi đã tỉ mẩn vắt thành những cục tròn tròn như trứng ngỗng..

Tôi ngồi tựa lưng vào một thân cây lá rậm xùm xòa, lơ mơ nhìn những làn tơ nhện mỏng tang rung rung trong ánh nắng. Trong vắng lặng mệt mỏi của rừng đã xế chiều mọi thứ tiếng động chung quanh tôi đều nghe như không rõ rệt, đều bị ngân dài, đùng đục không một chút âm vang, một thứ vắng lặng mơ hồ rất khó tả. Tôi còn đang chăm chú nghe tiếng quạt cánh của một con ong vàng mà không thấy nó đâu, thì bông nghe tiếng động cơ gào rú chuyển động rung trời.

Ba chiếc tàu bay của giặc Pháp bay vút qua bên trên khu rừng chúng tôi đang lấy mật. Chúng bay rất thấp, là là trên ngọn cây, khi tôi vừa kịp nghe thì chúng đã tới rồi.

Ba con cồng cộc đen sì ấy vòng ra bờ sông, lượn trở lại, đảo mấy bận như vậy rồi bỗng nhiên nối nhau bay đi mất. Một hồi lâu, lại nghe tiếng động cơ, và từ trên những chòm mây thật cao, chúng thình lình xuất hiện ra, đâm bổ xuống. Lửa chớp chớp. Súng liên thanh nã đạn xuống rừng nghe inh tai chát óc. Rồi hàng loạt bom nổ ầm ầm, chuyển động cả một vùng rừng ban nãy còn lặng phắc như tờ. Đất dưới chân tôi rung rinh như chực sụp xuống.

Ì ì. ì ì Ba chiếc tàu bay phóng pháo to tướng sơn màu trắng bay chậm rì rì thành một dọc dài, trông rõ hơn cả hiệu cờ ba sắc dưới cánh, lừ lừ tiến đến.

- An ơi? Nằm xuống mau. Nó thả cái gì đen đen xuống kia. Nó thả... - tía nuôi tôi chưa nói dứt câu, vội đẩy tôi nằm gí xuống cỏ. Tôi đã có kinh nghiệm lúc còn chạy tản cư hai khuỷu tay tôi chống xuống đất đỡ bộ ngực lên, đầu cúi gằm xuống trước, tôi dán sát thân mình vào đất như con thằn lằn. Nếu có bom nổ gần cũng khỏi bị dội tức ngực vì sức chấn dộng. Phụt... Phựt... Phụt... Tiếng gì vậy? Sao không nghe tiếng nổ

- Chắc là bom lép, đừng ngóc đầu dậy nghe con - tía nuôi tôi vừa bảo tôi như vậy; trong lúc tôi chưa kịp ngóc đầu lên thì bỗng nghe tía nuôi hét một tiếng gọi: An ơi!

Chưa bao giờ tôi nghe ông kêu to như vậy, một thứ tiếng kêu rụng rời, đầy khủng khiếp kinh hoàng.

- Giặc đốt rừng, con ơi! - tía nuôi tôi tay vớ chiếc nỏ, tay lôi tôi nhỏm đậy.

Một màn khói đen cuồn cuộn dựng lên trên dãy rừng chạy dài theo sông. Mùi dầu bay tới chỗ chúng tôi khét lẹt. Lửa đỏ đã bốc lên, vượt khỏi những cây tràm cao nhất ngoài phía bờ sông. Tiếng động cơ vẫn gào rú khủng khiếp trên đầu chúng tôi. Chúng không bắn nữa... Chỉ nghe tiếng phụt... phụt... Lửa cháy khắp bốn phía rồi.

Tiếng sậy nô lép bép nghe gần lắm. Gió quạt hơi nóng rừng rực đến tận chỗ chúng tôi.

- Làm sao khiêng hai thùng mật, tía ơi! - tôi tiếc của, kêu lên.

- Chạy thoát thân đã - tía nuôi tôi vất cái nón đang đội trên đầu xuống, tay chỉ cầm chiếc nỏ lôi tôi chạy ngược hướng gió, nơi ngọn lửa bắt đầu tràn đến chúng tôi.

- Lửa dầy ở đó... Đừng về phía đó, tía ơi.

- Thoát ra mau. Cố lên. May ra thì còn kịp...

Tía nuôi tôi thở hổn hển, vừa chạy vừa lôi tôi. Khói xông vào mắt cay xè, không mở ra được.Tôi cứ nhắm mắt chạy theo tía nuôi tôi, tay tôi nắm bàn tay ông chặt cứng, không dám lơi ra. Hốt nhiên, tôi nghe có nhiều tiếng chân chạy dồn dập trên đất, như tiếng giầy khua.

- Tía ơi, Tây đuổi sau lưng nhiều quá?

- Tây đâu mà Tây. Cứ chạy đi!

Mặc cho tía tối quát, tôi vẫn cứ ngoái đầu trông lại. Trời ơi, không phải Tây. Trong khói mù nhô ra một con heo đầu đàn, cao gần bằng con bò, lông gáy dựng ngược, mũi ngước lên thở phì phì làm cho hai cái nanh dài chỗ khóe mép vươn ra như lai lưỡi dao găm. Rồi vun vút tràn đến một bầy heo rừng, con lớn con bé tranh nhau chạy, sống lưng nhấp nhô tràn tới như một đàn heo mục. Nai co giò phóng bay qua những lùm cây thấp. Hươu, chồn, bông lau, cáo, mèo... tất cả những con thú bốn chân trong rừng đều nhắm mắt.nhắm mũi tranh nhau chạy. Thỉnh thoảng một vài con gì không biết cứ chạy đâm bổ vào người chúng tôi. Chân tôi đạp lên một khúc lưng con vật gì trơn trơn, lảo đảo chúi tới trước. Một con trăn gió uốn lưng trườn tới, đầu cất cao hơn ngọn sậy, ngoằn ngoèo lướt hút vào bụi cây trầm um tùm. Lâu lâu lại gặp một con rắn to phóng ngược hướng gió, chắn ngang đường chúng tôi. Tía con tôi phải chạy tránh chúng, cũng có lúc cứ mặc kệ, nhảy bừa qua, bất chấp cả những đầu phồng mang dẹt đét đang lắc lư phun nọc phì phì.. Khỉ, vượn, nhọ nồi cuống quít kêu lúc théc trên cây. Một con vượn bạc má bồng con nhảy xuống đất, cố chạy theo vết chúng tôi

- An ơi! Gắng chạy nghe con - tía nuôi tôi không ngớt động viên tôi. Nhưng hai chân tôi cứ khuỵu xuống.

Tía nuôi tôi lôi tôi chạy một lúc nữa. Lội qua hai cái lạch nước khá rộng, thì hai tai tôi đã nghe bùng bùng, mắt hoa lên. Trời đất quay cuồng chung quanh. Tôi cảm thấy mang máng rằng lúc tôi gục xuống một bờ cỏ, tía nuôi tôi đã vực tôi cõng lên lưng. Cả người tôi bị xốc lên xốc xuống dữ dội, rồi tôi không còn biết gì nữa.
 
Chương 012

Lúc tôi tỉnh dậy th.ì thấy mình đang nằm trên một đám lá khô, dưới gốc cây sung rậm, lá che kín trời. Gió thổi làm những cành sung đong đưa, để lọt xuống một vài tia sáng xanh yếu ớt của những vì sao leo lét. Chim rừng kêu buông rơi từng tiếng một, từ một nơi xa thẳm nào. Không biết độ mấy giờ. Nhưng đêm chừng như khuya lắm.

Tía nuôi tôi thấy tôi cựa mình ngồi dậy, ông vội vàng đưa tay ra đỡ tôi nằm xuống:

- Con đã khỏe lại rồi đó. Cứ nằm nghỉ đi con. Đừng ngồi dậy dễ bị choáng đầu lắm!

- Đây là đâu vậy tía?

- Xa lắm. Mình vào gần tới đầm lầy rồi!

- Lửa tắt chưa tía?

- Còn cháy. Nhưng xa lắm. Con cứ vững bụng. Chỗ này, lửa không cháy tới đâu. Còn khát không con?

- Khát lắm tía ơi!

- Con đã uống nhiều nước rồi đấy! Vì mệt quá, con bị ngất thôi. Chẳng sao đâu. Để tía đi lấy nước cho con...

- Gần hay xa vậy tía?

- Đằng kia thôi. Con cứ nằm đây mà.

Trong ánh tối lờ mờ, tía nuôi tôi mò mẫm cởi chiếc túi da beo bên lưng ra, đưa vào tay tôi. Rồi ông đứng dậy bước sột soạt khuất dần trong bóng tối. Tôi ngồi phắt lên, buộc ngay chiếc túi da beo vào lưng y như tía nuôi tôi.

Bàn tay nắm chặt cán dao găm, tôi nhìn thẳng về hướng ông vừa đi. Rừng khuya im ắng quá. Tiếng côn trùng tỉ tê tận những chỗ mông lung nào, lâu lâu hốt nhiên im bặt đi một lúc, càng làm cho bầu không khí vắng vẻ trở nên im lặng một cách đáng sợ. Hồi lâu, bỗng nghe có tiếng chân giẫm sột soạt trên lá khô. Tôi vừa mừng, vừa sợ.

- Tía về đấy hở tía? - tôi vụt hỏi to lên.

- Ờ, tía đây. Có nước rồi đây, An ạ? - Tía nuôi tôi vừa táp vừa đi dò từng bước đến chỗ tôi đứng. Hai tay ông bưng một chiếc lá môn đựng đầy nước.

Tới kề miệng vào chiếc lá, uống ừng ực một hơi. Nước ngọt lắm, chỉ hơi có chút vị bùn và phảng phất mùi cỏ, nhưng tôi uống vào tới đâu thấy mát rượi tới đó.

Tía nuôi tôi nhồi thuốc lá vào tẩu, bật lửa lên đốt hút một hơi dài, ông đặt chiếc nỏ lên đùi, vừa ngồi hút thuốc vừa cầm một nhánh cây nhỏ quơ qua quơ lại đuổi muỗi chung quanh. Tôi nằm xuống đống cỏ, chân tay mình mẩy đau nhức như dần. Tôi lơ mơ nhớ lại trận cháy rừng khủng khiếp vừa qua. Không biết má nuôi tôi, thằng Cò mà cả con Luốc nữa... ở nhà có xảy ra chuyện gì nguy hiểm không? Đêm nay, tía con chúng tôi còn chưa về, chắc má nuôi tôi và thằng Cò ở nhà lo lắm... Tôi vừa chợp mắt thiu thiu ngủ, bỗng nghe tía nuôi tôi gọi: "An! " một tiếng cộc lốc bàn tay ông nắm lấy tay tôi lôi phắt dậy.

- Trèo lên cây sung mau đi, con

- Cọp hở tía? - Tôi vụt tỉnh hẳn, hỏi ngay.

- Ừ mau đi. Nghe tiếng con chim lệnh kêu rồi?

Tôi ôm cây sung trèo lên. Mọi ngày tôi trèo nhanh như sóc, nhưng giờ đây tay chân cứ trượt mãi không bám vào thân cây trèo lên được. Tía nuôi tôi đưa bàn tay lên dỡ gót chân tôi, để tôi lấy tựa. Tôi trèo bên trên, ông trèo bên dưới. Gần tới một chạc ba ông rướn người lên để tôi đạp chân vào hai vai ông, đu người thốc lên. Tôi đã có thể lần trên các nhánh cây, leo cao một mình được rồi tía nuôi tôi ngồi lại chỗ chạc ba, tay cầm nỏ đưa mắt nhìn quan sát.

Chúng tôi vừa ngồi yên chỗ trên cây thì nghe tiếng con chim thiêng vẳng tới. Boong... bong... krooi... loói. Boong... boong... boong... k.ruồi... kroói... Tiếng con chim lệnh kêu một hồi dài, cả rừng im bặt. Tôi bám chặt hai tay vào một cành cây. Tiếng boong... boong... kroói... krooi... âm vang rất xa như một thứ tiếng ngân vang kìm loại, một thứ tiếng đồng tiếng sắt xé tan màn đêm, làm thức tỉnh và kinh hoàng tạo vật.

"Nó bay kêu chỗ nào, có cọp tới ngay chỗ đó. Nó là con chim ma dắt đường? Những oan hồn bị cọp ăn, nhập vào con chim, đưa đường cho cọp đi tìm bắt người khác... Có hồn khác tới thay thế thì những oan hồn kia mới đi đầu thai được?" Má nuôi tôi đã bảo như vậy. Thằng Cò vốn sẵn sàng tin ngay mọi thứ chuyện ma qủy, vậy mà không hiểu sao bận đó là lần thứ nhất tôi nghe nó cãi má nuôi tôi:

- Bịa đấy! Làm gì có! - Thằng Cò cười cười, vênh mặt lên. - Con cọp nào lại không ăn thịt sống? Nó ăn nhiều thịt quá, thịt thối mắc trong chân răng, làm cọp ta đau nhức. Hễ nằm đâu là nó há họng cho con chim đó mổ thịt lôi ra. Nó là con chim bẩn, chuyên ăn thịt thối, ăn giòi bọ trong miệng cọp. Con cọp đi đâu, con chim theo đó như con nhông con sáo đi theo trâu vậy, chứ có gì mà sợ nó?

Má nuôi tôi nổi giận ngay:

- Nè, trứng chẳng khôn hơn vịt đâu. Mày học cái sách nào đó của ai mà toan dậy khôn tao thế, hử Cò?

Thằng Cò chẳng những không cãi, mà còn nhe răng cười hì... hì:

- Chú Võ Tòng bảo con vậy đó, má à!

- Ôi thằng cha đó thì trời cũng không sợ. Cọp vật hắn không chết thì hắn còn sợ ai nữa! Nói cứ ngang như cua.

Dầu thế nào mặc lòng, nó cũng vẫn là con chim "báo hiệu của Thần Chết". Tiếng boong... boong... krooi... kroỏi... vang dội trong rừng khuya có một ma lực đáng sợ, khiến tôi nghe một lúc bỗng nổi gai ốc khắp người. Khi gần khi xa, tiếng chim hình như cứ lảng vảng trong khu rừng này, chẳng chịu bay đi.

- Tía ơi, lên đây với con! - tôi gọi khẽ thôi, chẳng dám gọi to.

- Ừ tía lên ngay - tía nuôi tôi đeo nỏ vào lưng, trèo lên chỗ tôi ngồi. Ông cởi chiếc khăn bịt đầu ra, vòng ngang bụng tôi, buộc mắc vào nhánh cây. - Thế cho khỏi ngã, con ạ?

- Lửa còn cháy dữ quá, hở tía?

- Ừ còn cháy nhiều...

Xa lắm, ánh lửa còn bùng lên nhiều chỗ. Có chỗ trông rõ cả ngọn lửa bốc cháy trên đầu ngọn cây. Một vùng chân trời rực đỏ. Xa xa có những bầy chim lượn vòng trên cao, kêu hu nu. CÓ lẽ chúng đang ngơ ngác không tìm về dọc nơi rừng xưa tổ cũ, nên cứ lượn mãi giữa trời kêu bi thiết đây chăng.

Bây giờ bụng đói cồn cào, tôi mới tiếc hai thùng mật và gùi sáp ong non... Đói cũng chẳng sao. Chỉ lo mất lối về. Tôi lạỉ nhớ tới cái địa bàn có cây kim lúc nào cũng quay quay chỉ về phương bắc... Nhưng đã có tía nuôi tôi thì còn lo gì chuyện lạc rừng. Chà, lúc này mà có con luốc ở đây thì mình cũng không đến nỗi sợ lắm... Tôi đang mơ mơ màng màng, bỗng giật nảy người. Không có chiếc khăn an toàn của tía nuôi tôi buộc tôi vào cành cây, có lẽ tôi đã rơi xuống đất.

Tiếng Boong...! Boong...! Tron i... Kroó i...! kêu vang dội ngay sát dưới chân tôi. Tía nuôi tôi nạt một tiếng cọp, tiếng nạt dội vang rừng. Con chim vụt bay mất. Có một mùi khét lẹt và tiếng chân sột soạt trên lá ở ngay dưới gốc cây.

Tôi quên mất cả đói, quên mất chuyện lạc rừng, cứ hồi hộp nhìn vào tất cả những chỗ nào có bóng tối đáng nghi ngờ. Bỗng nhiên tôi nhớ ngay đến một đêm, má nuôi tôi ngồi đan giỏ bên bếp lửa đã kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện về lửa cọp đừng tưởng không có ma. “Mấy mươi năm về trước, có vợ chồng nhà nọ dắt đứa con trai chống thuyền vào rừng đốn củi. Thuyền đi dưới rạch, con cọp đi theo trên bờ, trong khi đó người vợ cứ đòi dừng thuyền lại cho mình lên bờ đi đại tiện. Người chồng và đứa con hãi quá, phải khua thùng thiếc ầm ĩ, hò hét đuổi cọp đi. Một chốc sau lại thấy nó lẽo đẽo theo thuyền, mà người đàn bà thì cứ nằng nặc đòi nhảy lên bờ. Người chồng phải lấy dây trói vợ lại. Khi họ tới chỗ lấy củi, bấy giờ người chồng mới tháo dây, cởi trói cho vợ. Và người vợ cũng thôi, không thấy buồn đi đại tiện nữa? Cả ba người lên bờ nhặt củi từ sáng đến trưa, chẳng việc gì. Tưởng là cọp đi rồi. Ai ngờ vào lúc mặt trời gần lặn, con cọp bỗng xồ ra cắn đứt cuống họng người đàn bà. Người chồng và đứa con vung rựa xông vào cướp thây, chém trúng con cọp mấy nhát, nó mới chạy đi. Trời tối đến nơi, mà bấy giờ nước triều cũng xuống cạn sát lạch, không đẩy thuyền ra được. "Con cọp này sẽ trở lại xé nát thây vợ ta thôi. Số vợ ta đã đứt cũng đành. Lẽ nào nỡ để chết rồi mà thi thể chẳng giữ được vẹn toàn?" Người chồng nhìn xác vợ buồn rầu nghĩ vậy. Chôn thì cọp đến móc mả. Để dưới thuyền tất nó sẽ nhảy xuống phá thuyền. Anh ta đành buộc thừng rút xác vợ treo lên cây mắm khô giữa khoảng đất trống, chờ sáng mai nước triều lên, sẽ đưa xác vợ xuống thuyền chở về mai táng. Hai cha con đốt một đống lửa to tướng dưới gốc cây mắm khô, trước khi trèo lên một cây khác ngồi chờ bình minh tới. Con cọp cứ quanh quẩn kêu "béo... béo... " trong những lùm bụi chung quanh. Về khuya, sương xuống mịt mù, đống lửa mỗi lúc lụi dần rồi tắt hẳn. Trong ánh trăng xanh lạnh ngắt, người chồng thấy con cọp cứ chạy vòng quanh gốc mắm, lâu lâu lại đứng dựng hai chân sau lên như người, còn hai chân trước thì với với cào cào gốc cây mắm khô. Mỗi lần nó đứng lên, cái thây ma treo trên cành cây lại cười hắc...hắc..."

Tía nuôi tôi đang xe gai bên chõng, nghe thế bèn dừng lại, hừ một tiếng:

- Bà khéo nhát trẻ con! Xưa nay, chuyện cọp theo bén cái thây nó vồ thì có. Ừ, mang thây về nhà rồi nó cũng theo kêu "béo... béo...sát bên hè suốt đêm. Còn cái chuyện thây ma cười cũng có. Nhưng sự thật thì không phải vậy!

- Có mà lại không phải. Vậy ông cứ nói không có dễ nghe hơn chăng. - má nuôi tôi hứ một tiếng, ngó sang phía khác, không muốn nghe lời tía nuôi tôi giải thích.

- Có chớ nhưng không phải cái thây ma cười. Mà có giống chim khắc ăn đêm,thường đáp trên cây khô bắt tắc kè, bắt thằn lằn, hoặc bắt chuột. Tình cờ nó đáp đúng cái cây có treo xác người. Thấy cọp chồm lên, con chim kêu "khắc.. khắc..." thì mình cho là thây ma cười. Nó kêu hệt như tiếng cười vậy. Người yếu bóng vía đi rừng ban đêm, nghe con chim khắc kêu, có khi sợ vãi cứt ra quần đấy.

- Thế tại sao biết có con cọp trên bờ, mà người đàn bà cứ đòi nhảy lên nộp mạng cho nó? Không phải đã tới số rồi à - má nuôi tôi vẫn chưa chịu thua. còn vặn lại.

- Lúc bấy giờ, có bà ở đó à? Đó là người ta bịa, người ta thêm nhân thêm nhị cho câu chuyện có vẻ thật, dễ tin...

- Ông không tin thì mặc ông. Tôi cứ tin.

- Bà cứ tin thì tùy bà! Nhưng đừng có tập cho con cái nó quen sợ hãi nhưng chuyện vô lý như vậy.

Má nuôi tới lặng lẽ cúi xuống đan giỏ, không nói gì nữa. Không biết có phải vì tốt nhịn mà má nuôi tôi không cãi nhau với tía nuôi tôi nữa hay không? Nhưng câu chuyện hấp dẫn của má nuôi tôi đã bị chấm dứt đột ngột ở chỗ đó, làm thằng Cò và tôi tuy không tin nhưng đứa nào cũng ức...

Tía nuôi tôi vẫn ngồi trên một chạc cây, tay cầm chiếc nỏ. Tôi thấy sương bắt đầu thấm lạnh trên vai áo.

- Tía ơi!

- Gì thế, con?

- Nó ngồi dưới gốc cây đó.

- Ừ, tía, tía thấy rồi... Đừng sợ, con ạ?

Trong bóng tối đen ngòm phủ kín một vùng rộng dưới gốc cây sung, có vài mảng sáng lỗ chỗ. ở một chỗ sáng xanh nhờ, có một cái đuôi cọp vẫy qua vẫy lại. Con cọp núp khuất đâu trong bóng tối, chỉ thấy khúc đuôi của nó thôi.

- Bắn nó đi, tía. - tôi nén giọng run run giục tía nuôi tôi.

- Nó không phóng lên tới chỗ này đâu. Mặc kệ nó con à.

Tôi bỗng nhớ đến chú Võ Tòng với tất cả tấm lòng trìu mến và kính phục vô hạn. Trong đầu óc tôi bây giờ chỉ có hình ảnh chú ấy như anh hùng xuất chúng thôi. Nhất là nồi thuốc đen nhánh sôi ục... ục... trên bếp lửa, mũi tên có tẩm thuốc từ nồi thuốc đó đang nắm chắc trong tay tía nuôi tôi đây mà. Tôi không còn sợ con vật đang ngồi rình chúng tôi ngay dưới gốc cây sung như lúc nãy nữa.

- Chết cha mày, con cọp! - Tôi quát to lên một cách bất ngờ.

Con cọp giật mình phóng soạt ra tận ngoài một lùm xa. Bấy giờ trống ngực tôi mới bắt đầu nổi lên,vì khoái trá cũng có, vì mừng cũng có, mà có lẽ là cái sợ chưa tan hết cũng có.

- Sao hồi nãy tía không bắn cho nó một phát tên?

- Chỉ còn có ba phát thôi, con à! Rơi mất hết mười bảy chiếc lúc tía cõng con chạy đi. Có lẽ bị vướng cành cây, tía không hay.

- Vài hôm nữa mình lại về xin chú Võ Tòng, lo gì?

- Tía đang lo nghĩ về chú ấy nãy giờ đây. Ngôi lều của chú chắc chắn đã bị thiêu hủy rồi...

- Thế tại sao tía không bắn?

- Tía đã nói là còn có ba phát thôi mà. Chưa cần lắm thì mình chưa dùng. Còn đề phòng thứ nguy hiểm hơn...

- Còn gì nguy hiểm hơn cọp hở tía?

- Thằng Tây chứ còn gì nữa.

Tía nuôi tôi chỉ đáp gọn lỏn như vậy rồi ông lặng lẽ thở dài.
 
Chương 013

Ba hôm sống trong rừng. Ban ngày hái trái bình bát tìm mật ong ruồi ăn đỡ dạ; ban đêm chúng tôi trèo lên những cây to, tìm chạc ba tựa lưng thật vững, buộc người vào cành cây, ngủ đến sáng. Tía nuôi tôi nóng lòng sốt ruột cứ độ nửa buổi lại trèo lên một cây thật cao xem lửa ở các khu rừng đã cháy lụi hết chưa.

- Có thể đi lần ra hướng bờ sông được rồi đấy con ạ!

- Đi lối nào bây giờ, tía?

- Lối nào cũng tới. Nước trong rừng bao giờ cũng đổ ra sông. Cứ men theo bất cứ con lạch nào, theo hướng nước chảy của nó thì đi tới sông thôi...

Tía con tôi dắt nhau lội theo những khe nước chảy, đến gần hết một ngày hôm sau nữa mới thấy những rặng cây quen thuộc lờ mờ hiện lên trong làn hơi nước, báo hiệu dòng sông êm ả của xứ rừng U Minh đang trôi qua nơi đó. Chúng tôi giẫm chân lên những lớp tro dầy còn nong nóng, tìm dò mãi mới đi tới chỗ cái lung còn nước, nơi tía nuôi tôi đã nhận chiếc xuồng hôm nọ. Chung quanh tôi, đen hắc một màu cây cối đã cháy thành than.

Những con rùa, con cần đước bò qua trảng cỏ trốn chạy không kịp, bị lửa đốt cháy còn trơ lại những cái mai như nồi đất úp lổm ngổm trên tro tàn. Một khối than khổng lồ còn giữ nguyên hình gốc cây, đang âm ỉ bốc khói bên cạnh chỗ chúng tôi giấu xuồng. Lục bình, rau mác dưới lung bị lửa táp cháy rụi lớp lá bên trên, phần chìm dưới nước thì bị nước nóng luộc chín cả. Xác cá, tôm, xác rắn trương phình trên mặt nước phủ đầy tàn tro, bốc lên một mùi thối khắm nhức cả óc.

Tôi cởi truồng lội xuống lung, vớt lớp xác lục bình cháy queo trong chiếc xuồng ngâm nước, vứt lên bờ rồi lắc xuồng tát nước ra.

- May quá, nhờ phòng nắng nẻ be mà chiếc xuồng của tía con mình khỏi cháy, tía nhỉ! - tôi lội mò dưới nước tìm nhặt đủ cả: giầm, sào, ván sạp, không mất món nào.

Chúng tôi hì hục chống chiếc xuồng theo con lạch cạn, đi lần ra hướng bờ sông. Từ ngoài rặng cây xa lắc chỗ bờ sông, vang lên một tràng súng liên thanh pập... pập... và sau đó còn nghe rõ ràng tiếng súng trường bắn loạn xạ một hồi lâu.

- Có thể giặc đã đổ bộ vào xã mình rồi, con ạ? - tía nuôi tôi lo lắng.

- Làm sao bây giờ, tía?

- Về nhà xem ra sao, chứ làm sao cái gì!

Chúng tôi lại lặng lẽ chống xuồng đi. Hai bên bờ lạch xám ngoét một màu tro. Ngôi lều của chú Võ Tòng lấp dưới một lớp than màu tro, nếu không có những khúc cây tràm xếp lên nhau làm bậc. thang còn chìm ở mé nước thì tôi không thể nào nhận ra dấu vết của ngôi nhà cũ.

Xế chiều hôm đó, chúng tôi mới ra đến bờ sông. Khu rừng bên tả ngạn vẫn còn đương xanh rờn, soi bóng những cây tràm bạc thếch trên dòng nước lờ đờ. Tôi nhảy xuống sông tắm qua loa rồi trèo lên xuồng mặc quần áo. Tía nuôi tôi không giục tôi một tiếng nào cả, cũng không lấy thuốc lá ra hút. ông ngồi êm ru, mắt đăm đăm nhìn xuống dòng nước. Phút yên lặng trầm mặc bất ngờ của ông lây sang tôi tức khắc. Mấy hôm nay, nóng lòng sốt ruột bao nhiêu thì bây giờ khi sắp về đến nhà, tôi lại như muốn kéo dài thời gian ra, như muốn đi chậm lại bấy nhiêu. Không biết có phải đó là bản năng hèn yếu của con người, trong phút giây nào đó bỗng bất ngờ nổi lên, khiến mình trù trừ, như sợ phải sớm chứng kiến quang cảnh đau lòng có thể xảy cho những nguội thân yêu nhất của mình chăng.

Một lúc sau, không ai bảo ai, tía con chúng tôi mỗi người cầm lấy cây giầm của mình bơi đưa chiếc xuồng qua sông. Mặt sông vắng ngắt. Dòng sông như thẫm lại và rộng thêm ra. Một thứ không khí lặng lẽ chết chóc, rờn rợn trùm lên mặt nước.

Đã trông thấy một đám người láo nháo bên kia bờ sông, dưới ánh mặt trời tà. Chúng tôi quạt mạnh tay giầm, đưa xuồng rẽ nước lao nhanh về hướng ấy. Từ bờ phía đó, một chiếc tam bản hai chèo đang chèo ra, ngược lên dòng nước; khi nhận ra chúng tôi, người đàn ông đứng sau lái bèn vung tay la lên..

- Bác Hai đó hả? Bác ơi, giặc bắn chết Võ Tòng rồi. Vừa đem được xác về lúc nãy...

Tía nuôi tôi kêu "Trời” một tiếng. ông đứng nhổm lên lái xuồng hỏi bằng giọng run run:

- Vậy chú có gặp... bà nhà tôi và tháng Cò ở đâu không?

- Bình yên. Bình yên cả. Tôi vừa gặp bác gái ban trưa đây. Tội nghiệp, bác khóc sưng cả mắt. Cứ lo trận cháy rừng...

Tía nuôi tôi thở phào một tiếng. Bấy giờ, tôi mới khua giầm hời to:

- Giặc ở trên tàu bay bắn xuống hở chú?

Người đàn ông đang chèo chiếc tam bản trố mắt nhìn qua xuồng chúng tôi một lúc rồi mới nói:

- Không hay biết gì cả à? Giặc vào đóng bốt tại Cây Dừa rồi.

- Chú đi đâu đó? Tía nuôi tôi hỏi..

- Đi nhắc hàng (mua quan tài) cho Võ Tòng đây. Bác lên vuốt mắt ông ấy thử coi... Tội nghiệp, chết rồi mà cặp mắt vẫn không chịu nhắm lại... Lát nữa, tôi sẽ quay về ngay thôi.

- Nhanh tay lên, con? Tía nuôi tôi giục.

Tôi có cảm giác như tự chiếc xuồng đang lao nhanh vào bờ, chứ không phải do mình đang dốc lực bơi đi. Tôi chưa kịp buộc xuồng vào một gốc cây thì tía nuôi tôi đã nhảy phóc lên, chạy đến chỗ đám người xúm xít đứng vòng quanh trên một bãi cỏ.

Khi tôi lên tới nơi, lách qua mấy ngươi đứng bên ngoài, chen được vào trong thì thấy tía nuôi tôi đang quỳ xuống bên cái thây đắp bằng mấy tàu lá chuối, hai bàn chân người chết ló ra ngoài mé lá; vết bùn đóng trên mấy đầu ngón chân hãy còn ướt. Lão Ba Ngù mặt đăm chiêu, đứng phía sau đầu người chết có cắm mấy nén hương cháy. Thấy tôi, lão hất hàm một cái, dường như ra ý hỏi mày cũng ở đây à? rồi lão lại đứng lặng yên trở về cái dáng thiểu não và bộ mặt rầu rĩ ít thấy có ở lão xưa nay. Tía nuôi tôi run run đưa bàn tay to lớn đẫm đầy mồ hôi ra cầm một tàu lá chuối nhấc lên. Đôi mắt chú Võ Tòng vẫn mở trừng trừng như lúc còn sống, ngồi bên nồi thuốc ở giữa lều một đêm khuya. Bộ ngực to lớn bị đạn bắn thủng năm sáu lỗ, máu đọng đen sì trên những vết thương càng làm nổi bật lên bảy chữ: "Ninh thọ tử, bất ninh thọ nhục" bằng quốc ngữ xâm một cách nắn nót theo lối cổ tự, giữa hình một quả tim có con rồng cuộn khúc bao quanh. Con người bị áp bức ấy, lúc sống đã ưỡn ngực mình ra cho anh em bạn tù cùng khổ thích vào d.a thịt những chữ xanh để nêu lên một phương châm sống: “Thà chịu chết quyết không chịu nhục giờ đây đã nằm xuôi tay trên bãi cỏ, nhưng đôi mắt hãy còn chưa chịu khép lại”

Tía nuôi tôi nhìn vào mặt cái xác, khấn to, như gọi hồn người chết về chứng chiếu lời mình.

- Võ Tòng ơi? Vong hồn chú sống khôn thác thiêng cho tôi vuốt mắt chú nhắm lại đi. Đừng để bà con thấy thêm đau lòng...

Bàn tay tía nuôi tôi từ từ đặt lên đôi mắt dại đờ.

Chung quanh im phăng phắc. Tía nuôi tôi để yên bàn tay như vậy khá lâu, và khi ông từ từ vuốt mí mắt xuống thì đôi mắt của người chết vừa rồi mở trừng trừng quả nhiên đã khép lại.

Mọi người ồ lên một tiếng và bấy giờ tiếng thì thào mới bắt đầu nổi lên. Tôi ngạc nhiên quá đỗi. Không hiểu sao những lời khấn vừa rồi lại có thể "ứng nghiệm”, lạ lùng như vậy được.

Lão Ba Ngù đưa tay quệt một giọt nước mắt, cúi xuống đắp tàu lá chuối lên mặt cái xác. Theo lời những người chung quanh thì lão là người độc nhất chứng kiến cái chết anh dũng của Võ Tòng. Sau khi chiếc ca nô địch chạy qua, còn chưa khuất lái, lão đã lặn ngay xuống sông vớt xác Võ Tòng lên, và mặc cho máu me còn đầm đìa rỏ xuống uớt cả người, lão cứ thế vác đi một quãng mới gặp xuồng gọi chở về đây. Còn như sự thể đã diễn ra như thế nào thì không nghe ai nói. Dường như mọi người đều biết cả rồi. Chỉ còn tía con chúng tôi mới đến là còn chưa rõ.

Người đàn ông chèo chiếc tam bản trên sông lúc nãy đã quay về, chở theo một cái "hòm". Trên tam bản còn thấy có ông chủ nhiệm thôn bộ Việt Minh vai đeo khẩu súng hai nòng, và một anh thanh niên mặc quần đùi, cởi trần, dáng chừng là người theo phụ giúp việc khiêng vác.

Huyệt mả đã đào xong gần ngay đất. Cuộc nhập quan cũng hết sức giản đơn và nhanh chóng. Người ta đặt xác vào quan tài, và mọi người chung quanh đứng cúi đầu vĩnh biệt người anh hùng của xã lần cuối, trước khi đóng nắp áo quan. Không một tiếng khóc. Không một bài điếu văn nhỏ, hoặc một người nào đó đứng ra nói mấy lời về cái chết anh dũng cua người còn nằm đây. Đó là điều làm cho tôi xốn xang, bứt rứt không chịu nổi. Trên những gương mặt sạm đen dãi dầu nắng gió của họ, tôi không tìm ra một nét nào là biểu hiện của bi thương. Cho dù là dáng vẻ bề ngoài, một sự bi lụy thông thường bao giờ mà chả cần có ở một đám đưa ma? Trên những gương mặt bất động dường như chạm bằng đá kia, chỉ có những cặp mắt là chói ngời, khiến tôi không dám nhìn thẳng vào mắt họ.

Khi quan tài đặt xuống, ông chủ nhiệm thôn bộ Việt Minh là người ném hòn đất xuống đầu tiên, rồi bước ra ngoài nhường chỗ cho người khác. Mỗi người cầm một hòn đất bước đến bỏ vào huyệt mả. Trong lúc ai nấy đang loay hoay lo lấp huyệt, bỗng nghe đoành... đoàng... hai tiếng nổ bên tai. Ông chủ nhiệm thôn bộ Việt Minh đã bất thần bắn lên hai phát súng chào không dự định trước. Một tay ông cầm khẩu ca-líp đui hai nòng bốc khói xanh, một tay giơ lên trước huyệt, bộ ria đen nhánh rung rung:

- Chú Võ Tòng! Đồng bào sẽ trả thù cho chú.

Tất cả những cánh tay nhớp nháp bùn đất của người đứng chung quanh huyệt mả cùng giơ tay thẳng lên trời. Họ gào lên như tiếng súng vừa nổ bất thình lình: "Trả thù! ". Hồi âm từ trong rừng xanh vọng lại hai tiếng "Trả thù?" âm vang trên mặt sông chiều đỏ rực một màu máu.

Bầu không khí nhiễm đặc mùi thơm nồng của khói thuốc súng như rung lên, và sự im lặng lại trở về xâm chiếm đầu óc tôi, một chú học sinh bé nhỏ sống ở thành phố, chưa từng bao giờ trông thấy một cuộc tống táng tràn đầy phẫn nộ như vậy.

Những người còn nấn ná sau cùng bên ngôi mộ mới đắp xong là lão Ba Ngù, tía nuôi tôi và tôi. Khi thấy lão nhận lời mời "về ở chơi vài bữa”, của tía nuôi tôi mà không một lời từ chối, tôi lập tức thấy cái tính không khách sáo của lão thật là đáng yêu biết chừng nào.

Vào khoảng hơn bẩy giờ tối hôm ấy thì chúng tôi về đến nhà. Tôi không chú ý đến sự mừng rỡ của má nuôi tôi và thằng Cò. Cả những câu hỏi đầy âu yếm và lo lắng của bà, tôi cũng chỉ nghe có một bên tai và trả lời qua loa cho xong về trận cháy rừng. Tôi đang nóng lòng sốt ruột, muốn nghe lão Ba Ngù kể lại cái chết của "người đàn ông” cô độc giữa rừng mà lão là người độc nhất được chứng kiến. Thế mà lão lại ngồi uống trà nhâm nhi với tía nuôi tôi và nói những chuyện con cà con kê gì ở đâu đâu. Sự hy sinh anh dũng của chú Võ Tòng có làm cho má nuôi tôi buồn thương giây lát, nhưng dầu sao cái việc chồng con vừa thoát chết trong trận cháy rừng về tới nhà, và sự có mặt của một ông khách vốn là chỗ có đôi chút quen biết trước với chồng mình - mà tất cả đều chưa ăn uống gì - khiến bà bấn lên trong việc lo cơm nước đãi khách một cách vui vẻ.

Nghe má nuôi tôi bảo thằng Cod bơi xuồng sang xóm bên mua thêm rượu, và tiếng vịt bị cắt tiết kêu cạp... cạp sau bếp, tôi càng yên trí ngồi hóng chuyện bên tía nuôi tôi. Tôi giành cho mình cái quyền được nghỉ ngơi sau mấy ngày vất cả, và tự thấy mình như một người con trai lớn có thể đường hoàng cùng ông bố ngồi tiếp chuyện với khách vậy.

- Chúng nó bắt được tôi trong lúc tôi có hơi quá chén, anh Hai ạ - lão Ba Ngù e hèm mấy tiếng, cười cười nhìn bố nuôi tôi. Có bao giờ lão nhận là lão say đâu - chẳng là tôi đưa vợ con tản đến ở nhờ nhà một người bà con ở Kim Quy Đá Bạc, vừa quá giang xuồng về đến xã này thì gặp giặc đổ bộ vào. Cái thằng chủ xuồng chết tiệt, nó mới cùng uống rượu với mình, thế mà lúc nguy biến, nó đạp xuồng nhảy lên bờ chạy tháo mạng, bỏ mình nằm trơ như con lợn quay cho giặc xách đi mới nhục chứ! Chúng nó dắt tôi về tới một ngôi miếu khá lớn...

- Ngôi miếu chỗ cây dừa, gần ngã ba sông - tía nuôi tôi gật gù vừa như hỏi lại vừa như kết thúc cho xong câu ngắc ngứ của ông khách lề mề.

- Phải rồi. Đúng là chỗ đó! Chà chà, nó đã bắt nhiều người ở đó rồi. Đang đắp phòng tuyến đóng bốt mà!

Chúng nó vứt cho tôi một cái xẻng rồi ra lệnh cho tôi đào đất. Có một thằng mặt gà mái, khom lưng xúc đất, bảo khẽ tôi:

- Làm cẩn thận nghe ông nội! Nó vừa mới đánh mấy người suýt chết đó.

Lúc bấy giờ, tôi có say đâu? Nhưng không biết tay chân xều xạo cầm xẻng gục tới gục lui thế nào, mà một thằng Việt gian cầm roi gân bò vẫy vẫy tôi lại "Chà. Mày muốn thử tấm da bò trên lưng lão à? Thôi thôi. Cái trò này đối với lão chẳng ra mùi đâu" Tôi nghĩ như vậy và sẵn sàng chịu cho nó quật một trận. Thằng Việt gian lùn tịt ngóc lên nhìn bộ mặt vênh váo của tôi, nó hỏi:

- Ở xã nào?

- Ở đâu, còn ở đâu nữa... ở ngay đây thôi? - tôi đáp liều mạng như vậy.

- Tưởng nó nện tôi rồi chứ. Nhưng mà không. Không những không động đến cái lông chân của tôi, mà nó còn toét mồm ra cười, móc thuốc lá cho tôi hút. Lại đánh diêm cho tôi châm lửa cẩn thận!

- Số của ông tới rồi. Biết chưa? - nó nói như quát, bộ nó tưởng tôi điếc hay sao ấy?

À hóa ra nó còn đùa chơi, nó còn cho mình một điếu thuốc trước khi đem bắn mình đây. Nói có hai bên vai làm chứng, thật tình thì tôi có hơi ớn xương sống, rùng mình một cái, nhưng tôi không sợ nó. "Bắn lão à? Được. Cứ hút cho hết đã. Thong thả đã, vội gì. Trước khi người ta vĩnh biệt cõi đời để không bao giờ trở lại gặp mặt vợ con bạn bè nữa, thì việc gì mà phải vội! " Tôi nghĩ như vậy thằng Việt gian đứng chéo chân, mặt như hai ngón tay chéo, nheo mắt nhìn tôi hút hết điếu thuốc một cách kiên nhẫn, đầy soi mói. Cái lưng gù gù cua nó càng khom tới thực giống như con mèo rình chuột. Không biết nó phục tôi hay rủa tôi.

- A-lê? Đi. - nó quát.

Chắc mèm nó bắn mình rồi? Tôi sắp sẵn mấy câu khẩu hiệu hô trước khi chết cho đúng tư thế một người chiến sĩ. Ha... ha... mỗi thước đất là một chiến hào, mỗi người dân là một chiến sĩ mà! Chắc nó đem bắn mình ở ngoài mé sông kia. Hóa ra nó dắt tôi vào miếu, đến chỗ thằng Tây đang ngồi uống rượu trên một cái bàn thờ mới chớp đâu về Thằng việt gian xì xồ nói gì một lúc với thằng Tây. Rồi thằng Tây thân hành rót một cốc rượu đưa tận tay tôi, ra hiệu bảo tôi uống. Mẹ kiếp, rượu gì mà nhạt thếch.

- Số ông đưa tới chỗ có bạc xài. Lại có rượu uống thả của rồi đấy, ông nội ạ. - Thằng Việt gian đập đập khẽ cái roi vào lưng tôi, nói giọng mơn trớn.

Rồi chúng nó dỗ tôi làm chỉ điểm! Mả cha nó, hồi nãy nghĩ nó sắp đem bắn mình, tôi không chút nao núng. Sao giờ nghe chúng nó nói thế, tôi lại phát nổi gai ốc đầy mình? Tôi tỉnh lại ngay tức khắc. Trời ơi, bây giờ tôi mới biết những thằng rượu chè be bét, những thằng trác táng trụy lạc, giặc coi như là dân "bồ bịch, của nó đấy! Thằng Việt gian trải một tấm bản đồ ra bàn, hỏi tôi: đây là con kênh gì gì, con rạch gì gì, xóm này là nhà ai, nhà ai... Cha chả, mình đã lỡ nói mình là dân xã này, mà bảo không biết thì nó đánh tan xác. Tôi cứ gật bừa chứ nào có biết trời trăng gì đâu? Nó đưa cho tôi một cái giấy xanh xanh, bảo tôi quấn lại như đẩu đũa nhét vào lưng quần, hễ có bị Tây nào khác bắt thì cứ móc đưa ra. Bảo gì tôi cũng gật. Nó rót thêm cho tôi cốc rượu nữa, và nhét vào túi tôi một trăm đồng bạc, dặn rằng "Hễ thấy có Việt Minh, có du kích ở đâu thì lập tức về báo ngay cho quan lớn biết. Sẽ hậu thưởng. Nhớ chưa?" Tôi gật gật... Ra khỏi miếu chừng trăm thước, tôi vạch quần đái một bãi rồi chuồn một mạch không quay mặt lại. Chỉ sợ nó theo gọi lại chụp hình thì sớm về chầu ông vải. Tôi móc cái giấy xanh xanh ra cầm tay, định hễ gặp người nào đằng mình thì lập tức trình ra. Lội hết xóm này qua xóm khác mà chẳng gặp ma nào. Tôi cầm cái giấy trên tay như cầm cục lửa. Những muốn xé nát, vứt đi rủi bị thanh niên tự vệ bắt trước khi mình đưa ra cho họ, thì chết oan hơn một ngàn bà thị Kính?

Trời xui đất khiến, may sao lại gặp đúng ông chủ nhiệm thôn bộ cùng đi với Võ Tòng, Võ Tòng tôi cũng quen, còn ông chủ nhiệm thì hồi đưa ông Huỳnh Tấn xuống Thới Bình, tôi cũng có gặp ổng. Tôi bèn chìa cái giấy ra và kể hết mọi nỗi cho họ nghe, lại đưa cả một trăm đồng bạc ra cho ông chủ nhiệm bỏ vào qũy ủng hộ kháng chiến. Ông chủ nhiệm có khen tôi là mưu trí, trung thành, nhưng cũng chê tôi là... như vậy coi không được. Nhưng bây giờ sự tình đã lỡ rồi, ông bảo tôi cứ giữ cái giấy xanh xanh ấy, cứ ra vô bốt như thường, có tin tức gì thì báo cho anh em biết. Tôi nói "Lạy ông! Ông có bắn thì bắn, chứ tôi không trở vô đó nữa đâu. Dứt khoát là không trở vô. Còn Võ Tòng thì chỉ nghe, chứ không nói năng gì. Nhưng tôi sợ chú ấy hơn ông chủ nhiệm thôn bộ mới lạ chứ. Chà, mấy cái chữ "Ninh thọ tử, bất ninh thọ nhục" xâm trên ngực chú, cứ như là chửi cha tôi không bằng! được cái ông chủ nhiệm không rầy lâu. Nói sơ chút vậy đủ hiểu thì thôi. Đánh úp vào miếu thì mình không đánh nổi. Lính đằng mình rút xuống Năm Căn từ tám hoánh nào rồi...

Chúng nó như một luồng dịch, bây giờ mình sức yếu phải tạm thời lánh ra, rồi sau sẽ bọc sau lưng chơi du kích với chúng nó... Đó, đại khái ba người chúng tôi bàn nhau như vậy. Theo ý ông chủ nhiệm thì nên rình mấy thằng lính đi đốn cây mà bắn tỉa, chớp súng trước. Có súng mới làm ăn được. Nghe có lý lắm, còn theo ý Võ Tòng thì phải khử cái thằng việt gian đã thuộc rành đường đất xứ rừng này trước. Giết thằng đó, thì bọn giặc co lại trong đồn thôi. Nghe cũng có lý lắm. Hai người cứ cãi nhau. Sau cùng, ông chủ nhiệm bảo tôi biểu quyết. Tôi hỏi, "biểu quyết là cái gì?" ông nói: "Theo ý kiến ai thì giơ tay lên. Bên nào đông thì làm theo ý kiến đó?" Hai ông đều giơ tay của mình lên. Bây giờ tới phiên tôi. Hễ tôi đi theo ai thì người đó thắng. Chà, chưa bao giờ tôi thấy mình quan trọng và oai như vậy. Nhưng mình theo người này thì mất mặt người kia, thật khó quá? tôi bèn giơ cả hai tay lên, mỗi tay ngả về một phía. Ông chủ nhiệm lăn bò ra cười. Tôi cũng cười. Chỉ có chú Võ Tòng là không cười.

Ba người chúng tôi dắt nhau đi phục kích ở bờ sông. Phơi nắng suốt hai ngày mà không thấy thằng lính nào mò tới. Ca-nô nó cứ chạy phình... phình.. ở khúc sông trên kia ngã ba. Có lẽ vì chúng tôi phục kích chỗ xa quá.... Ngày hôm sau nữa, ông chủ nhiệm bận đi mượn thêm tay súng của xã bên, chỉ còn có tôi và Võ Tòng...

Lão Ba Ngù kể tới đây bèn dừng lại, quấn thuốc lá châm vào kéo mấy hơi dài. Lão cúi mặt xuống một lúc; khi lão ngẩng lên, hai giọt nước mắt long lanh hai bên khóe mắt từ từ chảy dài xuống má, đọng lại ở chòm ria. Lão cũng không đưa tay lên chùi. Lão lại tiếp tục kể, giọng hơi thấp xuống:

- Võ Tòng dắt tôi lội rừng, lên chặn đầu ca-nô ở khúc sông trên ngã ba. Chỗ khúc sông ngoắt có cây ngừa giẽ nhánh ra sông đấy

- Nơi đó trống trải quá - tía nuôi tôi thở dài.

- Ờ hai bên bờ sông không có lùm bụi cây cối gì...

Nhưng Võ Tòng cương quyết "phục" chỗ đó. Chú bảo tôi là thế nào cũng làm ăn được. Bọn giặc sẽ không ngờ. Chú mang nỏ, trèo lên ngồi trên nhánh gì ra gie ra sông, núp trong mấy đám tầm gởi. Tôi thì nằm trong bờ, vạch cỏ chui xuống như con rùa, chỉ ló đầu lên quan sát thôi. Quá trưa mà không thấy ca nô nó chạy qua. Hai hôm trước nó đều ra buổi sáng. Tôi đã toan gọi Võ Trang về thì chợt nghe tiếng ca-nô nổ máy phình phình. Chưa tàn nửa điếu thuốc, nó đã tới. Mà không phải từ đằng miếu tới. Đêm qua nó đi đâu. bây giờ mới trở về đây? Võ Tòng lập tức xoay người lại tôi. Chỉ thấy rung rung một cọng lá, và ở đầu cọng lá ló ra một mũi tên tẩm thuốc độc đen sì.

Tôi đã trông rõ từng thằng trên ca-nô. Một tiểu đội cả thảy. Tám thằng giặc, ba thằng ngụy. Chúng nó đều cởi trần, da phơi nắng đỏ như cua luộc, thằng nào cũng đội một cái nón vải rộng vành màu cứt ngựa. Thằng Việt gian lùn tịt ngồi ở mũi ca-nô, mũ vải bò tụt xuống cái lưng gù gù trong thật đáng ghét. Tôi kêu vừa đủ cho chú nghe:

- Cái thằng lùn đầu trần đấy! Nó đấy?

- Ừ!

Chú chỉ nói, có một tiếng. Thằng ngụy thủ cây trung liên đầu bạc ghé nòng súng lên đùi, ngồi chỗ be móc thuốc ra đốt hút. Đúng là ở chỗ này trống trải, nó không đề phòng vả lại cũng sắp về tới đồn chúng nó rồi mà. chiếc ca-nô ào ào rẽ nước tiến đến. Tôi chớp mắt mấy cái. Không thấy một cọng lá rung mà mũi tên bay từ lúc nào đã cắm đúng giữa cổ họng thằng Việt gian nghe cái phực.

Nó ngã ngửa vào khoang. Mũi tên thứ hai bắn cắm vào vai một thằng Pháp râu xồm. Thằng giặc già từ từ nhổ mũi tên ra, ném xuống sông cười hô hố. Nó đưa bàn tay lông lá lên lau dòng máu ròng ròng chảy xuống bên vai chưa lau sạch, đầu nó đã quay quay chúi chúc xuống như con bò bị búa tạ đập vào giữa sọ. Kể nghe thì lâu, chứ sự việc diễn ra nhanh như chớp, anh Hai ạ? Ca-nô vẫn chạy. Đã chạy qua khỏi cây ngừa rồi. Bấy giờ, chúng mới bắn loạn xạ vào hai bên bờ. Đạn véo véo bay qua đầu tôi, còn Võ Tòng thì vẫn ngồi ngang nhiên trên cành cây vô sự.

Tôi chờ cho nó chạy xa một quãng thì đứng lên gọi Võ Tòng về. Ai ngờ đâu còn một chiếc nữa đã phình... phình... ló mũi ra chỗ khúc sông ngoài. Một thằng Tây đội kê-pi vàng rực vai đeo ga-lông (cầu vai có quân hiệu) chớp chớp ánh kim tuyến, ngồi bên cạnh con đàn bà mặc quần áo nhà binh đang đưa ống nhòm ngắm tới trước. Thằng này ít ra cũng là quan hai. Mấy hôm trước không thấy có mặt nó trong đám này?

Chòm tầm gửi rung rung trên nhánh cây ngừa, rồi trở lại im lìm không động đậy. Tôi hồi hộp quá. Cách chừng ba tầm tên nữa thì ca nô nó lọt vào vòng phục kích của chúng tôi. Bỗng con mụ đàn bà buông ống nhòm tụt xuống ngực, trỏ vào chòm tầm gởi nói xì xồ gì đó. Thằng Tây đội kê-pi vớ khẩu tiểu liên trên tay một thằng lính ngồi dưới khoang, đưa lên ngắm. Chòm tầm gởi đu đưa mấy cái. Trời đất qủy thần ơi, Võ Tòng từ từ ló lên giương cánh nỏ. Tôi muốn thét lên mà lưỡi cứ líu lại. Bắn ngay nó một phát tên, rồi nhào xuống sông lặn tuốt có phải êm không lại không bắn, còn chờ gì nữa hỡi trời! Thằng sĩ quan Pháp vẫn chưa nổ súng. Chiếc ca nô đã tới gần lắm rồi. Con mụ đàn bà bỗng quát lên một tiếng, vỗ tay vào lưng thằng Pháp. Lập tức, tôi thấy cánh tay phải của thằng giặc rung rung. Tai tôi không còn nghe tiếng súng nó bắn ra nữa, chỉ thấy làn khói trắng như sợi chỉ phụt phụt ra từ họng súng tiểu liên. Chú Võ Tòng từ trên cành cây rơi xuống nước. Rõ ràng là thằng giặc thoát chết vì khoảng cách giữa nó và chú Võ Tòng còn ngoài một tầm tên. Nó đã xuống tay trước chú. Bấy giờ tôi không còn biết sợ hãi là gì nữa, cứ nhô đầu lên coi chú Võ Tòng có mệnh hệ gì không. Chiếc ca nô chạy qua xóa những vệt máu mà tôi chắc rằng phải đỏ cả mặt nước kia... Anh Hai ơi anh có biết con mụ đàn bà ấy là ai không? Nó là con vợ thằng Tư Mắm ngày trước vẫn thường lui tới bán dừa khô bí rợ trên chợ Chắc Băng đấy!

Bàn tay lão Ba Ngù đấm xuống mặt bàn một cái rầm, cốc chén nảy bật lên. Ngọn đèn chao qua chao lại, khiến tôi có cảm giác như bốn bức vách nhà lung lay vì một sức chấn động dữ dội.

Tôi đưa tay chụp cái đèn, giữ cho nó khỏi đổ. Bàn tay tôi chạm vào cái thông phong rát bỏng. Tôi bỗng nhớ tới bàn tay ngón búp măng của con mụ đàn bà đẹp một cách dễ sợ đã dúi vào tay tôi tờ giấy bạc năm hào nơi. quán dì Tư Béo mà tôi đã từ chối không nhận. Chính bàn tay con mụ gián điệp ấy đập vỗ vào lưng tên giặc Pháp, xuống lệnh khai hỏa giết chết chú Võ Tòng.

Tía nuôi tôi ngồi lặng đi một lúc lâu. Cơm canh đã dọn ra bàn rồi mà ông vẫn ngồi yên như một khúc gỗ. Dáng như trong đôi mắt ông đăm đăm nhìn sững vào ngọn đèn, đang hiện lên quá khứ xa xăm của người bạn cùng khổ, giữa nơi cuối đất cùng trời này.

Khi nghe má nuôi tôi giục ông mời khách ăn cơm, ông mới thong thả đứng dậy. Ông bước đến bên bức vách rút ra ba mũi tên trong chiếc ống nứa ra, để nằm ngang ở trên đĩa, đặt lên bàn thờ. Rồi ông rót một chén rượu đặt bên cạnh ở ba mũi tên thề, và thắp nguyên cả một bao hương cắm vào bát tro.

Tuyệt nhiên không hề thấy có một nét biến đổi trên sắc mặt ông. Cả một hơi thở mạnh cũng không nghe thấy...
 
Chương 014

Tội nghiệp cho hai ông già, ngày nào cũng dắt nhau ra đi từ trời còn mờ đất, có khi đến tối mịt mới về. Má nuôi tôi lo lắm: Nhưng bà biết rõ chồng mình hơn ai cả. Khi ông đã quyết một sự gì rồi, thì lời khuyên can và những giọt nước mắt của bà không thể làm mềm được ý chí của ông Tốt hơn hết là nên im lặng.

Sau cái trận phục kích bất ngờ, chết mất tên Việt gian đưa đường lợi hại và một thằng Pháp, bọn địch phát quang cây cối dọc ngã ba sông có hơn nghìn thước, bắn chết ba người đàn bà đi thuyền trên sông giữa ban ngày, và yết bảng tại ngã ba rằng: Ai nộp một cái đầu Việt Minh sẽ được lĩnh một nghìn đồng. Đồng thời chúng cũng ra sức mua chuộc: mỗi người dân bị chúng ruồng bắt về đồn đắp phòng tuyến trước khi được thả về đều được phát cho ba thước vải, một số thuốc ký ninh và hai bao thuốc lá "gô-loa" cùng một cái giấy lách-xê-pát-xê.

Lão Ba Ngù ở chơi với tía nuôi tôi hơn một tháng mới từ giã trở về Chắc Băng. Không biết có phải lão buồn vì công lặn lội của mình chẳng đem lại một kết quả gì, hay bởi con mụ vợ Tư Mắm đã theo thằng quan ba trở ra chợ Rạch Giá - thế là mất đối tượng chính - nên lão nản lòng bỏ đi chăng. Tía nuôi tôi từ hôm ấy càng đâm ra ít nói, chẳng thiết gì công việc làm ăn, cứ bỏ nhà đi luôn.

Nhiều khi cả mấy ngày không về nhà. Có về nhà thì lại thắp hương cắm lên bàn thờ rồi lại ngồi uống rượu khan một mình.

Một số người ở xung quanh đồn giặc đã lục tục trở về nhà cũ. Cả ba bốn ngôi quán cà phê, hủ tiếu cũng vừa dựng lên. Tía nuôi tôi đã mấy lần mò ra quán cà phê, lần nào cũng trở về với bộ mặt rầu rầu khiến cho thằng Cò và tôi không dám nói chuyện to tiếng.

Một hôm, tía nuôi tôi cầm rựa đi đốn ở đâu về mấy gốc tre già. Ông vứt tre xuống sân, bảo thằng Cò đi mua rượu. Người ông thay đổi hẳn, chân tay nhanh nhẹn, vui vẻ hoạt bát lên như ngày trước. ông chẻ tre, nắn nót chuốt từng mũi tên, ban ngày phơi nắng, ban đêm hong lửa ông châm từng mũi tên lên tay, cân xem có vừa sức nặng và bề dài của ba mũi tên tẩm độc của ông không...

Ba hôm liền, ngày nào cũng ngậm tẩu thuốc lá, cầm nỏ mang tên, dắt con Luốc di vào rừng.

"Chẳng thấy bắt được con chồn con cáo gì, mà ngày nào cũng lặn lội cho mệt!" Má nuôi tôi làu bàu nói như vậy.

Tía nuôi tôi chỉ cười. Nụ cười hồn hậu trên gương mặt khoáng đạt mà tôi thấy ở ông lần đầu tiên nơi xóm chợ Ngã Ba Kênh, lại trở về với ông.

Dứt khoát không phải tía nuôi tôi đi săn con chồn con cáo gì đâu. Có thể là ông đi tập bắn nỏ đấy thôi! Mà một người thông thạo nghề rừng nghề biển như ông, thì việc sử dụng cánh nỏ chỉ như một trò chơi, ông cần gì phải tập. Vậy thì tía nuôi tôi đi đâu? Làm gì?

Ý nghĩ ấy cứ nung nấu trong đầu tôi, càng thôi thúc sự tò mò dậy lên trong tôi rất mãnh liệt. Phải theo coi ông làm gì? Thế là tôi mò vào rừng. Theo dấu chân ông, tôi đi tìm khắp nơi nhưng không thấy. Đã trở về, bỗng con chó Luốc từ trong một bụi cây chạy ra xoắn lấy tôi. Tôi vội ôm con chó, vuốt ve cho nó đừng sủa. Và con Luốc dắt tôi chạy băng qua một khoảng đất lầy, đến một cái bàu rộng. Tôi gí mõm con chó xuống đất, núp trong một bụi sậy ngó ra bàu. Tía nuôi tôi cởi trần, đang loay hoay bơi trong một đám rều. Ông nhặt lục bình, rau mác phủ kín thân người, rồi giương nỏ, chống hai khuỷu tay lên hai khúc bẹ dừa nước thả giữa đám rều, giữ thăng bằng trên mặt nước, không động đậy. Khi mặt bàu đã trở lại phẳng lặng, và một cái lá lục bình cũng chẳng thấy còn rung nữa, thì từ trong đám rều nghe vang ra một "tiếng tách" rất khẽ của cánh nỏ bật dây. Chiếc tên bay ra, cắm phập vào một bẹ dừa nước cắm ở mấp mé ven bờ, mà đám rều không mảy may động đậy. Tôi không đếm rõ, nhưng ước chừng sáu bảy chiếc tên đã cắm đầy bẹ dừa nước, cách mặt nước khoảng một tấc, đều tăm tắp như ta cầm từng mũi tên và ghim vào vậy. Tôi hãi quá. Vừa hãi vừa kính phục. Muốn gọi tía nuôi một tiếng. Nhưng sợ ông mắng, tôi len lén dắt con chó đi một quãng mới thả nó ra và lẳng lặng trở về.

Tôi không hề lộ ra chút gì tỏ rằng mình biết chuyện tập bắn của ông. Hôm sau, tía nuôi tôi gọi tôi ra sân bảo khẽ:

- Con đi với tía ra bốt đi?

Tôi đoán rằng tía nuôi tôi dắt tôi đi phục kích bắn giặc; ông đã gọi tôi theo, hẳn là ông tin cậy tôi hơn thằng Cò bụng mừng rơn, tôi nói luôn:

- Tía đưa cho con cái dao găm!

Ông cười cười, vỗ tay lên đầu tôi:

- Đi chơi thôi mà. Việc gì phải mang dao.

Thấy tôi đứng ngớ ra, ông cúi mặt khẽ trong tai tôi:

- Hồi trước, con có biết mặt vợ thằng Tư Mắm... Con đi với tía, coi phải đúng là nó không?

Tự nhiên hai chân tôi nhảy dựng lên một cái. Giờ phút đợi chờ của tía nuôi tôi đã đến rồi. Thảo nào trông ông khác hẳn. Tôi lập tức hiểu ngay việc chuẩn bị của ông từ mấy hôm nay.

- Đi tía! Con làm sao quên con gián điệp khốn nạn ấy được - tôi phấn khởi nói như vậy. - Nhưng mà... nó cũng nhớ mặt con đấy, tía à?

- Không lo. Con thấy nó mà nó không thấy con đâu, đừng sợ.

Thế là hai tía con chúng tôi bơi xuồng ra đi. Đến xóm nhà gần đồn, tía nuôi tôi giấu xuồng vào một bụi ô rô rồi dắt tôi lên bộ. Chúng tôi đều đi tay không. Rủi gặp một thằng lính nào thì lấy gì chống trả? Tới vừa đi vừa lo, mắt cứ dao dác ngó chung quanh. ông vỗ vào vai tôi một cái mạnh:

- Đi đường hoàng, con ạ! Làm như mình là dân ở xóm này vậy. Đừng dao dác... Có gặp chúng nó, để tía liệu lời ứng phó.

Trời chưa tối. Nhưng con đường trước đồn vắng tanh. Lác đác một vài nhà đã thắp ngọn đèn kiểm tra treo trước cửa. Chúng tới đi ngang qua ngôi quán cuối cùng, rồi tạt xuống mé sông ngồi đấy.

- Nếu có ai hỏi, con cứ nói là chờ xuồng quá giang, nghe chưa? - ông dặn tôi như vậy và ung dung móc thuốc lá trong túi ra nhồi vào tẩu, bật lửa lên châm hít mấy hơi dài.

Đã ngồi rình mà còn hút thuốc. Tôi hơi bực với tía nuôi tôi, nhưng không dám phản đối. Từ chỗ chúng tôi ngồi cách đồn giặc không đầy ba trăm thước. Chắc chắn là bọn lính trên chòi đã thấy chúng tôi rồi. CÓ lẽ tía nuôi tôi cố ý đốt thuốc lên hút, để chúng nó ngỡ chúng tôi là người trong quán ra ngồi chơi. Bên kia bờ sông, cây cối bị san bằng mặt đất, một con mèo chạy cũng thấy rõ. Mặt trời sắp lặn chiếu ánh vàng nhợt nhạt lên mặt đất trần trụi bên ba bờ, và hồi quang từ mặt nước hắt lên tường vôi trắng bệch của ngôi đồn một màu không tên gọi, một thứ màu đặc biệt khó tả nhưng nó gợi cho người ta nghĩ ngay đến mùi tanh nhớt cá…

Quái, mọi hôm giờ này nó đã ra rồi kia mà? - Tía nuôi tôi vừa lẩm bẩm nói xong, thì ông đã nén giọng kêu khẽ trong cổ: Nó đây rồi.

Từ trong đồn, một dáng người đàn bà tóc phi dê ưỡn ẹo đi ra, vai quàng chiếc khăn tắm biển xuống tận gối. Trông rõ cả đôi quai dép trắng dưới chân. Con mụ ngửa cổ ra sau, lắc lắc mớ tóc rồi đưa bàn tay túm gọn vào gáy trước khi trùm chiếc mũ cao su lên. Thoạt trông dáng đi ưỡn ẹo như hình rắn luồn, thấy bàn tay đưa lên vén tóc, tôi biết ngay là nó rồi. Bàn tay búp măng rất đẹp, không thể nhầm lẫn bởi nó quay lưng về phía chúng tôi, lại phi dê tóc, nên tôi còn phải chờ xem cẩn thận đã. Đến khi nó xoay người bỏ chiếc khăn quàng xuống trụ cầu nước, nhìn bộ mặt trông nghiêng nửa bên của nó, thì tim tôi đập rộn lên:

- Đúng nó rồi, tía à! Suýt nữa thì tôi kêu to lên.

- Xem cho kỹ!

- Đúng là nó mà!

Con gián điệp phơi nguyên cái thân hình lồ lộ của nó, chỉ có ba mụn che chỗ kín và bộ ngực. Nó vung tay vung chân khởi động chừng nửa phút rồi gieo mình xuống nước.

- Chắc chắn là nó, chứ con? - Tía nuôi tôi hỏi lại cẩn thận.

- Chắc…

- Thôi về, con!

Tía con chúng tội vừa đứng lên đi mấy bước, thì có một thằng ngụy trên chòi gác la lên:

- Ê! Mấy thằng nào trong quán ra rình coi bà lớn tắm đó? Coi chừng ông lớn bắn bỏ mẹ đa?

Chúng tôi cứ thản nhiên đi. Đi một quãng thật xa, bấy giờ tôi mới thấy rờn rợn nghĩ lại lúc mình ngồi ở bờ sông.

- Về nhà đừng nói gì với má con biết, nghe không? - Tía nuôi tôi cứ dặn đi dặn lại, bảo tôi có đến ba bốn lần chỉ mỗi câu ấy.

Đêm đó, cả nhà ngủ đã lâu rồi. Tôi giật mình thức dậy, vẫn thấy tía nuôi tôi ngồi cầm cái tẩu lăn lăn trên bàn tay, bên gốc cây tràm trước sân. Trưa hôm sau, khoảng hai giờ chiều, tía nuôi tôi đã xách nỏ, mang ống tên ra đi, không quên lấy cái dao găm trong chiếc túi da beo ra đeo thật chặt bên hông.

Má nuôi tôi hỏi:

- Ông đi đâu mà không cầm theo chiếc nón đội vậy?

Tía nuôi tôi đáp ngắn ngủi:

- Ra ngoài xóm một chốc thôi.

Con Luốc ve vẩy đuôi chạy theo. Tía nuôi tôi quay lại bảo tôi giữ con chó, đừng cho nó theo. Tôi biết ông đi đâu rồi. Tôi ôm con chó nhìn theo cái lưng trần chắc nịch của tía nuôi tôi, thấy rất vững tin, nhưng đồng thời cũng có một cái gì nôn nao hồi hộp cứ dâng lên trong lòng khiến tôi dưng dưng muốn khóc.

Tôi đi ra đi vào, bụng nóng như lửa đốt. Tai cứ hướng về phía đồn. Những tiếng súng vu vơ ngoài đó, mọi ngày tôi không thèm chú ý, giờ chỉ nghe tiếng nổ xa lắc ở đâu cũng đủ làm tôi bàng hoàng lo sợ. Má nuôi tôi hỏi gì, tôi cũng chỉ ậm à ậm ừ. Thằng Cò rủ tôi đi đâm cá, tôi cũng không đi. Đến bữa cơm tôi lùa nuốt vội một bát, rồi lén dắt con chó đi. Tay tôi cầm cái mác, con chó đủng đỉnh chạy theo sau. Tôi băng rừng ra tới bờ sông, đi về hướng đồn giặc. Mặt trời gần lặn thì tôi đã trông thấy bức tường vôi trắng xóa và cái chòi gác cao lêu nghêu bên kia sông. Tôi núp trong những bụi cỏ, lúc thì đi lúc thì lom khom bò tới. Đến chỗ chúng phát trụi sát mặt đất, không ló ra được nữa, tôi đành nằm xuống ngóng qua đồn. Con chó tinh khôn cũng nằm sát một bên tôi không động cựa gì cả.

Mắt tôi dán trên mặt sông trước ngôi đồn giặc, theo dõi từng đám rều từ trên kia theo nước trôi xuống. Lỡ tía nuôi tôi núp trong một đám rều lưới qua rồi, mà con gián điệp khốn kiếp chưa ra tắm thì sao? Bây giờ tôi không lo sự nguy hiểm xảy ra cho tía nuôi tôi, mà chỉ lo con quỷ cái không ra tắm. Mắt tôi lại nhìn ra cửa đồn. "Nó sẽ ra... Nó sẽ ra... Rồi nó sẽ ra... " Tôi lẩm bẩm như vậy một chốc thì quả nhiên nó ra thật. Vẫn như chiều hôm qua, nó lại ngửa đầu ra sau, vén tóc trùm chiếc mũ cao su lên. Nó lại cởi chiếc khăn tắm đặt lên trụ cầu. Nó đã bắt đầu khởi động rồi kia! Một thằng Tây từ trong đồn đi ra, có con chó béc-giê to tướng theo sát bên chân. Con gián điệp quay lại cười hắc hắc, nói lí nhí gì đó trước khi gieo mình lao xuống nước. Hai tay tôi nắm hai bụi cỏ cứ run lên. Con chó béc-giê sủa oang oang khi thấy một đám rều trôi qua ngang đồn. Tôi phải vỗ vỗ vào lưng con Luốc, gí mõm nó xuống, không thì nó cứ chờn vờn chực đứng lên sủa chửi lại con chó xấc xược kia.

Con gián điệp vẫn bơi lên ngụp xuống chung quanh chỗ cầu nước. Một đám rều nữa lại trôi tới. Con chó béc giê lại sủa. Nghe rõ cả tiếng thằng giặc suỵt suỵt mắng con chó. Đám rều thứ ba trôi tới, bé hơn hai đám trước, trôi lờ đờ, coi bộ chậm chạp. Đúng là tía nuôi tôi đang núp trong đám rều này. Tôi vừa nghĩ như vậy thì nghe tiếng hét thất thanh của con mụ "vợ Tư Mắm". Nó quẫy đùng đùng như con cá mắc câu, cánh tay với với bám trụ cầu. Con chó béc-giê chồm chồm trên cẩu, sủa ra sông dữ dội. Thằng Tây lôi con mụ kia lên cầu, vừa chỉ vừa hét: "Việt Minh? Việt Minh!"

Con gián điệp còn dốc hết lực giơ cánh tay chỉ ra đám rều trôi trên sông trước khi ngã xuống giãy đành đạch. Đèn rọi lia như chổi quét trên sông. khắp bốn phía đồn. Súng đủ các cỡ bắn ra như chấu. Thằng giặc Pháp cầm khẩu tiểu liên đuổi theo bờ sông, ria xuống đám rều. Đạn đỏ ngời nẩy trên mặt nước như thia lia. Lại thêm năm sáu thằng ngụy trong đồn cầm súng tủa ra.

Tôi bất chấp cả đạn bắn vèo vèo bên tai, xách mác đứng dậy chạy đi. Thằng giặc chạy bên kia bờ, tôi chạy bên này bờ. Giá tôi có khẩu súng trường trong tay, thì tôi đã nổ cho nó một phát rồi. Máu dồn lên nóng cả mặt. Tôi che tay lên mồm hô lớn: "Xung phong! " Con Luốc cũng bắt đầu sủa oang oang, hỗ trợ cho tiếng hô vang rền của tôi. Thằng giặc Pháp cầm súng đuổi theo đám rều bên kia bờ, nghe tiếng thét xung phong của tôi vụt co người lại như bị điện giật. Nó quay lưng tháo chạy về đồn.

Tôi cứ chạy theo đám rều, gọi: "Tía ơi, tía hời!" mà không nghe tiếng đáp. Đám rều mỗi lúc một trôi nhanh. Tôi ngồi xuống bờ sông, khóc nấc lên. Hồi lâu, bỗng nghe tiếng chân đi sột soạt đến gần. Con chó đứng bên tôi ve vẩy đuôi, lao về phía chân người đi tới.

- Thằng An đấy hả con? - giọng tía nuôi tôi vọng ra từ trong bóng tối.

Tôi mừng cuống lên, chạy đâm vào người tía nuôi tôi, làm ông suýt ngã.

- Tía có sao không, tía? - tôi vừa hỏi vừa đưa tay sờ khắp người ông xem có máu chảy không.

- Chẳng việc gì, con ạ. Tía lặn xuống tới đáy sông, làm sao nó bắn trúng được. Con ra đây bao giờ?

- Tía đi một lúc thì con đi theo. Con lo quá.

Tôi cảm thấy bàn tay tía nuôi tôi sờ soạng đặt lên vai tôi và từ trên vai tôi, bàn tay to lớn ấy dần dần mò xuống nắm chặt bàn tay tôi.

- Cám ơn con. Tía cám ơn con!

Con Luốc sấn vào bên chân chúng tôi, vướng không đi được. Tôi co chân tống nó một cái, nó mới chịu lui ra. Tiếng súng moóc-chê trong đồn bắt đầu bắn ra, nổ ầm ầm vào những khu rừng chìm kín trong đêm. Nghe tiếng súng bắn nhiều chừng nào, tôi càng khoái chừng nấy.

-Vì thù mà phải báo, chứ tía đâu màng tới chuyện giết một con đàn bà!

Đột nhiên, tôi bỗng có cảm giác như mình đang nghe câu nói ấy vẳng ra từ một câu chuyện cổ xa xưa nào.
 
Chương 015

Chỉ trong vòng không đầy hai tháng, mà đã có hai tên Việt gian gián điệp lợi hại và một thằng Pháp bỏ mạng vì tên tẩm thuốc độc. Thứ vũ khí thô sơ thời Trung cổ, lặng lẽ từ trong cành xanh phóng ra, đem lại cái chết bất thình lình không phương cứu chữa - sự việc ấy đã gieo vào đầu óc bọn giặc đang cầm những khẩu súng hiện đại trong tay một nỗi khiếp đảm khôn lường.

Càng sợ, chúng càng lồng lộn lên một cách dữ dội để tự trấn tĩnh và động viên tinh thần bọn ngụy. Chúng đưa thêm tới ba tiểu đoàn, mở những cuộc càn quét báo thù liên miên khắp các vùng rừng chung quanh. Những ngôi lều của thợ đốn củi ở tít mãi trong rừng sâu cũng bị chúng mò tới đốt trụi. Chúng bắt dân phải dỡ nhà về ở chung quanh đồn để làm vòng rào người, và đóng thêm bốn lô-cốt ở mấy nơi hiểm yếu dọc bờ sông. Ngôi lều của tía nuôi tôi cũng đã làm mồi cho ngọn lửa của giặc Pháp. Cả nhà chống thuyền sống lay lắt qua ngày trong các vùng đầm lầy và trong các khu rừng ngập nước.

- Đành phải đi về vùng U Minh hạ thôi, ông à!

Một hôm má nuôi tôi thở dài, bàn với tía nuôi tôi như vậy. Bà ngồi trong mui thuyền chật chội, nhìn ra những làn mưa trắng tuôn mù mịt xuống ngàn xanh, chậc lưỡi.

- Chỉ lo cho hai thằng bé. Dầm mưa dãi nắng thế này, rủi chúng ốm đau nằm xuống thì lấy gì mà thang thuốc!

- Mười mấy năm trời, quen thuộc ở đây, tôi không nỡ bỏ đi...

Tía nuôi tôi đáp, giọng rầu rầu.

- Nhà ở đâu tức quê hương ở đó. Vậy trước kia thì ông và tôi ở đâu? Ông sao câu nệ quá vậy? Tôi vì hai đứa nhỏ... chứ không, tôi cứ mặc cho ông muốn ra sao đó thì ra...

Tía nuôi tôi không đáp. Ông ngồi cầm cái tẩu dài quăn queo, gõ gõ thành tẩu vào gót chân, thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn một vài giọt mưa từ trên mui lá rơi lộp độp xuống giữa khoang thuyền ẩm ướt. Đêm hôm đó, chúng tôi chống thuyền ra sông. Cả gia tài chúng tôi, ngoại trừ mấy cái nồi cái niêu và một ít quần áo cũ, thì chỉ còn có mỗi chiếc thuyền này thôi. Lúc ngang qua chỗ ngôi mộ Võ Tòng, tía nuôi tôi dừng thuyền lại, bước lên bờ. Thằng Cò sợ ma, ngồi sát vào bên má, lại còn ôm thêm con chó vào lòng. Tôi bước lên theo tía nuôi tôi. Trong bóng tối lờ mờ, dưới vòm trời ảm đạm le lói một vài ngôi sao xa lắc, ông đang ngồi phệt bên nấm mộ, đầu cúi xuống, bàn tay lơ đễnh đưa đi đưa lại nhổ những cọng cỏ dưới chân. Nghe tiếng chân giẫm sột soạt trên cỏ ướt, tía nuôi tôi ngước lên nhìn và vẫy tay ra hiệu cho tôi ngồi xuống bên ông.

-Tôi và thằng cháu lên từ biệt chú nó đây!

Tía nuôi tôi ngó vào ngôi mộ nói bằng giọng mũi ngạt ngạt.

- Tôi chỉ dùng được có một mũi tên trong số hai mươi chiếc chú đã trao cho tôi... Nhưng tôi chắc rằng dưới suối vàng, chú đã có thể ngậm cười mà yên nghỉ...

Dứt khoát tôi không tin rằng người chết có linh hồn. Nhưng cái giọng trầm trầm của tía nuôi tôi đang nói với ngôi mộ, đồng thời tôi chợt nhớ lại bàn tay vuốt cặp mắt trừng trừng khiến cho đôi mắt khép lại, chính con người ấy đã nằm xuống dưới đất ngay trên chỗ tôi đang ngồi đây, việc ấy đã làm cho tôi thấy rờn rợn. Tía nuôi tôi dặng hắng mấy tiếng rồi quay sang tôi:

- Thằng An có nhớ con vượn bạc má của chú Võ Tòng không?

- Á, nó đâu rồi, tía?

Tôi hỏi lại ông như vậy, chứ tôi đã đinh ninh là nó chết trong trận cháy rừng rồi.

- Con vật ở rừng còn có nghĩa, huống chi con người. Hôm Tây đốt rừng, chú Võ Tòng đi vắng, buộc nó ở lều. Nó bứt xích chạy thoát được. Người ta trông thấy một đoạn xích bị giật đứt, còn lủng lẳng ở cổ nó mà đoán ra như thế... Sau đó nó trở về ngồi trên nền cũ, không ăn không uống gì rồi chết rũ xương ở đó. Có người qua ngang đấy, về thuật chuyện lại cho tía nghe, con ạ.

- Hôm tía với con từ trong rừng chống xuồng về, có qua ngang đó. Lúc bấy giờ nó chưa về, tía nhỉ? Giá nó về thì mình gặp nó rồi.

Tía nuôi tôi đứng dậy thở dài, rồi bảo tôi xuống thuyền. Ông còn quay lại, lom khom nhặt hòn đất đặt lên ngôi mộ rồi mới bước theo tôi. Nước mỗi ngày một chảy xiết, và dòng sông càng đi tới càng mở rộng mênh mông. Đứng trước mũi thuyền chèo cập bờ bên này mà nhìn sang bờ bên kia, chỉ thấy một vệt dài xanh thẫm của rặng dừa nước lờ mờ trên đầu ngọn sóng. Chúng tôi đi ròng rã ba ngày ba đêm, chỉ trừ những lúc phải dừng lại thổi cơm ăn, còn thì cứ luân phiên nhau chèo. Mấy hôm liền, trời vẫn nắng gay gắt. Mặt sông lao xao phản chiếu ánh mặt trời như một dòng thủy ngân cuồn cuộn trôi về hướng biển. Mây đen từ chân trời đùn lên, vẩn hình mặt quỷ, rủ nhau quần tụ một chỗ không chịu bay đi. Rồi dông kéo tới ào ào, mưa như trút nước xuống như thác đổ hơn một ngày đêm. Sóng gầm thét không lúc nào ngớt. Chúng tôi phải chui thuyền vào núp trong một rạch lá dừa nước um tùm, chờ cho dứt cơn mưa dữ mới quay ra sông chèo đi.

Một buổi chiều, tía nuôi tôi cho thuyền cập lại bên ngôi quán lá cất nhoai ra bờ nước. Chúng tôi buộc thuyền vào trụ sàn cầu, nơi đã có hai chiếc tam bản lớn của những ông khách ngồi trong quán cắm sào đỗ lại đó từ bao giờ. Thấy có người đến, họ ngóng cổ ra nhìn rồi lại quay vào tiếp tục cuộc rượu bày trên chiếc bàn tròn giữa quán. Tía nuôi tôi rướn người bước lên sàn cầu lát toàn bằng những cây mắm nhỏ. Cứ mỗi bước ông đi tới, những cây mắm lại kêu lắc rắc dưới chân. Con Luốc lập tức phóng lên theo. Tôi gọi "Luốc! Luốc!" và lấy cớ đuổi theo giữ con chó để nhảy lên theo nó. Một con kỳ đà bị trói chặt bốn chân bằng sợi dây thép, nằm khoanh gần chỗ cửa. Con Luốc xô tới, chồm chồm vào con kỳ đà sủa váng lên. Bấy giờ, ba người khách rượu mới quay ra, gật gù, vẻ như muốn chào làm quen với tía nuôi tôi. Một ông cụ già cởi trần, râu quăn queo, vận xà-rông đen, đầu bịt khăn lụa đỏ, người cao lớn như tía nuôi tôi, đứng lên cất giọng ồm ồm:

- Chào ông bạn!

Hai người đàn ông kia hơi có tuổi, gầy gò, đầu cạo trọc như nhau, mỗi người vận một cái khố nhuộm màu vỏ cây. Họ giống nhau một cách rất buồn cười, chỉ khác là một người thì cao quá, còn một người lại thấp quá. Cả hai cùng đứng lên gật đầu chào tía nuôi tôi. Tía nuôi tôi đứng lại nhìn họ một lát rồi bỗng nhiên ông chếch cánh tay phải lên, tay trái áp vào ngực, nghiêng người tới trước, nói cách trịnh trọng:

- Kính chào các ông bạn!

Ba người kia vội vã cùng một lúc đưa tay lên chào đáp lễ y như kiểu chào của tía nuôi tôi. Tôi đứng ngớ ra nhìn, ngạc nhiên quá đỗi. Về sau, mới biết đó là lối chào ra mắt của các phường săn cá sấu khi gặp nhau muốn tỏ tình thân. Chủ quán là một ông già lùn tịt, lật bật như con rối, từ sau bếp chạy ra, vác một gộc cây đặt xuống cạnh bàn rượu, giọng lăng xăng:

- Mời ông khách! Mời ông ngồi xuống đây!

Mùi thịt nướng từ trong bếp bay ra khét lẹt. Và khói cũng từ trong cái bếp lò thấp thoáng sau quầy rượu cuồn cuộn bay ra, như làn khói đốt đồng cỏ tháng tư.

- Cháy miếng thịt mất rồi!

Tôi vội kêu lên, và thản nhiên không chú ý tới mọi người ngồi đó, cứ đi thẳng một mạch vào bếp. Tôi cầm cái que cời dập bớt than, rồi trở gắp thịt đặt lên nướng phía bên còn chưa chín.

- Để đó cho qua, chú em!

Ông chủ quán chạy vào, vừa nói líu ríu bằng giọng khen ngợi vừa với tay cầm chai rượu dựng bên cạnh lò. Tôi đáp cách bình thản, nhưng cũng rất tự hào:

- Cháu giúp bác một tay, được mà!

Rồi tôi mỉm cười một mình, chợt nhớ tới "thằng bé hầu rượu" trong quán dì Tư Béo. Ông cụ già bịt khăn lụa đỏ đỡ lấy chai rượu trên tay chủ quán, rót đầy vào một cái bát lớn đặt giữa bàn mà họ đã uống vơi gần quá nửa.

- Kính mời ông bạn! Làm một hớp cho ấm bụng. Chẳng hay ông bạn từ đâu tới?

Tía nuôi tôi đáp, giọng từ tốn:

- Tôi là người vùng U Minh thượng... Giặc Pháp đã vào tới đó. Nay lênh đênh phiêu giạt... Còn chưa biết về đâu.

Hai người đàn ông đầu cạo trọc đưa mắt nhìn nhau. Tía nuôi tôi bưng bát rượu lên nhấp một hớp; chừng như đoán ra ý họ, ông đặt bát rượu xuống bàn, nói chậm rãi:

- Phải, tôi là người U Minh thượng. Nhưng nguồn cội tận xứ Tiền Giang kia. Thuở còn trẻ tráng, tôi cũng đã lặn lội nhiều năm trong nghề hạ bạc. Nghèo như chiếc lá rụng xuống dòng sông, nước trôi tới đâu mình theo tới đó. Bấy nay tôi theo nghề rừng, chẳng qua cũng vì mưu sinh theo hoàn cảnh, chuyện đó có chi là lạ...

Người đàn ông thấp lùn tức thời đứng phắt dậy, dang tay ra ôm tía nuôi tôi, cười ha hả:

- Vậy thì huynh ông neo lại khúc này, trở về nghề cũ, chúng ta hiệp nhau làm ăn, được chứ?

Tía nuôi tôi cười cười, chưa đáp ra sao. Tôi giúp ông chủ quán dọn thịt nướng ra bàn và gọi thằng Cò lên xem ông giết thịt con kỳ đà. Tôi cứ chạy ra chạy vào, khi thì quạt lửa, khi thì lấy tí muối ớt, khi thì rót thêm mỡ rái cá vào đĩa thịt tự tôi tìm thấy trong bếp và mang ra bàn rượu. Tôi cảm thấy mình bận rộn nhưng vui vẻ như thằng bé hầu rượu trước kia. Chẳng mấy chốc mà họ đã uống cạn hai lít rượu, thứ rượu ngon nhất mà ông chủ quán bảo chỉ để dành riêng cho khách quen sành sỏi. Rượu vào thì lời ra. Họ nói đủ thứ chuyện về sông nước, và trong câu chuyện đã bắt đầu xưng hô anh anh chú chú cởi mở thân mật. Dường như ba ông khách rượu ấy và tía nuôi tôi là những người bạn cũ, xa nhau lâu ngày, giờ mới tình cờ gặp lại vậy. Khi biết ông bạn phương xa vừa tới có "bà nội tướng" đang thổi cơm dưới thuyền, ông cụ già bịt khăn đỏ bèn trịnh trọng bước ra sàn cầu, chắp hai tay trước ngực hướng vào mũi thuyền, sửa giọng kính cẩn:

- Chẳng mấy thuở được gặp anh Hai... Xin kính mời chị Hai quá bước lên quán, dùng một chén rượu mọn với anh em chúng tôi.

Má nuôi tôi "cám ơn" và từ chối năm lần bảy lượt không xong, đành phải đội khăn bước lên quán. Món thịt kỳ đà nấu ca-ri nước cốt dừa cũng vừa bưng dọn ra bàn bốc khói thơm lừng. Cả gia đình chúng tôi, ba ông phường săn kỳ dị và ông chủ quán lùn tịt cùng ngồi vào bàn, dùng bữa cơm tối một cách hết sức vui vẻ. Cả con Luốc cũng có phần một bát thịt to tướng trộn cơm nguội mà ông chủ quán đã có "nhã ý" dọn riêng cho nó trước sàn cầu.

- Bao giờ giặc tấn công tới đây, chúng ta sẽ liệu. Còn bây giờ, làm nghề cứ lo làm nghề. Còn phải nghĩ tới miếng sống chứ. Tôi nói vậy, liệu có phải không chị Hai?

Người đàn ông cao lêu nghêu bắt đầu làm quen với má nuôi tôi bằng câu mở đầu ấy. Người đàn ông thấp lùn vội nói tiếp theo:

- Ắt chị Hai vui lòng để anh Hai cùng đi làm ăn với chúng tôi chứ?

Má nuôi tôi cầm bát lên tay, nhìn tía nuôi tôi:

- Xin các chú hỏi ông nhà tôi. Chứ tôi là phận đàn bà!

Ông chủ quán ngứa miệng, vung hai tay lên:

- Chị Hai còn theo xưa quá. Người ta nói nhất vợ nhì trời mà!

Mọi người đều cười, khiến ông chủ quán cứ xoay quanh hết nhìn người này đến nhìn người khác, lắc la lắc lư ra vẻ đắc chí với câu pha trò của mình lắm. Không biết có phải vì có mặt má nuôi tôi mà các ông già trở nên lịch sự, vui vẻ và hoạt bát hẳn lên không? Ông cụ già bịt khăn đỏ hỏi má nuôi tôi một cách khoan thai:

- Ngày xưa, chị Hai cũng theo nghề câu chứ?

Má nuôi tôi lắc đầu:

- Tôi sợ lắm. Chỉ có ông nhà tôi thôi. Tôi chỉ câu lòng tong cá chốt, chứ thứ đó tôi sợ lắm!

Người đàn ông cao lêu nghêu nhếch mép cười, bàn tay đưa lên gãi gãi cái đầu trọc nhẵn thín:

- Nói không phải phô phang với chị Hai và các anh tôi đây, chứ thuở mười ba mười bốn tuổi, tôi đã theo ông nội tôi đi bắt cá sấu như bắt cá lóc rộng trong khạp vậy thôi. Vào mùa khô, chúng tôi lội vào rừng cỏ, men theo những cái bàu giữa rừng tìm cá sấu. Hồi đó, cá sấu còn nhiều lắm. Bàu nào cũng có. Không nhiều thì ít. Tệ lắm cũng năm bảy con trở lên. Bà con quen gọi là ao cá sấu. Chọn được ao sấu nào có nhiều sấu hoa cà rồi, chúng tôi mới phát sậy, phát cỏ rũ xuống phơi nắng vài ngày cho khô. Dùng thuổng đào một đường nhỏ từ mé ao lên rừng, càng xa bờ càng cạn dần, chừng mươi thước. Sau đó mới ôm sậy, cỏ khô thả xuống cho phủ kín mặt bàu và ném lửa đốt cháy...

Thằng Cò buột miệng hỏi:

- Cho sôi nước, cá sấu chạy lên bờ phải không chú?

- Cậu em này đoán gần đúng! Nhưng không phải vậy đâu. Nước lênh láng cả bàu, làm gì sôi được? Ừ, mà nếu mình thả bổi khô xuống thật dày, thả liên tục, đốt nóng nước thì nó cũng có thể chạy lên... Thả bổi xuống rồi, mình ném lửa đốt cháy. Khi lửa tắt thì mặt bàu đã bị phủ kín dưới một lớp tro dày chừng hai ba đốt tay. Cá sấu trừng lên thở thì bị tro cay mắt, trầm lâu thì ngạt, mà hễ bị tro cay mắt là y như trự ta đập đuôi chạy chạy lên bờ tức khắc. Mà không phải chạy lung tung đâu. Chúng nối đuôi nhau trườn theo con đường mương đào sẵn, bò lên rừng. Thấy người, con nào cũng há họng ra, toan đớp. Ông nội tôi bèn đút vô họng nó một khúc gỗ mớp, dài chừng ba tấc. Nó liền táp phậm một cái, hai hàm răng dính chặt lại như ngậm cục kẹo mạch nha, không há ra được. Tôi lập tức cầm mác xắn trên sống lưng, chỗ giáp chân sau, để cắt gân đuôi. Cái đuôi chỉ còn có nước đập qua đập lại nhè nhẹ, như đuổi ruồi, chứ còn quật nổi ai? ông cháu tôi bèn lấy dây lạt dừa trói thúc ké hai chân sau lên lưng, còn hai chân trước thả tự do. Khớp mõm xong rồi, bỏ đấy, bắt con khác... Ui chao!... Ui chao! Có bàu, chúng tôi bắt vài chục con trong một ngày. Cứ ba con thì dùng bốn đoạn tre buộc xâu lại một hàng ngang, như kiểu ta cặp gắp nướng chả. Rồi lấy hai cây tre dài kiền tất cả, xếp dính liền thành một dọc dài, hướng đầu chúng nó tới trước. Sau đó mới phát sậy, dọn một đường như đường cộ trâu từ bàu chạy thẳng ra bờ sông nào gần nhất. Thế là hai ông cháu tôi nhảy lên đứng giữa lưng bầy quỷ sứ đó, mỗi người cầm một cây mun quơ quơ đập vào hai cây tre dưới chân, hét lên. Chúng nó cứ theo đường dọn trống ấy, kéo nhau đưa nguyên đàn, bò ra bờ sông. Bao giờ cũng có thuyền lái mua chực sẵn ở đó. Gặp khi chẳng có lái mua thì mình chịu khó tháo ra, khiêng từng con bỏ xuống thuyền của mình, chở đi bán... ấy, ngày xưa chúng tôi săn cá sấu dễ ợt như vậy đó, anh Hai chị Hai ạ!

Tía nuôi tôi ngồi nghe chăm chú. Chắc câu chuyện của người phường bạn vừa kể đã gợi lại trong ông những ngày mình còn là anh thợ câu lận đận ở mạn Tiền Giang. Chẳng vậy mà ông đã chống hai khuỷu tay lên mặt bàn, hai bàn tay to lớn ngửa ra đỡ lấy cằm, mặt đăm chiêu hồi lâu:

- Ở vùng tôi, bắt được một con cá sấu có khi phải mất vài ba con vịt sống làm mồi. Nhiều công mà cũng tốn kém. Dạo đó, năm nào trên Biển Hồ hoặc Nam Vang cũng chở cá sấu về bán ở các chợ tỉnh dọc sông Cửu Long, hết bè này tới bè khác. Hàng trăm con một chuyến bè. Thịt cá sấu bé trên ấy trắng lắm, lại giòn, mùi thơm ngon như thịt gà, bán cũng rẻ. Mình lâu lâu mới bắt được một con, cốt lấy tấm da, chứ thịt bán chẳng đặng mấy đồng tiền... Tranh nhau không lại với giá thịt cá sấu trên Biển Hồ chở xuống, nhiều lúc thua, buồn cũng chẳng thiết nữa.

Ông già bịt khăn đỏ bưng tô rượu lên uống một hớp, đưa mu bàn tay quệt ngang mép, khà một tiếng sửa giọng:

- Bọn chúng tôi ở đây không câu vịt mồi. Nhưng cũng tốn kém đấy. Vì câu đèn mà! Lại phải trầm mình dưới nước, neo người cả đêm. Nhưng bắt được con nào là đáng tiền con nấy, anh Hai ạ! Chỉ lo cái thời buổi khó khăn, ba thằng giặc Pháp khốn kiếp nó có chịu để yên cho người ta làm ăn đâu!

Người đàn ông đầu trọc cao lêu nghêu rướn cổ lên như con kỳ đà, hỏi tía nuôi tôi:

- Anh Hai có quyết ở lại đây với bọn tôi không? Tại ngã ba Bàn Cùi, gần năm nay cá sấu biển về nhiều lắm. Có con to gần bằng chiếc ghe lườn. Nhờ đất đai âm trạch, cho anh Hai trúng mươi chuyến câu thì lo gì chẳng kiếm được cái vốn kha khá!

Tía nuôi tôi còn giọng phân vân:

- Bỏ nghề cũng lâu... Tôi e nhát tay!

Ông già bịt khăn đỏ tức thời cầm chai rượu giơ lên:

- Sông lạ đãi người câu mới. Anh em chúng tôi sẽ tiếp giúp cho mượn đồ nghề. Anh Hai khứng chứ?

Tía nuôi tôi đưa mắt nhìn sang má nuôi tôi. Má nuôi tôi chỉ nói cách lơ lửng:

- Cái đó tùy ông!

Tía nuôi tôi cầm chai rót một nhểu rượu vào lòng bàn tay to lớn của mình, chìa ra giữa bàn. Ba bàn tay của ba người phường săn cá sấu lần lượt đập lên nghe bách... bách... Thế là tía nuôi tôi đã nhập phường rồi đó.

* * *

Chiếc thuyền to đang cưỡi sóng tiến vào mỗi lúc một gần bãi. Tía nuôi tôi mình trần, quấn khố, miệng ngậm cái tẩu dài quăn queo, khói thuốc lá từ trong nõ tẩu cứ phùn phụt bay tạt về phía sau. Ông già Tư bịt khăn đỏ cũng mình trần, vận chiếc xà-rông đen, đứng trước mũi thuyền cạnh tía nuôi tôi. Càng vào gần đến bãi, ông già Tư càng huơ tay huơ chân, tỏ vẻ rất đắc chí. Người đàn ông đầu trọc cao lêu nghêu thì đứng chèo sau lái. Trên chót ngọn sào dài cắm vào một lỗ cột chèo, có buộc lá cờ đỏ hình đuôi nheo bay lất phất.

- Được con cá sấu khá to, bà con ơi!

Ông già bắt tay lên mồm gọi vọng vào xóm nhà trên bờ. Những người lố nhố đứng trên bờ và đám trẻ con phường chài đang chơi xếp vỏ ốc cạnh mấy người đàn bà vá lưới vụt reo lên, rối rít chạy xuống bãi.

- Sửa soạn chia thịt nghe, bà con!

- Đã kiếm được rượu chưa, mà toan chia thịt!

Vài người xắn quần lên tận bẹn, chạy tất tả ra ngoài mé nước. Mấy người đàn bà vá lưới cũng buông gai buông nhợ bỏ đấy, chạy ùa ra bãi. Chiếc thuyền trườn mũi lên bãi cát, để lại những đám bọt sóng trắng nháo nhào chạy lùi ra sau lái. Người trên thuyền chưa kịp quăng dây xuống thì bọn con nít đã trèo phốc lên be rồi. Ôi chao, con cá sấu to quá! Mình dài có tới hơn năm mét. Chỗ quãng bụng giữa, ước chừng một vòng rưỡi tay người lớn ôm mới giáp. Cái mõm dài sọc, đầy răng chơm chởm của nó đã bị khớp chặt lại bằng một sợi dây thép. Hơn hai tháng nay, riêng tía nuôi tôi đã bắt được mười hai con rồi. Thường thì da cá sấu màu xanh rêu pha bùn mốc, dưới lườn bụng hơi trắng, khắp mình trên mọc gai, có chỗ vằn hoa lốm đốm. Con cá sấu này, màu da xám ngoét như da cây bần, gai lưng mọc chừng ba đốt tay, trông rất dễ sợ. Cái đuôi dài - bộ phận khỏe nhất của con vật kinh khủng dùng để tấn công đã bị cắt gân, trói xếp vào một bên mạn sườn. Bốn chân cũng bị thít chặt vào cái đuôi hoàn toàn mất tác dụng ấy. Con cá sấu hung tợn nằm im như chết giữa lòng thuyền.

Mọi người xúm lại, dùng đòn buộc dây da trâu khiêng con cá sấu vừa đánh được, đưa lên bãi. Phải có đến mười hai người đàn ông lực lưỡng mới khiêng nổi nó và đưa vào tới bờ. Má nuôi tôi cũng đi theo tốp người khiêng. Những người đàn bà lăng xăng ngã giá mua nguyên cả con cá sấu cứ bám sát bên má nuôi tôi. Mấy chị phụ nữ tre trẻ trong xóm cũng xoắn theo chân má nuôi tôi, người nào người nấy đều sẵn sàng dao rổ, chia phần thịt mang đi bán. Thằng Cò dắt con chó đi mua rượu về, thấy bố còn ngồi trong bóng thuyền dựa bãi với các ông bạn phường săn bèn chạy vù đến vứt phịch chai rượu xuống cát rồi quày quả chạy đuổi theo đám người nhốn nháo đằng kia.

- Khi tôi phóng mũi lao trúng con cá sấu này, thì tôi nghe đằng xa nước động dữ dội. Chắc còn một con nữa to hơn. Nhất định là sấu cặp!

Tía nuôi tôi nói xong, còn tặc lưỡi mấy tiếng ra bộ tiếc rẻ lắm. Ông già Tư ghé vào tai tía nuôi tôi:

- Sắp hết mỡ rồi! Không biết tìm đâu ra bây giờ?

Tôi rất sợ cái "đèn nghề" của tía nuôi tôi. Người ta đồn rằng: đèn ấy đốt bằng mỡ người. Cá sấu bắt hơi đèn từ xa lắm. Nó rất thèm thứ mỡ cháy này. Hễ ngửi mùi là nó bơi tìm đến tức khắc. Theo như lời ông già Tư, thì những tay phù thủy giang hồ người Mã Lai vượt vịnh Thái Lan đưa thứ mỡ ấy sang bán. Giá rất đắt! Tôi nghĩ: Mỡ nào mà không cấu tạo chủ yếu bằng thành phần chất béo? Mỡ lợn không được à? Tại sao phải dùng đến mỡ người một cách man rợ như vậy? Có lần, tôi đã chất vấn tía nuôi tôi về thứ "đèn nghề" khủng khiếp ấy. Tía nuôi tôi nói:

- Đó là thói tục cổ lỗ, mê tín dị đoan. Người xưa thấy cá sấu hay ăn thịt người, tưởng dùng mỡ người tất dễ câu nó, chứ chắc gì đã là mỡ người thật.

Tía nuôi tôi đã nhiều lần kể cho thằng Cò và tôi nghe rành rọt về nghề săn cá sấu. Tôi nghe đến thích mê. Nhưng có nghèo, thà bắt con tôm con tép ăn, chứ tôi chẳng dám theo cái nghề nguy hiểm này. Săn cá sấu thường phải chọn những đêm tối trời. Nhất là những ngày nắng to, có trận mưa vừa tạnh, gió chỉ hơi rao rao mát gợi làn da, khí trời vẫn còn thấp và nặng. Mặt sông rộng mênh mông, phẳng lặng như mặt hồ. Tía nuôi tôi người trần, chỉ quấn cái khố nhỏ, hai cánh tay cặp trên hai ống tre bè buộc chặt hai đầu bằng dây thép. ông trầm mình dưới nước, chỉ ló người từ phần giữa ngực lên trên. Cứ thế, thả trôi đi. Hai chân thỉnh thoảng quạt nhè nhẹ, lái cho bè xuôi đứng giữa lòng sông. Cá sấu chỉ gắp người bơi ngang, hoặc dùng đuôi quật ngã người ngồi trên xuồng cho rơi xuống nước rồi gắp chạy đi, chứ chúng khó gắp được người bơi đứng. Tay phải tía nuôi tôi cầm một cây lao bằng gỗ mun. Gỗ mun kỵ thịt cá sấu. Đâm vào thịt con cá sấu, cây mun cứ hút sâu vào, làm con vật nhức buốt không chịu nổi. Cán lao buộc vào một đầu dây, phải biết lòng sông sâu bao nhiêu sải nước mà sắm sợi dây cho vừa đủ, không thừa quá mà cũng không thiếu quá. Dây thừa quá thì phải mất công lặn xuống kiếm lâu mới gặp con cá sấu trúng thương, mà dây ngắn quá thì nó kéo phao chìm dưới nước, chẳng biết đâu mà mò. Đầu kia sợi dây buộc vào một cái phao bằng gỗ mớp. Phải khoanh sợi dây cho khéo, để khi con cá sấu lôi dây chạy, sợi dây cứ xoay vòng tự động tháo ra, không vướng.

Trên phao kiền chặt cây đèn nghề, tựa như cái đĩa sắt con sâu lòng, thả ngọn bấc vào cái đèn "mỡ người" ấy, thắp cháy lên. Lại phải cắm trên phao một cây cờ đỏ, để dễ nhận thấy từ xa (còn có lý do huyền bí nào đó nữa không thì tôi không được biết). Thả cái phao trôi trước mặt người thợ săn chừng hơn một với tay, được giữ cỡ bằng một sợi dây nhỏ. Tía nuôi tôi thả trôi theo nước như vậy, có khi hàng hai, ba giờ liền. Bao giờ ông cũng phải uống một tô nước mắm cốt, để trầm dưới nước lâu không bị nhiễm lạnh. Trong đêm tối mịt mùng, trên dòng sông mênh mông chỉ lấp lóe "ánh đèn thiêng" và đôi mắt sáng ngời của tía nuôi tôi... Đang trôi xuôi, cả người ông bỗng bị xô lùi lại bởi một luồng nước tống lại cực mạnh. Nghe khì... ì... một tiếng, rồi một cái bướu to bằng cái bát trừng lên. Con cá sấu nổi lên, há họng thè lưỡi liếm mỡ cháy trong cây đèn. Nhanh như chớp, tía nuôi tôi nín thở, dồn hết lực vào cánh tay, phóng mạnh cây lao đâm vào giữa họng nó, và lập tức buông phao ra. Con cá sấu trúng thương, đập đuôi ầm ầm, lộn lên lộn xuống, quẫy mạnh làm cho mặt sông nổi dậy sóng cồn. Rồi nó lôi dây, mang phao chạy. Tía nuôi tôi "ì..." một tiếng. Thuyền chèo yểm hộ người thợ săn cá sấu bao giờ cũng theo song song bên bờ, phòng trường hợp bất trắc có thể bị đôi ba con nổi lên tấn công cùng một lúc thì xông ra tiếp ứng. Nghe tiếng "ì..." họ biết đã đâm trúng cá sấu rồi. Thế là thuyền chèo bay ra, đón tía nuôi tôi lên. Con cá sấu chạy đến đâu, dây tháo theo đến đó. Nó cố gắng chịu đau lắm thì cũng chỉ chạy nổi đôi ba nghìn thước là cùng. Rồi dần dần đuối sức, không chịu đau nổi nữa, nó tìm một cái vịnh sâu nào đó, trầm xuống đáy. Sáng hôm sau, hai chiếc thuyền của phường săn chia nhau trèo cặp hai bên bờ để tìm cái phao. Bao giờ người đã phóng cây lao đâm trúng cá sấu cũng là người lặn xuống đáy sông trói nó. Như vậy, mới được hưởng nguyên phần mình cái bao tử của con cá sấu khi mổ ra... Mỗi lần tía nuôi tôi mang vòng dây thép lặn xuống, thằng Cò theo thuyền cứ mếu máo chực khóc. Còn tay chân tôi thì cứ phát run lên. Tía nuôi tôi lặn rất lâu mới trồi lên thở. Rồi lại kéo đôi lặn trở xuống buộc nó, để anh em phường thợ khác trên thuyền kéo nó lên. Thường sau mỗi lần như vậy, tía nuôi tôi bao giờ cũng làm vài hớp rượu cho lại sức. ông đưa bàn tay lạnh móp lên chùi những giọt rượu chảy xuống chòm râu đóng đầy rêu nước xanh lè, ngó tôi và thằng Cò, cười khà khà:

- Hai đứa bay sao cứ khéo lo! Con cá sấu đã bị cây mun đâm, nhức buốt, tê liệt cả mình mẩy rồi. Nó bám sát đáy vịnh, tao lặn xuống sờ đầu nó, nó cũng không dám động cựa. Cứ nằm im, chịu phép cho tao khớp mőm, trói lại. Cây mun đâm vào mắc giữa họng rồi, nó cắn ai được nữa? Càng cựa quậy thì càng đau thôi!

Một cơn gió từ mặt sông bất thình lình thổi thốc vào bờ, khiến cho lá cờ đuôi nheo đỏ buộc trên đầu con sào giật nảy lên, reo vù vù. Tôi ngồi bên tía nuôi tôi và ông già Tư, nhìn xuống dòng sông mênh mông đang cuồn cuộn chảy, hình dung ra những con quái vật kinh khủng đang bơi lặn dưới đó, càng thấy những con người nhỏ bé ngồi quây quần trong bóng thuyền ghếch mũi lên bãi cát đây thật vĩ đại biết bao nhiêu...

"Hỡi thiên nhiên dữ dội và nham hiểm, ngươi hãy coi chừng. Không một sức mạnh nào ẩn chứa trong ngươi mà con người không khuất phục nổi đâu!" Tôi chỉ chực muốn thét lên như vậy. May sao đó chỉ là những ý nghĩ còn nằm trong đầu óc thơ bé của tôi mà tôi chưa thốt ra thành lời được. Không thì có lẽ ông già Tư và tía nuôi tôi sẽ cho là tôi phát rồ cũng nên.
 
×
Quay lại
Top