Chuyện xảy ra trên con tàu tốc hành Phương Đông

Chương XII: Lời khai của cô hầu gái người Đức

Ông bạn ơi, - ông Bouc nói, lần này tôi thật tình không hiểu ông.
- Tôi cố ý tìm một kẽ hở...
- Một kẽ hở ?
- Phải... trong thái độ cô Debenham. Tôi muốn cô ấy mất bình tĩnh. Tôi không hiểu có thành công không? chắc có lẽ cô ta không ngờ đến những câu hỏi của tôi.
- Ông nghi cô Debenham à ? ông Bouc hỏi tại sao ? Cô ta dễ thương đến thế thì không thể nào dính líu đến vụ án được !
- Đó cũng là ý kiến của tôi, bác sĩ Constantine nói... một người lãnh đạm, bình tĩnh như cô Debenham.
- Sẽ lôi kẻ thù của mình ra trước tòa thay vì giết nó.
Poirot thở dài:
- Các ông phải loại bỏ ý nghĩ vụ án xảy ra vì tức giận đột ngột. Về phần cô Debenham thì tôi có hai lý do để nghi ngờ cô ấy. Một là câu chuyện tôi đã nghe lỏm được giữa cô ta và ngài đại tá Arbuthnot.
- Poirot kể lại cho họ nghe câu chuyện ông đã nghe được sau khi tàu khởi hành từ Alep.
- Sự trùng hợp kỳ lạ này và cần phải được giải thích, ông Bouc nói. Tất cả câu chuyện cho thấy họ có thể là đồng lõa.
- Vâng, nhưng những dữ kiện lại trái ngược lại. Thật vậy, nếu hai người này là đồng lõa thì họ phải làm chứng cho nhau chứ. Vậy mà, sự thật chẳng có gì đã xảy ra ? Bà Thụy Điển lại là người làm chứng cho cô Debenham. Ta phải nhớ rằng cô Debenham và bà Ohlson chẳng hề quen biết nhau trước đây. Anh chàng Mac Queen thư ký của nạn nhân lại là người làm chứng cho Arbuthnot. Hai người này cũng không hề quen biết nhau.
- Ông vừa nói đến hai lý do để nghi ngờ cô Debenham vậy lý do thứ hai là gì ? ông Bouc nôn nóng hỏi.
- Lý do thứ hai hoàn toàn có tính cách tâm lý. Vụ án mạng này đã được dự tính và sửa soạn do một bộ óc thông minh, minh mẫn và bình tĩnh. Cô Debenham có tất cả những đức tính này.
- Ông đi lầm đường rồi. Cô gái trẻ người Anh này không có dáng dấp của một tên sát nhân.
- Nào chúng ta hãy hỏi người cuối cùng trong danh sách. Cô bồi phòng Hildegrade Schmidt.
Người hầu trưởng đi gọi cô Hildegrade Schmidt đến. Cô ta vào với thái độ kính cẩn. Poirot mời cô Schmidt ngồi.
Hai tay đặt trên đùi - Hildegrade Schmidt có vẻ đẹp và thông minh.
Cách làm việc của Poirot khác hoàn toàn với cách ông dùng với Mary Debenham, vui vẻ và săn đón, Poirot tạo cho Schmidt một sự thoải mái. Sau khi đã cho cô viết tên và địa chỉ. Poirot hỏi cô ta bằng tiếng Đức.
- Chúng tôi muốn biết về những biến cố đêm qua. Lẽ dĩ nhiên là chúng tôi không đòi hỏi cô cho biết về vụ án. Nhưng rất có thể cô đã nghe hay thấy một cái gì, dưới mắt cô không đáng chú ý, nhưng lại quan trọng đối với chúng tôi. Chắc cô hiểu ?
Hildegrade Schmidt có vẻ không hiểu. Cô ta nói:
- Thưa ông, tôi không biết gì hết.
- Nào, cô còn nhớ là bà chủ đã gọi cô đêm qua chứ ?
- Vâng, việc đó thì tôi nhớ.
- Khoảng mấy giờ ?
- Tôi chẳng biết, tôi đang ngủ thì nhân viên tàu hỏa đến gọi tôi dậy.
- Chủ cô có hay gọi cô ban đêm không ?
- Từng có. Bà công chúa thường cần đến tôi ban đêm. Bà ấy ít ngủ lắm.
- Như vậy là cô đã dậy, khi nhân viên đến gọi cô. Cô có khoác áo ngoài không ?
- Thưa ông. Tôi đã mặc đồ sẵn. Tôi đâu dám mặc áo khoác trước mặt công chúa.
- Nhưng áo khoác của cô rất đẹp mà, cái áo khoác bằng soa đỏ phải không nhỉ ?
- Xin lỗi ông, áo của tôi bằng len xanh đậm.
- À, thôi, cô cứ tiếp tục đi. Tôi đùa đấy. Cô đã đến phòng công chúa Dragonmiroff. Cô đã làm gì ở đó?
- Tôi xoa bóp cho bà thưa ông. Sau khi tôi đọc sách cho bà nghe. Tôi đọc dở lắm, nhưng công chúa nghĩ rằng như vậy giúp cho bà dễ ngủ hơn. Thấy mình sắp ngủ, công chúa đã cho tôi về phòng.
- Cô biết lúc đó mấy giờ không ?
- Tôi không rõ, thưa ông.
- Cô ở trong phòng công chúa Dragonmiroff bao lâu ?
- Khoảng nửa tiếng. Rồi sau đó. Vì công chúa lạnh, mặc dù đã có máy sưởi trên toa, tôi đã đi về phòng lấy thêm mền đắp cho bà. Bà đã chúc tôi ngủ ngon. Tôi pha cho bà một ít nước suối, tắt đèn và về phòng.
- Sau đó ?
- Hết rồi, thưa ông. Tôi lên gi.ường và ngủ.
- Cô có gặp ai ở hành lang không ?
- Không thưa ông, chẳng có ai cả.
- Cô không thấy một bà mặc áo choàng đỏ có thêu những con rồng à ?
Hildegrade Schmidt trố mắt nhìn Poirot:
- Không, thưa ông, không có ai ở hành lang, trừ nhân viên tàu hỏa thôi ạ. Mọi người đã ngủ.
- Cô đã trông thấy nhân viên phục vụ à ?
- Thưa vâng.
- Anh ta đang làm gì ?
- Anh ta vừa từ một phòng bước ra, thưa ông.
- Phòng nào ? - ông Bouc hỏi một cách đột ngột.Hildegrade Schmidt tỏ vẻ hoảng sợ, Poirot nhìn ông Bouc đầy trách móc.
- Lẽ dĩ nhiên, - ông nói.- Nhân viên thì phải vào phòng này phòng nọ khi có chuông gọi chứ. Cô có nhớ anh ta vừa ra khỏi phòng nào không? Poirot ôn tồn hỏi.
- Tôi mong cô cố nhớ lại xem.
- Anh ta đã đụng phải tôi, thưa ông. Lúc đó tôi mang cái chăn đến cho bà chủ của tôi.
- Anh ta đi từ một phòng bước ra và đụng nhầm cô. Anh ta đi về hướng nào ?
- Anh ta đi về phía tôi thưa ông. Anh ta nói vài lời xin lỗi rồi tiếp tục đi về toa ăn. Ngay lúc đó, có tiếng chuông vang lên, nhưng hình như anh ta không chạy lại. Ngừng một lát, cô nói tiếp, tôi cũng không hiểu anh ta làm gì cả.
Poirot nói giọng hòa giải.
- Nếu anh ta cứ phải chạy đến mỗi khi có tiếng chuông gọi, một mình anh ta sẽ làm không xuễ ! Tội nghiệp anh ta tối qua bận rộn thật, vừa đánh thức cô, vừa phải chạy đến mỗi khi khách gọi.
- Nhưng nhân viên này đâu phải người đã đánh thức tôi. Đó là một người khác.
- A, một người khác? cô đã thấy anh ta bao giờ chưa ?
- Thưa ông, chưa.
- Cô có thể nhận ra anh ta không ?
- Có thể được.
Poirot nói thầm với ông Bouc, ông ta đứng dậy đi ra ngoài cửa và ra lệnh.
- Poirot vẫn tiếp tục hỏi bằng một giọng đầy thiện cảm: cô đã bao giờ sang Mỹ chưa, cô Schmidt?
- Chưa bao giờ thưa ông. Chắc phải là một nước đẹp lắm.
- Chắc người ta đã cho cô biết người đàn ông bị giết tối nay đã giết chết một trẻ em trước đây?
- Thưa ông có. Thật là một vụ khủng khiếp, ác độc. Thượng đế không thể để cho những chuyện như thế xảy ra ở nước tôi, không có người ác độc như thế đâu. Nói đến đây, mắt cô hầu nhỏ lệ.
- Thật vậy, câu chuyện quá khủng khiếp, Poirot nói.
- Ông kéo từ trong túi ra cái khăn tay nhỏ và đưa cho cô hầu.
- Khăn tay này của cô phải không ?
Cô hầu im lặng nhìn chiếc khăn, một lút sau cô ngẩng đầu lên, mặt hơi ửng hồng.
- Thưa ông không. Cái khăn này không phải của tôi.
- Vì có thêu chữ 3 “H” nên tôi nghĩ là của cô.
- Thưa ông cái khăn đẹp như thế chỉ có thể của người giàu thôi. Nó được thêu bằng tay và có lẽ được mua ở Paris.
- Vậy là cô không biết cái khăn này của ai à?
- Tôi ấy à, thưa không.
Chỉ có mình Poirot nhận ra sự do dự của Schmidt.
Ông Bouc thì thầm với Poirot.
- Bà nhân Viên toa kút sét sẽ đến. Poirot nói với cô Schmidt. Cô sẽ cho chúng tôi biết ai là người cô đã trông thấy đêm qua khi cô mang chăn đến cho bà công chúa.
Cô nhân viên hỏa xa bước vào, Pierre Michel đi đầu, sau đó là nhân viên toa kút sét Athènes - Paris và cuối cùng là nhân viên toa tàu Bucarest.
Hildegrade Schmidt lần lượt nhìn ba người và lắc đầu.
- Thưa ông tôi không trông thấy người đàn ông tối qua.
- Nhưng đó là những nhân viên hỏa xa mà ? Nào, cô hãy nhớ lại xem và nhìn kỹ lại đi.
- Tôi xin thề với ông cả ba người này đều không phải. Tất cả ba người đều to lớn, trong khi người đàn ông tôi trông thấy thì bé, tóc nâu và có ria mép. Khi anh ta xin lỗi tôi, tôi để ý đến giọng nhỏ nhẹ giống một giọng đàn bà. Tôi nhớ rõ lắm thưa ông.
 
Chương XIII: Tóm tắt cuộc điều tra

Một người đàn ông nhỏ bé, tóc nâu có giọng nói đàn bà, ông Bouc lập lại khi bà nhân viên và Hildegarde Schmidt ra khỏi phòng.
Ông Bouc tỏ vẻ thất vọng.
- Tôi chẳng còn hiểu gì nữa... kẻ thù của Ratchett có mặt trên tàu này sao? Vậy thì hắn ở đâu? Nào ông bạn hãy nói một cái gì đi chứ! Hãy cho chúng tôi thấy điều vô lý trở thành có lý.
- Một câu độc đáo, Poirot nói - Điều vô lý không thể xảy ra vậy thì nó phải trở nên có lý.
- Vậy thì mau giải nghĩa cho tôi biết việc gì đã xảy ra tối qua trên tàu?.
- Ông bạn thân mến, tôi không phải là phù thủy mà cũng như ông thôi. Vụ này tiến triển một cách kỳ lạ.
- Nó có tiến triển đâu. Chúng ta dậm chân tại chỗ.
- Sao? Chúng ta không có những lời khai của hành khách à ?
- Những lời khai này có giúp ích gì cho chúng ta đâu ?
- Tôi nói hơi quá. Ông sẽ nói là anh chàng người Mỹ Hardman và cô hầu phòng người Đức đã thêm chi tiết cho vụ án. Theo tôi thì họ làm cho nội vụ thêm rắc rối.
- Không, không.
- Vậy thì ông hãy nói đi, Ông Bouc nài nỉ. Chúng tôi nghe đây.
- Tôi vừa nói là tôi cũng chẳng hơn gì ông sao? Nhưng, ít ra chúng ta có thể xem xét những sự kiện, sắp xếp chúng theo thứ tự và phương pháp khoa học nhất.
- Ông làm ơn nói tiếp đi. Bác sĩ Constantine nói.
Poirot hắng giọng và sắp xếp những tờ giấy trước mặt lại.
- Chúng ta hãy xem lại những sự kiện. Mới đầu là nạn nhân Ratchett, còn được gọi là Cassetti, bị đâm 12 nhát dao, đã chết tối qua. Đó là việc hiển nhiên.
- Tôi đồng ý với ông ở điểm này, ông Bouc nói giọng mỉa mai.
Không hề nào núng Poirot tiếp:
- Tôi sẽ không nói đến một vài chi tiết mà tôi và bác sĩ Constantine tìm thấy, những chi tiết sẽ được nhắc lại khi cần thiết. Việc thứ hai, theo thứ tự quan trọng của nó, theo tôi, là thời gian vụ án mạng xảy ra.
- Chúng tôi đã biết rồi, ông Bouc nói. Tất cả đều chứng tỏ là vụ án mạng xảy ra sáng nay vào lúc 1 giờ 15.
- Ta không nên vội vàng, có nhiều việc xác nhận điều này.
- À, ông cũng chấp nhận việc này.
Không chú ý đến câu hỏi của ông Bouc, Poirot tiếp tục:
- Chúng ta có ba giả thuyết:
1. Vụ án đã xảy ra, như chúng ta đã nghĩ, vào lúc 1 giờ 15. Điều này được xác nhận bởi lời khai của bà Hubbard, của cô Hildegrade Schmidt và sau cùng tôi bác sĩ Constantine đây.
2. Vụ án xảy ra trễ hơn, và kim đồng hồ đã được cố tình xê dịch.
3. Vụ án xảy ra sớm hớn và thời gian đã bị thay đổi như trong giả thuyết hai, nhằm đánh lạc hướng cuộc điều tra.
Nếu chúng ta chấp nhận giả thuyết một như là giả thuyết gần sự thật nhất, chúng ta phải chấp nhận hậu quả của giả thuyết một: Nếu vụ án xảy ra vào lúc lgl5 thì sát nhân không thể rời khỏi tàu được. Vậy hắn ở đâu ? và hắn là ai ?
Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn những dữ kiện. Sự hiện diện của người đàn ông nhỏ con, tóc nâu có giọng nói đàn bà lần đầu tiên đã được Hardman đề cập đến. Anh đã cho biết là Ratchett đã nhắc đến người này khi Ratchett nhờ Hardman bảo vệ mình. Nhưng chúng ta có nên tin Hardman không ? Anh ta có thật sự là thám tử của một văn phòng thám tử quan trọng ở New York hay không ?
- Theo tôi, điều làm vụ này hấp dẫn là sự vắng mặt của cảnh sát. Vì chúng ta không thể kiểm tra danh tánh của từng hành khách cho nên chúng ta không thể sử dụng hết sự xét đoán của chúng ta một cách chính xác. Mới đầu tôi tự nhủ: Hardman đi du lịch với thông hành giả và điều này làm anh ta đáng nghi ngờ, ngay sau khi cảnh sát can thiệp vào vụ này, chắn chắc lý lịch của Hardman sẽ được kiểm tra.
- Như vậy, ông hoàn toàn không nghi ngờ Hardman ?
- Đâu có dễ thế. Một thám tử người Mỹ cũng có thể có lý do để giết Ratchett. Tôi muốn nói là chúng ta có thể chấp nhận việc Ratchett thuê Hardman bảo vệ mình là đúng. Hình dạng mà Hildegrade Schmidt đã tả về một người đàn ông mặc đồng phục của nhân viên toa kút sét khớp với người mà Ratchett mô tả cho Hardman. Cái khuy do bà Hubbard tìm được trong phòng chứng minh hai lời khai trên. Và, tôi không hiểu ông có nhận ra điều này không ? Còn có những lời khai khác chứng minh cho điều này.
- Lời khai nào ?
- Của đại tá Arbuthnot và Hector Mac Queen. Cả hai người đều xác nhận là nhân viên tàu có đi ngang qua phòng họ. Họ không hề xem chi tiết trên là quan trọng. Tuy nhiên, các ông hãy suy nghĩ thử xem, theo lời khai của Pierre Michel, những lúc anh rời khỏi chỗ ngồi, anh chưa bao giờ đi về phía cuối hành lang. Phía này có phòng của Arbuthnot và Mac Queen.
- Câu chuyện của người đàn ông tóc nâu, có giọng nói đàn bà và mặc đồng phục nhân viên toa kút sét, dựa vào trực tiếp hay gián tiếp, vào lời khai của bốn người.
- Xin lỗi ông, một chi tiết nhỏ làm tôi thắc mắc, bác sĩ Constantine nói. Nếu lời khai của cô Hildegrade Schmidt đúng, làm sao có thể giải thích là Pierre Michel không trông thấy người mà cô Schmidt đã trông thấy khi anh ta chạy đến phòng bà Hubbard ?
- Chẳng có gì dễ hơn. Khi Pierre Michel chạy đến phòng bà Hubbard, cô hầu đã ở trong phòng chủ mình và khi cô ta trở lại phòng mình thì Michel đã ở phòng bà Hubbard.
Ông Bouc đang chờ đợi để hỏi Poirot một câu hỏi hóc búa:
- Tôi phục ông ở cách làm việc thận trọng và thứ tự. Nhưng ông chưa đạt được mục tiêu. Nếu chúng ta đồng ý về sự hiện diện của nhân vật tóc nâu, có giọng nói đàn bà, tôi rất muốn biết hắn đã đi đâu rồi ?
Poirot lắc đầu:
- Ông đã để cái cày đi trước con trâu. Ông bạn thân mến ạ ! Trước khi hỏi hắn ta ở đâu, tôi tự đặt cho mình một câu hỏi khác. “Người đàn ông đó có thật không ?” . Nếu nhân vật này được tạo ra, thì việc làm cho hắn biến mất có gì là khó ! tuy nhiên, tôi đang cố gắng làm cho hắn có thật bằng xương bằng thịt đấy.
- Nếu thế, ông đang tìm xem hắn trốn ở đâu ?
- Ông bạn ạ, có hai việc: Hoặc hắn ở trên tàu, trốn ở một chỗ rất kín mà chúng ta chưa tài nào tìm ra, hoặc là hắn có hai nhân tánh: sát nhân mà Ratchett lo sợ trá hình thành một hành khách tài tình đến nổi chính Ratchett không thể nhận ra.
- Đó là một ý kiến hay! - ông Bouc nói, - mặt rạng rỡ hẳn ra, nhưng ngay sau đó mặt ông lại sịu xuống:
- Tôi vẫn tìm thấy một yếu điểm ở lý luận trên.
- Hình dáng của hắn, - Poirot nói ngay, - đó là yếu điểm của lý luận phải không ? Trừ anh hầu phòng của ông Ratchett, những hành khách còn lại đều to lớn. Anh chàng người Ý, đại tá Arbuthnot, Hector Mac Queen, quận công Andrenyi. Và các ông hãy nhớ “người đàn ông có giọng nói đàn bà”, có thể đây là một phụ nữ cải trang. Mặc quần áo đàn ông vào, một phụ nữ to lớn có vẻ bé đi.
- Ratchett đã phải biết.
- Ai bảo là ông ta không biết? Nếu người đàn bà này đã cải trang thành đàn ông để đạt mục đích của mình dễ dàng hơn. Sợ rằng bà ta sẽ dừng lại thủ đoạn này. Ratchett đã báo trước với Hardman rằng một người đàn ông muốn sát hại ông ta. Ratchett không quên nói rõ: Một người đàn ông với giọng nói đàn bà.
- Có thể lắm, - ông Bouc nói. - tuy nhiên...
- Bây giờ, - Poirot cắt ngang, - tôi sẽ tiết lộ cho ông một vài dữ kiện lạ lùng do bác sĩ Constantine tìm ra...
- Poirot nói cho ông Bouc biết tình trạng của những vết thương của nạn nhân đã đưa Poirot và Constantine đến những kết luận. Ông Bouc tỏ vẻ nghi ngờ;.
- Lần này tôi hiểu rồi, - Poirot thốt lên một cách thương hại. - Ông hơi chóng mặt phải không ?
- Óc tưởng tượng của ông làm việc nhiều quá đấy ông Poirot ạ.
- Dĩ nhiên, giả thiết của tôi có vẻ vô lý... không có thật! Nhưng ông bạn ơi, tất cả đều dựa vào những dữ kiện.
- Chỉ ví óc tưởng tượng phong phú quá đấy thôi !
- Nhiều khi, tôi tự nhủ là mình làm rắc rối những việc quá tầm thường thôi... ấy vậy mà... hai sát nhân trên tàu ! - Ông Bouc rên rỉ.
- Bây giờ - chúng ta hãy đi sâu vào trong lĩnh vực của óc tưởng tượng, - Poirot vui vẻ nói. - đêm qua, hai hành khách bí mật đã đi du lịch trên tàu này!
1- Nhân viên hỏa xa Hardman tả lại. Gã này đã được Hildegrade, đại tá Arbuthnot và Mác Queen trông thấy:
2- Một người đàn bà cao và gầy, mặc áo choàng đỏ đã được Pierre Michel, cô Debenham, Mac Queen và chính tôi trông thấy. Người đàn bà ấy là ai? Người này cũng đã biến mất như trong chuyện thần thoại. Không một ai trong những nữ hành khách nhìn nhận là chủ nhân của cái áo choàng đó. Người đàn bà này và người cải trang thành gã phục vụ của toa tàu nằm có phải là một người không? Họ đã đi đâu? Và hiện giờ bộ đồng phục của gã phục vụ toa tàu nằm và cái áo choàng đó hiện giờ ở đâu ?
- Chúng ta hãy kiểm soát hành lý của các hành khách.
Poirot rời khỏi chỗ và nói:
- Tôi sẽ chỉ cho ông kiểm soát.
- Ông biết những quần áo này ở đâu à?
- Tôi có một ý nghĩ còn mơ hồ thôi.
- Chúng tôi nghe ông.
- Ông sẽ tìm thấy cái áo choàng đỏ trong hành lý của một người đàn ông và bộ đồng phục của nhân viên hỏa xa trong vali của Hildegrade Schmidt.
- Hildegrade Schmidt ? ông nghĩ là...
- Không, không phải đâu. Hãy nghe tôi kể nhé. Nếu Hildegrade là thủ phạm, bộ đồng phục có lẽ sẽ không tìm thấy trong hành lý của cô ta. Nhưng nếu cô ta vô tội, thì chắc nó sẽ ở trong vali của cô ta.
- Ông nói cái gì khó hiểu vậy?
Nói đến đây ông Bouc ngừng lại nghe ngóng, rồi nói:
- Ai hét vậy ? Cứ như là người bị cắt tiết ấy !
Một người đàn bà hét lên ngoài hành lang. Cánh cửa toa ăn mở toang và bà Hubbard chạy ào vào. Bà ta rú lên:
- Kinh tởm quá ! Một con dao lớn trong túi xách của tôi... trong túi xách của tôi !... một con dao lớn... đầy máu.
Bà chúi đầu về phía trước và té xỉu trên vai ông Bouc.
 

Chương XIV: Vũ khí giết người
Ông Bouc đặt bà Hubbard xuống ghế, đầu gục lên bàn. Bác sĩ Constantine gọi một người hầu bàn và bảo anh ta anh hãy đỡ bà ta và khi bà ta tỉnh hãy cho bà ấy uống một ít Cognac.
Bác sĩ Constantine chạy đến chỗ Poirot và ông Bouc. Một người xỉu.
Không hấp dẫn ông ta bằng việc tìm ra kẻ sát nhân.
Một vài phút sau, bà Hubbard tỉnh lại và uống từng hớp cognac.
Chẳng bao lâu Hubbard đã bình tĩnh để nói được.
- Tôi không thể nào tả hết nỗi hãi hùng của tôi. Không ai trên tàu này biết sự xúc động của tôi. Tôi luôn luôn hốt hoảng. Nhìn thấy máu... Ô, chỉ nghĩ đến thôi cũng đủ làm tôi sợ đến chết được rồi!
Anh hầu bàn lại đưa ly cô nhắc cho bà Hubbard và hỏi:
- Bà uống thêm tí nữa đi!
- Anh khuyên tôi à? Suốt đời tôi, tôi chưa hề uống rượu. Tất cả gia đình tôi đều thuộc hội bài trừ rượu. Nhưng, nếu lần này là một liều thuốc cần thiết thì...
Bà Hubbard cầm lấy ly rượu và uống thêm một ngụm nữa.
Trong lúc đó, Poirot và ông Boue theo sau là bác sĩ Constantine chạy nhanh về phía phòng bà Hubbard. Tất cả những hành khách đều tụ tập ở trước cửa phòng bà Hubbard. Nhân viên phục vụ nét mặt mệt mỏi, đang đẩy hành khách về một phía.
- Không có gì đáng xem đâu. Anh ta lập lại câu này bằng nhiều thứ tiếng.
- Cho tôi qua. Làm ơn cho tôi qua nào. Len lỏi giữa đám hành khách, - ông Boue, theo sau là hai người bạn của ông (Poirot, Constantine) vào phòng.
Anh nhân viên thở phào nhẹ nhõm và nói:
- Các ông đến thật đúng lúc. Ai cũng muốn vào. Cái bà người Mỹ hét to đến nổi tôi cứ tưởng ai giết bà ấy. Tôi vội chạy vào. Bà ta chỉ có một mình và đang hét lên như một bà điên. Bà ta muốn gặp ông. Rồi bà chạy mất, vừa chạy vừa hét lên là đã tìm thấy một con dao vấy máu.
Anh ta chỉ tay về phía cửa và nói:
- Nó ở kia, thưa ông. Tôi đã không mó tay vào. Ở quả đấm cửa thông qua phòng bên cạnh treo một túi xách bằng nilon ô trắng đen. Ngay phía dưới, trên sàn nhà cả ba người trông thấy một con dao găm lưỡi dẹp và nhọn. Cần dao có chạm trổ theo kiểu dao Ả Rập. Trên lưỡi dao có dính những vệt máu.
Poirot nhặt nó lên và nói:
- Không thể nhầm lẫn được. Đây đúng là vũ khí dùng để giết người. Quay sang bác sĩ Constantine, ông hỏi “Bác sĩ nghĩ sao?”
Bác sĩ Constantine xem con dao nhưng tránh không chạm vào.
- Bác sĩ không cần phải thận trọng như thế. Người ta sẽ không tìm ra dấu tay nào khác ngoài đầu tay của bà Hubbard.
Một lúc sau, bác sĩ Constantine nói:
- Con dao này đã có thể gây ra bất cứ một thương tích nào trên người nạn nhân.
- Tôi xin ông, đừng nói thế.
Bác sĩ Constantine lộ vẻ ngạc nhiên:
- Trong vụ này chúng ta đã nhận thấy quá nhiều sự trùng hợp. Hai người đã quyết định giết ông Ratchett tối qua. Việc chọn hai vũ khí hoàn toàn giống nhau là một điều rất lạ lùng.
- Thật ra sự trùng hợp này cũng không lấy gì lạ lùng lắm vì những loại dao này được bán ở tất cả các tiệm tạp hóa ở Costantinople.
- Ông làm tôi hơi yên tâm.
Poirot chăm chú nhìn cánh cửa trước mặt. Lấy túi xách ra và quay nắm tay để mở cửa. Cánh cửa không nhúc nhích. Phía trên tay nắm khoảng 30cm là cái chốt. Chốt này đã được cài lại, Poirot mở cửa, cánh cửa cũng không nhúc nhích.
- Chúng ta đã cài chốt phía bên kia rồi, ông không nhớ sao. Bác sĩ Constantine nói:
- Phải đấy, Poirot nói một cách lơ đãng, ông có vẻ đang suy nghĩ đến một vấn đề khác.
- Điều này phù hợp với những nhận xét ban đầu, ông Boue nói. Sát nhân đã chạy trốn qua phòng này. Khi đóng cửa hắn đã chạm vào túi xách này và nảy ra ý nghĩ dấu con dao vào đây. Không hề biết mình đã đánh thức bà Hubbard. Hắn đã thoát thân bằng cửa thông ra hành lang.
- Phải, sự việc đã xảy ra như thế.
Tuy nhiên Poirot vẫn giữ vẻ đa nghi.
- Chuyện gì vậy? Ông Boue hỏi. Ông có vẻ không đồng ý.
Poirot liếc nhìn ông Boue.
- Ông không thấy có một điều gì không ổn à. Một chi tiết nhỏ thôi!
Người phục vụ nhìn ra phía hành lang và nói:
- Bà người Mỹ đến kìa.
Vừa bước vào phòng, bà Hubbard nói ngay:
- Tôi phải nói với ông ngay rằng tôi sẽ không ở thêm một giây phút nào nữa trong toa tàu này. Cho dù các ông có cho tiền tôi, tôi sẽ không ngủ ở đây đêm nay đâu.
- Xin bà...
- Tôi biết trước các ông sẽ nói với tôi cái gì rồi. Nhưng tôi nói trước là tôi sẽ không để bị thuyết phục đâu. Thà tôi ngủ ngoài hành lang còn hơn.
Nói rồi, bà Hubbard bắt đầu khóc.
- Trời ơi! Nếu con gái tôi trông thấy tôi lúc này! Nếu...
Poirot cắt ngang lời kề lễ của bà Hubbard:
- Bà hiểu sai ý định của chúng tôi rồi. Yêu cầu của bà rất thỏa đáng. Chúng tôi sẽ bảo người đem hành lý của bà sang một phòng khác ngay.
Bà Hubbard hạ thấp khăn tay xuống.
- A, thế thì tốt quá! Tôi nhẹ nhõm cả người! Nhưng tất cả các phòng đều có người cả rồi!
Ông Boue nói ngay:
- Bà sẽ đổi toa. Chúng tôi sẽ cho mang hành lý của bà sang toa tàu được nối thêm ở ga Balgrade.
- Ôi, tôi rất cảm ơn ông. Tôi là người rất dễ mất bình tĩnh! Cứ nghĩ đến phòng bên kia có một xác chết... ôi, chết được!
Đến đây bà Hubbard run lên.
- Michel! ông Boue gọi. Đem ngay hành lý của bà Hubbard sang phòng trống của toa Athenès Paris.
- Thưa ông vâng... Phòng cùng số với phòng này phải không ạ... Phòng số 3?
- Không, Poirot xen vào trước khi ông Boue trả lời.
- Nên để cho bà ở một phòng khác, phòng 12 chẳng hạn.
- Thưa ông, vâng.
Người phục vụ cầm ngay hành lý. Quay sang Poirot, bà Hubbard cảm ơn rối rít.
- Tôi rất cảm ơn sự săn sóc và tế nhị của ông.
- Đâu có gì thưa bà. Chúng tôi xin đưa bà sang phòng mới.
Bà Hubbard vội đi sang phòng mới, theo sau là ba người đàn ông. Bà ta nhìn căn phòng có vẻ bằng lòng.
- Tốt lắm!
- Phải không bà? Phòng này giống y hệt phòng kia.
- Phải... Nó chỉ xoay ngược lại thôi. Nhưng không có gì quan trọng. Tôi đã nói với con gái tôi: Mẹ muốn một chỗ nhìn về phía đầu máy, và nó đã bảo tôi là: Ối mẹ oi, mẹ lo lắng làm gì? Khi mẹ đi ngủ thì xe lửa đi về một phía và khi mẹ thức dậy nó lại đi về hướng khác. Mà thật là như vậy đấy! đêm qua khi chúng ta đến ga Belgrade tôi ngồi theo hướng xe chạy, nhưng khi ra khỏi ga tôi lại ngồi ở hướng ngược lại.
- Lần này chắc bà vừa ý rồi chứ?
- Chưa hoàn toàn. Chúng ta bị kẹt ở đây vì tuyết và chẳng ai thèm chú ý đến việc giúp chúng ta ra. Ngày mai, tàu tới ngày mai đã nhổ neo rồi.
- Chúng ta đều chung một số phận! - ông Boue nói.
- Điều đó chẳng ai chối cãi. Nhưng tôi là người duy nhất đã được kẻ sát nhân đến viếng.
- Điều mà tôi vẫn chưa hiểu nổi thưa bà! - Poirot nói, - đó là cách hắn đã vào phòng bà, nếu cánh cửa ăn thông qua phòng bên đã được cài kỹ như bà nói. Mà bà có chắc là nó đã được cài chưa?
- Chắc chứ. Vả lại, cô gái người Thụy Điển đã thử mở trước mặt tôi mà!
- Chúng ta thử dựng lại cảnh đó nhé. Bà nằm ở gi.ường, và ở chỗ đó thì bà không thể thấy cái then cài cửa.
- Không, vì túi xách của tôi. Nói đến túi xách tôi lại phải mua cái khác rồi. Tôi không thể nhìn thấy nó mà không nổi da gà lên!
Poirot lấy cái túi xách treo lên tay cầm của cánh cửa ăn thông sang phòng bên.
- Đúng thế, - Poirot nhận xét, - cái then nắm bên dưới nắm cửa, và nếu thế thì bị cái xách che mất. Từ gi.ường bà không thể biết là then đã được cài hay chưa.
- Thì tôi đang cố cho ông hiểu điều đó mà.
- Cô gái người Thụy Điền, đứng giữa bà và cánh cửa, đã xoay quả đấm cửa và đã bảo bà là cửa đã đóng phải không?
- Đúng.
- Cô ta có thể nhầm. Cái then này thật ra chỉ là một cái chốt, chỉ cần xoay nó như đóng. Nếu ta muốn ngăn người khách phòng bên qua phòng mình. Rất có thể là cô Ohlson đã xoay quả đấm cửa, nhưng then lại được cài phía bên kia nên cô ấy tưởng là bên phòng bà cũng được cài then.
- Như thế là cô ấy hơi ngu đần.
- Thưa bà, lòng tốt và sự thông minh đôi khi không đi đôi với nhau.
- Dĩ nhiên.
- Nhân tiện, khi bà đến Smyrae, bà có theo đúng lộ trình của lịch về không?
- Không, tôi đã đi tàu thủy đến Stamboul. Ở đó, một người bạn của con gái tôi, ông Johnson, một người rất dễ thương - Tôi mong ông gặp ông ta - Đến đón tôi và đưa tôi đi thăm viếng thành phố. Cuộc tham quan này đã làm tôi thất vọng... Tôi đang kể đến đâu rồi?
- Bà đang nói đến ông Johnson.
- A phải! Ông ấy đưa tôi ra tàu thủy của hãng hàng hải Pháp đi Smyrae, ở đó con rễ tôi đã đợi ở bến. Nó sẽ hỏi gì khi tôi kể hết những điều này trong thư? vậy mà con gái tôi cứ bảo là tôi sẽ đỡ phiền phức nếu đi tàu hỏa. Ôi, làm thế nào tôi có thể hủy chỗ tàu thủy của tôi bây giờ?
- Một lần nữa, bà Hubbard lại suýt khóc.
- Bắt đầu mất kiên nhẫn, Poirot nói ngay.
- Sau cơn xúc động vừa qua, bà nên cố gắng lấy lại bình tĩnh. Chúng tôi sẽ cho mang trà nóng và bánh đến.
- Tôi chẳng thích trà. Đó chỉ là một tập quán Anh.
- Cà phê vậy.
- Vâng, xin ông một tách cà phê.
- Bà vui lòng cho tôi xem qua vali của bà... Chỉ là vấn đề hình thức thôi!
- Tại sao vậy?
- Chúng tôi phải soát hành lý của tất cả hành khách. Chúng tôi chẳng muốn nhắc cho bà một kỷ niệm không mấy thích thú. Cái túi xách của bà...
- Vâng, vâng ông có lý đấy. Tôi cũng chẳng muốn trông thấy một cảnh khủng khiếp thứ hai đâu.
- Hành lý của bà Hubbard gồm có: Một hộp đựng mũ, một vali nhỏ và một túi hành lý đầy ắp.
- Cuộc khám xét thật ra chỉ cần có hai phút nếu bà Hubbard không kỳ nèo mọi người xem hình của con gái và hai đứa trẻ khá xấu.
- Cháu tôi đấy. Chúng nó xinh quá phải không?!
 
Chương XV : Hành lý của những hành khách

Sau khi đã khen cho có lệ, Poirot ra khỏi phòng cũng với hai ông bạn,
- Vậy là chúng ta lại chẳng tiến triển được chút nào - Ông Boue nói. Bây giờ chúng ta xét cái gì trước nào?
- Theo tôi thì cứ theo thứ tự dọc hành làng... Hãy bắt đần bằng phòng 16... Phòng ông Hardman.
Hardman đang hút xì gà. Anh ta vui vẻ tiếp chuyện:
- Mời các ông vào, phòng hơi chật.
Ông Boue giải thích mục đích của cuộc viếng thăm. Hardman tỏ vẻ tán thành.
- Tốt lắm. Tôi cũng tự hỏi tại sao các ông không làm việc này sớm hơn. Chìa khóa tôi đây. Và nếu các ông muốn xét túi tôi, xin các ông đừng ngại. Để tôi xách vali xuống nhà.
- Anh hãy để cho người phục vụ toa lo, Michel?
Hành lý của Hardman được xét rất nhanh. Ngoài rất nhiều chai rượu ra, chẳng có gì đáng nói.
Hardman nheo mắt;
- Thuế vụ rất ít khi xét hành lý ít biên giới nên tôi ít bị phiền phức.
- Nhưng ở biên giới Pháp?
- Trước khi đến Pháp, tôi đã đổ phần còn lại những chai rượu này sang một chai khác có ghi nhãn: thuốc mọc tóc.
- Ông không thuộc hội bài trừ rượu. - ông Boue mỉm cười nói.
- Tôi không thể nói là luật bài trừ rượu đã cấm tôi uống rượu. Các anh có biết những quán rượu lậu ở Mỹ không?
- Không.. Tôi muốn có dịp sang Mỹ. - Poirot nói.
Hardman quay về phía cửa sổ và nhìn ra ngoài.
- Ngồi mãi như thế này chán thật. Làm gì để giết thời gian bây giờ, tôi muốn tìm một công việc gì đó.
- Đúng là đầu óc Mỹ.
Người phục vụ xếp lại hành lý của Hardman. Họ sang phòng bên. Ngồi trong một góc phòng, đại tá Arbuthnot vừa hút ống điếu vừa đọc sách.
Poirot trình bày với ông ta mục đích của cuộc viếng thăm, đại tá Arbuthnot không hề gây một khó khăn nào. Ông ta có hai túi xách du lịch làm bằng da, quần áo của Arbuthnot được xếp ngay ngắn, cẩn thận.
- Hành lý còn lại của tôi đã được gởi tàu thủy. - Đại tá Arbuthnot giải thích.
Cuộc khám xét hành lý chỉ kéo dài 3 phút. Trước khi ra khỏi phòng, Poirot trông thấy một gói đựng nạo ống điếu.
- Ông luôn luôn dùng nhãn hiệu này à?
- Vâng.
- Những thứ này y hệt như cái mà Poirot đã nhặt được trong phòng Ratchett.
Khi họ ra khỏi phòng, Poirot nói:
- Tôi không thể nghĩ rằng ông ta là sát nhân!
Phòng tiếp theo là phòng công chúa Dragomiroff.
Ngay khi gõ cửa, bà Dragomiroff trả lời bằng giọng ấm áp và truyền cảm của bà.
- Xin mời vào!
Ông Boue giải thích cho bà Dragomiroff rõ:
- Mời các ông cứ tự nhiên, cô hầu gái của tôi giữ chìa khóa. Cô ta sẽ giúp các ông.
- Bà có thường giao chia khóa cho có ta không thưa bà? - Poirot hỏi.
- Có, thưa ông.
- Như vậy nếu nhân viên thuế vụ đòi xét hành lý của bà giữa đêm thì sao?
Công chúa Dragomiroff khẽ nhún vai và trả lời:
- Chuyện đó khó có thể xảy ra. Nhưng nếu xảy ra thì người phục vụ tàu hỏa sẽ đi lấy chìa khóa của tôi ở phòng cô hầu.
- Bà tin cô ta hoàn toàn à?
- Tôi xin nhắc lại với ông là tôi chỉ mướn những người tôi hoàn toàn tin cẩn.
- Thường thì nên thuê một người bình dị và thành thật hơn là một người đẹp cầu kỳ... Ví vụ những cô gái ở Paris.
Cặp mắt đen của bà Dragomiroff nhìn Poirot chằm chặp.
- Ông định ám chỉ gì vậy, ông Poirot?
- Không, không có gì thưa bà.
- Có, có chứ, sao lại không? ông nghĩ là tôi nên thuê một cô hầu người Pháp xinh đẹp.
- Điều đó có vẻ hợp lý hơn phải không bà?
- Hildegarde hoàn toàn trung thành với tôi, và sự trung thành thì không mua được, thưa ông. Bà Dragomiroff gằn từng tiếng một.
- Cô hầu phòng người Đức mang chùm chìa khóa lại. Công chúa Dragomiroff bảo cô ta mở khóa vali bằng tiếng Đức.
- Sau đó bà ra khỏi phòng ngắm tuyết. Trong khi ông Boue khám hành lý, Poirot bước đến gần bà.
- Sao ông Poirot, ông không vào xem hành lý của tôi à?
- Ồ, thưa bà đó chỉ là một thủ tục thôi.
- Có thật thế không?
- Thật chứ, ít ra cũng đối với bà,
- Tôi đã quen biết Sonia Armtrong và tôi rất quý mến bà ấy. Bộ ông tưởng là tôi sẽ sợ bẩn tay khi giết Cassetti à? có thể ông có lý.
Im lặng một lúc, bà tiếp:
- Ông có biết tôi muốn đối xử với tên khốn kiếp ấy như thế nào không? Tôi sẽ gọi tất cả gia nhân của tôi lại và ra lệnh cho họ đánh hắn ta cho đến chết. Sự việc đã xảy ra như thế ở nước tôi, khi tôi còn trẻ.
Poirot im lặng nghe, không nói một lời nào. Bỗng nhiên công chúa Dragomiroff quay lại nhìn Poirot và hỏi:
- Ông không nói gì cả sao? ông Poirot? ông đang suy nghĩ gì vậy?
Poirot nhìn thẳng vào mặt bà và nói:
- Thưa bà, tôi nghĩ rằng sức mạnh của bà tập trung vào ý chí của bà hơn là đôi tay.
Bà Dragomiroff cúi xuống nhìn cánh tay gầy với bàn tay vàng như những móng vuốt của chim.
- Phải... Tôi không có sức mạnh. Không hiểu tôi có nên mừng không?
Bỗng dưng, bà quay ngoắt trở lại phòng. Cô hầu đang dọn lại hành lý.
Công chúa Dragomiroff cắt ngang những lời xin lỗi của ông Boue.
- Ông không cần phải xin lỗi. Một vụ án mạng đã xảy ra, việc kiểm soát là bình thường thôi.
Bà chào ba người đàn ông và đóng cửa lại, cửa hai phòng tiếp theo đều đóng.
- Khổ quá! Ông bà Andrenyi đi du lịch bằng thông hành ngoại giao và hành lý của họ được miễn mọi sự kiểm soát của thuế vụ.
- Nhưng đây là một vụ án mạng, - Poirot nói.
- Tôi biết rồi, nhưng chúng ta phải tránh mọi phiền phức.
- Ông đừng lo ngại, vợ chồng quận công Andrenyi sẽ tỏ ra rất thông cảm như công chúa Dragomiroff thôi.
- Công chúa thuộc vào giai cấp quý tộc. Cặp vợ chồng này cũng thế. Nhưng quận công Andrenyi có vẻ khó tính hơn. Ông có để ý thái độ của ông ta khi ông cứ nhất định hỏi vợ ông ta? Lần này chắc ông ấy sẽ mời chúng ta ra khỏi phòng. Hay là chúng ta đừng khám xét hành lý của họ? Dù sao thì chắc họ cũng không dính líu đến vụ án đâu! Tại sao chúng ta lại rước lấy phiền phức vào mình.
- Tôi không đồng ý với ông. - Poirot nói. - tôi chắc là quận công Andrenyi sẽ không phản đối đâu. -
- Hãy cứ thử xem.
Không để cho ông Boue có thì giờ phản đối, Poirot gõ cửa phòng 13.
- Xin mời vào!
Ngồi gần cửa, quận công Andrenyi đang đọc báo. Bà Andrenyi ngồi thu mình phía trước mặt, đầu kê vào cái gối, hình như bà vừa tỉnh giấc.
- Xin lỗi quận công về sự đường đột của chúng tôi, - Poirot nói. - chúng tôi phải kiễm soát hành lý của mọi hành khách... Ông Boue đã cho tôi biết, vì thông hành của ông bà là thông hành ngoại giao nên ông bà có thể từ chối mọi sự khám xét.
Quận công Andrenyi suy nghĩ một lúc và nói:
- Tôi xin cảm ơn ông. Tuy nhiên, tôi không hề muốn lợi dụng đặc ân đó và tôi muốn tất cả hành lý của chúng tôi được khám xét như mọi hành khách khác.
Quận công Andrenyi quay sang vợ và nói:
- Elena, anh nghĩ chắc em cũng không phản đối.
- Xin các ông cứ làm phận sự. - Bà quận công trả lời không chút đắn đo.
Ông Boue sang phòng bên để khám xét, trong khi Poirot cố khóa lấp sự bối rối của mình bằng những nhận xét như:
- Thưa bà, danh thiếp dán trên vali này vẫn còn ướt.
Poirot chỉ cho bà Andrenyi một vali con bằng da xanh, trên đó gắn hai chữ đầu của tên ông bà Andrenyi
- Bà Andrenyi không hề trả lời. Tất cả những công việc này, có vẻ làm cho bà ghê tởm.
Đứng im trong một góc, bà Andrenyi nhìn tuyết rơi ngoài trời.
Poirot mở một tủ nhỏ kê trên chậu rửa mặt và liếc nhìn những thứ trong đó: một miếng bọt biển để tắm, một hộp kem thoa mặt, phấn và một lọ có ghi: Trional (một loại thuốc ngủ).
- Sau khi cảm ơn và xin lỗi, ông Boue và Poirot ra khỏi phòng.
Phòng kế tiếp là phòng bà Hubbard, rồi đến phòng Ratchett, cuối cùng là phòng Poirot. Sau đó là đến toa ăn hạng nhì.
Phòng đầu tiên của toa hạng nhì của Mary Debenham và Guta Ohlson. Mary đang cắm cúi đọc sách trong khi Guta ngủ gục trên gi.ường. Khi họ bước vào phòng, Guta giật mình thức giấc. Poirot lại giải thích một lần nữa. Guta Ohlson có vẻ bối rối. Trái lại Mary Debenham hoàn toàn bình tĩnh,
- Nếu cô cho phép, Poirot nói với Guta, chúng tôi xin xem hành lý của cô trước. Sau đó cô làm ơn sang
- Với bà Hubbard, bà ấy đã đổi sang toa hạng nhì rồi ... Bà Hubbard quá xúc động nên chúng tôi đã phải chuyển phòng cho bà ấy. Tôi đã cho mang cà phê đến cho bà ấy, nhưng sự hiện diện của cô bên cạnh bà ấy vẫn tốt hơn.
Cô Ohlson chạy ngay sang với bà Hubbard. Vả lại vali của cô không có, nên cô cũng không cần ngồi lại chờ khám xét xong.
Đồ đạc của cô Ohlson cũng ít nên việc kiểm soát cũng nhanh. Lẽ dĩ nhiên, cô Ohlson không mảy may để ý đến việc mất cọng giây thép trong hộp đựng mũ của mình.
Cô Debenham đặt quyển sách xuống và nhìn Poirot có vẻ dò xét. Khi ông yêu cầu Mary trao chìa khóa cho ông và khi Poirot mở vali thì Mary nói:
- Ông poirot, tại sao ông lại cố tình để cô Ohlson ra khỏi phòng.
- Để cô ta đến săn sóc bà Hubbard.
- Đó chỉ là một cái cớ...
- Tôi không hiểu cô muốn nói gì?
- Có, ông hiểu rất rõ.
Mary Debenham mĩm cười và tiếp:
- Ông muốn gặp tôi một mình phải không?
- Cô chỉ khéo nghi ngờ thôi.
- Thôi, ông đừng giả vờ nữa!
- Thưa cô, một ngạn ngữ Pháp nói:
- “Ai nhận lỗi là tự buộc tội mình”.
- Ông định nói thế phải, không? Chỉ cần tinh ý một chút là tôi có thể đoán ông nghĩ tôi biết một điều gì đó về vụ án... Vụ giết một kẻ mà tôi không hề quen biết.
- Cô chỉ nghĩ bậy thôi.
- Không, tôi biết tôi nói gì. Và theo tôi thì thay vì mất thì giữ như thế, ông nên đi thẳng vào đề đi!
- Ồ, nếu vậy cô muốn người ta thành thực với cô thì tôi xin theo ý cô vậy. Cô có thể giải thích ý nghĩa của một vài câu mà tôi đã có dịp nghe được trong cuộc hành trình này không? ở ga Konva, tôi đang đi đi lại lại ở sân ga thì nghe thấy tiếng cô và đại tá, cô nói: “Bây giờ chưa được, sau này đã, khi mọi việc đã xong xuôi và chìm vào dĩ vãng”. Những câu này có ý nghĩa gì?
Mary Debenham trả lời một cách bình tĩnh.
- Chắc ông tưởng tôi nói đến một... Vụ giết người à?
- Tôi hỏi cô mà!
Mary Debenham thở dài và tỏ vẻ suy nghĩ:
- Xin lỗi ông, cuối cùng cô nói, nhưng tôi không thể nói rõ ý nghĩa của câu nói này được. Tôi cam đoan với ông rằng đây là lần đầu tiên tôi trông thấy ông Ratchett trên tàu.
- Vậy là cô từ chối không giải thích cho tôi?
- Nếu ông nghĩ thế, thì vâng, thưa ông tôi từ chối!
- Những lời này đề cập đến một nhiệm vụ mà tôi phải làm.
- Nhiệm vụ đó đến bây giờ đã được thi hành?
- Sao?
- Nhiệm vụ này đã được thi hành chưa?
- Cái gì làm cho ông nghĩ thế?
- Thưa cô, cho phép tôi nhắc cô một việc nhỏ. Tước khi đến Stamboul, con tàu đã bị chậm lại một chút và cô bình thường rất bình tĩnh, đã tỏ ra nao núng.
- Tôi không muốn hụt tàu.
- Đó là lời giải thích của cô. Nhưng tôi đã nói khi nãy, chuyến tàu tốc hành phương đông ngày nào cũng khởi hành từ Stamboul. Và cho dù cô có thể có trễ thì cũng chỉ 24 giờ thôi.
Cô Debenham lộ vẻ sốt ruột:
- Hình như ông không hề biết là những người bạn đang đợi tôi ở Luân Đôn và một ngày chậm trễ đảo lộn mọi dự tính và gây nhiều phiền phức.
- A, cô lo ngại vì có bạn đợi ở Luân Đôn! Cô không muốn làm họ thất vọng.
- Lẽ dĩ nhiên.
- Lạ thật!
- Có gì mà lạ?
- Con tàu bây giờ cũng đang chậm trễ, chậm trễ kinh khủng... Và, khổ tâm hơn nữa là không thể nào báo cho bạn cô biết. Vậy mà, cô lại chấp nhận sự chậm trễ này với một sự bình tĩnh đáng khen.
- Mary Debenham đỏ mặt, cô cắn môi:
- Cô không trả lời à?
- Tôi đâu biết là ông đang chờ câu trả lời?
- Cô hãy giải thích cho tôi sự thay đổi trong thái độ của cô.
- Ông có thấy là ông thích xẻ những việc nhỏ ra to không ông Poirot?
- Có thể đây là sự méo mó nghề nghiệp của bọn thám tử chúng tôi.
Mary Debenham vẫn giữ im lặng, Poirot tiếp:
- Cô có biết đại tá Arbuthnot không?
Poirot thoáng có ý nghĩ là sự thay đổi đề tài trong câu chuyện không làm phật lòng Mary.
- Tôi đã gặp ông ta lần đầu tiên trên chuyến tàu này.
- Theo cô, ông ta có biết Ratchett không?
Mary Debenham lắc đầu:
- Tôi chắc là ông ta không biết!
- Vậy mà, chúng tôi đã tìm thấy một cái nạo ống điếu trong phòng của nạn nhân và trong những hành khách, chỉ có đại tá Arbuthnot là hút ống điếu.
Poirot chăm chú nhìn Mary. Nhưng cô không lộ vẻ ngạc nhiên hay xúc động mà chỉ nói:
- Vô lý! Đại tá Arbuthnot không thể là sát nhân, suýt nữa thì Poirot cũng nói là ông đồng ý với Mary về việc này.
- Tôi xin nhắc lại là cô mới vừa biết đại tá Arbuthnot đây thôi.
Mary Debenham khẽ nhún vai.
- Phải, nhưng tôi biết ông ta là người như thế nào rồi.
Bỗng nhiên, Poirot hạ thấp giọng và hỏi:
- Vậy là cô vẫn từ chối không chịu giải thích câu “khi mọi việc đã xong xuôi”?
Mary Debenham nói bằng một giọng lạnh lùng:
- Tôi không còn gì để nói nữa.
- Tùy cô. Tôi sẽ tự tìm ra câu trả lời. - Nói xong Poirot gật đầu chào. Bước ra khỏi phòng ông không quên đóng cửa.
- Như thế có nên không ông bạn, - ông Boue hỏi. - ông đã làm cô ta nghi ngờ và như vậy là cả Arbuthnot nữa,
- Muốn bắt thỏ, ông phải cho chồn vào hang. Và nếu con thỏ có trong hang nó sẽ chạy trốn, đó là chiến thuật của tôi.
Họ vào phòng Hildegarde Schmidt. Cô hầu mời họ vào với vẻ kính cẩn nhưng không hề lộ vẻ xúc động.
Poirot liếc nhìn đồ đạc trong cái vali nhỏ ở trên băng ghế. Sau đó ông ra lệnh cho nhân viên đem vali to trên giá đựng hành lý xuống.
- Cô làm ơn cho mượn chìa khóa.
- Nó không khóa, thưa ông.
Poirot mở nắp vali lên.
- Ông có còn nhớ tôi đã đoán điều gì không? - Poirot nói với ông Boue. - ông hay nhìn xem, phía trên quần áo là bộ đồng phục của nhân viên toa tàu nằm được gấp một cách cẩu thả.
- Trời đất! - Cô hầu phòng thốt lên: - cái này đâu phải của tôi. Không phải tôi đã cất nó vào đây đâu. Tôi không hề mở cái vali này từ khi rời khỏi Stamboul! Tôi xin thề! Xin các ông hãy tin tôi!
Cô ta nhìn ba người với vẻ hốt hoảng.
Poirot dịu dàng cầm lấy tay Hildegarde Schmidt và trấn an:
- Chúng tôi tin cô. Cô đừng lo ngại - Cũng chắc chắn như việc cô là một đầu bếp giỏi. Chắc chắn cô không phải là người đã xếp bộ đồng phục vào chiếc vali này. Cô làm bếp giỏi lắm phải không?
Bị bất ngờ, cô hầu trả lời:
- Vâng, nhưng chủ của tôi luôn luôn khen tôi. Tôi...
Bỗng nhiên cô im bặt, miệng há ra.
- Tốt lắm, - Poirot nói, - cô hãy bình tĩnh. Tôi sẽ giải thích cho cô việc gì đã xảy ra. Kẻ lạ mặt, kẻ mà cô đã gặp ở hành lang mặc đồng phục của nhân viên tàu nằm. Nó bước ra khỏi phòng nạn nhân và muốn không bị để ý, hắn phải làm gì? Vứt bỏ ngay bộ đồng phục vì bây giờ đã trở nên nguy hiểm đối với hắn.
Poirot nhìn ông Boue và bác sĩ Constantine nói tiếp:
- Nhưng bên ngoài toàn tuyết và tuyết, làm xáo trộn mọi dự tính của hắn. Hắn phải cất áo quần chỗ nào đây? Khi đi ngang qua một cánh cửa mở, bên trong lại không có người... Có thể đó là phòng người đàn bà mà hắn đã gặp ở hành lang. Hắn lẻn vào cởi bộ đồng phục và nhét vội vàng trong vali để trên giá hành lý.
- Rồi sau đó? - Ông Boue hỏi.
- Đó là điều chúng ta phải đoán, - Poirot nói, Poirot giở bộ đồng phục: thiếu một cái khuy, cái thứ ba. Poirot thò tay vào túi và kéo ra một chùm. Chìa khóa giống chìa khóa của các nhân viên hỏa xa để mở các phòng.
- Đây là cách mà sát nhân đã mở được các cửa. - ông Boue nói. - Những câu hỏi mà ông đã hỏi bà Hubbard đều vô ích... Với chùm chìa khóa này, hắn có thể vào phòng Ratchett một cách dễ dàng, dĩ nhiên là với dây xích an toàn không được móc lại. Nếu hắn khá lanh lợi để có một bộ đồng phục thì việc có một chùm chìa khóa cũng dễ thôi.
- Phải rồi.
- Đáng lý chúng ta phải nghĩ đến. Ông nhớ lại xem Michel đã nói với chúng ta là khi anh ta đến phòng bà Hubbard vì nghe tiếng chuông, cánh cửa trông ra hành lang đã được gài chốt chưa?
- Thưa ông khóa rồi. - Anh phục vụ toa nói.
- Đó là nguyên do tại sao tôi nghĩ là bà tà đã nằm mơ.
- Bí mật đã bắt đầu được sáng tỏ, - ông Boue nói. - Kẻ sát nhân có ý định đóng cửa thông qua nhưng có lẽ hắn đã nghe tiếng động nên đã không làm được việc đó.
- Bây giờ chúng ta chỉ còn tìm cái áo choàng đó thôi, - Poirot nói.
- Hành khách của hai phòng cuối cùng là đàn ông.
- Chúng ta cũng sẽ xét,
Hector Mác Queen rất vui lòng để cho khám hành lý.
- Tôi không mong gì hơn, - Mác Queen cười chua chát - Tôi rất bực mình bị xem như là người bị nghi ngờ nhiều nhất. Nếu mà các ông tìm được một tờ di chúc trong đó Ratchett để lại gia tài cho tôi, thì chắc số phận tôi đã được quyết định.
- Ông Boue lườm mắt nhìn Mác Queen.
- Tôi đùa thôi. Hắn ta chẳng để cho tôi xu nào đâu. Chỉ vì tôi biết ba thứ tiếng Pháp, Đức và tiếng Ý nên hắn ta cần tôi thôi.
- Mac Queen có vẽ bối rối hơn bình thường, mặc dù anh ta đã cố gắng tự nhiên.
- Không một đồng xu ten! - Poirot nói.
- Mác Queen thở ra khoan khoái và vui vẻ nói:
- Như thế là tôi an tâm! ông vừa làm tôi nhẹ nhõm cả người.
Trong phòng cuối cùng, việc kiểm tra hành lý của anh người Ý Koscarch và người hầu không đem lại điều gì mới lạ.
Cả ba người nhìn nhau thất vọng.
- Chúng ta làm gì bây giờ? - ông Bouc hỏi
- Chúng ta hãy trở lại toa ăn, - Poirot đề nghị. - chúng ta đã hỏi những hành khách, xem xét hành lý của họ.. Bây giờ là lúc chúng ta phải vận dụng chất xám đây.
Poirot thò tay vào túi rút hộp đựng thuốc ra, nhưng không còn điếu nào.
- Tôi sẽ gặp các ông sau, - Poirot nói. - Để tôi đi lấy thuốc đã. Vụ này rắc rối thật. Ai là người đã mặc cái áo choàng đó nhỉ? Hiện giờ nó ở đâu? Kẻ sát nhân đã lanh trí làm rối tung lên. Xin lỗi, tôi về phòng lấy thuốc đã. - nói rồi, Poirot đi nhanh về phòng. Ông lấy vali xuống và mở ra. Chợt Poirot khựng lại. Bên trên quần áo, cái áo choàng bằng soa đỏ có thêu những con rồng được xếp lại ngay ngắn.
- A, - Poirot lầm bầm. - Người ta muốn thách thức mình. Hay lắm!
 
Phần III - Hercule Poirot vận dụng những chất xám

Chương I : Ai? Hoặc những ai là thủ phạm?

Ông Bouc và bác sĩ Constantine đang ngồi nói chuyện thì Poirot bước vào toa. Ông Bouc có vẻ thất vọng:
- Ông ta đây rồi! - ông, Bouc thốt lên khi trông thấy Poirot. Poirot vừa ngồi xuống, ông Bouc lại tiếp ngay:
- Nếu ông tìm ra thủ phạm thì đó là một phép lạ đấy.
- Vụ án này làm ông khổ tâm đến thế kia à?
- Phải. Nhất là ta không biết phải bắt đầu điều tra từ đâu.
- Tôi cũng đồng ý như thế, - bác sĩ Constantine nói. - Thật ra tôi chẳng hiểu chúng ta sẽ làm gì bây giờ
Poirot đốt điếu thuốc và trả lời:
- Đối với tôi, đó là điều đáng lưu ý của vụ án. Vì thiếu tất cả mọi thủ tục điều tra nên chúng ta không thể nào kiểm soát lời khai của tất cả hành khách. Vậy chỉ còn mỗi một cách: sử dụng trí thông minh.
- Nhưng chúng ta phải bắt đầu từ đâu.
- Chúng ta đã có những lời khai của những hành khách và những gì chúng ta đã trông thấy đó?
- Cuộc hỏi cung các hành khách đã không cho ta biết thêm điều gì.
- Xin lỗi ông, nó đã cho chúng ta biết về nhiều vấn đề.
- Thế mà tôi chẳng thấy gì!
- Có thể là ông đã không lắng nghe một cách chăm chú.
- Vậy thì ông hãy phân tích rõ cho tôi đi.
- Chúng ta hãy xem xét lại lời khai đầu tiên: lời khai của ông Mác Queen. Theo tôi, ông ta đã nói một câu mang nhiều ý nghĩa.
- Về những bức thư hăm dọa ấy à?
- Không, nhưng Mac Queen đã cho chúng ta biết là Ratchett đi du lịch rất nhiều nhưng lại rất bị lúng túng vì không biết ngoại ngữ. Mac Queen còn nói thêm anh ta là thông dịch viên cho Ratchett hơn là thư ký.
Poirot chăm chú nhìn ông Bouc và bác sĩ Constantine.
- Sao? Các ông vẫn chưa hiểu à? Thật không thể chịu nổi...
- Ông giải thích đi. - Ông Bouc nôn nóng hỏi.
- Khổ quá! Đây nhé: Ratchett không nói tiếng Pháp vậy mà khi anh phục vụ nghe chuông chạy đến một giọng nói đã trả lời bằng tiếng Pháp. Ngoài ra, người trong phòng Ratchett đã sử dụng tiếng Pháp thông dụng. Không phải thứ tiếng của những kẻ không biết nói tiếng Pháp. “Không có gì, tôi nhầm”.
- Phải rồi! - Bác sĩ Constantine kêu lên. - Chúng ta phải nhận ra điều đó ngay mới phải. Bây giờ tôi hiểu tại sao ông lại ngại ngừng khi chấp nhận giờ trên đồng hồ Ratchett là giờ xảy ra vụ án mạng vào lúc 1 giờ kém 23, Ratchett đã chết rồi...
- Và kẻ sát nhân đã trả lời thay thế cho Ratchett... - ông Bouc nói.
- Ta không nên đốt giai đoạn sớm quá, - Poirot nói. - Dù sao thì chúng ta cũng có thể khẳng định rằng vào lúc 1 giờ kém 23 một người nữa đã ở trong phòng Ratchett và người này là người Pháp hay ít ra cũng nói tiếng Pháp thông thạo.
- Ông rất tỉ mỉ trong cách làm việc.
- Cứ đi chậm cho nó chắc, không có gì xác định là Ratchett đã chết vào lúc đó.
- Nhưng ông đã bị thức giấc vì một tiếng hét?
- Phải, đúng thế.
- Điều khám phá hồi nãy chẳng làm chúng ta tiến thêm bước nào, - ông Bouc tuyên bố. - ông đã nghe thấy tiếng động ở phòng bên. Lúc đó không phải là Ratchett mà là kẻ sát nhân đang rửa tay vấy máu, xếp dọn lại và đốt lá thư. Sau đó, khi yên tĩnh đã trở lại trong toa, kẻ sát nhân đã móc xích an toàn phía trong phòng Ratchett. Hắn đã mở cửa ăn thông sang phòng bà Hubbard và đã thoát ra ngoài. Tóm lại, đó đúng là những gì chúng ta đã nghĩ... Với một sự khác biệt là Ratchett đã bị giết trước đó nữa tiếng và những kim đồng hồ ngừng chạy ở 1 giờ 15 chỉ là một chứng cớ vắng mặt.
- Một chứng cớ vắng mặt không có giá trị, - Poirot nói. - Kim đồng hồ chỉ 1 giờ 15... Giờ mà kẻ sát nhân đã rời khỏi hiện trường...
- Đúng đấy, - ông Bouc đồng ý, vẻ hơi thất vọng! - vậy kim đồng hồ ngừng ở 1 giờ 15 chỉ gì?
- Nếu kim đồng hồ bị xê dịch. Tôi nói nếu. Thì chắc phải có lý do. Trong trường hợp này, ta phải nghi ngờ tất cả những người có thể có chứng cứ vắng mặt vào lúc 1 giờ 15.
- Lý luận trên có vẻ có lý, bác sĩ Constantine nói.
- Chúng ta cũng nên có giả thuyết về giờ mà sát nhân đã vào phòng, Hắn đã có cơ hội lẻn vào lúc nào? Trừ phi chúng ta buộc tội anh phục vụ là đồng lõa, người phục vụ giả chỉ có thể lẻn vào toa tàu trong khi tàu ngừng ở Vincovei. Vì sau khi tàu rời ga, anh phục vụ, ngồi ở chỗ thường lệ của mình, có thể kiểm tra cả dãy hành lang. Dù cho không một hành khách nào để ý đến sự xuất hiện của một nhân viên tàu nằm thì anh phục vụ, chắc chắn sẽ để ý đến sự hiện diện của kẻ lạ mặt trên tàu. Nhưng, trong lúc tàu ngừng ở ga Vincovei thì anh phục vụ đã xuống sân ga. Như thế là kẻ lạ mặt đã có thể lên tàu mà không ai để ý.
- Và sau cuộc điều tra sơ khởi của chúng ta thì thủ phạm chỉ có thể là một trong những hành khách thôi! - Vậy kẻ đó là ai?
Poirot mĩm cười.
- Tôi có ghi rồi đây. Nếu các ông muốn xem cho cho dễ nhớ thì đây.
Bác sĩ Constantine và ông Bouc cùng xem những tờ giấy, trên đó có tên của từng hành khách đã được ghi vào, theo thứ tự của cuộc điều tra, kèm theo những nhận xét của Poirot.
1. Hector Mac Queen: Quốc tịch Mỹ. Kút sét 16. Toa hạng nhì.
Lý do để phạm pháp: có thể do sự quan hệ với nạn nhân.
Chứng cớ vắng mặt: Từ 12 giờ đêm đến 2 giờ sáng (từ 12 giờ đến 1 giờ 30, chứng cớ vắng mặt được
Đại tá Arbuthnot xác nhận và từ 1 giờ 15 đến 2 giờ, được anh phục vụ xác nhận).
Chứng cứ buộc tội: Không có.
Sự kiện khả nghi: Không có..
2. Pierre Michel: Nhân viên, Công dân Pháp.
Lý do để phạm pháp: Không có.
Chứng cớ vắng mặt: Từ 12 giờ đến 2 giờ sáng được Hercule Poirot trông thấy ở hành lang. Khi một giọng nói được nghe thấy trong phòng Ratchett lúc 12 giờ 37- Từ 1 giờ đến 1 giờ 16 chứng cớ vắng mặt xác nhận bởi hai người phục vụ toa tàu khác.
Chứng cớ buộc tội: Không có.
Sự kiện khả nghi: Bộ đồng phục của nhân viên toa nằm được tìm thấy trong hành lý của cô Ohlson đã có lợi cho Pierre. Kẻ gian đã sử dụng bộ đồng phục này để đổ tội cho Pierre.
3. Edward Masterman: Công dân Anh. Kút sét số 4, toa hạng nhì.
Lý do để phạm pháp: Có thể do sự quan hệ với nạn nhân.
Chứng cớ vắng mặt: Từ 12 giờ đến 2 giờ sáng. Chứng cớ vắng mặt đã được Antonio Foscarelli làm chứng.
Chứng cớ buộc tội: Trong nhóm hành khách chỉ có Masterman là có thể mặc vừa bộ đồng phục của nhân viên toa nằm tìm thấy trong hành lý của cô Ohlson. Ngoài ra, Masterman không nói thông thạo tiếng Pháp.
4. Bà Hubbard: Công dân Mỹ. Két sút số 3, toa hạng nhất.
Lý do phạm pháp: không có.
Chứng cớ vắng mặt: Từ 12g đến 2g: Không có.
Chứng cứ buộc tội: Không có.
Sự kiện khả nghi: không có.
Ghi chú:
Câu chuyện người đàn ông trong phòng bà Hubbard đã được xác nhận bởi lời chứng của Hardman và cô Schmidt.
5. Guta Ohlson: Quốc tịch Thủy Điển. Kút sét số 7, toa hạng nhì.
Lý do phạm pháp: không có.
Chứng cớ vắng mặt: Từ 12g đến 2g sáng: chứng cớ vắng mặt xác nhận bởi Mary Debenham.
Ghi chú:
Cô là người cuối cùng thấy Ratchett còn sống.
6. Công chúa Dragomiroff: đã chuyển sang quốc tịch Pháp. Kút sét số 14, toa hạng nhất.
Lý do phạm pháp: Rất thân với gia đình Armtrong. Bà là mẹ đỡ đầu của Sonia Armtrong.
Chứng cớ vắng mặt: Từ 12g đến 2g sáng: chứng cớ vắng mặt được xác nhận bởi anh phục vụ và cô hầu phòng.
Chứng cớ buộc tội: Không có.
Sự kiện khả nghi: không có.
7. Quận công Andrenyi: Quốc tịch Hunggari, du lịch theo thông hành ngoại giao. Kút sét 13, toa hạng nhất.
Lý do phạm pháp: Không có.
Chứng cớ vắng mặt: Từ 12g đến 2g sáng: chứng cớ vắng mặt do anh phục vụ xác nhận trừ thời gian từ l giờ đến 1giờ 15.
8. Vợ Andrenyi: Như trên. Kút sét 12.
Lý do phạm pháp: Không có.
Chứng cớ vắng mặt: Từ 12g đến 2g sáng: đã uống thuốc ngủ. Điều này do chồng và chai thuốc ngủ trong tủ xác nhận.
9. Đại tá Arbuthnot: Quốc tịch Anh. Kút sét 15, toa hạng nhất.
Lý do phạm pháp: không có.
Chứng cớ vắng mặt: Từ 12g đến 2g sáng: chứng cớ vắng mặt ngồi nói chuyện với Mác Queen đến 1g30. Về phòng và không rời phòng nữa (điều này do anh mắc Queen và anh phục vụ xác nhận).
Chứng cứ buộc tội: không có.
Sự kiện khả nghi: Cái nạo ống điếu.
10. Cyrus Hardman: Công dân Mỹ. Kút sét 16, toa hạng nhất.
Lý do phạm pháp: Không có.
Chứng cớ vắng mặt từ 12g đến 2g sáng: Không hề rời phòng (Mác Queen và anh phục vụ xác nhận).
Chứng cớ buộc tội: Không có.
Sự kiện khả nghi: Không có.
11. Antonio Foscarelli: Công dân Mỹ (gốc Ý). Kút sét số 5, toa hạng nhì.
Lý do phạm pháp: Không có.
Chứng cớ vắng mặt: Từ 12g đến 2g sáng: chứng cớ vắng mặt xác nhận bởi Edward Masterman.
Chứng cớ buộc tội: Không có.
Sự kiện khả nghi: Không có. Trừ việc dùng để giết người phù hợp với tâm lý của người Ý. (Ý kiến của ông Bouc).
12. Mary Debenham: Quốc tịch Anh. Kút sét 6, Toa hạng nhì.
Lý do phạm pháp: Không có.
Chứng cứ vắng mặt: Từ 12g đến 2g sáng: chứng cớ vắng mặt, được Greta Ohlson xác nhận.
Chứng cớ buộc tội: Không có.
Sự kiện khả nghi: Câu đối thoại do Hercule Poirot nghe lỏm, và Mary Debenham không chịu giải thích.
13. Hildegarde Schmidt: Quốc tịch Đức. Kút sét 8, toa hạng nhì.
Lý do phạm pháp: Không có.
Chứng cớ vắng mặt: Từ 12g đến 2g sáng có anh tài xế và công chúa Dragomiroff xác nhận. Sau khi về phòng ngủ. Khoảng 12g30, nhân viên phục vụ đánh thức để đến phòng chủ là bà Dragomiroff.
Ghi chú: Lời khai của những hành khách trùng hợp với lời xác nhận của anh phục vụ về việc không một ai đã vào phòng Ratchett hoặc đã ra khỏi phòng giữa 12g và 1g (vào giờ này anh phục vụ đã sang toa bên) và từ 1g15 đến 2g.
Đây chỉ là một bản tóm tắt cuộc hỏi cung. Nó đã được sắp xếp như vậy để cho dễ hiểu, - Poirot nói
Ông Bouc nhăn mặt, trả lại tờ giấy cho Poirot.
Không lấy gì khả quan lắm!
Có lẽ những câu hỏi này hợp với ông hơn? - Vừa nói Poirot vừa đưa cho ông Bouc một tờ giấy khác.


 
Hiệu chỉnh:
Chương II: 10 Câu hỏi
Trên tờ giấy có ghi:
Những giải thích cần thiết:
1. Cái khăn tay có thêu chữ “H” của ai?
2. Ai đã làm rơi cái nạo ống điếu? Phải chăng là đại tá Arbuthnot?
3. Ai mặc áo choàng đỏ?
4. Người đàn ông hay đàn bà đã cải trang thành nhân viên toa tàu nằm là ai?
5. Tại sao kim đồng hồ lại ngừng lúc 1g15 với mục đích gì?
6. Vụ án này có xảy ra lúc đó không?
7. Có thể sớm hơn không?
8. Hay muộn hơn?
9. Có thể xác định là Ratchett không phải bị một người đâm không?
10. Nếu không, những vết thương khác do đâu mà có?.
- Chúng ta hãy thử giải những câu hỏi này xem, - ông Boue nói. - hãy bắt đầu theo thứ tự, câu thứ nhất?
- Hay lắm, - Poirot nói vẻ hài lòng.
- Chữ H có thể hợp với ba người, bác sĩ Constantine nói, bà Hubbard, cô Debenham vì cô còn có tên là Hermione, và cô hầu phòng Hildegarde Schmidt.
- Vậy trong ba người này, ai có cái khăn tay đó?
- Thật khó xác định. Tuy nhiên tôi nghĩ chiếc khăn tay của cô Debenham. Không hiểu người ta có dùng tên Hermione để gọi cô ấy không. Mẫu chuyện mà ông nghe lỏm được, mà cô ta cố tình không giải thích có vẻ mờ ám.
- Theo tôi, thì tôi nghĩ anh chàng người Mỹ hơn, - bác sĩ Constantine nói. - Chiếc khăn tay này có vẻ đắt tiền và người Mỹ, như mọi người đều biết, không nghĩ đến giả tiền.
- Như vậy, cả hai ông đều loại trừ cô hầu à? - Poirot hỏi.
- Phải, chính cô ta đã bảo là chiếc khăn tay phải của một người sang trọng mà?
- Hãy sang câu hỏi thứ hai. Ai đã làm rơi cái nạo ống điếu? Đại tá Arbuthnot hay một người khác?
- Câu này khó đấy, - ông Boue nói. - Một người Anh không giết kẻ thù của mình bằng dao. Tôi cũng suy nghĩ như ông về tâm lý người Anh. Và nghĩ rằng mọi kẻ nào khác đã làm rơi trong phòng của nạn nhân để đổ tội cho Arbuthnot.
Quay sang Poirot, bác sĩ Constantine nói:
- Như ông đã nói, hai sự bất cẩn là hơi quá. Việc làm mất chiếc khăn tay là do vô ý, cho nên chẳng ai trong đám hành khách chịu nhận cái khăn của mình. Trái lại việc làm rơi cái nạo ông điếu chỉ là cố tình và đại tá Arbuthnot đã nhận một cách thẳng thắn là ông ta hút ống điếu và dùng loại nạo ống điếu này.
- Ông lý luận tuyệt đấy, - Poirot tán thành.
- Câu số ba: Ai mặc áo choàng đỏ? - ông Bouc nói. Tôi không có một ý kiến nào về câu này. Còn ông, ông Constantine?
- Tôi cũng thế.
- Ồ câu hỏi này, chúng ta bó tay, mong rằng câu hỏi tiếp theo sẽ dễ hơn. Người đàn ông hay đàn bà cải trang thành nhân viên hỏa xa là ai? Chúng ta hãy loại bỏ những người có tầm vóc: Hardman, đại tá Arbuthnot, Foscarelli, quận công Andrenyi và Hector Mac Queen, bà Hubbard, Hildegarde Schmidt và Greta Ohlson lại không đủ tầm vóc. Còn lại anh hầu phòng, cô Debenham, công chúa Dragomiroff và bà Andrenyi... Nhưng cả bốn người đều có những chứng cớ vắng mặt không chối cãi được.
- Ngoài ra Greta Ohlson và Antonio Foscarelli đã khẳng định là cô Debenham và anh hầu phòng không hề rời phòng. Hildegarde Schmidt xác định là công chúa Dragomiroff ở trong phòng bà ta và quận công Andrenyi đã nói rằng vợ ông sau khi uống thuốc ngủ, đã ngủ vùi trong phòng. Và như thế thì hình như là không một hành khách nào trên tàu có thể là thủ phạm... Thật khó tin!
- Thủ phạm chắc chắn phải là một trong bốn hành khách mà ta vừa kể trên. - Bác sĩ Constantine nói - Trừ khi, kẻ sát nhân đã đột nhập từ bên ngoài và đã tìm ra một chỗ trù ẩn... Nhưng chúng ta đã chứng minh sự vô lý của giả thuyết này rồi.
Ông Boue sang câu thứ năm.
- Tại sao kim đồng hồ lại ngừng ở 1g15? tôi thấy có hai câu trả lời: Hoặc là kẻ sát nhân đã xê dịch kim đồng hồ để tạo cho mình một chứng cớ vắng mặt và sau đó không kịp ra khỏi phòng đúng lúc dự định vì nó đã nghe thấy một tiếng động hay là. Ê, chờ một tí!... Tôi vừa nảy ra một ý kiến...
Hai người bạn im lặng để nghe ông Bouc nói ý kiến của mình:
- Không phải kẻ sát nhân cải trang thành nhân viên hỏa xa đã xê dịch. Kim đồng hồ, mà là kẻ chúng ta đã gọi là tên sát nhân thứ 2... Người thuận tay trái... Người đàn bà mặt áo choàng đỏ. Bà ta đã đến trễ và xê dịch kim đồng hồ để tạo một chứng cớ vắng mặt cho mình. - ông Bouc thở dốc ra như hết hơi!
- Hoan hô! - Bác sĩ Constantine thốt lên. - Tưởng tượng rất hay!
- Tóm lại, - Poirot nói. - Bà ta đã đâm Ratchett trong tối mà không hề biết ông ta đã chết trước rồi - Nghi ngờ rằng Ratchett bỏ đồng hồ trong túi áo, bà ta đã lấy ra và cũng trong bóng tối xê dịch kim đồng hồ rồi đập mạnh đồng hồ xuống cho nó hỏng.
Ông Bouc lạnh lùng nói:
- Ông có một cách giải thích khác hơn không?
- Hiện giờ thì chưa. Tuy nhiên theo tôi thì cả hai ông đều không để ý đến một chi tiết rất quan trọng về cái đồng hồ.
- Đây có phải là câu trả lời cho câu hỏi số 6 không? - Bác sĩ hỏi. Để trả lời cho câu hỏi: Vụ án mạng có xảy ra lúc 1g15, là giờ do kim đồng hồ chỉ không? Tôi trả lời: không!
- Tôi cũng thế, - ông Bouc nói. - có thể là sớm hơn không? Tôi sẽ trả lời là có. Còn ông thì sao, ông Constantine?
Bác sĩ Constantine gật đầu và nói:
- Tuy nhiên, ta cũng có thể trả lời có cho câu hỏi tiếp theo: Vụ án mạng có thể xảy ra muộn hơn có lẽ ông Poirot cũng đồng ý với tôi. Kẻ sát nhân thứ nhất đã đến lúc 1g15 và kẻ thứ 2 sau 2g15. Vậy ta nên xem hành khách nào thuận tay trái.
- Tôi đã không bỏ chi tiết này, - Poirot nói. - Chắc ông cũng đã nhận thấy tôi đã mời tất cả những hành khách ký tên và viết địa chỉ của họ. Cuộc thí nghiệm này không mấy đúng vì có những người thuận tay phải khi làm việc này nhưng cũng có người thuận tay trái. Ví dụ họ có thể viết tay phải nhưng lại chơi Tennis bằng tay trái. Dù sao thì tất cả hành khách trên tàu đều đã viết tay phải, trừ công chúa Dragomiroff từ chối không chịu viết.
- Không thể nào buộc tội cho bà Dragomiroff được, - ông Boue nói.
- Tôi nghĩ là bà Dragomiroff không đủ sức đâm bằng tay trái. - Bác sĩ Constantine nhận xét, - một vài nhát đâm đã được giáng xuống rất mạnh.
- Vượt ngoài sức lực của người phụ nữ.
- Có thể không vượt ngoài sức lực của phụ nữ, nhưng ít ra cũng vượt ngoài sức lực của một người đàn bà lớn tuổi. Công chúa Dragomiroff có vẻ yếu đuối.
- Chúng ta không nên lấy ảnh hưởng của ý chí đối với sức lực của th.ân thể, - Poirot nhắc nhở. - Công chúa Dragomiroff có một cá tính và một ý chí rất mạnh nhưng chúng ta hãy sang câu hỏi khác đi.
- Ơ câu hỏi 9 và 10: Chúng ta có thể xác định là Ratchett không phải bị một người đâm và những vết thương khác do đâu mà có? với tư cách là bác sĩ, tôi nghĩ rằng ít nhất phải có hai kẻ sát nhân. Thật là điên rồ mới nói là một người có thể đâm thật nhẹ rồi thật mạnh bằng tay phải rồi lại tay trái và nữa giờ sau lại đâm tiếp nạn nhân!
- Đúng thế, - Poirot nói. - Theo ông. - sự hiện diện của một kê sát nhân thứ 2 có vẻ dễ tin hơn?
- Ông hãy thử tìm cho tôi một giải đáp hay hơn!
- Tôi không ngừng nghĩ đến điều đó. - Poirot thở dài đáp. - bây giờ, - vừa vỗ vào trán ông vừa tiếp, - chúng ta phải tìm trong này! Chúng ta đã nghiên cứu và sắp xếp có thứ tự những dữ kiện. Những hành khách đã đến đây và đã trả lời những cầu hỏi. Chúng ta đã biết tất cả những gì chúng ta có thể biết... Trừ bên ngoài. - Đến đây - Poirot mỉm cười thân mật với ông Bouc - Bạn thân mến, ông vẫn thường chế giễu cách làm việc này của tôi: ngồi và suy nghĩ để tìm ra sự thật từ đáy giếng... Vậy thì tôi sẽ làm việc theo cách này và cả hai ông cũng sẽ làm như tôi. Thử nhắm mắt lại và tập trung suy nghĩ.
- Ratchett đã bị giết bởi một hay nhiều người. Ai hoặc là những ai?

 
Chương III : Một vài chi tiết

15 phút trôi qua trong im lặng. Ông Bouc và bác sĩ Constantine cố gắng theo đúng sự chỉ dẫn của Poirot. Họ đang cố tìm ra sự thật. Ông Bouc nghĩ:
- Lẽ dĩ nhiên phải suy nghĩ. Từ nãy giờ mình chỉ làm có mỗi chuyện đó. Poirot nghĩ cho cô Debenham có dính líu đến vụ án. Theo mình thì không tin thế - có thể nghĩ cho gã người Ý. Thật uổng. Anh hầu phòng không có lý do gì để nói dối khi xác nhận rằng gã người Ý đã không rời phòng. Thật rắc rối. Không hiểu bao giờ thì tàu mới chạy lại được? Người ta phải nghĩ đến việc phải giúp chúng ta chứ. Cảnh sát Nam Tư lại sắp sửa gây rắc rối cho vụ này đây... Và cứ như thế suy nghĩ của ống Bouc bị phân tán dần dần.
Bác sĩ Constantine nghĩ:
- Anh chàng thám tử người Mỹ này thật kỳ lạ. Một thiên tài hay một thằng điên? Anh ta có tìm ra thủ phạm không? vô lý. Riêng mình thì chẳng còn hiểu ra sao nữa! Hay là tất cả hành khách đều nói láo. Nếu thế thì lại càng thêm rắc rối ... mình không sao giải thích được tất cả những vết thương trên tử thi... Một tên côn đồ Mỹ giết người bằng súng chứ... Hoa Kỳ... Đất nước của rối ren và phức tạp... Mình thích sang đó xem sao. Khi về, thế nào mình cũng phải gặp Démetrius Zagone. Anh ta đã đi sang Mỹ nhiều lần...

Và cứ như thế bác sĩ Constantine lại trầm ngâm suy nghĩ về... Nước Mỹ.
Hercule Poirot ngồi bất động, hình như ông ngủ.
Bỗng nhiên sau 15 phút im lặng hoàn toàn, Poirot thở dài và lầm bầm:
- Sao lại không nhỉ? Nếu như thế thì mọi việc đều được giải thích.
Poirot mở mắt - cặp mắt xanh như mắt mèo - nói với ông Bouc và bác sĩ Constantine.
- Tôi đã suy nghĩ, còn các ông?
Đang thả hồn vào giấc mộng, cả hai đều giật mình.
- Tôi cũng thế, - ông Bouc nói. - Nhưng tôi chẳng tìm ra được gì. Tìm ra thủ phạm là nghề của ông chứ không phải của tôi.
- Tôi cũng đã suy nghĩ, - bác sĩ Constantine nói, - tôi đã có nhiều suy nghĩ nhưng chẳng có cái nào vừa ý cả!
Poirot gật gù như muốn nói: Tôi biết mà!
- Ông ngồi thẳng dậy, vuốt râu, ưỡn ngực và nói như đang thuyết trình:
- Các bạn, tôi đã lần lượt xem lại những lời khai của hành khách và tôi đã tìm ra một giải thích mặc dù chưa được rõ ràng lắm, nhưng cũng có thể trả lời một phần nào cho chúng ta. Trước khi xác định câu trả lời này là tốt nhất, tôi còn phải xem lại một vài vấn đề nữa.
- Trước hết, xin phép cho tôi có vài nhận xét khá quan trọng.
- Cũng ở chỗ này, vào bữa cơm trưa cuối cùng, ở toa ăn này, ông Boue đã cho tôi một nhận xét rất hay: ông nói là trên chuyến tàu này tập trung nhiều hạng người, đủ mọi tầng lớp và mọi quốc tịch. Việc như vậy rất hiếm vào mùa này. Với thời tiết khỉ gió này thì chuyến tàu tốc hành rất vắng khách. Ngoài ra, một hành khách có đăng ký nhưng không đến. Tôi cũng xin nêu lên những chi tiết khác. - Vị trí túi xách của bà Hubbard. Tên của mẹ bà Armtrong. Cách làm việc của anh chàng thám tử tư Hardman. Tên của bà Dragomiroff. Vết mờ trên số thông hành người Hung và lời khai của Mác Queen với mảnh giấy bị đốt trong phòng Ratchett. Anh ta đã nói rằng chính Ratchett đã đốt tờ giấy này!
Hai người đàn ông nhìn Poirot, không hiểu.
- Sao? Tất cả những điều đó không quan trọng đối với các ông à?
- Hoàn toàn không. Ông Bouc thật thà nói.
- Còn ông, thưa bác sĩ.
- Tôi chẳng hiểu, ông muốn chứng minh điều gì?
- Ông Bouc lục trong xấp thông hành và rút số thông hành của vợ chồng quận công Andrenyi ra.
- Có phải vết này không?.
- Phải, nó còn mới, và hãy nhìn xem vết mờ ở đâu.
- Ngay ở đầu tên bà Andrenyi... Đúng hơn là trên chữ đầu tiên của tên bà ấy. Nhưng thú thật là tôi vẫn chưa hiểu gì.
- Ông sẽ hiểu. Chúng ta sẽ trở lại chuyện cái khăn tay tìm thấy ở hiện trường. Như chúng ta đã nói khi nãy. Ba nữ hành khách có chữ đầu của tên là H: bà Hubbard, cô Harmion Debenham và cô Hildegarde Schmidt, cô hầu của công chúa Dragomiroff. Chúng ta hãy xem xét chiếc khăn tay dưới một khía cạnh khác. Đó là một chiếc khăn làm bằng vải mỏng, được thêu bằng tay và rất đắt tiền. Có lẽ được mua ở Paris. Ai trong các nữ hành khách, nếu chúng ta không để ý đến chữ “H” thêu trên khăn, có khả năng mua cái khăn này? Chắc không phải bà Hubbard, vì quần áo và đồ dùng của bà không cầu kỳ. Chắc cũng không phải cô Debenham: Loại người này chỉ dùng những thứ khăn vải bình thường. Còn cô hầu phòng, chiếc khăn này quá đắt đối với cô ta. Nhưng trên tàu này còn hai nữ hành khách khác chúng ta hãy thử xem chữ “H” có trùng hợp với tên họ không? trước hết công chúa Dragomiroff.
- Tên của bà ta là Natalia mà, - ông Bouc nói giọng mỉa mai.
- Đúng đấy. Như thế công chúa Dragomiroff vô can. Bây giờ đến bà Andrenyi. Ở đây điều làm chúng ta chú ý là ...
- Ông nên nói điều làm ông chú ý đi.
- Cũng được. Điều làm tôi chú ý là trên số thông hành, tên của bà ta lại bị dính mở. Người ta có thể cho đó là một sự vô ý. Nhưng các ông hãy chú ý đến cái tên Elena. Chữ “H” hoa phía sau có thể đã bị sữa thành chữ E và che mất chữ E tiếp theo... Một vết mờ đã ngay đúng chổ có thể che đậy được điều này.
- Helena! - ông Bouc thốt lên. - Chà đó là một ý kiến hay đấy!
- Dĩ nhiên. Tôi đã tìm một lý lẽ để xác định sự nghi ngờ của tôi dù cho nhỏ. Và cuối cùng tôi đã tìm ra. Một miếng nhãn nhỏ dán trên vali của bà Andrenyi vẫn còn hơi ướt và được dán ngay trên chữ đầu tiên của tên bà Andrenyi. Nhãn đó đã được gỡ ra và dán vào chỗ khác.
- Ông bắt đầu thuyết phục được tôi rồi đấy, - ông Bouc nói. - Nhưng bà Andrenyi...
- Bây giờ, thưa các ông, chúng ta hãy xem vụ án dưới một khía cạnh khác. Vụ án này dưới mắt cảnh sát sẽ được xem như thế nào? Chúng ta không nên quên rằng tuyết đã làm xáo trộn mọi dự tính của kẻ sát nhân. Cứ thử nghĩ xem rằng tàu không bị kẹt vì nghẽn đường con tàu sẽ đi binh thường và chuyện gì sẽ xảy ra?
- Vụ án chắc chắn sẽ được phát giác ra ở biên giới Ý. Tất cả những hành khách sẽ cung cấp mọi dữ kiện cho cảnh sát. Mac Queen sẽ đưa ra những bức thư hăm dọa. Ông Hardman sẽ kể câu chuyện của ông ta. Bà Hubbard cũng sẽ nói có một kẻ lạ mặt đã vào phòng, cái khuy sẽ được đưa ra. Nhưng theo tôi thì sẽ có hai chi tiết khác: Kẻ lạ mặt đã vào phòng bà Hubbard trước một giờ... Và người ta sẽ tìm ra bộ đồng phục của nhân viên hỏa xa trong phòng vệ sinh.
- Ông nói sao?
- Tôi nói là vụ án đã được đàn dựng lên để cho người ta lầm tưởng kẻ sát nhân đến từ bên ngoài.. Sau khi giết Ratchett xong, hắn đã bỏ trốn. Người ta sẽ nghĩ rằng hắn đã xuống ga Brod, ga mà tàu phải đến lúc 0g58. Một người nào đó đã gặp một nhân viên phục vụ lạ mặt ở hành lang. Bộ đồng phục để lại đã tố giác ý định của kẻ sát nhân. Như vậy, không ai trong hành khách sẽ bị nghi ngờ. Đó là tất cả những gì thực sự phải xảy ra.
- Nhưng việc nghẽn tàu đã làm đảo lộn tất cả dự tính. Đó là lý do tại sao kẻ sát nhân lại phải nán lại phòng nạn nhân lâu thế. Không còn hy vọng là con tàu sẽ tiếp tục đi lại, bắn đã có ý định thay đổi kế hoạch vì người ta sẽ biết là kẻ sát nhân chưa hề rời tàu.
- Tôi hiểu rồi, - ông Boue nói, - nhưng trong chuyện này cái khăn tay là thế nào?
- Tôi sẽ trở lại. Trước hết, các ông phải biết là những bức thư hăm dọa chỉ là một cái bẫy cho cảnh sát. Những bức thư này có thể đã được chép trong bất cứ tiểu thuyết trinh thám nào. Chúng ta phải hỏi là: Những bức thư này có làm Ratchett nao núng không? Hình như không! Theo những lời dặn dò của Ratchett cho Hardman, thì Ratchett sợ một kẻ thù riêng tư mà Ratchett biết rõ danh tánh. Điều này nếu chúng ta tạm tin vào sự thành thật của Hardman. Nhưng Ratchett đã nhận một lá thư mang tính cách hoàn toàn khác... Cái thư có liên quan đến vụ Armtrong mà chúng ta đã tìm thấy một mảnh trong phòng nạn nhân. Lá thư này nhằm mục đích cho Ratchett biết lý do tại sao cuộc sống của mình bị đe dọa. Bức thư này không thể lọt vào tay cảnh sát cho nên kẻ sát nhân đã vội vàng đốt đi. Đó là chướng ngại vật thứ hai cho sự thành công của kế hoạch của kẻ sát nhân: Đầu tiên là tuyết, sau đó là việc chúng ta tìm ra mảnh giấy bị đốt.
- Sự thận trọng của kẻ sát nhân khi đốt mảnh giấy chứng tỏ một hành khách trên tàu dính líu mật thiết đến gia đình Armtrong. Và việc tìm ra mảnh giấy đủ để nghi ngờ hành khách này.
- Chúng ta hãy sang hai tang chứng khác: Không nói đến cái nạo ống điếu mà ta đã đề cập đến nhiều rồi. Trước tiên là cái khăn tay, nó làm cho những hành khách có tên đầu là “H” dính líu vào vụ án. Chiếc khăn này chắc vì bất cẩn đã bị rơi ở hiện trường..
- Đúng lắm, - bác sĩ Constantine nói. - Và kẻ ấy sau khi biết mình mất khăn đã vội vàng sửa lại tên mình.
- Ông đi nhanh quá đấy. Tôi không dám kết luận sớm thế đâu!
- Còn kết luận nào khác hơn.
- Dĩ nhiên, cứ thử nghĩ là ông vừa giết người và muốn cho người khác bị nghi ngờ, ông biết rằng trên tàu có một phụ nữ bạn thân với gia đình Armtrong... Cứ cho là ông đã làm rơi ở hiện trường chiếc khăn tay của phụ nữ đó... Người ta sẽ hỏi cung và sẽ tìm ra sự quan hệ của phụ nữ này với gia đình Armtrong.. Và bây giờ đã có lý do của một tang chứng buộc tội.
- Nếu thế, - bác sĩ Constantine nói, - người bị nghi ngờ, vì sự vô tội của mình, sẽ không dấu danh tánh nữa.
- Thật không? ông nghĩ thế à? ông bạn ơi, tôi biết thế thái nhân tình lắm. Trước sự đe dọa đột ngột bị nghi là thủ phạm, người phụ nữ vô tội nhất, sẽ mất bình tĩnh và làm mọi việc điên rồ. Vết mờ trên, số thông hành và sự thay đổi những nhãn tên, hành lý không chứng minh là bà Andrenyii có tội, mà chỉ cho chúng ta biết rằng, vì một lý do cá nhân nào, bà Andrenyii muốn dấu danh tánh mình.
- Không hiểu bà ta liên hệ gì với gia đình Armtrong. Bà ta có bao giờ ở Mỹ đâu!
- Đó là bà ấy nói vậy, bà Andrenyi nói tiếng Anh không thông thạo và đôi khi làm ra vẻ giống Á đông. Tuy nhiên tôi muốn biết mẹ bà Andrenyi là ai. Mẹ của bà Armtrong là Linda Arden, một kịch sĩ nổi tiếng... Tuyệt vời trong những vai trò của các vở bi kịch Shakespeare. Các ông có còn nhớ trong hai vở Ý muốn có đề cập đến rừng Ardeni và Rosalinde. Đó là điều đã gợi ý cho bà cái tên Linda Arden. Dưới cái tên này bà đã nổi danh trên toàn thế giới. Nhưng tên thật của Linda Arden có thể là Goldenberg ... tổ tiên của Linda Arden có thể là người Trung Á. Nếu thế thì Linda Arden có mang dòng máu Ixraen. Thưa các ông, người em gái của bà Armtrong, khi thảm kịch xảy ra mới chỉ là một cô bé, là Helena Goldenberg. Cô con gái thứ hai của Linda Arden: Helena đã lấy quận công Andrenyi. Tùy viên tại sứ quán, khi ông này công tác tại Washington.
- Nhưng công chúa Dragomiroff đã nói với chúng ta là cô con gái thứ hai của Linda Arden đã lấy một người Anh mà!
- Phải, một người Anh mà bà không nhớ tên. Khó tin! công chúa Dragomiroff là bạn thân thiết của Linda Arden và có thể bà là mẹ đỡ đầu của một trong hai cô con gái... Vậy mà bà lại quên một cách nhanh chóng tên chồng của cô con gái thứ hai của Linda Arden. Khó tin lắm! tôi có thể nói là bà Dragomiroff đã nói dối chúng ta. Bà biết là Helena cùng đi trên chuyến tàu này và bà đã thấy Helena. Ngay sau khi công chúa Dragomiroff biết danh tánh của Ratchett, bà nghĩ ngay rằng Helena sẽ bị nghi ngờ. Vì thế khi chúng ta hỏi bà về cô em gái của bà Armtrong, bà Dragomiroff đã trả lời một cách mơ hồ.
Một người hầu trong toa tàu ăn bước vào và hỏi ông Boue:
- Thưa ông có dọn cơm không ạ?
Ông Bouc đưa mắt dò hỏi Poirot:
- Lẽ dĩ nhiên, - Poirot nói.
Anh hầu ra ngoài và chẳng bao lâu chuông báo cơm vang lên.
 
Chương IV: Vết mỡ trên thông hành.

Cả ba người ăn cùng bàn. Những hành khách tập trung trong toa ăn đều yên lặng. Ngay cả bà Hubbard nói nhiều cũng biếng mở miệng. Khi ngồi vào bàn, bà lẩm bẩm:
- Tôi chẳng muốn ăn.Tuy nhiên bà ta ăn hết tất cả thức ăn được dọn lên và cô Greta Ohlson ngồi cạnh, không ngừng săn sóc bà.
Bắt đầu bữa ăn, Poirot đã kéo người hầu trưởng lại và nói thầm với anh ta. Bác sĩ Constantine đoán được những lời dặn dò của Poirot khi trông thấy vợ chồng quận công Andrenyi bao giờ cũng ăn sau những hành khách khác. Cho nên đến cuối bữa ăn họ phải chờ tính tiền và họ là người cuối cùng rời toa ăn.
Khi vợ chồng quận công Andrenyi đứng lên, và đi về phía cửa, Poirot mới nối gót họ.
- Xin lỗi bà, bà đã làm rơi chiếc khắn tay.
Nói xong, Poirot đưa cho bà Andrenyi cái khăn có thêu chữ “H”.
Bà Andrenyi cầm lấy khăn nhìn. Sau đó bà đưa lại và nói:
- Ông nhầm rồi thưa ông, chiếc khăn này không phải của tôi.
- Bà chắc chứ?
- Thưa ông chắc chắn.
- Nhưng nó có thêu tên bà mà. Chữ “H” đây.
Quận công Andrenyii lộ vẻ bực mình, nhưng Poirot không hề chú ý tới, ông nhìn bà Andrenyi chầm chặp.
Không hề nao núng, bà Andrenyi trả lời:
- Thưa ông tên đầu của tôi là “E.A”.
- Xin lỗi bà, tên bà là Helena chứ không phải là Elena... Helena Goldenberg, con gái thứ hai của Linda. Arden Helena Goldenberg, em gái của bà Armtrong.
Một không khí nặng nề bao trùm lấy toa ăn. Vợ chồng quận công Andrenyii tái mặt một lúc, sau Poirot nói bằng một giọng ôn tồn:
- Không cần chối nữa thưa ông bà. Đó là sự thật, phải không thưa bà?
Quận công Andrenyi nhảy chồm lên tức giận.
- Ông có quyền gì...?
Bà Andrenyii đưa tay lên miệng chồng như ngăn lại và nói:
- Em xin anh. Anh Rudolph hãy để em nói. Chối chẳng ít gì? Chàng ta nên ngồi xuống đây nói chuyện.
Quận công Andrenyi im lặng và họ cùng ngồi xuống ghế trước mặt Poirot.
- Thưa ông, tôi chính là Helena Goldenberg. Em gái của bà Armtrong.
- Sáng nay bà đã không nói thế, thưa bà.
- Vâng.
- Nếu thế thì lời khai của ông bà chỉ toàn là dối trá.
- Kìa ông! - Quận công Andrenyi nói to.
- Anh hãy bình tĩnh đi Rudolph. Ông Poirot không khéo nói, nhưng những gì ông ấy nói đều đúng
- Tôi rất mừng là bà đã thành thật. Xin bà vui lòng cho tôi biết tại sao bà lại sửa tên trên thông hành.
- Việc này chỉ liên quan đến tôi thôi. - Quận công Andrenyi nói.
Helena bình tĩnh nói:
- Thưa ông Poirot, ông biết rõ lý do của tôi. Người đàn ông bị giết tối qua là kẻ sát nhân cháu gái tôi...
- Anh chị tôi đã chết vì buồn khổ. Hắn đã lấy đi mất ba người thân thiết nhất của tôi.
Giọng Helena run lên vì xúc động. Bà đúng là con gái của một kịch sĩ nổi tiếng đã làm rơi lệ biết bao nhiêu khán giả!
Ngừng một lúc, Helena tiếp bằng một giọng bình thường.
- Trong tất cả hành khách ở đây, tôi là người có lý do chính đáng nhất để giết hắn.
- Bà không giết hắn chứ, thưa bà?
- Tôi xin thề là không, thưa ông. Chồng tôi đây cũng sẵn sàng thề với tôi. Dù cho tôi có mong muốn làm điều đó. Nhưng tôi không hề chạm vào hắn ta.
- Thưa các ông, tôi xin lấy danh dự bảo đảm là vợ tôi đã không rời phòng tối qua, Andrenyi nói. Như tôi đã nói, Helena đã uống thuốc và ngay sau đó ngủ vùi. Cô ấy hoàn toàn vô tội.
Poirot đưa mắt nhìn 2 vợ chồng Andrenyi.
- Tôi xin thề danh dự, quận công Andrenyi lặp lại một lần nữa.
Poirot gật đầu.
- Ông đã không ngần ngại sửa tên trên thông hành.
- Ông Poirot ạ, - quận công Andrenyi nói. - Ông hãy nghĩ đến địa vị của tôi. Làm sao tôi có thể chấp nhận cha vợ tôi bị đưa ra tòa vì một vụ án mạng được? Tôi biết cô ấy vô tội. Nhưng vì sự liên hệ gia đình Armtrong, chắc chắn cô ấy sẽ bị nghi ngờ - Người ta sẽ hỏi cung, và ai mà biết được? Có khi còn bị bắt nữa! Nếu sự không may đã run rủi cho chúng tôi đi cùng một chuyến tàu với Ratchett thì tôi còn cách quyết định nào khác đâu? Tôi xin thú nhận, thưa ông, tôi đã dối ông... Nhưng tôi xin thề một lần nữa vợ tôi không hề ra khỏi phòng đêm qua!
- Giọng thành khẩn của Andrenyi không thể làm cho sự thành thật của ông bị nghi ngờ.
- Tôi không hề nghi ngờ lời ông, - Poirot nói. - Hình như gia đình ông là gia đình quý tộc. Như vậy nếu vợ ông bị dính líu vào một vụ án thì đó là một điều phiền phức. Nhưng làm thế sao giải thích chiếc khăn tay của bà nhà trong phòng nạn nhân?
- Một lần nữa tôi xin nói, chiếc khăn tay đó không phải của tôi.
- Dù cho nó có thêu chữ H.
- Vâng, thưa ông. Tôi có những khăn tay giống như vậy. Nhưng tôi không có cái nào kiểu như thế. Tôi nghĩ rằng thuyết phục ông cũng vô ích nhưng tôi vẫn cứ nói: Chiếc khăn này không phải của tôi
- Có thể thủ phạm đã vất lại hiện trường cho bà bị nghi ngờ.
Helena Andrenyi mỉm cười:
- Ông cứ muốn nhử tôi khai. Vậy thì đây là lần thứ ba tôi nói là chiếc khăn này không phải của tôi.
- Nếu nó không phải của bà, tại sao bà lại sửa thông hành?
Quận công Andrenyi xen vào:
- Nghe nói đã tìm thấy một chiếc khăn tay có thêu chữ “H” trong phòng Ratchett. Chúng tôi đã bàn cãi với nhau về điều này, tôi đã cho Helena thấy sự nguy hiểm nếu người ta biết là tên cô ấy bắt đầu bằng chữ “H”. Họ sẽ hỏi đủ thứ. Vậy thì dễ nhất là nên đổi Helena thành Elena.
- Thưa quận công, ông có tính khí của một kẻ sát nhân, - Poirot nhận xét. - ông có sự lanh lợi tự nhiên và lương tâm ông không hề sợ trách nhiệm.
- Không, không ông Poirot ạ, chỉ vì tôi nên anh ấy đã phải làm như thế thôi. Tôi sợ, sợ kinh khủng. - Helena nói. - Cứ nghĩ là người ta sẽ khơi lại tất cả dĩ vãng cũng đủ làm cho tôi kinh hãi... Ngoài ra, tôi còn sợ bị liên lụy và bị tù nữa. Ông Poirot bộ ông không hiểu sự lo lắng của tôi sao?
Helena bào chữa cho mình bằng một giọng ấm trầm bỗng, giọng nói của nữ kịch sĩ nổi tiếng Linda Arden.
Poirot nhìn Helena có vẻ ái ngại.
- Nếu bà muốn tôi tin, và tôi cũng muốn tin bà lắm, thì bà phải giúp tôi.
- Tôi giúp ông?
- Phải, nguyên nhân của vụ án nằm ở dĩ vãng, ở thảm kịch đã làm tan nát gia đình bà và vẫn đục thời thơ ấu của bà. Bà hãy cho tôi biết về dĩ vàng đó để tôi có thể tìm ra sự liên hệ với vụ án này!
- Nói gì bây giờ? tất cả những nhân chứng đều đã chết, chết hết: Robert Sonia, và cháu gái Daisy yêu dấu của tôi. Nó xinh xắn làm sao với những lọn tóc vàng! Tất cả chúng tôi đều yêu nó.
- Có một nạn nhân nữa, thưa bà, chúng ta có thể gọi đó là một nạn nhân gián tiếp.
- Phải, tội nghiệp cho Suzanne. Tôi quên mất cô ta. Cảnh sát đã hỏi cung cô ta. Pháp luật cứ một mực nghi cô ta đã cung cấp tin cho bọn khốn khiếp, ít ra cũng là vô tình. Hình như cô ấy đã nói chuyện và biết giờ giấc những cuộc đi dạo chơi của Daisy. Suzanne đã hốt hoảng lên, cô ấy nghĩ lại người ta đổ trách nhiệm cho mình về cái chết của Daisy. Thật kinh khủng!
Đến đây; Helena lấy tay bưng mặt vì quá xúc động.
- Cô Suzanne thuộc quốc tịch nào?
- Cô ấy người Pháp.
- Tên họ gia đình cô là gì?
- Thật ra, tôi lại không nhớ ...Chúng tôi đều gọi cô ấy là Suzanne. Một cô gái tươi tắn, rất yêu quí Daisy.
- Cô giữ nhiệm vụ giữ trẻ phải không?
- Thưa phải.
- Cô y tá là ai? (1)
- Một cô y tá ở bệnh viện tên là Stigelberg. Cô ta săn sóc Daisy và chị tôi rất chu đáo.
- Bà hãy nghĩ kỹ trước khi trả lời câu hỏi này: Bà có thấy trên tàu một người quen nào không?
Helena nhìn thẳng vào mặt Poirot:
- Tôi ấy à? Không chẳng có ai quen trên tàu cả.
- Vậy còn công chúa Dragomiroff thì sao?
- Bà ta à? Tôi đâu có quen bà ấy. Tôi tưởng ông muốn nhắc đến một người quen lúc thảm kịch xảy ra chứ.
- Thưa bà vâng, bà hãy nghĩ kỹ. Năm tháng đã trôi qua, con người có thể thay đổi; hình dáng, khuôn mặt ...
Helena trầm ngâm suy nghĩ một lúc và nói:
- Không ...không có ai hết!
- Ngay bà, lúc bấy giờ chắc cũng còn nhỏ. Có ai giúp bà trong việc học hay chăm sóc bà không?
_ Ồ, có chứ! Một bà vừa chăm sóc tôi, vừa là thư ký của Sonia...Một người đàn bà có mái tóc đỏ.
- Bà ta tên gì?
- Cô Freebody.
- Trẻ hay già?
- Tôi thấy bà ta già lắm nhưng chắc bà ấy không quá 35 tuổi đâu.
- Còn ai khác trong nhà không?
- Chỉ có những gia nhân.
- Và bà chắc chắn, hoàn toàn chắc chắn là không nhận ra một ai quen trên tàu này chứ?
- Vâng, thưa ông, hoàn toàn chắc chắn.
Chú thích:
[1] Trong những gia đình quý tộc Anh thường mướn y tá để chăm sóc sức khỏe đứa bé.
 
×
Quay lại
Top