Chữa trị viêm túi mật cấp bằng thuốc gì?

TrinhMinhCanh

Thành viên
Tham gia
4/9/2013
Bài viết
1
Viêm đường mật - túi mật là biến chứng thường gặp nhất của sỏi và giun đũa chui vào đường mật - túi mật, nhất là khi có tắc nghẽn ống mật. Trong nhóm bệnh lý này, thuốc chữa viêm túi mật là một cấp cứu về tiêu hóa, thường do sỏi mật gây nên. Bệnh hay gặp ở nữ, tuổi thường gặp từ 40 - 60 tuổi. Bệnh cần được chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời để phòng những biến chứng có thể dẫn tới tử vong.
diễn đạt của bệnh như thế nào?
Khi có sỏi đường mật, nhất là sỏi cổ túi mật hoặc giun chui đường mật sẽ gây tắc nghẽn đường mật, muối mật kích thích gây thương tổn thành túi mật, lúc đó vi khuẩn sẽ thâm nhập vào trong túi mật và phát triển gây ra viêm túi mật cấp.
Bệnh gây ra do vi khuẩn chiếm đến 50-85% trường hợp. Vi khuẩn thường gặp là E. coli, Klebsiella, Streptococcus nhóm D, Staphylococcus, và Clostridium.
nhan_biet_nhiem_khuan_duong_mat_0.jpg

Thường phát khởi bởi cơn đau quặn gan, sau đó diễn tiến đưa đến nhiễm trùng và tắc mật. Có khoảng 60-70% bệnh nhân với cơn đau đầu tiên tự lui bệnh. ngoại giả những cơn đau kéo dài về sau sẽ đưa đến đau lan tỏa cả vùng hạ sườn phải, lan đến vùng bả vai phải, vai phải.
Đau tăng khi ho và hít sâu, bệnh nhân thường nôn và chán ăn; vàng da chỉ xuất hiện khi có viêm phù nề hà hoặc hạch chèn ép vào đường dẫn mật chính nên thường không có hoặc đến muộn.
Chẩn đoán bệnh dựa vào lâm sàng, xét nghiệm công thức máu, bilirubin máu và siêu âm hệ thống gan mật.
Nếu không chẩn đoán và điều trị kịp thời thì có khá nhiều biến chứng có thể xảy ra, thậm chí có cả những biến chứng gây nguy hiểm đến tính mạng người bệnh. Các biến chứng thường gặp là viêm mủ túi mật, ứ nước túi mật, hoại thư và thủng túi mật.
Điều trị
Điều trị nội khoa: nghỉ ngơi, truyền dịch để nuôi dưỡng và cân bằng nước điện giải. Dùng các thuốc giảm đau, giãn cơ trót lọt như nospa hay sparmaverin. Kháng sinh là thuốc đầu tay, hiện thời có rất nhiều kháng sinh có thể lựa chọn với ưu tiên là các kháng sinh có phổ tác dụng trên vi khuẩn gram âm như quinolon thế hệ 2 và kháng sinh có tác dụng trên các vi khuẩn kỵ khí như nhóm imidazole. Tùy theo tình trạng, tùy theo mức độ và tùy theo điều kiện thực tiễn mà bác sĩ sẽ cho chỉ định điều trị hợp lý.
Nhóm imidazole (metronidazole, tinidazole, ornidazole): thuốc có tác dụng tốt với các nhiễm khuẩn do các vi khuẩn kỵ khí, nhất là nhiễm khuẩn tiêu hóa và giá thành rẻ nhưng khi dùng thuốc kéo dài cần lưu ý vì có thể gặp tác dụng phụ như chóng mặt, buồn nôn, nôn, đau vùng thượng vị, nổi mày đay... các dấu hiệu này thường nhẹ và hết sau khi cơ thể đào thải hết. Đặc biệt đối với bệnh nhân có tiền sử rối loạn huyết động học khi sử dụng dài ngày loại thuốc này nhất quyết phải được theo dõi công thức bạch huyết cầu. Thuốc này không được dùng cho phụ nữ có thai 3 tháng đầu hoặc trong thời kỳ cho con bú.
Trong nhóm quinolon thế hệ 2, ciproflocacin hoặc peflacin là thuốc được lựa chọn đầu tiên trong điều trị bệnh lý nhiễm khuẩn tiêu hóa do giá thành rẻ, hiệu quả cao. Thuốc thu nhận nhanh và dễ dàng qua đường tiêu hoá, sinh khả dụng khoảng 70 - 95%. Thức ăn và các thuốc kháng acid làm chậm kết nạp thuốc. Phân bố rộng khắp các mô và dịch cơ thể ít qua hàng rào máu não ở người bình thường nhưng khi màng não bị viêm thì thâm nhập tốt hơn. Qua được nhau thai và sữa mẹ. ngoài ra, khi dùng thuốc có một số tác dụng không mong muốn có thể xảy ra như rối loàn tiêu hoá như buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy; gây đau nhức xương khớp, kém phát triển xương khớp nhất là ở tuổi đang phát triển; tuy nhiên có thể có các biểu hiện khác như nhức đầu, chóng mặt, buồn ngủ, có trường hợp khích động, động kinh nhất là khi dùng cùng với theophylin, tăng bạch cầu ưa acid, giảm bạch huyết cầu lympho, giảm bạch cầu đa nhân, giảm tiểu cầu, thiếu máu.
Trong trường hợp bệnh nặng cần sử dụng phối hợp kháng sinh và dùng bằng đường tiêm, thường kết hợp thêm với cephalosporin thế hệ 3 như cefotaxim, ceftriazon hoặc cefuroxim. bên cạnh đó cần chú ý đến nhiễm các vi khuẩn kị khí, do đó cần phối hợp thêm metronidazol hoặc clindamycin (dalacin).
Điều trị ngoại khoa:
- Mổ cấp cứu: Trong trường hợp không đáp ứng với điều trị nội khoa mà tình trạng nhiễm trùng nhiễm độc nặng hoặc có biến chứng ngoại khoa như túi mật hoại tử, thấm mật phúc mạc và viêm phúc mạc mật. hiện thời thường mổ túi mật qua đường nội soi.
Trong trường hợp thuốc viêm túi mật hoại tử cũng khởi đầu là viêm túi mật cấp do sỏi hoặc không nhưng sau đó do thiếu máu và hoại tử thành túi mật, do các vi khuẩn sinh hơi kị khí. Tử vong loại này thường cao hơn, bởi thế trong những trường hợp này cần mổ sớm cho bệnh nhân và kết hợp với hồi sức kháng sinh ăn nhập.
- Mổ phiên: Thường sau một đợt điều trị nội khoa để ổn định nhiễm trùng, nhất là ở người già có bệnh tim mạch, đái toá đường để chuẩn bị bệnh nhân được tốt hơn.
 
×
Quay lại
Top