Cánh buồm đỏ thắm – Alexandre Grin

Thứ lụa đó có màu rực như nắng hồng buổi sớm, tỏa ra niềm vui rộn ràng, cao quý, kiêu hãnh. Đó chính là thứ màu mà Grây cần tìm. Nó không có những sắc thái pha tạp của màu lửa, màu hoa anh túc, không có những hàm ý của màu hoa Vi-ô-lét hoặc màu hoa cà, cũng không có sắc xanh hay đen có thể làm cho ta nghi ngờ. Nó chỉ thắm hồng lên như một nụ cười duyên phản ánh tâm hồn. Grây say sưa ngắm thứ lụa tuyệt vời đó đến nỗi quên cả viên chủ hiệu đang đứng chờ sau lưng với vẻ chăm chú của con chó săn vừa vớ được mồi ngon. Chờ một lúc, viên chủ hiệu sốt ruột nhắc khéo Grây bằng cách xé xoạt một mảnh lụa nhỏ.
- Thôi, không cần cho xem hàng mẫu nữa, – Grây đứng dậy nói. – Tôi sẽ lấy thứ lụa này.
- Ông lấy cả súc vải này chứ? – Viên chủ hiệu hỏi, giọng lộ vẻ nghi ngờ. Nhưng Grây im lặng nhìn vào trán y, điều này làm cho y trở nên mạnh dạn hơn. – Vậy ông lấy bao nhiêu mét?
Grây gật đầu ra hiệu cho y chờ một lát. Anh lấy bút chì ra tính toán số lượng vải cần đến.
- Hai nghìn mét, – Grây nói, – Mắt hồ nghi nhìn lên quầy hàng. – Phải rồi, không quá hai nghìn mét.
- Hai? – Viên chủ hiệu giật thót người, bật hỏi lại. – Hai nghìn ư? Hai nghìn mét? Xin mời ông ngồi, thưa thuyền trưởng. Ông có muốn xem thêm hàng mẫu nữa không ạ? Xin tùy ông. Diêm đây ạ, còn đây là thuốc lá thượng hảo hạng, xin mời ông dùng thử. Hai nghìn… , mỗi mét giá… – viên chủ hiệu xướng giá tiền chẳng lấy gì làm thật thà cho lắm. Nhưng Grây cũng chẳng buồn mặc cả với y, anh đang hài lòng với thứ vải mình vừa chọn được, – viên chủ hiệu tiếp tục nói. – Không chê vào đâu được, chỉ có bản hiệu đây mới có thứ hàng đó đấy ạ. – Để cho y tỏ hết sự hân hoan xong, Grây thỏa thuận với y về phương thức lấy hàng. Anh thanh toán với y mọi khoản phí tổn rồi cáo từ. Viên chủ hiệu tiễn anh với vẻ trịnh trọng như tiễn một hoàng đế Trung hoa. Vào lúc ấy, bên kia đường gần cửa hiệu vừa rồi, có một nhạc công lang thang đang bắt cây đàn Vi-ô-lông-xen của mình phát ra âm thanh buồn buồn tha thiết. Bạn anh, một người thổi sáo, cũng đang hoà cùng anh bài ca giản dị, du dương. Âm điệu bản đàn tản ra trong cái nóng oi bức của ngày hè và vọng đến tai Grây. Anh hiểu ngay rằng mình phải làm điều gì. Nói chung là vào những ngày ấy anh đang sống trong trạng thái tinh thần phấn chấn, trạng thái cho phép anh nhận ra mọi hàm ý, mọi điều mách bảo của thực tiễn. Anh nghe thấy những âm thanh bị át đi trong tiếng xe cộ qua lại ồn ào, và theo tính cách riêng của anh, tiếng nhạc ấy gợi cho anh bao ấn tượng và suy nghĩ quan trọng. Anh cảm thấy những điều anh nghĩ sẽ diễn ra tốt đẹp. Đi qua một ngõ hẹp, anh bước vào cổng ngôi nhà có mấy nhạc công đang biểu diễn. Lúc này, họ đã sắp đi nơi khác. Người thổi sáo, dáng cao cao, đang ngả mũ ngượng ngùng chào cám ơn những ai vừa ném tiền xuống qua cửa sổ. Người kéo Vi-ô-lông-xen để đàn dựa vào khuỷu tay, một tay đưa lên lau mồ hôi trán, đang chờ bạn.
- Trời, anh Xim-me đấy à! – Grây nói với anh ta, nhận ra đó là người thường kéo Vi-ô-lông rất hay, tối tối vẫn mua vui cho đám thuỷ thủ – khách hàng của quán “Tiền dành cho rượu” trên bến cảng. Sao anh lại bỏ đàn Vi-ô-lông?
- Thưa thuyền trưởng kính mến, – Xim-me đáp lại với giọng đầy hãnh diện, – tôi có thể chơi được mọi thứ đàn. Hồi còn trẻ tôi làm chân nhạc công hề trong rạp xiếc. Bây giờ thôi thèm được làm nghệ thuật một cách tử tế, và tôi buồn rầu nhận thấy rằng tôi đã tự huỷ hoại tài năng của mình. Bởi vậy bây giờ do chút tham lam muộn màng, tôi yêu một lúc hai thứ đàn: đàn Vi-ô-lông và đàn Vi-ô-lông-xen. Ban ngày thì chơi đàn Vi-ô-lông-xen, buổi tối thì chơi Vi-ô-lông, cũng thể như tôi than khóc cho tài năng đã chết. Thuyền trưởng có định thết anh em bữa rượu nào không? Vi-ô-lông-xen là cô Các-men của tôi. Còn Vi-ô-lông là…
- Là A-xôn, – Grây nói tiếp.
Xim-me không nghe rõ lời Grây.
- Phải rồi, – Xim-me gật gù, – xô-lô bằng kèn hơi hay đánh chũm choẹ một mình là một việc hoàn toàn khác. Nhưng mà chuyện đó thì liên quan gì đến tôi kia chứ? Cứ để kệ cho các anh hề trong nghệ thuật muốn làm gì thì làm. Còn tôi, tôi bao giờ cũng tin rằng các nàng tiên đã chọn Vi-ô-lông và Vi-ô-lông-xen làm chỗ nghỉ.
- Thế trong cây sáo của tớ thì thần nào nghỉ hở ông bạn? – người thổi sáo vừa tiến lại gần vừa hỏi. Đó là một chàng trai cao lớn, có đôi mắt giống mắt cừu, màu xanh, và bộ râu vàng. – Nào trả lời đi.
- Tùy theo mức độ mà cậu uống từ sáng tới giờ. Trong cây sáo của cậu khi thì có chim muông, khi thì lại chỉ toàn hơi men. Thưa thuyền trưởng, đây là anh bạn Đu-xơ của tôi. Tôi đã nhiều lần kể cho anh ta nghe về thuyền trưởng, một người tiêu tiền như nước mỗi khi uống rượu. Và thế là anh ta cũng mê thuyền trưởng lắm đấy.
- Phải đấy, – Đu-xơ nói, – tôi rất thích những cử chỉ hào hiệp. Nhưng mà tôi là kẻ khôn vặt đấy, đừng có tin vào những lời nịnh bợ của tôi.
- Thế này, – Grây vừa nói vừa cười, – tôi chỉ còn rất ít thời gian mà việc này thì lại cần gấp. Tôi sẽ tạo cho các bạn một cơ hội kiếm tiền kha khá đấy. Các bạn hãy tập hợp một dàn nhạc nhưng đừng có mời những anh chàng ăn vận chải chuốt có vẻ mặt trang nghiêm khô khan như kẻ không hồn, những kẻ khi chơi đàn thì quên hết phần hồn của âm nhạc, chỉ làm nơi biểu diễn trở nên buồn tẻ bằng những tiếng ồn quái gở. Hãy tập hợp những ai biết làm rung động tâm hồn mộc mạc của những chị nấu bếp và những anh bồi. Hãy tìm những nhạc công lang thang như các bạn. Biển cả và tình yêu không chịu nổi những kẻ cầu kỳ. Tôi sẵn sàng ngồi uống rượu với các bạn bây giờ, không phải chỉ một vài chai, nhưng tôi phải đi đằng này ngay. Tôi bận nhiều việc lắm. Các bạn hãy cầm món tiền này và hãy uống rượu mừng cho chữ “A”! Nếu các bạn đồng ý với đề nghị của tôi thì buổi tối hãy kéo nhau xuống con tàu Bí mật của tôi, hiện đang đậu ở cách cái đập trước mặt không xa.
- Xin vâng!- Xim-me reo lên. Anh biết rằng Grây bao giờ cũng trả công hậu hĩ như một ông vua. – Đu-xơ, cậu hãy cúi chào và nói đồng ý, hãy tung mũ lên mà mừng đi! Thuyền trưởng Grây muốn cưới vợ đấy!
- Phải rồi, – Grây bình thản đáp. – Mọi chi tiết tôi sẽ nói thêm khi chúng ta ở trên tàu. Còn các bạn…
- Uống rượu mừng cho chữ “A”! – Đu-xơ hích khuỷu tay vào Xim-me, nháy mắt với Grây. – Nhưng… trong bảng chữ cái… còn nhiều vần nữa cơ mà! Thuyền trưởng cố gắng cho anh em uống rượu đến vần cuối cùng…
 
Grây đưa cho hai người một món tiền. Hai nhạc công đi khỏi. Lúc ấy Grây bèn ghé vào một cửa hiệu, trả một món tiền lớn để thuê làm gấp cho anh một việc bí mật trong thời gian sáu ngày. Khi Grây trở về tàu của mình thì người của cửa hiệu cũng đã tới đó. Đến tối, lụa được chất lên tàu. Năm người thợ làm buồm mà Grây thuê đã ngồi bên đám thuỷ thủ. Lê-chi-ca vẫn chưa về, dàn nhạc chưa tới. Trong khi chờ đợi bọn họ, Grây đến nói chuyện với Pan-ten.
Cần để ý rằng trong mấy năm liền, Grây đã đi biển với một số thuỷ thủ nhất định. Dạo đầu họ rất ngạc nhiên trước những quyết định thất thường của Grây, khi thì cho tàu chạy những chuyến bất ngờ, khi thì cho tàu dừng lại – có khi hàng tháng – ở những nơi vắng vẻ nhất, ít tính chất buôn bán nhất. Nhưng rồi dần dần họ quen với tính nết đó của Grây. Nhiều lần anh cho tàu chạy không, từ chối nhận chở hàng trả giá hời vì thứ hàng đó anh không thích. Không ai thuyết phục được anh nhận chở xà phòng, đinh, phụ tùng máy móc, hay nói gọn lại là những gì chất đống trong khoang tàu và chỉ gợi những cảm giác đơn điệu về sự cần thiết buồn tẻ. Nhưng anh rất sẵn sàng chở hoa quả, đồ sứ, súc vật, hương liệu, chè, thuốc lá, cà phê, vải lụa, những giống cây quý hiếm như dừa, cọ, đàn hương. Những thứ hàng đó thích hợp với trí tưởng tượng của anh, thường tạo ra khung cảnh thú vị. Vì vậy, không có gì lạ khi những thuỷ thủ của con tàu Bí mật, hấp thụ tinh thần độc đáo đó, nhìn những con tàu chỉ chuyên lo kiếm lời bằng cặp mắt khinh khi. Tuy vậy, đến lần này, Grây vẫn đọc được nhiều câu hỏi trên nét mặt các thuỷ thủ. Cả đến người thuỷ thủ ngu dốt nhất cũng biết rất rõ rằng hoàn toàn không cần phải tiến hành chữa tàu ở một vùng cửa sông có rừng cây như vậy.
Tất nhiên là Pan-ten đã thông báo với họ những mệnh lệnh của Grây. Khi thuyền trưởng đến chỗ anh thì anh đang hút tới điếu xì-gà thứ sáu, đi đi lại lại trong buồng, mụ người vì khói thuốc và vấp cả vào ghế. Trời đã về chiều; một dải ánh sáng màu vàng xuyên qua cánh cửa sổ để mở làm chiếc lưỡi trai ở mũ thuyền trưởng loé sáng lên.
- Tất cả đã chuẩn bị xong, thưa thuyền trưởng, – Pan-ten nói, vẻ không vui. – Nếu anh muốn, thì có thể cho nhổ neo ngay.
- Pan-ten ạ, đáng lẽ anh phải hiểu tôi hơn một chút, – Grây nhẹ nhàng nói.- Không có gì bí mật trong chuyện tôi đang làm. Ngay sau khi chúng ta thả neo xuống lòng sông Li-li-a-na, tôi sẽ kể hết mọi chuyện. Và lúc ấy anh sẽ không phải tốn nhiều diêm thế để hút thứ xì-gà tồi ấy. Thôi, anh cho kéo neo lên thôi.
Pan-ten hơi lúng túng nhếch mép cười, gãi gãi lông mày.
- Tất nhiên là như vậy, – anh nói. – Mà tôi cũng có làm sao đâu.
Khi Pan-ten đã đi rồi, Grây ngồi lại một lúc, nhìn chăm chăm về phía cửa hé mở, rồi anh trở về phòng mình. Ở đây, lúc thì anh ngồi, lúc ngả lưng xuống gi.ường, lúc lắng nghe tiếng dây xích buộc neo đang kéo lên kêu loảng xoảng. Anh sửa soạn đi lên boong tàu nhưng rồi lại ngập ngừng nghĩ ngợi và quay lại bên bàn, lấy đầu ngón tay vạch một đường thẳng lên mặt khăn trải bàn. Tiếng đập mạnh vào cửa làm anh chợt tỉnh, anh vặn quả đấm cửa, và Lê-chi-ca vào. Anh thuỷ thủ thở hổn hển, đứng sững lại với vẻ mặt của người vừa phi báo tin hoãn cuộc hành hình.
- “Hãy bay đi ngay, Lê-chi-ca!” – tôi tự bảo như vậy, – ngay từ lúc còn đứng ở chỗ cái đập, nhìn thấy thuỷ thủ tàu ta đang hò nhau kéo neo lên. Mắt tôi tinh như mắt chim ưng ấy. Thế là tôi vội “bay” xuống thuyền, tôi thở hồng hộc vào người chèo thuyền đến nỗi ông ta toát cả mồ hôi vì lo quá. Thưa thuyền trưởng, chẳng lẽ anh muốn quẳng tôi lại trên bờ sao?
- Lê-chi-ca, – Grây vừa nói vừa nhìn kỹ vào đôi mắt đỏ ngầu của người thuỷ thủ, – tôi chờ anh gần hết buổi sáng rồi. Anh đã giội nước lạnh lên gáy cho tỉnh rượu chưa đấy?
- Giội rồi. Không nhiều bằng số rượu đã uống vào bụng, nhưng đã giội. Mọi việc đã làm xong.
- Anh nói xem nào.
- Không cần phải nói đâu, thưa thuyền trưởng. Đây, tất cả tôi đã viết vào đây rồi. Anh cầm lấy mà xem. Tôi đã cố lắm đấy. Tôi đi đây.
- Đi đâu?
- Nhìn mắt anh, tôi cũng biết anh đang trách tôi còn giội ít nước lạnh lên gáy quá.
Anh ta quay đi rồi ra khỏi phòng với dáng đi lạ lẫm của người mù. Grây lật tờ giấy ra, những dòng chữ viết bằng bút chì nguệch ngoạc, xiêu vẹo. Lê-chi-ca viết thế này:
“Theo lệnh đã giao, sau lúc năm giờ tôi đi ra ngoài đường làng. Nhà cô ấy có mái màu xám, có hai cửa sổ mỗi bên, cạnh nhà có vườn rau. Cô gái đi ra khỏi nhà hai lần: một lần đi lấy nước, một lần đi lấy vỏ cây đun bếp. Đến lúc trời tối, tôi có ghé mắt vào cửa sổ nhưng không nhìn thấy gì vì cửa sổ có rèm che”.
Sau đó, Lê-chi-ca ghi tiếp vài câu về đặc điểm gia đình, chắc là thu lượm được qua câu chuyện bên bàn rượu, bởi vì bất ngờ cuối mảnh giấy có câu: “Tôi đã phải chi một ít tiền của mình”.
Nhưng cốt lõi của những điều Lê-chi-ca viết lại chỉ nói lên những cái chúng ta đã biết qua chương đầu cuốn sách này. Grây nhét mảnh giấy vào ngăn bàn, huýt sáo gọi người trực nhật lại và bảo anh ta đi tìm Pan-ten. Nhưng người đến không phải là trợ lý của anh mà lại là thuỷ thủ trưởng Át-vút, vừa đi vừa kéo ống tay áo xuống.
Anh ta nói:
- Chúng tôi đã nhổ neo thì Pan-ten bảo đến gặp anh để xin ý kiến. Pan-ten đang bận: anh ta đang phải đối phó với một đám người mang kèn trống và Vi-ô-lông. Anh gọi họ lên tàu à? Pan-ten mời anh đến ngay, một mình anh ta không biết xoay xở thế nào.
- Phải đấy, Át-vút ạ, – Grây nói. – Đúng là tôi đã gọi các nhạc công ấy đấy. Anh hãy bảo họ tạm vào buồng thuỷ thủ đã, rồi sẽ thu xếp chỗ cho họ sau. Át-vút, anh hãy nói với họ và anh em thuỷ thủ rằng mười lăm phút nữa, tôi sẽ lên boong. Cứ tập hợp trước ở đấy đi, anh và Pan-ten chắc sẽ làm theo lời tôi. Át-vút rướn lông mày bên trái lên, đứng nghiêng người ở chỗ cửa ra vào rồi đi khỏi. Grây úp mặt vào lòng bàn tay hơn mười phút liền. Anh không chuẩn bị gì mà cũng không dự tính điều gì, anh chỉ muốn im lặng suy tưởng. Trong lúc ấy, mọi người sốt ruột chờ anh với vẻ tò mò, phỏng đoán. Anh bước ra và nhìn thấy trên gương mặt họ vẻ chờ đợi những điều gì thật khó tin. Nhưng vì anh coi mọi chuyện đang xảy ra là hoàn toàn bình thường, nên anh cảm hấy hơi bực mình khi những người khác lại băn khoăn như vậy.
 
- Không có gì đặc biệt, các bạn ạ, – Grây nói và ngồi xuống bậc thang. – Chúng ta sẽ thả neo ở vùng cửa sông cho đến khi thay hết vải buồm. Các bạn đã thấy người ta đem lụa đỏ lên tàu chúng ta đấy. Dưới sự chỉ dẫn của ông Bơ-len, chúng ta sẽ làm những cánh buồm mới cho tàu Bí mật. Sau đó chúng ta sẽ lại nhổ neo, – đi đâu… thì tôi chưa nói, nhưng dù sao cũng không xa đây lắm. Tôi sẽ cho tàu đến chỗ vợ tôi. Cô ta chưa phải là vợ tôi, nhưng sẽ là vợ tôi. Tôi cần có con tàu với cánh buồm đỏ thắm để cho cô có thể nhận ra chúng ta từ đằng xa, như đã thỏa thuận trước với cô ấy. Đấy, tất cả là như thế. Các bạn thấy chưa, ở đây chẳng có gì là bí ẩn cả. Thôi, không cần phải nói thêm gì về chuyện đó nữa.
- Phải rồi, – Át-vút nói. Qua vẻ mặt tươi cười của các thuỷ thủ, anh nhận thấy họ bối rối một cách thú vị và không dám nói gì. – Thưa thuyền trưởng, hoá ra chuyện là như vậy… Tất nhiên chúng tôi không phải là người xét đoán về chuyện đó. Anh muốn thế nào thì sẽ như thế. Xin chúc mừng anh.
- Cám ơn anh!
Grây bắt chặt tay người thuỷ thủ trưởng, anh này bóp lại mạnh đến nỗi Grây phải rút tay ra. Tiếp đó các thuỷ thủ lần lượt đi qua trước mặt Grây, nhìn anh với cái nhìn ấm áp rụt rè, ấp úng chúc mừng anh. Không ai hò hét, làm ồn – các thuỷ thủ cảm thấy trong những câu nói ngắt quãng của thuyền trưởng một cái gì đó không hoàn toàn bình thường. Pan-ten thở dài khoan khoái và vui ra mặt – cảm giác nặng nề khó hiểu ban nãy đã tan biến. Chỉ có một anh thợ mộc trên tàu là tỏ ra không thích thú, anh ta uể oải bắt tay Grây và cau có hỏi:
- Sao thuyền trưởng lại nghĩ ra chuyện như vậy?
- Thì cũng giống như anh bổ rìu xuống, thế thôi, – Grây nói. – Xim-me này, anh dẫn dàn nhạc của anh lại đây xem nào.
Xim-me vỗ vào lưng từng người rồi đẩy đến trước mặt Grây. Tất cả là bảy người ăn mặc rất lôi thôi.
- Đây, – Xim-me nói, – đây là anh thổi kèn tơ-rôm-bôn, không phải thổi mà là gào thét như súng đại bác. Hai cậu trai trẻ không râu này thổi kèn đồng, nghe họ thổi thì chỉ muốn đi đánh nhau ngay. Đây là người thổi coóc-nê-pit-tông, còn đây là cây vi-ô-lông thứ hai. Tất cả đều có khả năng hoà tấu rất ăn với tiếng đàn của tôi. Còn đây là nhân vật chủ chốt của dàn nhạc chúng tôi – anh Phơ-rít chuyên đánh trống. Mấy anh đánh trống thường có vẻ mặt ủ ê, nhưng anh Phơ-rít đây thì bao giờ cũng gõ trống rất say sưa. Trong tiếng trống của anh có cái gì đó cởi mở, thẳng thắn như cây dùi gỗ của anh. Mọi việc như thế là được rồi chứ, thưa thuyền trưởng?
- Tuyệt lắm, – Grây nói. – Tất cả các anh sẽ được thu xếp chỗ ở trong khoang tàu, những chỗ đó lần này sẽ dùng để chở những thứ “hàng” đặc biệt, đó là các điệu nhạc khác nhau từ a-đa-giô, xkét- xô đến phoóc-tít-xi-mô. Thôi, cho giải tán. Pan-ten, anh cho cởi dây neo ra, cho tàu đi thôi. Hai giờ sau tôi sẽ thay phiên cho anh.
Hai giờ sau đó anh cũng không chú ý đến bởi vì chúng cũng hoà vào thứ âm nhạc nội tâm đang bám sát tâm trí anh như mạch đập không ngừng trong huyết quản. Anh chỉ nghĩ về một điều, chỉ muốn có một điều, chỉ hướng vào một đích. Là một người hành động, anh tưởng tượng ra trước cả chuỗi sự việc sẽ xảy ra. Anh chỉ tiếc rằng không thể điều khiển những sự việc đó một cách đơn giản, nhanh chóng như điều khiển quân cờ. Vẻ bên ngoài bình thản của anh không biểu lộ sự căng thẳng của tình cảm; tiếng âm vang của nó khác nào tiếng chuông lớn gióng lên ở phía trên đầu, lan rất nhanh khắp cơ thể anh như một tiếng rên làm nhức óc. Điều này cuối cùng đã dẫn anh đến chỗ phải nhẩm đếm thầm:
“Một… hai… ba mươi… ” rồi “một ngàn”. Cách làm đó đã có tác dụng; cuối cùng anh đã có thể nhìn vào mọi dự định một cách khách quan. Lúc này anh hơi ngạc nhiên vì anh không thể hình dung được tâm hồn A-xôn, bởi ngay cả nói chuyện với cô, anh cũng chưa có dịp. Anh đã đọc ở đâu đó rằng có thể hiểu được con người, mặc dù không rõ lắm, bằng cách tưởng tượng mình là người ấy và bắt chước vẻ mặt của người ấy. Anh bắt đầu tạo cho đôi mắt mình một vẻ khác thường mà anh vốn không có, trên môi anh nở một nụ cười kín đáo, dịu dàng dưới hàng ria mép, thì anh bỗng sực nhớ ra, cười phá lên rồi đi thay phiên cho Pan-ten.
Trời tối. Bẻ đứng cổ áo bluđông lên, Pan-ten đi đi lại lại quanh chiếc la bàn và bảo người lái tàu: “Sang trái một phần tư rum-bơ, sang trái. Lại một phần tư rum-bơ nữa”. Con tàu “Bí mật” giương nửa số buồm chạy xuôi theo chiều gió.
- Thưa thuyền trưởng, tôi rất mừng, – Pan-ten nói với Grây.
- Về chuyện gì kia?
- Như anh thôi. Tôi đã hiểu mọi chuyện rồi. Đây này, trên cái cầu chỉ huy này, – anh ta ranh mãnh nháy mắt, ánh lửa trên tẩu thuốc soi rõ nụ cười của anh ta.
- Nhưng mà này, – Grây bỗng đoán ra, – anh hiểu chuyện đó thế nào?
- Đó là cách hay nhất để chở các thứ hàng buôn lậu, Pan-ten thì thầm nói. – Buồm thế nào là tùy thuộc vào ý thích của mỗi thuyền trưởng. Nhưng mà anh quả là có đầu óc tuyệt vời, Grây ạ!
- Ô, anh bạn Pan-ten đáng thương! – Thuyền trưởng nói, không biết nên cười hay nên giận. – Anh đoán rất thông minh, nhưng tiếc rằng chẳng có cơ sở nào cả. Thôi, anh đi ngủ đi. Có thể đoán chắc với anh rằng anh đã lầm. Tôi chỉ làm điều tôi vừa nói.
Anh để Pan-ten đi ngủ, kiểm tra lại hướng tàu đi rồi ngồi xuống. Bây giờ thì chúng ta tạm ngừng nói tới Grây vì anh đang cần ở lại một mình.
 
Chương 6: A xôn còn lại một mình
Lông-gren ở ngoài biển suốt đêm. Ông không ngủ, không đánh cá, mà chỉ mặc cho buồm đưa đi vô định. Ông lơ đãng nghe tiếng nước róc rách, nhìn bóng đêm, hóng mát và suy nghĩ. Vào những giờ phút nặng nề của cuộc đời, không gì giúp ông lấy lại tinh thần tốt hơn những lần đi ngao du một mình như thế. Im lặng, chỉ có im lặng và vắng vẻ mới là những gì ông cần, để cho những tiếng nói yếu ớt nhất và dễ lẫn lộn nhất của nội tâm vang lên một cách dễ hiểu. Đêm hôm ấy, ông trầm ngâm nghĩ về tương lai, về nỗi nghèo khổ, về A-xôn. Để con gái ở nhà một mình dù chỉ mấy ngày, ông cảm thấy rất khổ tâm. Hơn nữa ông còn sợ làm sống lại nỗi đau cũ đã nguôi đi. Có thể khi đặt chân lên tàu, ông sẽ lại hình dung rằng nơi ấy, ở làng Ca-péc-na, có người bạn đời không bao giờ chết vẫn đang chờ ông. Rồi khi trở về làng, ông sẽ lại đi tới nhà mình với nỗi đau khổ của sự đợi chờ tuyệt vọng. Không bao giờ Mê-ri còn bước ra ngoài cửa nữa. Nhưng vì để có tiền nuôi A-xôn, ông đành phải xử sự theo cảnh ngộ.
Khi Lông-gren về, A-xôn còn chưa có mặt ở nhà. Những lần dạo chơi sáng sớm của cô không làm ông lo lắng, tuy vậy lần này ông vẫn thấy nóng ruột khi chờ con. Ông đi đi lại lại trong nhà và khi quay lại, ông bất ngờ trông thấy ngay A-xôn nhẹ nhàng bước nhanh vào nhà. Cô gái im lặng đứng trước Lông-gren làm ông gần như sợ vì ánh mắt lộ vẻ xúc động. Tưởng chừng như hiện lên khuôn mặt thứ hai của cô, khuôn mặt thật sự của một người mà chỉ có đôi mắt là nói lên tất cả. Cô gái im lặng nhìn vào khuôn mặt Lông-gren một cách khó hiểu, đến nỗi ông phải hỏi ngay:
- Con ốm à?
Cô gái không trả lời ngay. Cuối cùng khi ý nghĩa của câu hỏi nhập vào tâm trí cô, cô mới sực tỉnh, như cánh hoa bị bàn tay chạm vào; rồi cô bật cười giòn tan trong niềm hân hoan êm ái. Cô thấy cần phải nói một điều gì, nhưng cũng như mọi khi, không cần phải nghĩ ngợi xem nói cái gì, cô trả lời bố:
- Không, con khoẻ bố ạ… Sao bố lại nhìn con thế? Con vui lắm. Quả thật là con rất vui vì hôm nay trời rất đẹp. Bố đã nghĩ ra chuyện gì thế? Nhìn nét mặt bố, con cũng biết là bố vừa nghĩ ra chuyện gì rồi.
- Bố có nghĩ ra điều gì, – Lông-gren nói và bảo con gái ngồi xuống, – thì bố biết là con cũng sẽ hiểu. Chẳng có gì mà ăn nữa con ạ. Bố không xuống làm dưới tàu chạy đường dài nữa đâu, bố sẽ xin xuống làm ở tàu đưa thư chạy trên tuyến Li-xơ Kát-xét thôi.
- Vâng, – cô gái lơ đãng nói, cố bắt vào mạch suy nghĩ của bố, nhưng rồi cô sợ hãi thấy mình không sao kìm được niềm vui. – Thế thì dở lắm. Thế thì con sẽ buồn đấy. Bố về nhanh lên nhé. – Cô gái nói vậy và một nụ cười nén được làm cho cô tươi lên. – Vâng, bố về nhanh lên, con đợi.
- A-xôn! – Lông-gren nói, hai tay áp má con gái, quay mặt con về phía mình. – Con nói thật đi, chuyện gì đã xảy ra với con vậy?
Cô gái cảm thấy cần phải xua tan mối lo của bố, cô kìm niềm hân hoan, làm ra vẻ chăm chú một cách nghiêm trang, duy ánh mắt vẫn sáng lên một sức sống mới.
- Bố lạ thật đấy, – cô nói, – hoàn toàn không có gì đâu. Con đi lượm hạt dẻ mà.
Nếu không mải suy nghĩ, chắc hẳn Lông-gren đã có thể không tin hoàn toàn vào điều đó. Hai bố con bắt đầu bàn tính tỉ mỉ. Người thuỷ thủ bảo con gái sắp xếp túi cho ông, kiểm kê lại các thứ cần thiết, rồi dặn dò con vài điều:
- Chừng mười hôm nữa bố sẽ về. Con cất kỹ súng của bố, đừng bỏ nhà đi đâu. Nếu có kẻ nào định gây chuyện với con thì con hãy nói với nó rằng: ông Lông-gren sắp về. Đừng nghĩ ngợi và lo lắng gì cho bố cả. Không thể có chuyện gì xấu xảy ra đâu.
Sau đó ông ăn qua loa, hôn con gái rồi vắt túi qua vai bước ra khỏi nhà đi lên thị trấn. A-xôn nhìn theo ông cho đến khi ông đi khuất sau chỗ đường vòng. Cô gái quay vào nhà. Ở nhà còn nhiều việc phải làm, nhưng A-xôn không nhớ gì đến nữa. Cô đưa mắt nhìn quanh, hơi ngạc nhiên như cô là người xa lạ với căn nhà này, ngôi nhà đã gắn bó với cô từ thưở nhỏ, tưởng chừng cô vẫn luôn luôn mang nó trong lòng. Nhưng giờ đây căn nhà đó tựa như quê hương thân thiết mà sau nhiều năm sống một cuộc đời khác cô lại về thăm. Cô tự thấy có cái gì không hay, không ổn trong cảm giác vừa rồi. Cô ngồi xuống bên chiếc bàn nơi trước đây Lông-gren vẫn thường làm đồ chơi. Cô thử gắn bánh lái vào đuôi tàu. Nhìn những con tàu đó, A-xôn bỗng thấy chúng to như thật, những gì xảy ra sáng nay lại làm cô xúc động, chiếc nhẫn vàng như to dần lên bằng cả khối mặt trời bay qua biển và đến bên chân cô.
 
Đứng ngồi không yên, A-xôn bước ra khỏi nhà và đi lên thị trấn Li-xơ. Cô hoàn toàn chẳng có việc gì phải làm trên đó, cô không biết đi lên đó làm gì, nhưng không đi không đành. Trên đường đi, cô gặp một người đi đường hỏi thăm về một nơi nào đó, cô chỉ dẫn tỉ mỉ cho người ấy rồi sau đấy quên luôn.
Cô đi qua suốt dọc con đường dài mà không hay biết, tựa hồ cô mang theo một con chim nào đó thu hút toàn bộ sự chăm sóc dịu dàng của cô. Ở thị trấn, tiếng ồn ào xung quanh có làm cô xao lãng đôi chút, nhưng không còn chế ngự được cô như trước đây nó đã từng dọa dẫm, lấn át, làm cho cô trở nên nhút nhát, ít nói. Giờ đây cô đương đầu với nó. Cô chậm rãi đi qua một đường phố hình vành đai, bước qua những bóng cây xanh sẫm, tin tưởng và thanh thản nhìn gương mặt những người đi đường. Chân cô bước đều, lòng đầy tự tin. Những người ưa quan sát, vào ngày hôm đó, có thể vài lần trông thấy một cô gái, ánh mắt khác thường, đi lẫn giữa đám đông với vẻ mặt trầm tư. Đến quảng trường, cô đưa tay xoè ra hứng những tia nước từ vòi phun tuôn lên. Sau đó, cô ngồi xuống nghỉ một lúc rồi quay trở về làng trên con đường xuyên qua cánh rừng. Trên đường về, cô cảm thấy lòng mình nhẹ nhõm, thanh thản, bình yên, hệt như con sông về đêm, cuối cùng đã tránh được những tia nắng mặt trời chói chang để được lặng lẽ trôi trong bóng tối êm đềm. Khi về đến gần làng, cô trông thấy ông già đốt than, người đã được nghe cô nói rằng chiếc giỏ của ông sẽ nở hoa. Ông đang đứng cạnh chiếc xe ngựa cùng hai người khác, vẻ mệt mỏi, mặt mũi dính than lem luốc. A-xôn mừng rỡ.
- Chào bác Phi-líp, – cô gái nói, – bác làm gì ở đây thế?
- Cái bánh xe nó bị trật ra, bác đã chữa được rồi, bây giờ thì ngồi hút ít thuốc, tán gẫu với hai anh bạn trẻ này. Cháu đi đâu về thế?
A-xôn không trả lời.
- Bác biết không, bác Phi-líp, – cô gái nói, – cháu rất quý bác nên cháu mới nói cho một mình bác biết điều này nhé. Cháu sắp đi khỏi đây rồi, chắc là đi luôn bác ạ. Bác đừng nói lại với ai nhé.
- Cháu muốn đi khỏi đây sao? Cháu định đi đâu? – Ông thợ đốt than ngạc nhiên, miệng há to, vì thế mà bộ râu ông trông như dài hơn.
- Cháu cũng không biết nữa. – Cô chậm rãi đưa mắt nhìn khoảng rừng trống bên cây du, nơi chiếc xe ngựa đỗ, những đám cỏ xanh dưới ánh nắng chiều hồng nhạt, nhìn những người thợ đốt than đen sạm đang im lặng, rồi nói thêm: – Tất cả những điều này cháu đều chưa rõ. Cháu không hề biết ngày nào, giờ nào, thậm chí đi đâu cháu cũng không biết. Cháu không thể nói gì hơn. Vì vậy, đề phòng nhỡ không gặp lại được bác, cháu xin chào bác trước nhé. Bác thường cho cháu đi nhờ xe.
Cô gái cầm lấy bàn tay to đen của bác Phi-líp, khẽ đung đưa. Gương mặt người thợ già thoáng hiện nụ cười. Cô gái gật đầu, quay người rồi đi. Cô mất hút nhanh đến nỗi Phi-líp và hai anh bạn trẻ không kịp quay đầu nhìn.
- Lạ thật, – người thợ đốt than nói, – thật khó mà hiểu được cô gái. Hôm nay không biết có chuyện gì đã xảy ra với cô ta.
- Chắc thế, – người thứ hai phụ họa theo, – không ra báo tin, không ra thuyết phục. Nhưng mà chẳng phải chuyện của chúng ta.
- Phải đấy, đâu phải chuyện của ta, – người thứ ba thở dài nói.
Sau đó cả ba người ngồi lên xe ngựa. Chiếc xe lăn bánh cách cách trên con đường lổn nhổn những đá, khuất dần trong đám bụi.
 
Chương 7: Cánh buồm đỏ thắm
Một buổi sớm mai. Sương mờ mờ trắng đục bao phủ khắp khu rừng thấp thoáng những hình thù kỳ dị. Một người thợ săn vừa rời đống lửa của mình đi dọc theo bờ sông. Qua những hàng cây, khoảng trời trên sông lộ ra thoáng đãng. Nhưng người thợ săn cần cù không đi về phía ấy mà lần theo chân con gấu vừa đi về phía núi.
Bỗng một âm thanh bất ngờ vút qua đám cây cối, đột ngột như một cuộc rượt đuổi náo động, đó là tiếng kèn cơ-la-ri-nét cất lên. Người nhạc công bước ra boong tàu, thổi một điệu nhạc buồn buồn, lặp đi lặp lại. Tiếng kèn run rẩy nghe như giọng ai đang cố giấu nỗi niềm trắc ẩn. Tiếng kèn nghe mạnh hơn và bỗng chuyển sang âm điệu tươi vui như thoáng nở nụ cười rồi im bặt. Tiếng vọng xa xa mơ hồ lặp lại âm điệu ấy.
Người thợ săn nhận thấy dấu vết một cành cây gãy và đi về chỗ có nước. Sương vẫn chưa tan, trong sương mù ẩn hiện bóng hình một con tàu lớn đang từ từ rẽ vào cửa sông. Những lá buồm cuốn đã được mở rộng, buông diềm, căng ra, che lấp những cột buồm như những tấm lá chắn bất lực có nhiều nếp gấp to. Có tiếng người nói và tiếng bước chân đi lại. Làn gió trên bờ uể oải thổi vào những cánh buồm. Cuối cùng hơi ấm của mặt trời đã có tác dụng. Sức gió tăng lên làm tan sương mù, gió thổi căng phồng những cánh buồm đỏ thắm. Ánh hồng lung linh trên nền trắng của cột buồm và dây dợ. Tất cả đều màu trắng, trừ những cánh buồm đang căng ra là màu đỏ, màu của niềm vui sâu sắc.
Người thợ săn đứng trên bờ giụi mắt mãi cho đến khi tin rằng mình đã không nhìn lầm. Con tàu đã khuất sau quãng sông uốn khúc mà anh ta vẫn đứng ngây ra nhìn theo. Một lúc sau, anh ta khẽ nhún vai, rồi tiếp tục lần theo vết chân gấu.
Khi con tàu Bí mật đang xuôi theo dòng sông, Grây tự tay mình cầm bánh lái, không để ai khác làm việc đó vì anh sợ tàu mắc phải những bãi cát ngầm. Pan-ten ngồi bên cạnh, anh vận chiếc áo dạ mới, đội chiếc mũ nới, cạo râu nhẵn nhụi, vẻ mặt đăm chiêu. Anh vẫn chẳng thấy có điều gì liên quan giữa mục đích thật sự của Grây và những cánh buồm đỏ thắm.
- Bây giờ, – Grây nói, – khi cánh buồm của tôi đang rực đỏ, gió thổi khoan thai, lòng tôi tràn ngập một niềm vui còn lớn hơn cả nỗi mừng của chú voi trông thấy người ta đem thức ăn tới, tôi mới cố gắng giải thích cho anh hiểu những ý nghĩ của tôi, như lúc còn ở Li-xơ tôi đã hứa. Anh nên lưu ý rằng tôi không hề coi anh là ngu đần hay ương ngạnh, không, anh là một thuỷ thủ mẫu mực. Điều đó quý lắm. Nhưng cũng như phần lớn mọi người, anh đã theo những chân lý giản đơn qua lớp kính dày đặc của cuộc đời, chúng kêu to lên mà các anh không nghe thấy. Tôi chỉ làm một việc đang tồn tại như ý niệm cổ xưa về cái đẹp hão huyền, một việc thật ra có thể thực hiện được dễ dàng như một cuộc dạo chơi ngoài thành phố. Lát nữa anh sẽ nhìn thấy một người con gái, người ấy không thể không gặp gỡ bạn đời của mình một cách nào khác ngoài cách mà anh đang nhìn thấy.
Anh giải thích ngắn gọn cho Pan-ten nghe điều mà chúng ta đều biết rõ, rồi kết thúc bằng những lời thế này:
- Anh thấy đấy, ở đây số phận, ý chí, tính tình của con người đã gặp gỡ hoà hợp như thế nào. Tôi đang đến với người con gái chỉ chờ đợi tôi, còn tôi cũng không muốn một ai khác ngoài cô ấy, có lẽ chính vì nhờ cô ấy mà tôi đã hiểu được một chân lý giản đơn. Chân lý đó là cần phải tạo ra những điều kỳ diệu bằng chính bàn tay của mình. Nếu đối với một người nào đó, kiếm được tiền là quý nhất, thì có thể dễ dàng cho anh ta đồng tiền. Nhưng nếu khi tâm hồn con người ấp ủ hạt giống của một cái cây nồng thắm là sự diệu kỳ, thì hãy tạo cho anh ta điều đó, nếu ta có thể làm được. Khi đó cả anh ta và cả ta cũng sẽ có một tâm hồn mới. Khi người cai ngục tự tay mình thả tù nhân, khi một nhà tỉ phú tặng cho viên thư ký một toà biệt thự, một cô đào hát và một két bạc, khi một kỵ sĩ kìm con ngựa đua của mình lại để chờ con ngựa khác không gặp may thì lúc đó mọi người đều thấy đấy là chuyện tốt lành và vô cùng kỳ lạ. Nhưng còn có những điều không kém phần kỳ lạ hơn: đó là nụ cười, niềm vui, lòng độ lượng và có thể chỉ là một lời cần thiết được nói đúng lúc. Có được cái đó có nghĩa là có tất cả. Về phần tôi, thì buổi đầu tiên hôm nay A-xôn và tôi nhận ra nhau sẽ mãi mãi in trong tâm trí tôi với sắc màu của những cánh buồm đỏ thắm, những cánh buồm được tạo ra từ đáy sâu của một trái tim đã hiểu thế nào là tình yêu. Anh hiểu tôi rồi chứ?
 
- Vâng, thưa thuyền trưởng, tôi đã hiểu, – Pan-ten nói nhỏ, lấy chiếc khăn tay gấp cẩn thận ra lau bộ ria. – Tôi hiểu tất cả rồi. Anh đã làm tôi xúc động. Tôi đi xuống khoang xin lỗi cậu Ních đây, hôm qua tôi vừa mắng cậu ta vì cậu ấy đánh đổ xô nước. Tôi sẽ cho cậu ấy ít thuốc lá của tôi, cậu ta hết thuốc hút rồi.
Grây hơi ngạc nhiên vì kết quả thiết thực chóng vánh của những lời mình vừa nói, anh chưa kịp nói gì thêm thì Pan-ten đã nện gót xuống cầu thang. Ở đó, thoáng nghe tiếng anh thở dài. Grây ngẩng nhìn lên cao. Phía trên đầu anh, những cánh buồm đỏ thắm đang lặng lẽ đón gió, các đường chỉ bắt ánh mặt trời lung linh như khói màu hồng. Con tàu Bí mật đã ra đến biển, mỗi lúc một xa bờ hơn. Trong lòng anh không gợn chút hồ nghi, lo âu, tâm hồn anh lúc này thanh thản, yên bình như cánh buồm lướt tới đích diệu kỳ, tràn đầy những ý nghĩ vượt trước cả lời nói.
Gần đến trưa, từ phía chân trời hiện lên làn khói của một chiếc tàu tuần dương. Con tàu quân sự đổi hướng đi và cách chừng nửa dặm thì cho phát lệnh: “Dừng lại!”.
- Các anh em, – Grây nói với thuỷ thủ, – họ không bắn chúng mình đâu, đừng có sợ, họ chỉ không tin vào mắt mình đó thôi.
Anh ra lệnh cho tàu ngừng chạy. Pan-ten gào lên như đang có đám cháy để cho gió không thổi căng buồm. Con tàu dừng lại. Vào lúc ấy, một chiếc xuồng máy tách ra khỏi tàu tuần dương. Ngồi trên xuồng là mấy thuỷ thủ cùng với một viên trung úy đeo găng tay trắng. Viên trung úy bước lên boong tàu Bí mật, ngạc nhiên nhìn quanh rồi cùng Grây đi vào buồng thuyền trưởng. Khoảng một giờ sau, anh ta cáo từ, xuống xuồng ra về, vẫy vẫy tay, miệng cười tươi như vừa được thăng chức. Có lẽ lần này Grây còn gây được tác động mạnh mẽ hơn là với chàng Pan-ten chất phác, bởi vì lần này chiếc tàu tuần dương ấy đã đi chậm lại và bắn một loạt đại bác chào mừng, những đụn khói đen từ nòng súng bốc lên cao rồi tỏa dần ra trên mặt nước yên lặng. Suốt ngày hôm đó, không khí trên tàu, từ phòng khách đến khoang máy, mọi người đều bàn tán về câu chuyện vừa gặp, về tình yêu. Người lính gác kho thuỷ lôi hỏi một thuỷ thủ đi ngang qua:
- Này, Tôm, cậu lấy vợ thế nào?
- Tớ túm lấy cô ta khi cô ta định nhảy qua cửa sổ tránh tớ. – Tôm đáp và kiêu hãnh xoắn ria mép.
Con tàu Bí mật lênh đênh ngoài biển khơi một lúc, đến khoảng trưa thì đất liền đã hiện ra xa xa. Grây cầm ống nhòm nhìn về phía làng Ca-péc-na. Nếu không vướng các mái nhà, chắc anh đã nhìn thấy A-xôn đang ngồi sau khung cửa sổ đọc sách. Cô ngồi đọc sách, trên trang giấy có con cánh cam nhỏ bò đi bò lại với vẻ như đấy là nhà của nó. Đã hai lần A-xôn thổi nó bay ra bệ cửa sổ, nhưng rồi nó lại bay đến như định nói điều gì. Với vẻ tin cậy, thoải mái, lần này nó đậu ngay bên ngón tay cô gái đang cầm vào mép trang sách, ở đây nó dừng lại ở chữ “nhìn kìa”, nó lại sợ bị hất đi lần nữa. Và quả thật, suýt nữa thì nó khó tránh khỏi xuống đất và A-xôn đã kêu lên: “Lại mày hả, cánh cam!… ” – A-xôn vừa định hất nó xuống thì tình cờ cô ngửng đầu lên và nhìn thấy đằng sau mái nhà là mặt biển khơi xanh biếc với hình một con tàu trắng mang những cánh buồm đỏ thắm.
Cô gái rùng mình, ngả đầu ra phía sau, lặng đi. Liền đó, cô đứng bật dậy, đầu óc quay cuồng, tim dường như ngừng đập, những giọt lệ xúc động kinh hoàng trào ra trên khoé mắt. Con tàu Bí mật lúc này đang vượt qua doi đất nhô ra ngoài biển, áp mạn trái vào bờ. Tiếng nhạc từ trên boong tàu nhẹ nhàng lan tỏa xuống mặt biển xanh rờn. Dưới ánh hồng của cánh buồm đỏ thắm, tiếng nhạc du dương ngân nga theo điệu một bài ca quen thuộc: “Cạn chén đi, cạn chén đi các bạn, chúng ta mừng cho tình yêu…”. Bài ca bình dị, hân hoan, bộc lộ niềm xúc động mạnh mẽ.
Không nhớ rằng mình đã ra khỏi nhà thế nào, A-xôn chạy về phía biển, như được ngọn gió phóng túng nâng cô lên. Đến chỗ ngoặt cô dừng lại, gần như kiệt sức, chân khuỵu xuống, hơi thở đứt quãng, cô giậm chân chạy tiếp. Khi thì một mái nhà, khi thì bờ rào che khuất cánh buồm đỏ thắm. Những lúc đó A-xôn sợ con tàu ấy biến mất đi như một ảo ảnh, cô cố chạy nhanh qua vật che và lại trông thấy con tàu. Cô dừng lại, thở phào nhẹ nhõm.
 
Vào lúc ấy, ở làng Ca-péc-na đã xảy ra cảnh tượng khác thường, mọi người kinh ngạc, tất tưởi, nhốn nháo hết như trong làng vừa có trận động đất. Chưa bao giờ có chiếc tàu lớn như vậy đi vào bờ biển làng này. Con tàu lại mang chính cánh buồm mà lâu nay mọi người trong làng vẫn nhạo báng. Bây giờ thì những cánh buồm đỏ rực lên như một sự vật hiển nhiên, bác bỏ mọi quy luật của cuộc sống và lẽ phải. Đàn ông, đàn bà, trẻ con vội vã đổ xô ra bờ biển. Dân làng gọi nhau í ới, va phải nhau, ngã dúi dụi, hò la ầm ĩ. Một lúc sau, sát bên bờ nước đã tụ tập cả một đám đông. Và A-xôn xăm xăm chạy đến chỗ ấy.
Khi cô gái chưa đến, mọi người đua nhau nhắc đến tên cô với vẻ vừa lo âu, nôn nóng, vừa sợ hãi. Đàn ông nói nhiều hơn, cánh đàn bà chỉ xì xào bàn tán ra vẻ ghen tị. Lúc A-xôn vừa xuất hiện, mọi người đều im bặt, sợ hãi tránh cô, khiến cô chỉ còn lại một mình giữa nơi hoang vắng của bãi cát nóng bỏng. Cô bối rối, e thẹn, hạnh phúc, khuôn mặt hồng lên không kém gì cánh buồm kỳ diệu của cô, hai tay bất lực đưa vê phía con tàu lớn.
Một con thuyền tách ra khỏi tàu, những người chèo thuyền trông đến vạm vỡ rám nắng. Đứng giữa thuyền là chàng trai mà giờ đây cô mơ hồ cảm thấy như đã gặp từ thuở thơ ấu. Chàng trai mỉm cười nhìn cô, nụ cười thôi thúc và làm ấm lòng người. Trăm ngàn nỗi sợ hãi chợt đến với cô. Cô sợ có chuyện nhầm lẫn hay nhỡ có điều bí ẩn cản trở. Cô chạy xuống làn nước ấm áp, sóng nhẹ vỗ đung đưa, và kêu lên:
- Em ở đây, em ở đây! Em đây!
Đúng lúc ấy, Xim-me cầm đàn khoát tay ra hiệu. Cả dàn nhạc cùng hoà theo bài ca ban nãy, nhưng lần này nghe mạnh hơn, nghiêm trang hơn. Mây bay, sóng vỗ, ánh mặt trời lấp loáng trên mặt nước, lòng tràn ngập xúc động, cô gái hầu như không còn phân biệt được cái gì đang chuyển động: bản thân mình, con tàu hay chiếc thuyền – tất cả đều quay cuồng, chao đảo.
Nhưng tiếng mái chèo khỏa nước đã ngay bên cô, cô ngẩng đầu lên. Grây cúi xuống, cô với tay bám vào người anh. A-xôn hơi lim dim mắt, rồi liền sau đó cô mở to mắt, mỉm cười nhìn gương mặt rạng rỡ của Grây, vừa thở gấp vừa nói:
- Hoàn toàn giống như em tưởng tượng.
- Em cũng thế, em của anh! – Grây nhấc bổng cô gái bị ướt đẫm lên thuyền và nói. – Thế là anh đã đến. Em có nhận ra anh không?
Cô gái khẽ gật đầu, hai bàn tay đặt vào eo lưng anh, mắt lim dim, lòng rộn ràng, náo nức. Hạnh phúc tràn ngập trái tim cô. Khi cô lại mở mắt ra thì từ con thuyền đang rập rình trên sóng đến con tàu Bí mật đang quay mũi lái – tất cả đều là một giấc mơ, trong đó ánh mặt trời và mặt nước quấn quít đùa giỡn bên nhau. Cô không còn nhớ mình đã được Grây dìu lên cầu thang như thế nào. Boong tàu trải thảm, cánh buồm đỏ thắm hắt xuống, trông như một góc vườn thượng uyển. Một lát sau, cô thấy mình đứng trong căn phòng thuyền trưởng trang hoàng lộng lẫy.
Từ trên boong tàu, tiếng nhạc lôi cuốn lòng người lại vang lên. A-xôn lại nhắm mắt, sợ rằng tất cả sẽ biến mất nếu cô nhìn. Grây cầm lấy tay cô gái, và cô tin cậy úp gương mặt giàn giụa nước mắt vào ngực người bạn đời đã xuất hiện một cách thần kỳ như vậy. Sững sờ xúc động bởi cái giây phút khó tả và vô cùng quý giá đã đến, cái giây phút mà không ai có được, Grây mỉm cười gượng nhẹ nâng cằm cô gái lên. Đây là khuôn mặt mà anh đã mơ ước bao lâu. Cuối cùng, đôi mắt cô gái lại mở to. Trong ánh mắt cô có tất cả những gì tốt đẹp nhất của con người.
- Anh cho bố em cùng đi với chúng mình chứ? – cô nói.
- Phải rồi. – Grây hôn cô thắm thiết sau câu trả lời rắn chắc “phải rồi” khiến cô bật cười.
Bây giờ chúng ta hãy tránh xa họ vì biết rằng họ cần ở một mình bên nhau. Nhiều lời bằng nhiều thứ tiếng đã nói về những người yêu nhau, nhưng không bao giờ có thể truyền đạt được hết những gì họ đã nói vói nhau vào buổi đầu gặp gỡ ấy.
Cùng lúc ấy, trên boong tàu, dưới chân cột buồm, bên cạnh chiếc thùng gỗ nham nhở đã vẹt cả đáy, trong chứa thứ rượu trăm năm tuyệt ngon, tất cả thuỷ thủ đang chờ đợi thuyền trưởng của mình. Át-vút đứng, Pan-ten thì ngồi một cách oai vệ, vẻ mặt tươi hơn hớn như vừa được tái sinh. Grây bước lên boong tàu, ra hiệu cho dàn nhạc nổi kèn trống. Anh bỏ mũ ra và là người đầu tiên cầm lấy chiếc cốc nhiều cạnh múc đầy thứ rượu nho thiêng liêng.
- Nào, các bạn… – anh uống một hơi cạn cốc rượu, đặt cốc xuống và nói, – Bây giờ thì chúng ta uống thôi, tất cả đều uống, ai không uống, người ấy là kẻ thù của tôi.
Anh không phải nhắc lại lần thứ hai câu nói ấy. Trong lúc con tàu Bí mật căng hết buồm lướt nhanh ra biển khơi, để làng Ca-péc-na mãi mãi kinh hoàng lại đằng sau, các thuỷ thủ vẫn còn chen chúc quanh thùng rượu còn quá cái cảnh vẫn thường diễn ra trong những ngày hội lớn.
- Thế nào, cậu có thấy thích không hở Lê-chi-ca? – Grây hỏi?
- Thưa thuyền trưởng, – Lê-chi-ca vừa nói vừa tìm chữ, – tôi cũng không biết tôi có thích không, nhưng quả thật ấn tượng của tôi cần phải nghĩ kỹ mới nói được. Tổ ong và vườn hoa!
- Anh nói gì vậy?
- Thưa thuyền trưởng, tôi muốn nói rằng trong miệng tôi như có ai đặt mật ong và hoa vào. Chúc thuyền trưởng hạnh phúc. Và xin chúc mọi điều tốt lành cho cô gái của thuyền trưởng, thứ “hàng tuyệt vời” mà chúng ta đã được chở, phần thưởng cao nhất của con tàu Bí mật này.
Hôm sau, khi một ngày mới lại bắt đầu, con tàu đã ở cách xa làng Ca-péc-na. Nhiều thuỷ thủ ngủ ngay trên boong tàu sau khi uống thứ rượu tuyệt vời của Grây. Chỉ còn người lái tàu và trực ban là tỉnh táo. Xim-me đã ngà ngà say, ngồi ôm cây đàn vi-ô-lông-xen ở đằng lái, vẻ mặt trầm ngâm. Anh nhẹ nhàng kéo mã vĩ làm ngân lên điệu nhạc diệu kỳ như không phải ở cõi trần này, và anh nghĩ về hạnh phúc…
Alexandre Grin (1920-1921)
 
×
Quay lại
Top