Hoàn Âm Mưu Ngày Tận Thế - Sidney Sheldon

CHƯƠNG 21 -
Các đường phố Zurich chật ních với những sinh vật trông kỳ dị có những hình thù quái gở, những tên khổng lồ dị dạng với những thân hình to lớn, kỳ cục, những cặp mắt nhỏ xíu và mầu da giống như màu cá luộc Họ là giống ăn thịt và cô ghét cái thứ mùi hôi hám toả ra từ th.ân thể họ. Một số thuộc giống cái mang trên người những mảnh da thú, sản phẩm còn lại của những thú vật đã bị họ giết hại. Cô vẫn còn choáng váng với cái tai nạn khủng khiếp đã cướp đi sự sống của các bạn đồng hành của cô.
Cô đã ở trái đất bốn chu kỳ thời gian mà những sinh vật lạ lùng nầy gọi là tháng, và cô đã không ăn gì trong suốt thời gian đó. Cô khát đến lả người đi…
Chút nước duy nhất mà cô đã uống được là chút nước mưa trong cái máng của người chủ trại, và từ đêm đó trời không hề có mưa. Ngoài thứ nước đó thì mọi thứ nước trên trái đất nầy là không thể uống được.
Cô đã đi vào một nơi để ăn uống những thứ xa lạ nhưng cô không thể nào chịu nổi mùi hôi hám. Cô đã thử ăn rau và quả tươi của họ, nhưng chúng chẳng có vị gì và không ngon lành như thức ăn ở nhà.
Cô có tên là Duyên Dáng 1, dáng người cao, nghiêm trang, xinh đẹp với cặp mắt màu xanh lá cây ngời sáng. Kể từ lúc rời khỏi nơi xảy ra tai nạn, cô đã hoá thân thành một người trái đất, và đi qua những đám đông mà không hề bị để ý.
Cô ngồi trước một cái bàn, trên một cái ghế cứng quèo rất bần tiện được làm cho con người, và cô đọc những ý nghĩ của những sinh vật ở quanh cô.
Có hai sinh vật đang ngồi bên một chiếc bàn gần kề. Một sinh vật nói to:
Đó là cơ hội cả đời chỉ có một lần, Frank ạ. Chỉ cần năm mươi ngàn francs là anh có thể bắt đầu rồi. Anh có năm mươi ngàn francs, phải không nào? - Cô đọc những ý nghĩ trong đầu anh ta. Nào, đồ con lợn. Tao cần số tiền đó.
Tất nhiên, nhưng tôi không biết. - Tôi sẽ phải vay khoản tiền đó ở vợ tôi.
Đã bao giờ tôi xui bậy anh trong chuyện đầu tư chưa hả? - Hãy quyết định đi.
Đó là một khoản tiền lớn. - Cô ta sẽ không bao giờ đưa nó cho tôi cả.
Nhưng còn về tiềm năng? Đó là cơ hội kiếm bạc triệu đấy? - Hãy đồng ý đi.
Thôi được Tôi tham gia. - Có thể phải bán đi một ít nữ trang của cô ấy.
Mình ăn được nó rồi. Frank, anh sẽ không bao giờ phải hối tiếc đâu. - Hãn ta hoàn toàn có thể thua thiệt về thuế.
Duyên Dáng 1 không hề hiểu nổi câu chuyện đỏ có ý nghĩa gì.
Ở phía cuối phòng ăn, một người đàn ông và một người đàn bà đang cùng ngồi bên một chiếc bàn. Họ đang thì thầm nói chuyện với nhau. Cô định thần để lắng nghe câu chuyện của họ.
Lạy Chúa. - Người đàn ông nói. - Quái quỷ thế nào mà em lại có chửa được hả? Cô là đồ ngu ngốc.
Thế anh nghĩ vì sao mà em có chửa hả? - Vì báu vật giống đực của anh đấy.
Có chửa là cách mà những sinh vật nầy thai nghén, sinh sản một cách vụng về bằng các cơ quan sinh dục, của họ, giống như những con vật trên cánh đồng vậy.
Tina, về chuyện nầy em định thế nào? - Cô ta phải đi phá thai.
Ê. Anh muốn em làm gì hả? Anh bảo là anh sẽ nói với vợ anh về em mà. - Anh là một thằng nói dối khốn kiếp.
Nầy em yêu, anh sẽ nói, nhưng lúc nầy không được. - Tôi dính với cô một cách thật là điên rồ. Lẽ ra tôi phải biết cô là kẻ gây rắc rối.
Paul, lúc nầy em cũng thật buồn. Thậm chí em không còn nghĩ là anh yêu em. - Xin hãy nói là anh yêu em đi. - Tất nhiên là anh yêu em. Chỉ có điều ngay lúc nầy chính là lúc vợ anh đang gặp hoàn cảnh khó khăn. - Tôi không hề định để mất cô ấy.
Lúc nầy em cũng đang gặp khó khăn. Anh không hiểu điều đó à? Em đang mang bầu đứa con của anh. - Và anh không hề có ý định cưới tôi. Nước mắt chảy ra từ hai mắt cô ta.
Bình tĩnh nào, em yêu. Anh đảm bảo với em là mọi chuyện rồi sẽ ổn cả. Anh cũng muốn có con như em thôi. - Mình sẽ phải thuyết phục cô ta đi phá thai.
Ở cái bàn kề bên họ, một sinh vật giống đực đang ngồi một mình.
Họ đã hứa với mình. Họ nói là cuộc đua đã được ấn định, rằng mình không thể thua, và như một thằng ngốc, mình đã ném tất cả tiền cho bọn họ. Mình phải tìm cách kiếm lại trước khi đám thanh tra tới. Mình không thể nào chịu được nếu họ tống mình vào tù. Mình sẽ tự sát trước. Thề có Chúa, mình sẽ tự sát.
Tại một chiếc bàn khác, một người đàn ông và một người đàn bà đang dở câu chuyện.
- Không hề có chuyện như vậy. Đơn giản là anh đã mua ngôi nhà nghỉ xinh đẹp trên núi nầy, và anh nghĩ là sẽ tốt cho em khi đi nghỉ cuối tuần cho thoải mái. - Chúng ta sẽ có nhiều thời gian nghỉ ngơi trên giuờng của anh, cô bé ạ.
Claude, em không biết. Em chưa bao giờ đi xa với một người đàn ông nào. - Mình ngờ là anh ta tin như thế.
Phải, nhưng đây không phải là chuyện t.ình d.ục đâu. Anh chợt nghĩ đến cái nhà nghỉ bởi vì em nói là em cần được nghỉ ngơi. Em có thể nghĩ về anh như một người anh trai của em - Và chúng ta sẽ thử phạm cái tội loạn luân đầy vui thú và cổ lỗ kia xem sao.
Duyên Dáng 1 không hề biết rằng những người khác nói nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau, bởi lẽ cô có thể chen vào trong đầu họ bằng ý thức của mình và hiểu họ đang nói gì.
Mình phải tìm cách liên lạc với tàu mẹ, cô nghĩ.
Cô lấy ra nột cái máy phát xách tay màu bạc. Đó là một hệ thống mạch liên hợp phân cách mà một nửa gồm vật chất hữu cơ sống và nửa kia gồm một hợp chất kim loại của một hệ mặt trời khác. Nhóm vật chất hữu cơ bao gồm hàng nghìn tế bào đơn lẻ để khi chúng chết đi, những tế bào mới được nhân ra và giữ cho những liên lạc liên tục. Thật không may, cái bộ phận tinh thể dùng để điều khiển chiếc máy phát đã gãy ra và rơi mất. Cô đã thử liên lạc với tàu mẹ, nhưng thiếu bộ phận nầy chiếc máy phát trở nên vô tích sự.
Cô cố ăn thêm một lá rau diếp nữa, nhưng không còn chịu nổi mùi vị của nó. Cô đứng dậy và bước ra phía cửa. Cô thu ngân gọi phía sau:
- Thưa cô, xin chờ một phút. Cô chưa trả tiền ăn.
- Tôi xin lỗi. Tôi không có thứ phương tiện thanh toán của các bạn.
- Cô có thể nói điều đó với cảnh sát ấy.
Duyên Dáng 1 nhìn thẳng vào mắt cô thu ngân và chờ cô ta khuỵu xuống. Cô quay đi và bước khỏi chỗ ăn uống đó.
Mình phải tìm cái bộ phận tinh thể. Họ đang chờ nghe tin tức của mình. Cô đã phải cố tập trung các giác quan, nhưng mọi thứ dường như cứ nhoè đi và méo mó. Không có nước, cô biết thế, cô sẽ chết mất.
 
CHƯƠNG 22 -
Ngày thứ năm.
Bern, Thuỵ Sĩ.
Robert đang đi vào ngõ cụt. Anh không nhận ra là đã trông cậy nhiều thế nào vào việc kiếm được cái danh sách của Mothershed. Tan thành mây khói cả. Robert nghĩ. Theo đúng nghĩa đen của nó. Các dấu vết bây giờ thật mờ nhạt. Lẽ ra mình phải đoạt bản danh sách kia lúc mình ở trong căn hộ của Mothershed.
Điều đó sẽ dạy cho mình một bài học. Tất nhiên. Một ý nghĩ đâu đó có trong đầu anh chợt nổi lên. Hans Beckerman có nói: "Tất cả những hành khách đều muốn được xem cái vật thể bay lạ và những sinh vật chết trong đó, nhưng cái lão già ấy thì cứ phàn nàn đòi sớm về Benr bởi vì lão ta phải chuẩn bị một bài giảng ở trường đại học". Chuyện thật mơ hồ, nhưng đó là tất cả những gì Robert có trong tay.
Anh thuê một cái xe ở sân bay Bern và chạy về hướng trường đại học. Anh rời khỏi đường Rathausgasse, con đường chính của thành phố Bern và lái xe chạy tới Langgassetrsase, nơi có Đại học Bern. Trường đại học nầy gồm dăm toà nhà, cao bốn tầng, với hai dãy ngang và những tượng đá lớn trên mái. Ở mỗi đầu sân, mặt trước của toà nhà là nhùng cửa sổ bằng kính của nhữtng phòng hộc, và ở phía sau trường là một khoảng vườn lớn nhìn ra sông Aare.
Robert bước lên bậc thềm của toà nhà hành chính và bước vào phòng thường trực. Thông tin duy nhất mà Beckerman trao cho anh là ông khách đó người Đức và ông ta đang chuẩn bị bài giảng cho ngày thứ Hai.
Một sinh viên đã chỉ cho anh tới Phòng hành chính.
Một phụ nữ ngồi sau bàn có một vóc người thật dễ sợ. Bà ta mặc một bộ complê cắt rất vừa vặn, mang một cặp kính gọng đen và tóc được búi thành một búi nhỏ. Bà ta ngước nhìn lên khi Robert bước vào.
- Xin mời.
Robert móc ra một tấm thẻ cảnh sát quốc tế.
- Tôi đang thực hiện một cuộc điều tra, và tôi sẽ đánh giá cao sự hợp tác, thưa cô.
- Bà. Bà Schreiber. Điều tra chuyện gì vậy?
- Tôi đang tìm kiếm một giáo sư.
- Tên ông ta? - Bà ta cau mầy.
- Tôi không biết.
- Ông không biết cả tên ông ta?
- Không. Ông ta là một giảng viên mời thôi. Ông ta có một bài giảng ở đây, cách đây vài ngày. Hôm thứ Hai.
- Ngày nào cũng, có nhiều giảng viên mời tới đây giảng bài. Môn học của ông ta là môn gì?
- Bà nói gì ạ?
- Ông ta dạy môn gì? - Giọng bà ta trở nên mất kiên nhẫn. - Ông ta dạy môn học gì?
- Tôi không biết.
Bà ta không giấu vẻ bực tức.
- Trời đất. Tôi không thể giúp ông. Và tôi không có thì giờ cho những chuyện phù phiếm nầy. Bà ta định quay đi.
- Ồ, đây không phải là chuyện phù phiếm. - Robert cam đoan với bà ta. - Hoàn toàn nghiêm túc đấy. - Anh cúi xuống và thấp giọng nói. - Tôi sẽ phải để bà biết công việc của tôi. - Vị giáo sư nầy liên quan tới một tổ chức đĩ điếm.
Bà Schreiber há mồm kinh ngạc.
- Cảnh sát quốc tế đã theo dõi ông ta trong nhiều tháng. Thông tin chúng tôi hiện có cho thấy ông ta là người Đức và rằng ông ta có một bài giảng ở đây vào ngày mười lăm tháng nầy. - Anh đứng thẳng người lên. - Nếu bà không muốn giúp đỡ, chúng tôi có thể tiến hành một cuộc điều tra chính thức tại trường nầy. Tất nhiên, dư luận…
- Không, không. - Bà ta nói. - Không thể để nhà trường liên quan tới một chuyện như vậy. - Trông bà ta đầy vẻ lo ngại. - Ông nói là ông ta giảng bài ở đây hôm nào nhỉ?
- Ngày mười lăm. Thứ hai.
Schreiber nhỏm dậy và đi tới bên tủ hồ sơ. Bà ta mở tủ và lướt qua đám giấy má. Từ một chiếc cặp, bà ta rút ra mấy tờ giấy.
- Đây rồi! Có ba giáo sư mời giảng vào hôm mười lăm.
- Người tôi muốn biết là người Đức.
Tất cả họ đều là người Đức. - Schreiber nói quả quyết. Bà ta sắp xếp mấy tờ giấy trong tay. - Một bài giảng là về các vấn đề kinh tế, một về hoá học và một về tâm lý…
- Tôi có thể xem chúng được không?
Một cách miễn cưỡng, bà ta đưa xấp giấy cho Robert.
- Anh xem kỹ từng tờ. Trên mỗi tờ đều có một cái tên với địa chỉ nhà riêng và số điện thoại.
- Nếu ông muốn, tôi có thể làm bản sao cho ông.
- Không, cảm ơn. - Anh đã nhớ tất cả những cái tên và những con số. Không có ai trong số nầy là người mà tôi đang tìm kiếm.
Bà Schreiber thở phào nhẹ nhõm.
Ôi cảm ơn Chúa. Đĩ điếm. Chúng tôi sẽ không bao giờ dinh dáng đến một chuyện như vậy.
- Xin lỗi đã làm phiền bà vì một chuyện không đâu.
Robert đi ra và hướng tới một trạm điện thoại công cộng trong thành phố.
Cú điện thoại đầu tiên là tới Berlin.
- Giáo sư Streubek phải không ạ?
- Phải.
Đây là Công ty xe du lịch Sunshine. Ông để quên kính trên chiếc xe bus của chúng tôi hôm chủ nhật trước khi ông đi du lịch ở Thuỵ Sĩ và…
- Tôi không hiểu ông muốn nói chuyện gì nữa. - Giọng ông ta có vẻ khó chịu.
- Ông ở Thuỵ Sĩ hôm mười bốn, có phải vậy không, thưa giáo sư?
- Không. Ngày mười lăm. Để giảng bài ở Đại học Bern.
- Và ông không đi chuyến xe du lịch của chúng tôi ư?
- Tôi không có thì giờ cho một chuyện ngốc nghếch như vậy. Tôi là một người bận rộn. - Và ông giáo sư gác máy.
Cú điện thoại thứ hai là tới Hamburg.
- Giáo sư Heinrich phải không ạ?
- Đây là giáo sư Heinrich!
Công ty xe du lịch Sunshine. Ông có ở Thuỵ Sĩ vào ngày mười bốn tháng nầy phải không ạ?
- Vì sao mà ông muốn biết?
Bởi vì chúng tôi tìm thấy chiếc cặp của ông trên một trong những chiếc xe bus của chúng tôi, thưa giáo sư, và…
- Ông nhầm người rồi, tôi không có mặt trên chiếc xe bus du lịch nào hết.
- Ông không đi tuyến du lịch của chúng tôi đến Jungfrau à?
- Tôi đã nói với ông rồi, không.
- Tôi xin lỗi vì đã làm phiền ông.
Cú điện thoại thứ ba được gọi tới Munich.
- Giáo sư Otto Schmidt phải không ạ?
- Vâng.
- Giáo sư Schmidt, đây là công ty xe du lịch Sunshine. Chúng tôi giữ cặp kính mà ông đã để quên trên một chiếc xe của chúng tôi cách đây ít hôm, và…
Hẳn là có chuyện nhầm lẫn rồi.
Tim Robert thắt lại. Anh đã thua. Không còn gì để mà tiếp tục nữa. Giọng nói ở đầu dây kia tiếp tục.
- Tôi có kính của tôi đây thôi. Tôi đâu có mất.
Robert chợt thấy phấn chấn.
- Ông chắc thế chứ, giáo sư? Ông đi tuyến Jungfrau ngày mười bốn có phải không ạ?
- Vâng, vâng, nhưng tôi đã nói rồi, tôi không mất gì cả mà.
- Cảm ơn ông rất nhiều, thưa giáo sư. - Robert gác máy. Vò bở rồi.
Robert, quay mấy số máy khác, và chỉ sau hai phút anh đã đang nói với tướng Hilliard.
- Tôi có hai việc phải báo cáo. - Robert nói. - Về nhân chứng ở London mà tôi đã nói với ngài.
- Sao?
- Anh ta đã chết trong một vụ cháy đêm qua.
- Thế hả? Thật tệ quá.
- Thưa ngài, vâng. Nhưng tôi tin rằng tôi đã phát hiện một nhân chứng khác. Tôi sẽ để ngài biết ngay sau khi kiểm tra lại.
- Tôi sẽ chờ báo cáo của ông, ông sĩ quan.
Tướng Hilhard đang báo cáo với Janus.
- Sĩ quan Bellamy đã phát hiện một nhân chứng nữa.
- Tốt. Nhóm công tác đang trở nên sốt ruột. Tất cả đều lo ngại rằng câu chuyện sẽ loang ra trước khi SDI đi vào hoạt động.
- Tòi sẽ sớm có những thông tin nữa cho ngài.
- Tôi không muốn thông tin, tôi muốn thấy những kết quả.
- Vâng, thưa ngài Janus.
Platténstrasse, ở Munich, là một khu phố nhỏ, yên tĩnh với những ngôi nhà xây bằng gạch màu nâu xám xịt co cụm lại với nhau như thể để phòng vệ.
Ngôi nhà số 5 giống hệt với những ngôi nhà hàng xóm. Bên trong cổng là một dãy hộp thư. Một tấm biển nhỏ dưới một trong những hộp thư có ghi dòng chữ "Giáo sư Otto Schmidt". Robert bấm chuông.
Một người đàn ông cao, gầy với một mớ tóc bạc loà xoà mở cửa. Ông ta mặc một chiếc áo nhàu nhĩ, mồm ngậm chiếc tẩu. Robert không hiểu liệu ông ta tạo ra hình ảnh một giáo sư đại học mô phạm hay chính cái hình ảnh đó là tạo ra ông ta.
- Ông là giáo sư Schmidt?
- Phải!
- Tôi không biết liệu tôi có thể nói chuyện với ông một lát được không. Tôi ở…
- Chúng ta đã nói chuyện với nhau, - giáo sư Otto Schmidt nói. - Ông là người đã gọi điện thoại cho tôi sáng nay. Tôi là một chuyên gia trong lĩnh vực nhận biết giọng nói. Mời vào.
- Cám ơn ông.
Robert bước vào một căn phòng bề bộn sách vở. Trên các bức tường, từ sàn nhà lên tới trần là những giá sách đầy kín. Ở đâu cũng thấy sách trên bàn, trên sàn, trên ghế. Đặc điểm nổi bật trong căn trong căn phòng dường như là những việc làm chưa được nghĩ kỹ.
- Ông chẳng phải là từ một hãng du lịch Thuỵ Sĩ nào cả, có phải thế không hả?
- Ô tôi…
- Ông là người Mỹ.
- Vâng.
- Và cuộc viếng thăm nầy không liên quan gì đến cặp kính không hề bị mất của tôi.
- Ồ không, thưa ông.
- Ông quan tâm đến cái vật thể bay lạ mà tôi đã nhìn thấy. Đó là một cảnh tượng ghê sợ. Tôi đã luôn tin rằng có thể có những thứ đó, nhưng tôi không bao giờ nghĩ là tôi sẽ được chứng kiến.
- Hẳn phải là một cú sốc khủng khiếp.
- Đúng thế.
- Ông có thể kể cho tôi nghe chút gì về chuyện đó không?
- Nó, nó dường như vẫn hoạt động. Có một thứ ánh sáng lung linh bao quanh nó. Xanh da trời. Không có thể là hơi xám một chút. Tôi, tôi không chắc.
Anh nhớ lại lời mô tả của Mandel: "Nó liên tục thay đổi màu sắc. Trông nó thoáng xanh da trời… rồi lại xanh lá cây. Nó đã bị vỡ toang ra và tôi nhìn thấy được hai xác chết trong đó. Nhỏ… mắt to. Họ mặc thứ gì đó giống như một bộ quần áo bằng bạc vậy…"
- Ông có thể kể gì với tôi về những bạn đồng hành của ông không?
- Những người cùng đi với tôi trên chiếc xe bus ấy à?
- Vâng.
Vị giáo sư nhún vai.
- Tôi không biết gì về họ cả. Tất cả bọn họ đều là những người lạ. Khi đó tôi đang tập trung về một bài giảng mà tôi sẽ giảng vào sáng ngày hôm sau. Tôi rất ít để ý tới những hành khách khác.
Robert nhìn vẻ mặt ông ta, chờ đợi.
- Nếu như nó sẽ là có ích cho ông, - Vị giáo sư nói, - thì tôi có thể nói cho ông biết họ là người nước nào. Tôi dạy hoá học, nhưng có sở thích về nghiên cứu âm thanh.
- Bất kỳ những gì ông nhớ được đều đáng quý cả.
- Có một tu sĩ người Italia, một người Anh, một người Hungary, một người Mỹ nói giọng Texas, một cô gái Nga.
- Nga à?
- Phải. Nhưng cô ta không phải dân Mátxcơva. Theo giọng nói, tôi đoán cô ta ở Kiev, hoặc là rất gần đó.
Robert chờ đợi, nhưng chỉ còn có sự im lặng.
Ông không nghe thấy bất kỳ ai trong số họ nhắc tới tên hay nói chuyện về nghề nghiệp của họ à?
- Xin lỗi. Tôi đã nói rồi. Tôi đang suy nghĩ về bài giảng của tôi. Rất khó tập trung suy nghĩ. Người Mỹ nói giọng Texas và vị tu sĩ ngồi cùng với nhau. Người Mỹ đó nói luôn mồm. Đủ mọi thứ chuyện. Tôi không biết ông tu sĩ thậm chí có hiểu hay không.
- Ông tu sĩ…
- Ông ta nói giọng La Mã.
- Ông có thể nói thêm gì nữa về bất kỳ ai trong số họ không?
- Tôi sợ là không. - Vị giáo sư nhún vai. Ông ta hút một hơi thuốc. - Tôi lấy làm tiếc là không thể giúp gì cho ông.
Một ý nghĩ chợt đến với Robert.
- Ông nói ông là một nhà hoá học phải không nhỉ?
- Phải.
- Tôi không biết liệu ông có bằng lòng nhìn cái nầy một chút không, thưa giáo sư. - Robert thò tay vào túi và lôi ra mẩu kim loại mà Beckerman đã đưa cho anh. - Ông có thể bảo tôi cái nầy là cái gì được không ạ?
Giáo sư cầm cái mẩu kim loại từ tay Robert, và trong lúc xem xét nó, vẻ mặt ông ta chợt thay đổi.
- Anh, anh kiếm cái nầy ở đâu?
- Tôi sợ là tôi không thể nói được. Ông có biết nó là cái gì không?
Có vẻ như nó là một bộ phận của một chiếc máy phát.
- Ông có chắc thế không?
Ông ta lật lật miếng kim loại trong tay.
- Tinh thể nầy là chất dilithium. Rất hiếm. Thấy những vết khía nầy không? Chúng cho thấy miếng nầy được gắn vào một bộ phận lớn hơn. Bản thân miểng kim loại… Lạy Chúa, tôi chưa bao giờ trông thấy cả. - Giọng ông ta đầy xúc động. - Ông có thể đề cho tôi giữ nó trong vài ngày được không? Tôi muốn có những phân tích quang phổ về nó.
- Tôi e là không thể được, - Robert nói.
- Nhưng…
- Xin lỗi, - Robert cầm lại miếng kim loại.
Vị giáo sư cố giấu vẻ thất vọng.
- Thôi, ông có thể mang nó lại sau vậy. Sao ông không cho tôi danh thiếp của ông nhỉ. Nếu tôi còn nhớ thêm được gì nữa, tôi sẽ gọi cho ông.
- Có vẻ như tôi chẳng còn tấm nào ở đây cả. - Robert lục lọi trong túi một chút.
- Phải rồi, tôi cũng nghĩ là thế. - Giáo sư Schmidt thủng thẳng nói.
- Sĩ quan chỉ huy Bellamy đang trên máy.
- Đây ông sĩ quan? - Tướng Hilliard nhấc máy.
- Tên của nhân chứng mới nhất là giáo sư Schmidt. Ông ta sống ở số 5 Plattenstrasse, Munich.
- Cám ơn ông sĩ quan. Tôi sẽ thông báo với nhà chức trách Đức ngay lập tức. - Robert đã toan nói: "Tôi e rằng đó là nhân chứng cuối cùng mà tôi có thể tìm được", nhưng có điều gì đó đã chặn anh lại. Anh không muốn phải thú nhận sự thất bại. Vậy mà các dấu vết đã trở nên thật mờ nhạt. Một người Texas và một vị tu sĩ. Vị tu sĩ kia từ La Mã tới. Một thời gian. Cùng với cả triệu vị tu sĩ khác. Và không có cách nào để nhận dạng ông ta cả: Mình có một sự lựa chọn. - Robert nghĩ. - Mình có thể từ bỏ và trở về Washington, hoặc là mình có thể đi Rome và cố một lần cuối cùng…
Trụ sở của Cục Bảo vệ Hiến Pháp, nằm ở trung tâm Berlin, trên đường Neumarkterstrasse. Đó là một toà nhà lớn màu xám không có gì đặc biệt, khó có thể phân biệt được với những toà nhà xung quanh.
Bên trong, trên tầng ba, sếp cơ quan, thanh tra Otto Joachim đang xem một bức điện. Ông ta đọc nó hai lần, rồi với tay nhấc chiếc điện thoại đỏ trên bàn.
Ngày thứ sáu.
Munich, Đức.
Sáng hôm sau, trên đường đi đến phòng thí nghiệm hoá học, Otto Schmidt nghĩ lại câu chuyện trao đổi với người Mỹ tối hôm trước. Cái mẫu kim loại đó có thể từ đâu ra nhỉ? Một vật mà ông chưa bao giờ thấy. Và cái người Mỹ kia đã làm cho ông ta ngạc nhiên.
Ông ta nói là quan tâm tới những người khách đi trên chiếc xe bus. Vì sao? Bởi vì tất cả họ đều là những nhân chứng trước cái đĩa bay kia ư? Phải chăng họ sẽ được khuyến cáo là không được bàn tán? Nếu vậy thì vì sao người Mỹ kia đã không khuyến cáo mình?
Có chuyện gì lạ vậy, vị giáo sư kết luận. Ông ta vào trong phòng thí nghiệm, cởi áo khoác treo lên móc và mặc lên người cái áo choàng rỏi bước lại chiếc bàn nơi ông ta đã làm việc nhiều tuần nay với một thí nghiệm hoá học. Nếu thành công, ông ta nghĩ, điều nầy có thể có nghĩa là một giải Nobel. Ông ta nhấc cái cốc đựng nước tinh khiết và rót vào một bình chứa đựng một thứ chất lỏng màu vàng. Lạ nhỉ. Mình không nghĩ là nó lại có màu vàng sáng thế nầy.
Tiếng nổ thật là khủng khiếp. Căn phòng thí nghiệm nồ tung, và những mảnh thuỷ tinh cùng với những mảnh thịt người văng tung toé lên những bức tường.
Điện khẩn.
Tối mật.
BFV gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
Otto Schmidt đã bị thủ tiêu
Hết.
Robert không nghe được tin về cái chết của vị giáo sư. Anh đã có mặt trên một chuyến bay của hãng hàng không Alitalia, trên đường tới Rome
 
CHƯƠNG 23 -
Dustin Thornton bắt đầu cảm thấy bất an. Giờ đây ông ta có quyền lực và nó cứ như một thứ ma tuý lại muốn có thêm nữa. Bố vợ ông ta, Williard Stone, luôn hứa hẹn đưa ông ta vào một thế giới bí ẩn khép kín nào đó nhưng cho đến giờ lão vẫn chưa thực hiện lời hứa đó.
Một cách hoàn toàn ngẫu nhiên, Thornton biết rằng thứ sáu nào bố vợ mình cũng biến mất. Thornton đã gọi điện xin ăn trưa với lão.
- Xin lỗi, - thư ký của Williard Stone trả lời, - nhưng hôm nay ngài Stone đi vắng.
- Ô chán quá. Thế trưa thứ sáu tới thì sao?
- Xin lỗi ông Thornton, thứ sáu tới ngài Stone cũng sẽ đi vắng.
Lạ nhỉ và thậm chí nó còn trở nên lạ hơn khi mà hai tuần sau đó Thornton cũng gọi lại và vẫn nhận được cùng một câu trả lời. Thứ sáu nào lão già cũng biến đi đâu thế nhỉ? Lão ta không phải là người say mê chơi gôn hay đam mê một thú vui nào cả.
Lý do hẳn là một người đàn bà. Vợ của Williard Stone ưa giao thiệp và rất giàu có. Bà ta là một phụ nữ đài các và cũng có tính cách mạnh mẽ hệt ông chồng. Bà ta không phải loại phụ nữ tha thứ được cho chồng về chuyện trăng hoa. Nếu lão ta đang có một vụ ngoại tình, Thornton nghĩ, điều đó có nghĩa là mình tóm được gáy lão. Ông ta hiểu là phải tìm ra cho bằng được.
5 giờ sáng ngày thứ sáu tiếp theo đó, Dustin Thornton đã ngồi sùm sụp sau tay lái của một chiếc Ford Taurus rất bình thường, đậu cách toà dinh thự sừng sững của Willard Stone nửa dãy phố. Đó là một buổi sáng lạnh giá và ảm đạm, và Thornton luôn tự hỏi ông ta đang làm gì ở đó. Có thể là có một lời giải thích hoàn toàn hợp lý nào đó cho cái hiện tượng kỳ cục nầy của Stone.
Mình đang phí thời gian, Thornton nghĩ. Nhưng có điều gì đó đã kìm chân ông ta lại.
Lúc 7 giờ, hai cánh cổng lớn mở ra và một chiếc xe xuất hiện. Ngồi sau tay lái là Williard Stone. Thay vì chiếc xe sang trọng thường dùng, lúc nầy lão ta đang ngồi trong một chiếc xe chở hàng nhỏ, màu đen mà đám gia nhân vẫn sử dụng. Thornton đột nhiên cảm thấy hồi hộp. Ông ta biết là mình đang phát hiện một chuyện gì đó. Người ta thường sống theo một khuôn phép riêng, và Stone đang phá vỡ cái khuôn phép ấy.
Phải là chuyện một người đàn bà.
Lái xe một cách thận trọng và giữ một khoảng cách khá xa chiếc xe chở hàng, Thornton bám theo ông bố vợ xuyên qua các đường phố Washington tới một con đường dẫn đi Arlington.
Mình phải thật tế nhị trong chuyện nầy, Thornton nghĩ. Mình không muốn làm quá mạnh. Mình sẽ thu thập tất cả các thông tin có thể có được về lão, và rồi mình sẽ lật quân bài. Mình sẽ nói với lão rằng mình chỉ quan tâm tới chuyện bảo vệ cho lão mà thôi. Lão sẽ hiểu. Lão chẳng bao giờ muốn có chuyện bê bối om sòm.
Dustin Thornton quá mải mê với những suy nghĩ đến nỗi suýt không rẽ theo Williard Stone. Họ đã tới một khu dân cư dành riêng. Chiếc xe hàng màu đen đột nhiẽn mất hút vào con đường nhỏ chạy dài trong bóng cây.
Dustin Thornton dừng xe, lựa chọn cách theo dõi tốt nhất. Liệu ông ta có nên chạm mặt với Williard trước sự không chung thuỷ của lão ta lúc nầy không? Hay nên đợi cho đến khi Stone đi khỏi và nói chuyện với người đàn bà kia trước đã? Hay nên yên lặng thu thập tất cả những thông tin cần thiết và rồi nói chuyện với ông bố vợ? Ông ta quyết định phải tìm hiểu cụ thể.
Thornton đậu xe ở một đường phụ và đi vòng theo con đường nhỏ ở phía sau ngôi nhà hai tầng kia. Một hàng rào gỗ bao quanh khu sân sau nhưng điều đó không có trở ngại gì. Thornton mở cổng và bước vào bên trong.
Ông ta đang đứng trước một khu vườn lớn, xinh đẹp và được chăm sóc chu đáo với ngôi nhà khuất phía sau.
Ông ta nhẹ nhàng đi dưới hàng cây chạy ngang bãi cỏ tới đứng bên cửa sau của ngôi nhà và tính toán bước đi tiếp theo. Ông ta cần có bằng chứng về chuyện đang xảy ra. Không có nó thì lão già sẽ cười vào mặt cho. Dù chuyện gì đang xảy ra bên trong kia thì lúc nầy thì cũng đều có thể là chìa khoá dẫn tới tương lai của ông ta. Phải tìm ra cho được.
- Rất nhẹ nhàng, Thornton thử mở cánh cửa sau.
Nó không được khoá. Ông ta lọt vào bên trong và thấy mình đang đứng trong một phòng bếp lớn kiểu cổ. Không có ai xung quanh cả. Thornton tiến đến bên cánh cửa phụ, nhẹ nhàng đẩy ra. Trước mặt ông ta là gian tiền sảnh lớn. Ở phía đầu kia là một cánh cửa đóng kín, có thể là dẫn tới một phòng thư viện. Thornton bước tới hết sức nhẹ nhàng. Ông ta đứng nép bên cánh cửa.
Không hề có tiếng động gì bên trong. Có thể là lão già đang ở trong phòng ngủ trên gác.
Thornton đẩy cửa ra. Ông ta đứng trước ngưỡng cửa, chết đứng. Có hơn một chục người đàn ông đang ngồi trong phòng, quanh một chiếc bàn lớn.
- Vào đi Dustin, - Williard nói. - Chúng tôi đang chờ anh đấy.
 
CHƯƠNG 24 -
Tình hình ở Rome tỏ ra là khó khăn cho Robert, một cuộc thử thách tinh thần làm cho anh kiệt sức. Anh đã đi nghỉ tuần trăng mật ở đây với Susan, và ở đây cũng đầy những kỷ niệm. Rome đồng nghĩa với Roberto, người quản lý khách sạn Hassler cho mẹ anh, một người nặng tai nhưng có thể nhìn miệng người nói để hiểu với năm thứ tiếng. Rome có nghĩa là khu vườn của biệt thự D Este ở Tivoli, và niềm vui sướng của Susan trước một trăm dòng suối do con trai của Lucretia Borgia tạo nên. Rome là Otello, dưới chân. Những bậc thềm Tây Ban Nha, rồi Toà thánh Vatican và những bức bích hoạ nổi tiếng của Michelangelo. Rome là sự pha trộn giữa những giai điều nhạc du dương ở Tre Scalini cùng tiếng cười vui của Susan, và tiếng cô nói: "Robert, hãy hứa với em là chúng mình sẽ luôn hạnh phúc như thế nầy nhé".
Mình đang làm cái quái gì ở đây nhỉ? Robert băn khoăn. Mình không hề biết tí gì về vị tu sĩ kia, hay thậm chí là liệu ông ta có ở Rome hay không. Đã đến lúc nghỉ ngơi, về nhà và quên hết những thử nầy.
Nhưng có điều gì đó trong anh, một nét bướng bỉnh thừa kế từ một ông tồ nào đó đã chết từ lâu, ngăn không cho anh làm như vậy. Mình sẽ cố gắng một ngày nữa, Robert quyết định. Một ngày nữa thôi.
Sân bay Leonardo da Vinci thật đông người và đối với Robert thì dường như bất kỳ ai cũng có thể là một tu sĩ. Anh đang tìm kiếm một tu sĩ trong thành phố có, bao nhiêu? Năm mươi nghìn tu sĩ phải không nhỉ? Hay một trăm nghìn? Trên taxi đến khách sạn Hassler, anh chú ý tới những đám đông các tu sĩ mặc áo choàng đi trên đường phố. Không thể được, Robert nghĩ. Mình hẳn là điên thật rồi.
Anh được viên phó quản lý chào đón ở tiền sảnh khách sạn Hassler.
- Ông Bellamy. Thật mừng là lại được thấy ông.
- Cám ơn. Pietro. Ông có phòng cho tôi nghỉ lại một đêm không?
- Cho ông, tất nhiên rồi. Luôn luôn sẵn sàng.
Robert được đưa đến một phòng mà anh đã từng ở.
- Nếu có cần gì xin ông cứ…
Tôi cần một điều kỳ diệu khốn kiếp, Robert nghĩ.
Anh ngả người nằm xuống, cố tĩnh tâm.
Vì sao một tu sĩ ở Rome lại đi Thuỵ Sĩ nhỉ? Có mấy khả năng. Ông ta có thể đi nghỉ, hoặc có thể dự một hội nghị tôn giáo. Ông ta là vị tu sĩ duy nhất trên chiếc xe bus đó. Điều đó có nghĩa gì nhỉ? Không gì cả. Ngoài một điều là ông ta không cùng đi với nhóm, có thể như vậy thôi. Bởi thế có thể là một chuyến đi thăm bạn bè hay gia đình của ông ta. Hoặc cũng có thể là ông ta đi cùng một nhóm, và riêng ngày hôm đó thì họ có những chương trình riêng lẻ. Những ý nghĩ của Robert cứ quẩn quanh trong một cái vòng tuyệt vọng.
Hãy trở lại từ đầu. Ông tu sĩ nầy đã tới Thuỵ Sĩ như thế nào nhỉ? Nhiều khả năng là ông ta không có một cái xe ô tô riêng. Ai đó có thể cho ông ta đi nhờ, nhưng khả năng nhiều hơn là việc ông ta đã đi bằng máy bay tầu hoả hoặc xe bus. Nếu là đi nghỉ thì ông ta hẳn đã không có nhiều thời gian. Bởi vậr hãy giả thiết rằng ông ta đã đi bằng máy bay.
Cách lập luận đó chẳng dẫn đến đâu cả. Các hãng hàng không không ghi lại nghề nghiệp của hành khách. Vậy thì vị tu sĩ kia cũng chỉ có một cái tên như bao nhiêu những cái tên khác trong danh sách hành khách. Nhưng nếu ông ta là thành viên của một nhóm…
Toà thánh Vatican, nơi ở chính thức của Giáo hoang, vươn lên một cách uy nghi trên đồi Vatican, bên bờ Tây sông Tiber, phía tây bắc thành Rome. Mái vòm cao của nhà thờ Basilica, do Michellangelo thiết kế, đứng sừng sững trên quảng trường rộng lớn, đêm ngày đầy những khách thuộc đủ mọi tín ngưỡng.
Quảng trường nầy được bao quanh bởi những chiếc cột trụ hình bán nguyệt được xây dựng xong vào năm 1667 dưới bàn tay của Bernini, với 284 chiếc cột đá hoa cương xếp thành bốn hàng và trên đó là một bao lớn đỡ 140 bức tượng. Robert đã thăm nơi nầy tới cả chục lần, nhưng lần nào anh cũng cảm thấy nghẹt thở trước quang cảnh ở đó.
Tất nhiên, phía trong Toà thánh, quang cảnh còn ngoạn mục hơn nữa. Nhà thờ Sistine: toà bảo tàng và Cung Sala đẹp đến mức không thể tả xiết.
Nhưng vào ngày hôm đó, Robert đã đến đây không phải để ngắm cảnh: Anh tìm được Phòng quan hệ với công chúng của Toà Thánh ở khu dành cho những việc liên quan đến bên đời. Người đàn ông trẻ tuổi ngồi sau bàn rất lịch thiệp.
- Tôi có thể giúp ông không ạ?
Robert đưa nhanh tấm thẻ ra.
- Tôi ở tạp chí Time. Tôi đang làm một bài viết về một số giáo sĩ đã tham dự một hội nghị tôn giáo ở Thuỵ Sĩ cách đây một hai tuần gì đó. Tôi đang cần những tư liệu về thân thế.
Người đàn ông kia nhìn anh một thoáng, rồi chau mầy.
- Chúng tôi có một số giáo sĩ dự một hội nghị ở Venise tháng trước. Gần đây thì không có giáo sĩ nào của chúng tôi đến Thuỵ Sĩ cả. Xin lỗi, tôi sợ là tôi không thể giúp gì cho ông.
- Việc nầy thật rất quan trọng, - Robert vội vã nói. - Làm thế nào để tôi có thể có những thông tin đó được?
- Cái nhóm mà ông tìm kiếm… họ đại diện cho dòng tu nào thế? Ông nói gì ạ? Đạo Thiên chúa có rất nhiều dòng: Dòng Francis, Marist, Benetdictine, Trappist, Jesuit, Dominic và một số dòng khác nữa.
- Tôi khuyên ông đến dòng tu của họ và hỏi ở đó xem.
Chỗ đó là chỗ quái nào? Robert nghĩ.
- Ông có gợi ý nào khác không hả?
- Tôi e là không.
Mình cũng thế, Robert nghĩ. Mình đã tìm thấy đồng cỏ. Mình không thể nào tìm được cái kim.
Anh rời khỏi Toà Thánh và lang thang trên các đường phố của thành Rome, mải mê với khó khăn của mình mà không hề để ý đến những người xung quanh đến quảng trường Appolo, anh ngồi vào một tiệm cà phê ngoài trời và gọi một ly Cinzano. Ly rượu vẫn ở yên trước mặt anh, không hề được động.
Với tất cả những gì anh đã biết thì vị tu sĩ kia có thể vẫn còn ở Thuỵ Sĩ. Ông ta thuộc dòng tu nào?
Mình không biết. Và mình chỉ có mỗi lời vị giáo sư kia nói rằng ông ta là người La Mã.
Anh uống một ngụm.
Có một chuyến bay đi Washington vào lúc chiều tối. Mình sẽ đi chuyến đó, Robert quyết định: Mình bỏ cuộc thôi. Ý nghĩ đó làm anh bực tức. Nhảy ra, nhưng không phải là cười mà là khóc. Đã đến lúc phải đi rồi.
- Tiền nầy.
- Thưa ngài, vâng.
Robert đưa mắt bâng khuâng nhìn quanh quảng trường. Phía bên đối diện với tiệm cà phê, một chiếc xe bus đang lấy khách. Trong dãy hành khách có hai tu sĩ, Robert nhìn hành khách đưa tiền vé và rồi đi xuống phía cuối xe.
Khi hai tu sĩ tới chỗ người bán vé, họ mỉm cười với ông ta và ngồi xuống ghế mà không trả tiền.
- Séc của ngài, thưa ngài, - người bồi bàn nói.
Thậm chí Robert không nghe thấy anh ta. Đầu óc anh đang quay cuồng. Nơi đây, ngay trong lòng nhà thờ Thiên Chúa, các tu sĩ có những đặc quyền nhất định. Có thể có thế thôi…
Văn phòng của hãng Hàng không Thuỵ Sĩ nằm ở số 10 đường P. chỉ cách đường Veneto khoảng 5 phút. Robert được một người đàn ông ngồi sau dãy bàn dài tiếp.
- Xin cho được gặp ông giám đốc?
- Tôi là giám đốc đây. Tôi có thể giúp gì ông?
- Michael Hudson, cảnh sát quốc tế. - Robert chìa ra một tấm thẻ.
- Tôi có thể làm gì cho ông được, ông Hudson?
- Một số hãng hàng không quốc tế đang phàn nàn về việc giảm giá vé bất hợp pháp ở châu Âu, và ở Rome nói riêng. Thể theo công ước quốc tế…
- Ông Hudson, tôi xin lỗi, nhưng Hàng không Thuỵ Sĩ không có cho giảm giá. Mọi người đều phải trả theo giá đã công bố…
- Tất cả hả?
- Tất nhiên là trừ những nhân viên của hãng.
- Các ông không giảm giá cho các giáo sĩ à?
- Không. Với hãng nầy, họ phải trả cả vé.
- Cám ơn ông đã dành thời giờ. - Và Robert bước ra.
Chỗ dừng tiếp theo - Và cũng là hy vọng cuối cùng của anh - là hãng Alitalia.
- Có chuyện giảm giá bất hợp pháp không? - Ông giám đốc sững người nhìn Robert, kinh ngạc. - Chúng tôi chỉ giảm giá cho nhân viên của chúng tôi.
- Các ông không giảm giá cho các tu sĩ à?
Gương mặt ông giám đốc sáng lên.
- A, chuyện đó thì có: Nhưng đó không phải là bất hợp pháp. Chúng tôi đã có những thoả thuận với bên Nhà thờ.
Tim Robert rộn lên.
- Vậy đó nếu như một tu sĩ muốn bay đi từ Rome, chẳng hạn như đến Thuỵ Sĩ, thì ông ta sẽ đến hãng nầy chứ?
- Ồ, vâng, như vậy ông ta sẽ đỡ tiền hơn.
Robert nói:
- Để có thông tin mới nhất cho các máy tính của chúng tôi, sẽ rất có ích nếu như ông có thể cho tôi biết bao nhiêu tu sĩ đã bay đến Thuỵ Sĩ trong hai tuần lễ qua. Ông có hồ sơ chứ?
- Vâng, tất nhiên. Để dễ cho chuyện thuế má.
- Tôi thật sự cần những thông tin đó.
- Ông muốn biết có bao nhiêu tu sĩ đã bay đi Thuỵ Sĩ trong hai tuần qua phải không ạ?
Đúng. Zurich hoặc Geneva.
- Xin đợi cho một chút. Tôi sẽ gọi từ máy tính ra.
Năm phút sau, ông giám đốc quay lại với một bản in từ máy tính.
- Trong hai tuần qua chỉ có duy nhất một tu sĩ bay bằng Alitalia đi Thuỵ Sĩ. - ông ta xem tờ giấy trong tay. - Ông ta rời khỏi Rome vào ngày 7, đi Zurich. Ông ta đăng ký bay trở về hai ngày sau đó.
- Tên ông ta? - Robert hít một hơi sâu.
- Cha Rometo Patrini.
- Địa chỉ?
Ông ta lại nhìn xuống.
- Ông ấy sống ở Orvieto. Nếu ông cần gì thêm. - Ông ta ngước nhìn lên, Robert đã đi khỏi.
 
CHƯƠNG 25 -
Ngày thứ bảy.
Orvieto, Italia
Anh dừng xe tại một chỗ đỗ bên lề đường 71, và phía bên kia thung lũng, trên sười núi, là cái thành phố đó với cảnh quan tuyệt đẹp Đó là trung tâm Etruscan cổ với một nhà thờ lớn nổi tiếng thế giới, dăm nhà thờ khác và một tu sĩ, người đã chứng kiến vụ tai nạn của một vật thể bay lạ.
Thành phố vẫn nguyên vẹn qua năm tháng, với những đường phố lát đá và những ngôi nhà cổ duyên dáng, cùng với khu chợ trời nơi những người nông dân mang bán gà và rau quả tươi.
Robert tìm được một nơi để đỗ xe trên quảng trường Duomo. Anh băng ngang quảng trường và đi vào trong nhà thờ lớn Trong nhà thờ vắng ngắt, trừ một giáo sĩ vừa rời khỏi nơi điện thờ.
- Xin lỗi Cha, - Robert nói. Tôi đang tìm kiếm một tu sĩ ở thành phố nầy: người đã ở Thuỵ Sĩ hồi tuần trước. Có thế Cha…
Vị tu sĩ sững lại, mặt đầy vẻ khó chịu.
- Tôi không thể nói với ông chuyện nầy.
- Tôi không hiểu. Tôi chỉ muốn tìm.
Robert ngạc nhìn ông ta ngạc nhiên.
- Ông ấy không ở nhà thờ nầy. Ông ấy từ nhà thờ San Giovenale.
Và vị tu sĩ đi nhanh ngang qua Robert. Tại sao ông ta lại thiếu thiện chí thế nhỉ?
Nhà thờ San Giovenale nằm ở khu Vecchio, một khu vực đầy màu sắc với những tháp chuông và những nhà thờ thời Trung cổ. Một tu sĩ trẻ tuổi đang chăm sóc mảnh vườn cạnh đó. Ông ta ngước nhìn lên khi Robert lại gần.
- Xin chào ông.
- Xin chào. Tôi đang tìm kiếm một tu sĩ, người đã ở Thuỵ Sĩ hồi tuần trước. Ông ấy…
- Phải, phải. Tội nghiệp Cha Patrini. Một điều khủng khiếp đã xảy đến với ông ấy.
- Tôi không hiều. Chuyện khủng khiếp gì vậy?
- Nhìn thấy cỗ xe của quỷ dữ. Đó là điều quá sức chịu đựng của ông ấy. Ông ấy đã bị một cơn sốc thần kinh, thật tội nghiệp.
- Tôi rất lấy làm tiếc về điều đó, - Robert nói. - Bây giờ ông ấy ở đâu? Tôi muốn nói chuyện với ông ấy.
- Ông ấy đang ở bệnh viện gần quảng trường San Patrizio, nhưng tôi ngờ là các bác sĩ sẽ không cho phép ai thăm ông ấy đâu.
Robert đứng đó, bối rối. Chẳng mấy ích lợi gì với một người đang bị thần kinh.
- Tôi hiểu. Cám ơn ông rất nhiều.
Bệnh viện đó là một toà nhà một tầng khiêm nhường ở gần ngoại ô thành phố. Anh dừng xe và bước vào trong một hành lang nhỏ. Có một y tá ngồi sau bàn đón tiếp.
- Xin chào, - Robert nói. - Tôi muốn gặp Cha Patrini.
- Rất tiếc, nhưng… điều đó là không thể được. Ông ấy không thể nói gì với bất kỳ ai.
Lúc nầy, Robert quyết không để bị chặn lại. Anh phải lần theo dấu vết mà giáo sư Schmidt đã trao cho anh.
- Cô không hiểu, - Robert nhẹ nhàng nói. - Cha Patrini yêu cầu gặp tôi. Tôi đã từ Orvieto đến đây theo yêu cầu của ông ấy.
- Ông ấy yêu cầu gặp ông?
- Phải. Ông ấy viết thư sang Mỹ cho tôi. Tôi đã đi ngần ấy dặm đường tới đây chỉ để gặp ông ấy thôi.
Cô y tá lưỡng lự.
- Tôi không biết nói thế nào. Ông ấy rất nặng.
- Tôi tin chắc là ông sẽ vui hơn khi thấy tôi.
- Bác sĩ không có ở đây… - Cô quyết định. - Thôi được ông có thể tới phòng ông ấy, thưa ông, nhưng ông chỉ được phép ở đó vài phút thôi đấy.
- Tôi cũng chỉ cần có thế thôi, - Robert nói.
- Ông đi lối nầy.
Họ đi theo một hành lang ngắn, hai bên là những căn phòng nhỏ, gọn gàng. Cô y tá dẫn Robert vào một trong những phòng đó.
- Chỉ một vài phút thôi nhé, thưa ông.
- Cảm ơn.
Robert bước vào căn phòng nhỏ bé. Người đàn ông đang nằm trên gi.ường trông như một hình nhân nhợt nhạt trên tấm vải trải gi.ường trắng toát. Robert lại gần ông ta và nhẹ nhàng nói:
- Thưa Cha…
Vị tu sĩ quay mặt để nhìn lên anh, và Robert chưa bao giờ nhìn thấy một nỗi thống khổ nào như thế trong mắt một con người.
- Thưa Cha, tên tôi là…
Ông ta túm lấy cánh tay Robert.
- Giúp tôi với, - Vị tu sĩ lầm bầm, - Ông phải giúp tôi. Lòng tin của tôi đã mất. Cả đời tôi, tôi đã thuyết giảng về Chúa và Đức Tin, và bây giờ tôi biết là không có Chủa. Chỉ có quỷ sứ và nó đã đến để hại chúng ta…
- Thưa Cha, nếu Cha…
- Chính mắt tôi đã nhìn thấy mà. Có hai tên trong cái xe của quỷ sứ, nhưng sẽ còn nữa. Ôi! Những tên khác sẽ kéo đến. Hãy chờ xem. Tất cả chúng ta sẽ bị đày xuống địa ngục.
- Xin Cha hãy nghe tôi. Cái mà Cha nhìn thấy không phải là quỷ sứ. Đó là một con tàu vũ trụ mà.
Vị tu sĩ buông tay Robert và đột nhiên nhìn Robert với vẻ tỉnh táo hơn.
- Ông là ai? Ông muốn gì hả?
- Tôi đến đây để hỏi Cha về chuyến xe bus mà Cha đã đi ở đất Thuỵ Sĩ. - Robert nói.
- Chiếc xe bus. Giá mà tôi đã đừng đến gần nó. - Vị tu sĩ lại trở nên kích động.
Robert không muốn thúc ép ông ta, nhưng anh không có cách nào khác.
- Cha đã ngồi bên một người đàn ông trên chiếc xe đó. Một người Texas. Cha đã nói chuyện nhiều với người đó, Cha nhớ không?
- Một câu chuyện. Người Texas. Có, tôi nhớ.
- Ông ta có nói với Cha là ông ta sống ở đâu không?
- Phải, tôi có nhớ ông ta. Ông ta từ Mỹ đến.
- Đúng. Từ Texas. Ông ta có nói với Cha nhà ông ta ở đâu không?
- Có, có, ông ta có nói với tôi.
- Ở đâu thế, Cha? Nhà ông ta ở đâu?
- Texas. Ông ta nói về Texas.
- Đúng thế. - Robert gật đầu vẻ khuyến khích.
- Chính mắt tôi đã nhìn thấy chúng. Tôi mong Chúa đã làm cho tôi bị mù. Tôi…
- Thưa Cha, người đàn ông từ Texas. Ông ta có nói với Cha ông ấy ở đấy không? Ông ta có nhắc tới một cái tên nào không?
- Texas, có. Ponderosa.
Robert vẫn cố gắng.
- Đó là trên tivi. Đây là người đàn ông thật sự cơ mà. Ông ta ngồi cạnh Cha trên…
Vị tu sĩ lại hôn mê.
- Chúng đang đến đấy. Trận quyết chiến thiện ác đây rồi. Kinh Thánh nói dối. Chính quỷ dữ sẽ xâm chiếm trái đất nầy. - Lúc nầy ông ta đang hét lên thật to. - Nhìn kìa. Nhìn kìa. Tôi có thể nhìn thấy chúng.
Cô y tá vội vã bước vào. Cô nhìn Robert vẻ không bằng lòng.
- Ông phải ra đi thôi, thưa ông.
- Tôi cần một phút nữa thôi.
- Không, thưa ông. Đủ rồi.
Robert nhìn vị tu sĩ một lần cuối. Ông ra vẫn lảm nhảm rời rạc. Robert quay người bước đi. Không còn có thể làm gì hơn được nữa. Anh đã cố hết sức để vị tu sĩ dẫn dắt anh đến người Texas kia, nhưng anh đã thua.
Robert trở ra xe và chạy về Rome. Rốt cuộc thế là xong. Những dấu vết duy nhất mà anh đã bỏ lại - nểu chúng có thể được coi là những dấu vết - là lời nhắc đến một phụ nữ Nga, một người Texas, và một người Hungary. Nhưng không có cách nào để tìm ra họ được. Nước cờ tàn. Thật là buồn khi đã đi xa đến thế nầy để rồi lại bị chặn lại. Giá mà ông tu sĩ tỉnh táo đủ lâu để cung cấp được cho anh vài thông tin cần thiết. Chỉ một chút nữa. Ông tu sĩ đã nói gì nhỉ?
Ponderosa. Ông tu sĩ già đã xem tivi quá nhiều và trong cơn mê sảng, rõ ràng là ông ta đã lẫn người Texas kia vào chương trình "Bonanza" của một đạo diễn nổi tiếng trên tivi. Ponderosa, nơi gia đình h bí ẩn Cartwirght sinh sống. Ponderosa. Robert giảm ga và từ từ dừng lại bên đường, những ý nghĩ vùn vụt trong đầu anh. Anh quay ngược xe lại và lao nhanh về hướng Orvieto.
Nửa giờ sau, Robert đang nói chuyện với người chủ quán của một quán nhỏ ở quảng trường Republica.
- Các ông có một thành phố thật đẹp. - Robert nói. - Thật thanh bình.
- Ồ vâng, thưa ông. Chúng tôi hoàn toàn hài lòng với nơi đây. Ông đã bao giờ đến Italia trước đây chưa?
- Tôi có một phần của tuần trăng mật ở Rome.
Robert, anh đã làm cho tất cả những mơ ước của em trở thành sự thật. Từ hồi em còn là một con bé con, em đã muốn được đến Rome đấy?
- À Rome. Quá lớn. Quá ồn ào.
- Tôi công nhận.
- Ở nơi đây, chúng tôi sống cuộc sống bình dị nhưng chúng tôi hạnh phúc.
Robert bình thản nói:
- Tôi để ý thấy trên nhiều mái nhà ở đây có ăngten tivi.
- Ồ vâng, đúng thế. Chúng tôi hoàn toàn theo kịp thời đại trong lĩnh vực đó.
- Cái đó thì rõ. Thành phố nầy nhận được bao nhiêu kênh vô tuyến?
- Duy nhất chỉ một.
- Tôi nghĩ là các ông có khá nhiều chương trình tivi của Mỹ chứ?
- Không, không. Đây là một kênh của nhà nước. Ở đây chúng tôi chỉ có những chương trình được thực hiện ở Italia thôi.
- Cám ơn. Trúng rồi.
Robert đặt điện thoại gọi cho Đô đốc Whittaker.
Một thư ký trả lời máy.
- Văn phòng Đô đốc Whittaker đây.
Robert có thể hình dung ra căn phòng. Nó thường là một chỗ kín đáo khuất mắt dành cho những người hết thời mà chính phủ không còn sử dụng vào việc gì được nữa.
- Xin cho tôi được nói chuyện với ngài Đô đốc? Sĩ quan Bellamy đây.
- Xin ông chờ một chút, ông chỉ huy.
Robert băn khoăn liệu có còn ai liên hệ gì nữa với Đô đốc không khi mà giờ đây, vị Đô đốc một thời đầy quyền lực kia đã là một thành viên của đội quân về vườn. Có thể là không.
- Robert, rất mừng là anh gọi lại. - Giọng ông già có vẻ mệt mỏi. - Anh đang ở đâu thế?
- Thưa ngài, tôi không thể nói được.
Một thoáng ngập ngừng.
- Tôi hiểu. Tôi có thể lâm gì cho anh không đây?
- Có, thưa ngài. Việc nầy thật bất tiện vì tôi đà được lệnh không tiếp xúc với bất kỳ ai. Nhưng tôi cần được giúp đỡ. Tôi không biết ngài có thể kiểm tra một việc cho tôi được không?
- Chắc chắn là tôi có thể cố gắng. Anh muơn biết gì nào?
- Tôi cần biết liệu có một cái trại đâu đó ở Texas có tên là Ponderosa không?
- Như trong chương trình Bonanza ấy à?
- Vâng, thưa ngài.
- Tôi có thể làm được, Tôi sẽ liên lạc với anh thế nào?
- Thưa Đô đốc, tôi nghĩ tốt hơn là tôi sẽ gọi lại cho ngài.
- Phải. Cho tôi một hoặc hai tiếng nhé. Tôi sẽ giữ việc nầy chỉ có hai chúng ta biết thôi.
- Cảm ơn ngài.
Dường như Robert cảm thấy sự mệt mỏi đã biến mất trong giọng nói của ông già. Ít nhất thì ông cũng đã được yêu cầu làm một việc gì đó, cho dù rằng đó chỉ bình thường là việc tìm ra một cái trang trại.
Hai tiếng sau, Robert gọi lại cho Đô đốc Whittaker.
- Tôi đang đợi anh đây, - Vị Đô đốc nói. Trong giọng ông có vẻ hàl lòng. - Tôi đã có thông tin mà anh muốn.
- Và sao? - Robert nín thở.
- Có một cái trại Ponderosa ở Texas. Nó ở ngay phía ngoài Waco. Chủ của nó là một ông Dan Wayne nào đó.
Robert thở ra nhẹ nhõm.
- Cám ơn ngài rất nhiều, thưa đô đốc, - Robert nói. - Tôi nợ ngài một bữa tối khi nào tôi trở về.
- Robert, tôi mong ngóng dịp đó.
Cú điện thoại tiếp theo của Robert là gọi cho tướng Hilliard.
- Tôi đã phát hiện một nhân chứng khác ở Italia. Cha Patrini.
- Một tu sĩ à?
- Vâng. Ở Orvieto. Ông ta đang nằm viện, rất nặng. Tôi e là giới chức trách Italia sẽ không thể nói gì được với ông ta.
- Tôi sẽ chuyển lời ông. Cảm ơn, ông sĩ quan.
Hai phút sau, tướng Hilliard đã đang nói chuyện điện thoại với Janus.
- Tôi vừa nghe sĩ quan chi huy Bellamy báo cáo.
- Nhân chứng mới nhất là một tu sĩ. Một cha Patrini nảo đó ở Orvieto.
- Lo chuyện đó đi.
Điện khẩn.
Tối mật.
NSA gửi Phó giám đốc SIFAR.
Không trích chép.
Một bản duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận thế.
5. Cha Patrini - Orvieto.
Hết điện.
Trụ sở SIFAR nằm trên đường Pineta, ở rìa ngoại ô phía nam thành Rome, trong một khu vực bao bọc bởi những nhà trại. Điều duy nhất có thể làm cho người qua đường chú ý tới toà nhà bằng đá trông đầy vẻ công nghiệp, bình thường kia với haỉ khối nhà lớn là bức tường cao vây quanh, trên có chăng dây thép gai và ở mỗi góc đều có một trạm gác. Nằm ẩn trong một khu quân sự, nó là một trong những cơ quan an ninh bí mật nhất trên thế giới mà người ta ít biết đến nhất. Có những tấm biển xung quanh khu nhà, trên ghi dòng chữ: "Không bước qua giới hạn nầy".
Trong một căn phòng kiểu Spartan trên tầng hai của toà nhà chính, đại tá Francesco Cesar đang xem bức điện khẩn mà ông ta vừa nhận được. Viên đại tá ở trạc tuổi ngoài năm mươi, với một vóc người khoẻ mạnh và gương mặt rỗ, lì lợm. Ông ta đọc bức điện đến lần thứ ba.
Vậy là sau cùng Chiến dịch Ngày Tận thế đã đang diễn ra. Thật may là chúng ta đã chuẩn bị cho điều nầy. Cesar nghĩ. Ông ta nhìn xuống bức điện một lần nữa. Một tu sĩ.
Đã quá nửa đêm khi một bà xơ đi ngang qua phòng của các y tá trực đêm tại cái bệnh viện nhỏ ở Orvieto.
- Tôi đoán là bà ấy đang đến gặp bà Fillipi, - Cô y tá Tomasino nói.
- Hoặc bà ấy, hoặc ông già Rigano. Cả hai đều đang nguy kịch lắm rồi.
Bà xơ kia lặng lẽ đi vòng qua các góc nhà và bước thẳng vào phòng của vị tu sĩ. Ông ta đang ngủ vẻ yên ả, hai bàn tay gấp lại để trên ngực như thể đang cầu nguyện. Ánh trăng xuyên qua tấm rèm cửa, tạo thành một vệt sáng ngang mặt vị tu sĩ.
Bà xơ lấy từ dưới áo ra cái hộp nhỏ. Một cách thận trọng, bà ta lấy ra chuỗi hạt thuỷ tinh rất đẹp và để nó vào trong lòng hai bàn tay ông tu sĩ già.
Trong khi sửa lại những hạt thuỷ tinh cho ngay ngắn, bà ta dùng một hạt quệt nhanh lên ngón tay cái của ông. Một vết xước mờ xuất hiện. Bà xơ lấy ra một cái lọ bé xíu có đầu nhỏ giọt và cẩn thận nhỏ ba giọt lên chỗ vết xước kia.
Chỉ cần vài phút để cái độc tố chết người kia phát huy tác dụng. Bà xơ thở dài trong khi làm dấu thánh trước người đã chết. Rồi bà bỏ đi, lặng lẽ như lúc đến.
Điện khẩn.
Tối mật.
SIFAR gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
5. Cha Patrini - Orvielo đã bị thủ liêu.
Hết điện.
 
CHƯƠNG 26 -
Frank Johnson được lựa chọn bởi lẽ ông ta đã từng là một lính Mũ nồi xanh ở Việt nam và được đồng đội của ông ta gọi là Máy giết người. Ông ta thích giết chóc. Có động cơ làm việc và rất thông minh.
- Hoàn toàn phù hợp với chúng ta, - Janus nói. - Tiếp xúc với ông ta một cách thận trọng. Tôi không muốn để mất người nầy.
Cuộc gặp đầu tiên diễn ra trong trại lính. Một đại uý đang nói chuyện với Frank Johnson.
- Ông không phiền muộn gì về chính phủ của chúng ta à? - Viên đại uý hỏi. - Nó được điều hành bởi một nhúm những kẻ yếu đuối đang phung phí nguồn tài lực. Đất nước nầy cần có sức mạnh hạt nhân, nhưng những chính trị gia quỷ tha ma bắt kia đang ngăn chặn chúng ta xây dựng những nhà máy mới. Chúng ta lệ thuộc bọn Ảrập khốn kiếp về dầu lửa và chính phủ sẽ cho phép khai thác dầu ở ngoài khơi bờ biển chúng ta chứ? Ồ, không. Họ lo lắng cho những đàn cá hơn là cho chúng ta. Ông có nghĩ gì về chuyện đó không?
- Tôi hiểu ý ông, - Frank Johnson nói.
- Tôi biết là ông hiểu bởi vì ông có đầu óc. Viên đại uý vừa nói vừa quan sát vẻ mặt Johnson. - Nếu như Quốc hội không làm gì để cứu vớt đất nước của chúng ta thì một số nào đó trong chúng ta sẽ phải làm gì đó.
Trông Frank Johnson có vẻ lúng túng.
- Một số trong chúng ta à?
- Phải. - Bây giờ thế là đủ rồi, viên đại uý nghĩ. - Chúng ta sẽ nói về chuyện đó sau.
Buổi nói chuyện sau đi vào việc cụ thể hơn.
- Có một nhóm những người yêu nước muốn bảo vệ thế giới của chúng ta, ông Frank ạ. Họ là những vị có quyền lực lớn. Họ đã thành lập một Uỷ ban. Uỷ ban nầy có thể phải vượt qua một số đạo luật nào đó để công việc của nó đạt hiệu quả, nhưng mà sau cùng, thì điều đó cũng đáng giá. Ông có quan tâm không?
- Tôi rất quan tâm. - Frank Johnson mỉm cười.
Đó là lúc bắt đầu. Buổi gặp sau diễn ra ở Ottawa, Canada, và Frank Johnson đã gặp một số thành viên trong Uỷ ban nầy… Họ đại diện cho những nhóm quyền lợi đầy thế lực ở chừng một chục nước.
- Chúng ta được tổ chức tốt, - một thành viên giải thích với Frank Johnson. - Chúng ta có một hệ thống chỉ huy nghiêm ngặt. Có các Phòng Tuyên truyền, Tuyển chọn, Chiến thuật, Liên lạc… và một Đội biệt kích.
Ông ta nói tiếp.
- Gần như tất cả các tổ chức tình báo trên thế giới là một bộ phận của nó.
- Ý ông nói là những người đứng đầu của…?
- Không, không phải là những người đứng đầu.
- Các cấp phó. Những người trực tiếp biết chuyện gì đang xảy ra, và bỉết rõ nguy cơ nào mà các nước đang gặp phải.
Các cuộc họp diễn ra ở mọi nơi trên thế giới - Thuỵ Sĩ, Marốc, Trung Quốc, - Và Johnson có mặt đầy đủ.
Đó là sáu tháng trước lúc đại tá Johnson gặp Janus.
Viên tướng đã cho triệu tập ông ta.
- Tôi mới nhận được nhưng báo cáo rất tốt đẹp về ông, đại tá.
- Tôi ưa thích công việc của mình, - Frank Johnson mỉm cười.
- Tôi cũng nghe như thế. Ông ở một vị trí rất thuận lợi để có thể giúp đỡ chúng tôi.
Frank Johnson ngồi thẳng người lên hơn.
- Tôi sẽ làm bất cứ việc gì có thể được.
- Tốt. Ở Trang trại, ông phụ trách việc giám sát đào tạo các điệp viên bí mật cho nhiều cơ quan khác nhau?
- Đúng thế.
- Và ông biết họ cùng những khả năng của họ.
- Rất tường tận.
- Điều tôi muốn ông làm là, - Janus nói, - tuyển chọn những người nào mà ông cảm thấy sẽ có ích nhất cho tổ chức của chúng ta. Chúng ta chỉ quan tâm đến những người tốt nhất.
- Đó là việc dễ dàng, - đại tá Johnson nói. - Không có vấn đề gì - Ông ta thoáng lưỡng lự. - Tôi băn khoăn…
- Gì vậy?
- Tôi có thể làm việc đó bằng tay trái của mình. Tôi thật sự muốn làm hơn thế, một việc gì đó lớn hơn. - Ông ta dướn mình về phía trước. - Tôi có nghe nói về Chiến dịch Ngày Tận thế. Đó mới chính là sân của tôi. Tôi muốn được tham gia, thưa ngài.
Janus ngồi nhìn ông ta hồi lâu. Rồi gật đầu.
- Được ông vào cuộc rồi đó.
- Cảm ơn ngài. - Johnson mỉm cười. - Ngài sẽ không phải ân hận gì.
Đại tá Frank Johnson sung sướng rời khỏi cuộc gặp.
Bây giờ thì ông ta thừa để cho họ thấy ông ta có thể làm được những gì.
 
CHƯƠNG 27 -
Ngày thứ tám.
Waco. Texas.
Dan Wayne có một ngày không vui. Mà chính xác thì là một ngày vô cùng tệ hại. Ông vừa trở về từ toà án quận Waco, nơi ông phải đối mặt với các thủ tục về vỡ nợ. Vợ ông dan díu với tay bác sĩ trẻ của bà ta và đang làm thủ tục ly hôn ông với mục đích kiếm được một nữa tất cả những gì mà ông có (điều đó có nghĩa là không gì cả, như ông đã quả quyết với luật sư của bà ta). Và ông sẽ phải mất một trong những con bò đấu có hạng của mình. Dan Wayne cảm thấy số mệnh thật đen đủi. Ông đã không làm gì để đến nỗi phải chịu tất cả những chuyện nầy. Ông là một người chồng tốt, một chủ trại giỏi giang. Ông ngồi lặng trong phòng làm việc, ngẫm nghĩ về tương lai ảm đạm.
Dan Wayne là một người đàn ông kiêu hãnh. Ông biết tất cả những lời đùa cợt về những người Texas to mồm, nói khoác một tấc đến trời, nhưng ông vẫn thật sự cảm thấy mình có điều gì đó đáng hãnh diện.
Ông sinh ra ở Waco, trong một khu vực nông nghiệp giàu có của châu thổ sông Brazos. Waco là một thị trấn hiện đại, nhưng vẫn phảng phất hương vị của quá khứ, thời mà nó hình thành, tồn tại và phát triển trên năm cây trụ: gia súc, bông, ngô, trường học và văn hoá. Wayne yêu mến Waco bằng tất cả trái tim và khối óc, khi ông gặp vị tu sĩ trên chuyến du lịch bằng xe bus ở Thuỵ Sĩ kia, thì gần như ông đã nói suốt năm tiếng đồng hồ về cái thị trấn quê hương mình.
Vị tu sĩ nói với ông là muốn rèn luyện tiếng Anh, nhưng thực ra, khi nghĩ lại, thì hoá ra là gần như chỉ có một mình ông nói cả câu chuyện.
- Waco có tất cả mọi thứ, - Ông ta đã tâm sự với vị tu sĩ Thời tiết của chúng tôi thì tuyệt vời. Chúng tôi không cho phép trời quá nóng hay quá lạnh. Chúng tôi có hai mươi ba trường học trong vùng và có Đại học Baylor. Chúng tôi có bốn tờ báo, mười đài phát thanh và năm đài truyền hình. Chúng tôi có Phòng truyền thống mà ông phải choáng cả người. Ý tôi nói, ở đó là lịch sử. Nếu ông thích câu cá, thưa Cha, thì sông Brazos sẽ là nơi mà ông không thể quên. Rồi chúng tôi còn có một khu săn bắn và một trung tâm nghệ thuật lớn. Tôi cam đoan với ông, Waco là một trong những thành phố có một không hai trên thế giới. Ông phải đến thăm chúng tôi mới được.
Và vị tu sĩ già nhỏ bé đã mỉm cười, gật gật đầu, còn Dan Wayne nghi hoặc, không hiểu ông ta nghe được bao nhiêu tiếng Anh.
Dan Wayne đã thừa kế của người cha một ngàn mẫu đất trang trại, và đã làm đàn gia súc sinh sôi từ hai ngàn lên đến mười ngàn. Lại còn một con ngựa đua đáng giá cả một gia tài nữa. Vậy mà bọn khốn kiếp đang toan cướp đi tất cả của ông. Thị trường gia súc sụt xuống hoặc việc ông chậm trả tiền thế nợ đâu có phải là lỗi của ông. Các nhà băng đều hùa vào để làm hại ông và cơ hội duy nhất để ông ta tự cứu mình là tìm ra được người mua lại trang trại, thanh toán cho các chủ nợ và giữ lại một chút tiền lãi…
Wayne đã nghe có một người Thuỵ Sĩ giàu có muốn mua một trang trại ở Texas, và ông ta đã bay đi Zurich để gặp người đó. Nhưng té ra đó chỉ là trò thả mồi bắt bóng. Cái trang trại trong đầu cái thằng cha công tử bột đó là một hay hai mẫu đất với một cái vườn rau nhỏ xinh xinh.
Đó là lý do vì sao mà vô tình ông lại có mặt trên chuyến xe bus khi cái chuyện kỳ lạ kia xảy ra. Ông đã có đọc về chuyện đĩa bay, nhưng ông chưa bao giờ tin những chuyện đó cả. Giờ đây, nhờ Chúa, ông dứt khoát đã tin. Ngay sau khi ông trở về, ông gọi điện một chủ bút một tờ báo địa phương.
- Johnny, tôi mới nhìn thấy một cái đĩa bay thật sự với mấy xác người kỳ quặc chết trong đó.
- Thế hả? Ông có chụp tấm ảnh nào không thế, Dan?
- Không. Tôi có chụp mấy tấm, nhưng hỏng cả.
- Không sao. Chúng tôi sẽ cho một tay nhiếp ảnh tới đó. Nó đã trên trang trại của ông phải không?
- Ồ không. Thực ra là nó ở Thuỵ Sĩ kia.
Một thoáng im lặng.
- Ồ ra vậy, nếu như ông tình cờ nhìn thấy nó trên trang trại của ông, Dan, thì gọi lại cho tôi nhé.
- Khoan. Một thằng cha cũng nhìn thấy, nó sẽ gửi cho tôi một tấm ảnh mà…
Nhưng Johnny đã gác máy.
Thế đó.
Gần như là Wayne mong có một cuộc xâm lăng của những người từ hành tinh khác. Có thể họ sẽ giết sạch những tên chủ nợ khốn kiếp của ông. Ông nghe thấy có tiếng xe đang chạy vào và nhỏm dậy bước đến bên cửa sổ nhìn ra. Có vẻ là một gã ở miền Đông.
Có thể lại là một chủ nợ khác. Những ngày nầy họ ở đâu ra mà lắm thế cơ chứ.
Dan Wayne mở cửa trước.
- Xin chào.
- Ông là Daniel Wayne…
- Bạn bè gọi tôi là Dan. Tôi có thể làm gì cho ông thế?
Dan Wayne không hề như Robert đã hình dung; một mẫu người Texas vạm vỡ. Ông ta thanh mảnh, dáng quý tộc và điều bộ hơi rụt rè. Điều duy nhất thể hiện gốc gác của ông ta là giọng nói.
- Tôi không biết liệu có thể xin ông vài phút được không?
- Tôi cũng chỉ còn ngần ấy thời gian, - Wayne nói. - Nhân tiện xin được hỏi, ông không phải là một chủ nợ ư?
- Một chủ nợ ấy à? Không?
- Tốt. Xin mời vào.
Hai người cùng ngồi ở phòng khách. Đó là một căn phòng lớn với đồ đạc rất tiện nghi theo kiểu miền Tây.
- Ông có một chỗ ở đẹp quá, - Robert nói.
- Dạ. Tôi được sinh ra trong ngôi nhà nầy. Tôi có thể mời ông uống gì nhỉ? Một chút gì mát, được không?
- Không, cảm ơn. Tôi không khát.
- Xin mời ngồi.
- Robert ngồi xuống chiếc đi văng bọc da mềm mại.
- Ông gặp tôi có việc gì thế?
- Tôi được biết là ông có đi một tuyến du lịch bằng xe bus ở Thuỵ Sĩ hồi tuần trước?
- Đúng thế. Cô vợ cũ thuê người theo dõi tôi à? Ông không làm việc cho cô ta đấy chứ?
- Không, thưa ông.
- Ồ, - ông ta chợt hiểu ra. - Ông quan tâm đến cáí đĩa bay kia chứ gì. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy gì khủng khiếp đến thế. Nó luôn thay đổi màu sắc. Và những sinh vật đã chết kia nữa. - Ông ta rùng mình. - Tôi vẫn nằm mê thấy nó.
- Ông Wayne, ông có thể nói với tôi bất kỳ điều gì về những người khách trên cùng chuyến xe đó được không?
- Xin lỗi. Tôi không thể giúp gì ông. Tôi đi có một mình.
- Tôi biết, nhưng ông có nói chuyện với những người khách khác chứ, phải không nào?
- Nói thật với ông, tôi rất nặng đầu nặng óc. Tôi đã chẳng chú ý mấy tới bất kỳ ai khác.
- Ông có nhớ bất kỳ chuyện gì về bất kỳ ai trong số họ không?
Day Wayne im lặng một lát.
- Ồ có một tu sĩ người Italia. Tôi có nói chuyện với ông ta một chút. Ông ta có vẻ là một người dễ mến. Tôi muốn nói để ông biết là cái đĩa bay kia thật sự làm cho ông ta choáng váng. Ông ấy cứ nói mãi về chuyện quỷ sứ.
- Ông có nói chuyện với ai khác nữa không?
Day Wayne nhún vai.
- Không hẳn… Chờ một phút. Tôi còn trò chuyện với ông chủ một nhà băng ở Canada. - Ông ta đưa lưỡi liếm môi. - Nói thật với ông, tôi đang có một chút khó khăn tài chính ở đây, với cái trang trại nầy. Có thể là tôi mất nó. Tôi ghét cái đám chủ nhà băng khốn kiếp kia. Bọn chúng toàn là những kẻ hút máu. Dù sao thì tôi nghĩ là cái thằng cha nầy có thể khác. Khi biết ông ta là chủ nhà băng, tôi đã nói chuyện với ông ta về việc thu xếp một kiểu tín dụng nào đó ở đây. Nhưng hắn cũng giống như tất cả bọn chúng thôi. Hắn không thể nào hờ hững hơn thế được.
- Ông nói hắn ta ở Canada à?
- Phải, Fort Smith, trên mãi vùng Các lãnh thổ Tây Bắc. Tôi e rằng đó là tất cả những gì tôi có thể nói với ông rồi đấy.
Robert cố giấu tâm trạng kích động của mình.
- Ông Wayne, xin cảm ơn ông, ông đã giúp ích rất nhiều. - Robert đứng dậy.
- Thế thôi à?
- Thế thôi.
- Ông có muốn ở lại dùng bữa tối không?
- Không, cảm ơn. Tôi phải lên đường thôi. Chúc may mắn trong chuyện trang trại nhé.
- Cảm ơn.
Fort Smith, Canada. Các lãnh thổ Tây Bắc.
o O o
Robert đợi cho đến khi tiếng Hilliard xuất hiện trên máy.
- Có ông sĩ quan hả?
- Tôi đã tìm được một nhân chứng khác. Dan Wayne. Ông ta là chủ trại Ponderosa, một trang trại bên ngoài Waco, Texas.
- Rất tốt. Tôi sẽ để cho cơ quan của chúng tôi ở Dallas nói chuyện với ông ta.
Điện khẩn.
Tối mật.
NSA gửi Phó giám đốc CIA:
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
6. Daniel Wayne - Waco.
Hết.
Tại Langley, Virginia, phó giám đốc Cục Tình báo Trung ương đang trầm ngâm xem bức điện số 6. Công việc thật trôi, chảy. Sĩ quan Bellamy đang làm việc tuyệt hảo. Janus đã đúng. Người đàn ông đó luôn luôn đúng. Và ông ta có quyền lực để những mong muốn của ta được thực hiện. Bao nhiêu quyền lực… Ông ta nhìn bức điện một lần nữa. Chuyện nầy sẽ không khó khăn gì. Rồi nhấn cái nút.
Hai người đàn ông đến trang trại bằng chiếc xe chở hàng màu xanh sẫm.
Họ đỗ xe ngoài sân, ra khỏi xe và thận trọng nhìn quanh. Ý nghĩ đầu tiên của Dan Wayne là họ đến để tịch biên cái trại. Ông ta mở cửa trước cho họ.
- Ông là Dan Wayne?
- Vâng. Tôi đây.
Ông ta chỉ mới nói được có thế.
Người đàn ông thứ hai đã bước vòng lại phía sau và cầm một cái bình da dùng để đựng rượu đánh mạnh vào đầu ông ta.
Một trong hai người đàn ông với vóc cao to hơn xốc ông chủ trại đã bất tỉnh lên vai và mang ông ta ra ngoài chuồng bò. Hai người đàn ông phớt lờ những con vật và đi thẳng vào phía trong cùng. Trong cái khoang đó là một con ngựa giống màu đen tuyệt đẹp.
Người đàn ông cao to nói:
- Đây chỗ nầy.
- Anh ta hạ Wayne xuống.
Người đàn ông thứ hai bước lại gần cửa khoang nhốt con ngựa, và đánh nó bằng cái gậy có điện. Nó lồng lên, hất tung hai chân sau. Một cú đánh mạnh hơn nữa vào mũi nó. Nó lồng lên điên cuồng, trong cái không gian chật chội, va đập vào bốn góc, răng nhe ra và lòng trắng mắt ngầu lên.
Nào, - người đàn ông cao to nhấc Dan lên và quăng ông ta vào trong cái khoang của con ngựa đực.
Họ đứng nhìn cái quang cảnh đẫm máu trong vài giây rồi hài lòng bỏ đi.
Điện khẩn.
Tối mật.
Phó giám đốc CIA gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
6. Daniel Wayne - Waco - Đã bị thủ tiêu.
Hết.
 
CHƯƠNG 28 -
Ngày thứ chín.
Fort Smith, Canada.
Fort Smith nằm ở vùng Các lãnh thổ Tây Bắc là một thị trấn thịnh vượng với hai nghìn dân phần đông là chủ trại và những người chăn nuôi gia súc cùng với một số ít thương nhân. Khí hậu ở đây khắc nghiệt, với những mùa đông đài và băng giá, còn bản thân thị trấn nầy là một bằng chứng sống động đối với thuyết Darwin về sự tồn tại của những gì thích nghi nhất.
William Mann là một trong những sinh vật thích nghi đó, một kẻ sống sót. Ông ta sinh ra ở Michigan, nhưng hồi ngoài ba mươi tuổi, đã đến Fort Smith trên một chiếc tàu đánh cá và cho rằng cộng đồng nơi đây cần có một nhà băng tốt hơn. Ông ta đã chộp được cơ hội. Ở đó chỉ còn một nhà băng khác nữa và William Mann mất không đầy hai năm để đẩy đối thủ của mình ra ngoài cuộc đấu. Mann điều hành nhà băng rất đúng cách. Vốn say mê toán học, ông ta coi sóc để sao cho những con số luôn luôn là có lợi cho mình. Ông rất hay nói tới câu chuyện đùa về một người đàn ông đến một ông chủ nhà băng mượn tiền cho một ca mổ khẩn cấp cho đứa con nhỏ của mình. Khi người vay tiền nói không có gì thế chấp, ông chủ nhà băng bèn đuổi ông ta ra.
- Tôi sẽ đi, - người đàn ông nói, - nhưng tôi muốn bảo cho ông biết rằng cả đời tôi chưa bao giờ thấy ai nhẫn tâm như ông cả.
- Đợi một chút, - Ông chủ nhà băng đáp lại. - Tôi sẽ cho ông một khả năng nầy. Một trong hai con mắt tôi làm bằng thuỷ tinh. Nếu ông có thể nói đó là bên mắt nào, thì tôi sẽ cho ông vay.
- Con mắt trái của ông. - Ngay lập tức, ông vay tiền đáp.
- Không ai biết chuyện nầy cả. Làm sao mà ông có thể đoán được? - Ông chủ nhà băng kinh ngạc.
- Thật dễ thôi. Trong một thoáng, tôi tưởng là đã thấy một ánh nhìn thông cảm ở con mắt bên trái, bởi vậy tôi biết nó là con mắt thuỷ tinh.
Câu chuyện đó, đối với William Mann, là bài học tốt cho một nhà kinh doanh. Người ta không thể buôn bán trên cơ sở sự thông cảm. Phải nhìn xuống mức thấp nhất. Trong khi các nhà băng khác ở Canada và Mỹ đổ liểng xiểng thì nhà băng của William Mann mạnh hơn bao giờ hết. Nguyên tắc của ông ta rất đơn giản: Không cho vay tín dụng để khởi đầu công việc làm ăn. Không đầu tư với những trái phiếu vô tích sự. Không cho những người láng giềng vay, dù họ đang có đứa con cần được giải phẫu gấp.
Mann hết sức kinh hãi trước hệ thống nhà băng Thuỵ Sĩ Những ông thần giữ của ở Zurich là chủ của các chủ nhà băng. Bởi vậy, một hôm, William Mann đã quyết định phải đi Thuỵ Sĩ, trao đổi với một vài ông chủ nhà băng ở đó để xem ông ta còn thiếu sót gì không, còn cách nào để có thể vắt thêm từng xu Canada được không. Ông ta đã được tiếp đón tử tế, nhưng rốt cuộc thì cũng không học được gì thêm. Các phương thức kinh doanh ngân hàng của ông ta là đáng ngưỡng mộ, và các ông chủ nhà bằng Thuỵ Sĩ đã không hề ngần ngại nói ra điều đó.
Hôm phải lên đường trở về, Mann quyết định tự cho mình một cuộc du ngoạn trên dãy Alps. Chuyến đi thật chán ngắt. Phong cảnh thì đẹp, nhưng cũng chẳng hơn gì cảnh quan Fort Smith. Một trong số những du khách, một người Texas, đã cả gan toan thuyết phục ông ta cấp tín dụng cho một cái trang trại đang vỡ nợ: ông ta đã cười vào mũi gã. Điều duy nhất trong chuyến đi được coi là có chút thích thú, chính là vụ tai nạn của cái gọi là đĩa bay kia. Trong một giây, Mann đã không tin vào sự thật đó. Ông ta tin đó là do chính phủ Thuỵ Sĩ bày đặt ra để gây ấn tượng cho khách du lịch. Ông ta đã từng đến Thế giới Walt Disney, và đã nhìn thấy những điều tương tự, trông thì như thật nhưng lại là giả. Đó là con mắt thuỷ tinh của Thuỵ Sĩ, ông ta mỉa mai thầm nghĩ.
William Mann sung sướng được trở về nhà.
Từng phút của ông chủ nhà băng nầy đều được ấn định tỉ mỉ cho mỗi ngày làm việc, và khi viên thư ký bước vào nói có một người lạ muốn được gặp, thì ý nghĩ đầu tiên của Mann là mời ông ta đi.
- Ông ta muốn gì?
- Ông ta nói muốn phỏng vấn ông. Ông ta đang viết một bài báo về các chủ nhà băng.
Đó lại là vấn đề hoàn toàn khác. Sự xuất hiện đúng cách là tốt cho công cuộc kinh doanh. William Mann chỉnh lại chiếc áo khoác, vuốt tóc ngay ngắn, và nói:
- Đưa ông ta vào.
Khách là một người Mỹ, ăn mặc sang trọng, điều đó chứng tỏ ông ta làm việc cho một tạp chí hoặc một tờ báo lớn.
- Ông ỉà Mann phải không ạ?
- Phải.
- Tôi là Robert Bellamy.
- Thư ký của tôi nói rằng ông muốn viết một bài báo về tôi.
- Ồ không phải là hoàn toàn về ông, - Robert nói. - Nhưng tất nhiên là ông sẽ nổi bật trong đó. Tờ báo của tôi.
- Tờ nào vậy?
- Nhật báo Wall Strees.
- À thế thì tuyệt vời.
- Tờ Nhật báo cảm thấy rằng hầu hết các chủ nhà băng đều quá xa rời với những gì đang xảy ra trên thế giới. Họ ít khi di chuyển, họ không chịu đi tới những nước khác. Trái lại, thưa ông Mann, ông có tiếng là rất hay đi.
- Tôi nghĩ là như vậy, - Mann nói một cách khiêm nhường. - Thực tế là tôi vừa mới trở về từ chuyến đi Thuỵ Sĩ tuần trước.
- Thật thế ư? Ông có hài lòng với nó không?
- Có. Tôi đã gặp gỡ một vài chủ nhà băng ở đó. Chúng tôi đã thảo luận về các vấn đề kinh tế thế giới.
Robert đã rút ra một cuốn sổ và đang ghi chép.
- Ông có thời gian giải trí không?
- Không hẳn. Ờ, tôi có một chuyến đi du ngoạn bằng xe bus. Trước đây, tôi chưa bao giờ được thấy dãy Alps.
Robert ghi chép thêm một chút.
- Một chuyến du lịch. Đó chính là cái mà chúng tôi đang tìm kiếm, - Robert nói đầy vẻ khuyến khích. - Tôi hình dung là ông đã gặp nhiều người đáng mến trên chuyến xe bus đó.
- Đáng mến ư? - Ông ta nghĩ đến cái người đàn ông Texas toan vay tiền. - Không hẳn là như thế.
- Ô?
Mann nhìn ông khách. Tay phóng viên nầy rõ ràng là chờ ông ta nói thêm. "Tất nhiên là ông sẽ nổi bật trong đó"
- Có một cô gái người Nga.
- Thế ư? Hãy nói với tốt về có ta. - Robert ghi vào sổ.
- Ồ, chúng tôi bắt chuyện với nhau, và tôi đã giải thích cho cô ta hiểu nước Nga lạc hậu như thế nào và đang hướng tới những khó khăn khủng khiếp ra sao, trừ phi họ thay đổi.
- Hẳn là cô ta bị gây ân tướng rất mạnh, - Robert nói.
- Ồ có chứ. Có vẻ là một cô gái thông minh. Nghĩa là với người Nga. Ông biết đấy, tất cả họ đều bị cô lập quá. Cô ta có nói tên không?
- Không, à…, khoan nào. Olga gì đó.
- Cô ta có ngẫu nhiên nói là từ đâu tới không?
- Có. Cô ta làm việc tại một thư viện lớn ở Kiev.
Đó là chuyến đi nước ngoài đầu tiên của cô ấy, tôi đoán, là nhờ có cải tổ. Nếu như ông muốn biết ý kiến của tôi… - Ông ta ngừng lời để cho Robert ghi lại - Về mặt chính trị, Gorbachev đi quá nhanh, còn về mặt kinh tế thì ông ta lại đi quá chậm.
- Thật là kỳ lạ. - Robert lẩm bẩm.
Anh bỏ ra nửa giờ nữa với tay chủ nhà băng, nghe những bình luận chủ quan của ông ta về đủ mọi thứ, từ Thị trường chung đến kiểm soát vũ trang. Anh đã không thể có thêm thông tin gì về những hành khách khác.
Khi Robert trở về khách sạn, anh gọi ngay cho tướng Hilliard.
- Xin chờ một chút, ông chỉ huy Bellamy.
- Anh nghe thấy một loạt tiếng lách cách, và rồi tiếng tướng Hilliard vang lên.
- Có! Ông sĩ quan?
- Thưa tướng quân, tôi vừa tìm ra một hành khách nữa.
- Tên?
- William Mann. Ông ta có một nhà băng ở Fort Smith, Canada.
- Cảm ơn. Tôi sẽ báo cho giới chức Canada nói chuyện với ông ta ngay lập tức.
- Nhân thể có việc là ông ta trao cho tôi một manh mối khác. Tối nay tôi sẽ phải bay đi Nga. Tôi cần có một thị thực của Intourist Nga.
- Ông đang gọi từ đâu đấy?
- Fort Smith.
- Dừng lại khách sạn Visigoth ở Stockholm. Sẽ có một phong bì cho ông ở chỗ tiếp tân.
- Cảm ơn ngài.
Vào lúc 11 giờ đêm hôm đó, chuông cửa nhà William Mann réo vang. Ông ta không hề đợi ai, và càng không ưa những khách viếng thăm bất ngờ. Người quản gia đã nghỉ, và vợ ông ta đang yên giấc trong phòng riêng trên gác. Khó chịu, Mann ra mở cửa. Hai người đàn ông mặc đồ đen đứng sững trước ông.
- Ông là William Mann phải không?
- Phải.
Một trong hai người kia rút ra tấm căn cước.
- Chúng tôi ở Ngân hàng Canada. Chúng tôi có thể vào được không?
- Có chuyện gì vậy? - Mann chau mầy.
- Chúng tôi muốn thảo luận ở trong nhà, nếu như ông không phản đối.
- Được - Ông ta dẫn họ vào phòng khách.
- Mới đây ông đến Thuỵ Sĩ phải không?
- Câu hỏi làm cho ông ta bị bất ngờ.
- Cái gì? Phải, nhưng có chuyện quái quỷ gì thế?
- Trong thời gian ông đi vắng, chúng tôi đã kiểm tra sổ sách của ông, ông Mann. Ông có biết là tại ngân hàng của ông thiếu hụt một triệu đô la không?
William Mann nhìn hai người đàn ông, thất kinh.
- Các ông nói cái gì vậy? Tuần nào tôi cũng đích thân kiểm tra sổ sách mà. Chưa bao giờ thiếu một đồng xu nào cả.
- Một triệu đô la, thưa ông Mann. Chúng tôi nghĩ là ông phải chịu trách nhiệm biển thủ số tiền đó.
Mặt đỏ bừng lên, Mann thấy mình lắp bắp.
- Sao, sao các người dám… Cút khỏi đây ngay trước khi tao gọi cảnh sát.
- Điều đó chẳng có lợi gì cho ông cả. Cái chúng tôi muốn ở ông là phải biết hối hận.
Lúc nầy, ông ta nhìn họ chằm chằm, tức tối.
- Hối hận? Hối hận chuyện gì hả? Các người điên rồi.
- Không đâu, thưa ông.
Một trong hai người đàn ông rút ra một khẩu súng.
- Ông Mann, ngồi xuống.
- Ôi, lạy Chúa! Mình bị cướp rồi.
- Nầy, - Mann nói, - hãy lấy bất kỳ thứ gì các người muốn. Không cần phải bạo hành và…
- Xin mời ngồi xuống.
Người đàn ông thứ hai bước đến bên tủ rượu. Nó bị khoá. Hắn đập vỡ tấm kính và lấy ra một cái cốc uống nước lớn, rót đầy rượu và mang đến chỗ Mann đang ngồi.
- Uống đi. Nó sẽ làm cho ông thấy thoải mái.
- Tôi, tôi không bao giờ uống sau bữa tối. Bác sĩ của tôi…
- Uống đi, nếu không cái ly sẽ đầy óc của ông đấy. - Gã kia dí súng vào thái dương Mann.
Bây giờ thì Mann hiểu là mình đang ở trong tay hai thằng điên. Ông ta run run cầm cốc rượu lên và uống một ngụm.
- Uống cạn đi.
Ông ta uống một ngụm lớn hơn.
- Các các ông muốn gì? - Ông ta cất cao giọng, hy vọng rằng bà vợ có thể nghe thấy và đi xuống nhà, nhưng đó chỉ là một mong muốn tuyệt vọng. Ông biết rõ bà luôn ngủ say như chết. Rõ ràng là hai người nầy đến để cướp bóc. Tại sao họ không vơ vét rồi chuồn đi nhỉ?
- Muốn lấy gì thì lấy, - Ông ta nói. - Tôi sẽ không ngăn trở gì.
- Uống nốt đi.
- Không cần phải thế nầy. Tôi…
- Uống nốt đi.
Gã đàn ông đánh mạnh vào phía trên tai, Mann kêu lên đau đớn.
Ông ta uống nốt chỗ Wishky còn lại và cảm thấy choáng váng.
- Két của tôi ở trong phòng ngủ trên gác, - Ông ta nói, giọng bắt đầu líu lại. - Tôi sẽ mở nó cho các anh. - Có thể điều đó sẽ làm cho vợ mình thức giấc và bà ta sẽ gọi điện cho cảnh sát.
- Không vội gì, - gã cầm súng nói. - Ông có nhiều thời gian để uống.
Người thứ hai đi lại chỗ tủ rượu và rót đầy một ly khác.
- Đây!
- Không, thật mà, - William Mann phản đối. - Tôi không muốn.
Ly rượu được ấn vào tay.
- Uống đi.
- Tôi thật sự không…
Một quả đấm giáng vào chỗ bị đáng súng đập. Mann suýt ngất đi vì đau đớn.
- Uống đi.
Thôi được nếu như đó là điều chúng mầy muốn thì sao lại không nhỉ? Cơn ác mộng nầy càng qua nhanh càng tốt. Ông ta uống một ngụm lớn và đưa tay bịt miệng.
- Nếu như tôi uống nữa, tôi sẽ nôn mất.
- Nếu như mà nôn, tôi sẽ giết ông. - Gã kia nói ngay.
Mann ngước nhìn hắn, rồi gã cùng đi với hắn. Dường như cứ mỗi tên biến thành hai vậy.
- Các người muốn gì cơ chứ? - Ông ta lẩm nhẩm.
- Ông Mann, chúng tôi đã nói rồi. Chúng tôi muốn ông hối hận.
- Được Tôi hối hận. - William Mann ngật ngưỡng gật đầu.
Hai gã mỉm cười.
- Ông thấy đấy, đó là tất cả những gì chúng tôi yêu cầu Bây giờ… - Hắn ấn một mẩu giấy vào tay Mann. - Tất cả những gì ông phải làm là viết. Tôi xin lỗi. Hãy tha thứ cho tôi…
- Có thế thôi hả? - William ngước mắt lên vẻ u muội.
- Thế thôi. Và rồi chúng tôi sẽ đi khỏi đây.
Ông ta đột nhiên cảm thấy phấn chấn. Vậy là chuyện chỉ có thế Họ là những kẻ cuồng tín. Ngay sau khi họ đi, mình sẽ gọi cảnh sát và cho bắt hết. Mình sẽ kiện để những kẻ khốn kiếp nầy bị treo cổ.
- Viết đi ông Mann.
Ông ta thấy khó tập trung đầu óc.
- Anh nói anh muốn tôi viết gì hả?
- Hãy viết, "Tôi xin lỗi. Hãy tha thứ cho tôi".
- Phải. - Ông ta cầm bút một cách khó khăn, cố tập trung và bắt đầu viết. "Tôi xin lỗi. Hãy tha thứ cho tôi!"
Gã nhặt mảnh giấy từ tay Mann, những ngón tay cầm sát mép giấy.
- Ông Mann, thế là tốt. Thấy dễ dàng chưa?
Căn phòng bắt đầu quay cuồng.
- Phải. Cảm ơn. Tôi đã hối hận. Bây giờ thì các anh đi chứ?
- Tôi thấy là ông thuận tay trái?
- Sao cơ?
- Ông thuận tay trái.
- Đúng.
- Gần đây, vùng nầy có nhiều tội phạm, ông Mann. Chúng tôi sẽ để cho ông giữ khẩu súng nầy.
Mann cảm thấy một khẩu súng được đặt vào bàn tay trái mình - Ông có biết sử dụng một khẩu súng như thế nào không?
- Không.
- Rất đơn giản. Ông dùng như thế nầy nhé… - Gã ta đàn ông nâng khẩu súng lên thái dương William và miết ngón tay của ông chủ nhà băng lên cò súng.
Một tiếng nổ bị bóp nghẹt. Mẩu giấy dính máu được thả xuống sàn nhà.
- Thế là xong, - một trong hai gã nói. - Chúc ngủ ngon, ông Mann.
Điện khẩn.
Tối mật.
CGHQ gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
7. William Mann - Fort Smih - Đã bị thủ tiêu
Hết.
Ngày thứ mười.
Fort Smith, Canada.
Sáng hôm sau, các nhân viên thanh tra ngân hàng báo cáo về việc mất một triệu đô la tại nhà băng của Mann. Cảnh sát đã xếp cái chết của Mann vào dạng tự sát.
Khoản tiền bị mất kia chẳng bao giờ được tìm thấy.
 
CHƯƠNG 29 -
Ngày thứ mười một.
Brussels, 3 giờ 00.
Tướng Shipley, chỉ huy trưởng tại Bộ tư lệnh khối NATO, được người sĩ quan phụ tá của ông đánh thức dậy.
- Thưa tướng quân, tôi xin lỗi vì phải đánh thủc ngài, nhưng dường như chúng ta đang có tình hình báo động.
Tướng Shipley dụi mắt cho hết ngái ngủ. Đêm trước, ông đã phải thức khuya để tiếp đón các Thượng nghị sĩ từ Mỹ tới thăm.
- Có chuyện gì vậy Billy?
- Tôi vừa nhận được tin báo từ đài ra-đa , thưa ngài. Hoặc là tất cả các thiết bị của chúng ta trở nên điên loạn, hoặc là chúng ta đang có những người khách lạ.
Tướng Shipley bật ra khỏi gi.ường.
- Nói với họ là năm phút nữa tôi sẽ tới.
Căn phòng ra-đa mờ tối đầy kín các sĩ quan và binh sĩ tập hợp xung quanh các màn ảnh ra-đa sáng bừng đặt ở chính giữa. Họ quay lại và đứng nghiêm khi ông tướng bước vào.
- Nghỉ. - Ông ta bước tới viên sĩ quan trực ban, đại uý Muller. - Lewis, có chuyện gì thế?
Đại uý Muller đưa tay vuốt đầu.
- Tôi thua. Ngài có bao giờ thấy một máy bay nào có thể bay với tốc độ 22 nghìn dặm một giờ, đột ngột dừng lại, và rồi bay theo hướng ngược lại không?
- Anh đang nói cái gì vậy hả? - Tướng Shipley trợn mắt lên.
Căn cứ vào màn ảnh ra-đa của chúng ta thì đó chính là những gì diễn ra trong suốt nửa giờ đồng hồ qua. Lúc đầu, chúng tôi nghĩ đó có thể là một thứ thiết bị điện tử gì đó đang được thử nghiệm, nhưng chúng tôi đã kiểm tra lại với người Nga, người Anh, người Pháp, và họ cũng ghi nhận được cùng một thứ như vậy trên các màn hình ra-đa của họ.
- Vậy thì không thể là chuyện trục trặc trong thiết bị được, - tướng Shipley nặng nề nói.
- Vâng, thưa ngài. Trừ phi giả thiết rằng tất cả các ra-đa trên thế giới đều bất chợt trở nên điên rồ hết.
Bao nhiêu cái đó đã xuất hiện trên màn ra-đa?
- Hơn một chục. Chúng chuyển động nhanh đến mức chỉ bám theo cũng đã khó khăn lắm rồi. Chúng tôi ghi nhận được chúng, và chúng lại biến mất ngay. Chúng tôi đã loại trừ các hiện tượng khí quyển, khí tượng, sao băng, bóng thám không, và mọi phương tiện bay mà chúng ta đã biết. Tôi đang tính cho vài máy bay cất cánh, nhưng những vật thể nầy, không biết là thứ gì nữa, bay cao khủng khiếp đến mức chúng ta không bao giờ có thể đến gần chúng được.
Tướng Shipley bước lại một trong những màn ra-đa.
Hiện bây giờ trên màn hình của các anh có cái gì không?
- Thưa không. Chúng đi rồi. - Anh ta ngập ngừng một giây. - Nhưng, thưa tướng quân, tôi có cảm giác hãi hùng là chúng sẽ còn trở lại.
 
CHƯƠNG 30 -
Ottawa, 5 giờ 00.
Khi Janus đọc dứt bản báo cáo của tướng Shipley, vị người Italia đứng dậy và nói với vẻ kích động:
- Chúng đang sẵn sàng xâm lăng chúng ta.
- Chúng xâm lăng chúng ta rồi. - Người Pháp nói.
- Chúng ta đã quá trễ. Đó là một thảm hoạ. - Người Nga nói. - Không có cách nào.
Janus cắt ngang.
- Thưa quý vị, đó là một thảm hoạ mà chúng ta có thể ngăn chặn.
- Như thế nào? Ngài biết đòi hỏi của chúng à? - Người Anh nói.
- Vấn đề không phải là những đòi hỏi của chúng. - Người Brasil nói. - Việc chúng ta làm gì với cây cối của chúng ta đâu phải việc của họ. Cái gọi là hiệu ứng nhà kính chỉ là một thứ khoa học rác rưởi, hoàn toàn chưa được kiểm nghiệm.
- Còn về chúng tôi thì sao? - Người Đức nói. - Nếu chúng buộc chúng tôi phải làm sạch bầu không khí trên các thành phố của nước Đức, chúng tôi sẽ phải đóng cửa các nhà máy và sẽ không còn lại ngành công nghiệp nào cả.
- Còn chúng tôi sẽ phải ngừng sản xuất ô tô, - người Nhật Bản nói. - Và rồi nền văn minh của thế giới nầy sẽ thế nào?
- Chúng ta đều cùng trong một tình thế như nhau. - Người Nga nói. - Nếu như phải ngừng tất cả những gì làm ô nhiễm môi trường, như họ đòi hỏi, thì điều đó sẽ huỷ hoại các nền kinh tế thế giới. Chúng ta phải dành thêm thời gian cho đến khi sẵn sàng với cuộc Chiến tranh giữa các hành tinh.
Đồng ý như vậy. Vấn đề trước mắt của chúng ta là giữ cho dân chúng bình tĩnh và tránh sự hỗn loạn lan tràn. - Janus nói một cách quả quyết.
- Công việc của sĩ quan chỉ huy Bellamy thế nào rồi? - Người Canada nói.
- Đang có những kết quả tuyệt hảo. Ông ta sẽ hoàn tất nhiệm vụ trong một hai ngày tới.
 
CHƯƠNG 31 -
Kiev, Ucraina.
Giống như hầu hết những phụ nữ Nga khác, Olga Romanchanko đã trở nên chán ngán với cải tổ.
Thoạt đầu tất cả những thay đổi được hứa hẹn sẽ diễn ra trên Tổ quốc Nga có vẻ thật hấp dẫn. Những ngọn gió tự do thổi trện các đường phố, và niềm hy vọng tràn ngập bầu không khí. Có những lời hứa hẹn về thịt và rau tươi trong các cửa hàng, những quần áo đẹp những đôi giầy da thật và cả trăm thứ tuyệt diệu khác. Nhưng giờ đây, sáu năm sau khi nó vận hành, sự vỡ mộng cay đắng đã xen vào. Hàng hoá khan hiếm hơn bao giờ hết. Thực sự là mọi thử đều thiếu và giá cả tăng vọt. Những ổ gà lớn ngổn ngang trên các đường phố chính. Nhan nhản những cuộc biểu tình và số tội phạm tăng lên. Những hạn chế cũng nghiêm ngặt hơn bao giờ hết. Cải tổ và công khai đã bắt đầu có vẻ rỗng tuếch như những lời hứa hẹn của các nhà chính trị đã khơi xướng chúng.
Olga đã làm việc tại một thư viện trên quảng trường Lenkosomol ở trung tâm Kiev bẩy năm trời. Cô ba mươi hai tuổi và chưa bao giờ bước chân ra khỏi Liên Xô. Trông Olga khá hấp dẫn, hơi mập một chút, nhưng ở Nga thì điều đó không bị coi là một nhược điềm.
Cô đã từng kết hôn với hai người đàn ông, và họ đều đã bỏ rơi cô: Dmitri, người đã đi Leningrad, và Ivan, người đã bỏ đi Mátxcơva. Olga đã toan đi theo để cùng sống với Ivan, nhưng không có hộ khẩu Mátxcơva thì điều đó là không thể được.
Khi sinh nhật lần thứ ba mươi ba của cô đến gần, Olga quyết tâm đi thăm thú thế giới bên ngoài một lần cho biết. Cô đến gặp giám đốc thư viện, người tình cờ lại là bà dì của cô.
- Cháu muốn được nghỉ phép, - Olga nói.
- Khi nào thì cô muốn đi?
- Tuần sau.
- Chúc vui vẻ.
Mọi chuyện thật đơn giản. Trước thời cải tổ, đi nghỉ phép có nghĩa là đi Biển Đen, Samarkan hoặc Tbilisi, hoặc là bất kỳ chỗ nào khác nhưng không vượt khỏi lãnh thổ Liên Xô. Còn giờ đây, nếu tháo vát một chút thì cả thế giới sẽ mở ra trước bạn. Olga lấy một cuốn bản đồ từ trên giá sách và chúi đầu vào đó.
Bên ngoài là cả một thế giới lớn. Châu Phi, châu Á, Bắc và Nam Mỹ… Cô e ngại đi xa đến như thế, bèn lật sang tấm bản đồ châu Âu. Thuỵ Sĩ, cô nghĩ. Đó là nơi mình sẽ tới.
Cô sẽ chẳng bao giờ thú nhận với ai trên đời nầy, nhưng Thuỵ Sĩ đã hấp dẫn cô, chủ yếu vì cô đã hơn một lần được biết mùi chocolat của nó, và cô không bao giờ có thể quên được cảm giác đó. Cô thích ăn kẹo. Ở Nga - khi mà người ta có thể kiếm được - thì cũng là thứ kẹo không đường và mùi vị thì chẳng ra gì.
Olga đã phải đổi mạng sống chỉ vì thèm được ăn kẹo chocolat.
Hành trình trên chuyến bay Aeroflot tới Zurich là một sự khởi đầu thú vị. Chưa bao giờ đi máy bay, Olga rất hồi hộp khi phi cơ hạ cánh xuơng sân bay quốc tế ở Zurich. Trong không khí có cái mùi gì đó khang khác. Có thể là mùi vị của tự do thật sự, Olga nghĩ. Tiền bạc của cô rất eo hẹp, và cô đã đặt phòng trước ở Leonhare, một khách sạn nhỏ, rẻ tiền, ở số 136 Limmatquai.
Olga làm thủ tục ở bàn tiếp tân.
- Đây là lần đầu tiên tôi tới Thuỵ Sĩ, - Cô trình bày với nhân viên khách sạn bằng một thứ tiếng Anh ngắc ngứ. - Anh có thể gợi ý cho tôi nên làm gì không.
- Tất nhiên. Ở đây thì có nhiều thử lắm, - anh ta nói với cô. - Có thể là cô nên bắt đầu với một vòng quanh thành phố. Tôi sẽ thu xếp việc đó.
- Cảm ơn.
Olga thấy Zurich thật hấp dẫn. Cô sững sờ trước cảnh quan và những âm thanh của thành phố nầy.
Người đi đường ăn mặc đẹp và lái những chiếc xe đắt tiển. Với Olga thì dường như tất cả mọi người ở Zurich đều là những nhà triệu phú… Và còn những cửa hiệu dọc con đường Bahnhofstrasse, đường phố buôn bán chính của Zurich, và cô ngạc nhiên trước mức độ phong phú đến không thể tin được trong các ô kính: nào váy, nào áo khoác, váy lót, giầy dép, đồ nữ trang, bát đĩa, đồ gỗ, ô tô, sách báo, ti vi, radio, đồ chơi và đàn piano… Hàng hoá bày bán dường như không kể xiết. Và rồi Olga chợt đi ngang qua tiệm Sprungli, nổi tiếng về mứt và kẹo chocolat. Trời, chocolat!
Bốn ô kính lớn đầy ngập, đủ các loại khác nhau. Có cả chuối bao chocolat và những hạt chocolat trong chứa một chút rượu hảo hạng. Chỉ nhìn thôi cũng đã thấy sướng. Olga những muốn mua tất cả, nhưng khi biết giá rồi thì đành chỉ mua một hộp thập cẩm nhỏ và một hộp lớn những chocolat thanh.
Trong tuần lễ tiếp theo đó, Olga đã thăm khu vườn Zurichchhorn, bảo tàng Rietherg và nhà thờ Grossmunster - được xây cất trong thế kỷ mười một, và hơn một chục điểm du lịch tuyệt vời khác. Sau cùng, đã cũng sắp hết thời gian.
Người nhân viên ở khách sạn Leonhare nói với cô:
- Hàng xe bus du lịch Sunshine có một tuyến rất hấp dẫn trên vùng núi Alps. Tôi nghĩ là cô có thể thưởng ngoạn điều đó trước khi rời khỏi đây.
- Cảm ơn, Olga nói. - Tôi sẽ thử xem.
Khi rời khỏi khách sạn, nơi dừng chân đầu tiên của cô là tiệm Sprungli, và nơi tiếp theo là văn phòng hãng Sunshine đề làm thủ tục cho một chuyến đi.
Quang cảnh đẹp đến nghẹt thở, và giữa chừng của chuyến đi, họ đã chứng kiến vụ nổ của cái mà thoạt đầu cô nghĩ là đĩa bay, nhưng ông chủ nhà băng người Canada ngồi cạnh cô đã giải thích rằng đó chỉ là chuyện bày đặt của chính phủ Thuỵ Sĩ dành cho du khách, và rằng không hề tồn tại cái mà cô vừa nghĩ đến.
Olga đã không hoàn toàn bị thuyết phục. Khi trở về nhà ở Kiev, cô đã mang chuyện nầy ra nói với bà dì của mình.
- Chắc là có đĩa bay, - bà dì nói. - Chúng bay trên bầu trời nước Nga suốt ấy mà. Cháu nên bán câu chuyện của mình cho một tờ báo.
Olga đã tính làm như vậy nhưng lại sợ bị người ta cười cho. Đảng Cộng sản không muốn các đảng viên của mình trở thành đối tượng của sự nhạo báng.
Dù sao chăng nữa, Olga kết luận, bên cạnh chuyện Dmitri và Ivan, kỳ nghỉ của cô là kỷ niệm đáng nhớ nhất trong đời. Thật là khó khăn khi bắt tay vào trở lại với công việc.
Chiếc xe bus của Intourist chạy mất một giờ trên con đường cao tốc mới được xây dựng từ sân bay về tới trung tâm Kiev. Đó là lần đầu tiên Robert tới đây, và anh có ấn tượng mạnh mẽ với những công trình xây dựng đâu đâu cũng thấy trên dọc đường và những toà nhà ở lớn đang mọc lên khắp nơi. Chiếc xe bus dừng lại trước khách sạn Dniepr và đổ xuống hơn hai chục hành khách. Robert nhìn đồng hồ đeo tay mình, 8 giờ. Thư viện đóng cửa mất rồi. Anh làm thủ tục thuê phòng ở cái khách sạn lớn ấy, nơi mà một phòng đã được đặt trước cho anh, uống một cốc ở quầy rượu và đi vào trong cái phòng ăn trắng toát mộc mạc để ăn một bữa tối với trứng cá muối, dưa chuột, cà chua, sau đó là món khoai tây hầm với chút thịt có thêm nhiều bột, tất cả được kèm với Vodka và nước khoáng.
Thị thực nhập cảnh đã được để sẵn cho anh tại khách sạn ở Stockholm như tướng Hilliard đã hứa.
Đó là kêt quả nhanh chóng của sự hợp tác quốc tế, Robert nghĩ. Nhưng chẳng có sự hợp tác nào cho mình cả. Từ nghiệp vụ gọi là "Trần trụi".
Sau bữa ăn, Robert hỏi han đôi chút tại bàn tiếp tân và đi vơ vẩn ra quảng trường Lenkosomol. Kiev thật sự gây ngạc nhiên đối với anh. Là một trong những thành phố cổ kính nhất nước Nga, với dáng vẻ châu Âu nó nằm trên bờ sông Dniepr, với những công viên xanh tươi và những đường phố rộng lớn có cây trồng dọc hai bên. Ở đâu cũng thấy các nhà thờ, và chúng là những thí dụ ngoạn mục cho kiến trúc tôn giáo, như các nhà thờ Thánh Vladimir, Thánh Andrew, và Thánh Sofia - nhà thờ sau cùng nầy được hoàn tất vào năm 1037, và tu viện Pechersk, công trình kiến trúc cao nhất thành phố. Susan sẽ rất yêu thích những phong cảnh nầy, Robert nghĩ. Cô chưa bao giờ đến nước Nga. Anh băn khoăn không biết cô đã từ Brasil trở về hay chưa. Cảm thấy bị thôi thúc, anh gọi điện thoại cho cô khi trở lại khách sạn, và anh ngạc nhiên thấy gần như không hề phải chờ đợi gì.
- Xin chào? - Cái giọng cổ khêu gợi ấy.
- Chào. Brasil thế nào?
- Robert. Em cố gọi cho anh mấy lần. Không có ai trả lời.
- Anh không có nhà.
Ôi! Cô đã được huấn luyện quá kỹ để không hỏi là anh đang ở đâu.
- Anh có khoẻ không đấy?
Đối với một thằng quan hoạn thì khoẻ.
- Tất nhiên. Khoẻ. Cái túi tiền Monte thế nào?
- Anh ấy khoẻ. Robert, ngày mai chúng em sẽ đi Gibraltar.
Tất nhiên là trên cái du thuyền của thằng cha Cái túi tiền khốn kiếp kia. Tên nó là gì ấy nhỉ? À, phải, Thanh Bình.
- Bằng du thuyền?
- Vâng. Anh có thể gọi cho em ở đó. Anh có nhớ số máy không?
Anh nhớ. - WS387. WS có nghĩa gì nhỉ? Susan tuyệt diệu chăng?… Sao lại phải xa nhau chăng…Kẻ đi cướp vợ người?
- Anh Robert?
- Có anh nhớ. WS (Wishky và Đường) 337.
- Anh sẽ gọi chứ? Để em biết là anh khoẻ mạnh mà.
- Rồi. Anh nhớ em, cô bé ạ.
Một im lặng đau đớn, hồi lâu. Anh chờ đợi. Anh đợi cô nói gì nhỉ?
Đến cứu em khỏi cái thằng cha quyến rũ nầy, gã trông giống một Paul Newman và đã bắt em phải đi trên chiếc du thuyền lộng lẫy của hắn và sống trong những cung điện nhỏ nhắn nghèo khổ ờ Monte Carlo, Paris, London và chỉ có Chứa mới, biết được là còn ở những đâu nưà. Giống như một thằng ngu, anh thấy mình có phần mong cô sẽ nói như thế.
- Em cũng nhớ anh, Robert. Hãy tự chăm sóc mình.
Và đường dây bị cắt. Anh còn lại ở nước Nga, đơn độc.
Ngày thứ mười hai.
Kiev, Ucraina.
Sáng sớm hôm sau, khi thư viện mở cửa được mười phút, Robert đã bước vào toà nhà lớn, ảm đạm, và tiến lại bàn thường trực.
- Xin chào. - Robert nói.
Người phụ nữ ngồi sau bàn ngẩng lên.
- Xin chào. Ông cần gì?
- Vâng. Tôi đang tìm một người phụ nữ mà tôi tin là đang làm việc ở đây, cô Olga.
- Olga? Có đấy. - Chị ta chỉ sang một phòng khác. - Cô ấy ở trong phòng kia.
- Cám ơn.
Thật là dễ dàng. Robert bước đi ngang qua một nhóm sinh viên đang chăm chú làm việc bên những chiếc bàn dài. Chuẩn bị cho một thứ tương lai gì thế không biết? Robert băn khoăn. Anh tới một phòng đọc nhỏ hơn và bước vào bên trong. Một người phụ nữ đang bận bịu xếp lại những cuốn sách.
- Xin thứ lỗi, - Robert nói.
- Gì thế ạ? - Chị ta quay lại.
- Chị là Olga?
- Tôi là Olga. Ông cần gì ở tôi thế?
Robert nở một nụ cười gây thiện cảm.
- Tôi đang viết một bài báo về công cuộc cải tổ và ảnh hưởng của nó đối với những người Nga ở tầng lớp trung bình. Nó có tác động đến đời sống của chị không?
Người phụ nữ nhún vai.
- Trước Gorbachev, chúng tôi không dám mở miệng. Bây giờ chúng tôi có thể mở miệng nhưng lại không có gì để cho vào cả.
Robert thử một mẹo khác.
- Chắc chắn là có những thay đổi theo hướng tốt đẹp hơn. Thí dụ, bây giờ các bạn có thể đi du lịch.
- Hẳn là ông nói đùa. Với một ông chồng và sáu đứa con thì ai mà có tiền đi du lịch?
- Thì chị vẫn có thể có tiền đề đi Thuỵ Sĩ và… - Robert cố thêm.
- Thuỵ Sĩ ư? Trong đời tôi chưa bao giờ mơ được đến đó.
- Chị chưa bao giờ tới Thuỵ Sĩ hả? - Robert từ tốn nói.
- Tôi đã nói rồi đấy thôi. - Chị ta hất hàm về phía một phụ nữ tóc sẫm đang chọn sách trên bàn. - Cô ấy mới là người may mắn được tới Thuỵ Sĩ đấy.
- Tên cô ấy là gì thế? - Robert liếc mắt nhìn.
- Olga. Cùng tên với tôi.
- Cám ơn. - Anh thở dài.
Một phút sau, Robert đã nói chuyện với cô Olga thứ hai kia.
- Xin lỗi, - Robert nói. - Tôi đang viết một bài báo về cải tổ và ảnh hưởng của nó đến đời sống của người dân Nga.
- Dạ? - Cô gái nhìn anh một cách cảnh giác.
- Tên cô là gì?
- Olga. Olga Romanchanko.
- Hãy nói cho tôi biết, cô Olga, rằng cải tổ có tác động gì đến cô không?
Sáu năm về trước, hẳn Olga Romanchanko sẽ sợ phải nói chuyện với một người nước ngoài, nhưng giờ đây thì điều đó đã được phép.
- Không hẳn có gì, - Cô nói một cách thận trọng. - Mọi thứ phần lớn vẫn như cũ thôi.
- Không có gì thay đổi trong cuộc sống của cô ư? - Người khách lạ vẫn bướng bỉnh.
Cô ta lắc đầu.
- Không. - Và rồi cô nói thêm vì lòng yêu nước. - Tất nhiên là bây giờ chúng tôi có thể đi du lịch ra nước ngoài.
- Và cô đã đi rồi? - Anh tỏ ra quan tâm.
- Ô, vâng. - Cô hãnh diện nói. - Tôi vừa mới từ Thuỵ Sĩ trở về. Một đất nước rất đẹp.
- Tôi đồng ý, - anh nói. - Cô có cơ hội làm quen với ai trong chuyến đi đó không?
- Tôi đã gặp rất nhiếu người. Tôi ngồi xe bus và chúng tôi đi lên vùng núi cao. Dãy Alps. - Đột nhiên, Olga nhận ra là cô không nên nhắc tới chuyện nầy bởi vì người khách lạ có thể hỏi cô về con tàu vũ trụ; và cô không muốn nói ra. Chuyện đó chỉ có chuốc cho cô những rắc rối mà thôi.
- Thế à? Robert hỏi. - Hãy nói cho tôi nghe về những người trên chiếc xe bus đó.
Nhẹ cả người. Olga đáp:
- Rất thân thiện. Họ ăn mặc… - Cô ra hiệu bằng tay, - rất giàu. Tôi gặp cả một người từ thủ đô của ông tới, từ Washington D.C.
- Thế hả?
- Vâng. Rẩt tử tế. Ông ấy đã cho tôi tấm danh thiếp.
- Cô vẫn giữ nó chứ? - Tim Robert đã ngưng lại một nhịp.
- Không Tôi đã ném nó đi rồi. - Cô nhìn quanh. - Tốt hơn là không nên giữ những thứ đó.
Khốn kiếp.
Và rồi cô nói thêm:
- Tôi nhớ tên ông ta. Parker. Parker, giống như tên cái bút của các ông ấy. Kenvin Parker. Rất quan trọng trong các vấn đề chính trị. Ông ấy kề chuyện các Thượng nghị sĩ phải kiếm phiếu thế nào.
- Đó là điều ông ấy nói với cô à? - Robert giật mình.
- Vâng. Ông ấy đã đưa họ đi du lịch và tặng quà, và rồi họ bỏ phiếu ủng hộ cho những gì mà khách hàng của ông ấy cần. Đó là con đường dân chủ ở nước Mỹ.
Một người vận động hành lang. Robert để Olga nói thêm mười lăm phút sau đó, nhưng anh không gó thêm được thông tin có ích gì về những hành khách khác.
Robert gọi điện cho tướng Hilliard từ phòng khách sạn của anh.
- Tôi đã tìm thấy nhân chứng người Nga. Tên cô ta là Olga Romanchako, làm việc tại thư viện trung tâm ở Kiev.
- Tôi sẽ để một quan chức Nga nói chuyện với cô ta.
Điện khẩn.
Tối mật.
NSA gửi Phó giám đốc GRU.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
8. Olga Romanchanko Kiev.
Chiều hôm đó, Robert bay trên chiếc Tu-154 của Aeroflo tới Paris. Anh tới nơi sau 3 giờ 25 phút và chuyển sang một chuyến bay của hãng hàng không Pháp đi Washington D.C.
Lúc 2 giờ sáng, Olga Romanchanko nghe thấy tiếng xe ô tô phanh gấp trước toà nhà nơi cô sống, trên phố Veryk. Các bức tường mỏng manh đến nỗi cô có thể nghe được tất cả những tiếng nói ngoài phố. Cô dậy khỏi gi.ường và đến nhìn qua cửa sổ. Hai người đàn ông mặc đồ dân sự đang ra khỏi chiếc xe Chaika màu đen, kiểu xe mà các quan chức chính phủ sử dụng.
Họ đi vào cổng chung cư của cô. Bóng dáng họ làm cho cô thấy rùng mình. Nhưng năm qua, một số người hàng xóm của cô đã mất tích, không ai trông thấy họ bao giờ nữa. Một số bị đầy đi Siberia. Olga không biết lần nầy mật vụ đang săn lùng ai, và ngay khi vẫn còn đang nghĩ như vậy, có tiếng gõ cửa, làm cô giật bắn minh. Họ muốn gì ở mình nhỉ? Cô lo lắng.
Hẳn là có sự nhầm lẫn.
Khi cô mở cửa, hai người đàn ông đang đứng đó.
Đồng chí Olga Romanchanko phải không?
- Dạ.
- Cơ quan Tình báo Quân sự GRU khét tiếng.
Họ sấn sổ bước vào phòng.
- Các các anh muốn gì?
Chúng tôi sẽ là người hỏi. Tôi là Thượng sĩ Yuri Gromkov. Đây là Thượng sĩ Vladimir Zemsky.
- Có… có chuyện gì sai trái chăng? Tôi đã làm gì nào? - Cô đột ngột cảm thấy sợ hãi.
- Ồ vậy là cô biết mình đã làm gì đó sai trái. - Zemsky chộp lấy.
- Không, chắc chắn là không. - Olga nói, bối rối. - Tôi không biết vì sao các anh lại tới đây.
- Ngồi xuống. - Gromkov quát lên. Olga làm theo, run rẩy.
- Cô vừa từ Thuỵ Sĩ trở về, phải không nào?
- Dạ, dạ, - Cô lắp bắp, - nhưng đó - đó là… Tôi được phép của…
- Olga Romanchanko, hoạt động gián điệp bất hợp pháp.
- Hoạt động gián điệp? Cô khiếp sợ. - Tôi không hiểu các anh đang nói gì.
Người đàn ông cao to nhìn chằm chằm vào th.ân thể cô và Olga bỗng nhận ra cô chỉ có một cái váy ngủ mỏng tang trên người.
- Đi. Cô phải đi cùng chúng tôi.
- Nhưng, có một sự nhầm lẫn kinh khủng. Tôi là một thủ thư. Xin hỏi bất kỳ ai ở đây.
- Nào. - Anh ta kéo cô đứng dậy.
- Các anh mang tôi đi đâu?
- Về trụ sở. Họ muốn thẩm vấn cô.
Họ cho phép cô mặc áo khoác ra ngoài váy ngủ.
Cô bị đẩy xuống cầu thang và ấn vào trong chiếc Chaika.
Olga nghĩ tới tất cả những người đã phải ngồi vào trong chiếc xe giống như thế nầy, đề không bao giờ trở về, cô chết lặng đi vì sợ hãi.
Người đàn ông cao to, Gromkov, lái xe. Olga được đẩy vào ghế sau, ngồi cùng với Zemsky. Anh ta dường như không làm cho cô sợ hãi bằng người kia, nhưng cô đã bị tê liệt với việc biết họ là ai và điều gì sắp xảy ra với mình.
- Xin hãy tin tôi. - Olga nói một cách khẩn khoản. Tôi không bao giờ phản bội.
- Câm mồm. - Gromkov quát lên.
Nầy, chẳng lý do gì phải quá cứng rắn với cô ấy cả. Thực ra thì tôi tin cô ấy. - Vladimir Zemsky nói.
Olga cảm thấy tim mình rộn lên vì hy vọng.
- Thời thế đã thay đổi. - Zemsky nói tiếp. - Đồng chí Gorbachev không muốn chúng ta quấy nhiễu những người vô tội. Những ngày đó đã qua rồi.
- Ai nói là cô ta vô tội? - Gromkov càu nhàu. - Có thể là có có thể là không. Ở trụ sở họ sẽ tìm ra ngay thôi mà.
Olga ngồi nghe hai người đàn ông nói về cô như thể cô không hề có ở đó.
- Nào, Yuri, cậu biết là ở trụ sở thì cô ấy sẽ thú tội cho dù có tội hay không. Tớ không thích thế. - Zemsky nói.
- Chuyện đó thì quá tệ. Chúng ta chẳng thể làm gì được đâu Được chứ.
- Cái gì?
Người đàn ông ngồi bên cạnh Olga im lặng một thoáng.
- Nghe nầy, - anh ta nói, - tại sao chúng ta không thả quách cô ấy ra nhỉ? Chúng ta có thể nói lại là cô ấy không có nhà. Chúng ta sẽ trì hoãn một hoặc bai ngày, và họ sẽ quên chuyện cô ấy đi vì họ có quá nhiều người để tra hỏi rồi.
Olga toan nói gì đó, nhưng cổ họng cô khô khốc.
Cô mong mỏi đến tuyệt vọng là người đàn ông ngồi cạnh cô thuyết phục được người kia vì sao chúng ta phải liều mạng để cứu cô ta hả?
- Chúng ta được gì nào? Cô ấy sẽ làm gì cho chúng ta nào? - Gromkov làu bàu.
Zemsky quay lại và nhìn Olga vẻ dò hỏi. Olga cố cất lời:
- Tôi không có tiền bạc gì.
- Ai cần tiền của cô? Chúng tôi có rất nhiều tiền.
- Cô ta có thứ khác. - Gromkov nói.
Olga chưa kịp trả lời thì Zemsky nói:
- Khoan đã, Yuri Ivanovich, cậu không thể đòi cô ấy làm điều đó.
- Tuỳ cô ta thôi. Cô ta có thể ngọt ngào với chúng ta hoặc là tới trụ sở và sẽ bị tra tấn trong một hoặc hai tuần lễ. Có thể là họ sẽ tống cô ta vào trong một cái chuồng cọp xinh xắn.
Olga đã nghe về những cái chuồng cọp. Những hầm giam chiều một mét, chiều hai mét lạnh lẽo với một cái gi.ường gỗ và không chăn chiếu gì. "Ngọt ngào với chúng ta". Thế nghĩa là thế nào nhỉ?
- Tuỳ cô ta.
- Cô muốn thế nào? - Zemsky quay sang Olga.
- Tôi, tôi không hiểu.
- Anh bạn tôi nói rằng nếu như cô ngọt ngào với chúng tôi, chúng tôi có thể bỏ qua vụ nầy. Sau một thời gian ngắn: có thể họ sẽ quên chuyện của cô.
- Tôi tôi sẽ phải làm gì cơ?
Gromkov mỉm cười với cô qua tấm gương chiếu hậu.
- Hãy dành cho chúng tôi ít phút ở cô. - Anh ta nhớ tới một câu đã đọc ở đâu đó. - Hãy nằm đó và nghĩ tới hoàng đế. - Rồi cười khoái trá.
Olga đột nhiên hiểu ra họ muốn gì. Cô lắc đầu.
- Không. Tôi không thể làm điều đó.
Được. - Gromkov bắt đầu tăng tốc độ. - Ở trụ sở họ sẽ có một cuộc vui với cô.
- Khoan.
Cô đang trong cơn hoảng sợ và không biết phải làm gì. Cô đã nghe những cầu chuyện khủng khiếp về điều gì xảy đến đối với những người bị bắt giữ và trở thành tội nhân. Cô đã nghĩ rằng tất cả những chuyện đó đã chấm dứt, nhưng bây giờ thì cô hiểu là không phải. Cải cách vẫn còn đang là một hy vọng, một tưởng tượng. Họ sẽ không cho phép cô có một luật sư hoặc nói chuyện với bất kỳ ai. Trong quá khứ, bạn bè của cô đã bị nhân viên GRU h.ãm hiếp, sát hại. Cô đã mắc bẫy. Nếu cô chịu vào tù, họ có thể giam giữ cô nhiều tuẩn lễ, đánh đập, h.ãm hiếp cô, hoặc có thể còn tệ hại hơn. Với hai người đàn ông nầy, ít ra thì chuyện đó cũng chỉ qua đi trong ít phút và rồi họ sẽ thả cô ra. Olga đi đến một quyết định.
- Cũng được, cô đau khổ nói. - Các anh có muốn quay trở lại căn hộ của tôi không?
- Tôi biết có một chỗ tốt hơn. - Gromkov nói. Anh ta vòng xe ngược lại.
- Tôi xin lỗi về chuyện nầy, nhưng anh ta là chỉ huy. Tôi không thể ngăn anh ta được. Zemsky thì thầm.
Olga không đáp lại.
Họ chạy ngảng qua Nhà hát Opera Shevchenko màu đỏ rực và hướng tới một công viên có cây cối bao quanh. Vào giờ nầy, công viên hoàn toàn vắng ngắt.
Gromkov lái xe chạy dưới những hàng cây và rồi tắt điện, tắt máy.
- Ra ngoài đi. - Anh ta nói.
Cả ba người bước ra khỏi xe.
- Cô thật may mắn. Chúng tôi thả cô ra thật dễ dàng. Tôi hy vọng là cô sẽ đánh giá cao điều đó. - Gromkov nhìn Olga.
Olga gật đầu, không dám nói gì vì quá sợ.
Gromkov dẫn họ tới một chỗ quang.
- Cởi ra.
Trời lạnh, Olga nói. - Chẳng lẽ chúng ta không thể…?
- Làm theo lời tao trước khi tao thay đổi ý kiến. - Gromkov tát mạnh vào mặt cô.
Olga ngập ngừng một giây, và khi hắn ta lại giơ tay chực đánh, cô bắt đầu cởi khuy áo khoác.
- Cởi hẳn ra.
Cô thả cái áo rơi xuống đất.
- Giờ đến cái váy ngủ.
Olga chậm chạp kéo cái váy qua đầu và lột hẳn nó ra, run lên trong trời đêm giá lạnh, đứng trần truồng dưới ánh trăng.
- Tấm thân ngon lành. - Gromkov nói. Hắn ta bóp hai đầu vú cô.
- Đừng…
- Mầy nói nửa lời, chúng tao sẽ mang mầy đến trụ sở. - Anh ta đẩy cô nằm xuống đất.
Mình sẽ không nghĩ tới chuyện nầy. Mình sẽ cố nghĩ là mình đang ở Thuỵ Sĩ, trên chiếc xe bus du đi du lịch và ngắm những phong cảnh đẹp đẽ.
Gromkov tụt quần ra và giang rộng hai chân Olga.
Mình có thể nhìn thấy đỉnh Alps tuyết phủ. Có một cái xe trượt tuyết chạy ngang, trên đó là hai đứa trẻ, một trai, một gái.
Cô thấy hắn luồn tay dưới hông cô và ấn cái giống đực vào trong cô, làm cô đau đớn.
Có những chiếc xe đẹp đẽ đang chạy trên xa lộ. Nhiều xe hơn bao giờ cô từng nhìn thấy trong đời. Ở Thuỵ Sĩ mỗi người đều có một chiếc xe.
Hắn đang dồn dập mạnh hơn trên người cô, cấu véo cô kêu lên những tiếng kêu như thú hoang.
Mình sẽ có một ngôi nhà nhỏ ở trên núi. Người Thuỵ Sĩ gọi là gì nhỉ? Chalét. Và mình sẽ có kẹo chocolat hàng ngày. Có hàng hộp.
Lúc nầy, Gromkov đã buông cô ra, thở hồng hộc.
Hắn đứng lên và quay sang Zemsky.
Đến lượt cậu.
Mình sẽ lấy chồng và có con, và cả nhà sẽ đi trượt tuyết vào mùa đông.
Zemsky dã mở sẵn khoá quần và lập tức nằm đè lên cô.
Đó sẽ là một cuộc sống tuyệt vời. Mình sẽ không bao giờ trở về Nga. Không bao giờ. Không bao giờ.
Hắn đã ở trong cô, còn làm cô đau đớn hơn cả gã kia, ghì chặt hai mông cô và đè thân thề cô xuống nền đất lạnh, cho đến lúc sự đau đớn tưởng chừng như không thể chịu đựng được nữa.
Mình và gia đình sẽ sống ở một trang trại, một nơi luôn vắng lặng và thanh bình, và có một mảnh vườn với những bông hoa xinh đẹp.
Zemsky đã xong và nhìn lên người bạn đồng nghiệp.
- Tôi cảm thấy cô ta sướng. - Hắn cười. Rồi cúi xuống tóm lấy đầu Olga và bẻ gẫy cổ cô.
Ngày hôm sau, trên tờ báo địa phương có mẩu tin về việc một cô thủ thư bị hiếp và bị giết chết trong công viên. Kèm theo đó là một lời cảnh cáo nghiêm khắc của giới chức trách rằng những cỏ gái trẻ đi một mình vào công viên buổi tối là rất nguy hiểm.
Điện khẩn.
Tối mật.
Phó giám đốc GRU gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
8. Olga Romanchanko - Kiev - Đã bị thủ tiêu
 
CHƯƠNG 32 -
Williard Stone và Monte Banks là những kẻ thù tất yếu. Cả hai đều là những con thú ăn thịt tàn bạo, và cánh rừng mà chúng đang lảng vảng rình rập là những bức tường đá cao ngất trên Wall Strees, với những chủ nhân đầy quyền lực, những ông chủ tài chính cỡ bự và những vụ chuyển nhượng cổ phiếu khổng lồ.
Hai người đã đụng độ nhau lần đầu tiên trong vụ dành giật một công ty có lợi nhuận lớn. Williard Stone đã thắng thầu lần đầu và hy vọng là không có trục trặc gì. Ông ta có thế lực quá mạnh và tiếng tăm của ông ta khủng khiếp đến độ ít ai dám đương đầu nên đã rất đỗi ngạc nhiên khi được biết có một nhà doanh nghiệp trẻ tên là Monte Banks đang tranh thầu với ông Stone buộc phải nâng thầu và số tiền cứ cao lên mãi. Sau cùng Williard Stone cũng dành được quyền kiểm soát công ty đó, nhưng với lãi suất thấp hơn nhiều so với dự tính.
Sáu tháng sau, trong một cuộc bỏ thầu để mua lại một hãng điện tử lớn, Stone lại chạm chán Monte Banks.
Giá thầu cứ leo lên mãi và lần nầy thì Banks thắng.
Khi Williard Stone biết Monte Banks dự định cạnh tranh với mình để dành quyền kiềm soát một hãng máy tính, ông ta quyết định đã đến lúc phải đối mặt với đối thủ. Hai người đàn ông gặp nhau trên mảnh đất trung lập ở đảo Paradise thuộc bang Bahamas.
Williard Stone đã cho điều tra kỹ lưỡng về lai lịch của địch thủ và biết rằng Monte Banks xuất thân từ một gia đình kinh doanh dầu mỏ giầu có và đã khôn khéo thương lượng để đưa di sản thừa kế của anh ta vảo một tổ hợp quốc tế.
Hai người ngồi vào bàn ăn trưa. Williard Stone, già và khôn ngoan, còn Monte Banks thì trẻ và hăng hái.
- Anh đang trở thành một cái ung nhọt nhức nhối đấy! - Williard mở đầu câu chuyện.
Từ miệng ông nói ra thì đó là một lời khen ngợi lớn Monte Banks mỉm cười.
- Anh muốn gì?
- Như ông thôi. Tôi muốn làm chủ thế giới nầy.
- Ồ, thế giới nầy đủ lớn. - Williard Stone trầm ngâm nói.
- Nghĩa là thế nào?
- Có đủ chỗ cho cả hai chúng ta.
Đó là ngày mà họ trở thành bạn của nhau. Mỗi người đều thành công trong việc kinh doanh của mình một cách riêng rẽ, nhưng mỗi khi có những đề án mới - gỗ, dầu, bất động sản - thì họ lại phối hợp với nhau, thay vì đối chọi. Đã vài lần Cơ quan chống kinh doanh bất hợp pháp của Bộ Tư pháp đã cố ngăn chặn những vụ làm ăn của họ, nhưng các mối quen biết của Williard Stone đã luôn tỏ ra có ích. Monte Banks là chủ của những công ty hoá chất phải chịu trách nhiệm trước sự ô nhiễm môi trường tràn lan trên các sông hồ, nhưng khi anh ta bị truy tố, thì bản cáo trạng lại bị bỏ lửng một cách bí ẩn.
Hai người đàn ông đó có một mối quan hệ cộng sinh hoàn hảo.
Chiến Dịch Ngày Tận Thế là lẽ đương nhiên đối với họ, và cả hai đều tham gia nhiều vào nó. Họ đang sắp kiếm được một hợp đồng mua mười triệu mẫu rừng xanh tốt trong vùng nhiệt đới Amazon. Đó sẽ là một trong những hợp đồng béo bở nhất mà họ kiếm được từ trước tới nay.
Họ không thể chấp nhận bất kỳ vật cản nào trên đường đi của mình.
 
CHƯƠNG 33 -
Ngày thứ mười ba.
Washington, D. C.
Thượng nghị viện Mỹ trong một kỳ họp toàn thể…
Vị thượng nghị sĩ trẻ từ bang Utah đang phát biểu và những gì đang xảy đến với hệ sinh thái của chúng ta là một điều ô nhục quốc gia. Đã đến lúc bộ máy vĩ đại nầy phải nhận ra rằng việc giữ gìn di sản quý báu mà các bậc tiền bối đã để lại chính là nghĩa vụ thiêng liêng của mình. Không chỉ là nghĩa vụ thiêng liêng mà còn là đặc quyền của chúng ta trong việc bảo vệ đất đai, không khí, và các vùng biển khơi bị phá huỷ trước những lợi ích đặc quyền ích kỷ. Và chúng ta có làm điều nầy không? Chúng ta có làm việc một cách tốt nhất với tất cả lương tâm của mình không? Hay chúng ta cho phép uy lực của đồng tiền chi phối mình.
Kevin Paker, ngồi trong phòng dành cho khách thăm, đã đưa mắt nhìn đồng hồ tới lần thứ ba trong vòng năm phút. Ông ta sốt ruột, không hiểu bài diễn văn sẽ còn kéo dài bao lâu nữa. Ông ta ngồi chờ chỉ bởi lẽ sắp đến giờ dùng bữa trưa với vị thượng nghị sĩ mà ông cần nhờ giúp đỡ. Kevin Pakker thích thú với việc đi ngang qua những hành lang quyền lực, chén chú chén anh với các ông nghị, tiêu xài phóng tay để đổi lấy những ân huệ chính trị.
Ông ta lớn lên trong nghèo đói ở Eugene, tiểu bang Oregon. Cha là người nghiện rượu, có một kho chữa gỗ nhỏ và đã biến cái nhẽ ra là một sự kinh doanh ăn phát đạt thành một thảm hoạ. Cậu con trai phải làm việc từ tuổi mười bốn, và bởi vì mẹ cậu đã bỏ đi theo một người đàn ông khác từ mấy năm trước, nên cậu đã không hề có đời sống gia đình. Paker dễ dàng có thể trở thành một kẻ lang bạt và kết thúc giống như ông bố, thế nhưng cứu cánh của cậu ta lại là cái vẻ đẹp trai và thêm nữa, rất có cá tính. Paker có mái tóc vàng lượn sóng và dáng dấp rất quý tộc mà hắn là thửa hưởng của ông cụ tổ lâu đời nào đó.
Một người giầu có trong thị trấn tiếc cho cái vẻ ngoài đó đã dành cho cậu ta việc làm và nhiều sự khích lệ. Người giầu có nhất thị trấn, Jch Goodspell, đặc biệt nhiệt tình giúp đỡ Paker và đã dành cho cậu ta một việc làm ngoài giờ tại một trong những công ty của mình, và là một người độc thần, ông ta thường mời Paker đến cùng ăn tối tại nhà.
- Cậu có thể thành đạt trong xã hội nầy đấy, - Goodspell nói, - nhưng cậu không thể làm nên nếu không có bạn bè.
- Tôi biết thế, thưa ngài. Và tất nhiên đầu tiên là tôi biết ơn thiện chí của ngài.
- Tôi có thể làm cho cậu nhiều hơn nữa, - Goodspdll nói. Họ đang ngồi trên chiếc đi-văng trong phòng khách, sau bữa ăn tối. Ông ta quàng tay ôm lấy cậu. - Còn nhiều nữa. - Ông ta bóp vai cậu. - Cậu có một thân hình đẹp, cậu biết thế không?
- Cám ơn ngài.
- Cậu có bao giờ cảm thấy cô đơn không?
- Thưa ngài, có. Lúc nào tôi cũng cô đơn.
- Ồ, cậu không phải cô đơn nữa. - Ông ta ve vuốt cánh tay cậu. Tôi cũng thấy cô đơn, cậu biết đấy. Người ta cần có ai đó để được ôm ấp, vuốt ve.
- Vâng, thưa ngài.
- Cậu đã có cô bạn gái nào chưa?
- Có tôi có đi cùng Sue Ellen một dạo.
- Cậu đã ngủ với con bé chưa?
- Không, thưa ngài. - Cậu đỏ bừng mặt.
- Kevin, cậu bao nhiêu tuổi rồi hả?
- Thưa ngài, mười sáu ạ.
- Đó là lứa tuổi tuyệt vời. Đã đến lúc cậu phải khởi đầu một sự nghiệp. - Ông ta quan sát Paker một thoáng. - Tôi cam đoan là cậu sẽ rất khá trong lĩnh vực chính trị.
- Chính trị ư? Thưa ngài, tôi không biết gì về nó cả.
- Vậy nên cậu sẽ phải đi học. Và tôi sẽ giúp cậu.
- Cám ơn ngài.
- Có rất nhiều cách để tỏ lòng biết ơn với người khác, - Goodspell nói. Ông ta xoa xoa dọc đùi cậu bé. - Nhiều cách. - Ông ta nhìn vào mắt Paker. - Cậu có hiểu ý tôi không.
- Có Jeb ạ.
Đó là lúc bắt đầu.
Khi Kevin tốt nghiệp trường trung học Churchill, Goodspell gửi cậu đến Đại học Oregon. Cậu nghiên cứu môn khoa học chính trị, và Goodspell thu xếp để người được ông ta bảo hộ được gặp mặt những nhân vật cần thiết. Họ đều có ấn tượng tốt với người thanh mên đầy vẻ hấp dẫn. Với những mối quan hệ của mình, Paker thấy mình có thể gắn kết lại những nhân vật quan trọng với nhau. Việc trở thành một chuyên gia vận động hành lang ở Washington là một bước tự nhiên, và Paker rất thạo việc.
Goodspell đã chết trước đó hai năm, nhưng lúc ấy thì Paker cũng đã có được một tài năng với một sở thích đối với công việc mà người đỡ đầu đã truyền dạy anh. Anh ta thích kiếm những cậu trai trẻ và đưa tới những khách sạn khuất nẻo, nơi mà anh ta không bị nhận mặt.
Vị thượng nghị sĩ tiểu bang Utah rốt cuộc cũng đang kết thúc bài phát biểu:
- … và bây giờ tôi nói với các ngài rằng, sẽ phải thông qua dự luật nầy nếu muốn cứu những gì còn lại trong hệ sinh thái của chúng ta. Vào lúc nầy tôi muốn đề nghị một cuộc bỏ phiếu công khai.
Ơn Chúa, buổi họp vô tận nầy đã sắp kết thúc.
Kevin Paker nghĩ đến một buổi tối đang chờ đón ông ta, và bắt đầu thấy hứng tình. Đêm hôm trước, ông ta đã gặp một cậu trai trẻ ở tiệm Danny P. Street Station, một tiệm dành cho những kẻ đồng tính luyén ái nổi tiếng. Thật không may là cậu trai kia đã có bạn. Nhưng buổi tối đó họ đã để ý đến nhau, và trước khi ra đi, Paker đã viết mấy chữ và luồn vào tay cậu ta. Một dòng chữ đơn giản "Đêm mai nhé". Cậu ta đã mỉm cười và gật đầu.
Kevin Paker vội vã mặc quần áo để đi. Ông ta muốn có mặt trước khi cậu trai trẻ kia đến. Cậu ta thật quá hấp dẫn, và Paker không muốn để ai đó nẫng mất. Chuông cửa réo vang. Mẹ kiếp. Paker ra mở cửa.
Một người lạ đang đứng đó.
- Kevin Paker?
- Phải.
- Tên tôi là Bellamy. Tôi muốn nói chuyện với ông một phút.
- Ông phải hẹn trước với thư ký của tôi. Tôi không bàn công việc sau giờ làm việc. - Paker nóng nảy nói.
- Đây không hẳn là công việc, ông Paker. Nó liên quan tới chuyến đi Thuỵ Sĩ của ông cách đây một hai tuần.
- Chuyến đi Thuỵ Sĩ của tôi à? Chuyện gì vậy.
- Cơ quan của tôi quan tâm tới một vài người mà có thể là ông đã gặp ở đó. Robert chìa tấm thẻ CIA giả của anh ra.
Kevin Paker quan sát người khách một cách thận trọng hơn. CIA có thể muốn gì ở ông ta nhỉ? Ở đâu bọn họ cũng thò mũi vào. Mình có để hở sườn không nhỉ?
Không nên chọc tức người nầy một tí nào cả. Ông ta mỉm cười.
- Mời vào. Tôi đang vội vì một cuộc hẹn, nhưng ông nói là sẽ không quá một phút phải không?
- Không, thưa ông. Tôi tin là ông đã đi một chuyến xe bus du lịch ra khỏi Zurich?
Vậy là cái chuyện đó. Chuyện cái đĩa bay kia đây. Đó là cái thứ khủng khiếp nhất mà ông ta đã từng nhìn thấy.
- Ông muốn biết về cái đĩa bay đó phải không ạ, tôi muốn nói để ông biết đó là một hiện tượng phi thường.
- Hắn là thế, nhưng nói thẳng là cơ quan chúng tôi không tin vào chuyện đĩa bay. Tôi tới đây để xem ông có thể nói gì cho tôi biết về những du khách cùng đi trên chuyến xe bus đó.
- Ồ chuyện đó thì tôi sợ là không thể giúp được ông. Tất cả họ đểu là những người lạ cả. - Paker giật mình.
- Tôi biết thế, ông Paker, - Robert nhẫn nại nói, - nhưng ông hẳn có nhớ điều gì về họ chứ.
- Có một đôi chút… Tôi nhớ là có trao đổi vài lời với một tay người Anh đã chụp ảnh cho chúng tôi. - Paker nhún vai.
Leslie Mothershed.
- Ai nữa?
- Ồ vâng. Tôi có nói chuyện chút xíu với một cô gì Nga. Cô ta có vẻ rất dễ chịu. Tôi nghi rằng cô ta làm nghề giữ thư viện ở đâu đó.
Olga Romanchanko.
- Thật tuyệt ông còn có thể nhớ tới ai nữa không, ông Paker?
- Không, tôi cho rằng thế là… - À, có hai người đàn ông. Một là người Mỹ, một ông Texas.
Dan Wyane.
- Và người kia?
- Ông ta là một người Hungary, chủ một gánh tạp kỹ, hay xiếc hay một thứ đại loại là như thế. - Ông ta cố nhớ. Đó là một gánh tạp kỹ.
- Ông có chắc thế không, ông Paker?
- Ồ chắc. Ông ta còn kề cho tôi nghe vài chuyện về công việc của mình mà. Chắc chắn là ông ta rất hồi hộp khi trông thấy cái đĩa bay ấy. Tôi nghĩ là nếu được thì ông ta đã mang nó về gánh hát của mình để làm một tiết mục phụ rồi. Tôi phải thừa nhận rằng đó là một cảnh thật kinh khủng. Đáng ra tôi phải nói về chuyện nầy nhưng tôi không thể chịu được việc bị lẫn vào cái đám người kỳ quặc nhận xằng là họ đã nhìn thấy những cái đĩa bay.
- Ông ta có tình cở cho ông biết tên mình hay không? Cái ông chủ gánh xiếc ấy.
- Có, nhưng đó là một trong những cái tên ngoại quốc không thể phát âm được. Tôi e là mình đã quên mất rồi.
- Ông còn nhớ gì nữa về ông ta không?
- Chỉ duy nhất có điều là ông ta rất vội trở về. - Ông ta đưa mắt nhìn đồng hồ. - Tôi còn có thể làm gì nữa cho ông không? Tôi đã bị muộn rồi đấy.
- Thôi, cảm ơn ông Paker. Ông đã giúp tôi rất nhiều.
- Có gì đâu ông ta cười một cách nhã nhặn với Robert. Ông phải ghé thăm tôi tại văn phòng một lúc nào đó. Chúng ta sẽ chuyện trò được lâu hơn.
- Thế nào tôi cũng đến.
Gần xong rồi, Robert nghĩ. Họ có thể nhận lấy công việc của mình và giao nó cho người khác. Đã đến lúc thu vén những gì còn lại của đời mình và bắt đầu lại từ đầu.
Robert gọi điện thoại cho tướng Hilliard.
- Tôi đã gần xong rồi, thưa tướng quân. Tôi đã tìm ra Kevin Paker. Ông ta là một chuyên gia vận động hành lang ở Washington, D.C. Tôi đang trên đường để xác minh nốt người khách cuối cùng.
- Tôi rất hài lòng, - tướng Hilliard nói. - Ông đã làm việc một cách tuyệt vời, ông sĩ quan. Hãy trở về chồ tôi càng sớm càng tốt.
- Vâng thưa ngài.
Điện khẩn.
Tối mật.
NSA gửi Phó giám đốc CIA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
9. Kevin Paker - Washington, D. C.
Hết.
Khi Kevin Paker đến quán Danny, ông ta thậm chí thấy còn đông khách hơn cả tối hôm trước. Những người đàn ông lớn tuổi thì mặc những bộ đồ nghiêm túc trong khi hầu hết những người trẻ tuổi thì chỉ quần bò, áo thể thao và đi giày ống. Có một số ít trông không giống ai, mặc những bộ áo liền quần bằng da màu đen, và Paker luôn cảm thấy ghê tởm những "của" đó. Những động tác thô bạo là rất nguy hiểm và ông ta chưa bao giờ lao vào cái thứ sống gấp kỳ quặc đó.
Thận trọng, đó luôn luôn là khẩu hiệu của ông ta. Thận trọng. Cậu thanh niên đẹp trai kia vẫn chưa có ở đó nhưng Paker cũng không sốt ruột. Cậu ta sẽ đến sau, đẹp và tươi trẻ, khi những người khác đều đã mệt mỏi với những th.ân thể ướt đẫm mồ hôi.
Kevin Paker bước lại quầy rượu, gọi một ly và nhìn quanh. Các màn ảnh tivi trên tường đang truyền những hình ảnh của đài truyền hình MTW. Danny là một quán S và M - đứng và làm dáng. Những người trẻ tuổi lựa những dáng đứng tỏ ra quyến rũ nhất, trong khi những người già nua - người mua - sẽ ngắm nghía họ và chọn lựa. Những quán S và M là loại thượng hạng nhất. Không bao giờ có những vụ ẩu đả ở đó bởi lẽ hầu hết khách hàng đều mang theo những chiếc răng bọc vàng, và họ không khi nào muốn bị đánh gãy răng cả.
Kevin Paker để ý thấy rằng nhiều vị khách đã chọn được bạn chơi của họ. Ông ta lắng nghe những câu chuyện quen thuộc ở xung quanh, và thích thú là nó vẫn rất quen thuộc, cho dù nó diễn ra ở tiệm rượu tiệm nhảy, quán vidéo, hay ở những câu lạc bộ ngầm tuần nào cũng thay đổi địa điểm. Đó là một thứ tiếng lóng riêng biệt.
"Nữ hoàng đó thì nước non gì. Cô ta nghĩ mình là tất cả.
"Hắn xả vào tôi không phải lúc. Hắn ta giận dữ khủng khiếp. Nói những chuyện tế nhi…
"Bạn thích trên hay dưới?
"Trên. Tôi phải gọi hàng đã, em gái búng những ngón tay.
"Tốt. Tớ thích họ.
"Hắn tưởng tớ là cái đầu lọc… Đúng, đó là lối tớ về cân nặng, nước da, thái độ. Tớ bảo, "Mary, Thưa chúng ta thế là xong". Nhưng cũng đau. Vì thế nầy tớ tới đây đêm nay, cố gắng kiếm hắn nhé. Tôi có thể có thêm một ly được không?
Lúc 1 giờ sáng, cậu thanh niên kia bước vào. Cậu ta nhìn quanh và trông thấy Paker, bèn đi tới bên ông ta. Cậu ta còn xinh trai hơn là Paker nghĩ.
- Xin chào.
- Xin chào. Xin lỗi, tớ hơi muộn.
- Không sao. Tôi đợi được mà.
Chàng thanh niên rút ra một điều thuốc lá và chờ người đàn ông lớn tuổi châm lửa cho.
- Tôi đã luôn nghĩ đến cậu. - Paker nói.
- Thế hả?
Cặp lông mi của cậu ta thật lạ thường.
- Đúng thế, tôi có thể gọi cho cậu một ly chứ~
- Nếu ông thấy vui với điều đó.
- Cậu có thích làm cho tôi sung sướng không? - Paker mỉm cười.
Cậu ta nhìn thẳng vào mắt ông ta và dịu dàng nói:
- Tôi nghĩ thế.
- Tôi nhìn thấy người đàn ông đi cùng cậu ở đây đêm qua. Ông ta không hợp với cậu.
- Vậy ông sẽ hợp với tôi chứ?
- Có thể lắm. Tại sao chúng ta không thử xem nhỉ? Cậu có muốn đi dạo một chút không?
- Được đấy!
Paker rộn lên vì hồi hộp.
- Tôi biết một nơi ấm cúng và không bị ai quấy rầy.
- Tốt đấy. Tôi sẽ không uống rượu kia nữa.
Khi họ vửa bước về phía cửa trước thì hai cánh cửa đột nhiên mở toang và hai thanh niên vạm vỡ bước vào quán. Họ chắn lối cậu thanh niên.
- Đây rồi đồ chó đẻ. Tiền mầy nợ tao đâu?
- Tôi không hiểu anh định nói gì. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy anh… - Cậu ta nhìn lên, ngơ ngác.
- Đừng có nói với tao cái kiểu cứt đái đó. - Gã kia túm lấy vai cậu và lôi ra ngoài phố.
Paker giận dữ nhìn theo. Ông ta những muốn can thiệp nhưng lại không dám dính vào bất kỳ thứ gì có thể dẫn đến một vụ bê bối. Ông ta đứng chôn chân tại chỗ nhìn cậu bé mất hút vào bóng đêm.
Gã thứ hai mỉm cười với Kevin vẻ thông cảm.
- Ông nên chọn bạn cẩn thận hơn. Cậu ta là điềm gở đấy!
Paker nhìn người đang nói một cách kỹ hơn. Gã có mái tóc vàng và khá hấp dẫn, với một hình thể gần như tuyệt hảo. Paker có cảm nghĩ rằng sau cùng thì chưa hẳn là đã mất toi buổi tối nay.
- Có thể là cậu nói đúng, - Ông ta nói.
- Chúng ta không bao giờ biết số phận dành sẵn cho mình những gì, phải không nào? - Gã nhìn vào trong mắt Paker.
- Đúng thế Tôi là Tom. Tên cậu là gì?
- Paul.
- Paul nầy, tôi có thể mời cậu một ly chứ?
- Cám ơn ông.
- Cậu có chương trình đặc biệt gì cho tối nay không?
- Cái đó tuỳ ở ông.
- Cậu có muốn cùng qua đêm nay với tôi không?
- Nghe được đấy.
- Chúng ta đang nói đến bao nhiêu tiền ấy nhỉ?
- Tôi thích ông. Với ông thì hai trăm.
Ba mươi phút sau, Paul dẫn Kevin Paker vào trong một toà nhà cũ trên phố Jefferson. Họ lên thang gác, tới tầng ba và đi vào một căn phòng nhỏ. Paker nhìn quanh.
- Tuềnh toàng nhỉ? Vào một khách sạn thì hơn.
Paul nhoẻn cười.
- Ở đây riêng tư hơn. Ngoài ra thì chúng ta chỉ cần một cái gi.ường thôi mà.
- Cậu nói đúng. Sao cậu không cởi quần áo ra đi? Tôi muốn nhìn thứ mà tôi đang mua.
- Tất nhiên. - Paul bắt đầu cởi. Gã có một th.ân thể tuyệt vời Paker nhìn gà và cảm thấy sự đòi hỏi quen thuộc bắt đầu dâng lên.
Bây giờ ông cởi quần áo đi, - Paul thì thầm. - Nhanh lên, tôi thèm muốn ông.
- Tôi cũng thèm muốn em, Mary. - Paker bắt đầu cởi quần áo.
- Ông thích kiểu gì? - Paul hỏi. - Trên hay dưới?
Chúng ta hãy dạo đầu một chút đã. Xin lỗi về lối nói cầu kỳ. Chúng ta có cả đêm mà.
- Tất nhiên. Tôi vào buồng tắm. - Paul nói. - Tôi sẽ trở lại ngay thôi.
Paker nằm trần truồng trên gi.ường, chờ đợi những lạc thú tuyệt diệu sắp đến. Ông ta nghe thấy tiếng người bạn chơi ra khỏi buồng tắm và đi về phía gi.ường. Ông ta giang tay ra.
- Lại đây với tôi, Paul, - Ông ta nói.
- Tôi đến đây.
Và Paker cảm thấy đau nhói khi có một lưỡi dao cắm vào ngực. Hai mắt ông ta mở bừng ra, rồi ngước lên, ngáp ngáp.
- Lạy Chúa, cái gì…?
Paul mặc quần áo vào.
- Đừng bận tâm về chỗ tiền, - gã nói. - Đó là tiền phòng.
Điện khẩn.
Tối mật.
CIA gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
9. Kevin Paker - Washington D.C - Đã bị thủ tiêu
Hết.
Robert Bellamy không kịp nghe bản tin tối bởi vì anh đã ở trên một chuyến bay đi Hungary đề tìm kiếm người chủ gánh tạp kỹ.
 
CHƯƠNG 34 -
N
gày thứ mười bốn.
Buđapest
Chuyến bay từ Paris đến Buđapest bằng Hàng không Malév mất hai giờ năm phút. Robert không biết gì mấy về Hungary trừ một điều rằng trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nước nầy là đồng minh trong phe Trục, và sau đó đã trở thành một chư hầu của Nga. Robert đi chuyến xe bus của sân bay về trung tâm Buđapest, và đầy ấn tượng với những gì anh thấy. Những toà nhà cũ và lối kiến trúc cổ kính. Toà nhà Quốc hội trên phố Rudolph là một công trình kiến trúc lớn theo kiểu Gôtích mới, vượt hẳn lên trên thành phố, còn trên đồi Castle là Cung điện Hoàng gia. Đường phố đầy ắp những xe cộ và những người đi mua hàng.
Chiếc xe bus dừng lại trước khách sạn Duna In tercontinental. Robert đi vào trong tiền sảnh và tiến đến bên quầy lễ tân.
- Xin lỗi, - Robert nói, - Ông có nói được tiếng Anh không?
- Igan. Có, Tôi có thể làm gì cho ông ạ?
- Một người bạn tôi đã đến Buđapest cách đây ít ngày, và anh ta khoe rằng đã được xem một buổi trình diễn tạp kỹ tuyệt vời. Tôi rất muốn được xem nó một lần. Ông có thể bảo cho tôi biết phải tìm nó ở đâu không?
Người lễ tân chau mầy.
- Tạp kỹ à? - Ông ta lấy ra một tấm bản đồ và nhìn nhanh trên đó. - Xem nào. Tại Buđapest lúc nầy, chúng tôi có một nhà hát opera, mấy nhà hát kịch, ballet, các tuyến du lịch thành phố đêm và ngày, những chuyến du ngoạn về nông thôn. - Ông ta nhìn lên. - Xin lỗi. Không có tạp kỹ.
- Ông có chắc thế không?
Người kia đưa bản danh sách cho Robert.
- Ông hãy tự nhìn xem.
Nó được viết bằng tiếng Hungary.
- Thôi được. Tôi có thể nói với ai khác về chuyện nầy không? - Robert trả lại cho ông ta.
- Bộ Văn hoá may ra có thể giúp ông được.
Ba mươi phút sau, Robert đã đang nói chuyện với một nhân viên trong văn phòng của Bộ Văn hoá.
- Không có gánh tạp kỹ nào ở Buđapest. Ông có chắc rằng bạn ông xem ở Hungary không?
- Chắc.
- Nhưng anh ta không nói rõ ở đâu à?
- Không.
- Tôi xin lỗi. Tôi không thể giúp gì cho ông. - Người nhân viên có vẻ sốt ruột. - Nếu không còn gì khác thì…
- Không. - Robert đứng dậy. - Cảm ơn ông. - Anh ngập ngừng. - Tôi còn một câu hỏi nữa. Nếu như tôi muốn mang một gánh xiếc hoặc một gánh tạp kỹ vào Hungary, tôi có phải xin phép trước không?
- Tất nhiên.
- Tôi sẽ làm việc đó ở đâu?
- Cơ quan đăng ký Buđapest.
Toà nhà của cơ quan cấp giấy phép nằm ở khu Buda gần bức tường thành thời Trung cổ. Robert phải đợi ba mươi phút trước khi anh được đưa vào phòng của một quan chức trông đầy vẻ trịnh trọng và vênh vang.
- Tôi có thể giúp ông gì nhỉ?
Robert mỉm cười.
- Tôi hy vọng là thế. Tôi không muốn làm mất thời gian của ông với một việc bình thường cỏn con nầy, nhưng tôi tới đây cùng với con trai tôi và nó có nghe về một gánh tạp kỹ đang biểu diễn đâu đó ở Hungary, và tôi đã hứa đưa nó đi xem. Ông biết trẻ con sẽ thế nào khi mà nó nghĩ một chuyện gì đó trong đầu rồi đấy.
- Thế ông muốn tôi giúp về việc gì vậy?
- Ồ nói thật với ông, dường như không có ai biết gánh tạp kỹ đó đang ở đâu, và Hungary là một đất nước lớn và tươi đẹp đến thế,… Ồ, người ta bảo tôi rằng nếu có ai đó biết mọi chuyện ở Hungary thì người đó chính là ông.
Vị quan chức gật đầu.
- Đúng. Không có những thứ như vậy được phép trình diễn nếu không có giấy phép. - Ông ta ấn nút chuông và một thư ký bước vào. Một cuộc trao đổi ngắn bằng tiếng Hungary. Cô thư ký đi ra và trở lại sau hai phút với một số giấy tờ. Cô ta trao chúng cho vị quan chức kia. Ông ta xem qua rồi nói với Robert, - Trong ba tháng vừa qua, chúng tôi đã cấp giấy phép cho hai gánh tạp kỹ. Một đã đóng cửa cách đây một tháng.
- Còn gánh kia?
Gánh kia hiện đang biểu diễn ở Sorpon. Một thị trấn nhỏ gần biên giới với Đức.
- Ông có tên của người chủ gánh không?
- Bushfekete. Laslo Bushfekete. - Vị quan chức lại nhìn vào tờ giấy.
Lasol Bushfekete đang có những ngày sung sướng nhất trong đời. Trên đời, có ít người may mắn để được làm đúng những việc mà mình muốn làm, và Lasol Bushfekete là một trong số ít những người may mắn đó. Với chiều cao chừng một mét tám và nậng gần một trăm năm chục cân, Bushfekete nom khá to béo.
Ông ta chưng diện một cái đồng hồ đeo tay nạm kim cương, những chiếc nhẫn kim cương và một cái dầy chuyền vàng to tướng. Bố ông ta có một gánh tạp kỹ nhỏ, và khi chết đi, đã để lại cho con trai. Nó là cuộc sống duy nhất của ông ta.
Lasol Bushfekete có những giấc mơ lớn. Ông ta tính mở rộng gánh tạp kỹ nhỏ của mình thành một trong những gánh tạp kỹ lớn nhất châu Âu. Ông ta muốn được biết tới như là một ông vua của trò tạp kỹ. Tuy nhiên, lúc nầy thì ông ta chỉ có thể có những trò hấp dẫn thường thấy: Người đàn bà béo và Người đàn ông xăm mình. Hai anh em song sinh người Xiêm và Các xác ướp một nghìn năm, được đào lên từ đáy những lăng mộ ở Ai Cập cổ đại. Rồi có trò Nuốt gươm, Ăn lửa và có Marika, cô gái nhỏ bé duyên dáng với tiết mục thôi miên rắn. Nhưng sau cùng thì chẳng qua họ cũng chỉ như một gánh hát rong.
Bây giờ, chỉ qua một đêm, tất cả những thử đó sắp thay đổi. Giấc mơ của Lasol Bushfekete sắp biến thành sự thật.
Lasol đã đi Thuỵ Sĩ để quan sát một nghệ sĩ ảo thuật mà ông được nghe tới. Trong tiết mục nầy, người nghệ sĩ được bịt mắt, khoá hai tay, nhất vào trong một cái thùng nhỏ, rồi lại được bỏ vào trong một cái hòm lớn và sau cùng, tất cả được bỏ vào trong một cái bể đầy nước. Nghe qua điện thoại thì có vẻ thật hấp dẫn, nhưng khi xem tận mắt thì Bushfekete thấy có một điều không thể chấp nhận được: Người biểu diễn phải mất ba mươi phút để thoát ra ngoài. Không có khán giả nào trên thế giới nầy lại ngồi nhìn một cái hòm trong một cái bể nước suốt ba mươi phút.
Chuyến đi đó đã có vẻ hoàn toàn là một sự lãng phí về mọi thứ. Lasol Bushfekete đã quyết định làm một chuyến du ngoạn để giết thời gian chờ tới chuyến bay trở về. Và hoá ra nó đó đã làm thay đổi cuộc đời ông ta.
Giống như những du khách cùng đi, Bushfekete đã nhìn thấy vụ nổ và chạy băng qua cánh đồng đề cố gắng giúp cho những người nào còn sống sốt trong cái mà tất cả bọn họ đều nghĩ là một vụ tai nạn máy bay. Nhưng cái cảnh ngộ mà ông ta đã nhìn thấy thật là khủng khiếp. Không còn nghĩ ngờ gì, đó chính là một cái đĩa bay và trong đó là hai cái xác nhỏ bé, kỳ lạ. Những du khách đứng há hốc mồm ra nhìn.
Lasol Bushfekete thì đi vòng quanh để xem xét phía sau cái đĩa bay đó trông như thế nào, và rồi ông ta đã đứng dừng lại, trợn mắt nhìn. Khoảng ba mét phía sau cái xác con tàu, nằm trên mặt đất khuất tầm nhìn của các du khách khác, là một bàn tay nhỏ xíu bị cắt rời với sáu ngón tay và hai ngón cái đối nhau.
Thậm chí không nghĩ ngợi gì, Bushfekete rút khăn mùi xoa ra, bọc lấy cái bàn tay kia và chuồn nó vào trong cái túi hồ lô của mình. Tim ông ta đập như phát rồ. Ông ta đã có bàn tay của một sinh vật ngoài trái đất thật sự. Từ nay trở đi, mi có thể quên tất cả những người đàn bà béo, những người đàn ông xăm mình, những người nuốt gươm và ăn lửa, ông ta nghĩ. Hãy bước lên nào, các quý bà và quý ông, để được thưởng thức một lần trong đời. Cái mà các vị sẽ thấy là một thứ chưa hề có ai nhìn thấy bao giờ. Chắc vị sẽ nhìn thấy một trong những vật kỳ diệu nhất của vũ trụ.
Đó không phải là một động vật. Đó không phải là một thực vật. Đó không phải là một khoáng vật. Đó là cái gì ư? Đó là một bộ phận của thi thể một người hành tinh khắc… một sinh vật từ vũ trụ tới… Thưa các quý bà, quý ông, đây không phái là chuyện khoa học viễn tưởng, đây là chuyện có thật. Với 500 forint, các vị có thể chụp ảnh…
Và ỗng ta sực nhớ. Ông ta hy vọng là cái thằng cha thợ ảnh đã có mặt ở nơi xảy ra vụ tai nạn sẽ nhở gửi tấm ảnh mà hắn đã hứa. Ông ta sẽ cho phóng to lên và để cạnh nơi trưng bày. Điều đó thật hấp dẫn. Cái nghề mua vui cho thiên hạ. Cưộc đời là thế đó. Cái nghề mua vui cho thiên hạ.
Ông ta nóng lòng trở lại Hungary để bắt đầu thực hiện giấc mơ vĩ đại của mình.
Khi về tới nơi và mở cái khăn mùi xoa ra, ông ta thấy rằng cái bàn tay kia đã héo đi. Nhưng khi ông ta rửa sạch bụi đất, thì thật ngạc nhiên, nó lại trở nên nguyên vẹn như lúc ban đầu.
Bushfekete đã giấu bàn tay vào một nơi an toàn và đặt làm một cái hòm kính choáng lộn với một cái máy giữ ẩm riêng cho nó. Khi đã trưng bày nó xong ở gánh tạp kỹ, ông ta sẽ cùng với nó đi khắp châu Âu, khắp thế giới. Ông ta sẽ tổ chức trưng bày ở các bảo tàng. Ông ta sẽ có các buổi giới thiệu riêng cho các nhả khoa học, thậm chí có thể là cho cả các nguyên thủ quốc gia nữa. Và ông ta sẽ bắt tất cả bọn họ phải trả tiền. Cái tài sản huyền thoại của ông là không có giới hạn nào hết.
Ông ta đã không hề nói với ai về vận may của mình, ngay cả với người tình của ông ta, Marika, cô vũ nữ xinh đẹp đầy gợi cảm thường biểu diễn với những chú hổ mang và những chú rắn phì, hai loài rắn độc nguy hiểm nhất. Tất nhiên là những cái răng độc của chúng đã bị nhổ đi nhưng khán giả thì không biết điều đó vì Bushfekete cũng có giữ một con hổ mang vằn còn nguyên những chiếc răng độc. Ông ta để con rắn cho dân chúng xem không mất tiền, và nó giết chết những con chuột trước mắt họ. Chẳng có gì ngạc nhiên khi khán giả đều rợn người nhìn Marika xinh đẹp để cho những con rắn trườn trên tấm thân hở hang đầy khêu gợi của cô. Hai hoặc ba đêm trong một tuần, Marika đến lều của Bushfekete và bò trườn lên người ông ta, với cái lưỡi mềm mại như của một con rắn. Họ đã làm tình với nhau đêm hôm trước và Bushfekete vẫn còn mệt mỏi với những trò vật lộn tuyệt vời của Marika.
Dòng suy nghĩ của ông ta bị cắt ngang bởi một người khách.
- Ông là Bushfekete?
- Ông đang nói với ông ta đấy. Tôi có thể làm gì cho ông nào?
- Tôi biết là ông mới từ Thuỵ Sĩ về tuần trước.
Bushfekete lập tức cảnh giác ngay. Có người nhìn thấy mình nhặt cái bàn tay ấy chăng?
- Có chuyện gì… gì thế?
- Ông đã đi chuyến xe bus chủ nhật trước phải không?
- Phải. - Bushfekete thận trọng đáp.
Robert Bellamy nhẹ cả người. Cuối cùng thì cũng xong. Đây là nhân chứng cuối cùng. Anh đã nhận một nhiệm vụ không thể làm nổi và đã làm xong nhiệm vụ đó. Một kết quả tuyệt vời, nếu như mình tự nói về nó. Chúng ta không hề biết họ ở đâu. Hay họ là ai và anh đã tìm ra tất cả. Anh cảm thấy trút được một gánh nặng kinh khủng. Giờ thì anh tự do. Tự do trở về nhà và bắt đầu một cuộc sống mới.
- Có chuyện gì về chuyến đi của tôi hả, thưa ông?
- Không quan trọng, - Robert trấn an ông ta.
Nó không còn quan trọng nữa. Tôi quan sát tới những bạn đồng hành của ông, ông Bushfekete, nhưng bây giờ thì tôi nghĩ tôi đã có tất cả những thông tin về họ, nên…
- Ôi, trời đất ơi! Tôi có thể nói tất cả về họ cho ông, - Lasol Bushfekete nói. - Có một tu sĩ từ Orvieto, Italia, một người Đức; tôi nghĩ ông ta là một giáo sư hoá học ở Munich, một cô gái Nga, làm trong một thư viện ở Kiev, một chủ trại ở Waco, Texas, một tay chủ nhà băng Canada, ở vùng Các lãnh thổ, vả một người chuyên vận động hành lang ở Washington D. C. Tên là Kevin Paker.
Lạy Chúa, Robert nghĩ. Nếu mình vớ được ông ta ngay từ đầu thì đã đỡ bao nhiêu thời gian. Người đàn ông nầy thật lạ lùng. Ông ta nhớ tất cả bọn họ.
- Ông có trí nhớ tốt thật, - Robert nói.
- Dạ, - Bushfekete cười. - Ồ, và người phụ nữ kia nữa chứ.
- Người phụ nữ Nga.
- Không, không, người phụ nữ khác. Dáng cao, mảnh mai, trong bộ đồ trắng tinh.
Robert nghĩ một chút. Không có ai khác nói tới một người phụ nữ thứ hai cả.
- Tôi nghĩ là ông nhầm.
- Không, tôi không nhầm, - Bushfekete bướng bỉnh. - Có hai người phụ nữ ở đó.
Robert bực bội.
- Khi tay thợ ảnh kia chụp cho chúng tôi trước cái đĩa bay, cô ta đứng ngay cạnh tôi. Cô ta đẹp lắm. - Ông ta ngừng lời. - Có điều tôi không nhớ là có nhìn thấy cô ta ở trên xe hay không. Có thể là cô tả ngồi đâu đó ở phía sau. Tôi còn nhớ là trông cô ấy hơi xanh. Tôi đã hơi lo cho cô ấy.
- Khi tất cả trở về xe thì ông có thấy cô ta không? - Robert chau mầy.
- Về điều nầy thì tôi không thể nói được, bởi tôi quá xúc động với cái đĩa bay nên không còn để tâm tới gì khác nữa.
- Có chuyện gì không ổn ở đây rồi. Có thể là có mười một nhân chứng chứ không phải mười chăng? Mình sẽ phải kiểm tra lại điều đó, Robert nghĩ.
- Cám ơn ông Bushfekete, anh nói.
- Có gì đâu. Chúc may mắn.
- Cám ơn, - Bushfekete mỉm cười. Ông ta không cần may mắn. Không cần nữa. Một khi đã có cái bàn tay của một sinh vật lạ thật sự trong tay mình.
Đêm hôm đó, Robert gửi báo cáo cuối cùng cho tướng Hilliard.
- Tôi đã có tên ông ta. Lasol Bushfekete. Ông ta có một gánh tạp kỹ đang lưu diễn ở Sorpon, Hungary.
- Đó là nhân chứng cuối cùng phải không?
- Vâng, thưa ngài. - Robert lưỡng lự một giây. Anh đã toan nói tới người khách thứ tám, nhưng rồi anh quyết định phải chờ cho tới khi kiểm tra lại đã. Điều đó không chắc đã có thật.
- Cám ơn, ông sĩ quan. Tốt lắm.
Điện khẩn.
Tối mật.
NSA gửi Phó giám đốc HRQ.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
10. Lasol Bushfekete.
Hết.
Họ đến lúc nửa đêm, khi gánh tạp kỹ đã đóng cửa.
Mười lăm phút sau họ ra đi, cũng lặng lẽ như khi đến.
Lasol Bushfekete mơ ông ta đang đứng trước cửa một cái lều trắng lớn, nhìn dòng người đông nghịt xếp hàng vào cửa mua vé với cái giá 500 forint.
Đi lối nầy, các bạn. Hãy xem một phần th.ân thể thật sự của một sinh vật từ ngoài vũ trụ. Không phải là một bức vẽ, không phải là một bức ảnh, mà là một phần thật sự của một người vũ trụ thật sự. Chỉ 500 forint để được thưởng thức một lần trong đời, một hình ảnh bạn sẽ không bao giờ quên.
Và rồi ông ta vào gi.ường với Marika, cả hai cùng trần truồng, và ông ta cảm thấy hai đầu vú của cô áp lên ngực, đầu lưỡi cô liếm láp trên th.ân thể và cô bò trườn trên khắp người ông ta. Rồi ông ta đưa tay ra với cô và hai bàn tay ông ta túm phải vật gì đó lành lạnh và trơn nhẫy. Ông ta tỉnh dậy và mở mắt, thét toáng lên, và đó chính là lúc con rắn hổ mang bổ xuống.
Người ta thấy xác ông ta vào buổi sáng hôm sau.
Cái lồng nhốt con rắn độc không bị bẻ răng trống rỗng.
Điện khẩn.
Tối mật.
HRQ gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
10. Lasol Bushfekete. Đã bị thủ tiêu
Hết.
Tướng Hilliard nhấc ống nghe trên cái máy điện thoại màu đỏ.
- Janus, tôi đã nhận được báo cáo cuối cùng từ sĩ quan chỉ huy Bellamy. Ông ta đã tìm ra nhân chứng cuối cùng. Tất cả đều đã được chăm sóc.
- Tuyệt vời. Tôi sẽ thông báo cho những nơi khác.
- Tôi muốn ông tiến hành ngay lập tức phần kế hoạch còn lại của chúng ta.
- Vâng, ngay lập tức đây.
Điện khẩn.
Tối mật.
NSA gửi Phó giám đốc: SIFAR, MI-6, GRU, CIA, COMSEC, DCI, CGHQ, BFV.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
11. Sĩ quan chỉ huy Robert Bellamy - thủ tiêu.
Hết.
 
CHƯƠNG 35 -
N
gày thứ mười lăm.
Robert Bellamy ở vào một tình thế tiến thoái lưỡng nan. Có thể có một nhân chứng thứ mười một không nhỉ? Và nếu có thì tại sao lúc trước không hề có ai khác nhắc tới cô ta? Người nhân viên bán vé cho chuyến xe bus đó đã nói với anh rằng chỉ có bẩy hành khách. Robert tin rằng tay chủ gánh tạp kỹ đã nhầm lẫn. Lờ nó đi thật là một việc dễ dàng với giả thiết rằng điều đó không có thật, nhưng quá trình huấn luyện của Robert lại không cho phép làm thế. Anh quả có kỷ luật. Câu chuyện của Bushfekete phải được kiểm tra lại. Bằng cách nào? Robert đã rất băn khoăn về chuyện đó. Hans Beckerman. Người lái chiếc sẽ đó sẽ biết.
- Anh đăng ký điện thoại gọi cho Hãng Sunshine. Trụ sở hãng đóng cửa. Trong danh bạ vùng Kapel không có một Hans Beckerman nào cả. Mình sẽ phải đi Thuỵ Sĩ một lần nữa và giải quyết chuyện nầy, Robert nghĩ. Mình không thể bỏ bất kỳ một dấu vết gì.
Khi Robert đến tới Zurich thì trời đã khuya. Bầu không khí lạnh và trong lành, trăng sáng. Robert thuê một chiếc xe và chạy theo con đường giờ đây đã quen dẫn tới cái làng Kapel nhỏ bé. Anh chạy ngang ngôi nhà thờ và dừng lại trước cửa nhà Hans Beckerman, hiểu rằng mình đang bám vào một sự cầu may. Căn nhà tối om. Robert gõ cửa và chờ. Anh gõ cửa một lần nữa, run lên vì không khí lạnh giá của trời đêm.
Sau cùng thì vợ Beckerman cũng ra mở cửa. Chị ta choàng trên người một cái áo choàng vải thô bạc màu.
- Dạ?
- Chị Beckerman, tôi không biết chị có còn nhớ tôi không? Tôi là người phóng viên đang viết bài về Hans đây. Xin lỗi vì đã làm phiền chị vào lúc khuya khoắt thế nầy, nhưng thật tôi rất cần nói chuyện với chồng chị.
- Chỉ có sự im lặng đáp lời anh.
- Chị Beckerman?
- Hans chết rồi.
- Cái gì hả? - Robert giật mình.
- Chồng tôi chết rồi rồi, tôi xin lỗi. Làm sao?
- Xe của Hans đã đâm xuống một triền núi. - Giọng chị ta thật đau đớn. - Cảnh sát nói đó là vì trong cơ thể anh ấy toàn chất ma tuý.
- Ma tuý à?
Loét dạ dầy. Các bác sĩ thậm chí không thể cho tôi thuốc giảm đau nữa. Tôi phần ứng với tất cả nhưng thứ đó..
- Cảnh sát nói đó là tai nạn à?
- Dạ.
Họ có tiến hành mổ giám định không?
- Có, và họ tìm thấy ma tuý. Chẳng có ý nghĩa gì.
- Anh không còn biết nói thế nào.
- Tôi thật lấy làm buồn, chị Beckerman. Tôi…
Cánh cửa đóng lại, còn Robert một mình giữa trời đêm giá lạnh.
- Một nhân chứng đã chết. Không - hai. Leslie Mothershed đã chết trong một vụ cháy. Robert ngẫm nghĩ hồi lâu. Hai nhân chứng đã chết. Anh như nghe thấy tiếng người huấn luyện viên ở Trang trại: "Còn một điều nữa tôi muốn nói tới hôm nay. Sự trùng hợp. Trong công việc cửa chúng ta, không có cái thứ đó. Nó thường báo hiệu sự nguy hiểm. Nếu anh cứ luôn gặp một người, hoặc phát hiện vẫn chiếc xe ấy khi anh đang hoạt động, hãy che lấy cái mông mình. Có thể anh đang gặp rắc rối đó"
Có thể đang gặp rắc rối. - Robert bị chi phối bởi một loạt những cảm xúc đầy mâu thuẫn. Điều đã xảy ra phải là sự trùng hợp, và tuy vậy… Mình phải kiểm tra về cái người khác bí ẩn đó.
Cú điện thoại đầu tiên của anh là gọi tới Fort Smith, Canada. Một giọng phụ nữ đầy vẻ quẫn trí trả lời:
- Dạ?
- Xin cho gặp William Mann.
- Rất tiếc. Chồng tôi, chồng tôi không còn với chúng tôi nữa. - Giọng nói kia nghẹn ngào.
- Tôi không hiểu bà nói gì.
- Ông ấy đã tự sát.
Tự sát? Tay chủ nhà băng sắt đá đó mà tự sát? Chuyện quái quỷ gì đang xảy ra ấy nhỉ? Robert nhăn trán. Điều mà anh hình dung là không thể chấp nhận nổi, tuy nhiên… Anh bắt đầu gọi hết cú điện thoại nầy đến cú điện thoại khác.
- Xin cho gặp giáo sư Schmidt.
- Ồ giáo sư đã chết trong một vụ nổ ở phòng thí nghiệm…
- Tôi muốn nói chuyện với Dan Wayne.
- Thật tội nghiệp. Con ngựa đua đã giày chết ông ta cách đây…
- Xin cho gặp Laslo Bsshfekete.
- Gánh tạp kỹ đóng cửa rồi. Laslo đã chết…
- Xin cho gặp Fritz Mandel.
- Fritz đã bị chết trong một tai nạn quái dị…
Lúc nầy những dấu hiệu báo động đã là rõ ràng.
- Olga Romanchanko.
- Cô bé tội nghiệp. Và cô ấy còn trẻ thế mà…
- Tôi gọi đến để xem tình hình Cha Patrini.
- Linh hồn tội nghiệp đó đã ra đi trong giấc ngủ.
- Tôi cần nói chuyện với Kevin Parker.
- Kevin đã bị giết…
Chết. Tất cả mọi nhân chứng đều đã chết. Chính anh là người đã phát hiện và xác minh về họ. Tại sao anh lại không biết chuyện gì đang xảy ra? Bởi vì bọn khốn kiếp kia chờ anh rời khỏi một nước nào đó rồi mới hành quyết các nạn nhân của chúng. Người duy nhất mà anh báo cáo công việc là tướng Hilliard.
"Chúng ta không được để bất kỳ ai khác dính vào sứ mệnh nầy… Tôi muốn ông hàng ngày báo cáo công việc cho tôi".
Họ đã dùng anh để tìm ra các nhân chứng. Đằng sau tất cả những chuyện nầy là thế nào? Otto Schmidt đã bị giết chết ở Đức. Hans Beckerman và Fritz Mandel ở Thuỵ Sĩ. Olga Romanchanko ở Nga, Dan Wayne và Kevin Parker ở Mỹ, William Mann ở Canada, Leslie Mothershed ở Anh, Cha Patrini ở Italia và Laslo Bushfekete ở Hungary. Điều đó có nghĩa là các cơ quan an ninh của gần một chục nước đã dính líu vào một vụ bưng bít lớn nhất trong lịch sử. Một ai đó ở cấp rất cao đã quyết định rằng tất cả các nhân chứng vụ đĩa bay kia phải chết. Nhưng ai? Và vì sao?
Đó là một âm mưu cỡ quốc tế và mình đang nằm trong cái âm mưu đó.
Ưu tiên: Chui vào vỏ bọc. Robert thật khó tin nổi là họ định giết luôn cả anh nữa. Anh là một người trong số họ. Nhưng cho đến khi đã nghĩ tới chuyện đó thì không thể mạo hiểm. Việc đầu tiên phải làm là kiếm một tấm hộ chiếu giả. Điều đó có nghĩa là phải tìm đến Ricco ở Rome.
Robert lên chuyến bay xuất cảnh tiếp theo và thấy phải cố gắng để thức. Anh đã không nhận ra mình kiệt sức đến thế nào. Áp lực của suốt mười lăm ngày qua, chưa kể sự chênh lệch thời gian do việc đi lại bằng máy bay, đã làm cho anh kiệt quệ.
Máy bay đáp xuống sân ga Leonardo da Vinci, và khi anh bước vào nhà ga, người đầu tiên anh nhìn thấy là Susan. Anh dừng lại, sững sờ. Cô quay lưng lại phía anh, và trong một khoảnh khắc, anh đã nghĩ là mình nhầm. Và rồi anh nghe thấy cô nói.
- Cảm ơn. Tôi có xe đón rồi.
- Susan… - Robert bước lại bên cô.
Cô quay lại, giật mình.
- Robert. Thật là tình cờ làm sao. Nhưng là một sự kinh ngạc đáng yêu.
- Anh nghĩ em đang ở Gibraltar kia mà?
Cô gượng cười.
- Vâng. Chúng em đang trên đường tới Áo, nhưng Monte có chút việc cần phải làm ở đây trước đã. Tối nay chúng em sẽ lên đường. Anh làm gì ở Rome thế?
- Anh đang lo nốt một chút cỏng việc.
Chạy trốn vì cái mạng sống của anh. Đó là công việc cuối cừng của anh đấy. Anh đã thôi rồi, em yêu ạ. Từ giờ, chúng mình sẽ luôn ở bên nhau, và không gì có thể chia cắt chúng ta nữa. Hãy bỏ Monte và trở về với anh đi! Nhưng anh không thể nói nên lời. Anh đã gây cho cô đủ điều rồi. Cô đang hạnh phúc với cuộc sống mới của cô. Hãy cứ để như thế, Robert nghĩ.
- Trông anh mệt mỏi lắm. - Cô nhìn anh chăm chú.
- Anh vừa phải chạy loăng quăng một chút. - Anh mỉm cười.
Họ nhìn vào trong mắt nhau, và điều kỳ diệu kia vẫn còn đó. Sự thèm khát cháy bóng, và những kỷ niệm, tiếng cười cùng sự thông cảm.
Susan cầm lấy tay anh trong hai bàn tay cô và dịu dàng nói:
- Robert. Ôi, Robert. Em muốn chúng mình…
- Susan…
Và đúng lúc đó, một người đàn ông vạm vỡ trong bộ đồng phục tài xế bước đến bên Susan.
- Thưa bà Banks, xe đã sẵn sàng.
- Cám ơn. - Cô quay sang Robert. - Em xin lỗi. Em phải đi bây giờ đây. Xin anh tự chăm sóc lấy mình.
- Chắc chắn rồi.
Anh đứng nhìn theo cô. Có bao nhiêu điều anh muốn nói với cô. Cuộc sống đầy những chuyện có tính chất thời điểm. Thật vui lại được thấy Susan, nhưng mà có chuyện gì trong đó khiến anh thấy lo lẳng nhỉ? Tất nhiên rồi. Sự trùng hợp. Lại một sự trùng hợp.
Anh gọi taxi đi về khách sạn Hassler.
- Chúc mừng đã trở lại, ông sĩ quan.
- Cám ơn.
- Tôi sẽ cho một người hầu phòng mang hành lý cho ông.
- Khoan! - Robert nhìn đồng hồ. 10 giờ tối. Anh muốn lên gác và ngủ một giấc, nhưng trước hết anh phải lo chuyện hộ chiếu đã.
- Tôi sẽ không lên trên phòng ngay. - Robert nói. - Tôi muốn ông cho người mang hành lý lên trước đi.
- Tất nhiên, thưa ông sĩ quan.
Khi Robert vừa định quay đi thì cửa thang máy bật mở và một nhóm khách ào ra, cười nói ầm ĩ. Ro ràng là họ đã uống một vài cốc. Một tròng số họ, dáng người mập, mặt đỏ gay, vẫy vẫy Robert.
- Xin chào anh bạn thân… vui vẻ chứ?
- Tuyệt vời, - Robert đáp. - Tuyệt vời đấy.
Robert bước ra, tới bên chiếc taxi đỗ bên ngoài.
Khi anh vừa định chui vào xe thì chợt để ý thấy một chiếc Opel màu xám trông rất bình thường đậu phía bên kia đường. Trông nó hơi bình thường quá mức. Nó đậu giữa những chiếc xe sang trọng, thênh thang.
- Phố Monte Grappa. - Robert nói với người lái xe. Trên đường, Robert nhìn qua tấm kính sau xe. Không có chiếc Opel xám nào cả. Mình đang trở nên hoảng hốt quá, Robert nghĩ. Khi họ tới phố Monte Grappa, Robert ra khỏi xe ở đầu phố. Khi trả tiền người lái xe, anh nhìn qua khoé mắt: chiếc Opel màu xám cách xa chừng nửa đoạn phố, tuy nhiên anh có thể thề rằng nó không hề theo dõi anh. Trả tiền xong, anh rời khỏi chiếc taxi và bắt đầu thong thả bước đi, thỉnh thoảng đừng lại để ngó vào các ô kính cửa hàng cửa hiệu.
Qua sự phản chiếu của một ô kính, anh thấy chiếc Opel đang từ từ đi theo anh. Khi Robert tới góc phố tiếp theo, anh để ý thấy đó là con phố với đường một chiều. Anh rẽ vào đó theo hướng ngược lại với dòng xe cộ đông đúc. Chiếc Opel lưỡng lự ở góc phố và rồi lao vọt đi đến đón Robert ở đầu đằng kia. Robert quay ngược trở lại và đi về phố Monte Grappa. Không còn thấy chiếc Opel kia đâu nữa.
Robert vẫy chiếc taxi khác:
- Tới phố Monticelli.
Toà nhà đó đã cũ kỹ và trông không mấy thiện cảm, một di sản còn lại của những ngày đã qua. Trước đây trong nhiều chuyến công tác, Robert đã đến nơi nầy. Anh bước xuống ba bậc của một tầng hầm và gõ cửa. Một con mắt xuất hiện ở lỗ nhòm trên cánh cửa và một giây sau cánh cửa mở toang ra.
- Roberto. - Một người đàn ông kêu lên. Ông ta choàng tay ôm lấy Robert. - Khoẻ không, anh bạn của tôi?
Đó là một người đàn ông to béo ở độ tuổi 60 với bộ râu lởm chởm trắng xoá, đôi lông mầy rậm, bộ răng vàng khè và cái cằm béo núc. Ông ta đóng cửa và khoá trái lại.
- Tôi khoẻ, Ricco.
Ricco không có họ. "Với một người như tôi, ông ta thường khoác lác, Chỉ cần cái tên cộc lốc đó là đủ. Cũng giống như Garbo vậy".
- Hôm nay tôi có thể làm gì cho anh vậy, anh bạn?
- Tôi đang có một phi vụ. - Robert nói, - Và tôi đang rất vội. Ông có thể làm cho tôi một hộ chiếu không?
Ricco mỉm cười.
- Giáo hoàng có phải tín đồ Thiên Chúa giáo không hả? - Ông ta lạch bạch đi tới cái tủ kê ở góc phòng và mở khoá tủ. - Anh muốn mang quốc tịch nào đây?
Ông ta lôi ra một mớ hộ chiếu với các bìa khác nhau và lựa lựa từng quyển. - Chúng ta có một hộ chiếu Hy Lạp, rồi Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Tư, Anh…
- Mỹ. - Robert nói.
Ricco rút ra một quyển hộ chiếu có bìa màu xanh da trời.
- Đây. Cái tên Arthur Butterfield có hấp dẫn anh không thế?
- Tốt rồi. - Robert đáp.
- Anh đứng dựa vào tường đi, tôi sẽ chụp hình cho anh.
Robert bước đến bên tường. Ricco mở ngăn kéo và lấy ra chiếc máy ảnh Polaroid. Một phút sau, Robert cầm xem tấm ảnh của mình.
- Không thấy tôi cười. - Robert nói.
- Cái gì hả? - Ricco nhìn anh, ngạc nhiên.
- Tôi đã không cười. Chụp cái khác đi.
- Được thôi. Tuỳ ý anh. - Ricco nhún vai.
- Có khá hơn. - Robert mỉm cười khi bức ảnh thứ hai được chụp. Anh nhìn tấm ảnh và nói, rồi thản nhiên nhét tấm ảnh đầu vào túi.
- Bây giờ đến phần kỹ thuật cao, - Ricco tuyên bố rồi bước tới bàn làm việc. Ông ta đặt tấm ảnh vào mặt trong quyển hộ chiếu.
Robert bước tới một cái bàn khác, ngổn ngang những dụng cụ hành nghề của Ricco và tuồn một lưỡi dao cạo cùng một lọ keo dán trong trong túi áo khoác.
Ricco đang xem xét sản phẩm của ông ta.
- Không tồi. - Ông ta nói rồi trao cho Robert quyển hộ chiếu. - Năm nghìn đôla.
- Và hoàn toàn đáng giá. - Robert đáp trong lúc đếm 10 tờ 500 đôla.
- Làm việc với người của các anh thật dễ chịu.
- Anh biết là tôi quý anh.
Robert biết chính xác là ông ta đang nghĩ gì về anh. Ricco là một thợ giày thiện nghệ, làm việc cho gần một chục chính phủ - Và chẳng trung thành với chính phủ nào. Anh đút quyển hộ chiếu vào túi áo.
- Chúc may mắn, ông Butterfield. - Ricco mỉm cười.
- Cám ơn.
Ngay khi cánh cửa khép lại sau lưng Robert, Ricco vớ lấy điện thoại. Thông tin luôn là tiền bạc đối với ai đó.
Bên ngoài, đi được chừng hai chục mét, Robert lấy quyển hộ chiếu mới ra khỏi túi và dúi nó vào trong một thùng rác. Nhiễu. Đó là một kỹ thuật mà khi là một phi công anh đã dùng để tạo những cái đuôi giả cho tên lửa của đối phương. Hãy để cho họ săn lùng Arthur Butterreld.
Chiếc Opel xám dừng cách chừng nửa đoạn phố.
Chờ đợi. Không thể thế được.
Robert tin chắc rằng chiếc xe đó là cái đuôi duy nhất. Anh đã chắc chắn là chiếc Opel đã bị mất dấu, vậy mà nó vẫn tìm ra. Họ phải có một cách nào đó để bám theo từng bước đi của anh. Câu trả lời duy nhất: Họ đã dùng một thứ máy phát nào đó, và anh phải luôn mang nó theo người. Nó được gắn vào quần áo của anh chăng? Không. Họ không có cơ hội nào cả Đại uý Dougherty đã có mặt lúc anh sắp xếp hành lý nhưng anh ta không thể biết Robert sẽ mang theo bộ quần áo nào. Robert thầm kiểm kê lại những gì mà anh mang theo người - tiền mặt, chìa khoá, một cái ví khăn mùi xoa, thẻ tín dụng… Chiếc thẻ tín dụng.
"Tôi không nghĩ là tôi cần đến nó, thưa tướng quân" - "Cầm lấy. Vã hãy luôn giữ nó trong người".
Đồ chó đẻ gian xảo. Không có gì lạ khi họ tìm được anh dễ dàng như vậy.
Không còn nhìn thấy chiếc Opel xám nữa. Robert lấy tấm thẻ tín dụng ra, xem xét nó. Nó hơi dầy hơn một tấm thẻ tín dụng thông thường. Hơi vặn nó một chút, anh có thể cảm thấy một lớp gì đó bên trong.
Họ sẽ điều khiền từ xa cho tấm thẻ hoạt động. Tốt.
Robert nghĩ. Hãy để cho bọn khốn nạn nầy bận bịu.
Có mấy cái xe vận tải đỗ dọc trên phố đang bốc và dờ hàng. Robert nhìn những biển số xe. Khi tới bên một chiếc xe tải với biển số của Pháp, anh nhìn quanh để chắc chắn là mình không bị quan sát rồi ném tấm thẻ lên trên thùng xe.
- Cho đến khách sạn Hassler. - Anh vẫy một chiếc taxi.
Ttrong tiền sảnh, Robert bước tới chỗ người gác cửa.
- Làm ơn xem đêm nay có chuyến bay nào đi Paris không nhé.
- Vâng, ông sĩ quan. Ông có chọn hãng hàng không cụ thể nào không?
- Hãng nào cũng được. Chuyến bay đầu tiên là đủ.
- Tôi rất sung sướng được lo chuyện nầy.
- Cám ơn. - Robert bước đến chỗ tiếp tân. - Xin cho chìa khoá phòng tôi. Phòng 314. Và tôi sẽ trả phòng trong vài phút nữa thôi.
- Dạ, thưa ông Bellamy. - Người nhân viên với tay lên một ô và lấy ra chìa khoá cùng một cái phong bì. - Đây, có một cái thư cho ông.
Robert nghiêm mặt. Chiếc phong bì được dán kín và được ghi rất đơn giản. "Sĩ quan chỉ huy Bellamy"
Anh nắn nhẹ xem có chất dẻo hoặc thứ kim loại gì bên trong hay không, rồi thận trọng mở nó ra. Bên trong là một tấm các quảng cáo về một nhà hàng Italia.
Hoàn toàn bình thường. Tất nhiên, trừ cái tên của anh trên phong bì.
- Anh có nhớ ai đưa cho anh cái nầy không?
- Tôi xin lỗi. - Người nhân viên nói với vẻ ân hận. - Nhưng quả thật là tối nay chúng tôi bận rộn quá…
Điều đó không quan trọng. Người đàn ông kia sẽ chẳng nhớ ra bộ mặt nào cả. Hắn ta đã nhặt tờ quảng cáo ở đâu đó cho nó vào phong bì rồi đứng ngay cạnh quầy và chờ xem chiếc phong bì đó được cho vào cái ô mang số phòng bao nhiêu.
Lúc nầy hắn ta hẳn đang chờ trong trong của Robert.
Đã đến lúc nhìn mặt kẻ thù.
Robert nghe thấy những tiếng nói ồn ào, anh quay lại và thấy đám khách say rượu lúc trước đang đi vào tiên sảnh, vừa cười vừa hát. Rõ ràng là họ đã uống thêm ít nữa. Người đàn ông mập nói:
- Kìa, chào anh bạn. Anh đã lỡ một tiệc vui.
Robert tính toán rất nhanh trong đầu.
- Anh thích hội hè à?
- Hô hô.
- Có một cuộc ra trò đang diễn ra trên lầu. - Robert nói. Rượu mạnh, gái… - bất kỳ thứ gì mà các anh muốn. Cứ việc đi theo tôi, các bạn.
- Đó chính là lối chơi của người Mỹ, anh bạn. - Người đàn ông vỗ vỗ vào lưng Robert. - Nghe thấy chứ, các chàng trai? Anh bạn của chúng ta đây chiêu đãi một cuộc.
Họ chen chúc nhau cùng vào thang máy và đi lên tầng ba.
Người đàn ông say rượu nói:
- Những người Italia nầy rõ ràng là biết phải sống như thế nào. Tôi đoán là họ đã phát minh ra những cuộc hội hè, phải không?
- Tôi sẽ cho các bạn thấy một cuộc vui thật sự. - Robert hứa.
Họ đi theo dọc hành lang tới trước phòng anh.
Robert tra chìa khoá vào ổ và quay lại nói với tất cả bọn họ:
- Các bạn đã sẵn sàng vui một chút chứ?
Những tiếng trả lời "có" đồng thanh cất lên.
Robert quay chìa, đẩy cửa mở và đứng sang một bên. Căn phòng tối om. Anh bật điện lên. Một người lạ mặt cao và gầy đứng giữa phòng với một khẩu Mode có gắn ống giảm thanh rút ra nửa chừng. Người đàn ông đó nhìn đám đông với vẻ mặt thảng thốt và đẩy nhanh khẩu súng vào trong áo khoác.
- Nầy. Rượu đâu hả? - Một trong những người say kia hỏi.
Robert chỉ vào gã lạ mặt.
- Anh ta có đó. Đến mà lấy.
Cả bọn xông về phía gã kia.
- Rượu đâu, anh bạn…
- Gái đâu?…
- Hãy kiếm cuộc liên hoan nầy ở ngoài đường…
Gã kia cố lách tới chỗ Robert nhưng đám đông đã cản hắn lại. Gã bất lực nhìn theo trong khi Robert khoá cửa từ bên ngoài. Anh lao xuống cầu thang hai bậc một.
Dưới nhà, trong tiền sảnh, Robert đang đi ra cửa thì người gác gọi to. "Ồ, ông Bellamy, tôi đã đặt vé cho ông rồi đấy. Ông đi chuyến bay 312 của Hàng không Pháp đi Paris. Chuyên bay khởi hành lúc một giờ sáng."
- Cám ơn, - Robert đáp vội.
Anh đi ra ngoài và vào các quảng trường nhỏ phía trước những bậc thềm Tây Ban Nha. Một chiếc taxi đang để một người khách xuống. Robert chui vào ngay.
- Phố Monte Grappa.
Giờ đây, anh đã có câu trả lời của mình. Họ định giết anh. Họ sẽ không thấy việc đó dễ dàng. Lúc nầy anh đã là kẻ bị săn đuổi thay vì anh là người đi săn, nhưng anh có một lợi thế lớn. Họ đã huấn luyện anh kỹ lưỡng. Anh biết tất cả những thủ thuật của họ, những điểm mạnh và những điểm yếu, và anh sẽ dùng kiến thức đó để chặn họ lại. Đầu tiên anh phải tìm cách không để chúng bám đuôi. Những kẻ săn lùng anh chắc phải được nghe một câu chuyện gì đó. Họ sẽ được bảo là anh bị truy nã về tội buôn ma tuý, hoặc giết người, hoặc là hoạt động gián điệp. Họ sẽ được cảnh cáo trước: Hắn ta rất nguy hiểm. Đừng để lỡ cơ hội. Hảy bắn hạ ngay.
- Nhà ga Rome. - Robert nói với người lái taxi.
Họ đang săn lùng anh, nhưng họ sẽ chưa đủ thời gian để phân phát ảnh của anh. Cho đến lúc nầy, anh không bị nhận diện.
Chiếc taxi dừng lại trước toà nhà số 36 phố Giovanni Giolitti và người lái xe nói:
- Thưa ông, nhà ga đây rồi.
- Chúng ta hãy đợi một phút. - Robert ngồi lại trong xe, quan sát mặt tiền của nhà ga. Dường như chỉ có những hoạt động bình thường. Mọi thứ đều có vẻ bình thường. Taxi và những chiếc xe hòm kính đang đến và đi, đưa và đón khách. Những người khuân vác đang bốc và xếp hành lý. Một cảnh sát đang bận rộn ra lệnh cho những chiếc xe rời khỏi khu vực cấm đỗ. Nhưng có gì đó đã làm cho Robert lo ngại. Anh chợt nhận thấy điểm không bình thường của toàn bộ bức tranh. Ba chiếc xe lớn không biển số đỗ ngay đối diện với nhà ga, trong khu vực cấm đỗ và không có ai trong xe. Viên cảnh sát phớt lờ chúng.
- Tôi thay đổi ý định rồi. - Robert nói với người lái taxi - Tới số 110/A phố Veneto.
Đó là nơi khó có ai đến tìm kiếm anh.
Đại sứ quán Mỹ và toà lãnh sự Mỹ được bố trí trong một toà nhà màu hồng trên phố Veneto, với một hàng rào sắt đen ngòm trước mặt. Vào giờ nầy thì toà đại sứ đã đóng cửa, nhưng bộ phận hộ chiếu của nó thì làm việc suốt hai mươi tư giờ để giải quyết những trường hợp khẩn cấp. Trong lối vào ở tầng một, một người lĩnh thuỷ quân lục chiến ngồi sau bàn.
Người lính nhin lên khi Robert tiến đến gần.
- Thưa ông, tôi có thể giúp ông?
- Vâng. - Robert nói - Tôi muốn hỏi về việc xin hộ chiếu mới. Tôi bị mất hộ chiếu.
- Ông là công dân Mỹ?
- Phải.
Họ sẽ lo chuyện của ông ở trong đó. Phòng cuối cùng. - Người lính chỉ một văn phòng phía xa.
- Cám ơn.
Có dăm bảy người ở trong cái phòng đó xin hộ chiếu, báo mất hộ chiếu, và xin thị thực, xin gia hạn…
- Tôi có cần xin thị thực đến Anbani không? Tôi có bà con ở đó…
- Tôi muốn cái hộ chiếu nầy được gia hạn tối nay.
- Tôi phải đi một chuyến bay…
- Tôi không hiểu thế nào nữa. Hẳn là tôi đã mất nó ở Milan…
- Họ đã lấy cái hộ chiếu ngay trong ví của tôi…
Robert đứng nghe. Trộm cắp hộ chiếu là cái trò phổ biến ở Italia. Phải có ai đó trong số nầy sắp được nhận hộ chiếu mới. Đứng đầu hàng là một người đàn ông đứng tuổi, quần áo lịch thiệp đang được trao một quyển hộ chiếu.
- Của ông đây, thưa ông Cowan. Tôi lấy làm tiếc là ông đã gặp chuyện rủi ro như thế. Tôi e là ở Rome có nhiều kẻ cắp lắm đấy.
- Tôi sẽ phải cẩn thận để chúng không thể lấy được quyển nầy. - Cowan nói.
- Ông nên như thế, thưa ông.
Robert để ý nhìn Cowan cho quyển hộ chiếu vào trong túi áo khoác và quay người định bước đi. Robert bước đến trước mặt ông ta. Khi một phụ nữ lấn tới, Robert chúi vào người Cowan như thể anh bị đẩy và làm ông ta suýt ngã.
- Tôi thật xin lỗi. - Robert nói. Anh cúi xuống chỉnh lại xống áo cho ông ta.
- Không sao. - Cowan nói.
Robert quay đi và bước vào nhà vệ sinh nam giới ở cuối hành lang, tấm hộ chiếu của ông kia đã ở trong túi anh. Anh nhìn quanh để có thể tin chắc rằng chỉ có một mình, rồi bước vào một trong các buồng vệ sinh. Anh lấy ra lưỡi dao cạo và lọ keo dán mà đánh cắp của Ricco. Rất cẩn thận, anh rạch miếng vỏ nhựa và lấy tấm ảnh của Cowan ra. Sau đó, anh cho tấm ảnh của anh mà Ricco đã chụp vào. Anh dủng keo dán mép tấm bìa lại như cũ và kiểm tra lại. Hoàn hảo. Giờ đây, anh đã là Henry Cowan. Năm phút sau, anh đã ở trên phố Veneto, chui vào một chiếc taxi.
- Ra sân bay.
Lúc 12 giờ 30, Robert tới sân bay Leonardo da Vinci.
Anh đứng bên ngoài, kiểm tra xem có gì bất thường không. Bề ngoài, mọi thứ đều tỏ ra bình thường. Không có xe cảnh sát, không có những người đàn ông đáng ngờ. Robert đi vào nhà ga và dừng lại ngay bên trong cửa. Có nhiều quầy vé của nhiều hãng hàng không nằm rải rác trong khu ga. Không có ai lảng vảng hay ẩn sau những chiếc cột. Anh đứng nguyên tại chỗ, cảnh giác. Anh không thể giải thích được, thậm chí là cho chính mình, nhưng dù sao chăng nữa thì mọi việc có vẻ quá bình thường.
Ngang phía bên kia phòng là quầy vé của Hàng không Pháp. "Ông đi chuyến bay 312 của Hàng không Pháp. Chuyến bay khởi hành lúc một giờ sáng".
Robert tiến đến chỗ một phụ nữ mặc đồng phục đang ngồi sau quầy vé của Hàng không ltalia.
- Xin chào.
- Xin chào. Tôi có thể giúp ông không, thưa ông?
Có Robert nói:
- Xin cô cho gọi ông sĩ quan Robert Bellamy tới chỗ buồng điện thoại miễn phí được không?
- Tất nhiên. - Cô ta đáp, rồi nhấc chiếc micrô lên.
Cách đó vài mét, một phụ nữ béo tuổi trung niên đang kiểm tra lại mấy cái vali, cãi cọ gay gắt với nhân viên hàng không về tiền quá cước.
- Ở Mỹ, họ không bao giờ bắt trả tiền quá cước cả.
- Tôi xin lỗi, thưa bà. Nhưng nếu bà muốn mang theo tất cả những túi nầy thì bà phải trả thêm cho số quá trọng lượng.
Robert đến gần hơn. Anh nghe thấy giọng cô nhân viên trên loa phóng thanh.
"Mời sĩ quan Robert Bellamy tới buồng điện thoại miễn phí màu trắng. Sĩ quan Bellamy, xin mời tới buồng điện thoại miễn phí màu trắng".
Lời thông báo đó vang vang trong khắp nhà ga sân bay.
Một người đàn ông với một cái túi khoác đang đi ngang chỗ Robert.
- Xin lỗi. - Robert nói.
- Có gì vậy? Người đàn ông quay sang.
- Tôi nghe vợ tôi đang nhắn tìm tôi, nhưng, - anh chỉ đám túi của người đàn bà, - tôi không thể bỏ hành lý ở đây được. Anh rút ra một tờ 10 đôla và đưa nó cho người kia - Nhờ ông làm ơn tới cái buồng điện thoại màu trắng kia và nói với cô ấy là một tiếng nữa tôi sẽ đón cô ấy tại khách sạn, được chứ. Tôi thật sự biết ơn ông.
Người đàn ông kia nhìn tờ bạc 10 đôla trong tay.
- Được thôi.
Robert nhìn anh ta đi vào buồng điện thoại và nhấc máy lên. Anh ta áp ống nghe vào tai và nói:
- Hêlô?… Hêlô?…
Một giây sau, bốn người đàn ông to lớn mặc đồ đen không biết từ đâu xuất hiện và ập tới, áp chặt người đàn ông không may kia vào tường.
- Nầy. Cái gì thế?
- Hãy yên lặng nào. - Một người đàn ông trong số kia nói.
- Các ông đang làm cái trò gì thế hả? Bỏ tay khỏi người tôi ngay.
- Đừng làm rộn lên, ông sĩ quan. Không ích gì…
- Sĩ quan? Các ông đã nhầm người rồi. Tên tôi là Melvyn Davis. Tôi ở Omaha.
- Thôi đừng giở trò.
- Đợi một phút. Tôi đã bị lừa rồi. - Người đàn ông mà các ông tìm ở kia kla. - Anh ta chỉ tay về chỗ Robert đứng lúc trước.
Không có ai ở đó cả.
Bên ngoài nhà ga, một chiếc xe bus của sân bay đang sắp sửa khởi hành. Robert lên xe, đứng lẫn vào những hành khác khác. Anh tìm chỗ ngồi ở cuối xe, tập trung nghĩ tới bước đi tiếp theo.
- Anh nóng lòng muốn được nói chuyện với Đô đốc Whittaker để thử tìm câu trả lời về những gì đang diễn ra, đề biết ai là kẻ phải chịu trách nhiệm trong việc giết hại những người vô tội chỉ vì họ đã chứng kiến cái mà họ đáng ra không được nhìn. Đó là tướng Hilliard chăng? Dustin Thorton? Hay bố vợ Thornton, Willard Stone, cái con người đầy bí ân. Có thể lão ta, bằng cách nào đó, có dính dáng vào vụ nầy chăng? Hay đó là Edward Sanderson, giám đốc NSA? Họ có thể cùng phối hợp với nhau không? Nó có lên cao tới cấp Tổng thống không? Robert cần những câu trả lời.
Chiếc xe bus chạy một tiếng mới tới Rome. Khi xe dừng trước khách sạn Eden, Robert xuống xe.
Mình phải rời khỏi nước nầy, Robert nghĩ. Chỉ có một người duy nhất ở Rome là anh còn có thể tin cậy.
Đại tá Francesco Cesar, thủ trưởng SIFAR, cơ quan an ninh Italia. Ông ta sẽ giúp Robert thoát khỏi đây.
Đại tá Cesar làm việc khuya. Những bức điện tới tấp đi và đến giữa các cơ quan an ninh các nước, và tất cả đều liên quan tới sĩ quan Robert Bellamy.
Đại tá Cesar đã từng làm việc với Robert trước đây và ông ta rất quý anh. Cesar thở dài khi ông ta xem xét bức điện mới nhất để trước mặt. Thủ tiêu. Và trong khi ông ta đang đọc điện thì thư ký của ông ta bước vào:
- Sĩ quan Bellamy đang chờ ngài trên đường dây số một.
Đại tá Cesar trợn mắt nhìn cô thư ký:
- Bellamy? Chính anh ta à? Thôi được.
Ông ta đợi cô thư ký ra khỏi phòng, và chộp lấy điện thoại.
- Robert?
- Chào Francesco. Chuyện quái quỷ gì đang xảy ra thế?
- Anh trả lời tôi thì có, anh bạn. Tôi đã và đang nhận đủ loại thông báo về anh. Anh đã làm gì vậy?
- Đó là một câu chuyện dài. - Robert nói - Và tôi không có thởi gian. Ông đã nghe những gì thế?
- Rằng anh đã tách riêng. Rằng anh đã bị tuyển loại và đang hót như một con hoàng yến vậy.
- Cái gì hả?
- Tôi nghe nói anh đã có một hợp đồng với người Trung Quốc và…
- Lạy Chúa. Thật là lố bịch.
- Thế hả? Tại sao?
- Bởi vì một giờ trước đây họ còn đang khát khao có thêm thông tin mà.
- Hãy vì Chúa, Robert. Không phải chuyện đùa đâu.
- Hãy nói đi, Francesco. Tôi vừa mới đẩy mười người vô tội tới chỗ chết. Người ta dự kiến tôi là người thứ mười một đấy.
- Anh đang ở đâu?
- Tôi ở Rome. Có vẻ như tôi không thể nào rời khỏi cái thành phố khốn kiếp nầy của ông.
- Thế đấy. - Có một sự im lặng nặng nề. - Tôi có thể làm gì để giúp anh?
- Đưa tôi tới một ngôi nhà an toàn, nơi chúng ta có thể nói chuyện, và tôi có thể tính xem sẽ đi khỏi đây bằng cách nào. Ông lo được chuyện đó không?
- Được nhưng anh phải cẩn thận. Rất cẩn thận. Tôi sẽ đích thân đón anh.
- Cám ơn Francesco. Tôi thật sự biết ơn. - Robert thở phào nhẹ nhõm.
- Như người Mỹ các anh nói, anh nợ tôi một. Anh đang ở đâu?
- Quán Lido ở Trastevere.
- Cứ đợi ở đó. Đúng một tiếng nữa tôi sẽ đến.
- Cám ơn ông bạn của tôi. - Robert cúp máy. Nó sẽ là một tiếng dài chờ đợi.
Ba mươi phút sau, hai chiếc xe không biển số dừng lại cách tiệm Lido chừng chục mét. Trong mỗi chiếc xe có bốn người đàn ông và tất cả đều mang súng tiểu liên.
Đại tá Cesar ra khỏi chiếc xe đi đầu.
- Hãy làm cho nhanh. Đừng để ai khác bị thương.
- Cứ bắn hạ ngay.
Một nửa bọn họ lặng lẽ đi vòng ra phía sau ngôi nhà.
Từ trên tầng thượng của một toà nhà phía bên kia đường, Robert Bellamy đứng quan sát Cesar và đám lính của ông ta lăm lăm súng trong tay ập vào trong quán. Được, thằng khốn kiếp. Robert giận dữ nghĩ, chúng ta sẽ chơi theo lối của mầy.
 
CHƯƠNG 36 -
N
gày thứ mười sáu.
Rome, Italia.
Từ quảng trường Duomo, Robert gọi điện cho đại tá Cesar từ một buồng điện thoại công cộng.
- Chuyện bạn bè có gì thế? - Robert hỏi.
- Đừng giả bộ, anh bạn. Tôi chấp hành mệnh lệnh, cũng như anh thôi. Tôi có thể đảm bảo với anh rằng việc chạy trốn của anh là không ích gì. Anh đứng đầu danh sách truy nã của tất cả các cơ quan tình báo. Tới một nửa các chính phủ trên thế giới nầy đang tìm kiếm anh.
- Ông có tin rằng tôi là một kẻ phản bội không?
Casar thở dài.
- Tôi tin hay không thì đâu có nghĩa gì, Robert. Đây không hề có chuyện cá nhân. Tôi phải chấp hành mệnh lệnh.
- Xoá sổ tôi?
- Anh có thể làm nó trở thành nhẹ nhàng hơn bằng cách tự nộp mình…
- Cám ơn, đồ đểu. Nếu còn cần lời khuyên, tôi sẽ hỏi han đầu gối mình. - Anh dập máy xuống.
Robert hiểu rằng anh còn lẩn trốn lâu bao nhiêu thì càng ở trong tình thế nguy hiểm hơn bấy nhiêu.
Các nhân viên an ninh của cả gần một chục nước đang khép chặt vòng vây quanh anh.
Phải có một cái cây nào đó, Robert nghĩ. Ý tưởng nầy xuất phát từ chuyện kể về một người thợ săn trong một cuộc đi săn ở Châu Phi. "Con sư tử đã chạy trốn. Tôi không có súng và cũng không có chỗ nào để trốn. Xung quanh không hề có lấy một bụi rậm hay một cái cây nào. Và con thú đang lao thẳng tới chỗ tôi, mỗi lúc một gần hơn". "Anh đã thoát được như thế nào?", một người nghe chuyện hỏi. "Tôi chạy tới một cái cây gần nhất và trèo lên" - "Nhưng mà anh nói là không có cái cây nào cơ mà". - "Cậu không hiểu. Phải có một cái cây nào đó". Và mình phải tìm được nó, Robert nghĩ.
- Anh nhìn quanh quảng trường, giờ nầy đã vắng ngắt. Anh cho rằng đã đến lúc phải nói chuyện với người đã đẩy anh vào cơn ác mộng nầy, tướng Hilliard.
Nhưng anh sẽ phải cẩn thận. Kỹ thuật điện tử cho phép dò tìm một máy điện thoại đang hoạt động gần như ngay tức thời. Robert để ý thấy cả hai buồng điện thoại gần buồng mà anh đang đứng trong đều bỏ không.
Tuyệt. Bỏ qua số điện thoại riêng mà tướng Hilliard đã trao cho anh, anh quay số tổng đài của NSA. Khi nhân viên tổng đài trả lời, Robert nói:
- Xin cho văn phòng tướng Hilliard.
Một phút sau, anh nghe thấy tiếng một thư ký.
- Văn phòng tướng Hilliard.
Robert nói.
- Xin chờ điện thoại tử nước ngoài gọi đến.
- Anh thả treo chiếc ống nói và chạy đến cái buồng điện thoại cạnh đấy. Anh nhanh chóng quay lại cái số đó
Một cô thư ký khác trả lời máy:
- Văn phòng tướng Hilliard.
- Xin giữ máy chờ điện thoại gọi từ nước ngoài, - Robert nói. Anh để chiếc ống nói treo lủng lẳng và bước vào buồng thứ ba, quay số. Khi một thư ký khác nữa trả lời, Robert nói:
- Đây là sĩ quan Bellamy. Tôi muốn nói chuyện với tướng Hilliard.
Một tiếng kêu ngạc nhiên.
- Xin chờ một chút, thưa ông sĩ quan.
Người thư ký ấn nút máy nội bộ.
- Thưa ngài, sĩ quan Bellamy đang trên đường dây số ba.
Tướng Hilliard đưa mắt nhln Harrison Keller.
- Bellamy đang trên kênh số ba. Bắt đầu dò tìm ngay, nhanh lên.
Harrison Keller lao đến bên một chiếc điện thoại trên bàn phụ và quay số gọi Trung tâm Điều phối Mạng thông tin, hoạt động liên tục hai mươi tư giờ trong ngày. Viên sĩ quan cao cấp đang trực ban trả lời máy.
- Trung tâm điều phối đây. Adams.
- Dò tìm khẩn cấp một cú điện thoại gọi đến sẽ phải mất bao nhiêu lâu? - Keller thầm thì.
- Khoảng một hai phút.
- Bắt đầu đi. Văn phòng tướng Hilliard, đường số ba. Tôi sẽ chờ. Anh ta nhìn ông tướng và gật đầu.
Tướng Hilliard nhấc máy.
- Ông sĩ quan, phải không?
Tại Trung tâm điều phối, Adams cho một con số vào trong máy tính.
Ông ta nói:
- Chúng ta bắt đầu.
- Tôi nghĩ đã đến lúc ngài và tôi cần nói chuyện, thưa tướng quân.
- Tôi sung sướng là òng đã gọi, ông sĩ quan. Tại sao ông không đến đây và chúng ta có thể bàn về chuyện nầy nhỉ? Tôi sẽ thu xếp một máy bay cho ông và ông có thể có mặt ở đây trong…
- Không, cảm ơn. Quá nhiều tai nạn xảy ra cho các chuyến bay, thưa tướng quân.
Trong phòng thông tin, ESS - hệ thống tìm kiếm điện tử đã được bắt đầu hoạt động. Màn ảnh của máy tính bắt đầu sáng lên. AX 121 - B… AX 122 - C… AX 123 - C…
- Thế nào? - Keller thì thầm vào ống nói.
Trung tâm điều phối thông tin New Jersey đang tìm kiếm những cú điện thoại đường dài ở khu vực Washington. D.C. Giữ máy.
Màn ảnh trắng xoá đi. Rồi dòng chữ "Điện thoại đường dài từ ngoại quốc trên kênh một" hiện lên trên màn ảnh.
Cú điện thoại đang được gọi đến từ đâu đó ở Châu Âu. Chúng tôi đang tlm xem ở nước nào…
Tướng Hilhard đang nói:
- Ông Bellamy, tôi cho rằng có một sự hiểu lầm. Tôi có một đề nghị…
Robert cúp máy:
Tướng Hilliard nhìn sang Keller.
- Đã kiếm được chưa?
Harrison nói vào trong máy nối với Adams.
- Thế nào rồi?
- Chúng ta đã mất hắn.
Robert bước vào buồng điện thoại thứ hai và cầm ống nói.
Thư ký của tướng Hilliard nói.
- Sĩ quan Bellamy ở kênh số hai.
- Ông sĩ quan hả?
- Hãy để tôi có một đề nghị, - Robert nói. - Tướng Hilliard đưa tay bịt chặt ống nói.
- Bắt đầu lại việc dò tìm đi.
Harrison nhấc máy và nói với Adams. "Ông ta lại gọi. Kênh hai. Nhanh lên".
- Được. Thưa tướng quân, đề nghị của tôi là ngài hãy cho tất cả người của ngài lui. Và tôi muốn ngay bây giờ.
- Tôi nghĩ là ông đã hiểu lầm tình hình rồi, ông sĩ quan. Chúng ta có thể dàn xếp chuyện nầy nếu…
- Tôi sẽ nói với ngài chúng ta phải dàn xếp như thế nào. Hiện có lệnh thủ tiêu tôi. Tôi muốn ngài huỷ nó đi.
Tại trung tâm điều phối thông tin, màn ảnh của máy tính đưa ra một thông tin mới: AX 155 - C Nhánh A21 đã được xác định. Tổ hợp 301 tới Rome. Kênh Đại Tây Dương 1.
- Chúng ta kiếm được rồi, - Adams nói vào trong máy. - Chúng ta đã dò tìm ra kênh dẫn tới Rome.
- Kiếm cho tôi số máy và nơi đặt máy, - Keller nói với ông ta.
Tại Rome, Robert đưa mắt nhìn đồng hồ.
- Ngài đã trao cho tôi một nhiệm vụ. Tôi đã thực hiện nó.
- Ông thực hiện rất tốt, ông sĩ quan. Đây là điều tôi…
Đường dây vụt chết lặng.
Viên tướng quay sang Keller.
- Hắn lại cúp rồi.
Keller nói vào trong máy ông đã kiếm được chưa hả?
- Nhanh quá, thưa ông.
Robert bước vào buồng điện thoại tiếp theo và nhấc máy.
Giọng cô thư ký của tướng Hilliard xuất hiện trong máy nội bộ.
- Sĩ quan Bellamy trên đường dây số 1, thưa tướng quân.
Viên tướng quát lên:
- Tìm thằng chó đẻ ngay.
Ông ta nhấc máy:
- Ông sĩ quan hả.
- Tôi muốn ngài nghe: thưa tướng quân, và nghe một cách kỹ càng. Ngài vừa giết một số người vô tội. Nếu ngài không cho người của ngài lui ngay, tôi sẽ đến với giới báo chí và nói cho họ biết chuyện gì đang xảy ra.
- Tôi sẽ không khuyên ông làm như thế, trừ phi ông muốn bắt đầu một sự hoảng loạn trên toàn thế giới. Những sinh vật lạ kia là có thật và chúng ta bất lực trước họ. Họ đang sẵn sàng tiến hành các bước đi của họ. Ông không thể biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu những tin nầy lọt ra ngoài.
- Cả ngài cũng vậy thôi, - Bellamy vặn lại. - Tôi không để cho ngài có lựa chọn nào cả. Nếu như còn một vụ mưu sát đối với tôi, tôi sẽ cho công bố mọi chuyện.
- Thôi được, - Tướng Hilliard nói. - Ông thắng.
- Tôi sẽ huỷ bỏ. Tại sao lại không được nhỉ? Chúng ta có thể…
- Bộ máy dò tìm của ngài lúc nầy hẳn đang làm việc rất tốt, - Robert nói. - Chúc một ngày tốt đẹp.
Liên lạc bị cắt.
- Đã kiếm được chưa? - Keller quát vào trong máy.
- Gần tới, thưa ông. Hắn gọi từ một khu vực ở trung tâm Rome. Hắn đã liên tục thay máy gọi cho chúng ta. - Adams đáp.
Viên tướng nhìn sang Keller.
- Thế nào?
- Xin lỗi tướng quân. Chúng ta chỉ biết rằng ông ta đang ở đâu đó tại Rome. Ngài có tin lời đe doạ của ông ta không? Chúng ta có huỷ kế hoạch đối với ông ta không?
- Không. Chúng ta sẽ trừ khử hắn.
Robert rà lại những khả năng lựa chọn của mình.
Chúng thật là ít ỏi. Họ sẽ giám sát các sân bay, các nhà ga, các tuyến xe bus và các hăng cho thuê xe.
- Anh không thể thuê phòng ở khách sạn bởi vì SIFAR hẳn đã đưa ra các thông báo. Tuy nhiên, anh phải rời khỏi Rome. Anh cân có một vỏ bọc. Một người bạn đồng hành. Họ sẽ không để ý tới một người đàn ông và một người đàn bà đi cùng nhau. Đó là lúc bắt đầu.
Một chiếc taxi đang đỗ nơi góc phố, Robert vò rối mái tóc, kéo trễ cà vạt xuống, và đi loạng choạng như người say rượu đến bên chiếc taxi.
- Nầy, anh kia, - Anh gọi. - Anh kia.
Người lái xe nhìn anh vẻ khinh miệt.
Robert lôi ra một tờ 20 đô la và ấn nó vào tay người lái xe.
- Nầy anh bạn, tôi muốn cưỡi một chút. Anh có hiểu không hả? Anh có biết chút tiếng Anh nào không đấy?
Người lái xe nhìn tờ bạc.
- Ông muốn có một người đàn bà?
- Anh hiểu đúng đấy, anh bạn. Tôi muốn có một người đàn bà.
- Được thôi, Người lái xe nói.
Robert chui vào và xe chuyển bánh. Anh nhìn lại phía sau. Không có ai bám theo. Đầu óc anh căng thẳng.
Một nửa số các chính phủ trên thế giới nầy đang tìm kiếm anh". Và không có quyền chống án nào cả. Mệnh lệnh đối với họ là hạ sát anh.
Hai mươi phút sau, họ tới To di Ounto, một khu vực "đèn đỏ" của Rome, toàn đĩ điếm các loại. Họ chạy tiếp tới đường Archeologica, và người lái xe dừng lại ở đầu đường.
- Ông sẽ tìm thấy một người đàn bà ở đây, - anh ta nói.
- Cám ơn anh bạn. - Robert trả tiền theo số đo trên đồng hồ và loạng choạng ra khỏi xe. Nó lao đi với tiếng bánh xe rít lên.
Robert nhìn quanh, xem xét đường phố. Không có cảnh sát. Một vài chiếc xe và một vài người bộ hành.
Hơn một chục cô gái điếm đang đi lại trên phố.
Trên tinh thần "Hãy quây những đối tượng thường xuyên lại", cảnh sát cứ hai tháng một lần lại càn quét để làm hài lòng những tiếng nói đạo đức và đưa đĩ điếm từ phố Veneto đầy lộ liễu tới khu vực nầy, nơi họ sẽ không xúc phạm những bà quý phái ngồi uống trà ở tiệm Doney. Vì lý do đó, hầu hết các tiểu thư nầy đều rất hấp dẫn và ăn mặc tử tế. Có một cô làm cho Robert phải để ý.
Cô ta có vẻ mới ngoài hai mươi, mái tóc dài màu sẫm, mặc chiếc váy màu đen và chiếc áo khoác ngắn màu trắng dễ trông, và ngoài cùng là một cái áo khoác bằng lông lạc đà. Robert đoán cô ta là một diễn viên hoặc một người mẫu nghiệp dư. Cô ta đang nhìn Robert.
Robert loạng choạng lại gần cô ta.
- Chào cô bé, - anh lè nhè. Cô em có nói tiếng Anh được không?
- Có
- Tốt. Em và anh, chúng ta sẽ có một cuộc vui chứ.
Cô mỉm cười ngập ngừng. Những người say rượu có thể gây rắc rối.
- Có thể là ông nên tỉnh táo lại trước đã. - Cô ta có một giọng nói thật mềm mại.
- Nầy, anh đủ tỉnh táo đấy nhé! Ông sẽ phải trả đủ một trăm đôla.
- Được thôi, em yêu.
Cô ta có một quyết định trong đàu.
- Tốt. Nào đi. Có một khách sạn ngay đằng đầu phố.
- Tuyệt vời. Tên cô em là gì thế?
- Pier.
- Còn anh là Henry. - Một chiếc xe cảnh sát xuất hiện ở đằng xa, chạy lại phía họ. - Chúng ta hãy đi khỏi đây.
Hai người phụ nữ khác nhìn một cách ghen tị trong khi Pier và người khách Mỹ kéo nhau đi.
Khách sạn đó không phải là Hassler, nhưng thằng bé mặt đầy mụn ngồi ở cái bàn dưới nhà đã không đòi trình hộ chiếu. Thực tế, cậu ta chỉ hơi ngước nhìn lên lúc đưa chìa khoá cho Pier.
- Năm mươi ngàn lia.
Pier nhìn Robert. Anh lấy tiền đưa cho thằng bé.
Căn phòng mà họ đi vào có một cái gường lớn kê ở góc phòng, một cái bàn nhỏ, hai cái ghế gỗ và một cái gương treo phía trên bồn tắm. Có một cái mắc treo quần áo ở sau cánh tủ.
- Ông phải trả tiền trước.
- Tất nhiên. - Robert đếm ra một trăm đôla.
- Cám ơn.
Pier bắt đầu cởi váy áo. Robert bước đến bên cửa sổ. Anh gạt tấm rèm sang một bên và nhìn ra. Mọi thứ có vẻ bình thường. Anh hy vọng là cho đến lúc nầy cảnh sát đang bám theo chiếc xe tải màu đỏ trên đường trở về Pháp. Robert thả tấm rèm ra và quay lại Pier đã trần truồng. Cô có một th.ân thể đẹp đến ngạc nhiên. Đôi vú trẻ trung, chắc nịch, bộ mông tròn trặn, một cái eo nhỏ và cặp chân dài, thon thả.
Cô nhìn Robert.
- Sao ông không cởi quần áo ra, Henry?
- Đây là đoạn phải mẹo nói thật với cô, - Robert nói, - tôi nghĩ là tôi đã uống hơi nhiều một chút. Tôi không thể làm gì với cô được.
Cô ta nhìn anh với ánh mắt cảnh giác.
- Vậy sao ông lại…
- Nếu tôi ở lại đây và ngủ một chút, chúng ta có thể làm tình vào buổi sáng.
Cô nhún vai.
- Em còn phải làm việc. Em sẽ mất tiền.
- Không sao. Tôi sẽ lo chuyện đó. - Anh đếm ra mấy tờ một trăm đôla và đưa cho cô. - Như thế là đủ chứ?
Pier nhìn số tiền và tính toán trong đầu. Thật cám dỗ. Ngoài kia trời lạnh mà lại còn ế khách. Mặt khác người đàn ông nầy có điều gì đó rất lạ. Đầu tiên là thực ra anh ta có vẻ không say. Anh ta ăn mặc thật đẹp, và với ngần ẩy tiền, anh ta có thể thuê buồng cho họ ở một khách sạn tốt. Ô, Pier nghĩ, thì việc quái gì?
- Được Chỉ có mỗi cái gi.ường nầy cho hai chúng ta thôi.
- Thế là tốt rồi.
Pier nhìn Robert lại bước đến bên cửa sổ và vén góc tấm rèm sang một bên.
- Ông đang tìm kiếm cái gì à?
- Có cửa sau ra khỏi khách sạn không?
Mình đang chui vào cái chuyện gì thế nầy? Pier băn khoăn. Người bạn thân nhất của cô đã bị bọn du đãng giết chết. Pier vẫn tự cho mình là hiểu cách xử sự của đàn ông, nhưng người nầy đã làm cho cô lúng túng. Anh ta có về không giống một tên tội phạm, thế nhưng vẫn…
- Vâng, có. - Cô ta đáp.
Có một tiếng thét đột ngột và Robert vội ngoái lại.
- Dio. Dio. Sono venuta tre volte. - Đó là một giọng nữ, từ phòng bên cạnh vẳng qua những bức tường giấy mỏng dính.
- Cái gì thế? - Tim Robert bắt đầu đập nhanh.
- Chị ta đang sung sướng. Chị ta nói rằng vừa có cơn khoái cảm lẩn thứ ba đấy. - Pier nhoẻn cười.
Robert nghe thấy tiếng gi.ường cọt kẹt dữ đội.
- Ông sẽ đi ngủ chứ? Pier đứng đó, trần truồng nhìn anh, không hề ngượng ngập.
- Tất nhiên. - Robert ngồi xuống gi.ường.
- Ông không cởi quần áo ra à?
- Không.
- Tuỳ ông thôi. - Pier đến bên gi.ường và nằm xuống bên cạnh Robert. - Em mong là ông đừng ngáy, - Pier nói.
- Cô có thể nói với tôi về điều đó vào lúc sáng ra.
Robert không có ý định ngủ. Anh muốn kiểm tra đường phố trong đêm để tin chắc rằng họ đã không mò tới đây. Sau cùng thì họ cũng sẽ lần tới những khách sạn hạng ba nầy, nhưng nó cũng sẽ còn làm cho họ mất khối thời gian. Họ có quá nhiều chỗ phải để mắt tới trước đã. Anh nằm đó, cảm thấy xương cốt mỏi nhừ và nhắm mắt lại để nghỉ một chút. Anh thiếp đi. Anh đã trở về nhà, trong gi.ường của mình và anh cảm thấy th.ân thể nóng ấm của Susan ở bên. Cô ấy đã trở về, anh sung sướng nghĩ. Cô ấy đã trở về với mình. Em yêu, anh nhớ em quá.
Ngày thứ mười bảy
Rome, Italia.
Robert thức giấc vì ánh nắng mặt trời soi vào mặt.
Anh bật ngồi dậy, hoảng hết nhìn quanh trong một giây ngỡ ngàng. Khi nhìn thấy Pier, trí nhớ lập tức trở lại. Anh nhẹ nhõm cả người. Pier đang đứng chải đầu trước gương.
- Chúc một ngày tốt đẹp. - Cô ta nói. - Không thấy ông ngáy.
Robert nhìn đồng hồ. 9 giờ sáng. Anh đã lãng phí những thời gian quý báu.
- Ông có muốn làm tình bây giờ không? Ông đã trả tiền mà.
- Thế nầy là được rồi. - Robert nói.
Pier vẫn trần truồng, đầy khêu gợi, bước lại bên gi.ường - Thật không ông?
- Nếu như muốn thì tôi cũng không thể, cô gái ạ. Đúng thế.
- Cũng được. - Cô ta vừa mặc quần áo vừa hỏi với vẻ bình thản. - Susan là ai thế?
- Câu hỏi đó làm anh bị bất ngờ.
- Susan? Vì sao cô lại hỏi thế?
- Ông đã nói ra trong lúc ngủ.
- Anh nhớ lại giấc mơ của mình. Susan đã trở vể với anh. Có thể đó là một tín hiệu.
- Cô ấy là một người bạn.
Cô ấy là vợ tôi. Cô ấy sắp chán cái thằng cha Cái Túi tiền và một ngày nào đó sẽ trở về với tôi. Nghĩa là nếu như tôi còn sống được.
Robert bước đến bên cửa sổ. Anh vén tấm rèm và nhìn ra ngoài. Lúc nầy, đường phố đã đông đúc khách bộ hành và các cửa hàng cửa hiệu đã mở cửa. Không có dấu hiệu nguy hiểm nào.
Đã đến lúc bắt tay vào kế hoạch, anh quay lại cô gái.
- Pier, cô có thích có một chuyến đi nho nhỏ với tôi không?
Cô ta nhìn anh, nghi hoặc.
- Một chuyến đi. Đi đâu?
- Tôi phải đi Venice vì công việc, và tôi không thích đi một mình. Cô có thích Venice không?
- Có.
- Tốt. Tôi sẽ trả tiền cho thời gian của cô, và chúng ta sẽ có một kỳ nghỉ ngắn với nhau. - Anh lại chăm chú nhìn ra cửa sổ. - Tôi biết một khách sạn đáng yêu ở đó Khách sạn Cipriani.
Mấy năm trước, anh và Susan đã ở tại khách sạn Hoàng gia Danieli, sau anh đã có lần trở lại và thấy nó xuống cấp nghiêm trọng, còn gi.ường mềm thì không thể chịu nổi. Điều duy nhất còn lại của những gì hấp dẫn trước đó là Luciano, ngồi tại quầy tiếp tân.
- Ông sẽ phải trả một nghìn đôla một ngày. - Dù trong lòng cô sẵn sàng chấp nhận với cái giá năm trăm.
- Đồng ý. - Robert nói. Anh đếm ra hai ngàn đôla - Ta hãy bắt đầu thế nầy nhé.
Piér lưỡng lự. Cô ta đã linh cảm thấy rằng có chuyện gì đó Nhưng người ta đã hoãn lại việc khởi sự quay bộ phim mà cô được hứa cho một vai phụ trong đó, và cô lại cần tiền. "Đồng ý," cô ta nói.
- Chúng ta đi nào.
Dưới nhà, Pier thấy anh quan sát đường phố thận trọng trước khi bước ra vẫy một chiếc taxi. Ông ta là mục tiêu của một kẻ nào đó, Pier nghĩ, mình phải thôi vụ nầy mới được.
- Nầy, - Pier nói. - Tôi không chắc là tôi có thể đi Venice với ông được. Tôi…
- Chúng ta sẽ có một khoảng thời gian thú vị mà, Robert nói.
Thẳng ngay bên kia phố, anh nhìn thấy một tiệm kim hoàn. Anh nắm lấy tay Pier.
Đi nào. Tôi sẽ kiếm cho cô một cái gì đó thật đẹp.
- Nhưng.
Anh dẫn cô băng qua đường vào cửa hàng trang sức. Người bán hàng đứng sau quầy nói:
- Xin chào, thưa ông. Tôi có thể giúp ông ạ?
- Phải, - Robert nói. - Chúng tôi muốn tìm kiếm một thử gì đó đáng yêu cho tiểu thư đây. Em có thích ngọc lục bảo không?
- Em, có.
- Anh có một cái vòng lục bảo nào không? - Robert nói với người bán hàng.
- Có thưa ông. Tôi có một cái vòng lục bảo rất đẹp Anh ta bước lại bên một cái tủ và lấy nó ra. - Đây là cái đẹp nhất của chúng tôi. Mười lăm ngàn đôla.
- Em có thích nó không? - Robert nhìn Pier.
Không nói nên lời, cô gật đầu.
- Chúng tôi sẽ lấy. - Robert nói. Anh đưa cho người bán hàng tấm thẻ tín dụng ONI của anh.
- Xin chờ một phút. - Người bán hàng đi vào một phòng ở phía sau. Khi trở ra, anh ta nói. - Tôi sẽ gói nó lại cho ông, hay…
- Không cô bạn tôi sẽ đeo nó. - Robert nói và lồng nó vào cổ tay Pier. Cô ta nhìn nó chằm chằm, sững sờ.
- Trông nó sẽ đẹp hơn ở Venice, có phải thế không? - Robert nói với cô ta.
Pier ngẩng lên mỉm cười với anh.
- Rất đẹp.
Khi họ đã ra ngoài phố, Pier nói:
- Em… em không biết phải cảm ơn anh thế nào.
- Tôi chỉ muốn cô vui, - Rỏbert nói. Cô có xe không?
- Không. Em từng có một chiếc xe cũ, nhưng nó đã bị đánh cắp.
- Cô vẫn có bằng lái xe chứ?
- Vâng, nhưng mà không có xe thì cái bằng nào có ích gì? - Cô nhìn anh ngạc nhiên.
- Rồi cô sẽ thấy. Chúng ta hây đi khỏi đây.
- Anh vẫy một chiếc taxi.
- Đến phố Po.
Cô ta ngồi trong taxi, quan sát anh. Sao ông ta lại muốn có cô đi cùng đến thế nhỉ? Thậm chí ông ta đã không sờ đến cô. Có thể ông ta…?
- Dừng lại. - Robert kêu người lái xe. Họ đang ở cách Hãng cho thuê xe ô tô Maggiore chừng một trăm mét.
- Ta sẽ xuống đây. - Robert nói với Pier. Anh trả tiền tắcxi và chờ cho nó đi khuất. Anh đưa cho Pier một xấp tiền dầy. - Tôi muốn cô thuê một chiếc xe cho chúng ta. Hãy hỏi lấy một chiếc Fiat hoặc một chiếc Alfa Romeo. Hãy nói với họ là chúng ta sẽ dùng trong bốn hoặc năm ngày. Chỗ tiền nầy đủ cho khoản trả trước. Hãy thuê nó bằng tên của cô. Tôi sẽ chờ ở cái quán đôl diện bên nầy đường.
Cách đấy không đầy tám dẫy phố, hai thám tử đang tra xét người tài xế bất hạnh của chiếc xe tải màu đỏ mang biển số Pháp.
- Tôi không biết gì hết. Tôi không hiểu thế quái nào mà cái thẻ kia lại có trên thùng xe của tôi. - Người lái xe kêu lên. - Hẳn là một gã Italia điên khùng nào đó đã làm chuyện nầy.
Hai thám tử nhìn nhau. Một trong hai người nói:
- Tôi sẽ gọi điện báo cáo về việc nầy.
Francesco Cesar ngồi trước bàn làm việc, ngẫm nghĩ về những diễn biến mới nhất. Thoạt đầu, công việc có vẻ thật đơn giản. "Các ngài sẽ tìm được hắn ta không chút khó khăn gì. Vào lức thích hợp, chúng tôi sẽ cho cái thiết bị phát tín hiệu kia hoạt động, và nó sẽ dẫn các ngài tới thẳng chỗ hắn". Rõ ràng là ai đó đã đánh giá thấp sĩ quan chỉ huy Bellamy.
Đại tá Frank Johnson đang ngồi trong văn phòng tướng Hilliard, vóc người to lớn của ông ta choán hết cả cái ghế.
Chúng ta đã dùng tới một nửa số nhân viên ở châu Âu để săn lùng hắn. - Tướng Hilliard nói. - Cho tới nay thì họ vẫn chưa gặp may.
- Chỉ may mắn cũng không đủ. - Đại tá Johnson nói. - Bellamy rất cừ.
- Chúng ta biết hắn hiện ở Rome. Thằng chó đẻ đó đã mua một cái vòng với giá mười lăm ngàn đôla.
- Chúng ta đã vây chặt hắn. Hắn không có lối nào để thoát khỏi Italia hết. Chúng ta biết cái tên, đang dùng trên hộ chiếu của hắn - Arthur Butterfield.
Đại tá Johnson lắc đầu.
- Nếu tôi không nhầm về Bellamy thì ngài không thể có một manh mối gì về cái tên mà anh ta đang dùng. Điều duy nhất ngài có thể chắc chắn là Bellamy sẽ không làm điều mà ngài tin rằng anh ta sẽ làm. Chúng ta đang săn đuổi một người ngang tầm với người giỏi nhất trong nghề. Có thể là còn hơn thế. Nếu có nơi nào để thoát, Bellamy sẽ chạy đến đó. Nếu có nơi nào để ẩn náu, Bellamy sẽ ẩn náu ở đó. Tôi nghĩ cách tốt nhất cho chúng ta là đưa anh ta ra công khai, để phát hiện. Cho đến lúc nầy, anh đã đang khống chế tất cả các bước đi. Chúng ta phải dành quyền chủ động khỏi tay anh ta.
- Ý ông nỏi là công bố à? Trao cho báo chí à?
- Đúng vậy!
- Chuyện đó sẽ rất nhạy cảm: Chúng ta không thể chấp nhận việc bị lộ mặt.
Tướng Hillard bặm môi.
- Chúng ta sẽ không phải bộc lộ mình. Chúng ta sẽ đưa ra một thông báo, rằng anh ta bị truy nã về tội buôn lậu ma tuý. Với cách đó, chúng ta có thể đưa Tổ chức Cảnh sát Quốc tế và tất cả các cơ quan cảnh sát ở châu Âu vào cuộc mà không hề lộ ra bàn tay của chúng ta.
Tướng Hilliard ngẫm nghĩ một lát.
- Tôi thích ý kiến đó.
- Tốt quá. Tôi sẽ đi Rome. - Đại tá Johnson nói. - Tôi sẽ đích thân phụ trách cuộc săn lùng nầy.
Khi đại tá Frank Johnson trở về văn phòng riêng, ông tỏ ra trầm tư hẳn. Không còn nghi ngờ gì nữa.
Ông phải tìm cho được sĩ quan chỉ huy Bellamy.
 
CHƯƠNG 37 -
R
obert nghe tiếng chuông điện thoại réo mãi. Lúc nầy là 6 giờ sáng ở Washington. Mình luôn luôn đánh thức ông già dậy sớm, Robert nghĩ.
Sau hồi chuông thứ sáu thì vị đô đốc trả lời máy.
- Hello.
- Thưa đô đốc, tôi Robert.
- Cái gì…
- Đừng nói gì cả. Điện thoại của ngài có thể bị gắn máy nghe trộm. Tôi sẽ nói rất nhanh thôi. Tôi muốn nói với ngài đừng tin vào bất kỳ điều gì họ nói về tôi. Tôi muốn ngài cố tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra. Sau nầy có thể tôi cần tới sự giúp đỡ của ngài.
- Tất nhiên. Bất kỳ việc gì mà tôi có thể làm được, Robert.
- Tôi biết. Tôi sẽ gọi lại cho ngài sau.
Robert gác máy. Không đủ thời gian để bị dò tìm.
- Anh nhìn thấy một chiếc Fiat màu xanh dừng lại bên ngoài quán. Pier ngồi sau tay lái.
- Ngồi sang bên đi. - Robert nói. - Tôi sẽ lái.
- Pier nhường chỗ cho anh.
- Chúng ta lên đường đi Venice chứ? - Pier nói.
- Hừm. Chúng ta phải dừng lại một vài nơi trước đã. Đã đến lúc rải xung quanh một vài dấu vết giả.
Phía trước là Hãng dịch vụ du lịch Rossini. Robert dừng xe lại. - Tôi sẽ trở ra sau một phút thôi.
Pier nhìn theo anh đi vào trong hãng. Mình có thể cứ lái xe đi, cô ta nghĩ, và cầm khoản tiền, ông ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy mình cả. Nhưng cái xe khốn kiếp nầy lại được thuê theo tên mình. khốn kiếp.
Bên trong trụ sở hãng, Robert bước đến chỗ người phụ nữ ngồi sau quầy.
- Xin chào. Tôi có thể giúp ông ạ?
- Phải. Tôi là Robert Bellamy. Tôi muốn đi du lịch. - Robert nói với chị ta. - Tôi muốn đăng ký trước.
Đó chính là công việc của chúng tôi, thưa ông.
- Ông định đi đâu? - Chị ta mỉm cười.
- Tôi muốn có một vé máy bay hạng nhất đi Bắc Kinh, vé một chiều.
Chị ta ghi điều đó.
- Và khi nào ông muốn lên đường.
- Thứ sáu nầy.
- Rất được. - Chị ta ấn mấy phím bấn trên một chiếc máy tính. Có một chuyến bay của Hãng hàng không Trung Quốc khởi hành lúc 7 giờ 40 tối thứ sáu.
- Rất tốt.
Chị ta ấn mấy phím nữa.
- Đây! Sự đặt vé trước của ông đã được xác nhận.
- Sẽ trả tiền mặt hay…?
- Ồ tôi chưa xong. Tôi muốn đặt một vé xe lửa đi Buđapest.
- Và vào lúc nào vậy, thưa ông?
- Thứ hai tới.
- Và tên hành khách?
- Cùng tên.
- Ông bay đi Bắc Kinh vào thứ sáu và… - Chị ta lạnh lùng nhìn anh.
- Tôi chưa xong đâu, - Robert lịch thiệp nói. - Tôi muốn có một vé máy bay một chiều đi Miami, Florida vào chủ nhật.
Lúc nầy thì chị ta trợn tròn mắt nhìn anh.
- Thưa ông, nếu như đây là một kiểu?…
Robert rút tấm thẻ tín dụng ONI của anh ra và trao nó cho chị ta.
- Hãy tính tiền vé vào tấm thẻ nầy.
Chị ta nhìn nó một thoáng.
- Xin lỗi. - Chị ta đi vào trong một phòng ở phía sau và trở ra sau vài phút. - Hoàn toàn được. Chúng tôi sẽ vui lòng thu xếp tất cả. Ông muốn tất cả vé đều cùng một tên phải không ạ?
- Phải. Sĩ quan chỉ huy Bellamy.
- Rất tốt.
Robert nhìn chị ta ấn thêm những phím bấm trên máy tính. Một phút sau, ba chiếc vé xuất hiện. Chị ta xé chúng khỏi chiếc máy in.
- Xin cho những chiếc vé vào từng phong bì một. - Robert nói.
- Tất nhiên. Ông có muốn tôi sẽ gửi chúng đến…?
- Tôi sẽ mang chúng đi luôn.
- Vâng, thưa ông.
Robert ký phiếu thanh toán bằng thẻ tín dụng và chị ta đưa cho anh hoá đơn.
- Xin chào ông. Chúc một chuyến đi, những chuyến đi ạ!
- Cám ơn. - Robert mỉm cười.
Một phút sau anh đã ngồi sau tay lái.
- Bây giờ chúng ta đi chứ? - Pier hỏi.
Chúng ta còn phải dừng ở một vài nơi nữa, - Robert nói.
Pier nhìn anh cẩn thận quan sát đường phố trước khi cho xe chuyển bánh.
- Tôi muốn nhờ cô giúp cho một việc. - Robert nói với cô ta.
Bây giờ bắt đầu có chuyện đó, Pier nghĩ. Ông ta sẽ đòi mình làm điều gì đó khủng khiếp.
- Việc gì ạ? Cô ta hỏi.
Họ đã dừng lại trước khách sạn Victoria. Robert trao cho Pier một chiếc phong bì.
- Tôi muốn cô vào thuê một phòng hạng nhất với tên sĩ quan Robert Bellamy. Nói với họ rằng cô là thư ký của ông ấy và ông ấy sẽ đến sau một tiếng, nhưng cô muốn lên xem phòng trước. Khi vào trong phòng rồi thì để phong bì lại trên một cái bàn nào đó trong phòng.
- Có thế thôi à? - Cô ta nhìn anh ngạc nhiên.
Phải.
- Được.
Thật không thể hiểu người đàn ông nầy. Cô ta muốn biết cái người Mỹ điên khùng nầy đang làm gì. Và sĩ quan Robert Bellamy là ai?
Pier ra khỏi xe và đi vào trong tiền sảnh khách sạn. Cô ta hơi lo lắng. Trong quá trình hành nghề, cô đã bị ném ra khỏi một vài khách sạn hạng nhất. Thế nhưng người nhân viên ngồi sau bàn đã chào cô một cách tử tế.
- Tôi có thể giúp cô, thưa tiểu thư?
- Tôi là thư ký của sĩ quan Robert Bellamy. Tôi muốn thuê một phòng hạng nhất cho ông ấy. Ông ấy sẽ có mặt ở đây sau một giờ.
Người nhân viên xem tấm sơ đồ phòng.
- Đúng là tôi còn một phòng hạng nhất rất đẹp.
- Xin cho tôi xem qua được không?
- Tất nhiên. Tôi sẽ cho người đưa cô lên.
Một viên phó quản lý đưa Pier lên gác. Họ bước vào căn phòng khách của khu phòng và Pier nhìn quanh.
- Cô hài lòng chứ, thưa cô?
Pier không hề biết tí gì về những việc thế nầy.
- Được thế nầy là được. - Cô ta lấy chiếc phong bì ra khỏi ví và đặt nó lên chiếc bàn uống cà phê. - Tôi sẽ để cái nầy lại cho ông sĩ quan. - Cô ta nói.
- Được.
Pier không ngăn nổi tò mò. Cô ta mở chiếc phong bì. Trong đó là một chiếc vé máy bay một chiều đi Bắc Kinh với cái tên sĩ quan Robert Bellamy. Pier bỏ tấm vé vào trong phong bì, để nó lên trên bàn và đi xuống gác.
Chiếc Fiat màu xanh đỗ trước cửa khách sạn.
- Có chuyện gì không hả?
- Không.
- Chúng ta phải dừng ở hai nơi nữa, và rồi chúng ta sẽ lên đường. - Robert vui vẻ nói.
Chỗ dừng tiếp theo là khách sạn Valadier. Robert trao một chiếc phong bì khác cho Pier.
- Tôi muốn cô đặt trước một phòng ở đây cho cái tên sĩ quan Robert Bellamy. Nói với họ là ông ấy sẽ đến làm thủ tục trong vòng một giờ. Rồi…
- Tôi để cái phong bì nầy lại trên phòng.
- Đúng.
Lần nầy, Pier đi vào khách sạn tự tin hơn. Phải cư xử như một tiểu thư, cô nghi. Người ta cần phải có một thái độ đàng hoàng. Đó chính là cái bí quyết khốn nạn.
Còn một phòng trống ở khách sạn nầy.
- Tôi muốn xem qua nó. - Pier nói.
Một viên phó quản lý đưa Pier lên gác.
- Đó là một trong những phòng đẹp nhất của khách sạn chúng tôi.
Căn phòng đẹp thật.
- Tôi cho là cũng được. Ông sĩ quan là người rất đặc biệt, ông phải biết thế. - Pier nói vẻ kiêu kỳ.
Cô ta lấy cái phong bì thứ hai ra, mở phong bì vào nhìn vào bên trong, Nó đựng một cái vé xe lửa đi Buđapest mang tên sĩ quan Robert Bellamy. Pier nhìn chằm chằm vào tấm vé, bối rối. Cái trò gì thế nầy nhỉ? Cô ta để lại tấm vé trên chiếc bàn cạnh gi.ường.
- Thế nào? - Khi Pier xuống xe, Robert hỏi.
- Tốt cả.
Nơi dừng cuối cùng nhé.
Lần nầy là khách sạn Leonardo da Vinci. Robert trao cho Pier cái phong bì thứ ba.
- Tôi muốn cô…
- Em biết.
Bên trong khách sạn, một nhân viên nói:
- Vâng, đúng là chúng tôi còn một phòng hạng nhất rất tốt, thưa tiểu thư. Cô nói là khi nào thì ông sĩ quan sẽ đến nhỉ?
- Sau một giờ. Tôi muốn kiểm tra căn phòng trước xem có được không?
- Tất nhiên rồi, thưa cô.
Khu phòng nầy còn sang trọng hơn cả hai khu phòng trước. Viên phó quản lý cho cô xem phòng ngủ rộng rãi với một cái gi.ường có trướng phủ ở giữa phòng.
Thật là một sự lãng phí, Pier nghĩ. Một đêm nghỉ ở đây đối với mình là cả một gia tài. Cô lấy ra chiếc phong bì thứ ba và ngó vào trong. Nó chứa một vé máy bay đi Miami, Florida. Pier để chiếc phong bì lên trên gi.ường.
Viên phó quản lý đưa Pier trở lại phòng khách.
- Chúng tôi có ti vi màu, - Ông ta bước lại gần chiếc ti vi và bật nó lên. Một tấm ảnh của Robert hiện lên trên màn hình. Giọng người phát thanh viên đang nói: "… và Cảnh sát Quốc tế tin rằng hiện hắn đang ở Rome. Hắn ta bị truy nã để thẩm vấn về một đường dây buôn lậu ma tuý quốc tế. Đây là Bernard Shaw của chương trình thời sự CNN". Pier nhìn chòng chọc vào màn hình ti-vi, chết sững.
Tất cả đều đáng hài lòng chứ ạ? - Viên phó quản lý tắt máy.
- Vâng, - Pier chậm chạp đáp. Một tên buôn lậu ma tuý.
- Chúng tôi mong chờ được tiểp đón ông sĩ quan.
Khi Pier ngồi vào trong xe cùng với Robert, cô đã nhìn anh với cặp mắt khác.
- Giờ thì chúng ta sẵn sàng lên đường rồi. - Robert mỉm cười.
Tại khách sạn Victoria, một người đàn ông trong một bộ complê màu sẫm đang xem xét danh sách đăng ký khách. Anh ta ngẩng lên nhìn người nhân viên.
- Sĩ quan Bellamy làm thủ tục thuê phòng lúc mấy giờ?
Ông ta chưa đến đây. Cô thư ký của ông ta đặt buồng. Cô ta nói ông ta sẽ có mặt trong vòng một giờ.
Người đàn ông quay sang nhìn người đi cùng với anh ta.
Cho kiểm tra toàn bộ khách sạn. Lấy thêm lực lượng. Tôi sẽ chờ ở trên gác. - Anh ta quay sang người nhân viên. - Mở khoá phòng cho tôi.
Cửa mở ra. Người đàn ông mặc complê màu sẫm di chuyển một cách thận trọng, súng cầm tay. Khu phòng trống không.
- Anh ta nhìn cái phong bì ở trên bàn và nhặt nó lên. Ngoài phong bì ghi: "Sĩ quan Robert Bellamy".
Anh ta mở phong bì và liếc nhìn vào bên trong. Một tích tắc sau, anh ta đã quay số gọi về trụ sở SIFAR.
Francesco Cesar đang họp dở chừng với đại tá Frank Johnson. Trước đó hai tiếng đồng hồ, đại tá Johnson đã hạ cánh xuống sân bay Leonardo da Vinci nhưng ông ta không hề tỏ ra mệt mỏi.
Theo chỗ chúng ta biết, - Cesar đang nói, Bellamy vẫn còn ở Rome. Chúng ta đã có hơn 30 báo cáo về những dấu vết của anh ta.
- Có xác minh được gì không?
- Không.
Điện thoại réo vang.
- Thưa đại tá, đây là Luigi. - Giọng nói trong điện thoại vang lên. - Chúng tôi đã kiếm được hắn rồi. Tôi đang ở trong khu phòng của hắn ta tại khách sạn Victori ạ. Tôi có tấm vé máy bay đi Bắc Kinh của hắn. Hắn sẽ đi vào ngày thứ sáu.
Cesar cất giọng đầy hồi hộp.
- Tốt. Cứ ở đó. Chúng tôi sẽ đến ngay.
Ông ta gác máy và quay sang đại tá Johnson.
- Thưa đại tá, tôi e rằng chuyến đi của ông thật phí công. Chúng tôi đã tóm được hắn. Hắn đã đăng ký thuê phòng tại khách sạn Victoria. Họ tìm thấy một chiếc vé máy bay mang tên hắn, đi Bắc Kinh vào ngày thứ sáu.
Bellamy dùng tên anh ta để đăng ký thuê phòng khách sạn ư? Đại tá Johnson ôn hoà nói.
- Phải.
- Và vé máy bay cũng mang tên anh ta hả?
- Phải. Đại tá Cesar đứng dậy. - Chúng ta hãy cùng tới đó.
- Đừng để phí thời gian của ông. - Đại tá Johnson lắc đầu - Cái gì hả?
- Béllamy sẽ không bao giờ…
Điện thoại lại réo vang. Cesar chộp máy. Một giọng nói vang lên:
- Đại tá phải không? Đây là Mario. Chúng tôi đã phát hiện Bellamy. Hắn ta ở khách sạn Valadier.
- Hắn ta sẽ đi tàu hoả tới Buđapest vào ngày thứ hai.
- Ngài muốn chúng tôi làm gì?
- Tôi sẽ liên lạc lại với anh. - Đại tá Cesar nói.
Ông ta quay sang nhìn đại tá Johnson.
- Họ tìm thấy một vé xe lửa đi Buđapest mang tên Bellamy. Tôi không hiểu cái gì…
- Điện thoại lại đổ chuông.
- Hả? - Giọng ông ta gay gắt hơn.
- Đây là Bruno. Chúng tôi đã phát hiện ra Bellamy. Hắn đặt phòng tại khách sạn Leonardo da Vinci. Hắn ta sẽ bay đi Miami vào chủ nhật. Tôi sẽ phải…
- Trở về đây. - Cesar quát lên. Ông ta dập mạnh máy xuống - Hắn giở trò gì vậy?
Đại tá Johnson nói một cách quả quyết.
- Anh ta đang lo liệu để ông phung phí nhân lực của ông, có phải thế không nào?
- Chúng ta làm gì bây giờ hả?
- Chúng ta bẫy thằng chó đẻ đó.
Họ đang chạy trên đường Cassia, gần Logiata, hướng tới Venice ở phía bắc.
Cảnh sát hẳn đang bịt mọi ngả đường chính dẫn khỏi Italia, nhưng chắc họ đợi anh về phía tây, để sang Pháp hoặc Thuỵ Sĩ. Từ Venice, Robert nghĩ, mình có thể đi xuồng máy cao tốc tới Trièste và tìm đường đến Áo. Sau đó…
Tiếng Pier cắt ngang những suy nghĩ của anh.
- Em đói.
- Cái gì?
- Chúng ta chưa hề ăn sáng hoặc ăn trưa.
- Tôi xin lỗi. - Robert nói. Anh đã quá mải nghĩ ngợi mà quên cả chuyện ăn uống. - Chúng ta sẽ dừng ở tiệm ăn tới nhé.
Pier quan sát anh trong lúc lái xe. Cô chưa bao giờ thấy khó xử đến thế. Cô sống trong một thế giới của đám ma cô và kẻ cắp và những kẻ buôn bán ma tuý. Người đàn ông nầy khỏng giống như một tội phạm.
Họ dừng lại một thị trấn bên đường, trước một tiệm ăn nhỏ. Robert lái xe vào khu đậu xe và anh cùng Pier rời khỏi xe.
Cái tiệm ăn đầy kín những khách quen và ồn ào với những câu chuyện và tiếng bát đĩa loảng xoảng.
Robert tìm một cái bàn ở sát tường và ngồi xuống chiếc ghế nhìn ra cửa ra vào. Một người hầu bàn đi đến và đưa cho họ thực đơn.
Robert nghĩ: Lúc nầy hẳn Susan đang ở trên thuyền rồi. Đây có thể là lần cuối cùng mình có thể nói chuyện với cô ấy.
- Cô xem thực đơn đi. - Robert đứng dậy. - Tôi sẽ quay lại ngay thôi.
Pier nhìn theo anh đi ra một máy điện thoại công cộng chỗ gần bàn của họ.
- Anh bỏ một đồng tiển xu vào trong máy.
- Tôi muốn nói với tổng đài hàng hải ở Gibralta.
- Cám ơn.
Ông ta gọi cho ai ở Gibralta nhỉ? Pier tò mò. Phải chăng đó là lối thoát của ông ta?
- Xin chào, tôi muốn gọi chiếc du thuyền Mỹ, Thanh Bình, ngoài khơi Gibralta, tính tiền ở đó. Whisky Sugar 337. Cảm ơn.
Những nhân viên tổng đài trao đổi với nhau trong một vài phút và anh được chấp nhận.
Robert nghe thấy tiếng Susan trên máy.
- Susan.
- Robert. Anh khoẻ không?
- Khoẻ. Anh chỉ muốn nói với em…
- Em biết anh muốn nói gì. Điều đó được nói đầy trên đài và trên tivi. Vì sao mà Cảnh sát Quốc tế lại truy lùng anh hả?
- Đó là một câu chuyện dài.
- Anh cứ nói. Em muốn biết.
Anh lưỡng lự.
- Đó là chuyện chính trị, Susan. Anh có bằng chứng là một số chính phủ đang cố bưng bít mọi chuyện quan trọng. Vì thế mà Cảnh sát Quốc tế truy lùng anh đấy.
Pier chăm chú nghe phần cuối cuộc nói chuyện của Robert.
- Em có thể làm gì để giúp anh hả?
- Không có gì cả, em yêu ạ. Anh gọi lại để được nghe thấy tiếng em một lần nữa trong trường hợp trong trường hợp anh không thoát khỏi được chuyện nầy.
- Đừng nói thế. - Trong giọng cô có vẻ hoảng sợ. - Anh có thể nói với em anh đang ở nước nào không"
- Italia.
Một thoáng im lặng ngắn.
- Được. Bọn em không ở xa anh lắm. Bọn em ở ngay ngoài khơi Gibralta mà, bọn em có thể đón anh ở bất kỳ chỗ nào anh muốn.
- Không, anh…
- Hãy nghe em. Đó có thể là cơ hội thoát duy nhất của anh.
- Anh không thể để em làm điều đó, Susan ạ. Em sẽ gặp nguy hiểm.
Monte bước vào trong phòng đúng lúc có thể nghe được một phần câu chuyện.
- Để anh nói chuyện với anh ta.
- Chờ một phút, Robert, Monte muốn nói chuyện với anh đấy.
- Susan, anh không…
- Robert, tôi hiểu là anh đang gặp khó khăn nghiêm trọng. - Giọng Monte xuất hiện trên máy.
- Anh có thể cho như vậy. Điều dối trá nhất trong năm.
- Chúng tôi muốn giúp anh thoát ra. Họ sẽ không tìm kiếm anh trên một chiếc du thuyền. Vì sao anh lại không để chúng tôi đón anh nhỉ?
- Monte, cảm ơn, tôi cảm ơn chuyện đó. Câu trả lời là không.
- Tôi nghĩ là anh đang mắc một sai lầm. Ở đây, anh sẽ an toàn.
Vì sao hắn lại sốt sắng giúp đỡ thế cơ chứ.
- Dù sao chăng nữa thì cũng xin cảm ơn. Tôi sẽ lo chuyện của tôi. Tôi muốn được nói chuyện tiếp với Susan.
- Được thôi. - Monte Banks trao lại máy cho Susan. - Hãy thuyết phục hắn. - Anh ta khuyến khích cô.
- Xin để bọn em giúp anh. - Cô nói vào trong máy.
- Em đã giúp anh rồi, Susan. - Anh phải ngưng lời trong một thoáng. - Em là phần tốt đẹp nhất trong đời anh. Anh chỉ muốn em biết rằng anh sẽ luôn luôn yêu em. - Mặc dù luôn luôn có thể không còn là chuyện gì to tát nữa.
- Anh sẽ còn gọi cho em chứ?
- Nếu như anh có thể.
- Hứa với em đi.
- Thôi được. Anh hứa.
Anh chậm chạp gác máy. Vì sao mình lại làm điều đó đối với cô ấy? Vì sao mình làm điều đó đối với chính mình? Bellamy, mầy là một thằng ngốc đa cảm.
Anh đi trở lại bàn.
- Chúng ta ăn thôi. - Robert nói. Họ gọi đồ ăn.
- Em nghe thấy câu chuyện của ông. Cảnh sát đang truy tìm ông, có phải không?
Robert giật mình. Bất cẩn quá. Cô ta sẽ trở thành điều rắc rối.
- Đó là chuyện hiểu lầm một chút. Tôi…
- Đừng làm em như một con ngốc. Em muốn giúp ông.
- Vì sao cô lại muốn giúp tôi? - Anh nhìn cô một cách cảnh giác.
Pier nhoài người về phía trước.
- Bởi vì ông thật hào phóng với em. Và em ghét cảnh sát. Ông không biết cái cảnh em đứng đường thế nào, bị bọn chúng săn đuổi và coi như rác rưởi. Chúng bắt em vì tội bán dâm nhưng chúng mang em vào những phòng kín của chúng và truyền tay nhau chơi. Chúng là đồ súc vật. Em sẽ làm bất kỳ điều gì để có thể trả thù bọn chúng. Bất kỳ điều gì mà em có thể giúp được ông.
- Pier, không có điều gì cô…
- Cảnh sát có thể bắt được ông một cách dễ dàng ở Venice. Nếu ông ở một khách sạn, họ có thể tìm được ông. Nếu ông tìm cách lên một con tàu, họ sẽ đón bẫy ông. Nhưng em biết một chỗ mà ông sẽ an toàn trước bọn họ. Mẹ và em em sống ở Naples. Chúng ta có thể đến đấy. Cảnh sát sẽ không bao giờ tìm kiếm ông ở đó cả.
Robert im lặng một lát, ngẫm nghĩ. Điều Pier nói hoàn toàn có ý nghĩa. Một ngôi nhà tư sẽ an toàn hơn bất kỳ nơi nào khác, và Naples là một thành phố cảng lớn. Từ đó có thể dễ dàng kiếm được một con tàu. Anh ngập ngừng trước khi trả lời. Anh không muốn mang lại nguy hiểm cho Pier.
- Pier, nếu cảnh sát tìm thấy tôi, họ sẽ hạ sát tôi theo mệnh lệnh. Cô sẽ bị coi như một tòng phạm. Cô có thể là đang tự đẩy mình vào chuyện rắc rối đấy.
- Điều đó thật đơn giản. - Pier mỉm cười. - Chúng ta sẽ không để cho họ tìm thấy.
Robert mỉm cười đáp lại nụ cười của cô ta. Anh có một quyết định trong đầu.
- Được. Ăn cho xong đi. Chúng ta sẽ đi Naples.
- Người của ông không biết anh ta đi về hướng nào phải không? - Đại tá Frank Johnson nói.
- Lúc nầy thì không. Nhưng đó chỉ là vấn đề thời gian, trước khi… - Francesco Cesar thở dài.
- Chúng ta không có thời gian. Ông đã xác minh về nơi ở hiện nay của người vợ cũ của anh ta chưa đấy?
- Vợ cũ của anh ta à? Chưa. Tôi không cho rằng…
- Vậy là ông chưa làm bài tập rồi. - Đại tá Johnson quát lên. - Cô ta đã cưới một người đàn ông tên là Monte Banks. Tôi đề nghị ông tìm kiếm họ ngay.
Nhanh lên.
 
CHƯƠNG 38 -
Cô lang thang dọc theo các đường phố lớn, dường như không biết là mình đang đi đâu. Từ cái vụ tai nạn khủng khiếp đó đã bao nhiêu ngày rồi nhỉ?
Cô không đếm được nữa. Cô mệt mỏi đến mức khó khăn lắm mới nghỉ ngơi được. Cô khát nước một cách khủng khiếp, nhưng không phải là thứ nước bị ô nhiễm mà những người trái đất vẫn uống, mà phải là nước mưa trong sạch. Cô cần có thứ chất lỏng tinh khiết để phục hồi sự sống trong cô, để có lại sức khoẻ mà tìm lại cái bộ phận tinh tế trong cái máy phát. Cô đang đuối sức.
Cô bước loạng choạng và đâm sầm vào một người đàn ông.
- Ô. Nhìn xem. - Người chào hàng Mỹ nhìn cô kỹ hơn và mỉm cười. - Xin chào. Không ngờ lại đụng vào cô như thế nầy.
Một con búp bê tuyệt vời làm sao vâng, có gì mà không ngờ.
- Cô từ đâu tới cô bé?
- Hệ mặt trời thứ bảy của các thiên hà.
- Tôi thích những cô gái hài hước. Cô đang đi đâu thế? - Ông ta cười phá lên.
- Tôi không biết. - Cô lắc đầu. - Ở đây, tôi là một người lạ.
- Cô đã ăn tối chưa? Lạy chúa, mình nghĩ mình đang gặp may đây.
- Chưa. Tôi không thể ăn được đồ ăn của các vị.
Mình đã vớ phải một người kỳ quặc thật sự đây. Nhưng là một người đẹp.
- Cô đang ở đâu?
- Tôi chẳng ở đâu cả.
- Cô không ở cả khách sạn à?
Một khách sạn ư? - Cô đã nhớ. Những cái hộp cho lữ khách.
- Không. Tôi phải tìm một nơi nào đó để ngủ. Tôi rất mệt.
Ông ta ngoác mồm cười.
- Ồ tôi có thể lo chuyện đó. Sao cô không lên phòng khách sạn của tôi nhỉ? Ở đó có một cái gi.ường to đẹp và tiện nghi. Em có thích thế không?
- Ồ, có rất thích.
- Tuyệt. - Ông ta không dám tin vào vận may của mình. Mình cam đoan là cô ta sẽ tuyệt vời trong chuyện ái ân cho mà xem.
- gi.ường của ông chuyên dành cho việc ái ân à? - Cô nhìn ông ta ngạc nhiên.
- Cái gì? Không, không. Cô thật thích đùa, có phải thế không hả? - Ông ta trố mắt nhìn cô.
- Chúng ta có thể đi ngủ bây giờ được không? - Cô gần như không thể mở nổi mắt ra nữa.
- Chắc chắn là thế. Khách sạn của tôi ở ngay góc phố thôi. - Ông ta xoa hai tay vào nhau.
Khi đã vào trong phòng, người đàn ông hỏi:
- Cô có muốn uống gì không? Chúng ta hãy làm cho cô mềm ra một chút.
Cô muốn uống khủng khiếp, nhưng không phải cái thứ nước uống mà người trái đất nầy có thể mời.
- Không. - Cô nói. - gi.ường ở đâu?
Lạy Chúa, cô ta đang nóng rực rồi.
- Ở trong nầy, em yêu. - Ông ta dẫn cô vào phòng ngủ. - Em không muốn uống thật à?
- Thật mà.
- Vậy thì sao em không… ờ, cởi ra đi?
Cô gật đầu. Đó là một tập quán của người trái đất.
Cô cởi cái váy đang mặc ra. Dưới váy đó, cô không còn gì hết. th.ân thể cô là cả một vẻ đẹp thanh tú.
Người đàn ông nhìn cô đăm đắm, sung sướng nói;
- Đây là đêm may mắn của anh, em yêu ạ. Và cả là của em nữa. Anh sẽ làm tình với em để em thấy rằng em chưa bao giờ được làm tình cả. Ông ta xé bỏ quần áo một cách cuống cuồng và nhảy lên gi.ường, nằm vào cạnh cô. - Nào, - Ông ta nói. - Anh sẽ cho em thấy một cuộc tình ra trò. - Ông ta ngước nhìn lên. Mẹ kiếp, anh lại vẫn để đèn kìa. - Ông ta định nhỏm dậy.
- Thôi khỏi. - Cô ngà nghệt nói. - Tôi sẽ tắt nó đi.
Và trong khi ông ta nhìn, cánh tay cô với ra, dài ra mãi, ngang căn phòng rộng, và những ngón tay của cô biến thành những dây leo màu xanh khi chúng bám vào cái công tắc điện.
Trong bóng tối, ông ta thét lên.
 
CHƯƠNG 39 -
Họ đang chạy với tốc độ cao trên xa lộ Sole dẫn đi Naples. Trong suốt nữa giờ, họ chạy trong im lặng, mỗi người mê mải với những ý nghĩ của mình.
Pier phá vỡ sự im lặng:
- Ông sẽ ở nhà mẹ em trong bao lâu? - Cô hỏi.
- Ba hoặc bốn ngày, nếu được.
- Thế thì được.
Robert không định ngủ lại đó quá một đêm, hai là cùng. Nhưng anh giữ im kế hoạch của mình. Ngay khi nào tìm được một con tàu an toàn, anh sẽ lên đường rời khỏi Italia.
- Em sốt ruột mong được gặp lại gia đình, - Pier nói.
- Cô chỉ có một người anh em nữa thôi à?
- Vâng, Carlo. Nó là em em.
- Pier, kể cho tôi nghe về gia đình đi.
Cô ta nhún vai.
- Chẳng có gì nhiều mà kể. Cha em cả đời làm việc dưới bến tàu. Khi em mười lăm tuổi, một chiếc cẩu đổ xuống giết chết ông. Mẹ em thì đau ốm và em phải nuôi bà, nuôi cả Carlo. Em có một người bạn ở xưởng phim Cinecitta và anh ta kiếm cho em những vai phụ. Họ trả rất ít và em đã phải ngủ với thằng cha trợ lý đạo diễn. Em cho rằng ở ngoài đường em có thể còn kiếm được nhiều tiền hơn. Bây giờ thì em làm cả hai nghề…
Không hề có vẻ tự thương cảm trong giọng nói của cô ta.
- Pier, cô có chắc là mẹ cô không phản đối việc cô mang một người lạ về nhà không?
- Em tin chắc. Mẹ con em rất gần gũi. Mẹ sẽ vui khi thấy em về. Ông yêu lắm hả?
- Bà mẹ cô ấy ư? - Robert nhìn sang cô ta, ngạc nhiên.
- Người phụ nữ mà ông nói chuyện điện thoại trong quán ăn ấy, Susan.
- Điều gì làm cho cô nghĩ là tôi yêu cô ấy?
- Giọng nói của ông. Cô ấy là ai thế?
- Một người bạn.
- Cô ta thật may mắn. Em mong giá mà cũng có ai quan tâm đến em như thế. Robert Bellamy có phải tên thật của ông không?
- Đúng.
- Và ông là một sĩ quan à?
Khó trả lời hơn.
- Tôi không rõ, Pier, - anh đáp, - trước đây thì là như thế.
- Ông có thể nói với em vì sao mà Cảnh sát quốc tế săn lùng ông không?
Anh nói một cách thận trọng:
- Tốt hơn là tôi không nói gì với cô thêm nữa. Chỉ ở bên tôi cũng đủ chuốc cho cô nhiều rắc rối. Cô biết càng ít càng tốt.
- Được thôi ông Robert.
Anh nghĩ tới hoàn cảnh lạ lùng đã đưa họ đến với nhau.
- Tôi hỏi cô điều nầy nhé. Nếu như cô biết những sinh vật lạ đến trái đất bằng những con tàu vũ trụ thì cô có sợ không hả?
- Ông hỏi nghiêm túc đấy chứ? - Pier nhìn anh một thoáng.
- Rất nghiêm túc.
Cô lắc đầu:
- Không. Em nghĩ là điều đó sẽ thật là thú vị.
- Ông có tin vào những chuyện đó không?
- Tôi không biết. - Robert cười vang.
- Chuyện nầy có liên quan gì tới việc cảnh sát săn lùng ông không đấy?
- Không, - Robert đáp nhanh. - Không có gì.
- Nếu như em nói với ông điều nầy, ông có hứa là sẽ không cáu với em không đã?
- Tôi hứa.
Khi cô ta nói, giọng cô ta thật nhỏ đến mức anh khó khăn lắm mới nghe thấy.
- Em nghĩ là em yêu ông.
- Pier…
- Em biết là em thật ngốc nghếch. Nhưng chưa bao giờ em nói với ai như thế cả. Em muốn ông hiểu như thế.
- Pier, tôi lấy làm hãnh diện.
- Ông chế giễu em đấy ư?
- Không, không hề, - anh nhìn cái đông hồ đo xăng. - Tốt hơn là chúng ta nên tìm ngay một cây xăng.
Mười lăm phút sau, họ tới nơi.
- Chúng ta sẽ đổ xăng ở đây. - Robert nói.
- Phải - Pier mỉm cười. - Em mong có thể gọi và báo cho mẹ em biết là em đang mang một người đàn ông đẹp trai về nhà.
Robert ghé xe vào sát cây xăng và nói với người phục vụ:
- Xin đổ đầy cho.
- Vâng, thưa ông.
Pier nhoài người và hôn lên má Robert.
- Em sẽ trở lại ngay.
Robert nhìn theo cô đi vào phía trong trạm để đổi tiền lẻ để gọi điện thoại. Cô ta đẹp thật, Robert nghĩ. Và thông minh. Mình phải thận trọng để khỏi xúc phạm cô ta.
Bên trong trạm, Pier đang quay điện thoại. Cô ta quay lại mỉm cười và vẫy vẫy Robert. Khi người nhân viên tổng đài thưa máy, Pier nói:
- Cho tôi Cảnh sát quốc tế. Nhanh lên.
 
CHƯƠNG 40 -
Ngay từ khi nhìn thấy trên màn ảnh tivi thông báo về Robert Bellamy, Pier đã biết rằng mình sắp trở thành giàu có. Nếu như Interpol, lực lượng cảnh sát chống tội phạm quốc tế, đang tìm kiếm Robert thì hẳn phải có một khoản tiền thưởng lớn cho việc bắt giữ được người nầy. Và cô lại là người duy nhất biết ông ta hiện ở đâu. Khoản tiền thưởng nầy sẽ là của cô ta tốt. Việc thuyết phục được ông ta đến Naples, nơi cô có thể theo dõi chặt ông ta, quả là một việc làm thiên tài.
Trên điện thoại, tiếng một người đàn ông nói:
"Interpol đây, cho phép tôi giúp bà?"
Tim Pier đập thình thịch. Cô ta liếc nhìn qua cửa kính để có thể tin chắc rằng Robert vẫn đang ở chỗ bơm xăng.
- Vâng. Các ông đang tìm kiếm một người tên là sĩ quan Robert Bellamy phải không?
Một thoáng im lặng.
- Xin cho hỏi ai đang gọi vậy?
- Không cần biết chuyện đó. Các ông có tìm kiếm ông ta hay không?
- Tôi sẽ phải để bà nói chuyện với một người khác.
- Xin bà vui lòng chờ máy? - Ông ta quay sang người trợ lý. - Tìm xem máy nào đang gọi đó, nhanh lên.
Ba mươi giây sau, Pier đang nói chuyện với một quan chức cấp cao.
- Vâng, thưa bà. Tôi có thể giúp bà chăng.
- Không. Đồ ngốc. Tôi đang tìm cách giúp các người thì có. Tôi biết sĩ quan Robert Bellamy. Các ông có muốn giữ ông ta hay không?
- Nhưng, có, thưa bà, chúng tôi rất muốn bắt ông ta. Và bà nói là đang giữ ông ta à?
- Đúng thế. Ông ta đang đi với tôi đây. Ông ta đáng giá bao nhiêu với các ông thế?
- Bà đang nói về chuyện tiền thưởng ư?
- Tất nhiên là tôi đang nói về tiền thưởng. - Cô ta lại nhìn qua kính cửa sổ. Những thằng cha nầy mới ngu ngốc làm sao.
Viên quan chức ra hiệu cho người trợ lý của ông ta hành động nhanh chóng hơn.
- Chúng tôi chưa treo giải thưởng đối với cái đầu của ông ta, thưa bà, bởi vậy…
- Ồ vậy thì ấn định ngay đi. Tôi đang vội.
- Bà đang chờ một khoản tiền thưởng bao nhiêu ạ?
- Tôi không biết. - Pier nghĩ một chút. - Năm mươi nghìn đôla có được không?
- Năm mươi nghìn đôla là cả một khoản tiền lớn. Nếu như bà nói cho tôi biết hiện bà đang ở đâu chúng tôi có thể đến chỗ bà và thương lượng về chuyện đó…
Hẳn hắn ta nghĩ mình là một con ngu ngốc.
Không. Hoặc là các ông đồng ý trả như tôi muốn hoặc…
Pier nhìn lên và thấy Robert đang lại gần.
- Nhanh lên. Có hay không?
- Rất tốt, thưa bà. Chúng tôi đồng ý trả bà…
Robert đang đi lại gần Pier.
Pier nói vào trong máy:
- Mẹ, chúng con sẽ về vào lúc ăn tối. Mẹ sẽ thích anh ấy. Anh ấy rất hay. Tốt. Chúng con sẽ về gặp mẹ sau. Chào mẹ.
Pier gác máy và quay lại Robert.
- Mẹ đang sốt ruột được gặp anh.
Tại trụ sở cảnh sát quốc tế, viên quan chức cấp cao kia nói:
- Anh đã tìm ra cú điện thoại đó chưa?
- Rồi. Nó được gọi từ một cây xăng trên xa lộ Sole.
Có vẻ như họ đang trên đường đi Naples.
Đại tá Francesco Cesar và đại tá Frank Johnson đang nghiên cứu tấm bản đồ treo trong phòng làm việc của Cesar.
- Naples là một thành phố lớn, - Đại tá Cesar nói. - Có tất cả nghìn chỗ cho anh ta ẩn náu ở đó.
- Về người phụ nữ kia thì sao?
- Chúng ta không hề biết cô ta là ai.
- Vì sao chúng ta không tìm hiểu? - Johnson hỏi.
- Bằng cách nào? - Cesar nhìn ông ta, ngạc nhiên.
- Nếu như Bellamy vội vã cần có một phụ nữ đồng hành để nguy trang, anh ta sẽ làm gì hả?
- Có khả năng là anh ta sẽ nhặt một con điếm.
- Đúng. Chúng ta cần bắt đầu từ đâu hả?
- Từ Tor di Ounto.
Họ chạy dọc theo con đường Archeologica và quan sát những cô gái điếm đang uốn éo. Ngồi cùng xe với đại tá Cesar và đại tá Johnson là đại uý Bellini thanh tra cảnh sát khu vực nầy.
- Chuyện nầy sẽ không dễ đâu. - Bellini nói. - Chúng nó đều ganh ghét nhau, nhưng khi động tới cảnh sát thì chúng lại như chị em ruột thịt vậy. Chúng sẽ không hé răng.
- Chúng ta sẽ xem. - Đại tá Johnson nói.
Bellini ra lệnh dừng lại và ba người bước ra khỏi xe. Những cô gái điếm nhìn họ đầy vẻ cảnh giác. Bellini bước đến bên một trong số những cô gái.
- Chào Maria. Công việc thế nào?
- Sẽ tốt hơn nếu ông đi khỏi đây.
Chúng tôi không có ý định ở lại. Tôi chỉ muốn hỏi cô một câu thôi. Chúng tôi đang tìm một người Mỹ, người đã nhặt một trong những cô gái ở đây đêm hôm qua. Chúng tôi muốn biết cô bé đó là ai. Cô có thể giúp chúng tôi không?
- Mấy cô gái điếm khác đã xúm quanh để nghe chuyện.
- Tôi không thể giúp ông. - Maria nói. - Nhưng tôi biết người có thể giúp được.
Bellini gật đầu hài lòng.
- Tốt. Ai?
Maria chỉ sang một cửa hiệu ở bên kia đường. Tấm biển trong cửa kính đề: Xem bói - Xem chỉ tay.
- Bà Lucia có thể giúp ông.
Các cô gái cười vang tán thưởng.
Đại uý Bellini nhìn họ và nói:
- Vậy là các cô đều thích đùa có phải không? Ồ, chúng ta sẽ chơi một trò mà tôi nghĩ là các cô sẽ rất thích. Hai ông đây rất muốn biết tên cô gái đã đi cùng với người Mỹ kia. Nếu các cô không biết cô ta là ai, tôi đề nghị các cô nói với bạn bè của mình, tìm ra ai đó biết, và khi các cô có câu trả lời thì gọi điện cho tôi.
- Sao chúng tôi lại phải làm thế? - Một trong số họ hỏi đầy vẻ thách thức.
- Các cô sẽ biết.
Một giờ sau, tất cả gái điếm ở Rome thấy họ đang bị vây ráp. Các xe tuần tiễu quét thành phố và bắt tất cả những cô gái lang thang trên các đường phố cùng với những tên dắt gái của họ. Những lời kêu gào phản đối vang lên.
- Các ông không thể làm thế… Tôi đã trả tiền bảo vệ cho cảnh sát.
- Tôi đã hành nghề ở khu vực nầy năm năm nay…
- Tôi đã cho ông và các bạn ông chơi không. Ông không nhớ à?
- Tôi trả ông tiền bảo vệ để làm gì hả…
Tới ngày hôm sau, các đường phố thực sự sạch bóng gái điếm và các nhà giam thì chật ních.
Đại tá Cesar và đại tá Johnson đang ngồi trong phòng làm việc của đại uý Bellini.
- Sẽ khó mà giữ mãi họ trong trại giam được. - Đại uý Bellini cảnh cáo. - Tôi cũng có thể nói thêm rằng chuyện nầy sẽ là rất tệ hại cho ngành du lịch.
- Đừng lo. - Đại tá Johnson nói. - Sẽ có kẻ phun ra. Hãy cứ giữ nguyên sức ép.
Đến chiều thì họ đột phá được. Thư ký của đại uý Bellini nói:
- Có một ông Lorenzo muốn gặp ông.
- Cho ông ta vào.
Ông Lorenzo mặc một bộ complê rất đắt tiền và đeo ba cái nhẫn kim cương trên ba ngón tay. Ông ta vốn là một kẻ chuyên nghề dắt gái.
- Tôi có thể làm gì cho ông hả? - Bellini hỏi.
Lorenzo mỉm cười.
- Đó là việc tôi có thể làm cho ông cơ, thưa quý vị. Một người quen của tôi báo với tôi rằng các ông đang tìm kiếm một gái làng chơi, đã rời khỏi thành phố với một người Mỹ, và do chỗ chúng tôi luôn sẵn sàng hợp tác với nhà chức trách nên tôi nghĩ là tôi sẽ trao cho các ông cái tên của cô ta.
- Cô ta là ai? - Đại tá Johnson nói.
Lorenzo phớt lờ câu hỏi đó.
- Tất nhiên, tôi tin chắc là các ông sẽ bày tỏ sự đánh giá cao bằng cách thả tất cả những cô gái của tôi cùng bạn bè họ.
Đại tá Cesar nói:
- Chúng tôi không quan tâm đến bất kỳ con điếm nào của ông. Tất cả những gì chúng tôi muốn là tên của cô gái kia.
- Đó là một tin rất mừng, thưa ông. Nói chuyện với những người hiểu biết luôn là một điều thú vị. Tôi biết rằng…
- Tên cô ta, Lorenzo.
- Vâng, tất nhiên. Tên cô ta là Pier. Pier Valli. Người Mỹ kia đã ngủ qua đêm với cô ta ở khách sạn Incrocio và sáng hôm sau thì họ ra đi. Cô ta không phải là một trong những cô gái của tôi. Nếu như tôi có thể nói…
Bellini đã nói vào máy điện thoại.
- Mang tới hồ sơ Pier Valli. Gấp.
- Tôi hy vọng quý ngài sẽ tỏ lòng tri ân bằng cách…
Bellini nhìn lên và nói vào trong máy:
- Và chấm dứt chiến dịch Puttana.
- Cám ơn. - Lorenzo cười.
Năm phút sau, hồ sơ về Pier Valli được đặt trên bàn Bellini.
- Cô ta bắt đầu hành nghề khi mới mười lăm tuổi.
- Từ đó, cô ta bị bắt giữ cả chục lần. Cô ta…
- Cô ta từ đâu đến? - Đại tá Johnson cắt ngang.
- Naples. - Hai người đàn ông nhìn nhau. - Cô ta có mẹ và một thằng em ở đó.
- Ông có thể tìm xem cụ thể là ở đâu không?
- Tôi có thể kiểm tra được.
- Làm đi. Ngay bây giờ.
 
×
Quay lại
Top