Tuyển tập truyện ngắn Pháp thế kỷ XIX Nhà xuất bản đại học và trung học chuyên nghiệp Hà Nội(28)

Meika

Thành viên
Tham gia
26/12/2023
Bài viết
30
MỘT CUỘC QUYẾT ĐẤU​



Guy đơ Môpatxăng.



Chiến tranh kết thúc, quân Đức chiếm đóng nước Pháp ; đất nước quằn quại như một đấu sĩ thất thế quỳ dưới gối kẻ chiến thắng.

Từ Pari hoảng loạn, đói khát, tuyệt vọng, những chuyến xe lửa đầu tiên ra đi, đến những biên giới mới, chậm rãi xuyên qua thôn quê, làng mạc. Qua cửa số, những hành khách đầu tiên nhìn những đồng bằng tan hoang, những thôn xóm bị đốt phá. Trước cửa những ngôi nhà còn đứng vững, binh lính Phổ, đầu đội mũ đen có chỏm đồng, cười trên ghế dựa, phì phèo hút thuốc. Vài kẻ khác đang làm lụng hoặc chuyện trò, như thể người trong nhà. Khi xe lửa qua các thành phố, người ta thấy từng binh đoàn đang vận động trên quảng trường, mặc dù tiếng bánh xe lăn, vẫn nghe loáng thoáng những khẩu lệnh khàn khàn.

Ông Đuybuy, đã từng tham gia đội vệ binh Pari suốt thời gian thành phố bị vây h.ãm, nay sang Thụy sĩ với vợ và con gái mà ông đã cẩn thận đưa ra nước ngoài trước khi đất nước bị xâm lăng. Đói khát và nhọc nhằn vẫn không làm xẹp bớt cái bụng phệ của vị thương gia giàu có và ôn hòa. Ông đã chịu đựng những biến cố khủng khiếp với một sự nhẫn nhục buồn bã, với những lời chua chát về sự man rợ của con người. Giờ đây khi chiến tranh kết thúc, trên đường ra biên giới, ông mới nhìn thấy quân Phổ lần đầu, tuy ông đã làm nhiệm vụ trên chiến lũy và đã từng canh gác trong nhiều đêm giá lạnh.

Ông nhìn những kẻ râu ria xồm xoàm mang vũ khí, ở trên nước Pháp như ở nhà của chúng, với một nỗi kinh hoàng giận dữ và cảm thấy trong lòng mình bốc lên cơn sốt của lòng yêu nước bất lực, cùng với một nhu cầu lớn, cùng với bản năng mới về sự thận trọng, cái bản năng sẽ không rời chúng ta ra nữa.

Trong toa ông ngồi, hai người Anh, đến để xem, đang nhìn với những cặp mắt bình thản và tò mò. Cả hai cũng đều to béo và họ trò chuyện bằng tiếng nước họ, thỉnh thoảng lại xem cuốn sách dẫn dường, vừa đọc cao giọng vừa tìm cách nhận rõ những địa điểm được chỉ dẫn.

Đột nhiên, khi tàu dừng lại ở một thành phố nhỏ, một sĩ quan Phổ trèo lên thềm toa xe, với tiếng gươm khua lủng củng. Y cao lớn, mặc bộ đồng phục chẽn vào người, râu ria xồm xoàm tận mắt. Râu y đỏ hung như lửa, và hàng ria mép dài, nhạt màu hơn, vểnh sang hai bên bộ mặt bị chúng cắt ngang ra.

Những người Anh lập tức ngắm y với những nụ cười của sự tò mò được thỏa mãn, trong khi ông Đuybuy giả tảng đọc báo. Ông ngồi nép trong xó của mình, y như tên kẻ cắp trước viên cảnh sát.

Tàu lại đi. Những người Anh tiếp tục trò chuyện, tiếp tục tìm những địa điểm đã có chiến trận, và bỗng dưng, khi một người giơ tay chỉ một làng phía xa, viên sĩ quan Phổ vừa duỗi đôi cẳng chân dài, ngả người ra đằng sau, vừa nói bằng tiếng Pháp :

– Tôi giết mười hai thằng Pháp ở cái làng ấy. Tôi tã pắt hơn một trăm tên tù pinh.

Những người Anh, hoàn toàn bị thu hút, hỏi ngay :

– A ! Cái làng ấy tên gì ?

Tên Phổ trả lời :

Phai x pua.

Y tiếp :

– Tôi kéo tai pọn Pháp ranh con ấy.

Và y vừa nhìn ông Đuybuy vừa ngạo mạn cười trong bộ râu của y.

Tàu vẫn chạy, xuyên qua mãi những thôn xóm bị chiếm đóng. Người ta thấy lính Đức dọc đường cái, ven bờ ruộng, đứng ở góc những rào chắn, hoặc trò chuyện trước tiệm giải khát. Chúng bâu đầy mặt đất như đàn châu chấu Phi châu.

Viên sĩ quan giơ tay :

– Nếu tôi chỉ huy, tôi sẽ chiếm Pari, lốt hết, giết hết. Không còn nước Pháp nữa !

Những người Anh chỉ trả lời xã giao :

– À vâng.

Y nói tiếp :

– Trong hai mươi năm nữa, tuốt cả châu Âu, tuốt, sẽ thuộc về chúng tôi. Nước Phổ mạnh hơn hết thảy.

Những người Anh, ngài ngại, không trả lời nữa. Mặt họ trở nên thản nhiên, như sáp nặn, giữa những hàng ria dài. Viên sĩ quan Phổ bèn phá lên cười. Và vẫn ngửa mình ra đằng sau, y cợt nhạo. Y cợt nhạo nước Pháp bị giày xéo, y cợt nhạo nước Áo xưa kia bại trận, y cợt nhạo cuộc kháng chiến hăm hở và bất lực của các quận, ý cợt nhạo quân đội cơ động và pháo binh vô dụng. Y tuyên bố Bixmac sắp xây một thành phố thép bằng những cỗ đại bác chiếm được. Và bỗng nhiên y thúc ủng vào đùi ông Đuybuy, ông đỏ bừng mặt, ngoảnh nhìn nơi khác.

Những người Anh có vẻ lãnh đạm với hết thảy, y như thể họ đột nhiên náu mình trên hòn đảo của họ, xa lánh mọi điều huyên náo của thế gian.

Viên sĩ quan rút điếu ống ra, và chòng chọc nhìn người Pháp.

– Anh có thuốc không ?

Ông Đuybuy trả lời:

– Thưa không !

Tên Đức nói tiếp :

– Tôi yêu cầu anh ti mua khi tàu tỗ.

Và y lại phá lên cười :

– Tôi sẽ thưởng tiền cho anh.

Tàu rít còi, từ từ chậm lại, lướt qua những nhà ga bị đốt phá rồi dừng hẳn.

Tên Đức mở cửa toa, nắm lấy cánh tay ông Đuybuy :

– Đi làm việc tôi pảo, mau, mau !

Một đội quân Phổ chiếm đóng nhà ga. Một số binh lính khác đứng nhìn, dọc theo các hàng rào gỗ. Tàu đã kéo còi, sắp chạy. Bấy giờ, ông Đuybuy bỗng nhảy vọt xuống sân ga và mặc dù người trưởng ga ra hiệu, ông cứ lao lên toa bên cạnh.

Chỉ có một mình ông ! Ông phanh áo gilê, vì tim đập thình thịch, và hổn hển lau trán.

Tàu lại dừng ở một ga, và viên sĩ quan đột ngột xuất hiện ở cửa, leo lên toa, theo liền sau là hai người Anh do sự tò mò thúc đẩy. Tên Đức ngồi đối diện với người Pháp và y vẫn cười cợt :

– Anh không muốn làm điều tôi pảo.

Ông Đuybuy trả lời :

– Thưa không !

Tàu vừa chạy.

Viên sĩ quan nói :

– Tôi sẽ cắt râu anh nhét vào ống liếu.

Và y giơ tay về phía mặt người ngồi đằng trước.

Những người Anh, vẫn thản nhiên, nhìn chăm chăm.

Tên Đức đã nắm một túm râu và đang giật, thì ông Đuybuy hất cánh tay y lên và tóm lấy cổ y, ném phịch y xuống ghế. Rồi, giận điên người, hai bên thái dương căng phồng, mắt đỏ nọc, một tay vẫn chẹt tên Đức, ông dùng bàn tay kia nắm chặt, hùng hổ đấm vào mặt y. Tên Phổ vùng vẫy, cố rút gươm, cố ghì lấy địch thủ đang nằm lên người y. Nhưng ông Đuybuy đè bẹp y dưới sức nặng đồ sộ của cái bụng mình và thụi, thụi liên hồi, không thở, không biết minh thụi vào chỗ nào nữa. Máu chảy, tên Đức bị nghẹt, khò khè, khạc ra cả răng, cố đẩy con người to béo đang đánh đập y mà không đẩy được.

Những người Anh đã đứng dậy và lại gần để xem cho rõ hơn. Họ đứng, hết sức vui thích và tò mò, sẵn sàng đánh cuộc được thua về mỗi bên đấu thủ.

Rồi ông Đuybuy, kiệt sức vì một sự gắng gỏi đến mức ấy, đột nhiên đứng dậy và ngồi xuống, không nói một lời.

Tên Phổ không chồm vào ông do còn hoảng hốt, còn ngây độn vì kinh ngạc và đau đớn. Khi đã thở được y nói :

– Nếu anh không muốn dùng súng ngắn nói phải trải với tôi, tôi sẽ giết anh li.

Ông Đuybuy trả lời :

– Khi nào ông muốn, tôi rất đồng ý.

Tên Đức lại nói :

Tây là thành phố Xtơratpua, tôi sẽ lấy hai sĩ quan làm chứng, tủ thì giờ trước khi tàu chạy.

Ông Đuybuy vừa thở phì phò mạnh ngang đầu máy, vừa nói với những người Anh :

– Các vị có ưng làm chứng cho tôi không ?

Cả hai cùng trả lời.

– À vâng !

Rồi tàu dừng lại.

Chỉ trong một phút, tên Phổ đã tìm được hai bạn đồng ngũ đeo súng ngắn tới, và họ ra chiến lũy.

Những người Anh luôn tay rút đồng hồ, rảo bước, giục giã chuẩn bị, lo ngại về giờ giấc để tránh nhỡ tàu.

Ông Đuybuy chưa bao giờ cầm một khẩu súng ngắn. Họ để ông đứng cách địch thủ hai mươi bước. Họ hỏi ông :

– Ông sẵn sàng chưa ?

Khi trả lời : « Thưa đã », ông thấy một người Anh xòe ô ra che nắng.

Một tiếng hô : – Bắn !

Không chờ đợi, ông Đuybuy bắn hú họa, và ông kinh hoảng thấy tên Phổ đứng đối diện mình loạng choạng giơ cao tay và ngã sấp xuống. Ông đã giết y.

Một người Anh reo lên một tiếng « A » đầy niềm vui sướng, đầy nỗi tò mò được thỏa mãn, đầy sự sốt ruột thích thú. Người kia, tay vẫn khư khư chiếc đồng hồ, nắm lấy cánh tay ông Đuybuy và lôi ông đi đều bước về phía ga.

Người Anh thứ nhất vừa chạy vừa lấy nhịp bước, tay nắm chặt, khuỷu sát vào sườn.

– Một, hai ! một, hai !

Và mặc dù bụng phệ, cả ba cùng lóc cóc chạy, như ba hình nhân thô kệch trên một tờ báo hài hước.

Xe lửa chạy. Họ nhảy lên tàu, bấy giờ những người Anh nhấc mũ du lịch, giơ cao lên vẫy vẫy, và reo lên ba lần :

– Hoan hô ! Hoan hô !

Rồi từng người một, họ trịnh trọng chìa bàn tay phải ra bắt tay ông Đuybuy, và lại quay về ngôi cạnh nhau trong góc của họ.



LÊ HỒNG SÂM dịch.​
 
×
Quay lại
Top Bottom