- Tham gia
- 6/9/2011
- Bài viết
- 118
Tố chất tổng thể người Do thái Cao Hơn các Chủng Tộc Khác ?
Tố chất tổng thể người Do thái Cao Hơn các Dân Tộc Khác ?
Một vị Đại sứ Hàn Quốc từng phát biểu:
Chúng tôi đã rất tò mò về thành tích học tập xuất sắc của người Do Thái. Chúng tôi đã cố gắng để hiểu được những bí mật của người Do Thái. Tại sao người Do Thái lại hơn các quốc gia khác ở nhiều lĩnh vực?
Quả thực đúng như những lời này, có rất nhiều người đều ngưỡng mộ và tò mò vì sao chủng tộc Do Thái lại có tố chất cao hơn các dân tộc khác trên thế giới ?
Chủng tộc Do Thái dựa vào nền văn minh để lập nghiệp
Người Do Thái được sử sách nhân loại ghi chép là chủng tộc có nền văn minh sớm nhất ở phương Tây. Từ thế kỷ thứ nhất công nguyên, vì để tránh làm nô lệ cho người La Mã, người Do Thái bắt đầu trôi giạt đi khắp nơi, phân bố rải rác ở khắp nơi trên thế giới. Đến năm 1947, người Do Thái mới bắt đầu quay trở lại quê hương mình.
Chủng tộc Do Thái dựa vào nền văn minh để lập nghiệp. Học hành là một phần của nền văn minh, là thể hiện tấm lòng tôn kính của con người đối với Tạo hóa. Vì thế, mỗi người Do Thái đều phải đọc cuốn
Talmud là nguồn gốc trí tuệ của người Do Thái
Talmud có nghĩa là “nghiên cứu và học hành”. Talmud là bí kíp chuẩn của người Do Thái, do hơn 2000 sư phụ Do Thái và các nhà khoa học Do Thái biên soạn, chỉnh lý trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 6.
Talmud cho rằng: Học tập là hành vi thánh thiện nhất, là nguồn gốc của đạo đức tốt đẹp. Sự thành kính, thiện chí, ôn hòa, thanh nhã của một con người đều là kết quả của nền giáo dục. Người Do Thái cho rằng: Sư phụ vĩ đại hơn Đức Vua.
Cho nên, người Do Thái vô cùng kính trọng sư phụ thầy giáo. Nhờ có học tập, nhờ có tri thức, nhờ có sách mà người Do Thái vô gia cư đi đến đâu cũng đều có thể sinh tồn được, thậm chí còn trở nên mạnh mẽ hơn.
Talmud hàm chứa trí tuệ về sinh tồn, tài phú, sức khỏe, giao tiếp xã hội, nên trở thành cuốn sách mà mỗi người Do Thái nhất định phải học thuộc lòng.
Giáo dục là tài phú, tri thức là nguồn gốc của trí tuệ Do Thái.
Người Do Thái cho rằng, trí tuệ cao hơn tri thức
Tri thức là gì? Tri thức chính là chân tướng và tồn tại khách quan của vạn vật vạn sự. Còn trí tuệ là đem sự tồn tại khách quan và chân tướng của vạn sự vạn vật tiến hành tổng hợp ra một phương án tốt nhất để giải quyết vấn đề.
Đối với con người, quan trọng nhất là gì? Chính là trí tuệ, mà tri thức là nguồn gốc của trí tuệ. Mục đích của đọc sách chính là mở rộng tri thức, sau khi đã chuẩn bị được nguồn tri thức phong phú, bạn sẽ học được cách suy xét. Bạn sẽ minh bạch được đạo lý làm người hoặc là sẽ tìm được cách thức giải quyết vấn đề. Đây chính là trí tuệ! Bởi vậy, trí tuệ đến từ tri thức và cao hơn tri thức.
Người Do Thái tôn sùng sự sáng tạo ra cái mới. Người Do Thái cho rằng, việc sáng tạo ra cái mới chính là một loại trí tuệ, phải dám hoài nghi, dám đặt câu hỏi bất cứ lúc nào, bởi vì tri thức càng nhiều sẽ càng sản sinh ra sự hoài nghi.
Người Châu Á người Á Đông da vàng thường hỏi con cái khi chúng tan trường là: Hôm nay con làm bài thế nào ?
Còn cha mẹ người Do Thái sẽ hỏi con: Hôm nay con có đưa ra được câu hỏi nào không? Hôm nay con có gì khác hôm qua không ?
Người Do Thái cho rằng sáng tạo là cách làm trí tuệ chuyển động, khai mở trí tuệ và làm trí tuệ linh hoạt. Con người thông qua học tập mà có thể nhận thức chính mình và siêu việt chính bản thân mình.
Người Do Thái cho rằng giáo dục chính là tài phú, giáo dục có thể thay đổi cuộc đời, thay đổi vận mệnh và thay đổi hết thảy. Vì vậy, trong hơn 2000 năm lang bạt trong lịch sử, hết thảy mọi thứ của người Do Thái đều bị cướp đoạt hết chỉ có sách và tri thức là không thể bị cướp mất.
Người Do Thái vô cùng coi trọng giáo dục, đối với người Do Thái thì có thể thứ gì cũng không cần nhưng tri thức thì không thể không cần. Chỉ có tri thức là tài phú quan trọng nhất, là tài sản có thể mang theo bên mình và có thể hưởng dụng cả đời.
Vì thế, người Do Thái là chủng tộc đầu tiên trên thế giới xóa mù chữ, từ trong thời kỳ trung cổ, người Do Thái đã xóa bỏ được nạn mù chữ. Cho nên, đây là nguyên nhân khiến tố chất tổng thể của chủng tộc Do Thái cao hơn của các dân tộc khác một bậc.
Do Thái là quốc gia sáng tạo nhất
Bởi vì bối cảnh nền văn minh đặc thù và coi trọng giáo dục cho nên, chủng tộc Do Thái là chủng tộc có nhiều thành tựu nhất trên thế giới.
Người Do Thái là chủng tộc có trí tuệ đầy đủ nhất về nền văn minh: Jerusalem, Israel là cái nôi của ba nền văn minh lớn trên thế giới, bao gồm Do Thái, Phương Tây, và Ả Rập.
Người Do Thái là chủng tộc có trí tuệ đầy đủ nhất về sinh tồn. Mặc dù trải qua hơn 2000 năm phiêu bạt khắp nơi, năm 1948 người Do Thái đã trùng tu kiến tạo lại nhà nước Israel, trở về quê hương bị mất trong 2000 năm, khôi phục lại ngôn ngữ Hebrew đã bị mất, trở thành cường quốc về khoa học kỹ thuật và quân sự.
Người Do Thái là chủng tộc có trí tuệ đầy đủ nhất về sinh tồn
Người Do Thái là chủng tộc có trí tuệ đầy đủ nhất về kinh doanh và của cải. Yên lặng theo đuổi sự giàu có, ra sức kiếm tiền và cũng ra sức quyên góp tiền, trở thành chủng tộc giàu có nhất trên thế giới.
Người Do Thái là chủng tộc hiểu biết nhất về giáo dục và nghệ thuật. Giáo dục gia đình của người Do Thái có thể nói là giáo dục thành công nhất trên thế giới
Giáo dục gia đình người Do Thái có thể nói là giáo dục thành công nhất trên thế giới
Người Do Thái là chủng tộc có đầy đủ nhất về tinh thần khởi nghiệp và sáng tạo. Israel vĩnh viễn xưng mình là “Quốc gia khởi nghiệp” (Start-up Nation). Trên thế giới, trong các nước sáng tạo nhất, ngoài Mỹ ra thì phải kể đến Israel. Các sinh viên Israel sau khi tốt nghiệp đại học, nhiều người lựa chọn con đường tự gây dựng sự nghiệp. Bởi vậy, hàng năm số lượng các công ty mới ra đời ở quốc gia này tương đối nhiều.
Người Do Thái là chủng tộc giỏi về phát hiện và bồi dưỡng tài năng, trí tuệ. Israel là quốc gia có tài nguyên thiên nhiên cằn cỗi, gần như chỉ có sa mạc và đá. Nhưng, theo lời của người Israel thì: Tạo hóa rất công bằng. Ngài đã ban dầu mỏ cho người Ả Rập và ban trí tuệ cho người Do Thái.
Tạo hóa rất công bằng. Ngài đã ban dầu mỏ cho người Ả Rập và ban trí tuệ cho người Do Thái
Điều gì tạo ra Gien Xịn của người Do Thái ?
Người Do thái Ashkenazi Sự Kết Hợp Hoàn Hảo giữa người Trung Đông và người Châu Âu
Theo lưu lượng truy cập công cụ tìm kiếm một trong những bài viết phổ biến nhất trên weblog này có liên quan đến vấn đề về nền tảng di truyền của người Do Thái Ashkenazi. Họ là những người Do Thái có nguồn gốc từ Trung Âu và Đông Âu, và là số đông người Do Thái áp đảo ở Hoa Kỳ. Nguồn gốc di truyền của nhóm người Do Thái Ashkenazi này mang đầy tính chính trị một cách tự nhiên. Với sự gia tăng của nền công nghệ sinh học, đặc điểm của người Do Thái đã được thử nghiệm như là một cách để phân biệt người Do Thái như là một dân tộc ngoài sự khác biệt về văn hoá và tôn giáo. Sau Thế chiến II các nhà nghiên cứu khác đã cố gắng cho thấy rằng người Do Thái không khác biệt về gien di truyền với xét nghiệm các nhóm máu tương đối nguyên thủy. Đúng hơn, họ là con cháu của những người cải đạo.
Các công trình nghiên cứu gen di truyền gần đây đã cho kết quả hỗn hợp. Sự suy luận hợp lý sau đó là người Do Thái là một dân số có lịch sử phức tạp, và sự phức tạp đó được thể hiện trong gene di truyền của họ. Một bài báo mới khám phá những vấn đề này một cách chi tiết hơn, các Genomic microsatellites xác định tổ tiên người Do Thái chia sẻ giữa các dân tộc Trung Đông và các dân tộc Châu Âu:
Lý lịch
Các nghiên cứu di truyền thường đưa ra các kết quả mâu thuẫn nhau về vấn đề liệu những người Do Thái xa xôi ở các địa điểm vị trí địa lý khác nhau có cùng sự giống nhau về gien di truyền hay không với những người không phải là người Do Thái ở gần đó. Chúng tôi thực hiện một cuộc nghiên cứu gene di truyền về quần thể gen của dân Do Thái, phân tích 678 autosomal microsatellite loci ở 78 cá nhân từ 4 nhóm Do Thái cùng với dữ liệu tương tự về 321 cá nhân từ 12 dân ngoại Trung Đông và dân ngoại Châu Âu.
Các kết quả
Chúng tôi thấy rằng các quần thể Do Thái cho thấy mức độ giống nhau về mặt di truyền cao với nhau, nhóm lại với nhau trong một số loại phân tích cấu trúc dân số. Hơn nữa, sự phân nhóm Bayesian, các cây hàng xóm kết nối, và quy mô đa chiều đặt các cộng đồng Do Thái là trung gian giữa dân ngoại người Trung Đông và dân ngoại người Châu Âu.
Kết luận
Những kết quả này ủng hộ quan điểm cho thấy dân số người Do Thái phần lớn có chung một tổ tiên nguồn gốc Trung Đông và trong lịch sử, họ đã trải qua các mức độ lai giống khác nhau với các nhóm người không phải là người Do Thái mang nguồn gốc Âu Châu.
Các kết quả chung của bài báo được minh họa rõ ràng bằng các con số.
Hình dưới đây cho thấy tổ tiên chính thức của các cá nhân giả định một số K của các nhóm tổ tiên. Như bạn thấy, người Do Thái trong mẫu được đặt nằm giữa các nhóm Trung Đông và Châu Âu. Tại K = 5 và K = 6 mối quan hệ giữa người Do Thái và người Palestine xuất hiện; một quần thể tổ tiên chung mà chia đôi đường ở một số điểm.
Và đây là cây ghép hàng xóm.
Các nhóm người Do Thái trong màu Đỏ, người Châu Âu trong nhóm màu Xanh Dương và người Trung Đông trong màu Ô liu.
Bây giờ đây là người Do Thái so sánh với các quần thể khác nhau. Người Do Thái màu Đỏ. Tôi đã sửa lại và dán nhãn cho rõ ràng.
Từ kết luận của bài báo:
Một lời giải thích đơn giản cho việc tập hợp các quần thể Do Thái là mô hình này là kết quả của việc chia sẻ tổ tiên với một nhóm tổ tiên Trung Đông. Theo kịch bản này, vị trí trung gian của các nhóm người Do Thái đối với các nhóm người Châu Âu và nhóm người Trung Đông sau đó sẽ là kết quả của sự chia sẻ tổ tiên chung thuộc về giai đoạn sớm của các nhóm người Do Thái và người Trung Đông, tiếp theo là lai giống tiếp theo của các nhóm người Do Thái đã xảy ra với các nhóm người châu Âu hoặc các nhóm tương tự như người châu Âu hơn so với dân số Trung Đông trong nghiên cứu. Mặc dù rất khó để đánh giá bản chất cụ thể của lai giống trên cơ sở phân tích của chúng tôi nhưng lời giải thích này được hỗ trợ bởi các nghiên cứu di truyền khác tìm ra sự kết hợp giữa tổ tiên và sự kết hợp giữa các nhóm người Do Thái ... và bằng các ghi chép lịch sử về việc cải đạo sang Do thái giáo ... việc lấy mẫu của những người Do Thái và những người không phải Do Thái có liên quan sẽ được cung cấp thông tin để điều tra bằng chứng cho kịch bản này.
Trong một số phân tích, dân số trong nghiên cứu gần giống nhất với dân Do Thái là dân Palestine. Kết quả này được phản ánh bởi thực tế là đối với K = 5, Bayesian clustering with Structure đã chỉ định dân số người Do Thái và người Palestine vào cùng một cụm ... và do sự sắp đặt tương đối chặt chẽ của người Palestine và người Do Thái trong các lô MDS của các khoảng cách riêng biệt ... Điều này là sự giống nhau về gien di truyền, được hỗ trợ bởi một số nghiên cứu trước đây ... tương thích với nguồn gốc Trung Đông tương tự của dân Do Thái và dân Palestine. Lai giống của người Palestine với các nhóm người có nguồn gốc Châu Âu có thể đã được duy trì hoặc gia tăng tổ tiên chung này, đặc biệt nếu điều đó song hành với các lai giống tương tự của dân tộc Palestine này với dân tộc Do Thái.
Chúng tôi lưu ý rằng cần thận trọng khi giải thích một số kết quả của chúng tôi. Ví dụ, trong quần thể cây được sản xuất từ ba biện pháp cách ly ... có sự bất đồng về trật tự chi nhánh của ba dân số Châu Âu gần nhất với dân số Do Thái (Adygei, Sardinian, và Tuscan). Do đó, từ những dữ liệu này, rất khó để có thể đưa ra những kết luận mạnh mẽ về những nhóm người Châu Âu tương tự nhất đối với các nhóm người Do Thái. Tuy nhiên, thích hợp với các nghiên cứu đã kết hợp duy nhất một dân số người Do Thái trong một bối cảnh rộng hơn của Châu Âu ... các nhóm người miền Nam châu Âu được đặt gần với dân số Do Thái hơn các nhóm người miền Bắc châu Âu.
Bài viết này làm rõ và tập trung hơn vào những gì chúng tôi biết, và để lại nhiều chi tiết hơn cho các nghiên cứu trong tương lai.
1) Dân số Do Thái có mối quan hệ tổ tiên chung.
2) Nhưng, mối quan hệ đó được bổ sung bởi sự kết hợp với các quần thể mà người Di cư sinh sống chung.
3) Có một gợi ý rằng trong trường hợp của người Do Thái Ashkenazi, sự đóng góp của gien di truyền châu Âu có nhiều khả năng đến từ miền Nam âu Châu, chứ không phải ở miền Bắc âu Châu. Điều này hơi đáng ngạc nhiên vì thực tế là nhóm người Ashkenazi kết tinh trong thời trung cổ ở Bắc Âu, trong số những người nói tiếng Đức và Slavic. Những dữ liệu này ngụ ý rằng trong thực tế, có sự tách biệt tương đối mạnh mẽ giữa các nhóm này và người Do Thái, ít nhất là khi nó chảy vào trong gien của nhóm người Do Thái (các dữ liệu khác từ Ba Lan cho thấy ảnh hưởng của sự đồng hóa của người Do Thái với đa số dân ngoại). Do đó, hỗn hợp này có thể đã xảy ra trong lãnh thổ của Đế chế La Mã cũ, trong thời kỳ Đế quốc hoặc giai đoạn hậu Đế quốc.
4) Mối quan hệ gần gũi của người Do Thái với người Palestine không đáng ngạc nhiên. Người Do Thái được biết đến là người gốc Levantine theo nguồn gốc nguyên thủy, và các bằng chứng lịch sử và di truyền cho thấy sự Ả rập hóa ở vùng Levant và Mesopotamia đã xảy ra thông qua sự hội nhập văn hóa, chứ không phải là sự thay thế dân số. Nhiều người Palestine có khả năng có nguồn gốc nguyên thủy là người Do Thái hoặc người Samaritan, mặc dù tôi đoán rằng họ có thể ít nhất theo danh nghĩa Ki Tô hóa trong thời kỳ bách hại của Byzantine vào thế kỷ thứ 6.
5) Còn có những câu hỏi về những nhóm mà người Do Thái Ashkenazi lai giống với nhau và khi nào họ đã lai giống. Cần có một mô hình khác biệt về biến dị gien di truyền nếu sự kiện lai giống sớm và đã chấm dứt hoặc nếu đó là dòng gen liên tục di truyền. Phylogenetics ngụ ý trước đây, vì thiếu nhiều allele chia sẻ với người Bắc Âu đặc biệt, trong đó người Do Thái Ashkenazi đã cư trú trong ~ 1.000 năm qua. Trong văn bản của bài báo cũng có những gợi ý về các mối quan hệ có thể đối với một nhóm dân ở Caucasus, mở ra một con đường cho một số giá trị của giả thuyết Khazar. Có những dữ liệu khác cũng chỉ ra giả thuyết của Khazar. Nguồn gốc của người Do Thái khá là phức tạp.
Nhiều sự nhầm lẫn và những điểm lộn xộn sẽ sớm được làm rõ với nhiều dữ liệu phân tích hơn. Tại Dienekes, một số người quan sát thấy rằng một số lượng lớn hơn các nhóm người Địa Trung Hải sẽ có ích. Điều gì sẽ xảy ra nếu sự kiện lai giống Do Thái có xu hướng xảy ra với người Hy Lạp ở Alexandria và tại các thành phố của Tiểu Á? Điều đó có thể giải thích sự gần gũi với người Ý, nhưng không chồng chéo với các nhóm châu Âu khác.
Citation: BMC Genetics 2009, 10:80 doi:10.1186/1471-2156-10-80(H/T Dienekes) Nguồn blogs.discovermagazine.com/gnxp/2009/12/ashkenazi-jews-are-middle-eastern-european-hybrids
Dân số Ít Ỏi nhưng Nhiều Giải Nobel và Nhiều Tỷ Phú Giàu Nhất Thế Giới ?
Tại sao người Do thái có Nhiều Tỷ Phú và Nhiều Giải Nobel ?
Vì sao người Do thái có Nhiều Tỷ Phú và Rất Nhiều người đoạt giải Nobel là người Do thái ?
Trong con mắt đại đa số người phương Tây và người da trắng thì người Do Thái không có gì nổi bật cả. Đối với hầu hết người phương Tây nói chung hay người da trắng nói riêng thì người Do Thái cũng bình thường đối với họ. Người da trắng và người Do Thái đều thuộc chủng tộc Caucasoid hay còn gọi là Europid. Lưu ý là tất cả người da trắng đều thuộc chủng Caucasoid nhưng không phải tất cả người Caucasoid đều là người da trắng.
Trẻ em người Do thái Da Trắng Tóc Vàng và thiếu nhi Do thái người Da Trắng Tóc Nâu từ phải sang trái.
Trích từ Wikipedia tiếng Việt Nam:
Đại chủng Âu (tiếng Anh: Caucasoid, hoặc là Europid) hay người da trắng là một trong bốn đại chủng trong nhân chủng học. Đại chủng Âu bắt nguồn từ châu Âu, Trung Đông (Tây Á), một số vùng của Trung Á, Bắc Phi và các vùng gần Ấn Độ. Chiếm gần 48% dân số thế giới. Địa bàn cư trú đầu tiên ở Ấn Độ sau đó mở rộng sang Tây Á, Bắc Phi, Nam Âu, quanh Địa Trung Hải. Ở phía bắc, băng tan đến đâu con người cư trú đến đó. Chủng tộc Oropeoit có địa bàn cư trú rộng, gắn liền với việc thực dân hóa ở châu Mĩ và châu Đại Dương và nhiều thuộc địa của các nước châu Âu.
Còn từ Semitic không phải là chủng tộc nhưng nói đến những dân tộc sử dụng ngôn ngữ hệ Semitic. Ngôn ngữ hệ Semitic bao gồm tiếng Ả Rập, tiếng Do Thái hay còn gọi là tiếng Hebrew, tiếng Aramaic, tiếng Amharic, tiếng Tigrinya, tiếng Maltese, tiếng Ugaritic, tiếng Phoenician, tiếng Syriac. Điểm khác biệt của hệ ngôn ngữ Semetic so với hệ ngôn ngữ khác là đọc và viết từ phải sang trái right to left. Tiếng Ba Tư cũng viết và đọc từ phải sang trái nhưng không thuộc hệ ngôn ngữ Semitic vì tiếng Ba Tư Farsi thuộc Hệ ngôn ngữ Ấn-Âu Indo-European languages.
Người Ấn độ Trắng
Theo khảo sát dân số thì 90% người Do Thái ở Mỹ là người Da Trắng, 2% người Da Đen 2% người Châu Á 2% Con Lai và 4% người Châu Mỹ Latin dựa theo dữ liệu báo cáo 2014 Religious Landscape Study của Pew Research Center.
Tôn giáo của người đoạt giải Nobel giữa năm 1901 và 2000
Phật giáo 1.1% người chiến thắng giải Nobel
Người Hồi giáo 0.8% người giành giải Nobel
Ấn Độ 0.7% người nhận giải Nobel
Tự do tư tưởng 3.4% người được giải Nobel
Người vô thần và bất khả tri 7% người thắng giải Nobel
Người Kitô Hữu 65.4% người giật giải Nobel
Người Do Thái 21.1% người chiếm giải Nobel
Những tôn giáo khác 0.6% người đạt giải Nobel
Phân phối các giải thưởng Nobel theo tôn giáo từ năm 1901-2000, dữ liệu được lấy từ Baruch A. Shalev, 100 năm giải thưởng Nobel (2003), Nhà xuất bản và Phân phối Atlantic, trang 59 và trang 57: giữa năm 1901 và năm 2000 cho thấy 654 người đoạt giải Thuộc về 28 tôn giáo khác nhau.
Hầu hết 65,4% đã xác định Kitô giáo theo các môn phái khác nhau như sở thích tôn giáo của họ. Nhìn chung, Kitô hữu đã giành được tổng cộng 78,3% của tất cả các giải Nobel Hoà bình, 72,5% trong Hóa học, 65,3% về Vật lý, 62% về Y học, 54% về Kinh tế và 49,5% của tất cả các giải thưởng Văn học.
Trong khi phân biệt giữa Công giáo với đạo Tin Lành giữa các tín đồ Kitô hữu đã trở nên khó khăn trong một số trường hợp, các thông tin sẵn có cho thấy có nhiều người tin lành tham gia vào các lĩnh vực khoa học và nhiều người Công giáo tham gia vào thể loại Văn học và Hòa bình.
Những người vô thần, người bất khả tri, và các người tự do tư tưởng bao gồm 10.5% tổng số người đoạt giải Nobel; Nhưng trong danh mục Văn học, những sở thích này tăng mạnh lên khoảng 35%.
Người Do Thái dân số ít nhưng nhiều giải Nobel ?
Người Do Thái dân số ít nhưng nhiều giải Nobel ?
Một thực tế nổi bật liên quan đến tôn giáo là số lượng cao các người đoạt giải Nobel thuộc về đức tin Do Thái - hơn 20% của tổng giải thưởng Nobel (138); Bao gồm: 17% giải Nobel hóa học, 26% giải Nobel Y học và giải Nobel Vật lý, 40% giải Nobel kinh tế và 11% giải Nobel Hòa bình và giải Nobel Văn học. Những con số đặc biệt giật mình vì thực tế chỉ có khoảng 14 triệu người (0,02% tổng dân số thế giới) là người Do Thái.
Ngược lại, chỉ có 5 người đoạt giải Nobel là tín đồ đạo Hồi Giáo - 0,8% tổng số giải Nobel được trao - đến từ dân số khoảng 1,2 tỷ người (20% tổng dân số thế giới).
Tác giả Jobas Ngày tháng năm 10 October 2016 Nguồn commons.wikimedia.org/wiki/Category:Nobel_Prize_statistics_in_Religion
Người Do Thái dân số ít nhưng nhiều Tỷ Phú ?
Người Do Thái dân số ít nhưng nhiều Tỷ Phú ?
Gốc gác tôn giáo của 50 tỷ phú giàu nhất thế giới hay nguồn gốc xuất thân tôn giáo của 50 người giàu nhất thế giới
Lý do người Ki Tô Hữu và người Do Thái có nhiều giải Nobel và nhiều thành tựu khoa học và cũng nhiều tỷ phú hơn vì đa số họ là người Da Trắng hay nói chính xác hơn họ thuộc chủng người Caucasoid.
Nếu nhìn kỹ từng khuôn mặt của những người Ki Tô hữu và người Do Thái đạt giải Nobel về các lãnh vực khoa học như Vật Lý, Y Học, Hóa Học thì toàn là người Da Trắng hay người Caucasoid như đã được đề cập tới ở đầu bài viết.
Xem danh sách tại đây
en.wikipedia.org/wiki/List_of_Christian_Nobel_laureates
en.wikipedia.org/wiki/List_of_Jewish_Nobel_laureates
Nguồn slate.com/articles/business/billion_to_one/2013/11/the_world_s_top_50_billionaires_a_demographic_breakdown.html
pewresearch.org/fact-tank/2015/07/27/the-most-and-least-racially-diverse-u-s-religious-groups/ft_15-07-23_religiondiversityindex-1/
Râu Trung Đông người Do thái Râu Ria Rậm Rạp
Đàn ông Do Thái thường để râu, họ coi đó là một biểu tượng của vẻ đẹp nam tính.
Râu là một biểu tượng của vẻ đẹp nam tính trong văn hóa Do Thái
Một nhà văn thời trung cổ ghi nhận, “để trang điểm khuôn mặt của một người đàn ông là râu của ông ta” (Cyrus Adler, W. Max Muller, và Louis Ginzberg 2004). Râu được cho rằng đó là do Thiên Chúa ban cho đàn ông để phân biệt với phụ nữ. Do đó, cạo, nhổ, hoặc làm hư hỏng bộ râu là một sự sỉ nhục. Người cùi được cạo râu để phân biệt họ với những người khác vì căn bệnh đáng sợ của họ. Những người để tang cắt hoặc nhổ râu của họ như là một dấu hiệu của sự đau buồn, một thực tế bị các thầy tư tế chỉ trích.
Râu được cho rằng đó là do Thiên Chúa ban cho đàn ông để phân biệt với phụ nữ
Nhưng đối với phần lớn, người Do Thái luôn xuất hiện với một bộ râu rậm, đầy đủ, bao gồm cả một bộ ria mép được cắt tỉa. Người thợ hớt tóc đã được sử dụng cho nghi thức cạo râu và thỉnh thoảng cắt tỉa. Các thầy tư tế bị cấm cắt tỉa các góc cạnh bộ râu của họ. Một trong những phương cách các chiến binh có thể hạ nhục kẻ thù hoặc làm cho gã trở nên suy nhược là cắt râu của gã.
Để trang điểm khuôn mặt của một người đàn ông là râu của ông ta
Chúng ta có thể thu thập từ các bức phù điêu và các di tích khác của thế giới cổ đại rằng các quốc gia khác mà người Do Thái có mối quan hệ thường xuyên có những phong cách râu khác nhau. Khi Giuse ở Ai Cập, ông đã cạo râu (St 41,14), phù hợp với tục lệ người Ai Cập. Thật là lạ lẫm, phụ nữ Ai Cập đeo râu nhân tạo gắn vào cằm của họ vào những dịp lễ nhà nước, còn đàn ông thắt hàm râu thành những búi tóc nhỏ. Dân du mục cắt bớt hai bên bộ râu của họ, tạo ra một bộ râu nhọn. Người Babylon và Assyria có bộ râu quăn công phu và người Hy Lạp cạo râu. Trong suốt thời kỳ người Hy Lạp cai trị Palestine, phong tục này khiến nhiều người Do Thái từ bỏ bộ râu của mình, một dấu hiệu từ bỏ Do Thái giáo. Trong thời hiện đại, bộ râu đầy đủ đã trở thành dấu hiệu của người Do Thái Hasidic. Râu cũng là dấu chỉ của người đàn ông trưởng thành, có gia đình của một số giáo phái Kitô giáo.
Người Babylon và người Assyria có bộ râu quăn công phu
Maria Ngô Liên chuyển ngữ (Lv 21, 5; 2 Sm 10, 4; Is15, 2; Gr 9, 26) Trích dịch tác phẩm “All Things in the Bible” của tác giả Nancy Tischler Đọc thêm: Adler, Cyrus, W. Max Muller, and Louis Ginzberg, “Beard”, jewishencyclopedia.com (accessed December 30, 2004).
Tỷ Phú Mỹ Đổ Tiền vào Chiến Tranh của người Do Thái
Tỷ Phú Hoa Kỳ Đổ Tiền vào Chiến Tranh của người Do Thái
Nằm giữa những ngọn đồi bậc thang của khu vực Bờ Tây và hướng về thành phố Ramallah của người Ả Rập, khu định cư của người Do Thái ở Beit El từ lâu đã là nền tảng viên đá tâm linh cho người Do Thái và là nguyên nhân gây tức giận và phẫn nộ của người Palestine. Bây giờ nơi ấy đang trở thành một biểu tượng của cuộc chiến tranh giữa các tình cảm của chính quyền tổng thống Mỹ Trump.
Một thị trấn với 6.500 người xây dựng sung quanh một chủng viện Do Thái, Beit El đã đi quá xa các khối định cư biên giới ở bên trong lãnh thổ Israel như là một phần của giải pháp hai quốc gia trong tương lai. Những người Mỹ đã ủng hộ và chi ra 2 triệu đô la mỹ kim mỗi năm vào các cơ sở giáo dục của họ. Một người đóng góp khác có một sự khác biệt hiếm hoi: ông tiếp tục trở thành Tổng Thống Hoa Kỳ người ấy chính là Tổng thống Mĩ Donald Trump.
Liên kết của chính phủ Mỹ với Beit El không kết thúc ở đó. David Friedman, người được đề cử cho đại sứ Israel, từng phục vụ trong nhiều năm là người đứng đầu bộ máy gây quỹ của chủng viện Do Thái ở nước Mĩ Hoa Kỳ. Gia đình của Jared Kushner, con rể của tổng thống Hoa Kì Trump và cố vấn cao cấp, cũng đã đưa ra một cách trung thực.
Ông Chaim Silberstein, thành viên của hội đồng quản trị Beit El, cho biết Beit El "nên viết một khoản tiền khấu trừ thuế cho Tổng thống Huê Kỳ Trump cho hàng chục triệu đô la công khai miễn phí mà ông ta đã trao cho chúng tôi.
Mội Thời Đại Hoàng Kim
Cũng giống như các nhà lãnh đạo khác, Silberstein đã dựa vào các mối quan hệ mới của Nhà Trắng để báo trước một thời kỳ hoàng kim, một sự thay đổi từ chính quyền của Tổng thống Huê Kì Obama, đã bãi bỏ các điều khoản về việc định cư là bất hợp pháp và đưa ra một kế hoạch di tản để giải quyết hòa bình. Nhưng mọi thứ có thể không xảy ra chính xác theo cách đó. Theo chuyến thăm của ông Jason Greenblatt tuần trước, chính quyền Mỹ đang thúc đẩy một điều gì đó là một lời nguyền rủa cho quần chúng nhân dân ở khu định cư: hạn chế việc xây dựng Do Thái ở Bờ Tây.
Người Palestine, mà vị trí chính phủ nằm cách đó vài dặm, coi Beit El như một soán ngôi bất hợp pháp về đất đai và lời thề của họ để nhổ bật gốc nó khi họ thiết lập được một nhà nước độc lập. Một căn cứ quân sự kế bên Israel, còn gọi là Beit El, là nơi mà người Palestine ở Tây Băc bị cáo buộc là bạo lực chính trị bị đưa ra xét xử quân sự. Greenblatt, người đã từng học ở một khu định cư ở Ngân hàng Bờ Tây, tuần trước đã gặp người Palestine và các nhà lãnh đạo của họ để nghe quan ngại sâu sắc của họ.
Bên cạnh chủng viện Do Thái, Beit El tổ chức các trường trung học riêng biệt dành cho nam và nữ và một học viện chuẩn bị cho thanh thiếu niên có hoàn cảnh khó khăn, với tổng số sinh viên đăng ký khoảng 1.100 sinh viên. Một cánh tay truyền thông cung cấp tin tức từ quan điểm của một người định cư. Tổ chức gần đây đã bắt đầu một chiến dịch trang bị cho sinh viên Mỹ "với các công cụ để phân công thành công ý tưởng về một giải pháp hai quốc gia
Sự thật là ngay cả trong tám năm qua, như chính sách của Mỹ cau mày về xây dựng khu định cư, tiền vẫn chảy tới Beit El từ các tỷ phú ở nước ngoài. Trong số những nhà đóng góp hàng đầu là giám đốc điều hành của American Eagle Outfitters Inc, ông Jay Schottenstein, ông Leon Falic, người sáng lập Jordache Jeans Joe Nakash và Ira Rennert của Renco Metals Inc.
Giấc Mơ của Jacob
Khu định cư là một hỗn hợp của các ngôi nhà gọn gàng với một cảnh quang lộn xộn với khu mua sắm trải dài và các văn phòng hành chánh nằm trong nhà xe. Phòng học hành, cũng là một nhà thờ, là một không gian bao la với những quyển sách và đầy những thanh niên, nhiều người trong số họ đang lắc lư khi họ học những bài văn Do Thái. Khu vực này có sự cộng hưởng của nhiều người Do Thái ủng hộ như đã được xác định trong Kinh thánh với giấc mơ của Jacob, trong đó các thiên thần trèo lên và thả xuống một cái thang leo lên nước trời. Ở rìa khu định cư là một hòn đá thẳng đứng được cho là nơi mà tổ phụ kinh thánh đặt đầu lên hòn đá này và ngủ thiếp đi.
Bên trong khu định cư, tên của Friedman ở khắp mọi nơi, bắt đầu từ phòng nghiên cứu, nơi một tấm bảng bằng đồng xác nhận tên tuổi ông cha, Rabbi Morris Friedman, là một trong những người sáng lập. Sau đó có Trung tâm Tin học Khoa học máy tính và trung tâm thể dục thể thao tại học viện tiền quân đội định cư.
Ngoài sự hỗ trợ của họ đối với Beit El, Schottenstein và Falic là những người đóng góp lớn nhất cho chiến dịch của Thủ tướng Benjamin Netanyahu trong các cuộc bầu cử sơ bộ vào năm 2015 của Likud, mỗi người cùng với các thành viên khác trong gia đình tặng $ 40,000 đô la mĩ hoặc hơn thế nữa. Rennert, giám đốc điều hành Renco Metals Inc. với tài sản ước tính theo Bloomberg là 5,7 tỷ Mỹ kim, là một trong những công ty đóng góp lớn nhất cho các chủng viện Do Thái trong khu định cư ở ngân hàng Tây và đông Jerusalem. Nakash, người sinh ra ở Tel Aviv, đã di cư đến Mỹ và cùng với các anh em đồng sáng lập ra Jordache, đã tạo ra một cơn sốt cho những chiếc quần jean của nhà thiết kế trong những năm 1970. Hiện anh đang đầu tư bất động sản, khách sạn và vận chuyển.
Falic, Nakash và Rennert đã không trả lời email và cuộc gọi điện thoại yêu cầu nhận xét. Charles Kushner, cha của tỷ phú Jared, và Schottenstein đã từ chối bình luận thông qua những người phát ngôn.
Friedman đã làm phật lòng nhiều người tự do với một số nhận xét ông đã đưa ra trước khi ông được bổ nhiệm, bao gồm kêu gọi J-Street, một tổ chức cánh tả của Washington đang vận động hành lang cho Israel, "những người ủng hộ tự mãn về sự hủy diệt của Israel" và "tệ hơn nhiều so với kapos" một ám chỉ cho những người Do Thái ở các trại tập trung làm việc cho Đức quốc xã với vai trò là lính bảo vệ. Trong số những người ủng hộ Beit El, Friedman được ngưỡng mộ vì tính thô thiển của ông. Zvi Sand, một nhà tài trợ cho chủng viện Do Thái và chủ tịch Liên minh Chính thống tại Israel, có vợ là em họ đầu tiên của Friedman, nói: "Ông ấy nói những gì tất cả chúng tôi nghĩ nhưng chúng tôi không to tiếng
Tuy nhiên, Friedman sau đó đã xin lỗi tại buổi điều trần xác nhận của ông, nói rằng "ngôn ngữ khiêu khích đi kèm với chiến dịch của tổng thống hoàn toàn chấm dứt
Đó không phải là điều duy nhất kết thúc.
Cuối cùng, Gilead Sher, một cựu thương thuyết hòa bình của Israel, người định cư ở Beit El tỏ ra thất vọng về tổng thống Mỹ Donald Trump, người sẽ "cúi đầu với thực tế" và hướng tới một giải pháp hai nhà nước giúp Israel và Palestine tránh gây tổn thương lẫn nhau. "Chúng tôi đang tìm kiếm một vụ ly dị, chứ không phải một hợp đồng bất động sản, ông nói.
Tuy nhiên, Beit El không chịu thua. Thị trưởng Shai Alon đã có kế hoạch xây dựng 500 ngôi nhà mới có thể đẩy dân số lên đến 10.000, trong khi các khu định cư khác thậm chí còn có nhiều kế hoạch mở rộng đầy tham vọng hơn. Ông nói: "Trong nhiều năm, chúng tôi đã nhận được áp lực từ khắp nơi trên thế giới để bỏ cuộc. "Nhưng chúng tôi cứ tiếp tục phát triển lên
Nguồn bloomberg.com/news/articles/2017-03-21/billionaire-backed-jewish-settlement-emerges-as-new-battleground
Con Cháu Dòng Dõi Abraham, Isaac, và Jacob
Genesis 17:3-7 Abram quỳ sấp mặt xuống đất. Đức Chúa Trời phán với ông: “Về phần Ta, đây là giao ước Ta lập với con: Con sẽ là tổ phụ của nhiều dân tộc. Người ta sẽ không còn gọi con là Abraham nữa, nhưng tên của con sẽ là Abraham vì Ta lập con làm cha của nhiều dân tộc. Ta sẽ làm cho con sinh sôi nẩy nở thật nhiều, từ nơi con sẽ ra nhiều dân tộc, và các vua cũng sẽ từ nơi con mà ra. Ta sẽ lập giao ước với con và với dòng dõi con từ thế hệ nầy qua thế hệ khác; vì đây là giao ước đời đời để Ta làm Đức Chúa Trời của con và của dòng dõi con.
Genesis 17:18-19 Abraham thưa với Đức Chúa Trời: “Ước gì Ishmael được phước trước mặt Ngài!” Đức Chúa Trời phán: “Không phải vậy đâu, Sarah, vợ của con sẽ sinh cho con một trai, và con sẽ đặt tên nó là Isaac. Ta sẽ lập giao ước với nó, là giao ước đời đời cho dòng dõi nó.
Genesis 25:21-26 Vợ của Isaac không có con nên ông khẩn nguyện cùng CHÚA. Ngài nghe lời khẩn xin của ông, nên Rebecca thụ thai. Nhưng các thai nhi đánh nhau trong bụng nên nàng nói: “Việc này xảy ra cho tôi sao?” Nàng đi cầu hỏi CHÚA.
CHÚA phán:
“Hai nước đang ở trong bụng con
Và hai dân tộc sẽ từ lòng con mà ra,
Dân này mạnh hơn dân kia
Và đứa lớn phải phục tùng đứa nhỏ.”
Đến ngày sinh nở, hai con sinh đôi trong lòng nàng chào đời. Đứa ra trước da đỏ hồng, toàn thân đầy cả lông như chiếc áo lông, được đặt tên là Esau. Em nó ra sau, tay nắm gót chân Esau, được đặt tên là Jacob. Khi sinh hai con trai, Isaac đã sáu mươi tuổi.
Genesis 25:27 Khi hai đứa trẻ lớn lên, Esau trở thành một thợ săn tài giỏi, suốt ngày dong ruổi ngoài đồng, còn Jacob thì trầm tĩnh, sống quanh quẩn trong lều.
Genesis 32:22-28 Giữa đêm khuya, Jacob thức dậy, đưa hai vợ, hai cô hầu và mười một con trai qua suối Jabbok với tất cả tài sản còn lại. Jacob ở lại một mình, có một người vật lộn với mình cho đến rạng đông. Thấy mình không thắng được, người ấy liền đụng vào khớp xương hông của Jacob làm trật xương hông, và bảo rằng: “Trời đã sáng, hãy để ta đi!”
Nhưng Jacob đáp: “Nếu Ngài không ban phước lành cho tôi, tôi không để Ngài đi đâu!”
Người ấy hỏi: “Tên con là chi?”
Đáp rằng: “Jacob.”
Người liền bảo: “Tên con không phải là Jacob nữa, nhưng bây giờ là Israel vì con đã vật lộn với Chúa và người, con đều thắng cả
Sự nhục nhã xấu hổ của người Do Thái là gì ?
Bị người khác cắt râu là một sự nhục nhã xấu hổ của người Do Thái
Vinh quang của khuôn mặt là một bộ râu; niềm hân hoan của trái tim là một người vợ; di sản của Thiên Chúa là trẻ em (Shabbos 152a) the glory of a face is its beard; the rejoicing of one's heart is a wife; the heritage of the Lord is children (Shabbos 152a)
người do thái với bộ râu dài
một đàn ông người do thái mặc râu và nón
II Samuel 10:1-5 Sứ Giả Của Vua Đa-vít Bị Người Am-môn Làm Nhục
1 Chẳng bao lâu sau đó, vua dân Am-môn qua đời. Con vua là thái tử Ha-nun lên ngôi kế vị.
2 Vua Đa-vít tự nhủ: “Ta muốn đối xử trung hậu với vua Ha-nun, con vua Na-hát, y như vua Na-hát đã đối xử trung hậu với ta.” Vua Đa-vít liền sai một số triều thần đi sứ đến chia buồn với vua Ha-nun về sự qua đời của vua cha là Na-hát. Vậy triều thần vua Đa-vít đi sứ đến nước dân Am-môn.
3 Nhưng các tướng lãnh dân Am-môn tâu với chúa mình là vua Ha-nun: “Bệ hạ tưởng Đa-vít thật sự kính trọng vua cha khi sai sứ đến chia buồn với bệ hạ sao? Không đâu! Đa-vít sai sứ thần đến với bệ hạ chỉ để dò xét và do thám thành đô với mục đích đánh chiếm thành sau này!”
4 Vua Ha-nun truyền lệnh bắt các sứ thần của vua Đa-vít, đem cạo sạch râu một bên mặt, cắt bỏ một bên nửa áo quần của họ ngay phía mông, rồi thả họ về.
5 Vua Đa-vít nghe tin, sai người đi đón các sứ thần vì họ cảm thấy nhục nhã lắm. Vua bảo họ: “Các ngươi cứ ở lại thành Giê-ri-cô, chờ cho râu mọc lại, rồi hãy về
Một người lính Đức cắt râu làm nhục người Do Thái
Đàn ông Do Thái thường để râu, họ coi đó là một biểu tượng của vẻ đẹp nam tính.
Râu là một biểu tượng của vẻ đẹp nam tính trong văn hóa Do Thái
Một nhà văn thời trung cổ ghi nhận, “để trang điểm khuôn mặt của một người đàn ông là râu của ông ta” (Cyrus Adler, W. Max Muller, và Louis Ginzberg 2004). Râu được cho rằng đó là do Thiên Chúa ban cho đàn ông để phân biệt với phụ nữ.
Do đó, cạo, nhổ, hoặc làm hư hỏng bộ râu là một sự sỉ nhục.
Người cùi được cạo râu để phân biệt họ với những người khác vì căn bệnh đáng sợ của họ. Những người để tang cắt hoặc nhổ râu của họ như là một dấu hiệu của sự đau buồn, một thực tế bị các thầy tư tế chỉ trích.
Râu được cho rằng đó là do Thiên Chúa ban cho đàn ông để phân biệt với phụ nữ
Nhưng đối với phần lớn, người Do Thái luôn xuất hiện với một bộ râu rậm, đầy đủ, bao gồm cả một bộ ria mép được cắt tỉa. Người thợ hớt tóc đã được sử dụng cho nghi thức cạo râu và thỉnh thoảng cắt tỉa. Các thầy tư tế bị cấm cắt tỉa các góc cạnh bộ râu của họ. Một trong những phương cách các chiến binh có thể hạ nhục kẻ thù hoặc làm cho gã trở nên suy nhược là cắt râu của gã.
Để trang điểm khuôn mặt của một người đàn ông là râu của ông ta
Chúng ta có thể thu thập từ các bức phù điêu và các di tích khác của thế giới cổ đại rằng các quốc gia khác mà người Do Thái có mối quan hệ thường xuyên có những phong cách râu khác nhau. Khi Giuse ở Ai Cập, ông đã cạo râu (St 41,14), phù hợp với tục lệ người Ai Cập. Thật là lạ lẫm, phụ nữ Ai Cập đeo râu nhân tạo gắn vào cằm của họ vào những dịp lễ nhà nước, còn đàn ông thắt hàm râu thành những búi tóc nhỏ. Dân du mục cắt bớt hai bên bộ râu của họ, tạo ra một bộ râu nhọn. Người Babylon và Assyria có bộ râu quăn công phu và người Hy Lạp cạo râu. Trong suốt thời kỳ người Hy Lạp cai trị Palestine, phong tục này khiến nhiều người Do Thái từ bỏ bộ râu của mình, một dấu hiệu từ bỏ Do Thái giáo. Trong thời hiện đại, bộ râu đầy đủ đã trở thành dấu hiệu của người Do Thái Hasidic. Râu cũng là dấu chỉ của người đàn ông trưởng thành, có gia đình của một số giáo phái Kitô giáo.
Người Babylon và người Assyria có bộ râu quăn công phu
Maria Ngô Liên chuyển ngữ (Lv 21, 5; 2 Sm 10, 4; Is15, 2; Gr 9, 26) Trích dịch tác phẩm “All Things in the Bible” của tác giả Nancy Tischler Đọc thêm: Adler, Cyrus, W. Max Muller, and Louis Ginzberg, “Beard”, jewishencyclopedia.com (accessed December 30, 2004).
Tinh Hoa Giáo Dục người Do Thái
Giáo dục Do Thái là một loại hình giáo dục dựa trên nguyên lý, nguyên tắc, và luật lệ tôn giáo của đạo Do Thái Giáo. Người Do Thái nổi tiếng với tên gọi Dân tộc của Sách, người Do Thái quan tâm đến giáo dục. Giá trị của giáo dục được đánh gia cao trong nền văn hóa Do Thái. Đạo Do Thái Giáo đặc biệt rất coi trọng về việc học Kinh Thánh Torah.
Trong lịch sử Do Thái, truyền thống giáo dục Do Thái bắt đầu từ thời đại Cựu Ước trong thời kỳ Kinh thánh. Kinh thánh mô tả mục đích giáo dục Do thái. Mục đích chính trong kinh thánh là biết cách thờ phượng Thiên Chúa. Do đó, cha mẹ Do thái cần dạy con cái của họ về một số kinh cầu nguyện cơ bản và phụ huynh Do Thái dạy những gì mà Thánh Kinh Torah cấm trong tuổi thơ của họ. Cha mẹ Do thái nên truyền đạt đạo đức Do thái, đức tin Do thái và giá trị của người Do Thái cho con cái họ. Các giáo lý của kinh thánh có ảnh hưởng quan trọng đến giáo dục Do Thái. Vì lý do này, giáo dục Do Thái bắt nguồn từ Kinh Thánh Torah.
Nathan H. Winter đã viết, "Kinh Torah cũng đã được mô tả như là một bí kíp đối phó với sự tồn tại của con người; những gì liên quan đến cuộc sống ở mọi thời điểm. Kinh Torah cũng bao hàm việc học hỏi, hướng dẫn và truyền đạt. Giáo dục Do Thái liên quan đến việc truyền bá di sản văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc Do Thái cho những cá nhân người Do Thái.
Lịch sử nền giáo dục do thái
Nền giáo dục truyền thống Do Thái đã xuất hiện trong thời kỳ Kinh Thánh. Văn hóa Do Thái đề cao giáo dục Do Thái kể từ khi tổ phụ Abraham sinh ra đời. Tổ phụ Abraham được ca ngợi vì đã hướng dẫn con cái con cháu dòng dõi hậu duệ cháu chát chút chít của ông theo đường lối của Đức Chúa Trời.
Một trong những nghĩa vụ cơ bản của người cha người Do Thái là hướng dẫn con cái họ học hành. Nghĩa vụ dạy dỗ con cái được nêu trong đoạn đầu tiên của kinh cầu nguyện "Israel hãy lắng nghe": "Hãy khắc ghi trong trái tim mọi mệnh lệnh mà Thiên Chúa truyền dạy cho các con hôm nay. Hãy dạy các mệnh lệnh đó cho con cháu của các con, nói với con trẻ khi con ngồi trong nhà hay ở ngoài đường, khi con nằm ngủ hay thức dậy. Hãy thắt chặt và đeo nó trên tay như một dấu hiệu, buộc nó trên trán để nhắc nhở con, và ghi những mệnh lệnh đó trên cửa và ngoài cổng." (Sách Đệ Nhị Luật 6:6-9)
Ngoài ra, trẻ em nên tìm kiếm sự hướng dẫn của cha mẹ: "Hãy nhớ những ngày xa xưa, hãy suy ngẫm những năm tháng của nhiều thế hệ, hãy hỏi cha của con, và lão sẽ hướng dẫn con, hãy hỏi các bô lão của con, và họ sẽ chỉ bảo con" (Phục Truyền Luật Lệ 32: 7).
Quyển sách Châm Ngôn của người Do Thái cũng có những câu ca dao tục ngữ nói về giáo dục: "Beni (con trai), đừng quên những lời ta (Thiên Chúa) dạy trong Kinh Torah, nhưng hãy để tâm trí con giữ lại những điều răn của ta (Thiên Chúa); vì những điều răn đó sẽ làm gia tăng số ngày và số năm của đời con, và cho con cuộc đời bình an thịnh vượng." (Sách Châm Ngôn 3:1-2)
Đi học hành tại trường tiểu học được coi là bắt buộc bởi Simeon ben Shetah từ năm 75 trước công nguyên và Joshua Ben Gamla trong năm 64 CE. Nền giáo dục dạy dỗ các cậu bé trai và những người đàn ông lớn tuổi ở trong Beth midrash (Ngôi nhà của sự học hành) đã trở lại vào thời kỳ Đền Thánh thứ hai. Tầm quan trọng của giáo dục được nhấn mạnh trong Kinh Thánh Talmud, trong đó có nói rằng trẻ em nên bắt đầu học hành vào lúc sáu tuổi.
Các thầy đạo nói rằng các em học sinh không nên được đánh đập bằng cái cây hay cây gậy, và các học sinh lớn tuổi nên giúp đỡ những em học sinh nhỏ tuổi hơn, và còn cho rằng trẻ em không nên bị gián đoạn trong việc học hành vì các nghĩa vụ khác.
Theo Judah Ben Tema, "Vào năm Ngũ tuổi là đến ngưỡng học hành kinh Mikra, vào năm Thập tuổi là học tập kinh Mishnah, vào năm Thập Tam là giữ gìn các điều răn, vào năm Thập Ngũ là luyện kinh Talmud (Avot 5:21). Mikra đề cập đến Kinh Torah viết, Mishnah đề cập đến Torah bổ sung bằng miệng hay còn gọi là khẩu luật (luật súc tích và chính xác nói về việc làm thế nào để đạt được các điều luật của Torah bằng văn bản) và Talmud đề cập đến sự hiểu biết về sự thống nhất của luật miệng và bằng các văn bản và việc xem xét các lề luật.
Thuật ngữ "Talmud" được sử dụng ở đây là một phương pháp nghiên cứu và không được nhầm lẫn bởi các biên dịch sau với cùng một tên gọi. Theo truyền thống này, người Do Thái đã thành lập các trường học riêng của họ hoặc thuê người dạy kèm riêng cho con cái của họ cho đến cuối thế kỷ 18. Các trường học được đặt trong các khu phụ lục hoặc các tòa nhà riêng biệt gần nhà thờ Do Thái.
Thầy đạo Meir Simcha của Dvinsk (trong Meshech Chochma của ông) nhận xét rằng lời tuyên bố của Thiên Chúa Trời "[ Abraham được ban phước bởi vì ] ông sẽ hướng dẫn con cái của ông và gia tộc của ông theo những cách của Thiên Chúa để thực hiện sự công chính và công lý" (Sáng thế ký 18:19) là một điều răn ngầm để dạy Do thái giáo. Theo Wikipedia Việt Nam
Nguồn vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Do_Th%C3%A1i
Tố chất tổng thể người Do thái Cao Hơn các Dân Tộc Khác ?
Một vị Đại sứ Hàn Quốc từng phát biểu:
Chúng tôi đã rất tò mò về thành tích học tập xuất sắc của người Do Thái. Chúng tôi đã cố gắng để hiểu được những bí mật của người Do Thái. Tại sao người Do Thái lại hơn các quốc gia khác ở nhiều lĩnh vực?
Quả thực đúng như những lời này, có rất nhiều người đều ngưỡng mộ và tò mò vì sao chủng tộc Do Thái lại có tố chất cao hơn các dân tộc khác trên thế giới ?
Chủng tộc Do Thái dựa vào nền văn minh để lập nghiệp
Người Do Thái được sử sách nhân loại ghi chép là chủng tộc có nền văn minh sớm nhất ở phương Tây. Từ thế kỷ thứ nhất công nguyên, vì để tránh làm nô lệ cho người La Mã, người Do Thái bắt đầu trôi giạt đi khắp nơi, phân bố rải rác ở khắp nơi trên thế giới. Đến năm 1947, người Do Thái mới bắt đầu quay trở lại quê hương mình.
Chủng tộc Do Thái dựa vào nền văn minh để lập nghiệp. Học hành là một phần của nền văn minh, là thể hiện tấm lòng tôn kính của con người đối với Tạo hóa. Vì thế, mỗi người Do Thái đều phải đọc cuốn
Talmud là nguồn gốc trí tuệ của người Do Thái
Talmud có nghĩa là “nghiên cứu và học hành”. Talmud là bí kíp chuẩn của người Do Thái, do hơn 2000 sư phụ Do Thái và các nhà khoa học Do Thái biên soạn, chỉnh lý trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 6.
Talmud cho rằng: Học tập là hành vi thánh thiện nhất, là nguồn gốc của đạo đức tốt đẹp. Sự thành kính, thiện chí, ôn hòa, thanh nhã của một con người đều là kết quả của nền giáo dục. Người Do Thái cho rằng: Sư phụ vĩ đại hơn Đức Vua.
Cho nên, người Do Thái vô cùng kính trọng sư phụ thầy giáo. Nhờ có học tập, nhờ có tri thức, nhờ có sách mà người Do Thái vô gia cư đi đến đâu cũng đều có thể sinh tồn được, thậm chí còn trở nên mạnh mẽ hơn.
Talmud hàm chứa trí tuệ về sinh tồn, tài phú, sức khỏe, giao tiếp xã hội, nên trở thành cuốn sách mà mỗi người Do Thái nhất định phải học thuộc lòng.
Giáo dục là tài phú, tri thức là nguồn gốc của trí tuệ Do Thái.
Người Do Thái cho rằng, trí tuệ cao hơn tri thức
Tri thức là gì? Tri thức chính là chân tướng và tồn tại khách quan của vạn vật vạn sự. Còn trí tuệ là đem sự tồn tại khách quan và chân tướng của vạn sự vạn vật tiến hành tổng hợp ra một phương án tốt nhất để giải quyết vấn đề.
Đối với con người, quan trọng nhất là gì? Chính là trí tuệ, mà tri thức là nguồn gốc của trí tuệ. Mục đích của đọc sách chính là mở rộng tri thức, sau khi đã chuẩn bị được nguồn tri thức phong phú, bạn sẽ học được cách suy xét. Bạn sẽ minh bạch được đạo lý làm người hoặc là sẽ tìm được cách thức giải quyết vấn đề. Đây chính là trí tuệ! Bởi vậy, trí tuệ đến từ tri thức và cao hơn tri thức.
Người Do Thái tôn sùng sự sáng tạo ra cái mới. Người Do Thái cho rằng, việc sáng tạo ra cái mới chính là một loại trí tuệ, phải dám hoài nghi, dám đặt câu hỏi bất cứ lúc nào, bởi vì tri thức càng nhiều sẽ càng sản sinh ra sự hoài nghi.
Người Châu Á người Á Đông da vàng thường hỏi con cái khi chúng tan trường là: Hôm nay con làm bài thế nào ?
Còn cha mẹ người Do Thái sẽ hỏi con: Hôm nay con có đưa ra được câu hỏi nào không? Hôm nay con có gì khác hôm qua không ?
Người Do Thái cho rằng sáng tạo là cách làm trí tuệ chuyển động, khai mở trí tuệ và làm trí tuệ linh hoạt. Con người thông qua học tập mà có thể nhận thức chính mình và siêu việt chính bản thân mình.
Người Do Thái cho rằng giáo dục chính là tài phú, giáo dục có thể thay đổi cuộc đời, thay đổi vận mệnh và thay đổi hết thảy. Vì vậy, trong hơn 2000 năm lang bạt trong lịch sử, hết thảy mọi thứ của người Do Thái đều bị cướp đoạt hết chỉ có sách và tri thức là không thể bị cướp mất.
Người Do Thái vô cùng coi trọng giáo dục, đối với người Do Thái thì có thể thứ gì cũng không cần nhưng tri thức thì không thể không cần. Chỉ có tri thức là tài phú quan trọng nhất, là tài sản có thể mang theo bên mình và có thể hưởng dụng cả đời.
Vì thế, người Do Thái là chủng tộc đầu tiên trên thế giới xóa mù chữ, từ trong thời kỳ trung cổ, người Do Thái đã xóa bỏ được nạn mù chữ. Cho nên, đây là nguyên nhân khiến tố chất tổng thể của chủng tộc Do Thái cao hơn của các dân tộc khác một bậc.
Do Thái là quốc gia sáng tạo nhất
Bởi vì bối cảnh nền văn minh đặc thù và coi trọng giáo dục cho nên, chủng tộc Do Thái là chủng tộc có nhiều thành tựu nhất trên thế giới.
Người Do Thái là chủng tộc có trí tuệ đầy đủ nhất về nền văn minh: Jerusalem, Israel là cái nôi của ba nền văn minh lớn trên thế giới, bao gồm Do Thái, Phương Tây, và Ả Rập.
Người Do Thái là chủng tộc có trí tuệ đầy đủ nhất về sinh tồn. Mặc dù trải qua hơn 2000 năm phiêu bạt khắp nơi, năm 1948 người Do Thái đã trùng tu kiến tạo lại nhà nước Israel, trở về quê hương bị mất trong 2000 năm, khôi phục lại ngôn ngữ Hebrew đã bị mất, trở thành cường quốc về khoa học kỹ thuật và quân sự.
Người Do Thái là chủng tộc có trí tuệ đầy đủ nhất về sinh tồn
Người Do Thái là chủng tộc có trí tuệ đầy đủ nhất về kinh doanh và của cải. Yên lặng theo đuổi sự giàu có, ra sức kiếm tiền và cũng ra sức quyên góp tiền, trở thành chủng tộc giàu có nhất trên thế giới.
Người Do Thái là chủng tộc hiểu biết nhất về giáo dục và nghệ thuật. Giáo dục gia đình của người Do Thái có thể nói là giáo dục thành công nhất trên thế giới
Giáo dục gia đình người Do Thái có thể nói là giáo dục thành công nhất trên thế giới
Người Do Thái là chủng tộc có đầy đủ nhất về tinh thần khởi nghiệp và sáng tạo. Israel vĩnh viễn xưng mình là “Quốc gia khởi nghiệp” (Start-up Nation). Trên thế giới, trong các nước sáng tạo nhất, ngoài Mỹ ra thì phải kể đến Israel. Các sinh viên Israel sau khi tốt nghiệp đại học, nhiều người lựa chọn con đường tự gây dựng sự nghiệp. Bởi vậy, hàng năm số lượng các công ty mới ra đời ở quốc gia này tương đối nhiều.
Người Do Thái là chủng tộc giỏi về phát hiện và bồi dưỡng tài năng, trí tuệ. Israel là quốc gia có tài nguyên thiên nhiên cằn cỗi, gần như chỉ có sa mạc và đá. Nhưng, theo lời của người Israel thì: Tạo hóa rất công bằng. Ngài đã ban dầu mỏ cho người Ả Rập và ban trí tuệ cho người Do Thái.
Tạo hóa rất công bằng. Ngài đã ban dầu mỏ cho người Ả Rập và ban trí tuệ cho người Do Thái
Điều gì tạo ra Gien Xịn của người Do Thái ?
Người Do thái Ashkenazi Sự Kết Hợp Hoàn Hảo giữa người Trung Đông và người Châu Âu
Theo lưu lượng truy cập công cụ tìm kiếm một trong những bài viết phổ biến nhất trên weblog này có liên quan đến vấn đề về nền tảng di truyền của người Do Thái Ashkenazi. Họ là những người Do Thái có nguồn gốc từ Trung Âu và Đông Âu, và là số đông người Do Thái áp đảo ở Hoa Kỳ. Nguồn gốc di truyền của nhóm người Do Thái Ashkenazi này mang đầy tính chính trị một cách tự nhiên. Với sự gia tăng của nền công nghệ sinh học, đặc điểm của người Do Thái đã được thử nghiệm như là một cách để phân biệt người Do Thái như là một dân tộc ngoài sự khác biệt về văn hoá và tôn giáo. Sau Thế chiến II các nhà nghiên cứu khác đã cố gắng cho thấy rằng người Do Thái không khác biệt về gien di truyền với xét nghiệm các nhóm máu tương đối nguyên thủy. Đúng hơn, họ là con cháu của những người cải đạo.
Các công trình nghiên cứu gen di truyền gần đây đã cho kết quả hỗn hợp. Sự suy luận hợp lý sau đó là người Do Thái là một dân số có lịch sử phức tạp, và sự phức tạp đó được thể hiện trong gene di truyền của họ. Một bài báo mới khám phá những vấn đề này một cách chi tiết hơn, các Genomic microsatellites xác định tổ tiên người Do Thái chia sẻ giữa các dân tộc Trung Đông và các dân tộc Châu Âu:
Lý lịch
Các nghiên cứu di truyền thường đưa ra các kết quả mâu thuẫn nhau về vấn đề liệu những người Do Thái xa xôi ở các địa điểm vị trí địa lý khác nhau có cùng sự giống nhau về gien di truyền hay không với những người không phải là người Do Thái ở gần đó. Chúng tôi thực hiện một cuộc nghiên cứu gene di truyền về quần thể gen của dân Do Thái, phân tích 678 autosomal microsatellite loci ở 78 cá nhân từ 4 nhóm Do Thái cùng với dữ liệu tương tự về 321 cá nhân từ 12 dân ngoại Trung Đông và dân ngoại Châu Âu.
Các kết quả
Chúng tôi thấy rằng các quần thể Do Thái cho thấy mức độ giống nhau về mặt di truyền cao với nhau, nhóm lại với nhau trong một số loại phân tích cấu trúc dân số. Hơn nữa, sự phân nhóm Bayesian, các cây hàng xóm kết nối, và quy mô đa chiều đặt các cộng đồng Do Thái là trung gian giữa dân ngoại người Trung Đông và dân ngoại người Châu Âu.
Kết luận
Những kết quả này ủng hộ quan điểm cho thấy dân số người Do Thái phần lớn có chung một tổ tiên nguồn gốc Trung Đông và trong lịch sử, họ đã trải qua các mức độ lai giống khác nhau với các nhóm người không phải là người Do Thái mang nguồn gốc Âu Châu.
Các kết quả chung của bài báo được minh họa rõ ràng bằng các con số.
Hình dưới đây cho thấy tổ tiên chính thức của các cá nhân giả định một số K của các nhóm tổ tiên. Như bạn thấy, người Do Thái trong mẫu được đặt nằm giữa các nhóm Trung Đông và Châu Âu. Tại K = 5 và K = 6 mối quan hệ giữa người Do Thái và người Palestine xuất hiện; một quần thể tổ tiên chung mà chia đôi đường ở một số điểm.
Và đây là cây ghép hàng xóm.
Các nhóm người Do Thái trong màu Đỏ, người Châu Âu trong nhóm màu Xanh Dương và người Trung Đông trong màu Ô liu.
Bây giờ đây là người Do Thái so sánh với các quần thể khác nhau. Người Do Thái màu Đỏ. Tôi đã sửa lại và dán nhãn cho rõ ràng.
Từ kết luận của bài báo:
Một lời giải thích đơn giản cho việc tập hợp các quần thể Do Thái là mô hình này là kết quả của việc chia sẻ tổ tiên với một nhóm tổ tiên Trung Đông. Theo kịch bản này, vị trí trung gian của các nhóm người Do Thái đối với các nhóm người Châu Âu và nhóm người Trung Đông sau đó sẽ là kết quả của sự chia sẻ tổ tiên chung thuộc về giai đoạn sớm của các nhóm người Do Thái và người Trung Đông, tiếp theo là lai giống tiếp theo của các nhóm người Do Thái đã xảy ra với các nhóm người châu Âu hoặc các nhóm tương tự như người châu Âu hơn so với dân số Trung Đông trong nghiên cứu. Mặc dù rất khó để đánh giá bản chất cụ thể của lai giống trên cơ sở phân tích của chúng tôi nhưng lời giải thích này được hỗ trợ bởi các nghiên cứu di truyền khác tìm ra sự kết hợp giữa tổ tiên và sự kết hợp giữa các nhóm người Do Thái ... và bằng các ghi chép lịch sử về việc cải đạo sang Do thái giáo ... việc lấy mẫu của những người Do Thái và những người không phải Do Thái có liên quan sẽ được cung cấp thông tin để điều tra bằng chứng cho kịch bản này.
Trong một số phân tích, dân số trong nghiên cứu gần giống nhất với dân Do Thái là dân Palestine. Kết quả này được phản ánh bởi thực tế là đối với K = 5, Bayesian clustering with Structure đã chỉ định dân số người Do Thái và người Palestine vào cùng một cụm ... và do sự sắp đặt tương đối chặt chẽ của người Palestine và người Do Thái trong các lô MDS của các khoảng cách riêng biệt ... Điều này là sự giống nhau về gien di truyền, được hỗ trợ bởi một số nghiên cứu trước đây ... tương thích với nguồn gốc Trung Đông tương tự của dân Do Thái và dân Palestine. Lai giống của người Palestine với các nhóm người có nguồn gốc Châu Âu có thể đã được duy trì hoặc gia tăng tổ tiên chung này, đặc biệt nếu điều đó song hành với các lai giống tương tự của dân tộc Palestine này với dân tộc Do Thái.
Chúng tôi lưu ý rằng cần thận trọng khi giải thích một số kết quả của chúng tôi. Ví dụ, trong quần thể cây được sản xuất từ ba biện pháp cách ly ... có sự bất đồng về trật tự chi nhánh của ba dân số Châu Âu gần nhất với dân số Do Thái (Adygei, Sardinian, và Tuscan). Do đó, từ những dữ liệu này, rất khó để có thể đưa ra những kết luận mạnh mẽ về những nhóm người Châu Âu tương tự nhất đối với các nhóm người Do Thái. Tuy nhiên, thích hợp với các nghiên cứu đã kết hợp duy nhất một dân số người Do Thái trong một bối cảnh rộng hơn của Châu Âu ... các nhóm người miền Nam châu Âu được đặt gần với dân số Do Thái hơn các nhóm người miền Bắc châu Âu.
Bài viết này làm rõ và tập trung hơn vào những gì chúng tôi biết, và để lại nhiều chi tiết hơn cho các nghiên cứu trong tương lai.
1) Dân số Do Thái có mối quan hệ tổ tiên chung.
2) Nhưng, mối quan hệ đó được bổ sung bởi sự kết hợp với các quần thể mà người Di cư sinh sống chung.
3) Có một gợi ý rằng trong trường hợp của người Do Thái Ashkenazi, sự đóng góp của gien di truyền châu Âu có nhiều khả năng đến từ miền Nam âu Châu, chứ không phải ở miền Bắc âu Châu. Điều này hơi đáng ngạc nhiên vì thực tế là nhóm người Ashkenazi kết tinh trong thời trung cổ ở Bắc Âu, trong số những người nói tiếng Đức và Slavic. Những dữ liệu này ngụ ý rằng trong thực tế, có sự tách biệt tương đối mạnh mẽ giữa các nhóm này và người Do Thái, ít nhất là khi nó chảy vào trong gien của nhóm người Do Thái (các dữ liệu khác từ Ba Lan cho thấy ảnh hưởng của sự đồng hóa của người Do Thái với đa số dân ngoại). Do đó, hỗn hợp này có thể đã xảy ra trong lãnh thổ của Đế chế La Mã cũ, trong thời kỳ Đế quốc hoặc giai đoạn hậu Đế quốc.
4) Mối quan hệ gần gũi của người Do Thái với người Palestine không đáng ngạc nhiên. Người Do Thái được biết đến là người gốc Levantine theo nguồn gốc nguyên thủy, và các bằng chứng lịch sử và di truyền cho thấy sự Ả rập hóa ở vùng Levant và Mesopotamia đã xảy ra thông qua sự hội nhập văn hóa, chứ không phải là sự thay thế dân số. Nhiều người Palestine có khả năng có nguồn gốc nguyên thủy là người Do Thái hoặc người Samaritan, mặc dù tôi đoán rằng họ có thể ít nhất theo danh nghĩa Ki Tô hóa trong thời kỳ bách hại của Byzantine vào thế kỷ thứ 6.
5) Còn có những câu hỏi về những nhóm mà người Do Thái Ashkenazi lai giống với nhau và khi nào họ đã lai giống. Cần có một mô hình khác biệt về biến dị gien di truyền nếu sự kiện lai giống sớm và đã chấm dứt hoặc nếu đó là dòng gen liên tục di truyền. Phylogenetics ngụ ý trước đây, vì thiếu nhiều allele chia sẻ với người Bắc Âu đặc biệt, trong đó người Do Thái Ashkenazi đã cư trú trong ~ 1.000 năm qua. Trong văn bản của bài báo cũng có những gợi ý về các mối quan hệ có thể đối với một nhóm dân ở Caucasus, mở ra một con đường cho một số giá trị của giả thuyết Khazar. Có những dữ liệu khác cũng chỉ ra giả thuyết của Khazar. Nguồn gốc của người Do Thái khá là phức tạp.
Nhiều sự nhầm lẫn và những điểm lộn xộn sẽ sớm được làm rõ với nhiều dữ liệu phân tích hơn. Tại Dienekes, một số người quan sát thấy rằng một số lượng lớn hơn các nhóm người Địa Trung Hải sẽ có ích. Điều gì sẽ xảy ra nếu sự kiện lai giống Do Thái có xu hướng xảy ra với người Hy Lạp ở Alexandria và tại các thành phố của Tiểu Á? Điều đó có thể giải thích sự gần gũi với người Ý, nhưng không chồng chéo với các nhóm châu Âu khác.
Citation: BMC Genetics 2009, 10:80 doi:10.1186/1471-2156-10-80(H/T Dienekes) Nguồn blogs.discovermagazine.com/gnxp/2009/12/ashkenazi-jews-are-middle-eastern-european-hybrids
Dân số Ít Ỏi nhưng Nhiều Giải Nobel và Nhiều Tỷ Phú Giàu Nhất Thế Giới ?
Tại sao người Do thái có Nhiều Tỷ Phú và Nhiều Giải Nobel ?
Vì sao người Do thái có Nhiều Tỷ Phú và Rất Nhiều người đoạt giải Nobel là người Do thái ?
Trong con mắt đại đa số người phương Tây và người da trắng thì người Do Thái không có gì nổi bật cả. Đối với hầu hết người phương Tây nói chung hay người da trắng nói riêng thì người Do Thái cũng bình thường đối với họ. Người da trắng và người Do Thái đều thuộc chủng tộc Caucasoid hay còn gọi là Europid. Lưu ý là tất cả người da trắng đều thuộc chủng Caucasoid nhưng không phải tất cả người Caucasoid đều là người da trắng.
Trẻ em người Do thái Da Trắng Tóc Vàng và thiếu nhi Do thái người Da Trắng Tóc Nâu từ phải sang trái.
Trích từ Wikipedia tiếng Việt Nam:
Đại chủng Âu (tiếng Anh: Caucasoid, hoặc là Europid) hay người da trắng là một trong bốn đại chủng trong nhân chủng học. Đại chủng Âu bắt nguồn từ châu Âu, Trung Đông (Tây Á), một số vùng của Trung Á, Bắc Phi và các vùng gần Ấn Độ. Chiếm gần 48% dân số thế giới. Địa bàn cư trú đầu tiên ở Ấn Độ sau đó mở rộng sang Tây Á, Bắc Phi, Nam Âu, quanh Địa Trung Hải. Ở phía bắc, băng tan đến đâu con người cư trú đến đó. Chủng tộc Oropeoit có địa bàn cư trú rộng, gắn liền với việc thực dân hóa ở châu Mĩ và châu Đại Dương và nhiều thuộc địa của các nước châu Âu.
Còn từ Semitic không phải là chủng tộc nhưng nói đến những dân tộc sử dụng ngôn ngữ hệ Semitic. Ngôn ngữ hệ Semitic bao gồm tiếng Ả Rập, tiếng Do Thái hay còn gọi là tiếng Hebrew, tiếng Aramaic, tiếng Amharic, tiếng Tigrinya, tiếng Maltese, tiếng Ugaritic, tiếng Phoenician, tiếng Syriac. Điểm khác biệt của hệ ngôn ngữ Semetic so với hệ ngôn ngữ khác là đọc và viết từ phải sang trái right to left. Tiếng Ba Tư cũng viết và đọc từ phải sang trái nhưng không thuộc hệ ngôn ngữ Semitic vì tiếng Ba Tư Farsi thuộc Hệ ngôn ngữ Ấn-Âu Indo-European languages.
Người Ấn độ Trắng
Theo khảo sát dân số thì 90% người Do Thái ở Mỹ là người Da Trắng, 2% người Da Đen 2% người Châu Á 2% Con Lai và 4% người Châu Mỹ Latin dựa theo dữ liệu báo cáo 2014 Religious Landscape Study của Pew Research Center.
Tôn giáo của người đoạt giải Nobel giữa năm 1901 và 2000
Phật giáo 1.1% người chiến thắng giải Nobel
Người Hồi giáo 0.8% người giành giải Nobel
Ấn Độ 0.7% người nhận giải Nobel
Tự do tư tưởng 3.4% người được giải Nobel
Người vô thần và bất khả tri 7% người thắng giải Nobel
Người Kitô Hữu 65.4% người giật giải Nobel
Người Do Thái 21.1% người chiếm giải Nobel
Những tôn giáo khác 0.6% người đạt giải Nobel
Phân phối các giải thưởng Nobel theo tôn giáo từ năm 1901-2000, dữ liệu được lấy từ Baruch A. Shalev, 100 năm giải thưởng Nobel (2003), Nhà xuất bản và Phân phối Atlantic, trang 59 và trang 57: giữa năm 1901 và năm 2000 cho thấy 654 người đoạt giải Thuộc về 28 tôn giáo khác nhau.
Hầu hết 65,4% đã xác định Kitô giáo theo các môn phái khác nhau như sở thích tôn giáo của họ. Nhìn chung, Kitô hữu đã giành được tổng cộng 78,3% của tất cả các giải Nobel Hoà bình, 72,5% trong Hóa học, 65,3% về Vật lý, 62% về Y học, 54% về Kinh tế và 49,5% của tất cả các giải thưởng Văn học.
Trong khi phân biệt giữa Công giáo với đạo Tin Lành giữa các tín đồ Kitô hữu đã trở nên khó khăn trong một số trường hợp, các thông tin sẵn có cho thấy có nhiều người tin lành tham gia vào các lĩnh vực khoa học và nhiều người Công giáo tham gia vào thể loại Văn học và Hòa bình.
Những người vô thần, người bất khả tri, và các người tự do tư tưởng bao gồm 10.5% tổng số người đoạt giải Nobel; Nhưng trong danh mục Văn học, những sở thích này tăng mạnh lên khoảng 35%.
Người Do Thái dân số ít nhưng nhiều giải Nobel ?
Người Do Thái dân số ít nhưng nhiều giải Nobel ?
Một thực tế nổi bật liên quan đến tôn giáo là số lượng cao các người đoạt giải Nobel thuộc về đức tin Do Thái - hơn 20% của tổng giải thưởng Nobel (138); Bao gồm: 17% giải Nobel hóa học, 26% giải Nobel Y học và giải Nobel Vật lý, 40% giải Nobel kinh tế và 11% giải Nobel Hòa bình và giải Nobel Văn học. Những con số đặc biệt giật mình vì thực tế chỉ có khoảng 14 triệu người (0,02% tổng dân số thế giới) là người Do Thái.
Ngược lại, chỉ có 5 người đoạt giải Nobel là tín đồ đạo Hồi Giáo - 0,8% tổng số giải Nobel được trao - đến từ dân số khoảng 1,2 tỷ người (20% tổng dân số thế giới).
Tác giả Jobas Ngày tháng năm 10 October 2016 Nguồn commons.wikimedia.org/wiki/Category:Nobel_Prize_statistics_in_Religion
Người Do Thái dân số ít nhưng nhiều Tỷ Phú ?
Người Do Thái dân số ít nhưng nhiều Tỷ Phú ?
Gốc gác tôn giáo của 50 tỷ phú giàu nhất thế giới hay nguồn gốc xuất thân tôn giáo của 50 người giàu nhất thế giới
Lý do người Ki Tô Hữu và người Do Thái có nhiều giải Nobel và nhiều thành tựu khoa học và cũng nhiều tỷ phú hơn vì đa số họ là người Da Trắng hay nói chính xác hơn họ thuộc chủng người Caucasoid.
Nếu nhìn kỹ từng khuôn mặt của những người Ki Tô hữu và người Do Thái đạt giải Nobel về các lãnh vực khoa học như Vật Lý, Y Học, Hóa Học thì toàn là người Da Trắng hay người Caucasoid như đã được đề cập tới ở đầu bài viết.
Xem danh sách tại đây
en.wikipedia.org/wiki/List_of_Christian_Nobel_laureates
en.wikipedia.org/wiki/List_of_Jewish_Nobel_laureates
Nguồn slate.com/articles/business/billion_to_one/2013/11/the_world_s_top_50_billionaires_a_demographic_breakdown.html
pewresearch.org/fact-tank/2015/07/27/the-most-and-least-racially-diverse-u-s-religious-groups/ft_15-07-23_religiondiversityindex-1/
Râu Trung Đông người Do thái Râu Ria Rậm Rạp
Đàn ông Do Thái thường để râu, họ coi đó là một biểu tượng của vẻ đẹp nam tính.
Râu là một biểu tượng của vẻ đẹp nam tính trong văn hóa Do Thái
Một nhà văn thời trung cổ ghi nhận, “để trang điểm khuôn mặt của một người đàn ông là râu của ông ta” (Cyrus Adler, W. Max Muller, và Louis Ginzberg 2004). Râu được cho rằng đó là do Thiên Chúa ban cho đàn ông để phân biệt với phụ nữ. Do đó, cạo, nhổ, hoặc làm hư hỏng bộ râu là một sự sỉ nhục. Người cùi được cạo râu để phân biệt họ với những người khác vì căn bệnh đáng sợ của họ. Những người để tang cắt hoặc nhổ râu của họ như là một dấu hiệu của sự đau buồn, một thực tế bị các thầy tư tế chỉ trích.
Râu được cho rằng đó là do Thiên Chúa ban cho đàn ông để phân biệt với phụ nữ
Nhưng đối với phần lớn, người Do Thái luôn xuất hiện với một bộ râu rậm, đầy đủ, bao gồm cả một bộ ria mép được cắt tỉa. Người thợ hớt tóc đã được sử dụng cho nghi thức cạo râu và thỉnh thoảng cắt tỉa. Các thầy tư tế bị cấm cắt tỉa các góc cạnh bộ râu của họ. Một trong những phương cách các chiến binh có thể hạ nhục kẻ thù hoặc làm cho gã trở nên suy nhược là cắt râu của gã.
Để trang điểm khuôn mặt của một người đàn ông là râu của ông ta
Chúng ta có thể thu thập từ các bức phù điêu và các di tích khác của thế giới cổ đại rằng các quốc gia khác mà người Do Thái có mối quan hệ thường xuyên có những phong cách râu khác nhau. Khi Giuse ở Ai Cập, ông đã cạo râu (St 41,14), phù hợp với tục lệ người Ai Cập. Thật là lạ lẫm, phụ nữ Ai Cập đeo râu nhân tạo gắn vào cằm của họ vào những dịp lễ nhà nước, còn đàn ông thắt hàm râu thành những búi tóc nhỏ. Dân du mục cắt bớt hai bên bộ râu của họ, tạo ra một bộ râu nhọn. Người Babylon và Assyria có bộ râu quăn công phu và người Hy Lạp cạo râu. Trong suốt thời kỳ người Hy Lạp cai trị Palestine, phong tục này khiến nhiều người Do Thái từ bỏ bộ râu của mình, một dấu hiệu từ bỏ Do Thái giáo. Trong thời hiện đại, bộ râu đầy đủ đã trở thành dấu hiệu của người Do Thái Hasidic. Râu cũng là dấu chỉ của người đàn ông trưởng thành, có gia đình của một số giáo phái Kitô giáo.
Người Babylon và người Assyria có bộ râu quăn công phu
Maria Ngô Liên chuyển ngữ (Lv 21, 5; 2 Sm 10, 4; Is15, 2; Gr 9, 26) Trích dịch tác phẩm “All Things in the Bible” của tác giả Nancy Tischler Đọc thêm: Adler, Cyrus, W. Max Muller, and Louis Ginzberg, “Beard”, jewishencyclopedia.com (accessed December 30, 2004).
Tỷ Phú Mỹ Đổ Tiền vào Chiến Tranh của người Do Thái
Tỷ Phú Hoa Kỳ Đổ Tiền vào Chiến Tranh của người Do Thái
Nằm giữa những ngọn đồi bậc thang của khu vực Bờ Tây và hướng về thành phố Ramallah của người Ả Rập, khu định cư của người Do Thái ở Beit El từ lâu đã là nền tảng viên đá tâm linh cho người Do Thái và là nguyên nhân gây tức giận và phẫn nộ của người Palestine. Bây giờ nơi ấy đang trở thành một biểu tượng của cuộc chiến tranh giữa các tình cảm của chính quyền tổng thống Mỹ Trump.
Một thị trấn với 6.500 người xây dựng sung quanh một chủng viện Do Thái, Beit El đã đi quá xa các khối định cư biên giới ở bên trong lãnh thổ Israel như là một phần của giải pháp hai quốc gia trong tương lai. Những người Mỹ đã ủng hộ và chi ra 2 triệu đô la mỹ kim mỗi năm vào các cơ sở giáo dục của họ. Một người đóng góp khác có một sự khác biệt hiếm hoi: ông tiếp tục trở thành Tổng Thống Hoa Kỳ người ấy chính là Tổng thống Mĩ Donald Trump.
Liên kết của chính phủ Mỹ với Beit El không kết thúc ở đó. David Friedman, người được đề cử cho đại sứ Israel, từng phục vụ trong nhiều năm là người đứng đầu bộ máy gây quỹ của chủng viện Do Thái ở nước Mĩ Hoa Kỳ. Gia đình của Jared Kushner, con rể của tổng thống Hoa Kì Trump và cố vấn cao cấp, cũng đã đưa ra một cách trung thực.
Ông Chaim Silberstein, thành viên của hội đồng quản trị Beit El, cho biết Beit El "nên viết một khoản tiền khấu trừ thuế cho Tổng thống Huê Kỳ Trump cho hàng chục triệu đô la công khai miễn phí mà ông ta đã trao cho chúng tôi.
Mội Thời Đại Hoàng Kim
Cũng giống như các nhà lãnh đạo khác, Silberstein đã dựa vào các mối quan hệ mới của Nhà Trắng để báo trước một thời kỳ hoàng kim, một sự thay đổi từ chính quyền của Tổng thống Huê Kì Obama, đã bãi bỏ các điều khoản về việc định cư là bất hợp pháp và đưa ra một kế hoạch di tản để giải quyết hòa bình. Nhưng mọi thứ có thể không xảy ra chính xác theo cách đó. Theo chuyến thăm của ông Jason Greenblatt tuần trước, chính quyền Mỹ đang thúc đẩy một điều gì đó là một lời nguyền rủa cho quần chúng nhân dân ở khu định cư: hạn chế việc xây dựng Do Thái ở Bờ Tây.
Người Palestine, mà vị trí chính phủ nằm cách đó vài dặm, coi Beit El như một soán ngôi bất hợp pháp về đất đai và lời thề của họ để nhổ bật gốc nó khi họ thiết lập được một nhà nước độc lập. Một căn cứ quân sự kế bên Israel, còn gọi là Beit El, là nơi mà người Palestine ở Tây Băc bị cáo buộc là bạo lực chính trị bị đưa ra xét xử quân sự. Greenblatt, người đã từng học ở một khu định cư ở Ngân hàng Bờ Tây, tuần trước đã gặp người Palestine và các nhà lãnh đạo của họ để nghe quan ngại sâu sắc của họ.
Bên cạnh chủng viện Do Thái, Beit El tổ chức các trường trung học riêng biệt dành cho nam và nữ và một học viện chuẩn bị cho thanh thiếu niên có hoàn cảnh khó khăn, với tổng số sinh viên đăng ký khoảng 1.100 sinh viên. Một cánh tay truyền thông cung cấp tin tức từ quan điểm của một người định cư. Tổ chức gần đây đã bắt đầu một chiến dịch trang bị cho sinh viên Mỹ "với các công cụ để phân công thành công ý tưởng về một giải pháp hai quốc gia
Sự thật là ngay cả trong tám năm qua, như chính sách của Mỹ cau mày về xây dựng khu định cư, tiền vẫn chảy tới Beit El từ các tỷ phú ở nước ngoài. Trong số những nhà đóng góp hàng đầu là giám đốc điều hành của American Eagle Outfitters Inc, ông Jay Schottenstein, ông Leon Falic, người sáng lập Jordache Jeans Joe Nakash và Ira Rennert của Renco Metals Inc.
Giấc Mơ của Jacob
Khu định cư là một hỗn hợp của các ngôi nhà gọn gàng với một cảnh quang lộn xộn với khu mua sắm trải dài và các văn phòng hành chánh nằm trong nhà xe. Phòng học hành, cũng là một nhà thờ, là một không gian bao la với những quyển sách và đầy những thanh niên, nhiều người trong số họ đang lắc lư khi họ học những bài văn Do Thái. Khu vực này có sự cộng hưởng của nhiều người Do Thái ủng hộ như đã được xác định trong Kinh thánh với giấc mơ của Jacob, trong đó các thiên thần trèo lên và thả xuống một cái thang leo lên nước trời. Ở rìa khu định cư là một hòn đá thẳng đứng được cho là nơi mà tổ phụ kinh thánh đặt đầu lên hòn đá này và ngủ thiếp đi.
Bên trong khu định cư, tên của Friedman ở khắp mọi nơi, bắt đầu từ phòng nghiên cứu, nơi một tấm bảng bằng đồng xác nhận tên tuổi ông cha, Rabbi Morris Friedman, là một trong những người sáng lập. Sau đó có Trung tâm Tin học Khoa học máy tính và trung tâm thể dục thể thao tại học viện tiền quân đội định cư.
Ngoài sự hỗ trợ của họ đối với Beit El, Schottenstein và Falic là những người đóng góp lớn nhất cho chiến dịch của Thủ tướng Benjamin Netanyahu trong các cuộc bầu cử sơ bộ vào năm 2015 của Likud, mỗi người cùng với các thành viên khác trong gia đình tặng $ 40,000 đô la mĩ hoặc hơn thế nữa. Rennert, giám đốc điều hành Renco Metals Inc. với tài sản ước tính theo Bloomberg là 5,7 tỷ Mỹ kim, là một trong những công ty đóng góp lớn nhất cho các chủng viện Do Thái trong khu định cư ở ngân hàng Tây và đông Jerusalem. Nakash, người sinh ra ở Tel Aviv, đã di cư đến Mỹ và cùng với các anh em đồng sáng lập ra Jordache, đã tạo ra một cơn sốt cho những chiếc quần jean của nhà thiết kế trong những năm 1970. Hiện anh đang đầu tư bất động sản, khách sạn và vận chuyển.
Falic, Nakash và Rennert đã không trả lời email và cuộc gọi điện thoại yêu cầu nhận xét. Charles Kushner, cha của tỷ phú Jared, và Schottenstein đã từ chối bình luận thông qua những người phát ngôn.
Friedman đã làm phật lòng nhiều người tự do với một số nhận xét ông đã đưa ra trước khi ông được bổ nhiệm, bao gồm kêu gọi J-Street, một tổ chức cánh tả của Washington đang vận động hành lang cho Israel, "những người ủng hộ tự mãn về sự hủy diệt của Israel" và "tệ hơn nhiều so với kapos" một ám chỉ cho những người Do Thái ở các trại tập trung làm việc cho Đức quốc xã với vai trò là lính bảo vệ. Trong số những người ủng hộ Beit El, Friedman được ngưỡng mộ vì tính thô thiển của ông. Zvi Sand, một nhà tài trợ cho chủng viện Do Thái và chủ tịch Liên minh Chính thống tại Israel, có vợ là em họ đầu tiên của Friedman, nói: "Ông ấy nói những gì tất cả chúng tôi nghĩ nhưng chúng tôi không to tiếng
Tuy nhiên, Friedman sau đó đã xin lỗi tại buổi điều trần xác nhận của ông, nói rằng "ngôn ngữ khiêu khích đi kèm với chiến dịch của tổng thống hoàn toàn chấm dứt
Đó không phải là điều duy nhất kết thúc.
Cuối cùng, Gilead Sher, một cựu thương thuyết hòa bình của Israel, người định cư ở Beit El tỏ ra thất vọng về tổng thống Mỹ Donald Trump, người sẽ "cúi đầu với thực tế" và hướng tới một giải pháp hai nhà nước giúp Israel và Palestine tránh gây tổn thương lẫn nhau. "Chúng tôi đang tìm kiếm một vụ ly dị, chứ không phải một hợp đồng bất động sản, ông nói.
Tuy nhiên, Beit El không chịu thua. Thị trưởng Shai Alon đã có kế hoạch xây dựng 500 ngôi nhà mới có thể đẩy dân số lên đến 10.000, trong khi các khu định cư khác thậm chí còn có nhiều kế hoạch mở rộng đầy tham vọng hơn. Ông nói: "Trong nhiều năm, chúng tôi đã nhận được áp lực từ khắp nơi trên thế giới để bỏ cuộc. "Nhưng chúng tôi cứ tiếp tục phát triển lên
Nguồn bloomberg.com/news/articles/2017-03-21/billionaire-backed-jewish-settlement-emerges-as-new-battleground
Con Cháu Dòng Dõi Abraham, Isaac, và Jacob
Genesis 17:3-7 Abram quỳ sấp mặt xuống đất. Đức Chúa Trời phán với ông: “Về phần Ta, đây là giao ước Ta lập với con: Con sẽ là tổ phụ của nhiều dân tộc. Người ta sẽ không còn gọi con là Abraham nữa, nhưng tên của con sẽ là Abraham vì Ta lập con làm cha của nhiều dân tộc. Ta sẽ làm cho con sinh sôi nẩy nở thật nhiều, từ nơi con sẽ ra nhiều dân tộc, và các vua cũng sẽ từ nơi con mà ra. Ta sẽ lập giao ước với con và với dòng dõi con từ thế hệ nầy qua thế hệ khác; vì đây là giao ước đời đời để Ta làm Đức Chúa Trời của con và của dòng dõi con.
Genesis 17:18-19 Abraham thưa với Đức Chúa Trời: “Ước gì Ishmael được phước trước mặt Ngài!” Đức Chúa Trời phán: “Không phải vậy đâu, Sarah, vợ của con sẽ sinh cho con một trai, và con sẽ đặt tên nó là Isaac. Ta sẽ lập giao ước với nó, là giao ước đời đời cho dòng dõi nó.
Genesis 25:21-26 Vợ của Isaac không có con nên ông khẩn nguyện cùng CHÚA. Ngài nghe lời khẩn xin của ông, nên Rebecca thụ thai. Nhưng các thai nhi đánh nhau trong bụng nên nàng nói: “Việc này xảy ra cho tôi sao?” Nàng đi cầu hỏi CHÚA.
CHÚA phán:
“Hai nước đang ở trong bụng con
Và hai dân tộc sẽ từ lòng con mà ra,
Dân này mạnh hơn dân kia
Và đứa lớn phải phục tùng đứa nhỏ.”
Đến ngày sinh nở, hai con sinh đôi trong lòng nàng chào đời. Đứa ra trước da đỏ hồng, toàn thân đầy cả lông như chiếc áo lông, được đặt tên là Esau. Em nó ra sau, tay nắm gót chân Esau, được đặt tên là Jacob. Khi sinh hai con trai, Isaac đã sáu mươi tuổi.
Genesis 25:27 Khi hai đứa trẻ lớn lên, Esau trở thành một thợ săn tài giỏi, suốt ngày dong ruổi ngoài đồng, còn Jacob thì trầm tĩnh, sống quanh quẩn trong lều.
Genesis 32:22-28 Giữa đêm khuya, Jacob thức dậy, đưa hai vợ, hai cô hầu và mười một con trai qua suối Jabbok với tất cả tài sản còn lại. Jacob ở lại một mình, có một người vật lộn với mình cho đến rạng đông. Thấy mình không thắng được, người ấy liền đụng vào khớp xương hông của Jacob làm trật xương hông, và bảo rằng: “Trời đã sáng, hãy để ta đi!”
Nhưng Jacob đáp: “Nếu Ngài không ban phước lành cho tôi, tôi không để Ngài đi đâu!”
Người ấy hỏi: “Tên con là chi?”
Đáp rằng: “Jacob.”
Người liền bảo: “Tên con không phải là Jacob nữa, nhưng bây giờ là Israel vì con đã vật lộn với Chúa và người, con đều thắng cả
Sự nhục nhã xấu hổ của người Do Thái là gì ?
Bị người khác cắt râu là một sự nhục nhã xấu hổ của người Do Thái
Vinh quang của khuôn mặt là một bộ râu; niềm hân hoan của trái tim là một người vợ; di sản của Thiên Chúa là trẻ em (Shabbos 152a) the glory of a face is its beard; the rejoicing of one's heart is a wife; the heritage of the Lord is children (Shabbos 152a)
người do thái với bộ râu dài
một đàn ông người do thái mặc râu và nón
II Samuel 10:1-5 Sứ Giả Của Vua Đa-vít Bị Người Am-môn Làm Nhục
1 Chẳng bao lâu sau đó, vua dân Am-môn qua đời. Con vua là thái tử Ha-nun lên ngôi kế vị.
2 Vua Đa-vít tự nhủ: “Ta muốn đối xử trung hậu với vua Ha-nun, con vua Na-hát, y như vua Na-hát đã đối xử trung hậu với ta.” Vua Đa-vít liền sai một số triều thần đi sứ đến chia buồn với vua Ha-nun về sự qua đời của vua cha là Na-hát. Vậy triều thần vua Đa-vít đi sứ đến nước dân Am-môn.
3 Nhưng các tướng lãnh dân Am-môn tâu với chúa mình là vua Ha-nun: “Bệ hạ tưởng Đa-vít thật sự kính trọng vua cha khi sai sứ đến chia buồn với bệ hạ sao? Không đâu! Đa-vít sai sứ thần đến với bệ hạ chỉ để dò xét và do thám thành đô với mục đích đánh chiếm thành sau này!”
4 Vua Ha-nun truyền lệnh bắt các sứ thần của vua Đa-vít, đem cạo sạch râu một bên mặt, cắt bỏ một bên nửa áo quần của họ ngay phía mông, rồi thả họ về.
5 Vua Đa-vít nghe tin, sai người đi đón các sứ thần vì họ cảm thấy nhục nhã lắm. Vua bảo họ: “Các ngươi cứ ở lại thành Giê-ri-cô, chờ cho râu mọc lại, rồi hãy về
Một người lính Đức cắt râu làm nhục người Do Thái
Đàn ông Do Thái thường để râu, họ coi đó là một biểu tượng của vẻ đẹp nam tính.
Râu là một biểu tượng của vẻ đẹp nam tính trong văn hóa Do Thái
Một nhà văn thời trung cổ ghi nhận, “để trang điểm khuôn mặt của một người đàn ông là râu của ông ta” (Cyrus Adler, W. Max Muller, và Louis Ginzberg 2004). Râu được cho rằng đó là do Thiên Chúa ban cho đàn ông để phân biệt với phụ nữ.
Do đó, cạo, nhổ, hoặc làm hư hỏng bộ râu là một sự sỉ nhục.
Người cùi được cạo râu để phân biệt họ với những người khác vì căn bệnh đáng sợ của họ. Những người để tang cắt hoặc nhổ râu của họ như là một dấu hiệu của sự đau buồn, một thực tế bị các thầy tư tế chỉ trích.
Râu được cho rằng đó là do Thiên Chúa ban cho đàn ông để phân biệt với phụ nữ
Nhưng đối với phần lớn, người Do Thái luôn xuất hiện với một bộ râu rậm, đầy đủ, bao gồm cả một bộ ria mép được cắt tỉa. Người thợ hớt tóc đã được sử dụng cho nghi thức cạo râu và thỉnh thoảng cắt tỉa. Các thầy tư tế bị cấm cắt tỉa các góc cạnh bộ râu của họ. Một trong những phương cách các chiến binh có thể hạ nhục kẻ thù hoặc làm cho gã trở nên suy nhược là cắt râu của gã.
Để trang điểm khuôn mặt của một người đàn ông là râu của ông ta
Chúng ta có thể thu thập từ các bức phù điêu và các di tích khác của thế giới cổ đại rằng các quốc gia khác mà người Do Thái có mối quan hệ thường xuyên có những phong cách râu khác nhau. Khi Giuse ở Ai Cập, ông đã cạo râu (St 41,14), phù hợp với tục lệ người Ai Cập. Thật là lạ lẫm, phụ nữ Ai Cập đeo râu nhân tạo gắn vào cằm của họ vào những dịp lễ nhà nước, còn đàn ông thắt hàm râu thành những búi tóc nhỏ. Dân du mục cắt bớt hai bên bộ râu của họ, tạo ra một bộ râu nhọn. Người Babylon và Assyria có bộ râu quăn công phu và người Hy Lạp cạo râu. Trong suốt thời kỳ người Hy Lạp cai trị Palestine, phong tục này khiến nhiều người Do Thái từ bỏ bộ râu của mình, một dấu hiệu từ bỏ Do Thái giáo. Trong thời hiện đại, bộ râu đầy đủ đã trở thành dấu hiệu của người Do Thái Hasidic. Râu cũng là dấu chỉ của người đàn ông trưởng thành, có gia đình của một số giáo phái Kitô giáo.
Người Babylon và người Assyria có bộ râu quăn công phu
Maria Ngô Liên chuyển ngữ (Lv 21, 5; 2 Sm 10, 4; Is15, 2; Gr 9, 26) Trích dịch tác phẩm “All Things in the Bible” của tác giả Nancy Tischler Đọc thêm: Adler, Cyrus, W. Max Muller, and Louis Ginzberg, “Beard”, jewishencyclopedia.com (accessed December 30, 2004).
Tinh Hoa Giáo Dục người Do Thái
Giáo dục Do Thái là một loại hình giáo dục dựa trên nguyên lý, nguyên tắc, và luật lệ tôn giáo của đạo Do Thái Giáo. Người Do Thái nổi tiếng với tên gọi Dân tộc của Sách, người Do Thái quan tâm đến giáo dục. Giá trị của giáo dục được đánh gia cao trong nền văn hóa Do Thái. Đạo Do Thái Giáo đặc biệt rất coi trọng về việc học Kinh Thánh Torah.
Trong lịch sử Do Thái, truyền thống giáo dục Do Thái bắt đầu từ thời đại Cựu Ước trong thời kỳ Kinh thánh. Kinh thánh mô tả mục đích giáo dục Do thái. Mục đích chính trong kinh thánh là biết cách thờ phượng Thiên Chúa. Do đó, cha mẹ Do thái cần dạy con cái của họ về một số kinh cầu nguyện cơ bản và phụ huynh Do Thái dạy những gì mà Thánh Kinh Torah cấm trong tuổi thơ của họ. Cha mẹ Do thái nên truyền đạt đạo đức Do thái, đức tin Do thái và giá trị của người Do Thái cho con cái họ. Các giáo lý của kinh thánh có ảnh hưởng quan trọng đến giáo dục Do Thái. Vì lý do này, giáo dục Do Thái bắt nguồn từ Kinh Thánh Torah.
Nathan H. Winter đã viết, "Kinh Torah cũng đã được mô tả như là một bí kíp đối phó với sự tồn tại của con người; những gì liên quan đến cuộc sống ở mọi thời điểm. Kinh Torah cũng bao hàm việc học hỏi, hướng dẫn và truyền đạt. Giáo dục Do Thái liên quan đến việc truyền bá di sản văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc Do Thái cho những cá nhân người Do Thái.
Lịch sử nền giáo dục do thái
Nền giáo dục truyền thống Do Thái đã xuất hiện trong thời kỳ Kinh Thánh. Văn hóa Do Thái đề cao giáo dục Do Thái kể từ khi tổ phụ Abraham sinh ra đời. Tổ phụ Abraham được ca ngợi vì đã hướng dẫn con cái con cháu dòng dõi hậu duệ cháu chát chút chít của ông theo đường lối của Đức Chúa Trời.
Một trong những nghĩa vụ cơ bản của người cha người Do Thái là hướng dẫn con cái họ học hành. Nghĩa vụ dạy dỗ con cái được nêu trong đoạn đầu tiên của kinh cầu nguyện "Israel hãy lắng nghe": "Hãy khắc ghi trong trái tim mọi mệnh lệnh mà Thiên Chúa truyền dạy cho các con hôm nay. Hãy dạy các mệnh lệnh đó cho con cháu của các con, nói với con trẻ khi con ngồi trong nhà hay ở ngoài đường, khi con nằm ngủ hay thức dậy. Hãy thắt chặt và đeo nó trên tay như một dấu hiệu, buộc nó trên trán để nhắc nhở con, và ghi những mệnh lệnh đó trên cửa và ngoài cổng." (Sách Đệ Nhị Luật 6:6-9)
Ngoài ra, trẻ em nên tìm kiếm sự hướng dẫn của cha mẹ: "Hãy nhớ những ngày xa xưa, hãy suy ngẫm những năm tháng của nhiều thế hệ, hãy hỏi cha của con, và lão sẽ hướng dẫn con, hãy hỏi các bô lão của con, và họ sẽ chỉ bảo con" (Phục Truyền Luật Lệ 32: 7).
Quyển sách Châm Ngôn của người Do Thái cũng có những câu ca dao tục ngữ nói về giáo dục: "Beni (con trai), đừng quên những lời ta (Thiên Chúa) dạy trong Kinh Torah, nhưng hãy để tâm trí con giữ lại những điều răn của ta (Thiên Chúa); vì những điều răn đó sẽ làm gia tăng số ngày và số năm của đời con, và cho con cuộc đời bình an thịnh vượng." (Sách Châm Ngôn 3:1-2)
Đi học hành tại trường tiểu học được coi là bắt buộc bởi Simeon ben Shetah từ năm 75 trước công nguyên và Joshua Ben Gamla trong năm 64 CE. Nền giáo dục dạy dỗ các cậu bé trai và những người đàn ông lớn tuổi ở trong Beth midrash (Ngôi nhà của sự học hành) đã trở lại vào thời kỳ Đền Thánh thứ hai. Tầm quan trọng của giáo dục được nhấn mạnh trong Kinh Thánh Talmud, trong đó có nói rằng trẻ em nên bắt đầu học hành vào lúc sáu tuổi.
Các thầy đạo nói rằng các em học sinh không nên được đánh đập bằng cái cây hay cây gậy, và các học sinh lớn tuổi nên giúp đỡ những em học sinh nhỏ tuổi hơn, và còn cho rằng trẻ em không nên bị gián đoạn trong việc học hành vì các nghĩa vụ khác.
Theo Judah Ben Tema, "Vào năm Ngũ tuổi là đến ngưỡng học hành kinh Mikra, vào năm Thập tuổi là học tập kinh Mishnah, vào năm Thập Tam là giữ gìn các điều răn, vào năm Thập Ngũ là luyện kinh Talmud (Avot 5:21). Mikra đề cập đến Kinh Torah viết, Mishnah đề cập đến Torah bổ sung bằng miệng hay còn gọi là khẩu luật (luật súc tích và chính xác nói về việc làm thế nào để đạt được các điều luật của Torah bằng văn bản) và Talmud đề cập đến sự hiểu biết về sự thống nhất của luật miệng và bằng các văn bản và việc xem xét các lề luật.
Thuật ngữ "Talmud" được sử dụng ở đây là một phương pháp nghiên cứu và không được nhầm lẫn bởi các biên dịch sau với cùng một tên gọi. Theo truyền thống này, người Do Thái đã thành lập các trường học riêng của họ hoặc thuê người dạy kèm riêng cho con cái của họ cho đến cuối thế kỷ 18. Các trường học được đặt trong các khu phụ lục hoặc các tòa nhà riêng biệt gần nhà thờ Do Thái.
Thầy đạo Meir Simcha của Dvinsk (trong Meshech Chochma của ông) nhận xét rằng lời tuyên bố của Thiên Chúa Trời "[ Abraham được ban phước bởi vì ] ông sẽ hướng dẫn con cái của ông và gia tộc của ông theo những cách của Thiên Chúa để thực hiện sự công chính và công lý" (Sáng thế ký 18:19) là một điều răn ngầm để dạy Do thái giáo. Theo Wikipedia Việt Nam
Nguồn vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Do_Th%C3%A1i
Hiệu chỉnh: