- Tham gia
- 17/12/2011
- Bài viết
- 5.437
“Hàn Thực” nghĩa là ăn đồ nguội, Tết này vào ngày mồng 3 tháng 3 (âm lịch), xuất phát từ tích truyện lịch sử Trung Quốc vào thời Xuân Thu Chiến Quốc. Hiện nay tết này phổ biến và đậm nét ở miền Bắc, nhất là quanh vùng Hà Nội.
Nguồn gốc của Tết Hàn thực
Theo nghĩa chữ Hán "Hàn" là lạnh, "thực " là ăn; " Tết Hàn thực" là tết ăn đồ lạnh. Phong tục cổ truyền này có nguồn gốc từ Trung Quốc theo một câu chuyện ly kỳ truyền tụng nhiều đời.
Chuyện kể rằng vào thời Xuân Thu (770-221) trước công nguyên, các nước thôn tính lẫn nhau, thái tử Trùng Nhĩ nhà Tấn phải chạy lánh nạn khắp nơi, hết chạy sang nước Địch lại trốn sang nước Vệ, nước Tề, nước Sở.
Theo hầu thái tử có người tôi trung thành tận tuỵ là Giới Tử Thôi. Trong suốt 19 năm lận đận, gian nan, có lúc hết lương ăn, Giới Tử Thôi cắt thịt đùi mình nấu cho chủ công ăn. Trùng Nhĩ ăn xong hỏi ra mới biết, lòng cảm phục vô cùng.
Khi thành sự, Trùng Nhĩ phục quốc lên vua tức Tấn Văn Công. Tấn Văn Công phong thưởng cho những người có công rất hậu nhưng lại quên mất Giới Tử Thôi là người công đầu giúp mình trong khó khăn hoạn nạn.
Thấy mọi người được ân huệ, còn mình thì bị bỏ quên, Giới Tử Thôi không oán giận gì, cho rằng đó là nghĩa vụ của bầy tôi rồi tủi phận về nhà dắt mẹ vào núi Điền Sơn ở ẩn (còn có tài liệu viết núi Miên Sơn).
Hai mẹ con sống yên phận trong rừng, không mơ giàu sang phú quý. Mãi sau Vua Tấn nhớ ra cho tìm Giới Tử Thôi nhưng không thấy. Vua cho người vào Điền Sơn tìm không được, đoán biết Tử Thôi còn ở trong đó bèn sai đốt rừng để buộc Tử Thôi phải ra.
Không ngờ Tử Thôi quyết chí, hai mẹ con cùng chịu chết cháy trong rừng. Vua thương xót, cho lập miếu thờ trên núi và phong cả khu rừng đó làm tự điền. Hôm Tử Thôi bị đốt cháy là ngày 5 tháng 3 âm lịch. Về sau người ta lấy ngày 3 tháng 3 cho tiện.
Người quanh vùng thương xót Tử Thôi bậc trung thần, cứ mỗi năm đến ngày ấy kiêng đốt lửa 3 ngày, ăn toàn đồ nguội, ngay cả cỗ cúng cũng làm từ hôm trước.
Chính vì cúng và ăn đồ nguội nên gọi là tết Hàn thực.
Người Hoa có tục làm bánh trôi, bánh chay trong tết Hàn thực để tránh đốt lửa.
Tết Hàn thực của người Việt Nam
Do giao lưu văn hoá lâu đời với Trung Hoa nên người Việt ảnh hưởng tết Hàn thực. Nhưng ở nước ta tết Hàn thực không phải để tưởng nhớ đến Tử Thôi mà mang ý nghĩa dân tộc sâu sắc.
Ngày ấy các gia đình làm bánh trôi bánh chay cúng ông bà, tổ tiên và không kiêng đốt lửa. Cũng trong dịp này nhiều nơi làm bánh trôi bánh chay cúng thần hoàng.
Làng Hát Môn (PhúcThọ - Hà Tây) có lệ dâng bánh trôi lễ Hai Bà Trưng ngày 6 tháng 3, theo một truyền thuyết linh dị: Khi Hai bà thua trận từ Cấm khê chạy về Hát Môn là nơi phất cờ khởi nghĩa, Hai Bà bị thương ở cổ còn ăn được bánh trôi của Bà hàng mời rồi theo lời chỉ dẫn của Bà hàng (Bà hàng chính là Tiên hiện đón Hai Bà về Trời) để gieo mình xuống dòng sông Hát tuẫn tiết.
Hoặc hơn nữa ngày giỗ Tổ Hùng Vương ngày 10 tháng 3 hàng năm lễ hội cũng dâng cúng bánh trôi. Trong hội Phủ Giầy tháng 3 lễ Mẫu cũng thấy cúng bánh trôi.
Trong dân gian còn gọi tết Hàn thực mồng 3 tháng 3 là tết bánh trôi.
Như thế rõ ràng Tết Hàn thực của ta mang màu sắc dân tộc riêng, trường tồn trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Hai thứ bánh trôi và chay đều làm từ bột gạo nếp thơm. Bánh trôi nặn viên nhỏ, ngoài trắng, trong nhân đường đỏ, thả luộc trong nồi nước sôi, khi bánh nổi lên mặt nước vớt ra vừa chín tới vì thế bà Hồ Xuân Hương viết :
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bẩy nổi ba chìm với nước non
Còn bánh chay thì nặn tròn dẹt, không nhân, đặt lên đĩa nhỏ, khi ăn đổ nước đường lên trên.
Ngày nay, cứ mỗi dịp tết Hàn thực về, người dân mọi vùng quê đều làm bánh trôi, bánh chay. Còn ở thị thành, ngày xuân đi du ngoạn, khách cũng được hưởng hương vị bánh trôi, bánh chay từ các quán hàng. Giữa thủ đô Hà Nội, trong những phố cổ du khách có dịp được tận hưởng hương vị bánh trôi bánh chay mà tưởng đến chuyện xưa nhiều điều thú vị.
Bánh trôi, bánh chay
Bánh trôi và bánh chay thường được cho rằng có nguồn gốc từ Trung Quốc, nhưng cũng nhiều sự tích cho rằng, bánh trôi, bánh chay có từ thời Hùng Vương. Tục làm bánh trôi, bánh chay để nhắc lại sự tích ”bọc trăm trứng” của bà Âu Cơ.
Bánh trôi làm bằng bột nếp nhào nặn với nước, có nhân bằng đường phên. Gạo làm bánh trôi, bánh chay phải kén được nếp cái hoa vàng. Cứ chín phần nếp cho một phần tẻ hoặc non hai phần tẻ. Đường làm nhân bánh trôi ngon nhất là đường phên Dương Liễu, Cát Quê, những miếng đường vuông thành, sắc cạnh, đỏ thắm, rắn đanh và giòn, hương thơm mát.
Bánh nặn xong, được thả vào nồi nước sôi. Bánh chìm xuống rồi nổi lên, “ba chìm bảy nổi, chín lênh đênh” thì vớt ra và ngâm trong nước lã đun sôi để nguội cho săn trở lại rồi lại vớt ra bày vào đĩa. Đĩa bánh trôi được rắc thêm mấy hạt vừng trắng rang thơm.
Bánh chay cũng làm bằng bột nếp nhào nặn với nước và cũng có nhân, nhưng nhân bằng đậu xanh nấu chín. Đỗ để làm nhân bánh cũng phải là giống đỗ tiêu, hạt nhỏ, thơm; được hấp chín tới, giã mịn, trộn với đường kính trắng. Bánh chay được đựng trong bát, chan thêm một chút chè đường quấy với bột đao hay bột sắn dây ướp hoa bưởi.
Hai thứ bánh tuy cùng làm bằng bột gạo nếp, nhưng mỗi thứ có hương vị đặc biệt riêng.
Nguồn gốc của Tết Hàn thực
Theo nghĩa chữ Hán "Hàn" là lạnh, "thực " là ăn; " Tết Hàn thực" là tết ăn đồ lạnh. Phong tục cổ truyền này có nguồn gốc từ Trung Quốc theo một câu chuyện ly kỳ truyền tụng nhiều đời.
Chuyện kể rằng vào thời Xuân Thu (770-221) trước công nguyên, các nước thôn tính lẫn nhau, thái tử Trùng Nhĩ nhà Tấn phải chạy lánh nạn khắp nơi, hết chạy sang nước Địch lại trốn sang nước Vệ, nước Tề, nước Sở.
Theo hầu thái tử có người tôi trung thành tận tuỵ là Giới Tử Thôi. Trong suốt 19 năm lận đận, gian nan, có lúc hết lương ăn, Giới Tử Thôi cắt thịt đùi mình nấu cho chủ công ăn. Trùng Nhĩ ăn xong hỏi ra mới biết, lòng cảm phục vô cùng.
Khi thành sự, Trùng Nhĩ phục quốc lên vua tức Tấn Văn Công. Tấn Văn Công phong thưởng cho những người có công rất hậu nhưng lại quên mất Giới Tử Thôi là người công đầu giúp mình trong khó khăn hoạn nạn.
Hai mẹ con sống yên phận trong rừng, không mơ giàu sang phú quý. Mãi sau Vua Tấn nhớ ra cho tìm Giới Tử Thôi nhưng không thấy. Vua cho người vào Điền Sơn tìm không được, đoán biết Tử Thôi còn ở trong đó bèn sai đốt rừng để buộc Tử Thôi phải ra.
Không ngờ Tử Thôi quyết chí, hai mẹ con cùng chịu chết cháy trong rừng. Vua thương xót, cho lập miếu thờ trên núi và phong cả khu rừng đó làm tự điền. Hôm Tử Thôi bị đốt cháy là ngày 5 tháng 3 âm lịch. Về sau người ta lấy ngày 3 tháng 3 cho tiện.
Người quanh vùng thương xót Tử Thôi bậc trung thần, cứ mỗi năm đến ngày ấy kiêng đốt lửa 3 ngày, ăn toàn đồ nguội, ngay cả cỗ cúng cũng làm từ hôm trước.
Chính vì cúng và ăn đồ nguội nên gọi là tết Hàn thực.
Người Hoa có tục làm bánh trôi, bánh chay trong tết Hàn thực để tránh đốt lửa.
Tết Hàn thực của người Việt Nam
Do giao lưu văn hoá lâu đời với Trung Hoa nên người Việt ảnh hưởng tết Hàn thực. Nhưng ở nước ta tết Hàn thực không phải để tưởng nhớ đến Tử Thôi mà mang ý nghĩa dân tộc sâu sắc.
Ngày ấy các gia đình làm bánh trôi bánh chay cúng ông bà, tổ tiên và không kiêng đốt lửa. Cũng trong dịp này nhiều nơi làm bánh trôi bánh chay cúng thần hoàng.
Làng Hát Môn (PhúcThọ - Hà Tây) có lệ dâng bánh trôi lễ Hai Bà Trưng ngày 6 tháng 3, theo một truyền thuyết linh dị: Khi Hai bà thua trận từ Cấm khê chạy về Hát Môn là nơi phất cờ khởi nghĩa, Hai Bà bị thương ở cổ còn ăn được bánh trôi của Bà hàng mời rồi theo lời chỉ dẫn của Bà hàng (Bà hàng chính là Tiên hiện đón Hai Bà về Trời) để gieo mình xuống dòng sông Hát tuẫn tiết.
Hoặc hơn nữa ngày giỗ Tổ Hùng Vương ngày 10 tháng 3 hàng năm lễ hội cũng dâng cúng bánh trôi. Trong hội Phủ Giầy tháng 3 lễ Mẫu cũng thấy cúng bánh trôi.
Trong dân gian còn gọi tết Hàn thực mồng 3 tháng 3 là tết bánh trôi.
Hai thứ bánh trôi và chay đều làm từ bột gạo nếp thơm. Bánh trôi nặn viên nhỏ, ngoài trắng, trong nhân đường đỏ, thả luộc trong nồi nước sôi, khi bánh nổi lên mặt nước vớt ra vừa chín tới vì thế bà Hồ Xuân Hương viết :
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bẩy nổi ba chìm với nước non
Còn bánh chay thì nặn tròn dẹt, không nhân, đặt lên đĩa nhỏ, khi ăn đổ nước đường lên trên.
Ngày nay, cứ mỗi dịp tết Hàn thực về, người dân mọi vùng quê đều làm bánh trôi, bánh chay. Còn ở thị thành, ngày xuân đi du ngoạn, khách cũng được hưởng hương vị bánh trôi, bánh chay từ các quán hàng. Giữa thủ đô Hà Nội, trong những phố cổ du khách có dịp được tận hưởng hương vị bánh trôi bánh chay mà tưởng đến chuyện xưa nhiều điều thú vị.
Bánh trôi, bánh chay
Bánh trôi và bánh chay thường được cho rằng có nguồn gốc từ Trung Quốc, nhưng cũng nhiều sự tích cho rằng, bánh trôi, bánh chay có từ thời Hùng Vương. Tục làm bánh trôi, bánh chay để nhắc lại sự tích ”bọc trăm trứng” của bà Âu Cơ.
Bánh trôi làm bằng bột nếp nhào nặn với nước, có nhân bằng đường phên. Gạo làm bánh trôi, bánh chay phải kén được nếp cái hoa vàng. Cứ chín phần nếp cho một phần tẻ hoặc non hai phần tẻ. Đường làm nhân bánh trôi ngon nhất là đường phên Dương Liễu, Cát Quê, những miếng đường vuông thành, sắc cạnh, đỏ thắm, rắn đanh và giòn, hương thơm mát.
Bánh chay cũng làm bằng bột nếp nhào nặn với nước và cũng có nhân, nhưng nhân bằng đậu xanh nấu chín. Đỗ để làm nhân bánh cũng phải là giống đỗ tiêu, hạt nhỏ, thơm; được hấp chín tới, giã mịn, trộn với đường kính trắng. Bánh chay được đựng trong bát, chan thêm một chút chè đường quấy với bột đao hay bột sắn dây ướp hoa bưởi.
Hai thứ bánh tuy cùng làm bằng bột gạo nếp, nhưng mỗi thứ có hương vị đặc biệt riêng.
Tổng hợp