- Tham gia
- 6/3/2012
- Bài viết
- 4.111
Bạn có bao giờ tự hỏi, từ "ăn mày" xuất phát từ đâu và cụm từ "Ăn mày dĩ vãng", "Ăn mày cửa Phật" có ý nghĩa gì không?
Từ thời xa xưa, trong những câu chuyện cổ Á – Âu đã đề cập tới những người "ăn mày". Khi xã hội xuất hiện yếu tố tư hữu, phân tầng giai cấp, có kẻ giàu, người nghèo - dưới sự tác động của hoàn cảnh đời sống, dịch bệnh, thiên tai địch họa và cả tâm lý sẽ sinh ra một bộ phận được gọi là những người "ăn mày".
Ở nước ta, cụm từ “ăn mày” chỉ những người nông dân thời Lý do lũ lụt, mất mùa phải quá bộ lên đô thành xin miếng cơm, manh áo nơi Kẻ Chợ.
Người "ăn mày" sinh sôi nảy nở “thịnh” nhất phải kể tới thế kỷ XX, khi thực dân Pháp đô hộ nước ta, kế sau đó là nạn đói năm 1945. Thậm chí trong thập niên 1920 đã xuất hiện "Ngõ ăn mày" ở gần Ô Chợ Dừa (Hà Nội).
Trên thực tế, từ “ăn mày” có gốc gác chữ Nôm gắn với văn hóa lúa nước của người Việt khá rõ. Bởi “ăn mày” trong tiếng Anh là “Beggar”, nói theo từ Hán Việt là “hành khất”, tiếng lóng là “Cái Bang”, nói theo ngữ nghĩa thông thường là “kẻ ăn xin”, “người xin ăn”, “người nghèo khổ”.
Còn từ “mày” trong “ăn mày” chắc có lẽ chỉ những người gốc gác nông thôn mới tận thấu. “Mày”, chính là lớp vảy vỏ nhẹ tênh của hạt ngô, hạt gạo (có cả ở một số loại ngũ cốc như kê, tam giác mạch, lúa mạch) lộ ra khi được xay xát, nghiền nhỏ.
Không thể sánh với gạo vụn, gạo tấm, càng không tận dụng được như lõi ngô, trấu đun bếp, như cám, ngô lép để chăn nuôi nhưng "mày" chỉ một thứ bụi vụn nhỏ, nhẹ hay lẫn vào trấu cám, không mang lại ích lợi nào cho nhà nông.
Và cũng chính bởi sự "vô dụng" này mà dường như không ai để tâm gom nhặt, dù lẫn vào gạo thì cùng chỉ làm nồi cơm không được đơm trắng, đẹp mắt mà thôi.
“Mày” của người thì có lẽ cũng chỉ là chút gạo lẻ, bạc lẻ, dư thừa mà bạn không bận tâm sử dụng tới, hoặc có vơi bớt chút ít cũng không mấy ảnh hưởng đến kinh tế bản thân, gia đình. Bởi vậy, bạn có cho đi cũng không mấy tiếc rẻ gì.
Vậy “ăn mày” nghĩa đen là chỉ những người đói cơm, rách áo, “lần không ra” đi gom nhặt, lượm lặt, gợi lòng thương của người có điều kiện ban phát cho chút của “ăn không hết”.
Hay nói cách khác, “ăn mày” là tầng lớp dưới đáy xã hội, mặc dù nhiều giai thoại, chuyện kể nhưng nói chung hầu hết “ăn mày” là người cùng đường tận lối mới “theo nghề”.
Suy cho cùng mày cám, mày ngô là thứ bỏ đi, không ai thèm đoái hoài vì hoàn cảnh chẳng đặng đừng chứ “ăn” chúng cũng ngậm ngùi chứ không lấy gì làm vẻ vang?
Từ “ăn mày” nghĩa “xịn” qua biến đổi của thời gian cũng như cách sử dụng, khẩu khí ngôn ngữ biến hóa khôn lường, tinh tế, thông minh, đầy linh hoạt của người Việt đã chuyển sang những tầng cảm xúc và cảm thụ mới.
Người Việt vốn ưa cách nói giảm, nói tránh, nhỏ nhẹ, khiêm nhường, giữ ý, cũng như quan niệm xưa, coi “nhỏ là đẹp”. Có thể phân tích một số thí dụ để minh họa.
Trong cuộc sống, thỉnh thoảng có người bật lên cụm “Ăn mày dĩ vãng”. Đây được xem như một thán từ gợi lên chút gì đó chua chát, tội nghiệp, phản ánh chiều sâu cuộc sống hiện tại không lấy gì làm thỏa mãn nên mới hồi tưởng để níu giữ chút ánh sáng huy hoàng xưa cũ.
Nhà văn Chu Lai có tập tiểu thuyết nổi tiếng “Ăn mày dĩ vãng”, những ai từng đọc sẽ dễ nhận thấy ý nghĩa của câu chuyện hoàn toàn trùng khớp, ăn ý với cái tựa.
Ở một tầng hiểu khác, có thể kể đến những câu nói đầu môi “Ăn mày văn chương”, “Ăn mày sân khấu” hay thông dụng hơn là “Ăn mày cửa Phật”. Đây đều là những cách nói có phần nhún nhường, khiêm tốn, thể hiện tâm thế an bài, nhẹ nhõm, tôn trọng chủ thể của người nói.
Đây đó có câu chuyện truyền miệng rằng, ông tổ nghề sân khấu vốn xuất thân từ ăn mày, bởi nghề hát sống nhờ vào đồng tiền của khán giả thưởng thức. Nói trắng ra là “ăn mày” khán giả. Từ đó sinh ra chuyện nghệ sĩ làm từ thiện khắp nơi nhưng không bao giờ đi bố thí cho người ăn xin, vì làm thế khác nào phạm thượng với tổ nghiệp.
Ngày nay, “ăn mày” đã biến tướng về cơ bản, là một vấn đề nhức nhối của đô thị.”. Từ “ăn mày”, từ chỗ có ngữ nghĩa ví von, nôm na, bình dân đã mai một dần. Có lẽ vì thế, người ta gọi thẳng thừng, mỉa mai và đặt một “mỹ danh” không lấy làm dễ chịu cho những người xin, vòi, hăm dọa để có của bố thí là “nghề ăn xin”.
Suy cho cùng, thời nào cũng vậy, thà mang tiếng khiêm nhường, lễ nghĩa chìa tay nhặt nhạnh chút “vụn vỏ” vật chất từ lòng cảm thông để qua ngày còn hơn bị vỗ mặt làm giàu trên sự xin xỏ tráo trở.
Từ thời xa xưa, trong những câu chuyện cổ Á – Âu đã đề cập tới những người "ăn mày". Khi xã hội xuất hiện yếu tố tư hữu, phân tầng giai cấp, có kẻ giàu, người nghèo - dưới sự tác động của hoàn cảnh đời sống, dịch bệnh, thiên tai địch họa và cả tâm lý sẽ sinh ra một bộ phận được gọi là những người "ăn mày".
Ở nước ta, cụm từ “ăn mày” chỉ những người nông dân thời Lý do lũ lụt, mất mùa phải quá bộ lên đô thành xin miếng cơm, manh áo nơi Kẻ Chợ.
Người "ăn mày" sinh sôi nảy nở “thịnh” nhất phải kể tới thế kỷ XX, khi thực dân Pháp đô hộ nước ta, kế sau đó là nạn đói năm 1945. Thậm chí trong thập niên 1920 đã xuất hiện "Ngõ ăn mày" ở gần Ô Chợ Dừa (Hà Nội).
Trên thực tế, từ “ăn mày” có gốc gác chữ Nôm gắn với văn hóa lúa nước của người Việt khá rõ. Bởi “ăn mày” trong tiếng Anh là “Beggar”, nói theo từ Hán Việt là “hành khất”, tiếng lóng là “Cái Bang”, nói theo ngữ nghĩa thông thường là “kẻ ăn xin”, “người xin ăn”, “người nghèo khổ”.
Còn từ “mày” trong “ăn mày” chắc có lẽ chỉ những người gốc gác nông thôn mới tận thấu. “Mày”, chính là lớp vảy vỏ nhẹ tênh của hạt ngô, hạt gạo (có cả ở một số loại ngũ cốc như kê, tam giác mạch, lúa mạch) lộ ra khi được xay xát, nghiền nhỏ.
Không thể sánh với gạo vụn, gạo tấm, càng không tận dụng được như lõi ngô, trấu đun bếp, như cám, ngô lép để chăn nuôi nhưng "mày" chỉ một thứ bụi vụn nhỏ, nhẹ hay lẫn vào trấu cám, không mang lại ích lợi nào cho nhà nông.
Và cũng chính bởi sự "vô dụng" này mà dường như không ai để tâm gom nhặt, dù lẫn vào gạo thì cùng chỉ làm nồi cơm không được đơm trắng, đẹp mắt mà thôi.
“Mày” của người thì có lẽ cũng chỉ là chút gạo lẻ, bạc lẻ, dư thừa mà bạn không bận tâm sử dụng tới, hoặc có vơi bớt chút ít cũng không mấy ảnh hưởng đến kinh tế bản thân, gia đình. Bởi vậy, bạn có cho đi cũng không mấy tiếc rẻ gì.
Vậy “ăn mày” nghĩa đen là chỉ những người đói cơm, rách áo, “lần không ra” đi gom nhặt, lượm lặt, gợi lòng thương của người có điều kiện ban phát cho chút của “ăn không hết”.
Hay nói cách khác, “ăn mày” là tầng lớp dưới đáy xã hội, mặc dù nhiều giai thoại, chuyện kể nhưng nói chung hầu hết “ăn mày” là người cùng đường tận lối mới “theo nghề”.
Suy cho cùng mày cám, mày ngô là thứ bỏ đi, không ai thèm đoái hoài vì hoàn cảnh chẳng đặng đừng chứ “ăn” chúng cũng ngậm ngùi chứ không lấy gì làm vẻ vang?
Từ “ăn mày” nghĩa “xịn” qua biến đổi của thời gian cũng như cách sử dụng, khẩu khí ngôn ngữ biến hóa khôn lường, tinh tế, thông minh, đầy linh hoạt của người Việt đã chuyển sang những tầng cảm xúc và cảm thụ mới.
Người Việt vốn ưa cách nói giảm, nói tránh, nhỏ nhẹ, khiêm nhường, giữ ý, cũng như quan niệm xưa, coi “nhỏ là đẹp”. Có thể phân tích một số thí dụ để minh họa.
Trong cuộc sống, thỉnh thoảng có người bật lên cụm “Ăn mày dĩ vãng”. Đây được xem như một thán từ gợi lên chút gì đó chua chát, tội nghiệp, phản ánh chiều sâu cuộc sống hiện tại không lấy gì làm thỏa mãn nên mới hồi tưởng để níu giữ chút ánh sáng huy hoàng xưa cũ.
Nhà văn Chu Lai có tập tiểu thuyết nổi tiếng “Ăn mày dĩ vãng”, những ai từng đọc sẽ dễ nhận thấy ý nghĩa của câu chuyện hoàn toàn trùng khớp, ăn ý với cái tựa.
Ở một tầng hiểu khác, có thể kể đến những câu nói đầu môi “Ăn mày văn chương”, “Ăn mày sân khấu” hay thông dụng hơn là “Ăn mày cửa Phật”. Đây đều là những cách nói có phần nhún nhường, khiêm tốn, thể hiện tâm thế an bài, nhẹ nhõm, tôn trọng chủ thể của người nói.
Đây đó có câu chuyện truyền miệng rằng, ông tổ nghề sân khấu vốn xuất thân từ ăn mày, bởi nghề hát sống nhờ vào đồng tiền của khán giả thưởng thức. Nói trắng ra là “ăn mày” khán giả. Từ đó sinh ra chuyện nghệ sĩ làm từ thiện khắp nơi nhưng không bao giờ đi bố thí cho người ăn xin, vì làm thế khác nào phạm thượng với tổ nghiệp.
Ngày nay, “ăn mày” đã biến tướng về cơ bản, là một vấn đề nhức nhối của đô thị.”. Từ “ăn mày”, từ chỗ có ngữ nghĩa ví von, nôm na, bình dân đã mai một dần. Có lẽ vì thế, người ta gọi thẳng thừng, mỉa mai và đặt một “mỹ danh” không lấy làm dễ chịu cho những người xin, vòi, hăm dọa để có của bố thí là “nghề ăn xin”.
Suy cho cùng, thời nào cũng vậy, thà mang tiếng khiêm nhường, lễ nghĩa chìa tay nhặt nhạnh chút “vụn vỏ” vật chất từ lòng cảm thông để qua ngày còn hơn bị vỗ mặt làm giàu trên sự xin xỏ tráo trở.
Theo Trí thức trẻ
Hiệu chỉnh bởi quản lý: