thuphng
Thành viên
- Tham gia
- 20/6/2022
- Bài viết
- 1
Việc tham gia các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mở ra rất nhiều thuận lợi đối với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, cùng với đó là cơ hội tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp luật trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế để hội nhập thế giới.
1. FTA thế hệ mới là gì?
Thuật ngữ “FTA thế hệ mới” được sử dụng với các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Liên minh châu Âu đã đàm phán với các đối tác thương mại của mình. Với mục tiêu phát triển và nâng cao quan hệ thương mại song phương với các đối tác, vào năm 2007, EU bắt đầu khởi động các vòng đàm phán các hiệp định thương mại tự do “thế hệ mới” với các nước là đối tác như Ấn Độ, Hàn Quốc và các nước ASEAN với cách tiếp cận toàn diện, gồm nhiều nội dung đổi mới về sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, đầu tư, mua sắm chính phủ, hay phát triển bền vững.
Thuật ngữ “Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới” được sử dụng để chỉ các FTA với những cam kết sâu rộng và toàn diện, bao hàm những cam kết về tự do thương mại hàng hóa và dịch vụ như các “FTA truyền thống”; mức độ cam kết sâu nhất (cắt giảm thuế gần như về 0%, có thể có lộ trình); có cơ chế thực thi chặt chẽ và hơn thế, nó bao hàm cả những lĩnh vực được coi là “phi truyền thống” như: Lao động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm chính phủ, minh bạch hóa, cơ chế giải quyết tranh chấp về đầu tư…
Ngoài các hiệp định thương mại tự do của EU với các đối tác thương mại như FTA EU - Hàn Quốc, EU - Ấn Độ, EU - Nhật Bản, EU - ASEAN, … các hiệp định thương mại tự do được đàm phán sau giữa nhiều đối tác thương mại lớn như Hiệp định đối tác toàn diện tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định đối tác thương mại và đầu tư xuyên Đại Tây Dương (T-TIP), … cũng áp dụng cách tiếp cận toàn diện này và đều được coi là các hiệp định thương mại tự do “thế hệ mới”.
Thuật ngữ “Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới” được sử dụng để chỉ các FTA với những cam kết sâu rộng và toàn diện, bao hàm những cam kết về tự do thương mại hàng hóa và dịch vụ như các “FTA truyền thống”; mức độ cam kết sâu nhất (cắt giảm thuế gần như về 0%, có thể có lộ trình); có cơ chế thực thi chặt chẽ và hơn thế, nó bao hàm cả những lĩnh vực được coi là “phi truyền thống” như: Lao động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm chính phủ, minh bạch hóa, cơ chế giải quyết tranh chấp về đầu tư…
Ngoài các hiệp định thương mại tự do của EU với các đối tác thương mại như FTA EU - Hàn Quốc, EU - Ấn Độ, EU - Nhật Bản, EU - ASEAN, … các hiệp định thương mại tự do được đàm phán sau giữa nhiều đối tác thương mại lớn như Hiệp định đối tác toàn diện tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định đối tác thương mại và đầu tư xuyên Đại Tây Dương (T-TIP), … cũng áp dụng cách tiếp cận toàn diện này và đều được coi là các hiệp định thương mại tự do “thế hệ mới”.
Đàm phán FTA thế hệ mới - một quyết sách chiến lược thời hội nhập toàn diện và sâu rộng.
2. FTA thế hệ mới - Những bước đi tự do hoá đầy ấn tượng.
Đưa qua quan điểm về những bước hội nhập của nước ta trong những năm qua, bà Nguyễn Thị Thu Trang - Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng: "Có thể nói mấy năm trở lại đây là giai đoạn rất đặc biệt của thương mại thế giới".
Trong 2 năm 2020-2021, đại dịch Covid-19 đã làm xáo trộn thương mại – đầu tư thế giới theo một cách khác, với phần lớn các nền kinh tế gặp tổn thất nặng nề. Dòng chảy thương mại quốc tế cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Các vấn đề thương mại phải xếp sau những ưu tiên cấp bách hơn của hầu hết các chính phủ.
Trong một bối cảnh đặc biệt phức tạp như vậy, Việt Nam và các đối tác vẫn quyết tâm thực hiện mục tiêu tự do hóa thương mại, hội nhập để cùng phát triển bền vững thông qua việc thúc đẩy đàm phán, ký kết 03 FTA thế hệ mới gồm Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực đều có tiêu chuẩn cao và có quy mô lớn nhất từ trước tới nay.
Trong 2 năm 2020-2021, đại dịch Covid-19 đã làm xáo trộn thương mại – đầu tư thế giới theo một cách khác, với phần lớn các nền kinh tế gặp tổn thất nặng nề. Dòng chảy thương mại quốc tế cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Các vấn đề thương mại phải xếp sau những ưu tiên cấp bách hơn của hầu hết các chính phủ.
Trong một bối cảnh đặc biệt phức tạp như vậy, Việt Nam và các đối tác vẫn quyết tâm thực hiện mục tiêu tự do hóa thương mại, hội nhập để cùng phát triển bền vững thông qua việc thúc đẩy đàm phán, ký kết 03 FTA thế hệ mới gồm Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực đều có tiêu chuẩn cao và có quy mô lớn nhất từ trước tới nay.
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh, Đại sứ Nguyễn Nguyệt Nga (giữa) cùng thành viên đoàn Việt Nam tại lễ ký Hiệp định EVFTA và EVIPA, ngày 30/6/2019 tại Hà Nội.
Thực thi các FTA thế hệ mới trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập, liên kết kinh tế quốc tế[/caption]
Bà Thu Trang đánh giá cao nỗ lực, sự kiên định của Chính phủ Việt Nam cũng như các đối tác trong những bước đi tự do hóa đầy ấn tượng đó. Bà Trang tin rằng đa số các doanh nghiệp cũng chia sẻ với bà về quan điểm này bởi quá trình này hứa hẹn mang lại cho doanh nghiệp những cơ hội mới để tiếp tục phát triển trong bối cảnh phức tạp.
3. Ảnh hưởng của các FTA thế hệ mới đối với nền kinh tế Việt Nam.
Trong tổng thể, việc phê chuẩn và đưa vào thực thi CPTPP, EVFTA và gần đây nhất là ký kết RCEP mang lại động lực cho nền kinh tế Việt Nam ở cả góc độ thể chế, cơ cấu kinh tế lẫn các cơ hội thương mại – đầu tư và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Nếu xét một cách chi tiết thì mỗi FTA có một ý nghĩa nổi trội riêng với Việt Nam.
Thực thi các FTA thế hệ mới trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập, liên kết kinh tế quốc tế[/caption]
Hiệp định CPTPP - Lợi ích kinh tế tăng thêm không quá lớn
Với Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), lợi ích kinh tế tăng thêm có thể không quá lớn, 7/10 đối tác CPTPP là các đối tác đã từng có FTA với Việt Nam, cơ hội chỉ đáng kể ở các thị trường mới như Canada, Mexico, Peru.
Tuy nhiên những cam kết tiêu chuẩn cao, bao trùm những khía cạnh lần đầu tiên được đề cập lại có ý nghĩa về thể chế rất đáng kể với chúng ta. Ví dụ cam kết về quyền tự do liên kết của người lao động, về định hướng nâng cao các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường, về các mức độ bảo hộ cao cả về công nhận cũng như thực thi các quyền sở hữu trí tuệ... đã và sẽ làm thay đổi không ít hiện trạng hệ thống pháp luật nội địa của chúng ta.
Hiệp định EVFTA - Thiết lập “con đường cao tốc”
Với Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam (EVFTA), FTA đầu tiên giữa Việt Nam với cùng lúc 27 nền kinh tế của Liên minh châu Âu, cơ hội kinh tế là yếu tố được nhấn mạnh hơn cả.
Không phải EVFTA không có các cam kết từ góc độ quy tắc và thể chế như CPTPP, thậm chí ở một vài khía cạnh còn được chú trọng hơn (ví dụ về phát triển bền vững). Tuy nhiên đa phần các cam kết này đã và đang được thực thi trong CPTPP, FTA đã có hiệu lực trước đó. Như vậy, lợi ích kinh tế khi thiết lập “con đường cao tốc” giữa Việt Nam với một thị trường có sức mua lớn thứ hai toàn cầu, có cơ cấu kinh tế bổ sung với Việt Nam...có ý nghĩa cực kỳ đặc biệt đối với một nền kinh tế định hướng xuất khẩu như nước ta.
Không phải EVFTA không có các cam kết từ góc độ quy tắc và thể chế như CPTPP, thậm chí ở một vài khía cạnh còn được chú trọng hơn (ví dụ về phát triển bền vững). Tuy nhiên đa phần các cam kết này đã và đang được thực thi trong CPTPP, FTA đã có hiệu lực trước đó. Như vậy, lợi ích kinh tế khi thiết lập “con đường cao tốc” giữa Việt Nam với một thị trường có sức mua lớn thứ hai toàn cầu, có cơ cấu kinh tế bổ sung với Việt Nam...có ý nghĩa cực kỳ đặc biệt đối với một nền kinh tế định hướng xuất khẩu như nước ta.
Hiệp định RCEP - Mở rộng thị trường
Với phạm vi bao trùm các thị trường cung cấp nguyên vật liệu chủ yếu của Việt Nam, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) mang lại cơ hội lớn hơn bao giờ hết cho các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu trong việc tận dụng các ưu đãi thuế quan do khả năng đáp ứng quy tắc xuất xứ nội khối dễ dàng hơn. Đồng thời, việc tất cả 15 đối tác cùng cam kết về các thủ tục thống nhất hơn, minh bạch và dễ dự đoán hơn, dòng lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ nội khối dự báo sẽ thuận lợi hơn đáng kể.
Cuối cùng, việc Hiệp định bao trùm và kết nối cùng lúc 14 đối tác, trong đó có các đối tác là nhân tố quan trọng của nhiều chuỗi giá trị toàn cầu, RCEP mang lại cho Việt Nam cơ hội tham gia sâu hơn vào nhiều chuỗi, từ đó nâng cao hiệu quả và giá trị thu được từ các chuỗi này.
Cuối cùng, việc Hiệp định bao trùm và kết nối cùng lúc 14 đối tác, trong đó có các đối tác là nhân tố quan trọng của nhiều chuỗi giá trị toàn cầu, RCEP mang lại cho Việt Nam cơ hội tham gia sâu hơn vào nhiều chuỗi, từ đó nâng cao hiệu quả và giá trị thu được từ các chuỗi này.
4. Những tác động tích cực.
Chia sẻ với Phóng viên, bà Thu Trang đưa ra quan điểm: Hệ thống chính sách pháp luật về kinh doanh của chúng ta đã có những thay đổi đáng kể dưới tác động của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO năm 2007. Những thay đổi này không chỉ là về hình thức, số lượng văn bản hay phạm vi các chế định được điều chỉnh mà còn là những chuyển biến về chất mà chúng ta đều có thể cảm nhận được.
Tuy nhiên, theo bà Trang việc chuyển đổi thể chế từ một nền kinh tế kế hoạch hóa bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là rất phức tạp, không phải cứ làm một lần, sửa một lần là hoàn tất. Có những điều chúng ta phải học dần dần, và làm vừa rút kinh nghiệm để điều chỉnh cho đến khi thích hợp.
Hơn nữa, môi trường kinh doanh không đứng yên mà chuyển động không ngừng, đặc biệt dưới tác động của kinh tế số, công nghệ, thiên tai, dịch bệnh, các vấn đề về môi trường...Vì vậy, mặc dù đã có những chuyển biến rất đáng ghi nhận, theo đánh giá của các chuyên gia cũng như cộng đồng doanh nghiệp, hệ thống pháp luật kinh doanh hiện vẫn còn nhiều dư địa để cải cách.
Các FTA thế hệ mới như CPTPP hay EVFTA với nhiều cam kết tiêu chuẩn cao về thể chế, quy tắc đòi hỏi pháp luật, chính sách Việt Nam trong những lĩnh vực liên quan phải tiếp tục được điều chỉnh. Ví dụ như pháp luật về lao động, về sở hữu trí tuệ, về bảo hộ đầu tư, hải quan và tạo thuận lợi thương mại,... sẽ phải điều chỉnh để tuân thủ các cam kết.
Tuy nhiên, điều mà các chuyên gia kỳ vọng ở CPTPP hay EVFTA cho những thay đổi về chính sách pháp luật Việt Nam không chỉ dừng lại ở việc sửa đổi một vài điểm cụ thể, ở một vài chế định theo yêu cầu cam kết. Quan trọng hơn là tiếp tục cải thiện hệ thống pháp luật kinh doanh phù hợp hơn với các nguyên tắc thị trường, tôn trọng và bảo vệ quyền tự do kinh doanh, thúc đẩy cạnh tranh công bằng ở bất kỳ khía cạnh nào có thể, cải cách thủ tục hành chính,... là những mục tiêu ưu tiên quan trọng.
Tuy nhiên, theo bà Trang việc chuyển đổi thể chế từ một nền kinh tế kế hoạch hóa bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là rất phức tạp, không phải cứ làm một lần, sửa một lần là hoàn tất. Có những điều chúng ta phải học dần dần, và làm vừa rút kinh nghiệm để điều chỉnh cho đến khi thích hợp.
Hơn nữa, môi trường kinh doanh không đứng yên mà chuyển động không ngừng, đặc biệt dưới tác động của kinh tế số, công nghệ, thiên tai, dịch bệnh, các vấn đề về môi trường...Vì vậy, mặc dù đã có những chuyển biến rất đáng ghi nhận, theo đánh giá của các chuyên gia cũng như cộng đồng doanh nghiệp, hệ thống pháp luật kinh doanh hiện vẫn còn nhiều dư địa để cải cách.
Các FTA thế hệ mới như CPTPP hay EVFTA với nhiều cam kết tiêu chuẩn cao về thể chế, quy tắc đòi hỏi pháp luật, chính sách Việt Nam trong những lĩnh vực liên quan phải tiếp tục được điều chỉnh. Ví dụ như pháp luật về lao động, về sở hữu trí tuệ, về bảo hộ đầu tư, hải quan và tạo thuận lợi thương mại,... sẽ phải điều chỉnh để tuân thủ các cam kết.
Tuy nhiên, điều mà các chuyên gia kỳ vọng ở CPTPP hay EVFTA cho những thay đổi về chính sách pháp luật Việt Nam không chỉ dừng lại ở việc sửa đổi một vài điểm cụ thể, ở một vài chế định theo yêu cầu cam kết. Quan trọng hơn là tiếp tục cải thiện hệ thống pháp luật kinh doanh phù hợp hơn với các nguyên tắc thị trường, tôn trọng và bảo vệ quyền tự do kinh doanh, thúc đẩy cạnh tranh công bằng ở bất kỳ khía cạnh nào có thể, cải cách thủ tục hành chính,... là những mục tiêu ưu tiên quan trọng.
5. Xu hướng phát triển của các hiệp định thương mại tự do trong thời gian tới: Khi mục tiêu không chỉ là tự do hóa thương mại
Trong thời điểm hiện tại, FTA thế hệ mới là những nhân tố chính dẫn lối cho công cuộc hội nhập kinh tế khu vực và trên toàn thế giới. Với sự bùng nổ của các FTA như hiện nay khi mà hầu hết các thành viên WTO đều tham gia vào ngày càng nhiều hơn các FTA, việc các quy định trong FTA được dẫn chiếu ngày một nhiều hơn không phải điều gì quá xa lạ. Tranh chấp phát sinh trên cơ sở FTA theo đó sẽ không thuộc phạm vi điều chỉnh của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.
Về nội dung đàm phán, các FTA thế hệ mới cho thấy sự phát triển đa dạng về nội dung khi hàm chứa rất nhiều các quy định điều chỉnh cả nhóm lĩnh vực phi thương mại. Tuy vậy, số lượng các FTA thế hệ mới tiếp tục bùng nổ ngay cả khi mức độ, phạm vi ưu đãi giảm xuống chứng tỏ rằng các quốc gia có thể có những động lực khác khi tham gia vào các FTA này ngoài việc chỉ đơn thuần nhằm mục tiêu mở rộng.
Sang nội dung của FTA thế hệ mới, ngay cả các nhóm vấn đề như đầu tư, nhân quyền, môi trường, lao động, thậm chí là chống tham nhũng và chống khủng bố cũng có thể thuộc phạm vi điều chỉnh của các hiệp định thương mại tự do này. Trước hết, điều đó cho thấy sự lan tỏa của xu hướng toàn cầu hóa đối với những chính sách trong nước. Mặt khác, đây có thể xem là phương thức để các nước tiếp tục đàm phán, thực thi thông qua kênh các hiệp định khu vực những nội dung chưa được giải quyết triệt để.
Việc xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp riêng của từng FTA thế hệ mới cũng giúp bảo đảm quá trình thực thi các nhóm quy định này. Nếu xét về tương quan giữa các bên tham gia đàm phán, các nước phát triển thường nắm vị thế chủ động trong việc “đưa” các yếu tố WTO-X vào nội dung điều chỉnh của FTA thế hệ mới, bởi các nước đang và kém phát triển thường không có ưu thế về các vấn đề này và mục tiêu chủ yếu của họ chỉ là tự do hóa thương mại.
Bên cạnh việc tiết kiệm thời gian và công sức để đàm phán nhiều loại hiệp định khác nhau, các vấn đề phi thương mại có lẽ cũng dễ được chấp nhận hơn khi đi kèm với các thoả thuận thương mại trên cơ sở có đi có lại. Đây được dự đoán sẽ là xu hướng còn tiếp tục gia tăng trong thời gian tới, với các FTA thế hệ mới hoạt động như những hiệp định hợp tác toàn diện giữa các quốc gia.
Trước bối cảnh đó, cũng khó để xác định xem các FTA thế hệ mới này thực sự hỗ trợ hay cản trở nỗ lực tự do hóa thương mại đa biên trong khuôn khổ WTO, bởi điều này còn phụ thuộc vào nội dung điều chỉnh của FTA là về hội nhập kinh tế quốc tế theo GATT/ WTO hay chủ yếu hướng tới hội nhập các lĩnh vực chính sách mới.
Với sự mở rộng phạm vi điều chỉnh của FTA thế hệ mới sang các vấn đề phi thương mại, khả năng các FTA này làm tiền đề cho việc xây dựng các quy tắc đa biên trong khuôn khổ WTO cũng thu hẹp dần. Có thể xảy ra trường hợp các hiệp định FTA (thế hệ mới) dù bản chất là hiệp định hợp tác toàn diện, nhưng sẽ là khó khăn hơn để yêu cầu WTO điều chỉnh cả các vấn đề phi thương mại.
Về nội dung đàm phán, các FTA thế hệ mới cho thấy sự phát triển đa dạng về nội dung khi hàm chứa rất nhiều các quy định điều chỉnh cả nhóm lĩnh vực phi thương mại. Tuy vậy, số lượng các FTA thế hệ mới tiếp tục bùng nổ ngay cả khi mức độ, phạm vi ưu đãi giảm xuống chứng tỏ rằng các quốc gia có thể có những động lực khác khi tham gia vào các FTA này ngoài việc chỉ đơn thuần nhằm mục tiêu mở rộng.
Sang nội dung của FTA thế hệ mới, ngay cả các nhóm vấn đề như đầu tư, nhân quyền, môi trường, lao động, thậm chí là chống tham nhũng và chống khủng bố cũng có thể thuộc phạm vi điều chỉnh của các hiệp định thương mại tự do này. Trước hết, điều đó cho thấy sự lan tỏa của xu hướng toàn cầu hóa đối với những chính sách trong nước. Mặt khác, đây có thể xem là phương thức để các nước tiếp tục đàm phán, thực thi thông qua kênh các hiệp định khu vực những nội dung chưa được giải quyết triệt để.
Việc xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp riêng của từng FTA thế hệ mới cũng giúp bảo đảm quá trình thực thi các nhóm quy định này. Nếu xét về tương quan giữa các bên tham gia đàm phán, các nước phát triển thường nắm vị thế chủ động trong việc “đưa” các yếu tố WTO-X vào nội dung điều chỉnh của FTA thế hệ mới, bởi các nước đang và kém phát triển thường không có ưu thế về các vấn đề này và mục tiêu chủ yếu của họ chỉ là tự do hóa thương mại.
Bên cạnh việc tiết kiệm thời gian và công sức để đàm phán nhiều loại hiệp định khác nhau, các vấn đề phi thương mại có lẽ cũng dễ được chấp nhận hơn khi đi kèm với các thoả thuận thương mại trên cơ sở có đi có lại. Đây được dự đoán sẽ là xu hướng còn tiếp tục gia tăng trong thời gian tới, với các FTA thế hệ mới hoạt động như những hiệp định hợp tác toàn diện giữa các quốc gia.
Trước bối cảnh đó, cũng khó để xác định xem các FTA thế hệ mới này thực sự hỗ trợ hay cản trở nỗ lực tự do hóa thương mại đa biên trong khuôn khổ WTO, bởi điều này còn phụ thuộc vào nội dung điều chỉnh của FTA là về hội nhập kinh tế quốc tế theo GATT/ WTO hay chủ yếu hướng tới hội nhập các lĩnh vực chính sách mới.
Với sự mở rộng phạm vi điều chỉnh của FTA thế hệ mới sang các vấn đề phi thương mại, khả năng các FTA này làm tiền đề cho việc xây dựng các quy tắc đa biên trong khuôn khổ WTO cũng thu hẹp dần. Có thể xảy ra trường hợp các hiệp định FTA (thế hệ mới) dù bản chất là hiệp định hợp tác toàn diện, nhưng sẽ là khó khăn hơn để yêu cầu WTO điều chỉnh cả các vấn đề phi thương mại.