Mặc dầu đêm ấy bị canh phòng nghiêm ngặt, Đuytiơn vượt ngục lúc mười một giờ ba mươi. Tin đó đến với công chúng sáng hôm sau làm dấy lên khắp nơi một niềm phấn khởi ghê gớm. Tuy vậy, sau khi thực hiện một vụ trộm mới khiến cho tiếng tăm nổi như cồn, Đuytiơn dường như ít quan tâm đến việc lẩn trốn và lai vãng qua Môngmactơrơ chẳng đề phòng gì. Ba ngày sau khi vượt ngục chàng bị bắt ở phố Côlanh tại tiệm rượu Mơ mộng, lúc gần trưa, khi đương uống rượu vang trắng vắt chanh với các bè bạn.
Bị dẫn trở lại Xăng tê và giam trong ngục tối với ba lần cửa khóa then cài, Garu-Garu trốn thoát ngay tối hôm đó và ngủ tại nhà viên giám đốc, trong phòng dành cho bạn bè. Sáng hôm sau, khoảng chín giờ, chàng bấm chuông gọi u già mang điểm tâm đến và để cho bọn cai ngục hớt hơ hớt hải tóm cổ ngay trên gi.ường, không hề chống cự. Tức giận, viên giám đốc đặt một trạm gác ở trước cửa ngục của chàng và phạt chàng ăn bánh nhạt. Khoảng đến trưa, người tù đi dùng bữa tại một quán ăn ở bên cạnh nhà tù và, sau khi uống cà phê xong, gọi điện thoại cho viên giám đốc.
-Alô! Thưa ngài giám đốc, tôi ngượng ngùng quá, nhưng ban nãy, lúc đi ra, tôi quên mang theo ví tiền của ngài, nên bây giờ chẳng có xu nào ở quán ăn. Ngài vui lòng cử ai đó tới thanh toán tiền ăn cho tôi được chứ?
Viên giám đốc đích thân chạy tới và nổi trận lôi đình đến mức thốt ra những lời đe dọa và chửi rủa. Bị tổn thương đến lòng kiêu hãnh, Đuytiơn vượt ngục đêm hôm sau không trở lại nữa. Lần này, chàng cẩn thận cạo đi chòm râu cằm đen và thay chiếc kính kẹp mũi có dây xà tích bằng cặp kính đồi mồi. Một chiếc mũ cát-ket thể thao và bộ quần áo bằng vải kẻ ô vuông to với chiếc quần chẽn gối hoàn toàn làm cho chàng thay đổi hình dạng. Chàng tới ở trong một gian nhà nhỏ tại đại lộ Giuynô mà ngay từ trước lần bị bắt đầu tiên, chàng đã cho chuyển đến một phần đồ đạc và những vật dụng thân thiết nhất đối với chàng. Tiếng tăm lừng lẫy bắt đầu làm chàng mệt mỏi và từ ngày ở Xăngtê, chàng hơi ngán niềm thích thú đi xuyên qua tường. Những bức tường dầy nhất, đồ sộ nhất nay dường như chỉ là các tấm bình phong đơn giản đối với chàng, và chàng ước mơ xuyên thấu vào tận trung tâm một kim tự tháp khổng lồ nào đấy. Trong khi nghiền ngẫm dự án cuộc hành trình sng Ai-cập, chàng sống những ngày êm đềm nhất, hết sưu tập tem lại xem phim và đi rong chơi la cà qua Môngmactơrơ. Chàng thay hình đổi dạng hoàn toàn đến nỗi, cằm nhẵn nhụi và mắt đeo kính đồi mồi, chàng đi ngay bên cạnh những người bạn thân nhất mà không ai nhận ra. Duy chỉ có họa sĩ Gien Pôn (6), mà không một nét đổi thay nào xẩy ra trên khuôn mặt người dân cư trú lâu năm trong khu phố thoát khỏi mắt ông, cuối cùng đã biết rõ gốc tích thật sự của chàng. Một buổi sáng chạm trán với Đuytiơn ở góc phố Abrơvoa, ông không nhịn được mà đã nói với chàng bằng thứ tiếng lóng sù sì:
-Nè, tớ biết là cậu đã phết nước màu để thuốc bọn cớm- trong ngôn ngữ thông thường đại khái nghĩa là: tớ biết là cậu đã cải trang thành người lịch sự để làm chưng hửng cho bọn nhân viên an ninh.
-Ồ! Đuytiơn thì thầm, cậu đã nhận ra tớ!
Chàng đâm ra bối rối và quyết định mau mau khởi hành sang Ai Cập. Ngay chiều hôm ấy, chàng phải lòng một giai nhân tóc hung gặp hai lần ở phố Lơpic cách quãng nhau một khắc đồng hồ. Thế là chàng quên luôn bộ sưu tập tem với Ai Cập và những kim tự tháp. Về phía mình, cô nàng tóc hung cũng đã nhìn chàng với nhiều thiện cảm. Chẳng có gì gợi cảm cho các thiếu phụ đời nay bằng những chiếc quần chẽn gối và đôi kính gọng đồi mồi. Cái đó có dáng dấp tài tử xi-nê và làm cho người ta mơ đến những tiệc rượu côc-tay và những đêm Caliphoocni. Rủi thay, Đuytiơn được Gien Pôn cho biết người đẹp đã kết hôn với một gã đàn ông tàn bạo và cả ghen. Ông chồng đa nghi ấy lại sống cuộc đời bê tha phóng đãng, đêm nào cũng để vợ ở nhà từ mười giờ tối đến bốn giờ sáng, nhưng trước khi ra đi, hắn thận trọng nhốt vợ trong buồng, vặn hai vòng chìa, các cửa chớp đều đóng và khóa chặt. Ban ngày, hắn giám sát vợ chặt chẽ, thậm chí theo gót vợ trong các phố xá ở Môngmactơrơ.
- Lúc nào cũng để tai để mắt, thế đấy. Đó là một thằng cha du côn đếch chịu ai xơ múi gì của hắn.
Nhưng lời mách bảo ấy của Gien Pôn chỉ đưa đến kết quả làm cho Đuytiơn sôi lên sùng sục. Hôm sau, gặp người thiếu phụ ở phố Tôlôdê, chàng không ngần ngại theo chân nàng vào một cửa hiệu bơ sữa, và trong lúc nàng đợi đến lượt mua hàng, chàng bảo nàng là chàng yêu nàng, là chàng biết hết: anh chồng vũ phu, cửa ra vào khóa và những cửa chớp, nhưng chàng sẽ vào trong buồng của nàng ngay tối hôm ấy. Cô nàng tóc hung đỏ dừ mặt, bình đựng sữa run lên bần bật trong tay và, đôi mắt rơm rớm thân thương, nàng khẽ thở dài: "Chao ôi! Thưa ông, vào thế nào được".
Buổi tối cái ngày rạng rỡ ấy, khoảng mười giờ, Đuytiơn đứng chực sẵn trong phố Norvanh và giám sát bức tường bao quanh kiên cố, bên trong là một ngôi nhà nhỏ mà chàng chỉ nhìn thấy cái chong chóng báo hướng gió và chiếc ống khói. Một cánh cửa mở ra trong bức tường ấy và một người đàn ông, sau khi khóa cửa cẩn thận, đi xuôi về phía đại lộ Giuynô. Đuytiơn đợi cho tới khi thấy hắn đi khuất hẳn, rất xa, ở chỗ dốc ngoặt, lại còn đếm thêm từ một đến mười. Rồi chàng lao tới, tiến bước đi vào tường và tiếp tục chạy xuyên qua các vật cản, vào tận trong buồng của người đẹp bị cầm cố. Nàng đón tiếp chàng say sưa ngây ngất và họ yêu nhau cho đến một giờ khuya.
Hôm sau, Đuytiơn nhức đầu như búa bổ. Cái đó chẳng quan trọng và chàng sẽ chẳng vì chuyện cỏn con mà lỡ cuộc hẹn hò. Tuy nhiên, tình cờ phát hiện thấy những viên con nhộng vương vãi dưới đáy một chiếc ngăn kéo, chàng nuốt sáng một viên, chiều một viên. Tối đến, đỡ nhức đầu hơn, alị thêm niềm hứng khởi khiến chàng quên chúng đi. Thiếu phụ đợi chàng với tất cả nỗi sốt ruột mà những ký ức đêm qua đã làm nẩy sinh ở nàng và họ yêu nhau, đêm ấy, đến tận ba giờ sáng. Lúc ra về, khi đi xuyên qua các vách ngăn và tường nhà, Đuytiơn cảm thấy có sự cọ sát bất thường ở hai bên háng và vai. Tuy nhiên chàng thiết nghĩ chẳng cần phải để tâm làm gì. Chỉ đến khi đi xuyên vào trong bức tường bao quanh, chàng mới thấy rõ rệt cảm giác bị cản lại. Chàng như cựa quậy trong một vật thể còn lỏng, nhưng nó trở thành nhão sệt và mỗi lần chàng ráng sức, nó lại dẻo quánh thêm. Khi đã dấn được người hoàn toàn vào trong bề dầy của những bức tường, chàng nhận thấy không tiến lên được nữa và khiếp đảm nhớ đến hai viên thuốc nhộng uống trong ngày. Những viên nhộng ấy, mà chàng tưởng là thuốc cảm, thực ra là bột piret hóa trị bốn của bác sĩ kê thuốc năm trước. Hiệu lực của chất thuốc ấy cộng với hiệu quả của lao lực thái quá bộc lộ ra một cách đột ngột.
Đuytiơn như đông cứng lại ở trong tường. Hiện nay chàng vẫn còn ở đấy, lẫn vào trong đá. Những người hay đi chơi đêm khi xuôi phố Norvanh vào giờ huyên náo của Pari đã lắng xuống, nghe thấy một âm thanh mơ hồ như từ dưới mồ vọng lên mà họ tưởng là tiếng gió thở than thổi ở các ngã ba ngã tư của Gò (7). Đó là Garu-Garu Đuytiơn than vãn cuộc đời vẻ vang đã kết thúc và luyến tiếc mối tình quá ngắn ngủi. Có những đêm đông, họa sĩ Gien Pôn tháo cây đàn ghi-ta xuống, mạo hiểm dấn bước vào chốn hiu quạnh âm vang của phố Norvanh để ca hát an ủi người tù khốn khổ, và những tiếng đàn vút lên từ các ngón tay tê cóng của ông thấm vào tận lòng đá như những giọt sáng trăng.
Chú thích
(1) nghỉ ngày thứ 7 và chủ nhật
(2) Nguyên văn: Garou!garou! Un poil de loup!(rire). Il rôde un frisson à décorner tous les hiboux (rire). Nghĩa là: Ma chó sói!ma chó sói! Một cái lông chó sói! (cười). Một cơn lạnh vật vờ đến làm rụng sừng tất cả những con cú (cười). Tôi dịch thoát để giữ âm điệu.
(3) Nguyên văn: livre (nửa ki-lô)
(4) Hữu ngạn sông Seine
(5) Buyêcđigala(Burdigala) là tên cũ của thành phố Bordeaux , theo chú thích của L.Vindt trong Marcel Aymé: Contes et nouvelles, Tiến bộ., Maxcơva, 1967. Các chú thích trong sách này phần nhiều là dựa vào tài liệu ấy.
(6) Gen Paul là bút danh của họa sĩ hiện đại Pháp Eugène Daul(sinh năm 1895), bạn của Marcel Ayme.
(7) Gò Môngmactơrơ.
HẾT