Người đi xuyên tường - Marcel Aymé

Totoro

Thành viên thân thiết
Thành viên thân thiết
Tham gia
17/12/2011
Bài viết
5.437
Giới thiệu tác giả

240px-Tombe_de_Marcel_Aym%C3%A9_-_Cimeti%C3%A8re_Saint-Vincent_%28Paris%29.JPG

Mộ của Marcel Aymé tại Nghĩa trang Saint-Vincent, Paris

Marcel Aymé (29 tháng 3 năm 1902 - 14 tháng 10 năm 1967) là một nhà văn và nhà viết kịch người Pháp. Ông nổi tiếng với những tác phẩm trào phúng trong đó nổi bật là tập truyện ngắn Người đi xuyên tường (Le Passe-muraille).

Marcel Aymé sinh năm 1902 ở thị trấn Joigny thuộc tỉnh Yonne, Pháp. Là con thứ trong số 6 anh chị em, Aymé mồ côi mẹ từ khi lên 2 và được nuôi nấng bởi ông bà ngoại tại Villers-Robert, Jura. Ngôi làng này sau đó đã xuất hiện trong nhiều tác phẩm của Aymé như La Jument verte, La Vouivre, Gustalin hay La Table aux crevés. Cho đến năm 1910 thì ông bà ngoại của Aymé cũng lần lượt qua đời và cậu bé chuyển đến sống với bà cô và đi học tại Dole nhưng vẫn thường xuyên quay về vùng đồng quê trong các kì nghỉ. Mặc dù học không giỏi nhưng sau khi hết phổ thông, Aymé vẫn theo một lớp dự bị với ý định thi vào Trường Bách khoa Paris, tuy nhiên ý định này cũng không thành khi Aymé mắc bệnh cúm Tây Ban Nha, căn bệnh vừa khiến nhà văn tương lai phải kết thúc sự nghiệp học hành, vừa làm cho sức khỏe ông sa sút từ khi còn rất trẻ.

Sau thời gian phục vụ quân ngũ từ năm 1919 đến năm 1923, Marcel Aymé đến Paris và thử làm nhiều nghề trước khi bắt đầu viết tiểu thuyết đầu tay, Brûlebois (xuất bản năm 1926). Ngay lập tức tác phẩm này đã gây được tiếng vang và thúc đẩy Aymé tiếp tục sự nghiệp văn học với Aller-retour (1927) và La Table aux crevés (1929), tiểu thuyết thứ hai đã giúp nhà văn giành Giải Renaudot, một trong bốn giải thưởng văn học lớn của Pháp. Bên cạnh nghề viết văn, Aymé cũng thử sức với các kịch bản sân khấu, ông hoàn thành kịch bản Vogue la galère trước Thế chiến thứ hai, tác phẩm này được trình diễn lần đầu năm 1947.

Sau những thành công ban đầu, Marcel Aymé bị chỉ trích rất nhiều trong thời gian Pháp bị Đức Quốc xã chiếm đóng vì đã tham gia viết cho những tờ báo cộng tác với Đức như Je suis partout, La Gerbe. Tuy nhiên do không viết về những đề tài chính trị, ông không bị đặt vào danh sách đen của các nhà văn "phản bội" sau khi nước Pháp được giải phóng. Mặc dù bị tổn thương rất nhiều sau những lời chỉ trích, Marcel Aymé vẫn tiếp tục sáng tác trên cả hai lĩnh vực văn học và sân khấu, các tác phẩm của ông vẫn được công chúng đón nhận nhưng giới phê bình lại tỏ ra lạnh nhạt, thái độ của họ đối với tác phẩm của Aymé giữ nguyên như vậy cho tới khi ông qua đời. Nhà văn còn gặp thêm rắc rối khi ông sáng tác La Mouche bleue, tác phẩm mang màu sắc bài Mỹ ngay trong thời gian chủ nghĩa ủng hộ Mỹ đang lên cao ở Pháp. Năm 1950, ông đã từ chối lời mời tham gia Viện Hàn lâm Pháp (Académie française).
Marcel Aymé qua đời tại Paris ngày 14 tháng 10 năm 1967.

Tại khu Montmartre người ta đã đặt tên cho một quảng trường nhỏ ở gần nơi nhà văn từng sống nhiều năm là "Quảng trường Marcel-Aymé. Tại quảng trường này có đặt một bức tượng do Jean Marais sáng tác năm 1989 mô tả hình ảnh Người đi xuyên tường (Le Passe-muraille), tên tập truyện ngắn nổi tiếng do Aymé sáng tác năm 1943.

[vi.wikipedia.org]
 
NGƯỜI ĐI XUYÊN TƯỜNG
Marcel Aymé

ShowImage.aspx


Ở Môngmactơrơ, trên tầng ba nhà số 75 bis phố Orsăng, có một người kỳ diệu tên là Đuytiơn có tài năng đặc biệt đi xuyên qua được những bức tường chẳng khó khăn gì. Chàng mang một chiếc kính kẹp mũi, có một chòm râu cằm nho nhỏ và là viên chức hạng ba ở Bộ Trước bạ. Về mùa đông, chàng đi đến sở bằng ô tô buýt và vào mùa đẹp trời, chàng cuốc bộ, đầu đội chiếc mũ nỉ cứng.

Đuytiơn vừa bước vào tuổi bốn mươi ba thì chàng phát hiện ra khả năng của mình. Một buổi tối, chợt xảy ra mất điện khi chàng đang ở gian trước của căn phòng độc thân nhỏ bé của mình, chàng mò mẫm một lúc trong bóng tối, và khi điện sáng lại, thấy mình đương ở đầu thang gác của tầng ba. Vì cửa ra vào phòng khóa trái bên trong, sự việc xảy ra khiến chàng suy nghĩ, và bất chấp những lời quở trách của lý trí, chàng quyết định trở vào phòng như đã từ trong đó đi ra, bằng cách xuyên qua tường. Năng lực kỳ lạ ấy, dường như chẳng đáp ứng nguyện vọng nào của chàng, không khỏi làm cho chàng phiền lòng đôi chút, và hôm sau thứ bẩy, tranh thủ tuần lễ Anh(1), chàng đi gặp một thầy thuốc khu phố để trình bày trường hợp của mình. Bác sĩ cố tin là chàng nói thật, và sau khi xem xét, phát hiện ra nguyên nhân căn bệnh ở thành co thắt của tuyến giáp trạng bị cứng xoắn. Ông quy định cho chàng phải lao lực thật mệt nhoài ra và uống mỗi năm hai viên nhộng bột Piret hóa trị bốn, làm bằng hỗn hợp bột gạo và hooc-môn của con nhân mã.

Uống xong viên đầu tiên, Đuytiơn cất thuốc vào trong ngăn kéo và không nghĩ đến nó nữa. Còn như lao lực thật mệt nhoài ra thì hoạt động viên chức của chàng được quy định theo lệ thường chẳng thích hợp với một sự quá độ nào, và những giờ nhàn rỗi, dùng vào việc đọc báo và sưu tập tem, cũng chẳng buộc chàng phải tiêu phí năng lượng quá đáng. Sau một năm, chàng vẫn giữ nguyên vẹn năng lực đi xuyên qua những bức tường, nhưng không sử dụng nó bao giờ, trừ trường hợp vô ý, vì chàng ít tò mò chuyện lạ và khó bị trí tưởng tượng lôi cuốn. Chàng cũng chẳng hề nảy ra ý nghĩ vào nhà bằng cách nào khác ngoài lối cửa và sau khi đã vặn chìa khóa mở cửa đúng quy cách. Có lẽ chàng sẽ sống trong những tập quán êm đềm ấy cho đến già và chẳng ngứa ngáy mang tài ra thử nghiệm nếu không đột xuất xảy ra một biến cố bất thường làm đảo lộn cuộc sống của chàng. Ông Murông, phó phòng của chàng, điều đi chức vụ khác, được thay thế bằng một ông tên là Lêquyê nói năng cộc lốc và ria mép lởm chởm. Ngay từ hôm đầu tiên, viên phó phòng mới đã tỏ ra hết sức không ưa Đuytiơn, mang chiếc kính kẹp mũi có dây xà tích và một chòm râu cằm đen, và cố tình coi chàng như một vật cũ kỹ khó chịu và hơi bẩn thỉu. Nhưng điều nghiêm trọng nhất là y chủ trương đưa vào trong sự vụ những cải cách có một tầm lớn lao và cốt ý phá rối sự yên ổn của nhân viên thuộc hạ. Từ hai mươi năm nay, Đuytiơn bắt đầu những bức thư của chàng bằng thể thức sau đây: " Căn cứ vào bức thư đáng kính của ngài đề ngày... tháng này và, để ghi nhớ, vào sự trao đổi thư từ trước nữa của chúng ta, tôi hân hạnh báo để ngài biết…" Ông Lêquyê muốn thay bằng một thể thức khác có dáng dấp Mỹ hơn: "Để trả lời thư của ngài đề ngày..., tôi báo tin cho ngài biết…" Đuytiơn không thể nào tập cho quen với những kiểu cách thư từ ấy. Chàng miễn cưỡng quay trở lại cách thức truyền thống, với một sự cố chấp máy móc, vì thế mà chuốc lấy mối ác cảm ngày càng tăng của viên phó phòng. Không khí của Bộ Trước bạ hầu như trở nên nặng nề đối với chàng. Buổi sáng, chàng đến sở làm với nỗi lo ngại, và buổi tối, nằm trong gi.ường, nhiều khi chàng nghĩ ngợi đến một khắc đồng hồ rồi mới ngủ được.

Phát ngán về cái ý chí thụt lùi làm phương hại đến kết quả các cải cách của mình, ông Lêquyê đã tống Đuytiơn vào trong xó xỉnh tối lờ mờ, giáp với văn phòng của ông. Lối ra vào nơi ấy là một cái cửa vừa thấp vừa hẹp trông ra hành lang và vẫn còn mang dòng chữ in hoa: Kho đồ phế thải. Đuytiơn đành lòng chấp nhận điều nhục nhã chưa từng có này, nhưng khi về nhà, đọc báo thấy có chuyện đẫm máu vặt vãnh nào đấy, chàng bất giác mơ tưởng ông Lêquyê là nạn nhân.

Một hôm, viên phó phòng xộc vào trong buồng kho, vung một lá thư và bắt đầu rống lên:

- Ông hãy mở đầu lại cho tôi cái giẻ lau này! Ông hãy mở đầu lại cho tôi cái giẻ lau gớm guốc này, nó làm ô danh phòng của tôi!
 
Mặc dầu đêm ấy bị canh phòng nghiêm ngặt, Đuytiơn vượt ngục lúc mười một giờ ba mươi. Tin đó đến với công chúng sáng hôm sau làm dấy lên khắp nơi một niềm phấn khởi ghê gớm. Tuy vậy, sau khi thực hiện một vụ trộm mới khiến cho tiếng tăm nổi như cồn, Đuytiơn dường như ít quan tâm đến việc lẩn trốn và lai vãng qua Môngmactơrơ chẳng đề phòng gì. Ba ngày sau khi vượt ngục chàng bị bắt ở phố Côlanh tại tiệm rượu Mơ mộng, lúc gần trưa, khi đương uống rượu vang trắng vắt chanh với các bè bạn.

Bị dẫn trở lại Xăng tê và giam trong ngục tối với ba lần cửa khóa then cài, Garu-Garu trốn thoát ngay tối hôm đó và ngủ tại nhà viên giám đốc, trong phòng dành cho bạn bè. Sáng hôm sau, khoảng chín giờ, chàng bấm chuông gọi u già mang điểm tâm đến và để cho bọn cai ngục hớt hơ hớt hải tóm cổ ngay trên gi.ường, không hề chống cự. Tức giận, viên giám đốc đặt một trạm gác ở trước cửa ngục của chàng và phạt chàng ăn bánh nhạt. Khoảng đến trưa, người tù đi dùng bữa tại một quán ăn ở bên cạnh nhà tù và, sau khi uống cà phê xong, gọi điện thoại cho viên giám đốc.

-Alô! Thưa ngài giám đốc, tôi ngượng ngùng quá, nhưng ban nãy, lúc đi ra, tôi quên mang theo ví tiền của ngài, nên bây giờ chẳng có xu nào ở quán ăn. Ngài vui lòng cử ai đó tới thanh toán tiền ăn cho tôi được chứ?

Viên giám đốc đích thân chạy tới và nổi trận lôi đình đến mức thốt ra những lời đe dọa và chửi rủa. Bị tổn thương đến lòng kiêu hãnh, Đuytiơn vượt ngục đêm hôm sau không trở lại nữa. Lần này, chàng cẩn thận cạo đi chòm râu cằm đen và thay chiếc kính kẹp mũi có dây xà tích bằng cặp kính đồi mồi. Một chiếc mũ cát-ket thể thao và bộ quần áo bằng vải kẻ ô vuông to với chiếc quần chẽn gối hoàn toàn làm cho chàng thay đổi hình dạng. Chàng tới ở trong một gian nhà nhỏ tại đại lộ Giuynô mà ngay từ trước lần bị bắt đầu tiên, chàng đã cho chuyển đến một phần đồ đạc và những vật dụng thân thiết nhất đối với chàng. Tiếng tăm lừng lẫy bắt đầu làm chàng mệt mỏi và từ ngày ở Xăngtê, chàng hơi ngán niềm thích thú đi xuyên qua tường. Những bức tường dầy nhất, đồ sộ nhất nay dường như chỉ là các tấm bình phong đơn giản đối với chàng, và chàng ước mơ xuyên thấu vào tận trung tâm một kim tự tháp khổng lồ nào đấy. Trong khi nghiền ngẫm dự án cuộc hành trình sng Ai-cập, chàng sống những ngày êm đềm nhất, hết sưu tập tem lại xem phim và đi rong chơi la cà qua Môngmactơrơ. Chàng thay hình đổi dạng hoàn toàn đến nỗi, cằm nhẵn nhụi và mắt đeo kính đồi mồi, chàng đi ngay bên cạnh những người bạn thân nhất mà không ai nhận ra. Duy chỉ có họa sĩ Gien Pôn (6), mà không một nét đổi thay nào xẩy ra trên khuôn mặt người dân cư trú lâu năm trong khu phố thoát khỏi mắt ông, cuối cùng đã biết rõ gốc tích thật sự của chàng. Một buổi sáng chạm trán với Đuytiơn ở góc phố Abrơvoa, ông không nhịn được mà đã nói với chàng bằng thứ tiếng lóng sù sì:

-Nè, tớ biết là cậu đã phết nước màu để thuốc bọn cớm- trong ngôn ngữ thông thường đại khái nghĩa là: tớ biết là cậu đã cải trang thành người lịch sự để làm chưng hửng cho bọn nhân viên an ninh.

-Ồ! Đuytiơn thì thầm, cậu đã nhận ra tớ!

Chàng đâm ra bối rối và quyết định mau mau khởi hành sang Ai Cập. Ngay chiều hôm ấy, chàng phải lòng một giai nhân tóc hung gặp hai lần ở phố Lơpic cách quãng nhau một khắc đồng hồ. Thế là chàng quên luôn bộ sưu tập tem với Ai Cập và những kim tự tháp. Về phía mình, cô nàng tóc hung cũng đã nhìn chàng với nhiều thiện cảm. Chẳng có gì gợi cảm cho các thiếu phụ đời nay bằng những chiếc quần chẽn gối và đôi kính gọng đồi mồi. Cái đó có dáng dấp tài tử xi-nê và làm cho người ta mơ đến những tiệc rượu côc-tay và những đêm Caliphoocni. Rủi thay, Đuytiơn được Gien Pôn cho biết người đẹp đã kết hôn với một gã đàn ông tàn bạo và cả ghen. Ông chồng đa nghi ấy lại sống cuộc đời bê tha phóng đãng, đêm nào cũng để vợ ở nhà từ mười giờ tối đến bốn giờ sáng, nhưng trước khi ra đi, hắn thận trọng nhốt vợ trong buồng, vặn hai vòng chìa, các cửa chớp đều đóng và khóa chặt. Ban ngày, hắn giám sát vợ chặt chẽ, thậm chí theo gót vợ trong các phố xá ở Môngmactơrơ.

- Lúc nào cũng để tai để mắt, thế đấy. Đó là một thằng cha du côn đếch chịu ai xơ múi gì của hắn.

Nhưng lời mách bảo ấy của Gien Pôn chỉ đưa đến kết quả làm cho Đuytiơn sôi lên sùng sục. Hôm sau, gặp người thiếu phụ ở phố Tôlôdê, chàng không ngần ngại theo chân nàng vào một cửa hiệu bơ sữa, và trong lúc nàng đợi đến lượt mua hàng, chàng bảo nàng là chàng yêu nàng, là chàng biết hết: anh chồng vũ phu, cửa ra vào khóa và những cửa chớp, nhưng chàng sẽ vào trong buồng của nàng ngay tối hôm ấy. Cô nàng tóc hung đỏ dừ mặt, bình đựng sữa run lên bần bật trong tay và, đôi mắt rơm rớm thân thương, nàng khẽ thở dài: "Chao ôi! Thưa ông, vào thế nào được".

Buổi tối cái ngày rạng rỡ ấy, khoảng mười giờ, Đuytiơn đứng chực sẵn trong phố Norvanh và giám sát bức tường bao quanh kiên cố, bên trong là một ngôi nhà nhỏ mà chàng chỉ nhìn thấy cái chong chóng báo hướng gió và chiếc ống khói. Một cánh cửa mở ra trong bức tường ấy và một người đàn ông, sau khi khóa cửa cẩn thận, đi xuôi về phía đại lộ Giuynô. Đuytiơn đợi cho tới khi thấy hắn đi khuất hẳn, rất xa, ở chỗ dốc ngoặt, lại còn đếm thêm từ một đến mười. Rồi chàng lao tới, tiến bước đi vào tường và tiếp tục chạy xuyên qua các vật cản, vào tận trong buồng của người đẹp bị cầm cố. Nàng đón tiếp chàng say sưa ngây ngất và họ yêu nhau cho đến một giờ khuya.

Hôm sau, Đuytiơn nhức đầu như búa bổ. Cái đó chẳng quan trọng và chàng sẽ chẳng vì chuyện cỏn con mà lỡ cuộc hẹn hò. Tuy nhiên, tình cờ phát hiện thấy những viên con nhộng vương vãi dưới đáy một chiếc ngăn kéo, chàng nuốt sáng một viên, chiều một viên. Tối đến, đỡ nhức đầu hơn, alị thêm niềm hứng khởi khiến chàng quên chúng đi. Thiếu phụ đợi chàng với tất cả nỗi sốt ruột mà những ký ức đêm qua đã làm nẩy sinh ở nàng và họ yêu nhau, đêm ấy, đến tận ba giờ sáng. Lúc ra về, khi đi xuyên qua các vách ngăn và tường nhà, Đuytiơn cảm thấy có sự cọ sát bất thường ở hai bên háng và vai. Tuy nhiên chàng thiết nghĩ chẳng cần phải để tâm làm gì. Chỉ đến khi đi xuyên vào trong bức tường bao quanh, chàng mới thấy rõ rệt cảm giác bị cản lại. Chàng như cựa quậy trong một vật thể còn lỏng, nhưng nó trở thành nhão sệt và mỗi lần chàng ráng sức, nó lại dẻo quánh thêm. Khi đã dấn được người hoàn toàn vào trong bề dầy của những bức tường, chàng nhận thấy không tiến lên được nữa và khiếp đảm nhớ đến hai viên thuốc nhộng uống trong ngày. Những viên nhộng ấy, mà chàng tưởng là thuốc cảm, thực ra là bột piret hóa trị bốn của bác sĩ kê thuốc năm trước. Hiệu lực của chất thuốc ấy cộng với hiệu quả của lao lực thái quá bộc lộ ra một cách đột ngột.

Đuytiơn như đông cứng lại ở trong tường. Hiện nay chàng vẫn còn ở đấy, lẫn vào trong đá. Những người hay đi chơi đêm khi xuôi phố Norvanh vào giờ huyên náo của Pari đã lắng xuống, nghe thấy một âm thanh mơ hồ như từ dưới mồ vọng lên mà họ tưởng là tiếng gió thở than thổi ở các ngã ba ngã tư của Gò (7). Đó là Garu-Garu Đuytiơn than vãn cuộc đời vẻ vang đã kết thúc và luyến tiếc mối tình quá ngắn ngủi. Có những đêm đông, họa sĩ Gien Pôn tháo cây đàn ghi-ta xuống, mạo hiểm dấn bước vào chốn hiu quạnh âm vang của phố Norvanh để ca hát an ủi người tù khốn khổ, và những tiếng đàn vút lên từ các ngón tay tê cóng của ông thấm vào tận lòng đá như những giọt sáng trăng.



Chú thích

(1) nghỉ ngày thứ 7 và chủ nhật

(2) Nguyên văn: Garou!garou! Un poil de loup!(rire). Il rôde un frisson à décorner tous les hiboux (rire). Nghĩa là: Ma chó sói!ma chó sói! Một cái lông chó sói! (cười). Một cơn lạnh vật vờ đến làm rụng sừng tất cả những con cú (cười). Tôi dịch thoát để giữ âm điệu.

(3) Nguyên văn: livre (nửa ki-lô)

(4) Hữu ngạn sông Seine

(5) Buyêcđigala(Burdigala) là tên cũ của thành phố Bordeaux , theo chú thích của L.Vindt trong Marcel Aymé: Contes et nouvelles, Tiến bộ., Maxcơva, 1967. Các chú thích trong sách này phần nhiều là dựa vào tài liệu ấy.

(6) Gen Paul là bút danh của họa sĩ hiện đại Pháp Eugène Daul(sinh năm 1895), bạn của Marcel Ayme.

(7) Gò Môngmactơrơ.

HẾT
 
×
Quay lại
Top Bottom