truongcanhht
Thành viên
- Tham gia
- 13/3/2013
- Bài viết
- 1
Mỗi loại hình doanh nghiệp đều có đặc trưng cũng như ưu – nhược điểm riêng và sẽ đem lại cho chủ đầu tư những lợi thế khác nhau phụ thuộc vào nhu cầu, năng lực của mỗi chủ đầu tư như: khả năng huy động vốn và chia sẻ rủi ro trong kinh doanh, tổ chức quản lý và chi phí hoạt động…
Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) và công ty cổ phần là 2 loại hình doanh nghiệp phổ biến hoạt động tại Việt Nam. Đối với công ty TNHH được tổ chức dưới 2 hình thức là công ty TNHH 1 thành viên và công ty TNHH từ 2 đến 50 thành viên (sau đây gọi là công ty TNHH 2 thành viên trở lên).
Công ty TNHH 1 thành viên là một hình thức đặc biệt của công ty TNHH nên quy chế cũng như ưu nhược điểm của công ty TNHH 1 thành viên sẽ không được đề cập trong bài viết này.
Công ty TNHH 2 thành viên trở lên và công ty cổ phần khi thành lập đều có tư cách pháp nhân nhưng giữa chúng lại tồn tại nhiều điểm khác biệt. Chính những điểm khác biệt này đã tạo nên đặc trưng cũng như ưu, nhược điểm riêng cho từng loại hình.
Số lượng thành viên
Công ty TNHH 2 thành viên trở lên là loại hình công ty gồm tối thiểu 2 thành viên và tối đa không quá 50 thành viên góp vốn thành lập và mỗi thành viên sẽ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn góp của mình. Cần lưu ý thành viên của công ty có thể là tổ chức hoặc cá nhân.
Công ty TNHH là một loại hình doanh nghiệp vừa mang tính đối vốn, vừa mang tính đối nhân. Điều này có nghĩa là vốn góp không phải là sợi dây liên kết duy nhất giữa các thành viên công ty TNHH mà họ còn liên kết nhau bởi mối quan hệ thân quen vì thành viên công ty TNHH thường là những người đã quen biết nhau, tin tưởng lẫn nhau, cùng nhau góp vốn thành lập công ty. Vì vậy, việc quản lý, điều hành công ty không quá phức tạp.
Thành viên công ty cổ phần được gọi là cổ đông. Cổ đông công ty cổ phần cũng có thể là tổ chức hoặc cá nhân tương tự như công ty TNHH. Tuy nhiên công ty cổ phần bắt buộc phải có ít nhất 3 cổ đông và không hạn chế số lượng tối đa. Điều này xuất phát từ việc công ty cổ phần là một công ty đối vốn, số lượng cổ đông càng nhiều thì mức vốn huy động càng cao, đây được xem là ưu điểm nổi trội của công ty cổ phần so với công ty TNHH. Tuy nhiên chính vì tính chất đối vốn nên quyền quyết định và giải quyết các vấn đề trong công ty đều dựa trên tỉ lệ vốn góp của mỗi cổ đông, do đó vấn đề quản lý, điều hành công ty cổ phần hết sức phức tạp đặc biệt là đối với người nắm quyền quản trị công ty.
Ví dụ: A là chủ tịch hội đồng quản trị một công ty cổ phần đang năm giữ 30% số cổ phần của công ty. B cũng là 1 thành viên của công ty, B đang nắm giữ 28% cổ phần. Chỉ cần B huy động, mua lại được thêm 3% cổ phần nữa thì có thể giành lấy quyền quản lý điều hành công ty từ tay A.
Cơ cấu tổ chức
Công ty TNHH 2 thành viên trở lên có Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Công ty TNHH có từ 11 thành viên trở lên phải thành lập Ban kiểm soát; trường hợp có ít hơn 11 thành viên, có thể thành lập Ban kiểm soát phù hợp với yêu cầu quản trị công ty. Quyền, nghĩa vụ, tiêu chuẩn, điều kiện và chế độ làm việc của Ban kiểm soát, Trưởng ban kiểm soát do Điều lệ công ty quy định. Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty.
Công ty cổ phần có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Đối với công ty cổ phần có trên 11 cổ đông là cá nhân hoặc tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty phải có Ban kiểm soát. Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty được quy định tại Điều lệ công ty.
Khi quy mô công ty cổ phần nhỏ, số lượng cổ đông ít, thường không có sự tách bạch giữa chủ sở hữu và người điều hành trực tiếp, mà các cổ đông thường đồng thời là người điều hành công ty, tức là Đại hội đồng cổ đông sẽ đồng thời là thành viên của Hội đồng quản trị.
Đối với công ty quy mô lớn hơn, số lượng cổ đông nhiều hơn, việc điều hành và quản lý công ty trở nên phức tạp và do đó, cần có một đội ngũ quản trị chuyên nghiệp. Từ đây, người điều hành trực tiếp công ty có thể không đồng thời là chủ sở hữu công ty. Chính vì sự phức tạp trong quá trình quản lý công ty; quan hệ giữa các cổ đông và cần minh bạch mối quan hệ giữa chủ sở hữu - người điều hành trực tiếp công ty cổ phần mà Ban kiểm soát được thành lập.
Lưu ý rằng đối với cả 2 loại hình công ty này, người đại diện theo pháp luật của công ty phải thường trú ở Việt Nam; trường hợp vắng mặt trên 30 ngày ở Việt Nam thì phải uỷ quyền bằng văn bản cho người khác theo quy định tại Điều lệ công ty để thực hiện các quyền và nhiệm vụ của người đại diện theo pháp luật của công ty.
Vốn và khả năng huy động, chuyển nhượng vốn
Vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần còn vốn của công ty TNHH không được chia ra thành từng phần mà tính theo tỉ lệ phần trăm vốn góp của từng thành viên.
Khả năng huy động vốn của công ty cổ phần cao hơn nhiều so với công ty TNHH hữu hạn thông qua việc phát hành cổ phần ra công chúng dưới dạng chứng khoán hoặc phát hành trong nội bộ công ty. Chính vì vậy cơ cấu vốn của công ty cổ phần hết sức linh hoạt. Việc phát hành cổ phiếu ra công chúng xem là một điểm mạnh đồng thời cũng là điểm yếu của công ty cổ phần. Một mặt sẽ giúp công ty huy động được nguồn vốn lớn, mặt khác giá cổ phiếu sẽ được niêm yết trên sàn, giá cổ phiếu phần nào phản ánh được tình hình kinh doanh của công ty một cách chân thật đến công chúng.
Việc chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên công ty TNHH cho người ngoài công ty bị hạn chế gắt gao. Phải chào bán phần vốn góp cho các thành viên trong công ty trước, nếu công ty hoặc các thành viên của công ty không mua hoặc mua không hết trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày chào bán, thì mới được chào bán ra bên ngoài. Việc chuyển nhượng vốn chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của nhóm thành viên đại diện cho ít nhất 75% số vốn điều lệ của công ty. Quy định này đã hạn chế được sự thâm nhập của người ngoài vào công ty nên hoạt động của công ty TNHH cũng như các bí mật kinh doanh của công ty được bảo mật ở mức độ cao, điều này cũng thể hiện rõ tính chất đối nhân của loại hình này.
Trong khi đó, các cổ đông công ty cổ phần được tự do chuyển nhượng cổ phần của mình, trừ trường hợp chuyển nhượng cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập cho người không phải là cổ đông sáng lập trong 3 năm đầu tiên kể từ khi được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. Với quy định này, mặc dù các cổ đông có thể duy trì tính thanh khoản của cổ phiếu và có thể chuyển nhượng các cổ phiếu một cách thuận tiện khi họ cần tiền mặt nhưng nó lại tạo ra một rủi ro rất lớn trong hoạt động của công ty cổ phần khi mà không hạn chế được tình trạng thâm nhập của người lạ vào công ty và khó bảo toàn được thông tin kinh doanh. Bản chất đối vốn của công ty cổ phần được thể hiện ở điểm này, khi mà cơ chế huy động, lưu thông vốn được đề cao hơn.
Phạm vi chịu trách nhiệm
Phạm vi chịu trách nhiệm được xem là yếu tố được các nhà đầu tư quan tâm hàng đầu khi lựa chọn hình thức thành lập doanh nghiệp bởi lẽ nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của họ khi hoạt động kinh doanh của công ty gặp rủi ro.
Phạm vi chịu trách nhiệm của thành viên công ty TNHH và cổ đông công ty cổ phần đều mang tính “hữu hạn”. Như đã nói ở trên, thành viên công ty TNHH chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Tương tự, cổ đông công ty cổ phần chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu. Điều này có nghĩa, nếu nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty lớn hơn khoản mà các thành viên đã cam kết góp vào thì họ không có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm đối với khoản chênh lệch giữa phần nợ và phần vốn đã góp.
Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) và công ty cổ phần là 2 loại hình doanh nghiệp phổ biến hoạt động tại Việt Nam. Đối với công ty TNHH được tổ chức dưới 2 hình thức là công ty TNHH 1 thành viên và công ty TNHH từ 2 đến 50 thành viên (sau đây gọi là công ty TNHH 2 thành viên trở lên).
Công ty TNHH 1 thành viên là một hình thức đặc biệt của công ty TNHH nên quy chế cũng như ưu nhược điểm của công ty TNHH 1 thành viên sẽ không được đề cập trong bài viết này.
Công ty TNHH 2 thành viên trở lên và công ty cổ phần khi thành lập đều có tư cách pháp nhân nhưng giữa chúng lại tồn tại nhiều điểm khác biệt. Chính những điểm khác biệt này đã tạo nên đặc trưng cũng như ưu, nhược điểm riêng cho từng loại hình.
Số lượng thành viên
Công ty TNHH 2 thành viên trở lên là loại hình công ty gồm tối thiểu 2 thành viên và tối đa không quá 50 thành viên góp vốn thành lập và mỗi thành viên sẽ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn góp của mình. Cần lưu ý thành viên của công ty có thể là tổ chức hoặc cá nhân.
Công ty TNHH là một loại hình doanh nghiệp vừa mang tính đối vốn, vừa mang tính đối nhân. Điều này có nghĩa là vốn góp không phải là sợi dây liên kết duy nhất giữa các thành viên công ty TNHH mà họ còn liên kết nhau bởi mối quan hệ thân quen vì thành viên công ty TNHH thường là những người đã quen biết nhau, tin tưởng lẫn nhau, cùng nhau góp vốn thành lập công ty. Vì vậy, việc quản lý, điều hành công ty không quá phức tạp.
Thành viên công ty cổ phần được gọi là cổ đông. Cổ đông công ty cổ phần cũng có thể là tổ chức hoặc cá nhân tương tự như công ty TNHH. Tuy nhiên công ty cổ phần bắt buộc phải có ít nhất 3 cổ đông và không hạn chế số lượng tối đa. Điều này xuất phát từ việc công ty cổ phần là một công ty đối vốn, số lượng cổ đông càng nhiều thì mức vốn huy động càng cao, đây được xem là ưu điểm nổi trội của công ty cổ phần so với công ty TNHH. Tuy nhiên chính vì tính chất đối vốn nên quyền quyết định và giải quyết các vấn đề trong công ty đều dựa trên tỉ lệ vốn góp của mỗi cổ đông, do đó vấn đề quản lý, điều hành công ty cổ phần hết sức phức tạp đặc biệt là đối với người nắm quyền quản trị công ty.
Ví dụ: A là chủ tịch hội đồng quản trị một công ty cổ phần đang năm giữ 30% số cổ phần của công ty. B cũng là 1 thành viên của công ty, B đang nắm giữ 28% cổ phần. Chỉ cần B huy động, mua lại được thêm 3% cổ phần nữa thì có thể giành lấy quyền quản lý điều hành công ty từ tay A.
Cơ cấu tổ chức
Công ty TNHH 2 thành viên trở lên có Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Công ty TNHH có từ 11 thành viên trở lên phải thành lập Ban kiểm soát; trường hợp có ít hơn 11 thành viên, có thể thành lập Ban kiểm soát phù hợp với yêu cầu quản trị công ty. Quyền, nghĩa vụ, tiêu chuẩn, điều kiện và chế độ làm việc của Ban kiểm soát, Trưởng ban kiểm soát do Điều lệ công ty quy định. Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty.
Công ty cổ phần có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Đối với công ty cổ phần có trên 11 cổ đông là cá nhân hoặc tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty phải có Ban kiểm soát. Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty được quy định tại Điều lệ công ty.
Khi quy mô công ty cổ phần nhỏ, số lượng cổ đông ít, thường không có sự tách bạch giữa chủ sở hữu và người điều hành trực tiếp, mà các cổ đông thường đồng thời là người điều hành công ty, tức là Đại hội đồng cổ đông sẽ đồng thời là thành viên của Hội đồng quản trị.
Đối với công ty quy mô lớn hơn, số lượng cổ đông nhiều hơn, việc điều hành và quản lý công ty trở nên phức tạp và do đó, cần có một đội ngũ quản trị chuyên nghiệp. Từ đây, người điều hành trực tiếp công ty có thể không đồng thời là chủ sở hữu công ty. Chính vì sự phức tạp trong quá trình quản lý công ty; quan hệ giữa các cổ đông và cần minh bạch mối quan hệ giữa chủ sở hữu - người điều hành trực tiếp công ty cổ phần mà Ban kiểm soát được thành lập.
Lưu ý rằng đối với cả 2 loại hình công ty này, người đại diện theo pháp luật của công ty phải thường trú ở Việt Nam; trường hợp vắng mặt trên 30 ngày ở Việt Nam thì phải uỷ quyền bằng văn bản cho người khác theo quy định tại Điều lệ công ty để thực hiện các quyền và nhiệm vụ của người đại diện theo pháp luật của công ty.
Vốn và khả năng huy động, chuyển nhượng vốn
Vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần còn vốn của công ty TNHH không được chia ra thành từng phần mà tính theo tỉ lệ phần trăm vốn góp của từng thành viên.
Khả năng huy động vốn của công ty cổ phần cao hơn nhiều so với công ty TNHH hữu hạn thông qua việc phát hành cổ phần ra công chúng dưới dạng chứng khoán hoặc phát hành trong nội bộ công ty. Chính vì vậy cơ cấu vốn của công ty cổ phần hết sức linh hoạt. Việc phát hành cổ phiếu ra công chúng xem là một điểm mạnh đồng thời cũng là điểm yếu của công ty cổ phần. Một mặt sẽ giúp công ty huy động được nguồn vốn lớn, mặt khác giá cổ phiếu sẽ được niêm yết trên sàn, giá cổ phiếu phần nào phản ánh được tình hình kinh doanh của công ty một cách chân thật đến công chúng.
Việc chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên công ty TNHH cho người ngoài công ty bị hạn chế gắt gao. Phải chào bán phần vốn góp cho các thành viên trong công ty trước, nếu công ty hoặc các thành viên của công ty không mua hoặc mua không hết trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày chào bán, thì mới được chào bán ra bên ngoài. Việc chuyển nhượng vốn chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của nhóm thành viên đại diện cho ít nhất 75% số vốn điều lệ của công ty. Quy định này đã hạn chế được sự thâm nhập của người ngoài vào công ty nên hoạt động của công ty TNHH cũng như các bí mật kinh doanh của công ty được bảo mật ở mức độ cao, điều này cũng thể hiện rõ tính chất đối nhân của loại hình này.
Trong khi đó, các cổ đông công ty cổ phần được tự do chuyển nhượng cổ phần của mình, trừ trường hợp chuyển nhượng cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập cho người không phải là cổ đông sáng lập trong 3 năm đầu tiên kể từ khi được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. Với quy định này, mặc dù các cổ đông có thể duy trì tính thanh khoản của cổ phiếu và có thể chuyển nhượng các cổ phiếu một cách thuận tiện khi họ cần tiền mặt nhưng nó lại tạo ra một rủi ro rất lớn trong hoạt động của công ty cổ phần khi mà không hạn chế được tình trạng thâm nhập của người lạ vào công ty và khó bảo toàn được thông tin kinh doanh. Bản chất đối vốn của công ty cổ phần được thể hiện ở điểm này, khi mà cơ chế huy động, lưu thông vốn được đề cao hơn.
Phạm vi chịu trách nhiệm
Phạm vi chịu trách nhiệm được xem là yếu tố được các nhà đầu tư quan tâm hàng đầu khi lựa chọn hình thức thành lập doanh nghiệp bởi lẽ nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của họ khi hoạt động kinh doanh của công ty gặp rủi ro.
Phạm vi chịu trách nhiệm của thành viên công ty TNHH và cổ đông công ty cổ phần đều mang tính “hữu hạn”. Như đã nói ở trên, thành viên công ty TNHH chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Tương tự, cổ đông công ty cổ phần chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu. Điều này có nghĩa, nếu nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty lớn hơn khoản mà các thành viên đã cam kết góp vào thì họ không có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm đối với khoản chênh lệch giữa phần nợ và phần vốn đã góp.