tyrannosaurus
Thành viên
- Tham gia
- 15/1/2025
- Bài viết
- 4
.PHẦN MỞ ĐẦU.
***Đức thầy Zilot được tôn sùng như một vị thần, và cả làng đều tin Đức thầy là thần – vị thần của hòa bình, là Đức Mẹ Uvengam tái thế. Nhiều lần đi ngang đền, tôi thấy Đức thầy luôn luôn an tọa trên cái ghế què chân trong căn phòng trên tầng bốn, ngồi im như một bức tượng Thánh.
Từ khi Đức thầy xuất hiện, cuộc sống bỗng đổi khác. Hoặc cho đến tận bây giờ tôi mới nhận ra mình đã được sinh ra và đang sống. Không còn tiếng mài gươm dao xèn xẹt, không còn tiếng lách cách đan lưới kèm những tiếng thở dài, không còn tiếng kìm nén của những giọt nước mắt rơi trong đêm. Lần đầu tiên những người đàn bà nhìn mặt nhau, cười với nhau, và cùng nhau tụ tập ở giếng Chung để giặt giũ. Lần đầu tiên, những chàng trai biết làm một việc gì khác hơn là rèn luyện chém giết đánh đấm. Họ kéo nhau vào rừng, kiếm những thân cây gỗ to để sửa sang nhà cửa, săn những con thú để nấu ăn cho lễ hội Trăng Tròn. Và lần đầu tiên họ được con gái hôn. Những cô gái đầu tiên trong làng được làm đám cưới, được đội vòng hoa và được làm mẹ.
Một trại trẻ mồ côi được xây dựng để những người góa phụ mất cả chồng lẫn con nuôi dạy những đứa trẻ mất cha mất mẹ. Hằng đêm, những đứa trẻ được nghe kể về câu chuyện mà Đức thầy Zilot đã kể ngày Đức thầy đến. Chúng học thuộc câu chuyện như một bài kinh.
…
Một ngày nọ, bọn Gapos lại đến, những lá cờ đen có hình lưỡi kiếm phấp phới đằng xa. Tôi đang định chạy ra bãi biển, gào lũ trẻ mồ côi đang cào hến phải quay về ngay, cũng như kêu gọi trai tráng trong làng chuẩn bị, thì Đức thầy cản tôi lại: “Con yêu, hãy nghênh chiến với thế lực bạo tàn bằng sự ngây thơ trong trắng.”.
Và tôi đã thôi không chạy ra đó nữa.
Nhiều đợt gió thổi qua. Lũ trẻ con ngây thơ trong trắng ấy vẫn đang mải miết cào hến. Cái xô của chúng ngày càng đầy, chúng càng làm càng hăng, những cánh buồm màu khói mỗi lúc một gần. Khi tiếng cười lanh lảnh của những đứa trẻ rộn vang, và chúng đang rủ nhau đi về, những mũi tên từ trên khoang được bắn ra, găm vào ngực chúng nó. Chúng nó ngã xuống ngay tắp lự, không gào thét, không khóc nháo, cũng không hối tiếc thù hằn điều gì.
Thế là… những đứa trẻ đã chết…
Tôi trợn trừng mắt, quay lại nhìn Đức thầy Zilot – cười, cái rãnh híp tịt long lanh của lão vẫn cong cong, như thể cái chết của lũ trẻ con là một điều gì thật khôi hài. Nhưng lý trí tôi biết nụ cười đó không khôi hài như thế. Có phải vì không thể khóc, không thể trưng ra vẻ mặt ghê tởm hay kinh hãi, nên Đức thầy mới cười… Và điều đó càng khiến tôi cảm thấy khôi hài không thể giải thích được. Tôi muốn giằng ra đạp một cú thật mạnh vào mặt cái lão tâm thần ấy. Và ngay lúc tôi chuẩn bị làm một cú thật gọn để hạ lão, lão giơ bàn tay trái lên, trông đến là hiền từ, như thể lão tha thứ cho nỗi căm phẫn của tôi. Tôi lại hạ đầu gối xuống…
Từ phía sau lưng Đức thầy Zilot, lớp lớp những người dân của Nixventy bước ra. Trên vai họ là những thùng nước ngọt đầy ự. Nước chảy ra rờn rợt. Những con người cứ bước đi như một đoàn quân địa ngục, từ thanh niên, tới những bà mẹ, tới những cô gái, và cả những đứa trẻ không đi cào hến. Cúi gằm. Lầm lũi. Nhưng thay vì gương mặt bị dày vò, thay vì những đáy mắt thống khổ, họ lộ rõ vẻ lạnh lùng.
Họ bước qua xác những đứa trẻ, dẫm lên mình mẩy, tay chân của chúng. Họ lững thững tiến tới phía những con thuyền, không một phòng bị gì. Họ đưa cho lũ Gapos những thùng nước, người này đến người kia, hết thùng nước này đến thùng nước kia được chuyển lên khoang. Đến khi thùng nước cuối cùng được lũ Gapos trên thuyền đón lấy, vai họ mới thõng xuống, những vai áo sờn rách. Họ trở về cùng với lúc những con thuyền của Gapos nhổ neo rời đi – lúc hoàng hôn. Gương mặt họ đẫm nắng, đáy mắt họ sâu hun hút. Họ cứ lững thững đi như một binh đoàn thua trận.
Đức thầy Zilot thả tôi ra. Tôi vẫn không thể tung một cước nào vào ông ta, tôi sụp xuống, chẳng thế ú ớ điều gì. Và…thế là hết. Tôi cảm thấy thật trống rỗng.
Đức thầy Zilot lại lững thững trở về ngôi đền, với phong thái như ngày đầu ông ta đến, và người dân cũng lục tục đi theo ông ta về phía ngôi đền - như ngày đầu ông ta đến.
Tôi đếch thèm nghe lão ta thuyết giảng điều gì nữa! Tôi đi nhặt xác những đứa trẻ, cảm thấy đau đớn hơn cả việc chứng kiến hàng loạt trai tráng hy sinh sau mỗi trận chiến. Tôi vô thức lần theo dấu những giọt nước đọng chưa khô, bất chợt từ những giọt nước vang lên giọng nó sang sảng của Đức thầy Zilot: “Hãy chào đón sự tham lam bằng tấm lòng rộng lượng!”. Tôi chà đế giày thật mạnh lên những giọt nước ấy… Tôi đang sống một cuộc sống thế này ư?
Lần đầu tiên sau hàng thế kỷ kể từ lần đầu tiên lũ Gapos tiến hành những cuộc xâm lăng, Nixventy đổ máu ít thế này, lần đầu tiên, không có người lính nào hy sinh cả, những người chồng vẫn trở về với vợ, những người cha vẫn trở về với con, những chàng trai vẫn trở về với mẹ. Ngày kia lễ hội Trăng Tròn vẫn diễn ra, lấp lánh ánh đuốc bập bùng, người ta lại vui vẻ huyên náo…
Đây có phải là hòa bình không?
Một tối nọ, tôi nói với mẹ trong bữa cơm, chờ đợi một cái bạt tai: “Mẹ, Đức thầy Zilot không phải một người đáng tin. Hắn ta đang tẩy não cả làng. Tất cả những gì hắn tiêm nhiễm cho chúng ta về hòa bình thật là lố bịch! Hẳn mẹ cũng phải nhận ra chứ?!”
Mẹ tôi khựng lại, nhìn tôi bàng hoàng và bối rối lắc đầu. Mẹ nhìn tôi như thể nhìn thấy tận thế. Mẹ gằn giọng nói thật nhỏ, tiếng nghe như gió rít: “Đừng nói vậy, con! Ăn đi! Con tập trung ăn đi!”.
“Mẹ! Mẹ hãy thử suy ngh…”.
Mẹ đặt cái thìa thật mạnh xuống bàn, người mẹ gần như run nảy lên và nhìn tôi gay gắt: “ĂN! Mẹ đã bảo con tập trung ăn đi mà! Ăn xong thì ra ngoài đi quanh quẩn cho nó tỉnh ra đi.”
Tôi không muốn cãi mẹ, và tôi cũng chẳng muốn ăn. Tôi hậm hực lao thẳng ra ngoài bóng tối. Nhưng chợt tôi dừng ở ngưỡng cửa, tôi nói với mẹ như thể phun ra điều đó: “Mẹ, đã hòa bình chưa?”
Chưa kịp để mẹ trả lời, tôi đã vùng vằng xông ra khỏi nhà. Trước mắt tôi chỉ toàn là bóng tối. Và mặc kệ việc nhà ngay sát bìa rừng, bất kể loại thú săn nào cũng có thể xộc ra và tợp tôi, tôi vẫn cứ dấn về phía trước không thể dừng lại được. Trong đầu chẳng nghĩ gì. Tôi đi theo ánh sáng được chiếu ra từ đền Nix, nơi mà Đức thầy Zilot đang an tọa trên chiếc ghế què chân. Có lẽ hắn sẽ trả lời cho tôi, dù hắn đã khiến tôi tự tìm thấy câu trả lời cho mình. Nhưng liệu ai là kẻ đúng đắn? Hòa bình và đổ máu, hòa bình và không đổ máu, hòa bình và nô lệ. Thế nào là hòa bình? Và thế nào là chiến tranh?
Bất ngờ, có tiếng bước chân chạy tới, hai cánh tay vươn ra từ bóng tối và bất ngờ chộp lấy tôi. Tôi định hét lên… Nhưng hóa ra đó là mẹ.
“Chúng ta phải sống. Mẹ cần con phải sống. Mẹ chẳng mong gì thấy hòa bình nữa, mẹ chỉ muốn con ở bên mẹ thôi. Sẽ thế nào nếu chúng ta cứ đánh nhau mà chết trong vô vọng? Con có hiểu không? Gapos không cần máu của chúng ta, họ chỉ cần nước, vì hòn đảo của họ không có nước. Vậy nếu chúng ta cho họ nước, họ sẽ không đánh chúng ta, và con sẽ ở bên mẹ. Mẹ xin con! Đánh nhau thì có được gì đâu.” – Mẹ giữ chặt tôi lại, nức nở.
Tôi chưa từng biết mẹ đã già đến thế, vòng tay mẹ đã chẳng thể ghì siết lấy tôi như ngày xưa khi mẹ ôm tôi dưới hầm trú ẩn, nhưng tôi không thể vùng ra được.