KHÔ CẰN [3]

tyrannosaurus

Thành viên
Tham gia
15/1/2025
Bài viết
3
.PHẦN MỞ ĐẦU.

*** Đức thầy Zilot

Năm 215, khi chúng tôi vừa đuổi được một toán Gapos tới cướp phá, và một toán khác lại sắp tràn vào. Bất ngờ, vào một ngày được yên thân, một thằng oắt xa lạ chạy từ phía cánh cổng Nix, mặt nó cứ hơn hớn lên. Lâu lắm rồi chúng tôi mới nghe thấy tiếng trẻ con reo:
“Đức thầy Zilot đến! Đức thầy Zilot cứu rỗi chúng ta!”
Giọng nói lanh lảnh và trong trẻo hết sức của đứa trẻ phá tan những tiếng dao kiếm và búa rìu ầm ầm trong đôi tai của tôi – khi ấy, đã là một chàng thanh niên 15 tuổi, đã kinh qua vài trận chiến. Bọn trai tráng trong làng đang tập võ cũng ngơi tay, mấy bà mẹ đang ngồi đan lưới cũng ngẩng mặt lên. Nắng chiếu lên gương mặt đã già nua với những nếp nhăn khô cằn trên mặt các mẹ, và làm bóng lên những vết xước sẹo lồi lõm trên người bọn con trai. Nắng tắm lên ngôi làng chúng tôi, lần đầu tiên tươi sáng như thế kể từ khi tôi nhận thức được.
Đứa trẻ lại nhảy chân sáo khắp làng, vừa cười toe toét vừa rao: “Đức thầy Zilot đến! Đức thầy Zilot đến!”. Nó đã đi tới gần cuối làng, nhưng Đức thầy Zilot thì cứ đi lững thững và chậm chạp trên con đường dẫn vào làng. Thế là cả làng bỏ công bỏ trạng đổ xô ra để đón thầy, hoặc là không kìm được tò mò. Tôi cũng chen ra xem Đức thầy Zilot là ai mà lại có thể gội sạch những cặn bẩn chiến tranh trên người chúng tôi chỉ bằng danh tiếng. Hay những con người nơi đây đã ngáp ngoải giữa bể máu quá lâu, có cọng rơm dạt trên nước cũng phải nắm lấy cho bằng được.
Đức thầy cứ đi cho thật chậm, mặc kệ những ánh mắt săm soi láo nháo của người dân. Đức thầy có dáng người phốp pháp, mặc một chiếc áo thụng trơn vá vai và sẫm màu, đi chân trần và đi rất chậm. Trên vai trái của Đức thầy là một cái tay nải vừa cỡ. Đức thầy có đôi mắt híp lại thành hai cái rãnh đen lay láy, rất tiệp với cái miệng mỏng khép chặt và cười mỉm. Gương mặt Đức thầy vừa hòa nhã, nhưng cũng vừa lạnh lùng. Tôi đã đồ rằng thầy ngót 60. Nhưng nhìn được một lúc lâu, tôi lại thấy con người này không thể xác định tuổi tác một cách dễ dàng như thế được. Đức thầy có nước da trắng ngần và căng bóng, nổi bần bật lên như một vì sao rơi xuống vũng bùn. Thầy có vẻ trẻ hơn cả những chàng trai hai bốn, nhưng vẻ uyên bác và bình thản của thầy khiến thầy trở lên già hơn tất cả những người trong làng - đen đúa và luộm thuộm.
Dân làng nhìm chằm chằm Đức thầy, mắt trợn tướng lên trong khi đôi mắt thầy cứ híp tịt và nụ cười mỉm cứ như in lên trên gương mặt thầy, không hề suy suyển. Họ cứ nhìn, và ngoái cổ để nhìn tiếp khi Đức thầy đã đi qua. Khi Đức thầy đã bước quá dòng người và vẫn không có dấu hiệu dừng lại, người dân lục tục đi theo Đức thầy. Đức thầy đi tới phía đền Nix, người dân nối dài đằng sau như một đàn trâu bước theo người du mục. Nắng huýt sáo lảnh lót trong gió, chiều tàn có màu như tinh mơ.
Đức thầy leo hẳn lên tầng bốn của ngôi đền, an tọa trên một chiếc ghế gỗ mọt khập khiễng. Người dân cũng leo lên theo, ngồi bu xung quanh Đức thầy. Căn phòng chẳng lớn hơn cái miệng giếng là bao, nồng lên mùi muối và mồ hôi mặn chát của người dân, và mùi gì như gió của Đức thầy Zilot.
Người dân lại trố mắt ra nhìn Đức thầy, người mà bây giờ họ có thể nhìn rõ hơn bao giờ hết. Họ có thể quan sát những sợi lông tơ được nắng chiếu ánh lên trên gương mặt điềm đạm của con người ấy.
Đức thầy mở đôi mắt của mình ra, trông chẳng khác mấy lúc mắt thầy híp lại. Thầy không cười, thầy bắt đầu nói với giọng ồm ồm, từ tốn, vừa nghe. Giọng thầy vang lên trong tai mỗi người.
“Các con yêu của ta. Ta đã tường tận cuộc chiến dai dẳng của các con với những con người xứ lạ. Ta đã vuốt những đôi mắt của những người tử trận. Ta đã than khóc cùng các con trước thân xác những người cha, người chồng, người anh; cũng như ta đã than khóc cho họ khi các con không còn sức để khóc nữa. Ta đã cảm thấy sâu sắc và chân thật nhất nỗi đau của các con. Dù cho nỗi đau của ta không phải nỗi đau máu thịt, ta đã cảm thấy cơ thể mình bị cắt rời ra thành nhiều khúc, và chúng mãi mãi không liền được.
Và, hãy thứ lỗi cho ta, các con yêu dấu tội nghiệp bị thù hận giày vò lương tâm trong sáng. Ta cũng đã vuốt mắt cho những người tử trận của Gapos. Ta cũng đã khóc cùng những người mẹ, người vợ, người con, người em của Gapos trước thân xác những người cha, người chồng, người anh của họ, cũng như ta đã than khóc cả khi họ đã cạn dòng nước mắt. Ta cảm thấy sâu sắc và chân thật nỗi đau của họ. Dù nỗi đau của ta không phải nỗi đau máu thịt, ta đã cảm thấy cơ thể mình bị cắt rời ra thành nhiều khúc và mãi mãi không liền được.
Vậy các con thử nghĩ xem ta còn gì đây?”
Không ai trả lời câu hỏi của Đức thầy Zilot. Mọi người cứ nhìn chằm chằm thầy với ánh mắt xao động. Những cái miệng cứ mím chặt, nhưng đáy mắt họ xôn xao ồn ào quá. Đức thầy Zilot lại trưng ra vẻ mặt như khi thầy vừa đến làng, thầy ngồi im như một bức tượng.
Rồi thầy lại nói tiếp, như thể đã nghe thấu tất cả các câu trả lời mà đôi mắt dân làng đã tiết lộ cho thầy biết.
“Ta sẽ kể cho các con nghe một câu truyện thần thoại của thế giới này.”
Đáy mắt của người dân chợt yên tĩnh một cách lạ lùng, trong khi giọng Đức thầy Zilot vẫn vậy khi đùng một cái, thầy chuyển sang một chủ đề không liên quan. Thầy Zilot dừng lại, tạo một khoảng nghỉ trước khi kể một câu chuyện dài.
“Ngày xửa ngày xưa, khi con người chúng ta chưa xuất hiện, cũng như khi hành tinh này chẳng có gì ngoài nước biển, Mẹ Uvengam đã hạ sinh ba người con trai. Những người con trai được nuôi dưỡng bởi dòng sữa thần dồi dào đến từ ba bầu ngực của Mẹ.
Ban đầu, sữa của Mẹ được chia đều tới ba anh em. Nhưng người anh cả tham lam, tính tình vội vã và hiếu thắng, đã bú cạn dòng sữa của mình trước tiên và uống sang cả phần của người em trai. Nhờ vậy, người anh cả đã có được nhiều sức khỏe và sự thông minh nhất trong cả ba anh em. Những vùng sữa của người anh thứ bị người anh cả lấy đi biến thành những cục đá đen trên bầu ngực của người Mẹ. Người anh thứ tính tình nhu nhược, và yếu đuối, để người khác chi phối mình. Anh để người anh cả uống cạn sữa của mình mà không chống trả. Anh cũng sẵn lòng chia sẻ những cục đá đen cho người em út vô điều kiện. Anh không biết chút gì là lợi mình, chịu thiệt thòi vô lý, và dù ấm ức, anh cũng chẳng lên tiếng bao giờ. Bởi lẽ, người anh cả quá mạnh khỏe và thông minh, anh lại ngại người em út keo kiệt và hay dè dặt của mình. Đặc biệt hơn, người em út lại được mẹ rất mực yêu chiều và bảo vệ. Một mình cậu út được uống no nê sữa từ bầu ngực căng tròn nhất, dồi dào nhất mà không sợ bị hai anh giành lấy. Cậu cứ sống một cách vô tư. Và vì nhìn thấy tình trạng của hai người anh lớn, cậu nhất quyết lạnh lùng, không cho ai động vào một giọt.
Cảm thấy quyền lực của mình bị đe dọa, một ngày nọ, người anh cả bàn chuyện với người anh thứ. Anh cho rằng cậu em út đã quá được bảo bọc, sinh tính ích kỷ. Một mình cậu ta có sữa trong khi anh và người anh thứ đang dần chết khát. Anh cho rằng mình mới là người cần có nhiều sữa nhất. Người anh thứ nghe xong gật đầu lia lịa. Người anh cả thấy mình đã phần nào thu phục được đứa em trai nhu nhược, bèn bàn kế hoạch để lật đổ mẹ và cậu em út. Người anh cả đề nghị người anh thứ hãy cho mình những hòn đá đen mà cậu có được để rèn vũ khí, và khi chiến thắng (anh cho rằng nhất định mình sẽ thắng được), anh sẽ chia số sữa kiếm được cho người anh thứ. Người anh thứ nghe êm bụng, liền đồng ý ngay
Hai anh em đắc chí nhìn nhau, không biết rằng người em út đã nghe thấy tất cả. Vì sợ bị người anh cả mạnh khỏe và hiếu chiến đánh bại, nhân lúc người anh cả không để ý vì mải mê rèn gươm kiếm, người em út đã gọi người anh thứ lại để bàn tính kế hoạch, vì biết tính tên này ba phải và dễ bị thao túng. Người em út chỉ ra cho người anh trai đần độn của mình rằng chưa chắc người anh cả đã thắng, và chắc chắn kể cả có thắng thì người anh cả cũng sẽ không chia sữa cho người anh thứ đâu. Người anh thứ thoạt đầu khá bối rối, nhưng sau rồi lại thấy người em út nói hợp lý. Anh đồng ý với kế hoạch của người em út. Người em út sẽ chia sẻ cho người anh thứ số sữa, và đổi lại, người anh thứ sẽ cho em trai những cục đá đen.
Thế là người anh cả và người em út miệt mài rèn kiếm, gươm, khiên để chuẩn bị cho trận chiến quyết định. Trong khi người anh thứ vừa cung cấp đá cho cả hai bên, vừa nơm nớp lo sợ hành vi phản phé bị phác giác.
Mẹ Uvengam đã biết hết kế hoạch của ba anh em. Mẹ đau lòng không thôi nhưng không thể ngăn chặn những đứa con của mình. Mẹ còn đau lòng hơn vì sự bất công của mình đã dẫn tới cơ sự này. Phải làm gì để chuộc lại những người con thơ ngây, thiện lương và trong sáng như khi mẹ vừa hạ sinh chúng đây?
Cuộc chiến không thể trì hoãn của ba anh em đã diễn ra, bất chấp sự sợ hãi của người anh thứ và niềm đau đớn vô vàn của Mẹ Uvengam. Người anh cả - thân hình cường tráng, lẫm liệt với những cây kiếm đen sắt nhọn, những quả chì nặng hàng ngàn tấn để tấn công người em út, gầm lên một tiếng. Anh cầm một quả chì bằng cánh tay lực lưỡng vô song của mình, ném thẳng vào người em út. Người em út không chịu thua. Cậu đã rèn cho mình một chiếc khiên bất khả xâm phạm. Những quả chì bật lại phía người anh thứ, khiến anh phải vội vàng tránh né, nhưng cũng không may ăn mấy quả vào người. Hai anh em đánh nhau ngày này qua tháng nọ, cho tới khi kiệt sức không thể nhấc người dậy được nữa. Lúc này, người anh thứ mới lật đật chạy ra từ chỗ trốn, nhưng lại luống cuống không biết nên đến bên ai. Thấy thương thế của người anh cả nặng hơn, anh quyết định chạy tới chỗ người anh cả đang nằm. Anh ta dang tay thở hồng hộc, máu tuôn ra từ những vết thương.
Người anh cả ném quả chì nhẹ nhất về phía người anh thứ, vì anh chẳng đủ sức để cầm những quả to nữa. Người anh thứ ré lên, hốt hoảng thụp xuống. Anh quay ngoắt lại định tiến về phía em út – người có chiếc khiên có thể chống đỡ tất cả. Nhưng chưa kịp nhúc nhích, người anh cả đã rống lên: QUÂN MẤT DẠY! ĐỒ PHẢN CHỦ MẤT DẠY! MÀY CHỈ THẤY LỢI MÌNH LÀ XUN XOE MÀ THÔI! TAO THẬT ĐẦN ĐỘN KHI TIN TƯỞNG MÀY!
Người anh cả tức muốn nổ tung, nhưng không thể vác nổi bất kể thứ vũ khí nào nữa. Anh nhào lên, giáng một đòn trời giáng vào người anh thứ - kẻ phản bội mà anh căm thù. Người em út cũng không đủ sức để dùng tấm khiên của mình nữa, anh cũng nhào lên. Người anh cả và người em út đánh giáp lá cà, rung chuyển cả trời đất. Người anh thứ không tránh kịp, bị hai anh em kia lúc thì quăng lên, khi thì quật xuống, khi thì lỡ may gạt chân gạt tay trúng, ngáp ngoải thừa sống thiếu chết.
Mẹ Uvengam khóc nức nở thảm thương. Mẹ đâu ngờ rồi sẽ có ngày những đứa con của mẹ lại gây chiến tranh như thế này. Mẹ vò đầu bứt tóc, bỏ bê bản thân, Mẹ đau đớn và muốn xé mình ra thành trăm mảnh. Mẹ tức cái thói thiên vị của bản thân. Lại tức nỗi “Cha mẹ sinh con trời sinh tính”. Mẹ đâu có ngờ những tâm hồn thiện lương nhất rồi lại trở nên tham lam, xảo quyệt, nhu nhược, yếu đuối, ích kỷ, xấc xược như thế này. Phải làm sao bây giờ? Giá như các con của mẹ cứ ngây thơ như lúc mới sinh thì làm sao mà tới bước tuyệt tự thế này? Mẹ phải làm sao bây giờ?
Mẹ đưa mắt nhìn những đứa con đang nằm mỗi góc trên người mình. Đứa nào cũng thê thảm quá. Chúng đang hấp hối. Chúng có sức mạnh như những vị thần, và giờ thì chúng sắp chết. Mẹ phải cứu lấy chúng, nhưng cứu lấy chúng làm gì khi chúng rồi sẽ tận diệt lẫn nhau tiếp. Mẹ không khóc nổi nữa, nước mắt đã cạn. Mẹ lại lao tâm khổ tứ suy nghĩ làm thế nào để cứu những đứa con tội nghiệp. Vì sao chúng đánh nhau? Vì người con cả tham lam muốn có nhiều nước, vì người con thứ muốn có một vị trí mà không phải chịu thiệt, vì người con út muốn giữ rịt thứ thuộc về mình?!
A ha! Mẹ đã nghĩ ra rồi! Thì ra mọi sự đều chỉ có thế! Nếu như cả ba người con của mẹ đều được hưởng một nguồn sữa như nhau, thật dồi dào, thật nhiều hơn nữa, tưởng chừng mãi mãi không hết thì sẽ chẳng đứa nào phải tị nạnh đứa nào cả. Chúng sẽ lại là những đứa hồn hậu và vô tư.
Nhưng sữa của ba bầu ngực đã cạn. Mẹ suy nghĩ, rồi khóc một cơn thảm thiết hơn bao giờ hết. Rồi Mẹ lại mỉm cười mãn nguyện. Mẹ rùng mình một cái, cơ thể của Mẹ rã ra thành trăm mảnh. Ba bầu ngực của Mẹ rụng khỏi mình, trở thành ba hòn đảo tách biệt giữa biển khơi mênh mông, trên mỗi hòn đảo là mỗi người con. Linh hồn của Mẹ biến thành một con chim trắng muốt tuyệt đẹp. Chim ngậm trong mỏ những giọt sữa cuối cùng.
Trước khi bay đi mất, bằng thần giao cách cảm luôn khăng khít giữa ba mẹ con, Mẹ nói những lời cuối với ba anh em: Các con thân yêu của ta. Hẳn các con đã nếm đủ những đau thương và mỏi mệt mà tính nết xấu xa của các con mang lại. Ta cũng vậy. Đó là cái giá ta phải trả cho sự thiên vị ngu xuẩn của mình với người con út. Ta vô cùng xin lỗi các con! Bây giờ ta chỉ còn những giọt sữa cuối cùng này để chia đều cho các con thôi! Ta chỉ mong rằng, các con có thể sống yêu thương nhau và hòa thuận trong những giây phút cuối cùng. Vĩnh biệt, các con yêu dấu của ta!
Thế là Mẹ sà xuống cạnh người anh cả, thả vào miệng người anh cả một giọt sữa. Người anh cả dần he hé mắt, cảm thấy đây là giọt sữa thơm ngon nhất mà mình từng nhận được. Anh chỉ cần một giọt sữa này thôi, chỉ cần một giọt thôi cũng thấy mãn nguyện. Mẹ lại sà xuống cạnh người anh hai, thả vào miệng người anh hai một giọt sữa như của người anh cả. Người anh hai thấy mọi thiệt thòi của bản thân được lấp đầy và vỗ về. Mẹ cảm thấy sức mình sắp đến giới hạn, vội bay đến hòn đảo của người em út. Nhưng Mẹ hạ cánh quá gấp gáp, khiến giọt sữa cuối cùng văng ra đất. Mẹ bàng hoàng và tuyệt vọng. Đứa con út đang trút những hơi thở cuối cùng trước mặt Mẹ. Gương mặt nó khổ đau khác hẳn với ngày nó ra đời.
Người con út tưởng như đã tận số tới nơi. Nhưng ngay trước khi cậu tắt thở, người anh cả và người anh hai đã bất chấp biển sâu bơi tới hòn đảo của người em út. May sao hai người anh lớn chưa nuốt vội giọt sữa của mẹ. Họ chia giọt sữa của mình ra, mớm vào miệng người em. Người em dần thoát khỏi cơn nguy kịch, tỉnh dậy trong vòng tay của hai người anh trai. Ba anh em đã ôm nhau mà khóc, khi Mẹ của họ vỗ đôi cánh trắng thanh thản bay về miền xa tít tắp. Rồi ba anh em cũng ôm chặt lấy nhau mà chết, vì một giọt sữa cũng chẳng thể cứu sống họ. Nhưng họ cũng không mong cầu gì hơn.
Đời sau, khi con người dần xuất hiện và phát tích trên ba hòn đảo, gia đình ta may mắn được góp phần vào thời kỳ đó, đã ghi lại câu chuyện này và truyền qua nhiều thế hệ. Chúng ta gọi những cánh chim trắng là biểu tượng của hòa bình – cũng giống như người mẹ, người đã giải trừ mối bất hòa của ba anh em.
Một điều đặc biệt là, các con của ta: Hòn đảo của người em út, cũng là hòn đảo mà ba anh em đã chết trên đó chính là nơi chúng ta đang sinh sống đây. Hòn đảo của người anh cả lại là Gapos – nơi sinh sống của những người mà chúng ta đã giết, và cũng đã giết chúng ta, và hòn đảo của người anh thứ là Murued, nằm về phía mặt trời mà có lẽ chúng ta chưa biết.
Như vậy, thật nghiệt ngã làm sao, các con đã giết những người anh em của mình, và những người anh em của các con đã giết các con. Và trùng hợp làm sao, có lẽ các con không biết. Người anh em của các con đến đây – mà các con vẫn coi là xâm lược – là vì nguồn nước ngọt mà chỉ các con mới có, vì ba anh em trong thần thoại đã cùng nhau khóc thương ở đây. Nước mắt họ hóa thành dòng sông con suối. Họ đến để tìm nguồn sống của họ mà thôi. Như vậy thì có gì là sai? Nếu như ai cũng đủ đầy, thì chúng ta tranh giành lẫn nhau và gây ra bao đau thương chết chóc cho những người anh em của chúng ta để làm gì?”

Đức thầy Zilot ngừng nói. Đức thầy nhìn xung quanh bằng hai cái rãnh long lanh, đôi môi lại mím chặt như trước đó thầy chưa từng hé răng nói gì. Nụ cười trở lại trên môi Đức thầy, dù tôi không thể nhớ nổi trước đó thầy đã thôi cười khi nào.
Nắng cháy lách tách trên bậu cửa sổ, thấp thoáng vài cánh chim từ phương xa bay qua. Chúng chỉ là bọn chim yến bình thường mà thôi. Nhưng…tôi đã thấy những cánh chim trắng muốt…
Im lặng… mọi thứ đều im lặng... Mặt trời đã rụng hẳn xuống, và trong ánh tà dương còn sót lại nơi vùng trời xa tít – nơi kẻ thù đang ở đó, tất cả những hận thù như đang cháy lên và rồi lạnh một màu tro xám. Những con người xứ Nixventy lần đầu tiên ngẩng đầu lên, sau cả chuỗi kiếp dài mặc niệm cho cái chết của vầng thái dương…
Mặt trời tái sinh vào sáng hôm sau. Và sáng hôm sau, những chàng trai không còn luyện võ, những bà mẹ không ngồi buồn đan lưới, những cô gái sẽ kết những vòng hoa để tặng cho người mình yêu – người mà các cô biết sẽ không chết nữa, sẽ không để các cô phải cô quạnh nữa.
 
Quay lại
Top Bottom