Hồ Quý Ly và những cải cách của ông

sherry2111

Love, be loved, leave, be left
Thành viên thân thiết
Tham gia
16/2/2013
Bài viết
6.107
Việt Nam _một đất nước trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.Qua biết bao nhiêu biến cố, thăng trầm để được một đất nước Việt Nam đang dần dần đổi mới và phồn thịnh như ngày hôm nay quả là một điều không đơn giản.Để có được thành quả đó phải đánh đổi biết bao nhiêu công sức, máu xương của dân tộc. Đã có biết bao lần cải cách và sửa chữa đổi mới. Thành công cũng nhiều, nhưng thất bại cũng không ít. Nhưng dẫu sao cuộc cải cách đi trước lúc nào cũng là tiền đề và cũng là bài học kinh nghiệm quý giá cho lần cải cách sau tiến bộ hơn.Cuộc cải cách mà gây nhiều tranh cải trong dư luận xã hội cũng như trên diễn đàn nghiên cứu khoa học ở nước ta hiện nay phải nói đến cuộc cải cách của Hồ Quý Ly vào cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ XV. Phải nói rằng đây là công cuộc cải cách toàn diện đầu tiên của nước ta trên nhiều lĩnh vực và bằng nhiều phương thức khác nhau.

Trên thực tế đã có nhiều nhiều sách báo và công trình nghiên cứu đề cập đến những cải cách của Hồ quý Ly, thế nhưng mỗi bài viết đều thể hiện cách tiếp cận khác nhau và đa phần tài liệu chỉ mang tính chất đại cương,chưa được cụ thể và rõ ràng.Chính vì thế, nhóm chúng tôi lựa chọn đề tài này, với mong muốn nghiên cứu tổng hợp, phân tích, đánh giá trên cơ sở những tài liệu đã có nhằm làm rõ những ưu điểm và hạn chế của cuộc cải cách mà Hồ Quý Ly đã thực hiện ở nước ta.Đồng thời góp phần làm sáng tỏ những quan điểm về con người Hồ Quý Ly, là người “có công hay có tội?”, hay “vừa có công vừa có tội”?. Từ đó giúp chúng ta có thể hiểu và đánh giá, nhận định một cách đúng đắn, sâu sắc hơn và khoa học hơn về con người cũng như cuộc cải cách của Hồ Quý Ly.

CHƯƠNG I . SƠ LƯỢC VỀ TIỂU SỬ CỦA HỒ QUÝ LY.

Khoảng những năm 907 – 960, tiên tổ của Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật vốn là tộc người Việt sống ở vùng Triết Giang (Trung Quốc ) từ thời Ngũ Quý di cư sang đinh cự tại thôn Đào Bột, phủ Diễn Châu (nay là Nghệ An). Đến đời thứ 12, một người con của họ Hồ là Hồ Liêm rời Diễn Châu về định cư ở Đại La ( Thanh Hóa) Hồ Liêm là con nuôi của Tuyên úy là Lê Huấn nên đổi thành họ Lê. Hồ Quý Ly là cháu bốn đời của Hồ Liêm nên sử củ có lúc chép là Lê Quý Ly.

Nhờ sự giúp đỡ của Vợ (Công chúa Nhất Chi Mai) và sự hậu thuẫn của hai người cô (2 cung phi của vua Trần) ,nên trong 38 năm tham gia chính sự Hồ Quý Ly đã lần lược đảm nhiệm các chức vụ như sau: Trung Tuyên quốc Thượng Hầu, chức khu Mật viện đại sứ (1371), được thăng chức Tham mưu quân sự (1375),thăng chức Tiểu tư không kiêm khu Mật viện đại sứ (1379),năm 1380 lên chức Nguyên nhung, quản việc Hải tây đô thống chế, năm 1387 thăng chứ Đông bình chương sự, 1395 thăng chức Tuyên Trung Vệ Quốc Đại Vương.Năm 1395, thượng hoàng Nghệ Tông mất ông được cử làm phụ chính thái sư tước Tuyên Trung Vệ Quốc Đại Vương nắm trọn quyền hành trong tay.Sau đó Hồ Quý Ly chiếm đoạt ngôi vua của nhà Trần vào năm 1400.



CHƯƠNG II :TÌNH HÌNH XÃ HỘI NHÀ TRẦN CUỐI THẾ KỶ XIV

Nửa sau thế kỉ XIV, xã hội Đại Việt lâm vào tình trạng khủng hoảng, mục nát và suy thoái nghiêm trọng .Vua Trần Dụ Tông ăn chơi xa sỉ, trụy lạc, cho xây dựng các công trình tốn nhiều tiền của và công sức của nhân dân nhằm làm chỗ vui chơi.Bọn quan lại thì nhân đó cũng thi nhau bắt dân xây dựng dinh thự cho mình.Trong triều đình nhà Trần có rất nhiều nịnh thần và việc kéo bè, kéo cánh, tranh giành quyền lực xảy ra liên miên.Tình hình nội bộ rối loạn khiến các nước nhỏ ở phía nam không còn thần phục như trước.

Vì không chăm lo cho nông nghiệp nên mất mùa, đói kém xảy ra thường xuyên, nhiều người phải bán vợ, bán con, bán mình làm nô tì cho các nhà quý tộc, địa chủ. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân nổi dậy khắp nơi đã nói lên cuộc khủng hoảng, suy thóa của triều đại thống trị, những mâu thuẫn sâu sắc trong chế độ ruộng đất và nông nghiệp đương thời.Các cuộc khởi nghĩa đã lôi cuốn nông dân nghèo và hàng loạt nông nô, nô tì ở các điền trang của vương hầu quý tộc tham gia.

Từ đầu những năm 60 của thế kỉ XIV, ChămPa hùng mạnh lên thường xuyên đánh phá Châu Hóa, nhà Trần đã nhiều lần đem quân chống cự nhưng thất bại, quân ChămPa cướp phá nhà cửa, kho tàng, dinh thự,cung điện sau đó rút về. Mãi đến 1389, tướng chỉ huy của dịch tên là Chế Bồng Nga bị tử trận, quân ChămPa mới bị đánh bại và suy yếu dần.

Cuộc chiến tranh với ChămPa đã cho thấy sự suy yếu rõ rệt của nhà Trần vừa gây thêm nhiều khó khăn cho triều đình và nhân dân ta,làm cho cuộc khủng hoảng thêm trầm trọng hơn.

Mặt khác, năm 1388 ở phía Bắc, nhà Minh sai sứ sang đòi ta phải cống nộp lương thực và các loại trái cây đặc sản và những báu vật, sản vật quý hiếm.Vua Trần buộc phải cống nộp 5000 thạch lương. Năm 1395, nhà Minh vờ cho người sang ta xin giúp 50 con voi 50 vạn hộc lương. Những việc làm trên nhằm thăm dò nhà Trần và chuẩn bị tiến hành âm mưu xâm lược đã được vạch ra từ trước của nhà Minh.

Tóm lại, xã hội Đại Việt cuối thế kỉ XIV đã lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc và toàn diện:chính quyền suy yếu,bọn nịnh thần chuyên quyền, dòng họ thống tri sa đoạ, nông nghiệp giảm suất nghiêm trọng, dẫn đến nông dân nghèo,nô tì nổi dậy chống đối, hay bỏ trốn. Trong lúc đó ,những cuộc tấn công đánh phá của Chămpa lại liên tục diễn ra, dù cuối cùng bị đẩy lùi hẳn,đã làm cho cuộc sống của nhân dân ta thêm khổ cực, triều chính thêm rối ren, tài chính kiệt quệ.Đã vậy , Đại Việt đứng trước nguy một cuộc xâm lược ngày càng đến gần của quân Minh.Đó là những tiền đề dẫn đến cuộc cải cách của Hồ Quý Ly.

Chương III : NỘI DUNG CẢI CÁCH CỦA HỒ QUÝ LY

Trước những yêu cầu khách quan của xã hội thời Trần với mong muốn cứu vãng tình thế Hồ Quý Ly đã tiến hành cuộc cải cách toàn diện trên các lĩnh vực: chính trị quân sự, kinh tế -xã hội và văn- hóa giáo dục….




1. Trên lĩnh vực chính trị- quân sự :

Hồ Quý Ly đã cho cải tổ lại bộ máy chỉ huy quân sự lúc bấy giờ:tổ chức các kì thi xác hạch nhân tài, tìm cách chấn chỉnh và tăng cường quân đội như đưa vào đội ngũ những người khỏe mạnh và giảm bớt người yếu

Năm 1375 Hồ Quý Ly đã đề nghị “chọn các viên quan người nào có tài năng luyện tập võ nghệ thông hiểu thao lược thì không cử là tôn thất, đều cho làm tương coi quân”

Năm 1397 thay đổi một số lộ trấn trấn và quy định về cơ chế làm việc: “lộ coi phủ,phủ coi châu, châu coi huyện”.

Hồ Quý Ly cho xây dựng một kinh thành ở An Tôn (Vĩnh Phúc, Thanh Hóa) còn gọi là Thành Nhà Hồ

Tăng cường củng cố sức mạnh quân sự quốc phòng Hồ Quý Ly đã cho cải tiến các loại vũ khí tiêu biểu là Hồ Nguyên Trừng (con của Hồ Quý Ly ) đã chế tạo ra súng thần cơ, thuyền chiến cổ lâu đi biển.

Hồ Quý Ly đặt lệ cử quan ở Tam quán và Nội nhân , đi về các lộ thăm hỏi cuộc sống nhân dân và tình hình quan lại để thăng giáng cho hợp lý (năm1400).

2. Trên lĩnh vực tài chính- kinh tế và xã hội

2.1 Tài chính:

Năm 1396, Hồ Quý Ly cho ban hành tiền giấy thu hồi hết các loại tiền đồng gọi là “thông bảo hội sao” có 7 loại hình vẽ khác nhau. Nhà nước quy định làm giả phải tội chết, 1 quan tiền đồng đổi được 1 quan 2 tiền giấy, ai dùng tiền đồng bị bắt cung bị tội như làm giả. Trước phản ứng của nhân dân, năm 1403 nhà Hồ ban điều luật về tội không tiêu tiền giấy, nâng giá hàng và đóng cửa hàng, đặt chức thi giám, ban mẫu về công thước thương đấu.

Năm 1402 Hồ Quý Ly cho định lại thuế đinh và thuế ruộng. Thuế đinh chỉ đánh vào những người có ruộng được chia, còn không phải đóng thuế đinh đó là người không ruộng,trẻ mồ côi, đàn bà góa. Và thuế được đánh theo lũy tiến : người có 5 sào ruộng nộp 5 tiền, có trên 2 mẫu 6 sào nộp 3 quan..


2.2 Về kinh tế :

Hồ Quý Ly đặt ra phép hạn điền vào năm 1397. Tất cả mọi người từ quý tộc cho đến thứ dân, đều bị hạn chế số ruộng tư (tối đa:10 mẫu) trừ đại vương và trưởng công chúa. Người nào nhiều ruộng thì được phép lấy ruộng chuột tội còn ruộng thừa thì sung công.

Năm 1398 Hồ Quý Ly đã cho quan về địa phương làm lại sổ ruộng đất với mục đích là để kiểm tra việc thực hiện chủ trương hạn điền. Những ai có ruộng tư thi phải kê khai rõ số ruộng và phải cắm thẻ ghi tên của mình trên mảnh ruộng đó. Nếu sau 5 năm ruộng nào không có ai nhận thì nhà nước sung công.

2.3 Về xã hội:

Hồ Quý Ly chú trọng đến phép hạn nô. Năm 1401 Hồ Quý Ly quy định các quan lại , quí tộc theo các phẩm cấp chỉ được nuôi một số nô tì, nông nô nhất định số thừa ra sẽ sung công. Nhà nước đền bù 5 quan tiền cho 1 gia nô trừ loại mới nuôi với gia nô nước ngoài , các gia nô còn lại thị phải ghi dấu hiệu ở trên trán theo tước hiệu của chủ. Cho làm lại sổ hộ và biên hết tên những người từ 2 tuổi trở lên những dân phiêu tán thì không được ghi vào sổ còn các dân kinh thành sống ở các phiên trấn phải trở về quê quán.

Nhà Hồ đã đưa những người có của mà không có ruộng biên vào quân ngũ ở lại trấn giữ lâu đài khi đánh chiếm được vùng đất Hóa Châu đến Cổ Lũy vào năm 1403 và sau đó gọi nhà giàu nộp tâu vào đây.

Nhà Hồ đã cho quan địa phương khám xét nhà giàu có thừa thóc, bắt phải bán thóc cho dân đói theo thời giá, khi nạn đói xảy ra năm 1403 đồng thời đặt quản tế thự để chữa bệnh cho nhân dân

3. Trên lĩnh vực văn hóa-giáo dục :

Hồ Quý Ly đã cho chấn chỉnh lại Phật giáo và Nho giáo đề cao Nho giáo và hạn chế Phật giáo, Đạo giáo. Năm 1396 Hồ Quý Ly đã cho sa thải các tăng đạo dưới 50 tuổi bắt họ phải Hồ Quý Ly hoàn tục vị nho giáo thực dụng chống giáo điều kết hợp với tinh thần pháp gia. Năm 1392 soạn sách” minh đạo” bàn về Nho giáo, phê phán thói giáo điều của Nho Hàn Dũ , Chu Đôn Di, Trình Hiệu La “trộm Nho” và đề Cao Chu Công. Ngăn cấm và xử phạt nặng những người làm nghề thương thuật.

Người có ý thức đề cao chữ Nôm, từ đó cho nên ông đã tự mình dịch “Thiên Vô Dật” để dạy cho vua Trần Nhuận Tông và dịch sách Kinh thi để cho các nữ quan dạy các phi tần, cung nữ.

Hồ Quý Ly rất quan tâm đến giáo dục và thi cử. Năm 1396, Hồ Quý Ly cho sửa lại chế độ thi cử đặt kỳ thi hương ở địa phương và thi hội ở kinh thành. Những người đã thi hội thì phải làm thêm một bài văn do vua đề ra để định vị thứ bậc. Ông đã bỏ trường thi ám tả cổ văn thay bằng thi kinh nghĩa trong 4 trường thi. Ông đã đặt thêm trường thứ 5 thi viết chữ và toán.

Ngay sau khi mới lên ngôi ông mở khoa thi hội lấy đỗ 20 người trong đó có Nguyễn Trãi Nhà sử học Ngô Thời Sĩ “phép khoa cử đến đây mới đủ văn tự 4 trường, đến nay còn theo , không thay đổi được”. Năm 1397, Hồ Quý Ly đã đề nghị đặt học quan ở các lộ Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Đông.

CHƯƠNG IV : NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ :

Qua cuộc cải cách trên cho ta thấy rằng Hồ Quý Ly là một con người hành động có tầm nhìn, có năng lực và sự quyết đoán. Hồ Quý Ly là một nhà cải cách táo bạo và kiên quyết, Ông đã ban hành nhiều chính sách nhiều biện pháp ,trên nhiều phương diện khác nhau nhằm củng cố tăng cường chế độ quân chủ tập quyền, đồng thời cũng để giải quyết các mâu thuẫn kinh tế_xã hội, đáp ứng yêu cầu lịch sử do cuộc khủng hoảng đặt ra. Phải nói rằng Hồ Quý Ly đã nhận thức được nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng cuối đời Trần, mạnh dạn tiến hành các chính sách và biện pháp cải cách. Đồng thời ông cũng là người mở đầu một giai đoạn cải cách quan trọng trong lịch sử Việt Nam.

Xét về định hướng, mục tiêu và kết quả của công cuộc cải cách thì Hồ Quý Ly đã loại bỏ được tầng lớp quý tộc nhà Trần ra khỏi bộ máy nhà nước, bổ sung một đội ngũ quan lại từ trung ương đến địa phương, mang tính pháp chế cao hơn. Chuyển dần thiết chế chính trị từ quân chủ quý tộc đến quân chủ quan liêu. Xét về tư tưởng cải cách thì phải nói rằng tư tưởng Hồ Quý Ly là của hành động, của tinh thần yêu nước sâu sắc. Tuy mang ý thức hệ Nho giáo nhưng cũng tỏ ra thực dụng,không giáo điều. Do hoàn cảnh khách quan (cuộc kháng chiến chống quân Minh 1406_1407) cuộc cải cách bị bỏ dỡ, nhưng nó được tiếp tục được thực thi dưới ở cuối thế kỷ XV dưới triều Lê Tánh Tông. Xong nhìn chung công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly đã đem lại những thành tựu cần phải được ghi nhận:

Với chính sách hạn điền đã góp phần làm hạn chế sự sở hữu ruộng đất tư trong tay quý tộc quan lại nhà Trần cũng như tần lớp không quan tước và nhà chùa.Với chính sách này Hồ Quý Ly nhằm đánh vào tiềm lực kinh tế của thế lực nhà Trần (kẻ thù không đội trời chung với ông). Theo nhà sử học Nguyễn Danh Phiệt cho rằng: “Hồ Quý Ly chỉ giới hạn ruộng đất sở hữu tư nhân chứ không hạn chế số lượng người sở hữu.” (Hồ Quý Ly_trang 138).

Trên lĩnh vực tài chính thì việc ban hành tiền giấy là việc làm mới mẽ ở Việt Nam và mang tính chất thiết thực nhằm giải quyết tình trạng khủng hoảng tạm thời trong điều kiện xã hội đang khủng hoảng nghiên trọng, và cũng bổ sung một lượng đồng cần thiết để chế tạo vũ khí phục vụ cho công cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, đây là việc làm hết sức thiết thực .

Mặc khác Hồ quý Ly tiến hành thực hiện cuộc cải cách từ khi ông còn làm quan ở triều Trần.Năm 1397 với sự kiện ông cho quân lính xây dựng cơ sở tại An Tôn để rồi sau đó là chuyển hẳn kinh thành về nơi đây, cho chúng ta thấy rằng đây là một sự tính toán khôn ngoan.Với việc làm này của Hồ Quý Ly nhằm mục đích tránh xa và một phần để loại bỏ bớt sự phản kháng của tầng lớp quan lại ,quý tộc Trần đã tồn tại gần hai trăm năm ở kinh thành Thăng Long. Đồng thời là để phòng bị chống giặc ngoại xâm từ phương Bắc.Sử cũ cũng đã ghi lại rằng An Tôn (Thanh Hoá) là một huyện nhỏ nhưng lại có đầy đủ các dạng điạ hình (có sông,biển ,núi non hùng vĩ…).

Nếu như nói Thăng Long là nơi thích hợp để xây dựng một kinh đô phát triển và mạnh hơn về kinh tế, thì An Tôn là nơi xây dựng một kinh thành phát triển và phát huy thế mạnh hơn về quốc phòng điều này phù hợp với điều kiện xã hội đang khủng hoảng nghiêm trọng trên cả hai mặt chính trị-quân sự và đặc biêt là đất nước đang đứng trước hoạ xâm lược. Như vậy, ngoài Thăng Long ra thì không có nơi nào thích hợp hơn An Tôn để làm khinh thành.

Hồ Quý Ly cũng đã đem lại nhiều tiến bộ cho xã hội qua các lĩnh vực giáo dục và chính sách tuyển dụng quan lại bằng cách thi cử.Cụ thể là lệnh cho các quan lộ, quan đốc phải dạy hoc trò nên tài rồi nhà vua sẽ thân hành thi tuyển, mặc khác Hồ Quý Ly còn cho dịch sách và làm sách để giáo dục trong cung đình. Đặc biêt tiến bộ trông thấy của công cuộc cải cách đó là ở chính sách tuyển dụng quan lại bằng cách thi cử, thay thế chế độ quan liêu thân tộc cũ.

Như vậy những ai làm quan đều phải qua những kỳ thi cam go thử thách, với chế độ tuyển dụng này đã mở rộng chế độ quan trường cho mọi tần lớp nhân dân, Hồ Quý Ly muốn đưa nền giáo dục phát triển từ trung ương đến các địa phương và có thể tuyển dụng được nhân tài trong cả nước để góp phần vào việc củng cố và đưa đất nước thoát ra khỏi sự khủng hoảng, tạo điều kiện chống giặc ngoại xâm và đi đến xây dựng đất nước vững mạnh. Đây là sự cống hiến đóng góp to lớn cho nền giáo dục và tuyển dụng nhân tài mà các triều đại sau ông tiếp tục phát triển thêm.

Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực nhất định như trên thì công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly lại có nhiều tiêu cực, hạn chế và không triệt để (Để rồi công cuộc cải cách đi dến thất bại và đất nước ta phải chịu cảnh thống trị của giặc Minh). Như chính sách hạn điền gặp phải sự phản kháng quyết liệt của vương hầu quý tộc Trần (đây là điều tất yếu và có lẽ Hồ Quý Ly đã biết trước điều này). Ông cũng mất đi sự ủng hộ của những địa chủ có ruộng đất lớn hơn 10 mẫu.

Việc ban hành tiền giấy của Hồ Quý Ly không được sự hưởng ứng của người dân mà đặc biệt tầng lớp thương buôn lớn. Vì tiền giấy khó bảo quản (dễ bị rách nát) mà trong khi đó nhân dân ta lúc giờ làm nông nghiệp là chủ yếu, thường xuyên tiếp xúc với ruộng nước (độ ẩm nước ta đến 80%). Thêm vào đó là tiền giấy lúc này rất mới mẽ với nhân dân ta.(1)

(1) .Xét ở thời điểm lúc bấy giờ thì Trung Quốc trước đó đã dùng tiền giấy dưới dạng như ngân phiếu ,việc dùng tiền giấy không phải do nhà vua Trung Quốc ra quy định mà là xuất phát từ 8 nhà thương buôn bán lớn nhất ở Trung Quốc thống nhất với nhau lại để tiện buôn bán ở trong nước cũng như ngoài nước. Và đó là điều kiện để tiền giấy đi vào lưu thông một cách tự nhiên như nhu cầu cần thiết cho xã hội.Trong khi đó ở nước ta Hồ Quý Ly cho phát hành tiền giấy,tuy là không sai nhưng ở trong điều kiện lịch sử lúc giờ thì không phù hợp vì những thuộc tinh đã nêu trên.

Tiền giấy được phát hành đã gặp sự phản kháng đầu tiên là của thương nhân buôn bán lớn ở trong nước.Mặc khác tiền giấy đi vào lưu thông trong nhân dân dưới sự cưỡng chế của triều đình,lại rất dễ bị làm giả. Cụ thể là vào năm 1399 Nguyễn Nhữ đã làm tiền giả trên núi sau đó đem đi lưu hành. Chính vì các lý do trên tiền giấy không được tín nhiệm trong nhân dân và bị mất giá, dẫn đến chính sách này không có hiệu quả cao.

Trong công cuộc cải cách này Hồ Quý Ly đã tiến hành trên nhiều mặt, và nhiều phương thức khác nhau nhằm đưa đất nước thoát khỏi sự khủng hoảng nhưng điều cốt yếu nhất mà ông chưa làm được, và thể hiện tính không triệt để đó là ở chính sách hạn nô. Hồ Quý Ly đã chuyển đổi một số lớn gia nô thành quan nô(nô tì nhà nước), những nô tì này họ được thay đổi về thân phận nhưng rõ ràng họ vẫn là nô tì mà thôi, họ chỉ thay đổi ông chủ chứ hoàn toàn không được giải phóng về thân phận. Mà sự thành công ở công cuộc cải cách đất nước nào cũng vậy vai trò của nhân dân cực kỳ quan trọng,nhưng ở đây Hồ Quý Ly không làm được điều đó.

Năm 1397 trong khi sức dân đang suy kiệt vì phải gánh chịu hậu quả khủng hoảng của xã hội thì một lần nữa phải gồng mình lên đi lao dịch xây dựng kinh thành ở An Tôn, điều này đã làm cho người dân oán hận triều đình. Vì không lấy được lòng dân,và không tập hợp đươc sự đoàn kết sức mạnh của toàn dân tộc nên công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly không mang lại hiệu quả cao.Và khi quân Minh xâm lược nước ta thì sự chống trả của nhà Hồ hết sức yếu ớt và nhanh chóng đi vào thất bại. Cuộc cải cách khép lại bằng sự sụp đổ của nhà Hồ.

CHƯƠNG V: KẾT LUẬN

Tóm lại cuộc khủng hoảng xã hội nhà Trần vào nữa sau thế kỷ XIV đã thể hiện tính chất lỗi thời của cấu trúc nhà nước đương thời .Trong bối cảnh đó Hồ Quý Ly là người đã từng bước tiến lên nắm mọi quyền hành trong triều đình. Ông đã mong muốn cứu vãng tình thế đặc biệt khó khăn và phức tạp đó. Hồ Quý Ly đã kiên quyết thực hiện cải cách. Có thể thấy rằng đó là một cuộc cải cách toàn diện, từ kinh tế_chính trị, đến tài chính, văn hoá, giáo dục, xã hội. Thông qua cuộc cải cách Hồ Quý Ly đã xoá bỏ đặc quyền và thế lực của tầng lớp quý tộc Trần, xây dựng nhà nước quan liêu không đẳng cấp, quyền lực tập trung , để giải quyết khó khăn trong nước và chống giặc Minh xâm lược từ bên ngoài.

Tuy nhiên Hồ Qúy Ly cũng là một con người có nhiều thủ đoạn độc đoán mất lòng dân, duy ý chí . Sau khi củng cố được thế lực, Hồ Quý Ly tiến hành các âm mưu sát hại các quan lại và quý tộc tôn thất triều Trần. Trong hội thề Đồn Sơn (1399), 370 quý tộc quan liêu , đứng đầu là Trần Khát Chân đã âm mưu giết Quý Ly nhưng âm mưu không thành tất cả bị Hồ Quý Ly giết hại. Mặt khác cuộc cải cách có chỗ quá mạnh so với thời điểm lúc đó (phép hạn điền), chưa triệt để (gia nô và nô tì không được giải phóng), chính sách tiền tệ nhằm thu lại và hạn chế việc sử dụng tiền đồng để tập trung lượng đồng cần thiết phục vụ quốc phòng là nhu cầu bức thiết nhưng lưu hành tiền giấy là việc làm không đáp ứng đúng thực tiễn phát triển của lịch sử xã hội. Cải cách văn hoá , giáo dục có ý nghĩa tiến bộ và đầy đủ hơn..

Trong tình thế bị thúc bách nhiều mặt thì một số cải cách của Hồ Quý Ly gây thêm mâu thuẫn trong nội bộ (ép các nhà sư trên 50 tuổi phải hoàn tục), làm ảnh hưởng sâu sắc đến sự thống nhất đoàn kết của nhân dân khi xảy ra ngoại xâm. Nhưng dẫu sao thì Hồ Quý Ly cũng là người đầu tiên làm cuộc cải cách lớn ở nước ta, mà những cải cách của ông đã được tiếp nối và phát triển lên ở đời vua Lê Thánh Tông. Lịch sử tư tưởng Việt Nam ghi nhận những cống hiến của Hồ Quý Ly về tư tưởng cải cách, coi đó là di sản quý giá để các thế hệ nối tiếp nghiên cứu, xem xét. Vì vậy cũng cần nhìn nhận, nhận xét đánh giá một cách khoa học để từ đó rút ra những bài học lịch sử cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hôm nay và mai sau.


Nguồn
 
×
Quay lại
Top Bottom