Gặp lại ( Nếu em không phải một giấc mơ 2 )

Totoro

Thành viên thân thiết
Thành viên thân thiết
Tham gia
17/12/2011
Bài viết
5.437
Nếu cuộc đời có khi nào mang lại cho Arthur và Lauren một cơ may thứ hai để gặp lại, liệu họ có bất chấp mọi hiểm nguy để nắm bắt lấy nó?


Marc Levy đã trở lại với những nhân vật trong tiểu thuyết đầu tay "Nếu em không phải một giấc mơ"... trong một Gặp lại hài hước và lãng mạn, dẫn dắt độc giả vào một chuyến phiêu lưu chưa từng có, thấm đẫm cảm xúc, bằng một giọng điệu hóm hỉnh và vô số những tình tiết bất ngờ nối tiếp...


gaplaicokhung.jpg

Nếu em không phải một giấc mơ 2 - Marc Levy


Nếu cuộc đời có khi nào mang lại cho Arthur và Lauren một cơ may thứ hai để gặp lại, liệu họ có bất chấp mọi hiểm nguy để nắm bắt lấy nó? Marc Levy đã trở lại với những nhân vật trong tiểu thuyết đầu tay "Nếu em không phải một giấc mơ"... trong một Gặp lại hài hước và lãng mạn, dẫn dắt độc giả vào một chuyến phiêu lưu chưa từng có, thấm đẫm cảm xúc, bằng một giọng điệu hóm hỉnh và vô số những tình tiết bất ngờ nối tiếp...
Chương 01
Khoảng trời phía trên vịnh San Francisco rực đỏ. Bên ngoài cửa sổ máy bay, cầu Golden Gate nhô ra từ một đám mây mù. Máy bay chúc thấp đầu về phía Tiburon, hạ dần độ cao, hướng về phía nam rồi ngoặt lại, bay vòng phía trên cầu San Mateo. Ngồi trong máy bay, có cảm giác như nó đang tự trượt dần về phía những cánh đồng muối hắt lên hàng ngàn tia sáng.
Chiếc Saab mui trần luồn lách giữa hai chiếc xe tải, vượt chéo qua ba làn xe, lờ đi những cú nháy đèn pha cảnh báo của một vài tài xế bất bình. Xe rời đường cao tốc 101 và vừa kịp để rẽ ngay vào làn đường dẫn ra sân bay quốc tế San Francisco. Đến chân dốc, Paul đi chậm lại để xem bảng chỉ dẫn đường. Anh thở hắt ra khi thấy mình bị nhầm đường rồi cho xe lùi lại hơn trăm mét để đến được lối vào bãi đậu xe.
Trong buồng máy, máy tính trên bàng điều khiển thông báo đang ở độ cao bảy trăm mét. Khung cảnh tiếp tục thay đổi. Vô số toà nhà chọc trời, cái này hiện đại hơn cái khác, nổi bật lên trong ánh hoàng hôn. Những cánh trập của máy bay xoè ra, mở rộng bề mặt của máy bay và giúp nó giảm thêm tốc độ. Tiếng ồn khô khốc từ càng hạ cánh sắp sửa phát ra.
Bên trong sân bay, trên bảng chỉ dẫn đã hiện lên thông báo chuyến bay AF 007 vừa hạ cánh. Paul hồng hộc chạy xuống từ cầu thang cuốn và lao vội ra lối đi. Sàn đá hoa trơn bóng, anh trượt chân ở chổ rẽ, túm ngay được tay áo của một viên lá trưởng đang đi ngược chiều, vội vã xin lỗi rồi lại chạy đi như điên.
Máy bay Airbus A 340 của hãng Air France tiến từ từ trên đường băng, cái đầu ngộ nghĩnh của nó áp sát lại gần bức tường kính của sân bay một cách đầy ấn tượng. Tiếng ồn của động cơ máy bay bị một tiếng rít dài làm át đi, và đường ống nối máy bay với sân bay được kéo ra áp sát tận thân máy bay.
- o O o -
Phía sau tấm vách ngăn ở lối ra của hành khách xuống từ các chuyến bay quốc tế, Paul gập người, tay chống vào đầu gối, thở lấy hơi. Cửa mở, và dòng hành khách đầu tiên bắt đầu ùa ra.
Từ xa, tay vẫy rối rít giữa đám đông, Paul len lỏi lách đến chỗ bạn thân nhất của mình.
- Cậu ôm tớ hơi chặt quá đấy – Arthur nói với Paul khi bạn ôm hôn anh.
Cô bán hàng ở một quầy gần đó nhìn họ, cảm động.
- Thôi đi, trông bắt đầu chướng rồi đấy – Arthur lại nói.
- Thì tớ nhớ cậu mà, cậu biết đấy – Paul vửa nói vừa kéo bạn về phía thang máy dẫn xuống bãi đậu xe; Arthur nhìn anh, vẻ giễu cợt:
- Chiếc áo Hawais này là cái trò gì vậy, cậu tưởng cậu là Magnum à?
Paul nhìn vào gương ở buồng thang máy, vừa bĩu môi vừa cài cúc áo lại.
- Tớ đã đến mở cửa cái nhà mới của cậu ở Delahaye Moving rồi – Paul nói. – Hôm kia hãng dịch vụ dọn nhà đã chuyển các hòm đồ của cậu đến. Tớ đã dọn dẹp một tí trong khả năng của tớ. Cậu đã mua hết cả Paris hay vẫn để lại vài ba thứ trong các cửa hàng của họ?
- Cảm ơn cậu đã giúp; nhà trông có được không?
- Rồi cậu sẽ thấy, tớ nghĩ là cậu sẽ thích, hơn nữa nó lại không xa nơi làm việc.
Từ khi Arthur kết thúc việc xây dựng trung tâm văn hoá đồ sộ, Paul đã ra sức thuyết phục bạn trở về sống ở San Francisco. Sự ra đi của người được Paul quý như anh em ruột thịt đã tạo nên một khoảng trống không gì bù đắp nổi trong cuộc đời anh.
- Thành phố chẳng thay đổi mấy nhỉ - Arthur nói.
- Bọn mình đã xây hai toà nhà cao tầng ở giữa phố 14 và phố 17, một khách sạn và mấy văn phòng, vậy mà cậu lại cho rằng thành phố không thay đổi hả?
- Công ty của bọn mình thế nào?
- Nếu không tính đến những vấn đề gặp phải với các khách hàng Paris của cậu thì mọi việc cũng không đến nỗi. Hai tuần nữa Maureen sẽ đi nghỉ về, cô ấy có để lại cho cậu vài chữ ở phòng làm việc đấy, cô ấy rất nóng ruột mong gặp lại cậu.
Trong thời gian thực hiện công trình ở Paris, Arthur và cô trợ lý ngày nào cũng nói chuyện điện thoại với nhau nhiều lần, cô giải quyết cho anh tất cả những việc đang làm dở.
Suýt nữa thì Paul bỏ lỡ mất lối ra khỏi đường cao tốc, anh lại lái xe xuyên chéo để rẽ vào nhánh đường dẫn đến phố số 3. Một dàn hợp xướng những tiếng còi xe vang lên để đáp lại cái thao tác nguy hiểm đó.
- Tôi rất tiếc – anh vừa nhìn vào gương chiếu hậu vừa nói.
- Ồ, cậu đừng lo, cậu mà biết quảng trường Étoile thì cậu chẳng còn sợ gì nữa hết.
- Đó là cái gì vậy?
- Bãi chơi trò ôtô húc nhau lớn nhất thế giới, mà lại không mất tiền !
Arthur tranh thủ lúc xe dừng lại ở ngã tư tại đại lộ Van Ness để ấn nút điện mở mui xe. Mui xe gập lại với một tiếng ken két ghê tai.
- Tớ không thể từ bỏ cái xe này được, - Paul nói – nó hơi bị thấp khớp một tí nhưng vẫn vững vàng đấy.
Arthur hạ cửa kính xuống và hít không khí từ biển thổi vào.
- Sao, Paris thế nào? – Paul hỏi vẻ đầy nhiệt tình.
- Có nhiều người Paris !
- Thế các cô gái Paris ra sao?
- Lúc nào cũng thanh lịch !
- Thế cậu với các cô gái Paris thì thế nào? Cậu có cuộc tình nào không?
Arthur im lặng một lúc rồi mới trả lời.
- Tớ không phát nguyện làm thầy tu đâu, nếu tớ hiểu đúng ý cậu hỏi.
- Tớ nói về những mối quan hệ nghiêm túc cơ. Cậu có yêu ai không?
- Còn cậu? – Arthur hỏi lại.
- Độc thân !
Chiếc Saab rẽ sang Pacific Street, đi lên phía bắc thành phố. Đến ngã tư Filmore, Paul đỗ xe lại sát vỉa hè.
- Chúng mình đang ở trước home sweet home mới của cậu đây; tớ hy vọng là cậu sẽ thích, nếu cậu không thấy thoải mái ở đây thì mình vẫn có thể thu xếp với hãng bất động sản. Chọn nhà cho người khác không phải dễ…
Arthur ngắt lời bạn, anh sẽ thích nơi này, anh đã tin chắc là như vậy.
Họ vác hành lý đi ngang qua lối vào của toà nhà nhỏ. Thang máy đưa họ lên tầng ba. Khi đi dọc hành lang đến trước căn hộ số 3B, Paul thông báo với Arthur rằng anh đã gặp hàng xóm của Arthur, “một người đẹp”, anh vừa thì thào như vậy vừa mở khoá cánh cửa trước mặt.
Từ phòng khách nhìn ra là những mái nhà của Pacific Heights. Đêm đầy sao tràn vào căn phòng. Các nhân viên dọn nhà thuê đã đặt rải rác chỗ này chỗ khác những món đồ gỗ gửi từ Pháp sang và đã dựng lên chiếc bàn vẽ đặt đối diện với cửa sồ. Những thùng sách đã được dỡ ra và sách đã được bày chật trên các giá.
Arthur lập tức dịch chuyển đồ đạc, xoay chiếc đi văng ra đối diện cửa kính, đẩy lại một chiếc bành về phía lò sưởi nhỏ.
- Tớ thấy là cậu vẫn chưa bỏ được cái thói gàn dở của cậu.
- Như thế này hay hơn chứ?
- Hay lắm – Paul trả lời. – Bây giờ cậu đã thấy thích chưa?
- Tớ có cảm giác đúng là ở nhà mình !
- Vậy là cậu đã trở lại thành phố của cậu, khu phố của cậu, và nếu có thêm đôi chút may mắn thì còn là trở lại với cuộc đời cậu nữa đấy !
Paul dẫn bạn đi xem những căn phòng khác, phòng ngủ khá rộng rãi, đã kê sẵn một cái gi.ường to, hai cái bàn nhỏ đầu gi.ường và một chiếc bàn chân quỳ. Một vệt trăng lọt qua khe cửa sổ nhỏ của buồng tắm ở kế bên, Arthur lập tức mở cửa số ra, khung cảnh nhìn thật đẹp.
Paul khổ sở vì phải bỏ rơi bạn ngay buổi tối Arthur vừa mới trở lại, nhưng anh phải đi dự buổi chiêu đãi để bàn chuyện làm ăn: công ty anh đang tranh thầu một dự án quan trọng.
- Giá mà tớ đi cùng với cậu được – Arthur nói.
- Với cái đầu hãy còn bị lệch múi giờ của cậu, cậu ở lại nhà thì tớ thích hơn ! Mai tớ sẽ ghé qua đón cậu và sẽ dẫn cậu đi ăn trưa.
Paul ôm vai Arthur rồi nhắc lại rằng anh rất vui vì Arthur đã trở về. Bước ra khỏi buồng tắm, anh quay lại, chỉ tay vào bức tường trong đó:
- À ! Có một điều rất tuyệt trong căn hộ này mà cậu còn chưa nhận ra.
- Cái gì vậy? – Arthur hỏi.
- Không hề có một cái tử tường nào cả !
Giữa San Francisco, một chiếc Triumph màu xanh lá cây bóng nhoáng lao vun vút ở đại lộ Pottrero. John Mackenzie, trưởng ban bảo vệ bãi đậu xe của bệnh viện Memorial San Francisco, đặt tờ báo xuống. Ông đã nhận ra tiếng máy nổ rất đặc biệt phát ra từ chiếc ôtô của cô bác sĩ trẻ ngay khi cô vừa mới vượt qua chỗ cắt với phố 22. Lốp xe nghiến kin kít trước chòi gác của ông, Mackenzie rời khỏi ghế và nhìn về phía cái mui xe đã thò vào dưới thanh chắn đến tận tấm kính trước cửa xe.
- Cô phải đi mổ khẩn cấp cho ông trưởng khoa, hay cô làm như thế chỉ đề chọc tức tôi thôi – Ông bảo vệ vừa lắc đầu vừa hỏi.
- Bớt đi một tí ađrênalin thì không có hại gì cho tim của bác đâu, bác phải cảm ơn tôi chứ, bác John. Bác làm ơn cho tôi vào với?
- Cô không có ca trực đêm nay, tôi không dành chỗ cho cô.
- Tôi để quên cuốn giáo trình phẩu thuật thần kinh ở trong tủ của tôi, tôi chỉ vào một chút thôi.
- Với công việc của cô và cái xe phóng như điên này, rồi cô sẽ tự giết mình thôi, bác sĩ ạ. Ô số 27, hàng cuối cùng bên phải, còn trống đấy.
Lauren cảm ơn ông bảo vệ bằng một nụ cười, thanh chắn được nâng lên và cô đạp ngay vào chân ga; lốp xe lại kêu kin kít. Gió thổi bật lên vài món tóc trước trán cô, để lộ ra vết sẹo trên trán, dấu tích của một vết thương cũ.
- o O o -
Một mình ngồi giữa phòng khách, Arthur làm quen với cái nhà mới. Paul đã đặt một dàn hifi nhỏ trên một giá sách.
Anh bật đài lên và xăng xái mở những thùng đồ còn lại đang xếp chồng trong một góc. Tiếng chuông cửa vang lên, Arthur ra mở cửa. Một bà cụ đẹp lão đưa tay về phía anh.
- Tôi là Rose Morrison, hàng xóm của anh.
Arthur mời bà vào, nhà nhưng bà từ chối.
- Tôi cũng muốn trò chuyện với anh lắm, - bà nói – nhưng tối nay tôi rất bận. Thế này nhé, chúng ta hãy thống nhất với nhau, không có nhạc rap, không có nhạc techno, R&B thì có thể được nhưng chỉ loại chất lượng thôi, còn đối với hip hop thì để xxem đã. Nếu anh cần gì thì cứ bấm chuông cửa nhà tôi, bấm mạnh lên một tí, tôi điếc đặc đấy !
Bà Morrison quay đi ngay lập tức. Thú vị, Arthur còn đứng lại vài giây ở ngưỡng cửa rồi mới quay vào tiếp tục công việc.
Một giờ sau, cái dạ dày cồn cào nhắc anh nhớ rằng anh chưa ăn gì sau bữa ăn trên máy bay. Anh mở tủ lạnh ra tuy chẳng hy vọng gì mấy và ngạc nhiên nhìn thấy một chai sữa, một tảng bơ, một gói bánh mì cắt lát để nướng, một bịch mì sợi tươi và vài dòng chữ của Paul chúc anh ăn ngon miệng.
Gian đại sảnh của khoa cấp cứu đầy ứ. Băng ca, ghế lăn, ghế bành, ghế dài, chổ nào cũng có người. Sau tấm kinh nơi cửa tiếp đón, Lauren xem danh sách nhập viện. Tên của các bệnh nhân đã được khám chữa bệnh vừa mới được xoá khỏi tấm bảng to màu trắng là đã có ngay tên khác thay vào.
- Tôi đã bỏ lỡ mất một trận động đất à? – Cô hỏi người trực ban bằng giọng đùa cợt.
- May mà chị đến, mọi người đang ngập đầu ngập cổ đây.
- Tôi thấy rồi ! Xảy ra chuyện gì vậy?
- Một cái xe kéo bị tuột ra khỏi xe tải, đâm sầm vào quầy kính của siêu thị. Hai mươi ba người bị thương, trong đó mười người bị thương nặng. Bảy người đang ở trong dãy phòng sau lưng tôi, ba người được đưa đi chụp scan, tôi đã gọi lên tầng hồi sức để họ gửi người đến chi viện cho chúng ta – Betty vừa nói vừa chìa cho Lauren một chồng hồ sơ.
- Thé là bắt đầu một buổi tối rõ đẹp ! – Lauren vừa nói vừa khoác áo blouse vào người.
Cô bước vào phòng khám thứ nhất.
Người phụ nữ trẻ đang nằm thiêm thiếp trên gi.ường chắc khoảng ba mươi tuổi. Lauren xam nhanh phiếu nhập viện của cô ta. Một tia máu chảy ra từ tai trái. Cô bác sĩ nội trú dày kinh nghiệm bèn lôi ra cái đèn pin nhỏ cài ở túi áo blouse ra và vạch mi mắt nạn nhân, nhưng đồng tử không có phản ứng gì khi ánh sáng rọi vào. Cô xem xét những đầu ngón tay thâm tím rồi nhẹ nhàng đặt bàn tay bệnh nhân xuống. Để yêm tâm, cô dùng ống nghe khám phần dưới cổ bệnh nhân rồi mới kéo vải che kín đầu cô gái. Lauren nhìn lên đồng hồ treo tường, ghi vào bìa hồ sơ rồi đi ra để sang phòng khám bên cạnh. Trên tờ giấy mà cô để lại trên gi.ường, cô ghi giờ chết là 20h21, giờ chết cũng cần chính xác như giờ sinh.
Arthur lục lọi mọi xó xỉnh trong bếp, anh mở từng ngăn kéo ra xem rồi đành tắt cái bếp đang đun nồi nước sôi đi. Anh ra khỏi nhà, đi ngang qua hành lang, đến bấm chuông cửa nhà hàng xóm. Không thấy trả lời, anh đã định quay đi thì cánh cửa mở ra.
- Thế này mà gọi là “bấm mạnh”à? – bà Morrison nói.
- Tôi không muốn làm phiền bà, bà có muối không ạ?
Bà Morrison nhìn anh, vẻ kinh ngạc:
- Thật khó mà tin rằng đàn ông vẫn còn sử dụng những mánh khoé thô thiển như vậy để ve vãn !
Một ánh lo ngại hiện lên trong mắt Arthur. Bà già cười phá lên.
- Nhìn cái mặt anh kìa ! Anh vào nhà đi, các loại mắm muối để ở cái giỏ to cạnh bồn rửa bát ấy – bà vừa nói vừa chỉ vào căn bếp nhỏ cạnh phòng khách. Anh cần gì thì cứ lấy nhé, tôi để tự anh lo đấy, tôi đang rất bận.
Và bà vội vã trở lại chổ ngồi của mình trong chiếc ghế bành to, đối diện với tivi. Arthur đi qua phía sau tủ bar, tò mò nhìn mái đầu bạc trắng của bà lắc lư sau lưng ghế bành.
- Này, anh bạn, anh đi hay ở gì cũng được, tuỳ ý anh, nhưng đừng làm ồn nhé. Một phút nữa, Bruce Lee sẽ đi một đường Kata cực siêu và sẽ giáng một chưởng ra trò cho cái gã trưởng băng đang khiến tôi điên tiết này.
Bà già ra hiệu mời anh ngồi xuống chiếc ghế bành bên cạnh, và phải yên lặng !
- Hết cảnh này thì anh ra tủ lạnh mà lấy đĩa thịt nguội rồi lại đây xem nốt phim với tôi, anh sẽ không phải tiếc đâu ! Thêm nữa, ăn hai người bao giờ cũng vui hơn là ăn một mình !
- o O o -
Người đàn ông đang nằm, thân mình bị buộc vào bàn khám, đau đớn vì nhiều chổ gãy xương chân; nhìn vẻ mặt nhợt đi của ông ta, “đau đớn” là một từ diễn tả chính xác.
Lauren mở tủ thuốc ra lấy một ống thuốc nhỏ và một ống tiêm.
- Tôi không chịu được tiêm đâu – người bệnh rên rỉ.
- Ông bị gãy hai chân mà lại đi sợ một cái kim tiêm à? Giới đàn ông bao giờ cũng khiến tôi ngạc nhiên !
- Chị tiêm cho tôi cái gì thế?
- Loại thuốc chống đau lâu đời nhất.
- Có độc không?
- Cơn đau gây ra stress, làm tim đập nhanh, tăng huyết áp và để lại những hậu quả về bộ nhớ không thể khắc phục được… Ông cứ tin tôi đi, nó còn độc hơn là vài miligram morphin đấy.
- Bộ nhớ à?
- Ông làm nghề gì vậy, ông Kowack?
- Thợ sửa ôtô !
- Vậy thì tôi đề nghị với ông thế này, ông cứ tin tưởng tôi về chuyện sức khoẻ của ông đi, rồi khi nào tôi mang cái xe Triumph của tôi đến chỗ ông, tôi sẽ để cho ông muốn làm gì nó thì làm.
Lauren lắp kim vào ống tiêm và ấn bơm tiêm. Truyền chất ancalôít vào máu bệnh nhân, cô sẽ giải thoát cho Francis Kowack khỏi cơn đau đang giày vò ông ta. Thuốc phiện đi vào tĩnh mạch nền, vừa lên đến sọ não, nó lập tức ức chế cảm giác đau. Lauren ngồi xuống chiếc ghế đẩu nhỏ có bánh xe và lau trán cho bệnh nhân, theo dõi nhịp thở của ông ta. Người bệnh dịu dần.
- Thứ thuốc này được gọi là morphine vì lấy tên của thần Morphée đấy, vì vậy, bây giờ ông hãy ngủ đi ! Ông may mắn lắm đấy.
Kowack ngước mắt lên.
- Tôi đang đi chợ một cách yên lành – người đàn ông lẩm bẩm. – Tôi bị một chiếc xe tải đâm vào khi đang ở quầy đông lạnh, chân tôi gãy vụn ra, vậy cái định nghĩa may mắn trong nghề của chị chính xác là như thế nào?
- Là ông không nằm ở phòng bên cạnh !
Tấm rèm ở phòng khám bị kéo ra. Giáo sư Fernstein vẻ mặt không lấy gì làm dễ chịu.
- Tôi lại cứ tin là cô nghỉ mấy ngày cuối tuần này chứ? – Fernstein nói.
- Lòng tin là một vấn đề thuộc về lĩnh vực tôn giáo ! – Lauren trả lời chan chát. – Em chỉ rẽ qua đây thôi, nhưng thầy cũng thấy đấy, chả thiếu gì việc cả - cô vừa nói thêm vừa tiếp tục khám bệnh.
- Ở khoa cấp cứu thì có mấy khi thiếu việc. Cô coi thường sức khoẻ của cô thì cũng là coi thường sức khoẻ của bệnh nhân. Tuần này cô đã trực bao nhiêu giờ rồi? Tôi chẳng hiểu sao tôi lại hỏi cô câu này nữa, rồi cô lại bảo là khi người ta yêu thì người ta không đếm cho mà xem – Fernstein vừa nói vừa bực bội đi ra khỏi phòng.
- Thì đúng vậy mà – Lauren vừa lầm bầm vừa đặt ống nghe lên ngực ông thợ sửa ôtô, ông này nhìn cô, hốt hoảng. – Ông đừng ngại, tôi vẫn khoẻ lắm, còn cái ông ấy thì lúc nào chả làu bàu như thế.
Đến lượt Betty bước vào.
- Để ông này chị lo cho – cô nói với Lauren – phòng bên cạnh đang cần em đấy, đúng là quá tải thật rồi.
Lauren đứng dậy và yêu cầu nữ y tá gọi điện cho mẹ cô. Cô sẽ ở lại đây đêm nên cần có người chăm sóc con chó Kali của cô.
Bà Morrison đang rửa bát, Arthur thiu thiu ngủ trên chiếc đi văng.
- Tôi nghĩ đã đến lúc anh phải đi ngủ ngay thôi.
- Cháu cũng nghĩ vậy – Arthur vừa nói vừa vươn vai, - Cảm ơn bác về buổi tối hôm nay.
- Mửng anh dọn đến ở nhà số 212 phố Pacific. Tính tôi bình thường rất dè dặt, nhưng nếu anh cần gì thì cứ bấm chuông cửa nhà tôi.
Khi ra về, Arthur nhìn thấy một con chó màu đen trắng nằm dưới gầm bàn.
- Đây là con Paolo, nhìn nó thế cứ tưởng như nó chết rồi, nhưng nó ngủ thôi, đó là hoạt động yêu thích nhất của nó. Ngoài ra thỉnh thoàng tôi cũng đánh thức nó dậy để đi dạo.
- Bác có muốn cháu giúp bác làm việc đó không?
- Tốt hơn là anh đi ngủ đi, trong tình trạng anh bây giờ, tôi sợ là sáng mai lại thấy cả anh lẫn chó nằm ngáy dưới một góc cây.
Arthur chào bà cụ và về nhà. Anh còn muốn dọn dẹp thêm chút nữa nhưng cơn mệt mỏi đã thắng sự hăm hở của anh.
Nằm trên gi.ường, đầu gối lên tay, anh nhìn qua cánh cửa phòng hé mở. Những thùng đồ xếp đống trong phòng khách gợi lại kỷ niệm một đêm của một thời đã qua, khi anh dọn đến ở tầng trên cùng của ngôi nhà kiểu Victoria cách nơi này không xa.
Đã quá hai giờ sáng, nữ y tá trưởng đi tìm Lauren. Gian đại sảnh của khoa cấp cứu cuối cùng đã vợi hết người. Tranh thủ lúc yên ắng này, Betty quyết định đi bổ sung thuốc men cho tủ thuốc của các phòng khám. Cô đi dọc hành lang và kéo rèm cửa ở phòng cuối cùng. Nằm còng queo trên gi.ường, Lauren đang ngủ say sưa. Betty kéo rèm lại và vừa bỏ đi vừa lắc đầu.

 
Chương 02Arthur tỉnh dậy vào khoảng giữa trưa. Mặt trời đứng bóng ấm áp toả vào qua cửa sổ phòng khách. Anh tự làm cho mình một bữa sáng qua loa rồi gọi vào máy điện thoại di động của Paul.
- Chào Baloo , - bạn anh nhấc máy nói – tớ thấy là cậu đã ngủ hết một vòng đồng hồ rồi đấy.
Paul rủ anh đi ăn trưa, nhưng Arthur đã có một dự định khác trong đầu.
- Tóm lại, - Paul bảo – tớ được chọn giữa việc để cậu đi bộ đến Carmel và việc chở cậu đến đó à ?
- Không phải thế ! Tớ muốn rẽ qua xưởng của ông bố dượng cậu để lấy lại chiếc xe Ford rồi bọn mình cùng đi đến đó luôn.
- Ôtô của cậu đã không chạy từ đời nảo đời nào rồi, cậu muốn ngày nghỉ cuối tuần phải ở trên đường cao tốc để đợi xe cứu trợ đến kéo đi hay sao ?
Nhưng Arthur nhắc bạn nhớ rằng chiếc ôtô này đã từng có những giấc ngủ dài hơn, thêm nữa, anh biết là bố dượng Paul vốn rất say mê xe cổ, thể nào ông ấy cũng đã sửa sang lại cái xe này rồi.
- Cái xe Ford cũ kỹ đời 60 của tớ còn khoẻ mạnh hơn cái mui trần thời tiền sử của cậu đấy.
Paul nhìn đồng hồ, anh còn vài phút để gọi điện thoại đến xưởng sửa chữa. Trừ phi có điều gì phản đối, Arthur cứ việc đến thẳng chổ đó gặp anh.
Ba giờ chiều, hai người bạn gặp nhau trước cửa xưởng, Paul tra chìa khoá vào ổ vặn rồi đi vào xưởng. Giữa những chiếc xe cảnh sát đang sửa chữa, Arthur như nhận ra một chiếc xe cấp cứu cũ kỹ đang nằm im lìm dưới tấm vải bạt. Anh tiến lại gần để lật một góc bạt lên. Cái mũi xe có một vẻ gì gợi nhớ. Arthur đi vòng quanh chiếc xe, ngập ngừng rồi cuối cùng bèn mở cửa sau của xe ra. Phía trong khoang sau, dưới lớp bụi dày, có một chiếc cáng khơi dậy biết bao kỉ niệm, khiến cho Paul phải cao giọng để kéo Arthur ra khỏi những mộng mơ :
- Quên cỗ xe bí đỏ ấy đi, Lọ Lem, ra đây, phải đẩy ba cái xe ra mới lấy được con Ford của cậu. Đi Carmel thì đi, nhưng không nên đến sau lúc mặt trời lặn !
Arthur đậy lại tấm bạt, anh xoa nhẹ lên mui xe và thì thầm : “Tạm biệt Daisy”.
Bốn cú nhấn chân ga, vừa mới khọt khẹt ba tiếng là động cơ của chiếc Ford bắt đầu kêu rù rù. Sau vài thao tác của Arthur và chừng ấy câu chửi thề của Paul, chiếc xe break rời xưởng và đi lên phía bắc thành phố để ra con đường số 1 chạy dọc Thái Bình Dương.
- Cậu vẫn nghĩ đến cô ta à ? – Paul hỏi.
Thay cho mọi câu trả lời, Arthur mở cửa sổ; một luồng gió ấm tràn vào buồng lái.
Paul vỗ vỗ vào gương chiếu hậu, làm ra vẻ như đang thử micro.
- Một, hai, một hai ba, a, được đấy chứ, thử lại lần nữa xem nào… Cậu vẫn nghĩ đến cô ta à ?
- Cũng có lúc – Arthur trả lời.
- Có thường xuyên không ?
- Một chút buổi sáng, một chút buổi trưa, một chút buổi tối, một chút ban đêm.
- Cậu đi Pháp để quên cô ta là rất phải, cậu có vẻ khỏi hẳn rồi đấy ! Thế ngày nghỉ cuối tuần cậu cũng nghĩ đến cô ta à ?
- Tớ có bảo cậu là tớ tự bắt mình không được sống đâu, cậu muốn biết tớ có còn nghĩ đến cô ấy không, tớ đã trả lời cậu, vậy thôi. Tớ có vài cuộc dan díu, nếu như điều đó có thể làm cậu yên tâm ; mà thôi đổi đề tài đi, tớ không muốn nói đến chuyện đó.
Ôtô chạy về hướng vịnh Monterry, Paul nhìn những bãi biển Thái Bình Dương lướt qua ngoài cửa sổ ; chặng đường tiếp theo trôi qua hết sức yên lặng.
- Tớ hy vọng là cậu không định tìm cách gặp lại cô ta chứ ? – Paul hỏi.
Arthur không nói một lời và sự yên lặng lại ngự trị trong xe.
Phong cảnh thay đổi luân phiên giữa những bãi biển và những đầm lầy với điền viền là con đường rải nhựa. Paul tắt cái đèn cứ kêu rèng rẹc mỗi khi xe ngang giữa hai quả đồi.
- Tăng tốc lên, mặt trời sắp lặn mất rồi !
- Mình còn những hai tiếng cơ mà, cậu có tâm hồn yêu thiên nhiên từ bao giờ thế ?
- Tớ cần quái gì ngắm cảnh hoàng hôn ! Cái mà tớ quan tâm là các em gái trên bãi biển ấy chứ !
Mặt trời đã bắt đầu xế bóng, ánh nắng lọt qua các tầng của giá sách nhỏ che khuất cửa sổ ở một góc phòng khách. Lauren đã ngủ một giấc dài buổi chiều. Cô nhìn đồng hồ rồi đi vào buồng tắm. Cô rửa mặt, mở tủ và đứng lưỡng lự trước một chiếc quần thể thao. Cô chẳng có mấy thời gian để ra chạy ở khu Marin nếu muốn đến ca trực đêm của mình đúng giờ, nhưng cô cần hít thở không khí ngoài trời.
Cô mặc quần áo vào, thôi kệ bữa ăn tối, giờ giấc của cô chẳng ra làm sao cả, cô sẽ ăn tạm cái gì đó dọc đường vậy. Cô ấn nút trả lời tự động của máy điện thoại. Có tin nhắn của anh bạn trai nhắc cô tối nay hai người sẽ phải đến dự buổi chiếu bộ phim tài liệu mới nhất của anh ta. Cô xoá tin nhắn khi còn chưa kịp nghe đến đoạn Robert hẹn giờ.
Chiếc Ford rời đường số 1 đã được một lúc. Hàng rào của các khu biệt thự đã hiện lên xa xa trên đồi, Arthur rẽ sang hướng đi Carmel.
- Còn khối thòi gian, dừng lại nghĩ tí đã – Paul nói.
Nhưng Arthur không chịu vòng xe lại, anh đã có dự định khác trong đầu.
- Lẽ ra tớ phải mua lấy bộ quần áo – Paul nói tiếp – Thử tưởng tượng là chúng mình lách vào được giữa đám mạng nhện, thì trong nhà cũng hơi bốc mùi ẩm mốc nhỉ ?
- Có những lúc tớ cứ tự hỏi chẳng biết có khi nào cậu lớn lên được không. Cái nhà ấy được lau dọn thường xuyên, có cả vải trải gi.ường sạch trong gi.ường đấy. Ở Pháp người ta có điện thoại, cậu biết đấy, có cả máy tính, Internet và tivi nữa. Chỉ có ở căng tin của Nhà Trắng người ta mới còn tưởng rằng dân Pháp không có nước máy thôi !
Anh rẽ vào con đường dẫn lên đỉnh một quả đồi, phía trước họ hiện ra hàng rào sắt của khu nghĩa địa.
Arthur vừa xuống xe, Paul đã chui luôn vào ngồi sau tay lái.
- Này, trong ngôi nhà kỳ diệu được lau dọn khi cậu vắng mặt ấy, bếp và tủ lạnh tuy thế cũng vẫn không đồng ý làm bữa tối cho chúng mình ăn phải không ?
- Không, việc này chưa được lo liệu trước.
- Được, thế thì phải đi mua vài thứ trước khi hàng quán đóng cửa hết. Tớ sẽ quay lại sau, - Paul nói bằng một giọng vui vẻ - với lại tớ muốn để cho cậu có vài phút riêng tư với mẹ cậu.
Có một cửa hàng thực phẩm cách đó hai cây số, Paul hứa sẽ về thật nhanh. Arthur nhìn chiếc xe đi xa dần, một làn bụi bốc lên sau bánh xe. Anh quay lại và bước về phía cổng. Ánh trời dìu dịu, linh hồn Lili dường như lẩn quất xung quanh anh, như điều vẫn thường xảy ra sau khi bà mất. Đi đến cuối con đường, anh nhìn thấy phiến đá trên mộ trắng lên dưới ánh mặt trời. Arthur nhắm mắt lại, hương bạc hà dại thoang thoảng trong vườn. Anh bắt đầu nói khẽ…
Con nhớ một hôm trong vườn hồng. Con ngồi chơi trên đất, lúc ấy con sáu tuổi, cũng có thể là bảy. Đó là thời kì ngay trước năm cuối cùng của mẹ con mình. Mẹ từ trong bếp đi ra ngồi dưới mái hiên. Lúc ấy con chưa nhìn thấy mẹ. Bác Antoine đã ra bờ biển, con bèn lợi dụng lúc bác ấy vắng mặt để chơi một trò bị cấm. Con xén hoa hồng bằng cái kéo của bác ấy, to quá cỡ đối với tay con. Mẹ đã rời khỏi chiếc ghế xích đu và bước xuống bậc thềm để ngăn cho con khỏi bị đau.
Khi con nghe thấy những tiếng bước chân mẹ, con cứ tưởng mẹ sẽ hét lên, vì con đã phụ lòng tin mà mẹ đã dễ dàng dành cho con, mẹ sẽ tước cái kéo khỏi tay con như tước tấm huân chương từ kẻ không còn xứng đáng. Nhưng hoàn toàn không phải thế, mẹ ngồi xuống cạnh con và mẹ nhìn con. Rồi mẹ cầm tay con đưa dọc theo cành hoa. Bằng một giọng nói đã được nụ cười làm dịu đi, mẹ dặn con bao giờ cũng phải cắt phía trên mắt cây để khỏi làm hoa bị đau ; rằng người ta không bao giờ nên làm đau một bông hoa hồng, phải thế không ? Nhưng có ai nghĩ đến cái làm cho con người đau ?
Mắt mẹ con mình gặp nhau. Mẹ lấy ngón tay nâng cằm con rồi hỏi con có cảm thấy cô đơn không ? Con lắc đầu để nói là không, với tất cả sức lực cần phải có để xua đi một sự dối trá. Không phải bao giờ mẹ cũng đến được với con trong cái khoảng cách tuổi tác giữa mẹ con mình như con tự sắp xếp theo cách của con. Mẹ ơi, mẹ có tin vào một định mệnh thúc đẩy con người ta lặp lại đúng những cách hành xử của cha mẹ họ không ?
Con nhớ những lời của mẹ trong bức thư cuối cùng mà mẹ để lại cho con. Con cũng thế, con đã bỏ cuộc, mẹ ạ.
Con không thể tưởng tượng được là con có thể yêu như đã yêu nàng. Con tin nàng như tin vào một giấc mơ. Khi giấc mơ tàn, con cũng biến mất theo. Con đã nghĩ rằng mình hành động một cách dũng cảm, một cách hy sinh, nhưng lẽ ra con có thể không chịu nghe theo tất cả những người đã ra lệnh cho con không được gặp nàng. Tỉnh dậy sau một cơn hôn mê dài cũng giống như sống lại. Lauren cần có gia đình của nàng ở bên. Và gia đình duy nhất của Lauren là mẹ nàng và anh bạn trai mà nàng đã nối lại quan hệ. Con là ai đối với nàng nếu không phải là một người xa lạ ? Dù thế nào đi nữa, con cũng không phải là người sẽ cho nàng biết rằng tất cả những người xung quanh nàng đã đồng ý để cho nàng chết ! Con không có quyền phá vỡ sự cân bằng bấp bênh mà đang rất cần.
Mẹ nàng đã van xin con đừng nói với nàng rằng bà ấy cũng đã bỏ cuộc. Bác sĩ phẫu thuật thần kinh khẳng định với con rằng điều đó sẽ gây ra một cơn sốc khiến cho nàng không thể hồi phục được. Bạn trai của nàng, người đã trở lại trong đời nàng, là rào cản cuối cùng dựng lên giữa nàng và con.
Con biết mẹ nghĩ gì. Sự thật không phải là ở đó, nỗi sợ có rất nhiều. Con cần phải có thời gian để tự thừa nhận rằng con đã sợ không đưa được nàng đến tận cùng giấc mơ, sợ không xứng đáng với những giấc mơ ấy, sợ không thể thực hiện được chúng, sợ rốt cuộc chẳng phải là người đàn ông mà nàng chờ đợi, sợ phải tự thừa nhận rằng nàng đã quên con.
Con đã nghĩ ngàn lần là sẽ tìm lại nàng, nhưng giờ đây con lại sợ rằng nàng sẽ không tin con, sợ không biết cách tái tạo tiếng cười chung cho hai người, sợ nàng không còn là người mà con đã từng yêu, và nhất là sợ lại mất nàng thêm lần nữa, điều đó, con sẽ không chịu đựng nổi. Con bỏ đi sống ở nước ngoài để tránh xa nàng. Nhưng chẳng có khoảng cách nào là đủ xa khi người ta yêu. Chỉ cần có một phụ nữ trên đường hao hao giống nàng là con lại nhìn thấy nàng đang bước đi, là tay con lại nguệch ngoạc viết tên nàng lên một mảnh giấy để làm nàng xuất hiện, là con lại nhắm mắt lại để nhìn thấy mắt nàng, là con lại thu mình trong im lặng để nghe giọng nói của nàng. Và trong lúc đó, con đã làm hỏng một cái đồ án đẹp nhất trong sự nghiệp của con. Con đã xây một trung tâm văn hoá có mặt tiền ốp toàn gạch vuông, trông như một bệnh viện !
Khi bỏ đi đến nơi ấy, con cũng đã trốn chạy sự hèn nhát của mình. Con đã bỏ cuộc, mẹ ơi, mẹ có biết con giận bản thân mình đến thế nào không. Con sống trong sự mâu thuẫn của niềm hy vọng rằng cuộc đời sẽ lại đưa con và nàng đến bên nhau, mà chẳng biết rằng liệu con có dám nói với nàng không. Giờ đây, con phải tiến lên, con biết là mẹ sẽ hiểu con đang định làm gì với ngôi nhà của mẹ và mẹ sẽ không giận con. Nhưng mẹ đừng lo, mẹ ạ, con sẽ không quên rằng sự cô độc là một mảnh vường chẳng có gì đâm chồi trong đó. Dù rằng hôm nay con sống không có nàng, con cũng sẽ không bao giờ đơn độc, bởi vẫn có nàng ở một nơi nào đó.
Arthur vuốt nhẹ phiến đá cẩm thạch trắng rồi ngồi xuống mép đá còn ấm ánh nắng ban ngày. Dọc bức tường cạnh mộ Lili có mọc một cây nho. Mỗi mùa hè cây đơm được vài chùm quả cho những chú chim của Carmel đến mổ.
Arthur nghe thấy tiếng bước chân lạo xạo trên sỏi, anh quay lại và thấy Paul ngồi xuống trước một tấm bia cách anh vài mét. Anh bạn của Arthur cũng cất tiếng nói bằng một giọng tâm tình :
- Tình hình không lấy gì làm tốt, bà Tarmachov nhỉ. Mộ bà ở trong tình trạng thế này thì thật đáng hổ thẹn ! Cũng đã lâu lắm rồi, nhưng tôi chẳng có lỗi gì trong chuyện này đâu, bà biết đấy. Vì một cái cô mà hắn ta chỉ nhìn thấy phần hồn, cái thằng u mê kia đã quyết định bỏ rơi bạn thân nhất của hắn. Thôi được, đây nhé, muộn còn hơn không, tôi đã mang đến mọi thứ cần thiết đây.
 
Paul lấy từ cái túi mua hàng ra bàn chải, xà phòng dạng nước, một chai nước và bắt đầu hùng hục cọ phiến đá.
- Tớ có thể biết cậu đang làm cái gì không ? – Arthur hỏi. – Cậu quen cái bà Tarmachov này à ?
- Bà ấy chết từ năm 1906 !
- Paul, cậu không muốn thôi những trò ngu ngốc của cậu đi mấy giây sao ? Dù sao thì đây cũng là nơi mặc tưởng !
- Thì tớ đang mặc tưởng, trong lúc lau chùi !
- Trước mộ một người không quen ?
- Nào có phải là một người không quen đâu, ông bạn – Paul vừa nói vừa đứng dậy. – Sau bao nhiêu lần cậu bắt tớ đi với cậu đến nghĩa trang để thăm mẹ cậu, chẳng lẽ cậu lại còn định giở trò ghen tuông ra với tớ vì tớ đã làm thân đôi chút với hàng xóm của mẹ cậu hay sao !
Paul giội nước rửa phiến đá đã trắng lại và ngắm nghía công trình cũng mình, vẻ tự bằng lòng. Arthur sửng sốt nhìn bạn rồi cũng đứng dậy theo.
- Đưa tớ chìa khoá xe !
- Tạm biệt bà Tarmachov, - Paul nói – bà đừng lo, hắn ta rời khỏi đây với cái vẻ thế này thì từ nay đến Noel ít ra ta còn gặp lại nhau hai lần nữa. Đằng nào thì chỗ bà cũng còn sạch được cho đến mùa thu.
Arthur khoác tay bạn.
- Tớ có những việc quan trọng muốn nói với bà ấy.
Paul kéo bạn đi ra phía cổng lớn bằng sắt của nghĩa địa.
- Nào, đi thôi, tớ đã mua một miếng sườn bò mà cậu sẽ phải nắc nỏm khen ngon cho mà xem !
Ở phía dãy mộ nơi Lili yên nghỉ, thấp thoáng bóng ông già làm vườn đang cào sỏi. Arthur và Paul bước đến bên chiếc ôtô đậu ở phía dưới. Paul nhìn đồng hồ. Mặt trời sắp lặn xuống sau đường chân trời.
- Cậu lái hay tớ lái ? – Paul hỏi.
- Lái cái xe Ford cũ của mẹ tớ ấy à ? Cậu lại đùa rồi, lúc nãy là ngoại lệ thôi !
Ôtô đi xa dần trên con đường dọc quả đồi.
- Tớ cần quái gì phải lái cái xe Ford cũ rích của cậu.
- Thế sao lần nào cậu cũng cứ hỏi tớ ?
- Cậu làm tớ ngứa tiết !
- Cậu có muốn tối nay nướng miếng sườn bò của cậu trong lò sưởi không ?
- Không, tớ thích nấu ở trong phòng sách hơn !
- Hay là sau khi từ bãi biển về, mình ra bến cảng chén tôm hùm nhỉ ? – Arthur đề nghị.
Chân trời đã biến thành một vạt lụa màu hồng nhạt kết từ những dải ruy băng dài nối bầu trời với đại dương.
Lauren chạy đến hụt hơi. Cô dừng lại nghỉ lấy sức, ngồi xuống chiếc ghế băng đối diện với một bến cảng du thuyền nhỏ, ăn miếng xăng đuých. Những cột thuyền buồm đong đưa dưới làn gió nhẹ. Robert hiện ra trên lối đi, tay đút túi quần.
- Anh đã biết trước là sẽ tìm thấy em ở đây mà.
- Anh có tài nhìn xuyên suốt hay anh thuê người theo dõi em đấy ?
- Chẳng cần phải là thầy bói mới biết – Robert vửa nói vừa ngồi xuống ghế băng. – Anh biết em mà, khi em không ở bệnh viện hay ở trên gi.ường, thì là em đang chạy.
- Em phải giải toả !
- Em giải toả cả anh nữa hả ? Em không trả lời điện thoại của anh.
- Robert, em không muốn nói lại chuyện này tí nào cả. Vào năm học mới, thời kỳ bác sĩ nội trú của em sẽ chấm dứt, em còn có bao nhiêu việc phải làm nếu em muốn có cơ hội được tuyển vào biên chế.
- Em chỉ có mỗi tham vọng nghề nghiệp thôi. Từ khi em bị tai nạn, mọi sự đã thay đổi.
Lauren ném mẩu bánh xăng đuých còn thừa vào một thùng rác bằng giấy, cô nhỏm dậy buộc lại dây giày thể thao của mình.
- Em cần xả hơi, anh không giận nếu em tiếp tục chạy chứ ?
- Đi nào – Robert giữ tay cô lại, nói.
- Đi đâu ?
- Thì cứ nghe theo anh một lần cũng tốt chứ sao ?
Anh rời chiếc ghế băng và khoác vai cô vẻ che chở, kéo cô ra chỗ đậu xe. Một lát sau, ôtô đi xa dần về phía Pacific Heights.
Hai chiến hữu chiếm chỗ ở cuối đoạn đê chắn sóng. Những con sóng như loang loáng vệt dầu, bầu trời đã trở thành màu lửa.
- Tớ không muốn xen vào những việc không liên quan đến tớ, nhưng phòng nhỡ cậu không nhận ra, thì mặt trời lặn ở phía kia cơ – Arthur nói với Paul khi anh chàng đang quay mặt nhìn lên trên bờ biển.
- Cậu xen vào như thế là rất phải ! Mặt trời của cậu có nhiều khà năng sẽ xuất hiện ở đây sáng mai, nhưng còn hai em gái kia thì không chắc là như vậy đâu.
Arthur ngắm nhìn hai phụ nữ trẻ ngồi trên cát, họ đang cười.
Gió thổi tung mái tóc một cô, cô kia đang dụi mắt vì bị cát bay vào.
- Cái ý đi chén tôm hùm hay đấy – Paul vỗ vỗ vào đầu gối của Arthur, nói – Tớ ăn nhiều thịt quá, ăn một chút cá sẽ rất có lợi.
Những ngôi sao đầu tiên đã mọc trên vòm trời của vịnh Monterrey. Trên bãi biển, có vài đôi còn tận hưởng khoảng khắc yên tĩnh.
- Tôm hùm là loài thân giáp chứ - Arthur vừa nói vừa rời con đê.
- Cái bọn tôm hùm này điêu thật ! Thế mà chúng nó lại nói với tớ khác hẳn cơ ! Này, em gái bên trái đúng là kiểu cậu thích đấy, em ấy trông hơi giống tiểu thư Casper, còn về phần tớ, tớ sẽ tiếp cận em bên phải – Paul vửa nói vửa bước đi.
- Em có chìa khoá không ? – Robert lục túi quần và hỏi. – Anh để quên chìa khoá ở phòng làm việc rồi.
Cô bước vào nhà trước. Cô chỉ muốn tráng qua người cho mát, để mặc Robert ở phòng khách. Vừa ngồi xuống đi văng, anh đã nghe thấy tiếng nước chảy trong buồng tắm.
Robert khẽ đẩy cửa phòng ngủ. Anh vứt lần lượt từng cái quần áo lên gi.ường rồi rón rén đi sang buồng tắm. Chiếc gương phủ đầy hơi nước. Anh kéo rèm và bước vào khoang tắm hoa sen.
- Em có muốn anh cọ lưng cho em không ?
Lauren không trả lời, cô áp sát người vào vách đá hoa. Một cảm giác dễ chịu lan trên bụng cô. Robert đặt tay lên gáy cô và xoa bóp vai cô rồi ôm cô thật dịu dàng. Cô cúi đầu xuống và thả mình theo những cái vuốt ve của anh.
Người trưởng nhóm phục vụ xếp cho họ ngồi đối diện với khoang cửa kính. Onega cưới khi nghe Paul kể chuyện. Thời thơ ấu trải qua cùng với Arthur trong trường nột trú, những năm đại học, buổi ban đầu của công ty kiến trúc mà họ cùng nhau tạo lập… Câu chuyện đủ để Paul mua vui cho các vị khách của mình đến hết bữa ăn. Arthur ngồi lặng lẽ, cặp mắt mơ màng hướng ra biển. Khi người phục vụ mang những con tôm hùm to kềnh càng đến, Paul lấy chân đá một cú dưới gầm bàn vào Arthur :
- Anh có vẻ đang để đầu óc ở chổ nào ấy nhỉ - Mathilde, cô gái ngồi cạnh Arthur, thì thầm, để khỏi ngắt lời Paul.
- Cô cứ nói to hơn cũng được, cậu ấy không nghe thấy chúng ta nói gì đâu ! Tôi rất tiếc, quả là tôi có hơi đãng trí, nhưng tôi vừa mới đi xa về, với lại tôi thuộc lòng cái câu ch.uyện ấy rồi, tôi là nhân vật trong đó mà !
- Thế lần nào các anh mời phụ nữ ăn tối bạn anh cũng kể chuyện này à ? – Mathilde thú vị hỏi.
- Đúng vậy, với đôi chút thay đổi và thường là bằng cách tô vẽ thêm cho tôi – Arthur trả lời.
Mathilde nhìn anh chăm chú hồi lâu.
- Anh nhớ ai đó phải không ? Điều này được viết bằng chữ cỡ to trong mắt anh – cô nói.
- Chẳng qua chỉ vì nơi này có gì đó gợi lại một vài kỉ niệm thôi.
- Tôi đã phải mất sáu tuần dài mới hồi phục được sau cuộc đoạn tuyệt gần đây nhất. Nghe nói để dứt hẳn khỏi một cuộc tình, phải mất một quãng thời gian bằng nửa thời gian mà cuộc tình đó diễn ra. Thế rồi một buổi sáng tỉnh dậy, gánh nặng của quá khứ sẽ biến mất như có phép màu. Anh không tưởng tượng được là lúc đó sẽ thấy nhẹ nhõm đến mức nào đâu. Về phần tôi thì bây giờ tôi tự do như khí trời vậy.
Arthur lật bàn tay của Mathilde ra như để xem bói đường chỉ tay.
- Cô may mắn lắm – anh nói.
- Thế còn anh, thời kỳ hồi phục kéo dài bao lâu rồi ?
- Vài năm !
- Anh và cô ấy yêu nhau lâu đến thế kia à ? – Cô gái hỏi bằng một giọng cảm động.
- Bốn tháng !
Mathilde Berkane nhìn xuống và hùng hục cắt tôm hùm.
Robert nằm dài trên gi.ường, anh vươn người với cái quần jean.
- Anh tìm cái gì thế ? – Lauren vừa dùng khăn tắm lau tóc vừa hỏi.
- Cái gói của anh !
- Anh không định hút thuốc lá ở đây chứ ?
- Kẹo cao su đấy ! – Robert vừa đáp vừa hãnh diện giơ lên cái gói nhỏ lấy từ túi quần dài của mình ra.
- Anh làm ơn lấy giấy gói lại trước khi vứt nó đi nhé, người khác nhìn thấy trông ghê lắm.
Cô mặc vào mình quần dài và một cái áo sơ mi màu xanh lơ, có kí hiệu của bệnh viện Memorial San Francisco.
- Cũng buồn cười nhỉ - Robert lại nói, tay kê dưới đầu. – Em thấy toàn những thứ kinh khủng ở bệnh viện của em, vậy mà mấy cái kẹo cao su của anh lại làm cho em ghê được.
Lauren khoác áo blouse vào và đứng trước gương sửa sang cổ áo. Nghĩ đến chuyện sắp được làm việc và trở về với không khí thân thuộc ở khoa cấp cứu, tâm trạng cô vui hẳn lại. Cô vớ lấy chùm chìa khoá trên bàn và bước ra khỏi phòng; cô dừng giữa phòng khách rồi bước trở lại. Cô nhìn Robert nằm khoả thân trên gi.ường.
- Đừng làm cái điệu bộ chó cụp tai ấy nữa, thực chất anh chỉ cần có một cô gái để khoác tay đến dự buổi chiếu ra mắt bộ phim của anh tối nay thôi. Anh đúng là chỉ biết nghĩ đến mình… còn em, em phải đi trực chứ !
Cô đóng cửa rồi đi xuống chỗ đậu xe. Vài phút sau, cô lên đường trong trời đêm ấm áp, sau tay lái của chiếc xe Triumph. Những cây đèn đường lần lượt sáng lên trên phố Green, dường như chào đón khi cô đi qua. Ý nghĩ đó khiến cô mỉm cười.
 
Chương 03Chiếc Ford cũ kỹ bò lên dốc dưới vầng trăng úa đang toả khắp vịnh Monterrey. Paul không nói một lời kể từ lúc họ tiễn hai cô gái về khách sạn nhỏ nơi hai cô ở. Arthur tắt đài và đưa xe đậu vào dải đường dành để đỗ xe sát vách đá. Anh tắt động cơ rồi chống cằm vào đôi tay dựa trên chiếc vô lăng nhựa. Ngôi nhà in bóng rõ mồn một xuống vạt đường phía dưới. Anh hạ cửa kính, để tràn vào buồng lái mùi hương toả ra từ những bụi bạc hà dại mọc đầy trên đồi.
- Tại sao cậu xị mặt ra thế ? – Arthur hỏi.
- Cậu coi tớ là thằng ngu hả ?
Paul đập vào bàn lái.
- Thế còn cái ôtô này, cậu cũng định tống đi chắc ? Cậu sẽ rũ bỏ hết kỉ niệm của cậu phải không ?
- Cậu nói chuyện gì vậy ?
- Tớ vừa mới hiểu ra thủ đoạn của cậu, "đầu tiên bọn mình qua nghĩa trang, sau đó ra bãi biển, rồi đi chén tôm hùm…". Cậu tưởng là khi trời tối rồi thì tớ sẽ không nhìn thấy tấm biển bán nhà treo ở hàng rào à ? Cậu có quyết định này từ lúc nào ?
- Từ vài tuần nay, nhưng chưa ai trả được giá.
- Tớ bảo cậu quên đi một cô gái chứ có bảo cậu đốt cháy cả quá khứ của cậu đâu. Nếu cậu bán đi ngôi nhà của mẹ cậu, cậu sẽ phải hối tiếc. Một ngày nào đó, cậu trở lại bước dọc hàng rào này, cậu bấm chuông cổng, những người xa lạ sẽ cho cậu xem ngôi nhà của chính cậu, và khi họ tiễn cậu ra ngưỡng cửa của cái nơi đã từng là tuổi thơ của cậu, cậu sẽ cảm thấy cô độc, rất cô độc.
Arthur nổ máy chiếc Ford, động cơ rồ lên ngay lập tức. Cánh cổng màu xanh lá cây của khu nhà đã mở, chiếc xe break chuẩn bị dừng lại dưới những tấm liếp lợp mái nhà xe.
- Cậu thật cứng đầu cứng cổ hơn cả lừa ! – Paul vừa làu bàu vừa chui ra khỏi xe.
- Cậu quen nhiều lừa lắm à ?
Bầu trời không một bóng mây. Dưới ánh trăng, Arthur ngắm nhìn khung cảnh xung quanh anh. Họ đi lên chiếc cầu thang nhỏ bằng đá chạy dọc theo con đường. Đến nửa đường, Arthur ngắm nhìn những dấu tích còn lại của vườn hồng phía bên phải. Khu vườn bị bỏ hoang nhưng vô số mùi hương quyện vào nhau đã làm thức dậy ở mỗi bước chân anh vũ điệu farandole của những kỉ niệm toả hương.
Ngôi nhà nằm im lìm đúng như khi anh rời bỏ nó, vào buổi sáng cuối cùng mà anh sống với Lauren ở đây. Phía mặt ngoài với những cánh cửa sổ đóng kín trông còn cũ kỹ thêm, nhưng ngói trên mái nhà thì vẫn nguyên vẹn.
Paul tiến đến bên thềm, bước lên vài bậc rồi đứng dưới mái hiên gọi Arthur.
- Cậu có chìa khoá chứ ?
- Chìa khoá để ở hãng. Đợi đấy nhé, tớ còn một chùm nữa ở trong nhà.
- Cậu định đi xuyên qua tường để lấy chìa khoá à ?
Arthur không trả lời. Anh đi ra cửa sổ ở phía góc nhà và không do dự rút ra một miếng chêm chèn dưới cánh cửa chớp đang đong đưa trên bản lề. Rồi anh nhẹ nhàng nâng chốt cửa kính lên và đẩy cửa theo rãnh trượt. Không còn gì ngăn cản anh trườn vào trong nhà nữa.
Phòng làm việc nhỏ chìm trong bóng tối, Arthur chẳng hề cần ánh sáng để đi vào trong đó. Trí nhớ trẻ thơ của anh vẫn vẹn nguyên và anh biết từng góc nhỏ ở đây. Tránh quay người lại để khỏi nhìn thấy chiếc gi.ường, anh đến bên tủ tường, mở cửa tủ và quỳ xuống. Chỉ cần đưa tay ra là anh cảm thấy ngay dưới tay mình lớp da của chiếc vali nhỏ màu đen trong đó giấu kín mãi mãi những kỉ niệm của Lili. Anh bật hai chốt khoá và từ từ mở nắp. Tinh chất của hai loại hương thơm mà Lili trộn lẫn trong chiếc lọ pha lê màu vàng có nút bằng bạc mờ vẫn lọt ra ngoài. Nhưng không phải chỉ có những kỷ niệm của mẹ anh là tràn ngập tim anh.
Arthur lấy chiếc chìa khoá dài nằm ở chổ mà anh đã đặt nó ngày anh khép cửa căn nhà này lần cuối cùng. Đó là ngay sau khi viên thanh tra cảnh sát chở Lauren về lại căn phòng bệnh viện, nơi Arthur và Paul đã đánh cắp cơ thể cô để cứu cô khỏi một cái chết đã được lên kế hoạch trước.
Arthur rời căn phòng làm việc nhỏ. Ra đến hành lang, anh bật điện. Sàn gỗ kêu cọt kẹt dưới bước chân anh, anh tra chìa vào ổ khoá và vặn ngược. Paul bước vào nhà.
- Cậu có nhận thấy không ? Magnum và Mac Gyver dưới cùng một mái nhà !
Hai người vừa vào bếp, Arthur bèn mở ngay bình ga đặt phía dưới bồn rửa bát rồi ngồi xuống bên chiếc bàn gỗ to. Nghiêng người trên bếp ga, Paul trông chiếc bình pha cà phê kiểu Ý đang sôi lăn tăn. Mùi thơm ngọt ngào đã lan toả trong phòng. Paul lấy hai chiếc cốc to từ trên giá gỗ màu nâu xuống và đến ngồi trước mặt bạn.
- Giữ những bức tường này lại và đưa cô gái kia ra khỏi đầu cậu đi, cô ta đã gây ra quá đủ thiệt hại rồi.
- Bọn mình sẽ không nói lại chuyện này chứ ?
- Không phải tớ là người có bộ mặt đưa đám khi ngồi ăn tối cùng với hai nàng xinh như mộng đâu nhé – Paul vừa rót cà phê nóng bỏng vừa nói tiếp.
- Mộng của cậu, đâu phải của tớ !
Paul sửng cồ :
- Đã đến lúc lập lại một chút trật tự trong đời cậu rồi đấy. Cậu có một căn hộ mới, một nghề mà cậu say mê, một người liên doanh thiên tài và mấy em gái mà tớ chài thì nhìn tớ nhưng lại cầu trời khẩn Phật để được cậu gọi điện thoại cho.
- Cậu nói về cái cô cứ nhìn cậu như muốn ăn sống nuốt tươi ấy à ?
- Tớ không nói về Onega mà về cô kia cơ ! Đã đến lúc cậu nên vui chơi !
- Thì tớ vẫn vui đấy chứ Paul, có lẽ không giống cậu, nhưng tớ vẫn vui.
Lauren không còn trong đời tớ nữa, nhưng cô ấy là một phần của tớ. Thêm nữa tớ đã nói với cậu rồi, tớ đâu có bắt mình không được sống. Đây là buổi tối đầu tiên của bọn mình từ khi tớ trở về, nhưng chúng mình có ăn tối riêng đâu, theo như tớ biết.
Paul quấy không ngừng chiếc thìa nhỏ trong cốc cà phê của mình.
- Cậu đâu có cho đường vào cà phê của cậu… - Arthur đặt tay mình lên tay bạn, nhắc.
Giữa đêm trăng sáng, trong căn bếp ấm cúng của ngôi nhà cũ bên bờ biển, hai chiến hữu nhìn nhau yên lặng.
- Cứ nghĩ đến câu chuyện phi lý mà bọn mình đã trải qua, tớ chỉ muốn táng cho cậu vào cái tát để cậu tỉnh hẳn lại – Paul nói. – Thế nếu như cậu cứ điên rồ thử tìm cách gặp lại cô ta, cậu sẽ nói với cô ta cái gì nào ? Hồi cậu kể cho tớ nghe những chuyện xảy ra với cậu, tớ đã bắt cậu đi xét nghiệm bằng máy scanner…Vậy mà tớ là bạn thân nhất của cậu đấy ! Cô ta lại là bác sĩ, nếu cậu nói sự thật với cô ta, cậu nghĩ cô ta có chụp lên người cậu một cái áo cho bệnh nhân tâm thần, loại không có mũ hoặc là loại bịt kín đầu kiểu Hannibal Lecter, hay không ? Cậu đã làm việc cậu phải làm, và tớ ngưỡng mộ cậu về điều đó. Cậu đã dũng cảm bảo vệ cô ấy đến cùng.
- Tớ nghĩ tốt nhất là tớ đi ngủ, tớ mệt rồi – Arthur nói và đứng dậy.
Arthur đã ra đến hành lang thì Paul gọi anh lại, anh bèn thò đầu qua cửa.
- Tớ là bạn của cậu, cậu biết chứ ? – Paul nói.
- Ừ !
 
Arthur ra khỏi nhà bằng cửa sau và đi vòng quanh ngôi nhà. Anh chạm nhẹ vào bộ khung gỉ của chiếc ghế xích đu rồi nhìn quanh. Những mảnh ghép sàn dưới mái hiên đã bị long ra, những miếng ốp mặt tiền đã tróc sơn bởi cái nắng thiêu đốt mùa hè và sương muối mùa đông, khu vườn bỏ hoang toát lên vẻ buồn thảm. Một cơn gió thổi làm Arthur rùng mình. Anh lấy từ trong áo khoác ra chiếc phong bì có chứa bức thư mà anh đã bắt đầu viết ở Paris, trên một chiếc ghế băng ở quảng trường Fürstenberg, anh viết nốt trang cuối cùng rồi lại nhét vào túi áo.
Sương mù trên biển Thái Bình Dương kéo tấm khăn choàng đêm ra đến tận thành phố. Bên quầy bar vắng ngắt của quán Parisian Coffee, đối diện với cửa ra vào khoa cấp cứu, Lauren đọc thực đơn trong ngày.
- Cô còn có thể làm việc gì nữa vào cái giờ này buổi đêm, một mình, ở quán của tôi ? – Ông chủ quán mang đến cho cô một cốc nước giải khát và hỏi.
- Nghĩ giữa giờ chẳng hạn.
- Nhìn xe cấp cứu chạy rầm rập thì xem ra tối nay cũng nhiều việc ra phết ! – ông chủ quán vừa lau cốc vừa nói tiếp. – Cứu toàn thế giới là điều tốt, nhưng cô có nghĩ đến chuyện mình cũng phải sống không ?
Lauren nghiêng người về phía ông chủ quán như để thổ lộ một điều bí mật.
- Bác nói cho tôi yên tâm đi, tôi là chủ đề của mọi cuộc nói chuyện, hay là tối nay ông Fernstein có đến ăn ở đây ?
- Ông ấy ngồi ở chỗ kia kìa – chủ quán chỉ về phía cuối phòng, thừa nhận.
Lauren rời chiếc ghế đang ngồi và đi đến chỗ giáo sư
- Nếu thầy cứ tiếp tục có vẻ mặt thế này thì em lại trở về ngồi ăn một mình ở quầy bar vậy – Lauren nói và đặt cốc của mình xuống bàn.
- Cô ngồi xuống đi chứ đừng nói vớ vẩn nữa.
- Hôm qua, thầy không nhất thiết phải khiển trách em trước mặt bệnh nhân của em. Đôi khi thầy đối xử với em cứ như thể em là đứa con gái nhỏ của thầy vậy.
- Còn hơn thế nữa chứ, cô là sản phẩm sáng tạo của tôi ! Sau khi cô bị tai nạn, tôi đã khâu vá lại hoàn toàn…
- Cảm ơn thầy đã tháo đinh ốc ra khỏi sọ em.
- Tôi làm vụ này thành công hơn Frankenstein , có lẽ chỉ trừ phần tính cách thôi. Cô có muốn cùng ăn đĩa bánh xèo với một thầy lang già và uống xi rô không ?
- Nếu vậy thì có ạ.
- Chúng ta đã xử lý bao nhiêu bệnh nhân đêm nay nhỉ ? – Ông Fernstein đẩy đĩa bánh về phía Lauren, hỏi.
- Khoảng một trăm người – cô trả lời và lấy một miếng bánh khá to. – Thế thầy còn làm gỉ ở đây vậy, chắc thầy không cần trực ngoài giờ để kiếm thêm tiền chứ ?
- Kỷ lục đẹp đối với một ngày thứ Bảy đấy – ông Fernstein đồng tình nói, miệng đầy bánh.
Sau tấm kính của một quán ăn không tuổi, ông giáo sư già và cô học trò ngồi ăn, đồng cảm, cả hai cùng thưởng thức khoảnh khắc nghỉ ngơi mà phần cuối của đêm dành tặng họ.
Ở hè đường đối diện, khoa cấp cứu sẽ không biết đến sự vắng mặt của họ trong vài giờ nữa. Trên đường phố vắng, ánh sáng của một ngọn đèn chập chờn rồi tắt hẳn. Một ban mai với bầu trời nhợt nhạt vừa thức dậy.
Arthur thiu thiu ngủ trên ghế xích đu. Ngày mới rạng phủ lên cảnh vật một không khí dìu dịu. Anh mở mắt và nhìn ngôi nhà dường như đang ngủ yên lành. Phía dưới kia, biển liếm vào bãi cát, kết thúc công việc từ đêm của nó. Bãi biển mặc lại bộ tranh phục nhẵn mịn, không tì vết. Anh đứng dậy và hít thật sâu hương vị trong lành của buổi sáng. Anh rảo bước về phía bậc thềm, đi qua hành lang rồi hối hả leo lên cầu thang. Lên trên gác, Arthur gõ cửa rồi thở hổn hển bước vào phòng Paul.
- Cậu ngủ đấy à ?
Paul giật nảy mình và ngồi bật dậy trên gi.ường. Anh tìm kiếm xung quanh rồi nhận thấy Arthur đang đứng ở chỗ cánh cửa hé mở.
- Cậu đi ngủ lại ngay đi ! Cậu sẽ quên sự tồn tại của tớ cho đến khi kim ngắn của cái đồng hồ báo thức này chỉ vào một con số hợp lý, chẳng hạn số mười một. Khi ấy, và chỉ đến khi ấy, cậu mới được hỏi lại tớ cái câu hỏi ngu ngốc của cậu.
Paul quay lưng và đầu anh lún vào cái gối to đùng. Arthur ra khỏi phòng, đến giữa hành lang, anh lại quay người, bước trở lại :
- Cậu có muốn tớ đi mua cái bánh mì ăn sáng không ?
- Cút đi ! – Paul rống lên.
Lauren bấm điều khiển từ xa để mở cửa nhà xe và tắt máy ngay khi vừa đỗ xe xong. Con Kali ghét chiếc xe Triumph này, hễ nghe thấy tiếng máy nổ là nó sủa ầm ngay. Đi vào qua hành lang bên trong, Lauren nhảy bốn bậc một ở cầu thanh chính rồi bước vào căn hộ của mình.
Những con số ở chiếc đồng hồ quả lắc đặt trên lò sưởi chỉ sáu giờ rưỡi sáng. Kali rời chiếc đi văng để chạy ra chào mừng cô chủ, Lauren bế nó lên. Sau khi được vuốt ve, con chó đi ngủ tiếp trên chiếc thảm dừa trải giữa phòng khách, còn Lauren ra sau tủ bar để pha một cốc trà thảo mộc. Một mẩu thư ngắn của mẹ cô, dính trên cánh cửa tủ lạnh bằng cục nam châm hình con ếch, thông báo rằng Kali đã được ăn tối và đi dạo. Cô mặc vào mình một chiếc áo ngủ rộng quá cỡ rồi chui vào chăn. Cô ngủ thiếp đi ngay tức khắc.
 
Chương 04Paul đi xuống cầu thang, hành lý cầm tay. Anh xách đống hành lý của Arthur đặt ở hành lang và nói với bạn là anh đợi ở ngoài. Anh ngồi vào chiếc xe Ford ở vị trí cạnh người lái, nhìn ngó xung quanh rồi bỗng bật lên một tiếng huýt sáo. Anh khẽ khàng nhích người qua cái cần tốc độ rồi luồn vào sau tay lái.
Arthur khoá cửa vào nhà từ bên trong. Anh vào phòng làm việc của mẹ, mở tủ tường và nhìn chiếc vali da màu đen nằm trên giá. Anh chạm ngón tay vào mấy cái khoá bằng đồng và đặt chiếc phong bì giấu trong túi áo vào vali, rồi để chìa khoá lại chổ cũ.
Anh đi ra bằng lối cửa sổ. Khi đặt lại miếng chêm để chèn cánh cửa, anh như nghe thấy tiếng mẹ càu nhàu mỗi lần hai mẹ con vào thành phố đi mua sắm, bởi vì bác Antoine vẫn chưa sửa lại cái cánh cửa thổ tả này. Và anh nhìn thấy mẹ trong vườn, nhún vai và bảo nói cho cùng thì các ngôi nhà cũng có quyền được có nếp nhăn. Mẩu gỗ nhỏ chống vào tường đá này là vật chứng về một thời sẽ không bao giờ mất hẳn.
- Xê ra – anh mở cửa xe và nói với Paul.
Anh vào xe và nhăn mũi.
- Có mùi gì lạ hay sao ấy ?
Arthur nổ máy. Đi được một đoạn, cửa kính phía Paul hạ xuống. Tay anh thò ra, đầu ngón tay giữ một cái túi nylon co in mác của một cửa hàng thịt, anh quẳng túi vào một thùng rác ở lối ra của khu nhà. Họ lên đường trước giờ ăn trưa khá sớm, và như vậy sẽ tránh được nạn tắc đường do những dòng xe trở về sau kỳ nghỉ cuối tuần. Vào đầu buổi chiều, họ sẽ có mặt ở San Francisco.
Lauren vươn cao tay. Cô ra khỏi gi.ường và phòng ngủ với vẻ tiếc rẻ. Như thường lệ, cô bắt đầu bằng việc chuẩn bị bữa sáng cho con chó trong một chiếc bát tô to nặng bằng đất nung, rồi sau đó thì sắp xếp khay đồ ăn của mình. Cô đến ngồi ở cái ngách nhỏ trong phòng khách, phía được mặt trời buổi sáng rọi vào qua cửa sổ. Từ chổ này, cô có thể ngắm nhìn cầu Golden Gate kéo dài như một vạch nối giữa hai bờ vịnh, những ngôi nhà nhỏ trên các triền đồi của Sausalito và cả Tiburon với bến cảng cá nhỏ của nó nữa. Chỉ có tiếng còi ù u của những chiếc tàu to chở hàng đang rời cảng hoà với tiếng kêu của lũ hải âu là đệm nhịp cho không khí mơ màng uể oải của buổi sáng Chủ nhật này.
Sau khi đã ngấu nghiến phần lớn bữa sáng ngồn ngộn đồ ăn, cô đặt chiếc khay vào bồn rửa bát và vào buồng tắm. Những tia nước xối mạnh ra từ vòi hoa sen, dù rằng chẳng bao giờ xoá được những vết sẹo trên d.a thịt cô, cũng đã làm cho cô tỉnh ngủ hẳn.
- Kali, đừng có lẩn quẩn như thế, rồi tao sẽ cho mày đi dạo.
Lauren quấn một chiếc khăn tắm quanh người, để hở ngực. Không trang điểm gì, cô mở tủ, xỏ vào người chiếc quần jean vào cái áo phông polo, cô cởi áo polo ra, mặc một chiếc sơmi, rồi cởi sơmi ra và mặc áo polo lại. Cô nhìn đồng hồ, một tiếng nữa mẹ cô mới ra tìm cô ở khu Marina, Kali thì đã ngủ thiếp đi trên chiếc đi văng màu trắng đục. Lauren bèn ngồi xuống cạnh con chó, vớ lấy cuốn giáo trình phẫu thuật thần kinh dày cộp nằm giữa đống giấy tờ lộn xộn trên bàn, rồi mải miết đọc, miệng gặm đuôi bút chì.
Chiếc Ford đỗ lại trước nhà số 27, đại lộ Cervantes. Paul lấy túi của mình ở hàng ghế sau rồi xuống ôtô.
- Cậu có muốn đi xem phim tối nay không ? – Anh nghiêng người vào cửa xe phía Arthur, hỏi.
- Không được, tối nay tớ đã hẹn với một người rồi.
- Một người hay một cô ? – Paul hớn hở thốt lên.
- Bữa tối riêng hai người, cùng ăn và cùng xem tivi.
- Thật là một tin tốt lành, cậu hẹn ai vậy nếu như tớ không tò mò quá ?
- Có đấy !
- Có gì cơ ?
- Cậu có tò mò.
Ôtô đi xa dần vào phố Fillmore. Tới chỗ cắt với phố Union, Arthur dừng lại trước vạch sơn để nhường đường cho một chiếc xe tải đã đến ngã tư trước anh. Một chiếc Triumph mui trần khuất đằng sau xe tải đã lợi dụng lúc đó để phóng vọt qua, không dừng lại trước vạch, chiếc xe màu xanh lá cây ấy đi về phía Marina. Một con chó được buộc thắt lưng an toàn ngồi trên ghế cạnh người láo, sủa ầm ĩ. Xe tải vượt qua ngã tư và xe Ford đi lên đồi Pacific Heights.
Cái đuôi ngoe nguẩy liên hồi chứng tỏ Kali rất vui sướng. Nó hít hít thảm cỏ với vẻ rất quan trọng, tìm xem con vật nào lại có thể giẫm lên cỏ trước nó được. Chốc chốc, nó ngẩng đầu lên rồi chạy lại với gia đình mình. Sau khi lượn vài hình chữ chi giữa chân Lauren và chân bà Kline, nó lại đi mở đường, khám xét một vạt cỏ khác ; mỗi khi nó tỏ ra quá tình cảm với một cặp đang đi dạo hay với con cái họ, mẹ của Lauren lại gọi nó trở về khuôn phép.
- Mẹ có thấy cái hông của nó có vẻ bị đau không – Lauren nói khi nhìn Kali đi ra xa.
- Nó đang già đi đấy ! Cả chúng ta cũng vậy, nếu như con không nhận ra.
- Mẹ có tâm trạng vui vẻ nhỉ, mẹ chơi bài bridge bị thua à ?
- Con cứ đùa, mẹ đánh bại tất cả các bà gái già ấy đấy chứ ! Mẹ chỉ lo cho con thôi.
- Nếu vậy thì không cần thiết, con khoẻ mạnh, con làm một nghề mà con thích, con hầu như không bị đau đầu nữa và con hạnh phúc.
- Ừ, con nói phải, mẹ nên nhìn mọi việc ở khía cạnh tốt, đây là một tuần lễ tốt đẹp, con đã dành được hai tiếng đồng hồ để tự chăm sóc mình, thế là tốt !
Lauren chỉ vào một người đàn ông và một phụ nữ bước trước cô trên con đê chắn sóng ở bến cảng nhỏ :
- Anh ta hơi giống thế này phải không ạ ? – cô hỏi mẹ.
- Ai cơ ?
- Con không biết tại sao, nhưng từ hôm qua con lại nghĩ đến anh ta. Mà mẹ đừng lảng đi mỗi lần con nhắc đến đề tài này nữa.
Bà Kline thở dài.
- Mẹ chẳng có gì để nói với con cả, con yêu. Mẹ không biết cái anh chàng đã đến thăm con ở bệnh viện là ai. Anh ta tử tế, rất lịch sự, hẳn là một bệnh nhân không có việc gì làm nên thích đến đó.
- Các bệnh nhân không mặc áo vét vải tuýt dạo chơi trong hành lang bệnh viện như vậy. Thêm nữa con đã kiểm tra lại danh sách tất cả những người nằm viện ở phía bên này của toà nhà, không có ai giống như thế cả.
- Con đã kiểm tra một việc như thế à ? Sao con lại ngang bướng đến thế ! Nói rõ ra thì con muốn tìm cái gì nào ?
- Tìm cái mà mẹ đã giấu con khi coi con là một con ngốc. Con muốn biết anh ta là ai, tại sao ngày nào anh ta cũng đến đó.
- Để làm gì cơ chứ ! Tất cả những chuyện đó đều đã thuộc về quá khứ rồi.
Lauren gọi con Kali đang đi hơi xa quay lại. Con chó quay nhìn cô chủ rồi chạy lại với cô.
- Khi con tỉnh lại sau cơn hôn mê, anh ta ở đó; lần đầu tiên tay con cử động được, anh ta cầm tay con để cho con yên tâm; mỗi lúc con giật mình tỉnh dậy vào nửa đêm, anh ta vẫn ở đó… Một buổi sáng, anh ta hứa sẽ kể cho con nghe một câu chuyện không thể tin được, thế rồi anh ta biến mất.
- Anh chàng này là một cái cớ để con quên đi cái phần đời đàn bà của con và chỉ nghĩ đến công việc thôi. Con biến anh ta thành một kiểu hoàng tử quyến rũ. Thật là dễ khi yêu một người mà ta không thể với tới được, ta sẽ chẳng phải mạo hiểm gì cả.
- Thế nhưng đó chính là điều mà mẹ đã làm được trong suốt hai mươi năm sống bên bố đấy.
- Nếu con không phải là con của mẹ thì mẹ đã cho con một cái tát rồi, con đáng bị ăn tát.
- Mẹ lạ thật đấy mẹ ạ. Mẹ đã không bao giờ nghi ngờ chuyện con đủ sức để tự mình thoát khỏi cơn hôn mê, vậy mà tại sao bây giờ con đã sống lại rồi thì mẹ lại có ít lòng tin đối với con như vậy ? Thế nếu như có một lần con thôi không nghe theo lý trí và sự tỉnh táo của mình nữa, để nghe cái tiếng nói rất khẽ từ đáy lòng con đang nói với con ? Tại sao tim con cứ đập loạn lên mỗi lần con tưởng như nhận ra anh ta ? Điều đó không đáng để đặt câu hỏi sao ? Con rất tiếc là bố đã bỏ đi, con tiếc là bố đã lừa dối mẹ, nhưng đó đâu phải là một căn bệnh di truyền. Không phải người đàn ông nào cũng là bố con !
Bà Kline cười phá lên. Bà đặt tay lên vai con gái và nhìn cô với vẻ coi thường :
- Con muốn dạy mẹ à, con, một đứa con gái chỉ toàn chơi với lũ con trai giỏi giang chuyên nhìn con như nhìn Đức Mẹ Đồng Trinh, như một điều kỳ diệu trong đời chúng ! Kể cũng yên tâm nhỉ, khi biết rằng dù mình có làm gì chăng nữa thì người kia cũng không thể rời bỏ được mình, phải không ? Mẹ, ít ra mẹ cũng đã yêu !
- Nếu mẹ không phải là mẹ của con thì bây giờ chính con sẽ là người tát đấy.
Bà Kline bước tiếp. Bà mở túi xách tay, lấy ra một gói kẹo và mời con gái một cái nhưng cô từ chối.
- Cái duy nhất làm mẹ xúc động trong những điều mà con nói, là mẹ nhận thấy rằng bất chấp lối sống của con, ở con vẫn còn loé lên một tia lãng mạn nhỏ xíu, nhưng cái mà mẹ tiếc là con đang uổng phí điều đó bằng một sự ngây thơ quá mức. Con đợi cái gì ? Nếu anh chàng kia quả thật là người đàn ông của đời con, anh ta đã đến tìm con rồi, con gái tội nghiệp của mẹ ! Chẳng ai đuổi anh ta cả, anh ta đã tự biến mất. Vậy nên con hãy ngừng oán giận cả thế gian và nhất là mẹ con đi, con làm như chính mẹ là người có lỗi ấy.
- Có lẽ anh ta có những lý do nào đó ?
- Chẳng hạn như một người phụ nữ khác hoặc là những đứa con ? – bà Kline nói tiếp bằng một giọng độc địa.
Có vẻ như Kali đã chán ngấy không khí căng thẳng giữa hai mẹ con. Nó ngoạm một cái que mang đến đặt dưới chân Lauren và sủa ầm lên. Lauren chộp lấy cái đồ chơi ngẫu hứng đó và ném ra xa.
- Mẹ vẫn không hề kém đi chút nào trong cái nghệ thuật ăn miếng trả miếng của mẹ. Con không kề cà ở đây nữa đâu, con phải đọc một hồ sơ cho ngày mai – Lauren nói.
- Đến tuổi này rồi mà con vẫn có bài tập phải làm ngày Chủ nhật ? Mẹ tự hỏi không biết đến bao giờ con mới chán việc rượt đuổi công danh ! Có lẽ con buồn đến chết đi được với cậu bạn trai của con nhỉ, mà không, sao mẹ lại ngốc thế cơ chứ, con có buồn chán bao giờ đâu, vì chủ nhật con còn phải ngủ hay làm bài tập cơ mà !
Lauren đứng sững trước mặt mẹ với ước muốn không cưỡng lại được là chặn họng bà.
- Người đàn ông của đời con sẽ tự hào vì con yêu công việc của mình, và anh ấy sẽ không đo đếm thời gian của con !
Cơn tức giận phải kìm nén làm những mạch máu trên thái dương của cô nổi lên.
- Sáng mai, bọn con sẽ thử cắt bỏ khối u trong não một bé gái – Lauren nói tiếp. – Nói thế thôi thì xem ra chẳng có gì quan trọng cả, nhưng mẹ cứ thử hình dung là khối u này đang làm cho cô bé bị mù. Thế mà trước ngày tiến hành ca mổ, con lại phân vân không biết nên đi xem một bộ phim hay và cùng Robert vừa hôn hít vừa nhai bỏng ngô, hay là xem kỹ lại quy trình cho ngày mai !
 
Lauren huýt sáo gọi con chó. Cô rời con đường đi dạo dọc bến cảng và ra chỗ đậu xe.
Con chó ngồi vào chỗ của nó ở ghế phía trước bên phải, Lauren cài dây thắt lưng an toàn cho nó và chiếc Triumph rời đại lộ Marina trong những tiếng sủa rầm rĩ. Cô rẽ vào Cervantes rồi đi lên Fillmore. Đến chỗ cắt với Greenwich, Lauren đi chậm lại, lưỡng lự không biết có nên dừng lại để thuê một bộ phim không. Cô vẫn mơ ước được xem lại Cary Grant và Deborah Kerr trong phim Chàng và nàng, thế rồi nghĩ đến buổi sáng hôm sau, cô bèn chuyển nấc số hai và tăng tốc, vượt trước một chiếc Ford cũ kỹ đời 1961 đang đỗ trước cửa hiệu video.
Arthur xem xét từng tên phim một trong mục “Võ thuật”.
- Tôi muốn gây bất ngờ cho một người bạn gái tối nay, anh có thể khuyên tôi gì không ? – anh hỏi nhân viên cửa hàng.
Người bán hàng biến mất khỏi quầy rồi hân hoan trở lại với một cái hộp nhỏ trong tay. Anh ta dùng dao rọc giấy rạch một đường để mở hộp và giới thiệu bộ phim với Arthur.
- Cơn thịnh nộ của rồng, bản dành cho người sưu tầm ! Có ba cảnh đấm đá mới xuất hiện lần đầu ! Phim vừa về hôm qua, anh sẽ làm cho cô bạn thích điên lên được với cái này đấy !
- Anh nghĩ thế à ?
- Bruce Lee là một giá trị đảm bảo, cô bạn này hẳn phải là fan cuồng nhiệt.
Gương mặt Arthur rạng rỡ lên :
- Tôi lấy phim này !
- Không biết cô bạn của anh tình cờ có em gái không ?
Anh bước ra khỏi cửa hiệu video, vui sướng. Buổi tối xem ra sẽ rất được. Dọc đường, anh dừng lại một chút ở tiệm bán đồ ăn sẵn, chọn món khai vị và món chính, toàn là những đồ ăn hấp dẫn, rồi nhẹ nhõm trở về nhà. Anh đậu chiếc Ford trước toà nhà nhỏ ở ngã tư Pacific – Fillmore.
Vừa khép cửa căn hộ lại, anh đặt ngay gói hàng mới mua lên tủ bar ở bếp, bật dàn hifi, cho một đĩa nhạc Frank Sinatra vào rồi xoa tay.
Căn phòng ngập trong thứ ánh sáng màu đỏ của buổi tối mùa hè ấy. Vừa hát rống lên một giai điệu trong Strangers in the Night, Arthur vừa bày những bộ đồ ăn thật lịch sự cho hai người trên chiếc bàn thấp ở phòng khách. Anh mở một chai rượu vang đỏ năm 1999, đặt nóng lại món gratin de lasagne và xếp những món khai vị kiểu Ý lên hai cái đĩa sứ trắng. Xong xuôi, anh đi qua phòng khách ra ngoài, để cửa căn hộ khép hờ và đi ngang qua hành lang. Anh đập như gõ trống vào cửa và nghe thấy tiếng bước chân nhẹ nhàng của bà hàng xóm tiến lại gần.
- Tôi điếc thật nhưng đâu đến nỗi thế ! – Bà cụ đón anh với nụ cười rất tươi.
- Bác không quên buổi tối của chúng ta chứ ? – Arthur hỏi.
- Anh cứ đùa !
- Bác không mang con chó của bác theo à ?
- Con Paolo đang ngủ say như chết, nó cũng già như tôi mà, anh biết đấy.
- Bác không già lắm đâu, bác Morrison ạ.
- Có, có chứ, anh cứ tin tôi đi ! – Bà nói và khoác tay kéo anh đi ra hành lang.
Arthur sắp xếp cho bà Morrison ngồi thật thoải mái rồi rót một ly rượu cho bà.
- Cháu có một điều bất ngờ dành cho bác ! – Anh vừa nói vừa giơ cái bao đựng phim ra. Gương mặt yêu kiều của bà Morrison sáng bừng lên.
- Cái cảnh đấm đá ở bến cảng là một cảnh kinh điển đấy !
- Bác đã xem rồi à ?
- Một số lần !
- Và bác vẫn chưa chán ?
- Anh đã xem Bruce Lee ở trần bao giờ chưa ?
Kali chồm dậy, nó ngoạm sợi dây dắt của nó vào mồm rồi bắt đầu đi loanh quanh trong phòng, đuôi ve vẩy.
Lauren nằm cuộn tròn trên đi văng, khoác chiếc áo choàng vải bông mặc nhà, chân đi tất len dày cộp. Cô ngừng đọc để thích thú dõi nhìn con Kali tập thể dục, rồi cô gập cuốn chuyên luận về phẫu thuật thần kinh lại và âu yếm hôn lên đầu con chó. "Tao thay quần áo rồi chúng mình đi nhé."
Vài phút sau Kali đã nhảy nhót ở phố Green ; xa xa một chút, trên vỉa hè phố Fillmore, một cây dương non có vè như toả ra mùi hương thật dễ chịu, Kali bèn kéo cô chủ ra đó. Lauren tư lự, làn gió buổi tối thổi đến khiến cô rùng mình.
Ca phẫu thuật ngày mai làm cô lo lắng, cô linh cảm rằng ông Fernstein sẽ đặt cô vào vị trí điều khiển. Từ khi ông quyết định đến cuối năm sẽ nghỉ hưu, ông yêu cầu cô mỗi lúc một cao hơn, như thể ông muốn đẩy nhanh việc đào tạo cô. Lát nữa trở về nhà, dưới ánh sáng của ngọn đèn đầu gi.ường, cô sẽ đọc lại tài liệu, thêm và thêm nữa.
Bà Morrison rất hoan hỉ về buổi tối này. Đứng trong bếp, bà lau khô những bát đĩa Arthur đã rửa.
- Tôi có thể hỏi anh một câu được không ?
- Bác hỏi gì cũng được ạ.
- Anh không thích karate, và đừng có bảo là một chàng trai như anh chỉ tìm được một bà già tám mươi tuổi để cùng tiêu thời gian buổi tối Chủ nhật nhé.
- Không có câu hỏi nào trong những điều bác vừa nói cả, bác Morrison ạ.
Bà cụ đặt tay mình lên tay Arthur và bĩu môi :
- Ồ, có chứ, có một câu hỏi đấy ! Một câu hỏi ngầm và anh hiểu rất rõ. Mà thôi đừng có ‘bác Morrison ạ’ nữa, cứ gọi tôi là Rose thôi.
- Cháu rất thích ngồi với bác cả tối Chủ nhật này để trả lời câu hỏi ngầm của bác.
- Anh bạn ạ, anh có vẻ mặt của một người đang ẩn náu trong sự cô đơn !
Arthur chăm chú nhìn bà Morrison.
- Bác có muốn cháu dẫn con chó của bác đi dạo không ?
- Đây là một lời đe doạ hay một câu hỏi vậy ?
- Cả hai ạ !
Bà Morrison đánh thức Paolo dậy và tròng dây vào cổ nó.
- Vì sao bác lại đặt cho con chó cái tên này vậy ? – Arthur hỏi khi đứng trên ngưỡng cửa.
Bà cụ ghé vào tai anh để thổ lộ với anh rằng đó là tên người tình đáng nhớ nhất của bà.
- … Hồi ấy tôi ba mươi tám tuổi, anh ta kém tôi năm tuổi, hay có lẽ là mười nhỉ ? Ở tuổi tôi bây giờ trí nhớ đâm ra lẫn lộn theo chiều hướng có lợi. Đó là một chàng trai Cuba tuyệt vời. Anh ta khiêu vũ như thần vậy và anh ta linh lợi hơn con chó giống jack russell này nhiều, anh cứ tin lời tôi đi !
- Cháu sẵn lòng tin bác – Arthur vừa nói vừa kéo dây dắt chó, con chó dùng cả bốn chân để bám lại ở hành lang.
- Ôi, La Habana ! – bà Morrison thở dài và đóng cửa nhà lại.
Arthur và Paolo đi xuống phố Fillmore. Con chó dừng lại dưới gốc một cây dương. Vì một lý do mà Arthur hoàn toàn không hiểu nổi, cái cây bỗng nhiên gợi lên sự thích thú mãnh liệt ở con chó. Arthur cho tay vào túi quần và đứng dựa vào bức tường nhỏ, để cho Paolo tận hưởng khoảnh khắc hứng khởi hiếm hoi đó. Điện thoại di động của anh rung lên trong túi quần, anh bật máy.
- Cậu có một buổi tối vui chứ ? – Paul hỏi.
- Cực kỳ.
- Thế bây giờ cậu đang làm gì vậy ?
- Paul, theo cậu thì một con chó có thể dừng lại dưới gốc cây để hít hà trong bao lâu ?
- Tớ dập máy đây, - Paul nói vẻ hoang mang – tớ sẽ đi ngủ ngay trước khi cậu hỏi tớ thêm một câu khác nữa !
Ở cách đó hai khối nhà, trên tầng hai của một ngôi nhà xây theo kiểu Victoria quay về phía phố Green, ánh đèn trong phòng ngủ của một nữ bác sĩ phẫu thuật thần kinh trẻ tuổi vừa tắt.
 
Chương 05Đồng hồ báo thức đặt trên chiếc bàn đầu gi.ường kéo Lauren ra khỏi một giấc ngủ say sưa đến mức cô thấy thật khổ sở khi phải mở mắt ra. Có những buổi sáng, sự mệt mỏi tích tụ suốt năm khiến cô chìm vào tâm trạng u ám ngay từ những giờ đầu tiên trong ngày. Chưa đến bảy giờ sáng, cô đã đỗ chiếc Triumph của mình ở bãi đậu xe của bệnh viện. Mười phút sau, khoác trên người chiếc áo blouse, cô rời tầng trệt của khoa cấp cứu và đi lên phòng số 307. Con khỉ nhỏ nằm nghỉ ngơi bên cái cổ che chở của một con hươu cao cổ. Cách đó một quãng, một con gấu trắng trông nom hai con thú kia. Những con vật của Marcia hãy còn ngủ trên bệ cửa sổ. Lauren nhìn những bức tranh đính trên tường, vẽ một cách thật thành thạo đối với hoàn cảnh của một đứa trẻ từ mấy tháng nay chỉ còn nhìn được theo trí nhớ.
Lauren ngồi xuống gi.ường và xoa trán Marcia, cô bé thức dậy.
- Chào cháu, hôm nay là một ngày quan trọng đấy.
- Chưa đâu ạ - Marcia trả lời và mở mắt. – Bây giờ vẫn là đêm.
- Không còn lâu nữa đâu, bé yêu ạ, không lâu nữa đâu. Chỉ tí tẹo nữa thôi là sẽ có người đến đón cháu đi để chuẩn bị cho cháu.
- Cô ở lại với cháu chứ ? – Marcia lo lắng hỏi.
- Cô cũng phải đi chuẩn bị, cô sẽ gặp lại cháu ở trước cửa phòng mổ.
- Chính cô sẽ mổ cho cháu à ?
- Cô sẽ phụ mổ cho giáo sư Fernstein, cái ông có giọng rất trầm như cháu đã nói ấy.
- Cô có sợ không ? – cô bé hỏi.
- Cháu nhanh hơn cô rồi, chính cô đang định hỏi cháu câu ấy.
Đứa bé nói rằng nó không sợ, vì nó tin tưởng.
- Cô đi lên trên kia nhé, chỉ tí nữa là cô gặp lại cháu thôi.
- Tối nay cháu sẽ thắng cuộc.
- Cháu cuộc cái gì vậy ?
- Cháu đoán màu mắt của cô, cháu viết ra một tờ giấy gập lại để trong ngăn kéo cái bàn đầu gi.ường của cháu ấy, hai chúng mình sẽ mở ra sau ca mổ nhé.
- Cô hứa với cháu như vậy – Lauren nói rồi đi.
Marcia cúi người, hoàn toàn không biết đến sự hiện diện của Lauren : cô đã trở lại ngưỡng cửa, lặng lẽ nhìn đứa trẻ. Em bé chui xuống gầm gi.ường.
- Tớ biết là cậu trốn ở đâu đó mà, nhưng cậu không việc gì phải sợ cả - cô bé nói.
Tay cô bé sờ soạng sàn nhà, tìm một con thú nhồi bông. Những ngón tay em chạm vào lông của con cú, em bèn đặt nó trước mặt mình.
- Cậu phải ra khỏi chỗ này thôi, cậu hoàn toàn chẳng có gì phải sợ ánh sáng cả - cô bé nói. – Nếu cậu tin tớ thì tớ sẽ chỉ cho cậu xem các màu sắc; cậu tin tớ chứ, phải không ? Giờ thì người nào có chuyện của người ấy, về phần tớ, cậu tưởng là tớ không sợ bóng tối à ? Cậu biết không rất khó tả cho cậu ban ngày là như thế nào, chỉ nói là đẹp được thôi. Tớ thích nhất là màu xanh lá cây, nhưng tớ cũng thích cả màu đỏ nữa, các màu sắc cũng có mùi hương đấy, vì thế người ta mới nhận ra nó, đợi đấy, đừng nhúc nhích nhé, tớ sẽ chỉ cho cậu xem.
Cô bé ra khỏi nơi ẩn nấp và cố gắng đi về phía chiếc bàn đầu gi.ường. Em lấy một cái bát nhỏ và một cái cốc mà em đặt ở đó. Khi đã chui lại vào dưới gầm gi.ường, em hãnh diện đưa cho con cú của em xem một quả dâu và nói bằng giọng chắc chắn “đây là màu đỏ”, “còn đây, đây là màu xanh”, em đưa cốc trà bạc hà ra và nói. “Cậu thấy chưa, màu sắc có mùi thơm đấy chứ ! Nếu cậu muốn, cậu có thể nếm thử, tớ thì không được nếm đâu, tại vì có ca mổ, tớ phải để bụng rỗng mà.”
Lauren tiến lại gần bên gi.ường.
- Cháu nói với ai vậy ? – cô hỏi Marcia.
- Cháu đã biết là cô ở đây mà. Cháu nói với bạn của cháu, nhưng cháu không thể cho cô xem nó được đâu, nó cứ trốn suốt ấy, vì nó sợ ánh sáng và vì nó sợ mọi người nữa.
- Nó tên là gì ?
- Emilio. Nhưng cô không nghe nó nói được đâu.
- Tại sao thế ?
- Cô không hiểu được.
Lauren quỳ xuống.
- Cô có thể chui vào gầm gi.ường với cháu được không ?
- Nếu cô không sợ bóng tối.
Cô bé tránh ra để Lauren chui vào dưới gầm gi.ường.
- Cháu có thể mang nó theo cháu lên đó được không ?
- Không được, đó là một quy định cũ ngớ ngẩn, các con thú không được phép vào phòng mổ, nhưng cháu đừng lo, có ngày tất cả những điều đó sẽ thay đổi.
Ngày mới báo hiệu sẽ rực nắng, Arthur thích đi bộ đến công ty kiến trúc của anh ở phố Jackson. Paul đợi anh ngoài phố.
- Thế nào ? – Paul hỏi bạn khi vừa thò bộ mặt hớn hở vào qua cánh cửa hé mở.
- Thế nào cái gì ? – Arthur hỏi lại và ấn nút máy pha cà phê.
- Con chó mất bao nhiêu thời gian ?
- Hai mươi phút !
- Tớ ghen tị với những buổi tối của cậu, ông bạn ạ ! Tớ nhận được điện thoại từ hai cô bạn gái của bọn mình ở Carmel, các cô ấy đã về và khá sẵn sàng cho một bữa ăn bốn người tối nay, nếu cậu sợ sẽ buồn chán thì mang theo cún con đi.
Paul vỗ vào mặt đồng hồ đeo tay, đã đến lúc phải đi. Hai người có cuộc hẹn gặp với một khách hàng quan trọng của công ty.
Lauren bước vào khoang khử trùng. Cánh ray duỗi ra, cô khoác vào người chiếc áo blouse mà một y tá đưa cho cô. Xỏ tay áo xong, cô thắt dây lưng lại phía sau và bước đến bên chiếc bồn bằng thép. Bụng bồn chồn lo sợ, cô bác sĩ phẫu thuật thần kinh trẻ bắt đầu rửa tay một cách kỹ lưỡng. Sau khi Lauren đã sấy khô tay, cô y tá rắc bột tan lên lòng bàn tay cô rồi mở ra một đôi găng tay tiệt trùng, Lauren xỏ ngay vào. Chiếc mũ màu xanh nhạt chụp trên đầu, khẩu trang trên miệng, cô hít một hơi thật sau rồi bước vào phòng mổ.
Ngồi sau bàn điều khiển của mình, Adam Peterson, chuyên gia về chụp ảnh thần kinh chức năng, đang kiểm tra lại hoạt động của hệ thống siêu âm tiền phẫu. Những bản âm IRM chụp bộ não của Marcia đã có ở trong máy. So sánh những hình ảnh này với những hình ảnh sẽ hiện ra tại chỗ trong lúc siêu âm, máy tính có thể thiết lập một cách chính xác phần não bị cắt bỏ trong quá trình phẫu thuật.
- o O o -
Theo dòng diễn tiến, hệ thống chụp ảnh, đáp ứng yêu cầu của Adam, sẽ đưa ra những hình ảnh mới đã được chỉnh sửa về bộ não của cô bé.
Vài phút sau, giáo sư Fernstein bước vào, cùng đi có đồng nghiệp của ông, bác sĩ Richard Lalonde từ Montreal đến.
Bác sĩ Lalonde chào kíp mổ rồi ngồi vào sau máy neuronavigator và nắm hai tay cầm. Được bác sĩ phẫu thuật điều khiển một cách khéo léo, những cánh tay máy nối với máy tính trung tâm sẽ cắt khối u chính xác đến từng milimét một. Trong suốt cuộc phẫu thuật, độ chính xác của việc cắt mổ sẽ có tính chất quyết định. Một sự chệch hướng rất nhỏ cũng có thể làm cho Marcia mất khả năng nói hoặc khả năng đi, và ngược lại, một sự thận trọng quá đáng sẽ khiến ca mổ trở thành vô ích. Lặng lẽ và tập trung, Lauren rà soát lại trong đầu từng chi tiết của ca mổ sắp sửa bắt đầu mà vì nó cô đã chuẩn bị không ngơi nghỉ từ nhiều tuần nay.
Đã được sửa soạn sẵn sàng ở phòng bên cạnh, cuối cùng thì Marcia cũng tiến vào phòng mổ trên một chiếc gi.ường băng ca. Các y tá đặt cô bé một cách rất thận trọng lên bàn mổ. Túi dịch truyền nối với tay em được treo trên chiếc cọc sào.
Norma, nữ y tá trưởng của bệnh viện, kể với Marcia là bà vừa nhận nuôi một chú gấu trúc con.
- Thế bác mang nó về bằng cách nào ? Bác được quyền mang nó về à ?
- Không, - Norma cười nói – nó vẫn ở lại nhà nó, ở Trung Quốc ấy, nhưng bác sẽ gửi tiền để chăm nom nó cho đến khi nó có thể cai sữa được.
Norma nói thêm là bà vẫn chưa nghĩ ra tên cho con thú ; cần phải đặt tên cho gấu trúc thế nào nhỉ ?
Trong khi cô bé suy nghĩ về câu hỏi, Norma nối những núm nhỏ dính trên ngực em với máy điện tim và bác sĩ gây mê cắm một cái kim nhỏ xíu vào ngón tay trỏ của em.
Cái que dò này sẽ giúp bác sĩ kiểm soát liên tục độ bão hoà khí máu của bệnh nhân. Bác sĩ bơm một mũi tiêm vào túi truyền dịch và cam đoan với Marcia là em có thể nghĩ tên cho con gấu trúc sau ca mổ, còn bây giờ thì phải đếm cùng bác sĩ cho đến mười. Thuốc gây mê chảy vào ống dẫn rồi thấm vào ven. Marcia ngủ thiếp đi khi đang đếm từ số hai đến số ba. Bác sĩ hồi sức lập tức kiểm tra các hằng số sống trên những máy khác nhau. Norma đóng lại cái đai trên trán Marcia để ngăn đầu em khỏi cử động.
Như nhạc trưởng của một dàn nhạc hàn lâm, giáo sư Fernstein điểm lại một vòng tình hình kíp mổ. Từ vị trí của mình, từng thành viên một trả lời là họ đã sẵn sàng. Fernstein ra hiệu cho bác sĩ Lalonde và ông này ấn vào hai càng máy neuronavigator, dưới cái nhìn chăm chú của Lauren.
Đường rạch đầu tiên được thực hiện vào lúc chín giờ hai mươi bảy phút, một cuộc du hành mười hai tiếng đồng hồ vào những vùng sâu thẳm nhất trong bộ não của một đứa trẻ vừa mới bắt đầu.
Đồ án mà Paul và Arthur giới thiệu có vẻ làm các khách hàng của họ thích thú. Các giám đốc của Hiệp hội doanh nghiệp, nơi đưa ra đấu thầu việc thiết kế trụ sở mới của hội, tập hợp xung quanh cái bàn gỗ gụ rộng mênh mông trong phòng hội đồng. Sau khi Arthur mô tả chi tiết suốt cả buổi sáng về diện mạo khu tiền sảnh tương lai, những không gian dành cho việc hội họp và những phần sử dụng chung, Paul thay Arthur trình bày tiếp từ buổi trưa. Paul dẫn giải những bản vẽ và những bức tranh được chiếu lên một màn hình sau lưng anh. Khi chiếc đồng hồ quả lắc treo trên tường trong phòng chỉ bốn giờ chiều, ông chủ tịch phiên họp cảm ơn hai kiến trúc về công việc mà học đã thực hiện. Những thành viên của ban lãnh đạo sẽ họp lại vào khoảng thời gian từ nay cho đến cuối tuần, để quyết định xem trong hai đồ án vào chung kết, đồ án nào sẽ được nhận thầu.
Arthur và Paul đứng dậy chào các chủ nhà rồi ra về. Trong thang máy, Paul ngáp một cái rõ dài.
- Tớ nghĩ bọn mình xoay xở khá đấy chứ nhỉ ?
- Chắc thế - Arthur trả lời hạ giọng.
- Cậu đang lo nghĩ chuyện gì à ?
- Theo cậu thì ở Macy’s có bán dây dắt chó loại co giãn không ?
Paul giơ tay và ngửa mặt lên trời. Tiếng chuông reo lên và cửa thang máy mở ra ở tầng hầm thứ ba của khu nhà xe.
Trước khi ngồi vào sau tay lái, Paul vặn người vài cái.
- Tớ kiệt sức rồi – anh nói. – Những ngày như thế này thật là hết cả hơi.
Arthur ngồi vào ôtô không bình luận lời nào.
Nhịp tim của Marcia ổn định. Fernstein yêu cầu tăng dần thuốc gây mê. Đợt siêu âm thứ hai xác nhận rằng ca phẫu thuật đang tiến triển bình thường. Từng milimét một, những cánh tay điện tử do bác sĩ Lalonde điều khiển cắt khối u nằm trong thuỳ chẩm bộ não của Marcia và nâng dần phạm vi cắt lên phía bề mặt. Đến giờ thứ tư, bác sĩ ngẩng đầu lên.
- Đổi phiên ! – nhà phẫu thuật đề nghị, mắt ông thể hiện sự mệt mỏi đã đến giới hạn.
 
Fernstein ra hiệu cho Lauren ngồi vào trước máy. Cô do dự giây lát rồi lấy được sức lực mà cô còn thiếu trong cái nhìn trấn an của giáo sư. Hàng ngàn lần cô đã ôn luyện những thao tác này trong những giờ diễn tập, nhưng hôm nay có một cuộc đời phụ thuộc vào năng lực của cô.
Cô vừa ngồi vào vị trí điều khiển, nỗi sợ tan biến ngay. Mặt Lauren ngời sáng. Ở phía đầu của hai chiếc kẹp, cô đang chạm tới một giấc mơ.
Cô điều khiển thật tuyệt vời, sự khéo léo của cô thể hiện rõ. Cả êkíp nhìn cô làm việc và Norma đọc thấy trong mắt giáo sư niềm tự hào về cô học trò của ông.
Lauren mổ một mạch không nghỉ cho đến giờ thứ bảy. Khi cô muốn được thay phiên, máy tính cho thấy việc cắt bỏ khối u đã thực hiện được bảy mươi sáu phần trăm. Lalonde ngồi lại vào vị trí. Bằng một cái nháy mắt ra hiệu, ông chúc mừng cô đồng nghiệp trẻ tuổi của mình về năng lực của cô.
- Tớ thả cậu xuống ở công ty rồi tớ vù về nhà – Paul bảo.
- Để tớ xuống ở Union Square, tớ phải đi mua một thứ.
- Tớ có thể biết tại sao cậu lại muốn mua dây dắt chó trong khi cậu chẳng hề có chó không ?
- Để cho một người bạn gái !
- Nói cho tớ an tâm đi, cô ta ít ra cũng có một con chó chứ ?
- Bà ấy bảy mươi chín tuổi, nếu điều đó có thể làm cậu yên lòng.
- Chưa chắc. – Paul thở dài và đỗ xe sát vỉa hè trước cửa hàng lớn Macy’s.
- Bọn mình gặp nhau ở đâu để ăn tối ? – Arthur xuống xe và hỏi.
- Ở Cliff House, vào lúc tám giờ tối, và cố gắng lên một tí, không thể nói rằng lần trước cậu nổi bật lên vì vẻ lịch thiệp được. Cậu có cơ hội thứ hai để gây một ấn tượng tốt, cố đừng làm lỡ dịp !
Arthur nhìn chiếc xe mui trần đi xa dần, anh đưa mắt lướt qua quầy kính và bước vào cửa hàng qua cánh cửa quay.
- o O o -
Bác sĩ gây mê nhận thấy sự chuyển hướng của đồ thị hiện ra trên máy. Ông lập tức kiểm tra độ bão hoà của máu. Sự thay đổi vừa hiện ra trên nét mặt của bác sĩ đã khiến kíp mổ phải lưu tâm. Trực giác của ông vừa nhắc ông phải cảnh giác.
- Có chỗ nào chảy máu không ? – ông hỏi.
- Hiện tại thì chưa thấy báo hiệu gì trên màn hình cả - Fernstein nghiêng người nhìn vào máy của bác sĩ Peterson và nói.
- Có cái gì đó không ổn ! – bác sĩ gây mê khẳng định.
- Tôi sẽ làm lại siêu âm – bác sĩ phụ trách soi chụp hình nói.
Không khí bình tĩnh đang ngự trị trong phòng mổ vụt biến mất.
- Cô bé đang xỉu đi ! – Bác sĩ Cobbler nói cụt lủn và tăng lưu lượng oxy lên.
Lauren cảm thấy bất lực. Cô dán mắt vào ông Fernstein và qua ánh mắt của ông, cô hiểu rằng tình hình đang chuyển thành nguy cấp.
- Cầm lấy tay cô bé đi, - giáo sư nói khẽ vào tai cô.
- Làm gì bây giờ ? – Lalonde hỏi Fernstein.
- Cứ tiếp tục ! Adam, siêu âm cho thấy gì ?
- Hiện tại thì chưa có gì đáng kể - bác sĩ siêu âm trả lời.
- Tôi thấy đã bắt đầu có loạn nhịp tim – Norma nhìn máy điện tim đang nhấp nháy và thông báo.
Richard Lalonde giận dữ đập tay xuống bàn.
- Rách động mạch não sau ! – ông nói cộc lốc.
Tất cả các thành viên của kíp mổ nhìn nhau. Lauren nín thở và nhắm mắt lại.
Lúc đó là mười bảy giờ hai mươi hai phút. Chỉ trong vòng một phút, phần vách bị hư tổn của động mạch cung cấp máu cho phần não sau của Marcia đã bị rách ra hai centimet. Dưới sức ép của dòng máu đang xối vọt ra, vết rách lại kéo dài thêm. Luồng máu ồ ạt tuôn từ vết rách ra tràn vào sọ não. Mặc dù giáo sư Fernstein đã lập tức cắm ngay một ống thông vào, lượng máu vẫn không ngừng dâng lên trong sọ não, nhấn chìm bộ não với tốc độ chóng mặt.
Vào lúc mười bảy giờ hai mươi bảy phút, trước những cặp mắt bất lực của các bác sĩ và y tá, Marcia vĩnh viễn ngừng thở. Bàn tay của cô bé, mà Lauren đang nắm trong tay cô, mở ra, như để giải phóng hơi thở cuối cùng của cuộc sống mà em đã cất giấu sâu trong lòng bàn tay mình.
Lặng lẽ, êkíp rời phòng mổ và tản đi trong hành lang. Chẳng ai có thể làm gì được cả. Khối u quái ác che lấp đã khiến cho ngay cả những máy móc tinh vi nhất của y học hiện đại cũng không phát hiện ra được chỗ phình mạch ở một động mạch nhỏ trong bộ não của Marcia.
Lauren ở lại một mình, cầm thêm một lúc nữa những ngón tay bất động của cô bé. Norma bước lại gần và tách những ngón tay đó ra khỏi bàn tay của nữ bác sĩ phẫu thuật trẻ tuổi.
- Đi thôi.
- Tôi đã hứa – Lauren thì thào nói.
- Đó là sai lầm duy nhất mà cô đã phạm phải ngày hôm nay.
- Giáo sư Fernstein đâu rồi ?
- Ông ấy phải đi gặp bố mẹ của cô bé.
- Giá mà tôi cũng có thể tự đi gặp học được, tự tôi.
- Tôi nghĩ cô đã quá đủ xúc động ngày hôm nay rồi. Nếu tôi được phép cho cô một lời khuyên, thì trước khi về nhà, cô nên đi dạo ở một cửa hàng lớn.
- Để làm gì ?
- Để nhìn cuộc đời, vô số cuộc đời !
Lauren xoa trán Marcia rồi phủ lại tấm vải màu xanh lên mắt em; cô rời phòng mổ.
Norma nhìn cô đi xa dần trong hành lang. Bà lắc đầu và tắt ngọn đèn treo phía trên bàn mổ, căn phòng chìm vào bóng tối.
Arthur đã tìm được cái mình cần ở tầng ba của cửa hàng : sợi dây dắt chó tự cuộn sẽ làm cho bà Morrison vui sướng. Vào những ngày xấu trời, bà có thể ngồi dưới mái che của toà nhà để tránh mưa, trong khi Paolo đi sục sạo thoả thích cái rãnh ven đường.
Thanh toán tiền xong, anh rời quầy thu ngân ; trên đường đi, một thiếu phụ đang chọn pyjama đàn ông nhìn anh mỉm cười, Arthur cười đáp lại rồi đi ra thang cuốn.
Trên thang cuốn, một bàn tay mảnh dẻ đặt lên vai anh. Arthur quay lại và thiếu phụ bước xuống một bậc thang để đến gần anh.
Trong tất cả các cuộc tình của mình, chỉ có một cuộc tình là anh hối tiếc vì đã trải qua…
- Chẳng lẽ anh không nhận ra em à ? – Carol-Ann hỏi.
- Xin lỗi, tâm trí anh còn để ở nơi khác.
- Em biết, em đã nghe tin anh sang sống ở Pháp. Anh khoẻ hơn rồi chứ ? – cô bồ cũ của Arthur hỏi, vẻ thông cảm.
- Ừ, sao em lại hỏi vậy ?
- Em cũng nghe tin là cái cô mà anh bỏ em để chạy theo… tóm lại, em biết là anh đã goá vợ, thật là buồn…
- Em nói về chuyện gì thế ? – Arthur bối rối hỏi.
- Em gặp Paul trong một buổi Cocktail hồi tháng trước. Em thật lòng rất buồn.
- Anh rất vui được gặp em, nhưng anh hơi bị muộn – Arthur nói.
Anh muốn bước xuống vài bậc, nhưng Carol-Ann níu lấy cánh tay anh và tự hào giơ cho anh xem chiếc nhẫn lóng lánh ở ngón tay cô ta.
- Tuần sau bọn em sẽ kỷ niệm một năm ngày cưới. Anh có nhớ Martin không ?
- Không nhớ rõ lắm – Arthur trả lời và đi vòng theo tay vịn để chuyển sang chiếc thang cuốn dẫn xuống tầng một.
- Anh không thể quên Martin được ! Đội trưởng đội khúc côn cầu ! – Carol-Ann trách móc Arthur với vẻ rất hãnh diện.
- À, đúng rồi, cái cậu cao to tóc vàng !
- Tóc nâu sẫm.
- Tóc nâu, nhưng cao to phải không ?
- Rất cao.
- Vậy đúng rồi đấy – Arthur nói và nhìn xuống mũi giầy.
- Thế anh vẫn chưa làm lại đời anh à ? – Carol-Ann hỏi, đầy vẻ thông cảm.
- Có chứ ! Làm rồi và lại phá rồi, đời mà ! – Arthur nói, mỗi lúc một thêm bực bội.
- Anh không định nói với em rằng một chàng trai như anh mà vẫn độc thân chứ ?
- Không, anh chẳng định nói với em đâu, vì chắc mười phút sau em sẽ quên ngay và điều đó chẳng có gì quan trọng cả - Arthur lẩm bẩm.
Sang một đoạn cầu thang mới, lại một hy vọng mới là Carol-Ann sẽ cần phải mua sắm gì ở tầng này, nhưng cô ta đi theo anh xuống tầng trệt.
- Em có vô số bạn gái độc thân ! Nếu anh đến dự bữa tiệc kỷ niệm ngày cưới của bọn em, em sẽ giới thiệu cho anh người đàn bà tương lai của đời anh. Em là một bà mối cực kỳ mát tay, em có tài đoán biết ai hợp với ai. Anh vẫn thích phụ nữ chứ ?
- Anh thích một người trong giới nữ ! Cảm ơn em, rất vui được gặp em và gửi lời thăm Martin nhé.
Anh chào Carol-Ann và chuồn thật nhanh. Khi anh đi ngang qua dãy hàng bày bán đồ mỹ phẩm của một hãng Pháp, một kỷ niệm bỗng trỗi dậy, ngọt ngào như mùi nước hoa thoát ra từ cái lọ nhỏ mà cô bán hàng đang giới thiệu với khách. Anh nhắm mắt lại, nhớ đến cái ngày anh bước trên lối đi này, mạnh mẽ vì một tình yêu vô hình và vững chắc. Vào khoảnh khắc ấy, anh cảm thấy hạnh phúc như chưa bao giờ được vậy trong đời. Anh bước vào chiếc cửa quay.
Vòng quay của chiếc cửa đưa anh ra vỉa hè của Union Square. Ma-nơ-canh trong quầy kính mặc một chiếc váy dạ hội trang nhã có chiết eo. Bàn tay gỗ thanh tú giơ một ngón hờ hững chỉ vào người qua lại trên đường phố. Trong ánh mặt trời màu da cam, chiếc giày có vẻ nhẹ bỗng. Anh đứng bất động, lơ đãng. Anh không nghe thấy tiếng một chiếc môtô ba bánh đang lao đến sau lưng anh. Người lái đã không làm chủ được tay lái ở chỗ rẽ của phố Polk, một trong bốn con phố đâm ra quảng trường lớn này. Chiếc môtô cố tránh một người đàn bà qua đường, nó nghiêng ngả, lượn những đường dích dắc, động cơ rú lên. Trên đường phố, mọi người hoảng loạn; một người đàn ông mặc com lê lao người nằm bẹp xuống đất để tránh chiếc xe, một người khác lùi lại vấp ở phía sau, một phụ nữ kêu thét lên và nấp sau buồng điện thoại công cộng. Chiếc môtô tiếp tục hành trình điên loạn của nó. Khoang xe chồm lên vỉa hè, giật tung một tấm biển, nhưng nó húc phải chiếc máy đo thời gian đậu xe được chôn chặt xuống nền đường; bằng một nhát cắt ngọt, chiếc máy này đã tách thùng xe ra khỏi môtô. Không còn gì kìm giữ nó lại nữa, với hình thù của một trái phá và tốc độ cũng gần như vậy, nó lao thẳng về phía trước. Khi chạm vào chân Arthur, nó nâng anh lên và hất tung lên cao. Thời gian dường như chùng xuống và đột ngột giãn ra như một sự im lặng kéo dài. Phần trước có hình thoi của khoang xe đâm vào cửa kính. Cái quầy kính rộng mênh mông vỡ tung ra hằng hà sa số mảnh vụn. Arthur lăn dưới nền nhà đến chỗ cánh tay của ma-nơ-canh giờ đây đang nằm trên tấm thảm thuỷ tinh. Một bức màn mỏng lên mắt anh, ánh sáng có màu mờ đục, miệng anh có vị tanh của máu. Cơ thể tê liệt, anh muốn nói với mọi người rằng đây chỉ là một tai nạn ngớ ngẩn. Những lời nói tắc lại trong họng anh.
Anh muốn đứng dậy nhưng hãy còn quá sớm. Đầu gối anh hơi loạng choạng, và có một giọng nói thét lên rất to là cứ nằm yên. Cấp cứu sắp tới.
Paul sẽ cáu nếu anh đến muộn. Phải dắt con chó của bà Morrison đi dạo, hôm nay có phải là chủ nhật không ? Không, có lẽ là thứ Hai. Anh phải ghé qua hãng để ký các đồ án. Vé gửi xe đâu rồi nhỉ ? Túi áo của anh chắc bị xé rách rồi. Lúc trước anh để tay trong túi áo, bây giờ tay lại đặt dưới lưng anh và làm anh hơi bị đau. Không nên ngọ nguậy đầu, những mảnh thuỷ tinh vỡ này sắc lắm. Ánh sáng chói mắt, nhưng những âm thanh thì dần dần nghe rõ hơn. Bớt loá rồi. Mở mắt ra. Đó là gương mặt của Carol-Ann. Vậy là cô ta sẽ không buông tha anh, anh không muốn được người khác giới thiệu cho người đàn bà của đời anh đâu, anh đã biết cô ấy rồi cơ mà, giời ạ ! Có lẽ anh sẽ phải đeo một cái nhẫn đính hôn thì mới yên thân được. Tí nữa anh sẽ quay lại cửa hàng mua một cái. Paul sẽ ghét chuyện này đây, nhưng anh thì sẽ được giải trí vui ra trò.
Phía xa có tiếng còi xe cấp cứu, nhất định phải đứng dậy trước khi xe đến, không nên để mọi người lo lắng vô ích, anh không đau chỗ nào cả, có lẽ chỉ hơi đau một chút trong miệng thôi, anh đã tự cắn phải má mình. Ở má thì không quan trọng, vết lở sẽ gây khó chịu, nhưng hoàn toàn không đáng ngại. Thật là ngớ ngẩn, cái áo vét của anh chắc là hỏng hẳn rồi, Arthur thích cái áo vải tuýt này lắm. Sarah cho là vải tuýt trông già, nhưng anh chẳng quan tâm đến điều mà Sarah nghĩ, cô ấy đi những đôi giày cao gót thô thiển nhất trần đời, với mũi nhọn hoắt. May mà anh đã nói với Sarah cái đêm ở cùng nhau ấy chỉ là một tai nạn, họ không hợp nhau, đó chẳng phải là lỗi của ai cả. Người lái môtô có bị sao không nhỉ ? Hẳn là cái ông đội mũ an toàn kia. Xem ra ông ta chẳng hề hấn gì với cái vẻ mặt ăn năn ấy.
“Mình sẽ chìa tay cho Carol-Ann, cô ta sẽ đi kể cho tất cả đám bạn gái là cô ta đã cứu sống mình, vì chính cô ta đã giúp mình đứng dậy.”
- Arthur ?
- Carol-Ann ?
- Em đã biết chắc là thế nào cũng có anh trong cái thảm hoạ khủng khiếp này mà – thiếu phụ trẻ hốt hoảng nói.
Anh bình tĩnh phủi vai áo vét, giật đi mảnh túi áo treo lủng lẳng một cách thảm hại, lắc đầu để rũ bỏ những mảnh vỡ thuỷ tinh.
- Sợ quá đi mất ! Anh may mắn lắm đấy – Carol-Ann nói tiếp bằng một giọng cao chói tai.
Arthur chăm chú nhìn Carol-Ann, vẻ nghiêm trọng.
- Mọi sự đều tương đối, Carol-Ann ạ. Áo vét của anh rách tơi tả, người anh đầy vết xước và anh liên tục có những cuộc gặp gỡ tai hại, ngay cả khi anh chỉ đi mua có mỗi một cái dây dắt chó cho bà hàng xóm thôi.
- Dây dắt chó cho bà hàng xóm… Anh may mắn lắm vì đã thoát được khỏi cái tai nạn này mà người vẫn gần như nguyên vẹn đấy ! – Carol-Ann phẫn nộ.
Arthur nhìn cô ta, anh lấy vẻ ngẫm nghĩ, cố gắng hết mức có thể để giữ thái độ lịch sự. Không chỉ giọng nói của Carol-Ann làm cho anh bực tức, mà tất cả mọi thứ thuộc về cô ta đối với anh đều không chịu đựng nổi. Anh thử lấy lại đôi chút thăng bằng rồi nói bằng một giọng cả quyết và bình thản.
- Em có lý, anh không hẳn là đúng lắm. Anh thật may mắn vì đã rời bỏ em, rồi gặp được người đàn bà của đời mình, nhưng lúc đó cô ấy lại đang hôn mê ! Mẹ đẻ cô ấy muốn người ta làm euthanasie cô ấy, nhưng anh may mắn kinh khủng vì cậu bạn thân nhất của anh đã vui lòng giúp một tay để đi bắt cóc cô ấy ở bệnh viện.
Lo ngại, Carol-Ann lùi lại một bước, Arthur tiến lên một bước.
- Anh nói “đi bắt cóc cô ấy” có nghĩa là thế nào ? – cô hỏi bằng một giọng rụt rè và ôm chặt cái túi vào sát ngực.
- Bọn anh đã đánh cắp cơ thể cô ấy! Chính Paul đã xoáy cái xe cứu thương đấy, chính vì điều này nên hắn tự thấy bắt buộc phải đi kể cho tất cả mọi người là anh goá vợ; nhưng thực ra, Carol-Ann ạ, anh chỉ goá có một nửa thôi ! Đây là một loại rất đặc biệt !
Đôi chân Arthur không còn sức lực, anh hơi lảo đảo. Carol-Ann muốn đỡ anh, nhưng Arthur đã tự đứng thẳng lại.
- Không, cái may thực sự là Lauren đã có thể giúp anh duy trì sự sống cho cô ấy. Là bác sĩ dù sao cũng có lợi thật đấy, khi cơ thể và linh hồn của mình bị tách rời nhau. Mình có thể tự chăm sóc chính mình !
Miệng Carol-Ann há hốc ra để tìm kiếm chút không khí. Arthur hoàn toàn chẳng cần thở lấy hơi, anh chỉ cần lấy lại thăng bằng một chút. Anh bám vào tay áo Carol-Ann, cô ta giật nảy mình và rú ngay lên một tiếng.
- Thế rồi cô ấy tỉnh dậy, rút cuộc, điều đó cũng là một may mắn kỳ diệu ! Thế đấy, Carol-Ann ạ, em thấy đấy, cái may mắn thực sự, đó chẳng phải là sự đoạn tuyệt giữa chúng ta, chẳng phải là cái viện bảo tàng ở Paris ấy, chẳng phải là cái môtô ba bánh kia, mà là cô ấy, cơ may thực sự của đời anh ! – Anh nói, kiệt sức và ngồi xuống bộ khung của cỗ xe.
Chiếc xe cứu thương mới bóng nhoáng của bệnh viện vừa đỗ lại bên lề đường. Trưởng nhóm cấp cứu đi vội về phía Arthur giữa lúc Carol-Ann đang ngớ người ra, nhìn anh chòng chọc.
- Chào anh, ổn chứ ?
- Không ổn tí nào ! – Carol-Ann khẳng định.
Nhân viên cấp cứu khoác tay anh và định đưa anh ra xe cứu thương.
- Ổn cả mà, tôi đảm bảo với anh như vậy – Arthur nói và tự gỡ mình ra.
- Phải khâu vết thương trên trán anh – Nhân viên cấp cứu dứt khoát yêu cầu trong khi Carol-Ann ra sức ra hiệu cho ông ta là phải đưa Arthur đi càng nhanh càng tốt.
- Tôi chẳng hề đau chỗ nào cả, tôi cảm thấy khoẻ lắm, làm ơn để cho tôi đi về nhà.
- Với cái đống thuỷ tinh tung toé này, rất có khả năng là anh đã bị những mảnh vỡ cực nhỏ rơi vào mắt. Tôi phải đưa anh đi thôi.
Mệt mỏi, Arthur buông xuôi. Nhân viên cấp cứu đặt anh nằm lên cáng. Ông ta phủ lên mắt anh hai miếng gạc khử trùng, trong khi mắt anh còn chưa được rửa, cần phải tránh những cử động có thể làm rách giác mạc. Vòng băng cuộn quanh đầu Arthur lúc này nhấn anh chìm vào một màn tối bất tiện.
Xe cứu thương hú còi đi lên phố Sutter, rẽ sang đại lộ Van Ness và đi về hướng bệnh viện Memorial San Francisco.
 
Chương 06Một hồi chuông vang lên. Cửa thang máy mở ra ở tầng ba. Hàng chữ ghi trên tấm biển gắn trên tường chỉ lối vào khoa thần kinh. Lauren đi ra khỏi thang máy mà không chào các đồng nghiệp đang đi xuống những tầng dưới. Những chiếc đèn neon gắn trên trần nhà ở dãy hành lang dài hắt ánh phản chiếu xuống nền nhà bóng nhoáng. Đôi giày của cô kêu kèn kẹt trên lớp vải lót sàn theo mỗi bước chân đi. Cô giơ tay cào khẽ vào cửa phòng số 307, nhưng cánh tay cô rơi xuôi, nặng nhọc. Cô bước vào.
Không còn cả vải trải gi.ường lẫn gối ở đầu gi.ường. Cái cọc để mắc dịch truyền đứng trơ trụi, thẳng đơ như một bộ xương, bị dẹp vào một góc cạnh tấm riđô ngăn với buồng tắm. Chiếc rađio đặt trên bàn đầu gi.ường câm lặng, những con thú nhồi bông, sáng nay còn tươi cười trên bệ cửa sổ, đã đi làm nhiệm vụ ở các phòng bệnh khác. Ở mảng tường lúc trước có treo những bức tranh trẻ con, giờ chỉ còn lại vài mẩu băng dính.
Bé Marcia đã lịm đi vào buổi chiều, một số người sẽ nói như vậy, một số khác sẽ nói đơn giản là em đã chết, nhưng đối với tất cả những ai làm việc ở tầng này, căn phòng ấy sẽ vẫn là phòng của em thêm vài giờ nữa. Lauren ngồi xuống đệm, vuốt nhẹ tấm vải bọc. Cánh tay run rẩy của cô vươn đến chiếc bàn đầu gi.ường và mở ngăn kéo ra. Cô lấy tờ giấy gập tư và đợi một chút rồi mới đọc bí mật viết trong đó. Cô bé ra đi với cặp mắt mù đã nhìn chính xác. Màu mắt của Lauren mờ đi dưới hàng lệ. Cô cúi gập người để ngăn một cơn co thắt.
Cánh cửa hé mở, nhưng Lauren không nghe thấy tiếng thở của một người đàn ông có hai thái dương bạc trắng đang nhìn cô khóc.
Trang nghiêm và lịch lãm trong bộ complê đen, bộ râu màu muối tiêu cạo sát đến má, Santiago bước nhẹ đến bên cạnh cô, anh đặt tay lên vai cô.
- Các anh chị không có lỗi gì cả - anh thì thầm bằng một giọng pha ngữ điệu Achentina - Các anh chị chỉ à bác sĩ, đâu phải thánh thần.
- Còn anh, anh là ai? - Lauren thì thào giữa những tiếng nức nở.
- Bố cháu, tôi đến lấy những đồ đạc còn lại của cháu, mẹ cháu không còn sức nữa. Chị phải trấn tĩnh lại. Có những đứa trẻ khác ở đây cần đến chị.
- Lẽ ra là phải ngược lại - Lauren vừa nói vừa khóc nức lên.
- Ngược lại? - Người đàn ông bối rối hỏi.
- Lẽ ra tôi phải là người an ủi anh - cô càng khóc to hơn.
Bị bản tính dè dặt kìm giữ, người đàn ông do dự trong chốc lát; rồi anh vòng tay ôm Lauren và siết chặt cô vào người mình. Đôi mắt màu xanh da trời bên khoé đầy nếp nhăn cũng bắt đầu nhoà lệ; vậy là, như thể vì lịch sự, để không bỏ mặc Lauren, rốt cuộc anh đã chấp nhận cho nỗi đau của mình được tự do bộc lộ.
Xe cứu thương dừng lại dưới mái che của khoa cấp cứu. Người lái xe và nhân viên cấp cứu dắt Arthur đến tận ô cửa kính của phòng tiếp đón bệnh nhân.
- Anh đã đến nơi rồi - nhân viên cấp cứu nói.
- Anh không muốn tháo cái băng này cho tôi à? Tôi đảm bảo với anh là tôi không sao cả, tôi chỉ muốn về nhà thôi.
- Tốt lắm! - Betty tiếp lời bằng một giọng đầy uy quyền và xem phiếu sơ cứu mà nhân viên cấp cứu vừa trao cho chị. - Tôi cũng thế, tôi cũng muốn anh về nhà anh - chị tiếp tục - tôi muốn tất cả những người đang đợi trong tiền sảnh này về nhà họ, và để kết thúc, cả tôi nữa, tôi cũng sẽ vui sướng được về nhà tôi. Nhưng trong khi chờ đợi Chúa Trời thực hiện điều ước của chúng ta, chúng tôi sẽ phải khám bệnh cho anh và cho cả những người kia nữa. Sẽ có người đến đưa anh đi khám.
- Trong bao lâu nữa - Arthur hỏi bằng một giọng gần như rụt rè.
Betty nhìn lên trần nhà, chị giơ tay lên trời và thốt lên:
- Có Trời mới biết được! Đưa anh ta vào phòng đợi - chị nói với các nhân viên cấp cứu rồi bỏ đi.
Bố của Marcia đứng dậy và mở tủ. Anh lấy ra hộp các tông nhỏ đựng đồ đạc của cô bé.
- Cháu nó yêu chị lắm - anh nói không quay người lại.
Lauren cúi đầu.
- Thực ra, đó không phải là điều mà tôi muốn nói - người đàn ông lại nói.
Và do Lauren vẫn lặng yên, anh bèn đặt cho cô một câu hỏi khác:
- Dù tôi có nói gì ở đây, theo nguyên tắc của ngành y tế thì chị cũng không tiết lộ, phải không?
Lauren trả lời rằng cô hứa với anh như vậy, Santiago bèn tiến đến sát gi.ường, anh ngồi xuống cạnh cô và nói khẽ:
- Tôi muốn cảm ơn chị đã cho phép tôi được khóc.
Và cả hai người ngồi lại đó, gần như bất động
- Thỉnh thoảng anh vẫn kể chuyện cho Marcia nghe phải không? - Lauren hạ giọng.
- Tôi sống xa con gái tôi, tôi về đây vì ca mổ này thôi. Nhưng tối tối, tôi gọi điện cho cháu từ Buenos Aires, cháu đặt ống nghe lên gối và tôi kể cho cháu nghe câu chuyện về một đám muông thú và cây cỏ sống giữa một khu rừng ở một vạt rừng thoáng đãng chưa bao giờ được con người biết đến. Và câu chuyện cổ tích này kéo dài hơn ba năm. Với con thỏ có phép tiên, những con nai, những cái cây có tên riêng, con đại bàng cứ bay lòng vbòng vì cánh này của nó ngắn hơn cánh khác, thỉnh thoảng tôi lại bị nhầm lẫn trong câu chuyện của mình, nhưng hễ nhầm một tí là Marcia nhắc tôi ngay. Không thể có chuyện gặp lại quả cà chua thông thái, hay quả dưa chuột cười sằng sặc như điên, ở một chỗ nào khác ngoài nơi mà hôm trước bố con tôi đã để chúng lại.
- Có một con cú trong vạt rừng đó không?
Santiago mỉm cười.
- Cái con này là một nhân vật ngộ lắm! Emilio là người gác đêm. Trong khi tất cả các con thú khác ngủ, nó thức để bảo vệ những con kia. Thực ra, công việc này chỉ là một cái cớ thôi, chú cú này là một anh chàng cực kỳ nhát gan. Bình minh lên là chú ta bay cuống cuồng đến một cái hang. Chú ta trốn ở đó vì chú ta sợ ánh sáng. Con thỏ thì lúc nào cũng tốt, nó biết chuyện của cú và nó không bao giờ tiết lộ bí mật này ra. Marcia thường ngủ thiếp đi trước khi câu chuyện kết thúc, tôi nghe tiếng cháu thở vài hút trước khi mẹ cháu dập máy. Tiếng thở của cháu nghe như một điệu nhạc tuyệt đẹp, những nốt nhạc ấy đi theo tôi vào giấc ngủ.
Người cha của cô bé im bặt. Anh đứng dậy, bước đến cửa ra vào.
- Chị biết không, ở bên đó, ở Achentina ấy, tôi xây những cái đập, những công trình lớn, nhưng niềm tự hào của tôi là cháu!
- Khoan đã! - Lauren nói bằng một giọng nhẹ nhàng.
Cô cúi xuống và nhìn vào gầm gi.ường, một con cú trắng đang chờ đợi, hai cánh xếp chéo. Cô lấy con vật nhồi bông ra và đưa cho Santiago. Người đàn ông bước lại về phía cô, anh đón nhận con chim và khẽ khàng vuốt bộ lông của nó.
- Chị cầm lấy đi - anh nói với Lauren và đưa lại cho cô con cú trắng. - Hãy chữa lại đôi mắt cho chú ta, chị là bác sĩ, hẳn là chị có thể làm được điều này. Hãy cho chú ta tự do, làm sao để chú ta không bao giờ sợ nữa.
Anh chào cô và ra khỏi phòng. Khi chỉ còn lại một mình trong hành lang, anh áp chặt vào người mình cái hộp các tông nhỏ.
Máy nhắn tin của Lauren rung lên, bộ phận đón tiếp của khoa cấp cứu đang tìm cô. Cô vào phòng dành cho các y tá ở tầng này và nhấc máy điện thoại. Betty nói ơn giời là Lauren vẫn còn ở đây, khoa cấp cứu vẫn đầy ắp bệnh nhân, cần có tăng viện ngay tức khắc.
- Em xuống ngay đây - Lauren nói và dập máy.
Trước khi ra khỏi phòng, cô nhét vào túi áo blouse của mình chú cú ngộ nghĩnh; con vật bé nhỏ rất cần hơi ấm con người, chiều nay, nó vừa mất người bạn thân nhất của nó.
- o O o -
Arthur không thể đợi được nữa, anh tìm điện thoại di động của mình trong túi bên phải áo vét, nhưng không còn túi phải ở áo vét của anh nữa.
Mắt bị băng kín, anh cố đoán bây giờ là mấy giờ. Paul sẽ cáu lắm đây, anh nhớ hôm nay anh đã nghĩ rằng Paul sẽ cáu, nhưng anh quên mất là vì sao. Anh đứng dậy và mò mẫm tiến về phía bàn đón tiếp. Betty vội chạy ra đón anh.
- Anh thật quá thể!
- Tôi sợ các bệnh viện lắm.
- Thôi được, anh đã ra đây rồi thì ta tranh thủ điền tờ khai nhập viện. Anh đã đến đây bao giờ chưa?
- Sao chị lại hỏi vậy? - Arthur đứng bên quầy tiếp đón, lo ngại trả lời.
- Vì nếu các số liệu của anh đã có trong máy tính thì sẽ nhanh hơn.
Arthur trả lời bằng một câu phủ nhận. Betty nhớ mặt người khá tốt, và mặc dù người đàn ông này bị băng kín mắt, những đường nét của anh ta trông có vẻ quen quen. Có lẽ cô đã gặp anh ta ở chỗ khác? Mà rốt cuộc thì điều đó cũng chẳng quan trọng mấy, lúc này cô có quá nhiều việc để làm hơn là nghĩ về chuyện này.
Arthur muốn về nhà, thời gian chờ đợi quá dài và anh muốn tháo băng ra.
- Các chị đang quá tải, mà tôi thì cảm thấy khoẻ thật đấy, - anh nói - tôi đi về nhà đây.
Betty giữ chặt tay anh lại không nể nang.
- Cứ thử xem!
- Thử thì sao nào? - Arthur hỏi với vẻ gần như thích thú.
- Trong vòng sáu đến mười hai tháng tới, nếu anh bị bất cứ thứ bệnh vớ vẩn gì và cần chữa chạy, anh có thể vĩnh biệt bảo hiểm y tế của anh! Nếu anh bước qua ngưỡng cửa của căn phòng này, dù chỉ để ra ngoài hút thuốc lá thôi, tôi sẽ gửi trả tờ khai của anh với ghi chú rằng anh không chịu khám sức khoẻ. Thế là ngay cả khi anh chỉ bị đau răng một tí, hãng bảo hiểm của anh cũng sẽ tống cổ anh đi!
- Tôi không hút thuốc! - Arthur nói và dặt tay lên quầy tiếp tân.
- Tôi biết, thật đáng sợ khi phải ở trong bóng tối, nhưng anh hãy kiên nhẫn, bác sĩ đây rồi này, cô ấy vừa ra khỏi thang máy phía sau lưng anh.
Lauren đến gần quầy đón tiếp. Từ khi rời phòng Marcia, cô không thể thốt lên được một lời. Cô nhận hồ sơ từ tay cô y tá và chăm chú đọc tờ trình của nhân viên cấp cứu, đồng thời dắt tay dẫn Arthur vào phòng khám số 4. Cô kéo rèm cửa lại và giúp anh nằm lên gi.ường. Khi anh đã nằm xuống, cô bèn bắt đầu tháo băng ra.
- Tạm thời anh cứ để mắt nhắm lại nhé - cô nói.
Vài câu nói mà cô vừa thốt ra, tuy bằng một giọng dịu dàng, cũng đủ làm cho tim Arthur thót lại. Cô lấy hai miếng gạc và vạch mi mắt anh ra, nhỏ nước cất vào ngập mắt.
- Anh có đau không?
- Không.
- Anh có cảm giác đã bị một mảnh vỡ rơi vào không?
- Hoàn toàn không, cái băng này là do ông cấp cứu nghĩ ra, tôi chẳng bị sao cả.
- Ông ta làm đúng đấy. Bây giờ anh có thể mở mắt ra được rồi!
Một vài giây cần thiết để nước mắt chảy hết. Khi Arthur đã nhìn rõ lại được, tim anh bắt đầu đập mạnh hơn. Ước nguyện mà anh bày tỏ bên mộ mẹ vừa được thực hiện.
- Anh không sao cả chứ? - Nhìn thấy vẻ nhợt nhạt trên mặt người bệnh, Lauren hỏi.
- Không sao - anh đáp, họng se lại.
- Anh hãy thư giãn đi!
Lauren cúi xuống người anh để dùng kính lúp xem xét hai giác mạc. Trong khi cô khám mắt cho anh, khuôn mặt của họ kề sát nhau đến mức môi họ gần như chạm vào nhau.
- Mắt anh hoàn toàn không sao cả, anh may mắn lắm đấy!
Arthur không bình luận một lời.
- Anh không bị ngất chứ?
- Không, chưa đâu!
- Anh đùa đấy à?
- Tôi mới chỉ thử một chút.
- Anh có đau đầu không?
- Không.
Lauren luồn tay xuống dưới lưng Arthur và nắn cột sống.
- Có đau gì không?
- Hoàn toàn không.
- Anh có một vết bầm máu rõ đẹp ở môi. Há miệng ra nào!
- Nhất thiết phải làm như vậy sao?
- Thì tôi vừa yêu cầu anh thế mà lại.
Arthur thực hiện, Lauren cầm lấy chiếc đèn pin.
- Ồ, xem này, ít nhất là phải khâu năm mũi.
- Đến thế cơ à?
- Tôi cũng đùa đấy! Súc miệng bằng nước sát trùng trong bốn ngày là đủ lắm rồi.
 
Cô sát trùng vết thương ở trán anh và dùng một loại kem bôi dính để khép miệng vết thương lại. Sau đó cô mở ngăn kéo, xé gói giấy bọc một miếng băng dính rồi dán miếng băng ấy lên trên vết thương.
- Tôi dán băng hơi bị lấn vào lông mày, anh sẽ khó chịu một chút khi tháo miếng băng này ra. Những chỗ sây sát khác thì không đáng kể, nó sẽ tự liền sẹo. Tôi sẽ kê đơn cho anh dùng vài ngày một loại kháng sinh phổ rộng, chỉ để phòng ngừa thôi mà.
Arthur cài cúc cổ tay áo và đứng dậy, anh cảm ơn Lauren.
- Đừng có vội thế - cô nói và đẩy anh lại vào gi.ường khám bệnh - Tôi còn phải đo huyết áp của anh nữa.
Cô nhấc máy đo huyết áp ra khỏi giá đặt của nó gắn trên tường và lồng vào cánh tay Arthur. Huyết áp kế đo tự động. Tấm băng tay phồng lên và xẹp đi theo những khoảng thời gian đều đặn. Một vài giây đủ để những con số hiện lên trên màn hình gắn ở đầu gi.ường.
- Anh mắc chứng tim đập nhanh à? - Lauren hỏi.
- Không - Arthur trả lời, hết sức bối rối.
- Thế nhưng anh lại có một cơn tim đập nhanh đáo để, tim anh đập hơn 120 lần trong một phút và huyết áp của anh lên đến 180, quá cao đối với một người ở tuổi anh.
Arthur nhìn Lauren, anh tìm một lý do để biện hộ cho quả tim của mình.
- Tôi hơi bị chứng bệnh ám, cứ vào bệnh viện là tôi hết hồn.
- Bạn trai cũ của tôi chỉ cần nhìn thấy cái áo blouse của tôi là muốn xỉu rồi.
- Bạn trai cũ của cô?
- Có gì quan trọng đâu.
- Thế bạn trai hiện tại của cô, anh ấy có chịu đựng được cái ống nghe của bác sĩ kô?
- Dù sao tôi cũng muốn anh đến chỗ bác sĩ tim mạch khám thì hơn, tôi có thể nhắn tin cho một bác sĩ như vậy, nếu anh muốn.
- Không cần thiết đâu - Arthur nói bằng một giọng run run - Đây không phải là lần đầu tiên tôi bị như vậy; à không, ở bệnh viện thì đây là lần đầu tiên; khi tôi tham dự các kỳ thi, ngực của tôi cũng hơi đập thình thịch, tôi hay bị hồi hộp.
- Anh làm nghề gì mà còn dự thi? - Lauren thích thú hỏi trong lúc thảo đơn thuốc.
Arthur ngập ngừng chưa trả lời ngay. Anh thừa lúc cô tập trung vào tờ giấy đang viết để nhìn cô, lặng lẽ và chăm chú. Lauren không thay đổi, có lẽ trừ kiểu tóc. Cái sẹo nhỏ trên trán mà anh rất yêu gần như đã biến mất hẳn. Và vẫn cái nhìn khó tả và tự tin ấy. Anh nhận rất từng nét biểu hiện của gương mặt cô, chẳng hạn như chuyển động của đường vòng cung dưới mũi cô khi cô nói. Nụ cười xinh đẹp của cô đưa anh về với những kỷ niệm hạnh phúc. Người ta có thể cảm thấy thiếu ắng ai đó đến mức này không? Tấm băng tay lập tức phồng lên và những con số mới hiện lên. Lauren ngẩng đầu lên để xem.
- Tôi là kiến trúc sư.
- Thế anh cũng làm việc vào ngày nghỉ cuối tuần chứ?
- Đôi khi cả ban đêm nữa, chúng tôi luôn phải làm việc như trâu ấy.
- Tôi hiểu ý anh mà.
Arthur ngồi dựng dậy trên gi.ường.
- Cô đã từng quen một kiến trúc sư à? - anh hỏi bằng một giọng run rẩy.
- Theo tôi nhớ thì không, nhưng tôi nói về nghề của tôi cơ, chúng ta giống nhau ở chỗ đó, làm việc không kể giờ giấc.
- Thế anh bạn của cô làm nghề gì?
- Đã hai lần anh hỏi tôi có còn độc thân hay không rồi đấy... Tim anh đập nhanh quá, tôi muốn để một đồng nghiệp của tôi khám cho anh.
Arthur tháo tấm băng tay đo huyết áp ra và đứng dậy.
- Lúc này, chính cô mới là người hay lo lắng đấy!
Arthur muốn về nghỉ ngơi. Ngày mai mọi thứ sẽ tốt đẹp. Anh hứa sẽ đi kiểm tra lại huyết áp trong vài ngày tới, và nếu có cái gì đó bất thường, anh sẽ đi khám ngay lập tức.
- Anh hứa chứ? - Lauren nhất định yêu cầu.
Arthur lạy trời để cô đừng nhìn anh như vậy nữa. Nếu tim anh không nổ tung ra trong chốc lát, anh sẽ ôm cô vào vòng tay mình để nói với cô rằng anh đã yêu cô như điên như dại, rằng thật khó khi lại về sống ở chính thành phố này và không được trò chuyện cùng nhau. Anh sẽ kể hết cho cô nghe, nếu như anh có thời gian để kể trước khi cô gọi bảo vệ đến và nhốt anh lại. Anh cầm lấy áo vét của mình, nói đúng hơn là phần còn ại của cái áo vét, tránh không mặc áo vào trước mặt cô và nói cảm ơn cô. Anh rời khỏi căn phòng thì nghe thấy tiếng cô gọi phía sau lưng:
- Arthur?
Lần này, anh cảm thấy tim mình nhảy vọt lên đến tận đầu. Anh quay người lại.
- Tên anh như vậy phải không?
- Vâng - anh thốt ra, miệng đã cạn khô nước bọt.
- Đơn thuốc của anh này! - Lauren nói và đưa cho anh tờ giấy màu hồng.
- Cảm ơn cô - Arthur cầm tờ giấy và trả lời.
- Anh đã cảm ơn tôi rồi. Anh mặc áo vét vào đi. Giờ này buổi tối thường lạnh đấy, và cơ thể anh hôm nay đã mệt đủ rồi.
Arthur vụng về xỏ một tay vào áo, lúc vừa định bước chân đi, anh quay người lại và nhìn Lauren hồi lâu.
- Có chuyện gì vậy?
- Cô có một con cú trong túi áo - anh nói với nụ cười buồn trên môi.
Và Arthur rời phòng khám.
Lúc anh đi ngang qua tiền sảnh, Betty gọi anh từ sau ô kính. Anh bước lại chỗ chị, vẻ ngơ ngẩn.
- Anh ký vào rồi đi đâu thì đi -chị nói và chìa cho anh một quyển sổ to màu đen.
Arthur ký vào sổ của khoa cấp cứu.
- Anh có chắc là anh khoẻ mạnh không? - nữ y tá trưởng lo ngại - Trông anh có vẻ như bị choáng.
- Rất có thể - Arthur trả lời rồi bước đi.
Arthur đợi taxi trước cửa khoa cấp cứu, và từ quầy đón tiến, nơi Betty đang phân loại các phiếu nhập viện, Lauren nhìn theo anh mà anh không nhận ra.
- Chị có thấy anh chàng này trông hơi giống anh ta không?
- Chị chẳng biết em nói về ai cả - nữ y tá trả lời, đầu vùi vào đống hồ sơ - Đôi khi, chị cứ tự hỏi không biết mình làm việc trong một bệnh viện hay một cơ quan hành chính?
- Cả hai, em nghĩ thế. Chị nhìn anh chàng nhanh lên, và nói cho em biết chị thấy anh ta thế nào. Trông cũng không đến nỗi, phải không?
Betty nâng cặp kính lên, đưa mắt nhìn qua một cái rồi lại vùi đầu vào đống giấy tờ của mình. Một chiếc xe của hãng Yellow Cab vừa đỗ lại, Arthur trèo và xe và chiếc xe đi xa dần.
- Chẳng giống tí nào! - Betty nói.
- Chị nhìn anh ta có hai giây!
- Ừ, nhưng đây là lần thứ một trăm em hỏi chị điều này, cho nên chị được luyện quen rồi, thêm nữa chị đã nói với em là chị có tài nhớ mặt mà lại. Nếu đó là anh chàng của em thì chị đã nhận ra ngay rồi, hồi ấy chị có bị hôn mê đâu.
Lauren cầm một chồng giấy tờ và giúp nữ y tá phân loại.
- Lúc nãy, khi em khám cho anh ta, em đã thấy nghi ghê lắm.
- Thế sao em không hỏi anh ta?
- Em đã thử hình dung rất rõ mình nói với một bệnh nhân như thế này: "Trong thời gian tôi vừa tỉnh lại sau cơn hôn mê, chẳng hay anh có hoàn toàn tình cờ ngồi mười lăm ngày ở bên gi.ường tôi không?".
Betty cười rộ lên.
- Hình như đêm vừa rồi em lại mơ thấy anh chàng ấy. Nhưng đến khi tỉnh dậy, em chẳng bao giờ nhớ nổi nét mặt của anh ta.
- Nếu đó là anh ta, anh ta sẽ phải nhận ra em. Em có hai chục "khách hàng" đang đợi em kìa, em phải gạt những ý nghĩ ấy ra khỏi đầu và đi làm việc đi. Và rồi lật sang trang mới thôi, em có một anh bạn nào đó cơ mà, phải không?
- Nhưng chị có chắc đó không phải là anh ta không? - Lauren hạ giọng nài nỉ.
- Hoàn toàn chắc!
- Nói thêm về anh ta cho em đi.
Betty rời chồng hồ sơ và quay người trên chiếc ghế xoay.
- Em muốn chị nói cái gì cơ chứ!
- Dù sao cũng khó tin thật đấy - Lauren nổi đoá - Cả khoa chạm trán người đàn ông ấy suốt hai tuần lễ liền, thế mà mình không tài nào tìm nổi dù chỉ một người biết điều gì đó về anh ta.
- Chắc là vì anh ta bản tính kín đáo! - Betty vừa lẩm bẩm vừa kẹp lại một tập giấy màu hồng.
- Thế không ai tự hỏi anh ta làm gì ở đây à?
- Một khi mẹ em đã chấp nhận sự có mặt của anh ta, mọi người chẳng có lý do gì mà can thiệp nữa. Ở đây tất cả đều nghĩ rằng đó là một người bạn của em, thậm chí là bồ của em cũng nên! Em làm các cô cùng phòng phát ghen. Khối người có thể cuỗm anh chàng ấy của em đấy!
- Mẹ em nghĩ đó là một người bệnh, ông Fernstein cho đó là một người họ hàng, còn chị thì tưởng đó là bồ của em. Rõ ràng là không ai có thể đi đến chỗ nhất trí với người khác được.
Betty húng hắng ho rồi đứng dậy để lấy một tập giấy. Chị để tuột kính xuống mũi và nhìn Lauren với vẻ nghiêm trang:
- Thì lúc ấy em cũng ở đó mà!
- Mọi người tìm cách giấu tôi điều gì vậy, tất cả mọi người?
Che giấu sự bối rối của mình, nữ y tá lại vùi đầu vào đống giấy tờ.
- Chẳng giấu gì cả! Chị biết rằng chuyện đó có vẻ kỳ lạ, nhưng điều khó tin duy nhất là em đã tai qua nạn khỏi mà không bị một di chứng nào, em phải cảm ơn trời chứ đừng khăng khăng tự bịa ra cho mình những chuyện huyền bí nữa.
Betty đập vào chiếc chuông con ở trước mặt và gọi bệnh nhân số 125. Chị đặt một hồ sơ vào tay Lauren và ra hiệu cho Lauren trở lại vị trí làm việc.
- Điên thật, mình mới là bác sĩ phụ trách ở đây chứ - Lauren vừa càu nhàu vừa đi vào phòng khám số 4.
 
Chương 07Một hồi chuông vang lên. Cửa thang máy mở ra ở tầng ba. Hàng chữ ghi trên tấm biển gắn trên tường chỉ lối vào khoa thần kinh. Lauren đi ra khỏi thang máy mà không chào các đồng nghiệp đang đi xuống những tầng dưới. Những chiếc đèn neon gắn trên trần nhà ở dãy hành lang dài hắt ánh phản chiếu xuống nền nhà bóng nhoáng. Đôi giày của cô kêu kèn kẹt trên lớp vải lót sàn theo mỗi bước chân đi. Cô giơ tay cào khẽ vào cửa phòng số 307, nhưng cánh tay cô rơi xuôi, nặng nhọc. Cô bước vào.
Không còn cả vải trải gi.ường lẫn gối ở đầu gi.ường. Cái cọc để mắc dịch truyền đứng trơ trụi, thẳng đơ như một bộ xương, bị dẹp vào một góc cạnh tấm riđô ngăn với buồng tắm. Chiếc rađio đặt trên bàn đầu gi.ường câm lặng, những con thú nhồi bông, sáng nay còn tươi cười trên bệ cửa sổ, đã đi làm nhiệm vụ ở các phòng bệnh khác. Ở mảng tường lúc trước có treo những bức tranh trẻ con, giờ chỉ còn lại vài mẩu băng dính.
Bé Marcia đã lịm đi vào buổi chiều, một số người sẽ nói như vậy, một số khác sẽ nói đơn giản là em đã chết, nhưng đối với tất cả những ai làm việc ở tầng này, căn phòng ấy sẽ vẫn là phòng của em thêm vài giờ nữa. Lauren ngồi xuống đệm, vuốt nhẹ tấm vải bọc. Cánh tay run rẩy của cô vươn đến chiếc bàn đầu gi.ường và mở ngăn kéo ra. Cô lấy tờ giấy gập tư và đợi một chút rồi mới đọc bí mật viết trong đó. Cô bé ra đi với cặp mắt mù đã nhìn chính xác. Màu mắt của Lauren mờ đi dưới hàng lệ. Cô cúi gập người để ngăn một cơn co thắt.
Cánh cửa hé mở, nhưng Lauren không nghe thấy tiếng thở của một người đàn ông có hai thái dương bạc trắng đang nhìn cô khóc.
Trang nghiêm và lịch lãm trong bộ complê đen, bộ râu màu muối tiêu cạo sát đến má, Santiago bước nhẹ đến bên cạnh cô, anh đặt tay lên vai cô.
- Các anh chị không có lỗi gì cả - anh thì thầm bằng một giọng pha ngữ điệu Achentina - Các anh chị chỉ à bác sĩ, đâu phải thánh thần.
- Còn anh, anh là ai? - Lauren thì thào giữa những tiếng nức nở.
- Bố cháu, tôi đến lấy những đồ đạc còn lại của cháu, mẹ cháu không còn sức nữa. Chị phải trấn tĩnh lại. Có những đứa trẻ khác ở đây cần đến chị.
- Lẽ ra là phải ngược lại - Lauren vừa nói vừa khóc nức lên.
- Ngược lại? - Người đàn ông bối rối hỏi.
- Lẽ ra tôi phải là người an ủi anh - cô càng khóc to hơn.
Bị bản tính dè dặt kìm giữ, người đàn ông do dự trong chốc lát; rồi anh vòng tay ôm Lauren và siết chặt cô vào người mình. Đôi mắt màu xanh da trời bên khoé đầy nếp nhăn cũng bắt đầu nhoà lệ; vậy là, như thể vì lịch sự, để không bỏ mặc Lauren, rốt cuộc anh đã chấp nhận cho nỗi đau của mình được tự do bộc lộ.
Xe cứu thương dừng lại dưới mái che của khoa cấp cứu. Người lái xe và nhân viên cấp cứu dắt Arthur đến tận ô cửa kính của phòng tiếp đón bệnh nhân.
- Anh đã đến nơi rồi - nhân viên cấp cứu nói.
- Anh không muốn tháo cái băng này cho tôi à? Tôi đảm bảo với anh là tôi không sao cả, tôi chỉ muốn về nhà thôi.
- Tốt lắm! - Betty tiếp lời bằng một giọng đầy uy quyền và xem phiếu sơ cứu mà nhân viên cấp cứu vừa trao cho chị. - Tôi cũng thế, tôi cũng muốn anh về nhà anh - chị tiếp tục - tôi muốn tất cả những người đang đợi trong tiền sảnh này về nhà họ, và để kết thúc, cả tôi nữa, tôi cũng sẽ vui sướng được về nhà tôi. Nhưng trong khi chờ đợi Chúa Trời thực hiện điều ước của chúng ta, chúng tôi sẽ phải khám bệnh cho anh và cho cả những người kia nữa. Sẽ có người đến đưa anh đi khám.
- Trong bao lâu nữa - Arthur hỏi bằng một giọng gần như rụt rè.
Betty nhìn lên trần nhà, chị giơ tay lên trời và thốt lên:
- Có Trời mới biết được! Đưa anh ta vào phòng đợi - chị nói với các nhân viên cấp cứu rồi bỏ đi.
Bố của Marcia đứng dậy và mở tủ. Anh lấy ra hộp các tông nhỏ đựng đồ đạc của cô bé.
- Cháu nó yêu chị lắm - anh nói không quay người lại.
Lauren cúi đầu.
- Thực ra, đó không phải là điều mà tôi muốn nói - người đàn ông lại nói.
Và do Lauren vẫn lặng yên, anh bèn đặt cho cô một câu hỏi khác:
- Dù tôi có nói gì ở đây, theo nguyên tắc của ngành y tế thì chị cũng không tiết lộ, phải không?
Lauren trả lời rằng cô hứa với anh như vậy, Santiago bèn tiến đến sát gi.ường, anh ngồi xuống cạnh cô và nói khẽ:
- Tôi muốn cảm ơn chị đã cho phép tôi được khóc.
Và cả hai người ngồi lại đó, gần như bất động
- Thỉnh thoảng anh vẫn kể chuyện cho Marcia nghe phải không? - Lauren hạ giọng.
- Tôi sống xa con gái tôi, tôi về đây vì ca mổ này thôi. Nhưng tối tối, tôi gọi điện cho cháu từ Buenos Aires, cháu đặt ống nghe lên gối và tôi kể cho cháu nghe câu chuyện về một đám muông thú và cây cỏ sống giữa một khu rừng ở một vạt rừng thoáng đãng chưa bao giờ được con người biết đến. Và câu chuyện cổ tích này kéo dài hơn ba năm. Với con thỏ có phép tiên, những con nai, những cái cây có tên riêng, con đại bàng cứ bay lòng vbòng vì cánh này của nó ngắn hơn cánh khác, thỉnh thoảng tôi lại bị nhầm lẫn trong câu chuyện của mình, nhưng hễ nhầm một tí là Marcia nhắc tôi ngay. Không thể có chuyện gặp lại quả cà chua thông thái, hay quả dưa chuột cười sằng sặc như điên, ở một chỗ nào khác ngoài nơi mà hôm trước bố con tôi đã để chúng lại.
- Có một con cú trong vạt rừng đó không?
Santiago mỉm cười.
- Cái con này là một nhân vật ngộ lắm! Emilio là người gác đêm. Trong khi tất cả các con thú khác ngủ, nó thức để bảo vệ những con kia. Thực ra, công việc này chỉ là một cái cớ thôi, chú cú này là một anh chàng cực kỳ nhát gan. Bình minh lên là chú ta bay cuống cuồng đến một cái hang. Chú ta trốn ở đó vì chú ta sợ ánh sáng. Con thỏ thì lúc nào cũng tốt, nó biết chuyện của cú và nó không bao giờ tiết lộ bí mật này ra. Marcia thường ngủ thiếp đi trước khi câu chuyện kết thúc, tôi nghe tiếng cháu thở vài hút trước khi mẹ cháu dập máy. Tiếng thở của cháu nghe như một điệu nhạc tuyệt đẹp, những nốt nhạc ấy đi theo tôi vào giấc ngủ.
Người cha của cô bé im bặt. Anh đứng dậy, bước đến cửa ra vào.
- Chị biết không, ở bên đó, ở Achentina ấy, tôi xây những cái đập, những công trình lớn, nhưng niềm tự hào của tôi là cháu!
- Khoan đã! - Lauren nói bằng một giọng nhẹ nhàng.
Cô cúi xuống và nhìn vào gầm gi.ường, một con cú trắng đang chờ đợi, hai cánh xếp chéo. Cô lấy con vật nhồi bông ra và đưa cho Santiago. Người đàn ông bước lại về phía cô, anh đón nhận con chim và khẽ khàng vuốt bộ lông của nó.
- Chị cầm lấy đi - anh nói với Lauren và đưa lại cho cô con cú trắng. - Hãy chữa lại đôi mắt cho chú ta, chị là bác sĩ, hẳn là chị có thể làm được điều này. Hãy cho chú ta tự do, làm sao để chú ta không bao giờ sợ nữa.
Anh chào cô và ra khỏi phòng. Khi chỉ còn lại một mình trong hành lang, anh áp chặt vào người mình cái hộp các tông nhỏ.
Máy nhắn tin của Lauren rung lên, bộ phận đón tiếp của khoa cấp cứu đang tìm cô. Cô vào phòng dành cho các y tá ở tầng này và nhấc máy điện thoại. Betty nói ơn giời là Lauren vẫn còn ở đây, khoa cấp cứu vẫn đầy ắp bệnh nhân, cần có tăng viện ngay tức khắc.
- Em xuống ngay đây - Lauren nói và dập máy.
Trước khi ra khỏi phòng, cô nhét vào túi áo blouse của mình chú cú ngộ nghĩnh; con vật bé nhỏ rất cần hơi ấm con người, chiều nay, nó vừa mất người bạn thân nhất của nó.
- o O o -
Arthur không thể đợi được nữa, anh tìm điện thoại di động của mình trong túi bên phải áo vét, nhưng không còn túi phải ở áo vét của anh nữa.
Mắt bị băng kín, anh cố đoán bây giờ là mấy giờ. Paul sẽ cáu lắm đây, anh nhớ hôm nay anh đã nghĩ rằng Paul sẽ cáu, nhưng anh quên mất là vì sao. Anh đứng dậy và mò mẫm tiến về phía bàn đón tiếp. Betty vội chạy ra đón anh.
- Anh thật quá thể!
- Tôi sợ các bệnh viện lắm.
- Thôi được, anh đã ra đây rồi thì ta tranh thủ điền tờ khai nhập viện. Anh đã đến đây bao giờ chưa?
- Sao chị lại hỏi vậy? - Arthur đứng bên quầy tiếp đón, lo ngại trả lời.
- Vì nếu các số liệu của anh đã có trong máy tính thì sẽ nhanh hơn.
Arthur trả lời bằng một câu phủ nhận. Betty nhớ mặt người khá tốt, và mặc dù người đàn ông này bị băng kín mắt, những đường nét của anh ta trông có vẻ quen quen. Có lẽ cô đã gặp anh ta ở chỗ khác? Mà rốt cuộc thì điều đó cũng chẳng quan trọng mấy, lúc này cô có quá nhiều việc để làm hơn là nghĩ về chuyện này.
Arthur muốn về nhà, thời gian chờ đợi quá dài và anh muốn tháo băng ra.
- Các chị đang quá tải, mà tôi thì cảm thấy khoẻ thật đấy, - anh nói - tôi đi về nhà đây.
Betty giữ chặt tay anh lại không nể nang.
- Cứ thử xem!
- Thử thì sao nào? - Arthur hỏi với vẻ gần như thích thú.
- Trong vòng sáu đến mười hai tháng tới, nếu anh bị bất cứ thứ bệnh vớ vẩn gì và cần chữa chạy, anh có thể vĩnh biệt bảo hiểm y tế của anh! Nếu anh bước qua ngưỡng cửa của căn phòng này, dù chỉ để ra ngoài hút thuốc lá thôi, tôi sẽ gửi trả tờ khai của anh với ghi chú rằng anh không chịu khám sức khoẻ. Thế là ngay cả khi anh chỉ bị đau răng một tí, hãng bảo hiểm của anh cũng sẽ tống cổ anh đi!
- Tôi không hút thuốc! - Arthur nói và dặt tay lên quầy tiếp tân.
- Tôi biết, thật đáng sợ khi phải ở trong bóng tối, nhưng anh hãy kiên nhẫn, bác sĩ đây rồi này, cô ấy vừa ra khỏi thang máy phía sau lưng anh.
Lauren đến gần quầy đón tiếp. Từ khi rời phòng Marcia, cô không thể thốt lên được một lời. Cô nhận hồ sơ từ tay cô y tá và chăm chú đọc tờ trình của nhân viên cấp cứu, đồng thời dắt tay dẫn Arthur vào phòng khám số 4. Cô kéo rèm cửa lại và giúp anh nằm lên gi.ường. Khi anh đã nằm xuống, cô bèn bắt đầu tháo băng ra.
- Tạm thời anh cứ để mắt nhắm lại nhé - cô nói.
Vài câu nói mà cô vừa thốt ra, tuy bằng một giọng dịu dàng, cũng đủ làm cho tim Arthur thót lại. Cô lấy hai miếng gạc và vạch mi mắt anh ra, nhỏ nước cất vào ngập mắt.
- Anh có đau không?
- Không.
- Anh có cảm giác đã bị một mảnh vỡ rơi vào không?
- Hoàn toàn không, cái băng này là do ông cấp cứu nghĩ ra, tôi chẳng bị sao cả.
- Ông ta làm đúng đấy. Bây giờ anh có thể mở mắt ra được rồi!
Một vài giây cần thiết để nước mắt chảy hết. Khi Arthur đã nhìn rõ lại được, tim anh bắt đầu đập mạnh hơn. Ước nguyện mà anh bày tỏ bên mộ mẹ vừa được thực hiện.
- Anh không sao cả chứ? - Nhìn thấy vẻ nhợt nhạt trên mặt người bệnh, Lauren hỏi.
- Không sao - anh đáp, họng se lại.
- Anh hãy thư giãn đi!
 
Lauren cúi xuống người anh để dùng kính lúp xem xét hai giác mạc. Trong khi cô khám mắt cho anh, khuôn mặt của họ kề sát nhau đến mức môi họ gần như chạm vào nhau.
- Mắt anh hoàn toàn không sao cả, anh may mắn lắm đấy!
Arthur không bình luận một lời.
- Anh không bị ngất chứ?
- Không, chưa đâu!
- Anh đùa đấy à?
- Tôi mới chỉ thử một chút.
- Anh có đau đầu không?
- Không.
Lauren luồn tay xuống dưới lưng Arthur và nắn cột sống.
- Có đau gì không?
- Hoàn toàn không.
- Anh có một vết bầm máu rõ đẹp ở môi. Há miệng ra nào!
- Nhất thiết phải làm như vậy sao?
- Thì tôi vừa yêu cầu anh thế mà lại.
Arthur thực hiện, Lauren cầm lấy chiếc đèn pin.
- Ồ, xem này, ít nhất là phải khâu năm mũi.
- Đến thế cơ à?
- Tôi cũng đùa đấy! Súc miệng bằng nước sát trùng trong bốn ngày là đủ lắm rồi.
Cô sát trùng vết thương ở trán anh và dùng một loại kem bôi dính để khép miệng vết thương lại. Sau đó cô mở ngăn kéo, xé gói giấy bọc một miếng băng dính rồi dán miếng băng ấy lên trên vết thương.
- Tôi dán băng hơi bị lấn vào lông mày, anh sẽ khó chịu một chút khi tháo miếng băng này ra. Những chỗ sây sát khác thì không đáng kể, nó sẽ tự liền sẹo. Tôi sẽ kê đơn cho anh dùng vài ngày một loại kháng sinh phổ rộng, chỉ để phòng ngừa thôi mà.
Arthur cài cúc cổ tay áo và đứng dậy, anh cảm ơn Lauren.
- Đừng có vội thế - cô nói và đẩy anh lại vào gi.ường khám bệnh - Tôi còn phải đo huyết áp của anh nữa.
Cô nhấc máy đo huyết áp ra khỏi giá đặt của nó gắn trên tường và lồng vào cánh tay Arthur. Huyết áp kế đo tự động. Tấm băng tay phồng lên và xẹp đi theo những khoảng thời gian đều đặn. Một vài giây đủ để những con số hiện lên trên màn hình gắn ở đầu gi.ường.
- Anh mắc chứng tim đập nhanh à? - Lauren hỏi.
- Không - Arthur trả lời, hết sức bối rối.
- Thế nhưng anh lại có một cơn tim đập nhanh đáo để, tim anh đập hơn 120 lần trong một phút và huyết áp của anh lên đến 180, quá cao đối với một người ở tuổi anh.
Arthur nhìn Lauren, anh tìm một lý do để biện hộ cho quả tim của mình.
- Tôi hơi bị chứng bệnh ám, cứ vào bệnh viện là tôi hết hồn.
- Bạn trai cũ của tôi chỉ cần nhìn thấy cái áo blouse của tôi là muốn xỉu rồi.
- Bạn trai cũ của cô?
- Có gì quan trọng đâu.
- Thế bạn trai hiện tại của cô, anh ấy có chịu đựng được cái ống nghe của bác sĩ kô?
- Dù sao tôi cũng muốn anh đến chỗ bác sĩ tim mạch khám thì hơn, tôi có thể nhắn tin cho một bác sĩ như vậy, nếu anh muốn.
- Không cần thiết đâu - Arthur nói bằng một giọng run run - Đây không phải là lần đầu tiên tôi bị như vậy; à không, ở bệnh viện thì đây là lần đầu tiên; khi tôi tham dự các kỳ thi, ngực của tôi cũng hơi đập thình thịch, tôi hay bị hồi hộp.
- Anh làm nghề gì mà còn dự thi? - Lauren thích thú hỏi trong lúc thảo đơn thuốc.
Arthur ngập ngừng chưa trả lời ngay. Anh thừa lúc cô tập trung vào tờ giấy đang viết để nhìn cô, lặng lẽ và chăm chú. Lauren không thay đổi, có lẽ trừ kiểu tóc. Cái sẹo nhỏ trên trán mà anh rất yêu gần như đã biến mất hẳn. Và vẫn cái nhìn khó tả và tự tin ấy. Anh nhận rất từng nét biểu hiện của gương mặt cô, chẳng hạn như chuyển động của đường vòng cung dưới mũi cô khi cô nói. Nụ cười xinh đẹp của cô đưa anh về với những kỷ niệm hạnh phúc. Người ta có thể cảm thấy thiếu ắng ai đó đến mức này không? Tấm băng tay lập tức phồng lên và những con số mới hiện lên. Lauren ngẩng đầu lên để xem.
- Tôi là kiến trúc sư.
- Thế anh cũng làm việc vào ngày nghỉ cuối tuần chứ?
- Đôi khi cả ban đêm nữa, chúng tôi luôn phải làm việc như trâu ấy.
- Tôi hiểu ý anh mà.
Arthur ngồi dựng dậy trên gi.ường.
- Cô đã từng quen một kiến trúc sư à? - anh hỏi bằng một giọng run rẩy.
- Theo tôi nhớ thì không, nhưng tôi nói về nghề của tôi cơ, chúng ta giống nhau ở chỗ đó, làm việc không kể giờ giấc.
- Thế anh bạn của cô làm nghề gì?
- Đã hai lần anh hỏi tôi có còn độc thân hay không rồi đấy... Tim anh đập nhanh quá, tôi muốn để một đồng nghiệp của tôi khám cho anh.
Arthur tháo tấm băng tay đo huyết áp ra và đứng dậy.
- Lúc này, chính cô mới là người hay lo lắng đấy!
Arthur muốn về nghỉ ngơi. Ngày mai mọi thứ sẽ tốt đẹp. Anh hứa sẽ đi kiểm tra lại huyết áp trong vài ngày tới, và nếu có cái gì đó bất thường, anh sẽ đi khám ngay lập tức.
- Anh hứa chứ? - Lauren nhất định yêu cầu.
Arthur lạy trời để cô đừng nhìn anh như vậy nữa. Nếu tim anh không nổ tung ra trong chốc lát, anh sẽ ôm cô vào vòng tay mình để nói với cô rằng anh đã yêu cô như điên như dại, rằng thật khó khi lại về sống ở chính thành phố này và không được trò chuyện cùng nhau. Anh sẽ kể hết cho cô nghe, nếu như anh có thời gian để kể trước khi cô gọi bảo vệ đến và nhốt anh lại. Anh cầm lấy áo vét của mình, nói đúng hơn là phần còn ại của cái áo vét, tránh không mặc áo vào trước mặt cô và nói cảm ơn cô. Anh rời khỏi căn phòng thì nghe thấy tiếng cô gọi phía sau lưng:
- Arthur?
Lần này, anh cảm thấy tim mình nhảy vọt lên đến tận đầu. Anh quay người lại.
- Tên anh như vậy phải không?
- Vâng - anh thốt ra, miệng đã cạn khô nước bọt.
- Đơn thuốc của anh này! - Lauren nói và đưa cho anh tờ giấy màu hồng.
- Cảm ơn cô - Arthur cầm tờ giấy và trả lời.
- Anh đã cảm ơn tôi rồi. Anh mặc áo vét vào đi. Giờ này buổi tối thường lạnh đấy, và cơ thể anh hôm nay đã mệt đủ rồi.
Arthur vụng về xỏ một tay vào áo, lúc vừa định bước chân đi, anh quay người lại và nhìn Lauren hồi lâu.
- Có chuyện gì vậy?
- Cô có một con cú trong túi áo - anh nói với nụ cười buồn trên môi.
Và Arthur rời phòng khám.
Lúc anh đi ngang qua tiền sảnh, Betty gọi anh từ sau ô kính. Anh bước lại chỗ chị, vẻ ngơ ngẩn.
- Anh ký vào rồi đi đâu thì đi -chị nói và chìa cho anh một quyển sổ to màu đen.
Arthur ký vào sổ của khoa cấp cứu.
- Anh có chắc là anh khoẻ mạnh không? - nữ y tá trưởng lo ngại - Trông anh có vẻ như bị choáng.
- Rất có thể - Arthur trả lời rồi bước đi.
Arthur đợi taxi trước cửa khoa cấp cứu, và từ quầy đón tiến, nơi Betty đang phân loại các phiếu nhập viện, Lauren nhìn theo anh mà anh không nhận ra.
- Chị có thấy anh chàng này trông hơi giống anh ta không?
- Chị chẳng biết em nói về ai cả - nữ y tá trả lời, đầu vùi vào đống hồ sơ - Đôi khi, chị cứ tự hỏi không biết mình làm việc trong một bệnh viện hay một cơ quan hành chính?
- Cả hai, em nghĩ thế. Chị nhìn anh chàng nhanh lên, và nói cho em biết chị thấy anh ta thế nào. Trông cũng không đến nỗi, phải không?
Betty nâng cặp kính lên, đưa mắt nhìn qua một cái rồi lại vùi đầu vào đống giấy tờ của mình. Một chiếc xe của hãng Yellow Cab vừa đỗ lại, Arthur trèo và xe và chiếc xe đi xa dần.
- Chẳng giống tí nào! - Betty nói.
- Chị nhìn anh ta có hai giây!
- Ừ, nhưng đây là lần thứ một trăm em hỏi chị điều này, cho nên chị được luyện quen rồi, thêm nữa chị đã nói với em là chị có tài nhớ mặt mà lại. Nếu đó là anh chàng của em thì chị đã nhận ra ngay rồi, hồi ấy chị có bị hôn mê đâu.
Lauren cầm một chồng giấy tờ và giúp nữ y tá phân loại.
- Lúc nãy, khi em khám cho anh ta, em đã thấy nghi ghê lắm.
- Thế sao em không hỏi anh ta?
- Em đã thử hình dung rất rõ mình nói với một bệnh nhân như thế này: "Trong thời gian tôi vừa tỉnh lại sau cơn hôn mê, chẳng hay anh có hoàn toàn tình cờ ngồi mười lăm ngày ở bên gi.ường tôi không?".
Betty cười rộ lên.
- Hình như đêm vừa rồi em lại mơ thấy anh chàng ấy. Nhưng đến khi tỉnh dậy, em chẳng bao giờ nhớ nổi nét mặt của anh ta.
- Nếu đó là anh ta, anh ta sẽ phải nhận ra em. Em có hai chục "khách hàng" đang đợi em kìa, em phải gạt những ý nghĩ ấy ra khỏi đầu và đi làm việc đi. Và rồi lật sang trang mới thôi, em có một anh bạn nào đó cơ mà, phải không?
- Nhưng chị có chắc đó không phải là anh ta không? - Lauren hạ giọng nài nỉ.
- Hoàn toàn chắc!
- Nói thêm về anh ta cho em đi.
Betty rời chồng hồ sơ và quay người trên chiếc ghế xoay.
- Em muốn chị nói cái gì cơ chứ!
- Dù sao cũng khó tin thật đấy - Lauren nổi đoá - Cả khoa chạm trán người đàn ông ấy suốt hai tuần lễ liền, thế mà mình không tài nào tìm nổi dù chỉ một người biết điều gì đó về anh ta.
- Chắc là vì anh ta bản tính kín đáo! - Betty vừa lẩm bẩm vừa kẹp lại một tập giấy màu hồng.
- Thế không ai tự hỏi anh ta làm gì ở đây à?
- Một khi mẹ em đã chấp nhận sự có mặt của anh ta, mọi người chẳng có lý do gì mà can thiệp nữa. Ở đây tất cả đều nghĩ rằng đó là một người bạn của em, thậm chí là bồ của em cũng nên! Em làm các cô cùng phòng phát ghen. Khối người có thể cuỗm anh chàng ấy của em đấy!
- Mẹ em nghĩ đó là một người bệnh, ông Fernstein cho đó là một người họ hàng, còn chị thì tưởng đó là bồ của em. Rõ ràng là không ai có thể đi đến chỗ nhất trí với người khác được.
Betty húng hắng ho rồi đứng dậy để lấy một tập giấy. Chị để tuột kính xuống mũi và nhìn Lauren với vẻ nghiêm trang:
- Thì lúc ấy em cũng ở đó mà!
- Mọi người tìm cách giấu tôi điều gì vậy, tất cả mọi người?
Che giấu sự bối rối của mình, nữ y tá lại vùi đầu vào đống giấy tờ.
- Chẳng giấu gì cả! Chị biết rằng chuyện đó có vẻ kỳ lạ, nhưng điều khó tin duy nhất là em đã tai qua nạn khỏi mà không bị một di chứng nào, em phải cảm ơn trời chứ đừng khăng khăng tự bịa ra cho mình những chuyện huyền bí nữa.
Betty đập vào chiếc chuông con ở trước mặt và gọi bệnh nhân số 125. Chị đặt một hồ sơ vào tay Lauren và ra hiệu cho Lauren trở lại vị trí làm việc.
- Điên thật, mình mới là bác sĩ phụ trách ở đây chứ - Lauren vừa càu nhàu vừa đi vào phòng khám số 4.
 
Chương 08Nhân viên cấp cứu kiểm tra lại xem chiếc cáng đã được đặt chắc chắn chưa rồi khoá thắt lưng an toàn lại. Anh ta gõ vào tấm kính ngăn cách với buồng lái, và xe lên đường. Nghiêng người trên ban công nhà Arthur, bà Morrison nhìn theo chiếc xe cấp cứu rẽ ở ngã tư rồi biến mất, rồi rú ầm ĩ. Bà khép cửa sổ, tắt đèn rồi trở về nhà mình, Paul đã hứa sẽ gọi cho bà ngay khi biết thêm được một chút tin tức. Bà ngồi ở ghế bành, chờ đợi tiếng chuông điện thoại vang lên trong yên lặng.

Paul ngồi cạnh nhân viên cấp cứu, anh này theo dõi huyết áp của Arthur. Arthur ra hiệu cho Paul đến gần:
- Đừng để họ đưa chúng mình đến bệnh viện Memorial - Arthur thì thầm vào tai bạn - Tớ vừa ở đó lúc nãy.
- Thế thì càng phải quay lại đó và cho bọn nó một vụ bê bối. Để cậu ra viện trong tình trạng như thế này là phạm vào lỗi nghề nghiệp.
Paul ngừng nói, nhìn Arthur vẻ thận trọng.
- Cậu có gặp cô ta không?
- Chính cô ấy khám cho tớ.
- Tớ không tin cậu!
Arthur quay đầu đi, không trả lời.
- Thì ra là vì vậy mà cậu bị một cơn xây xẩm thế này đây, ông bạn của tớ; cậu mắc hội chứng trái tim tan nát, cậu đau khổ lâu quá rồi.

Paul mở ô cửa nhỏ trên tấm kính ngăn với buồng lái và hỏi tài xế xe đang đi đến bệnh viện nào.
- Mission San Pedro - người lái xe trả lời.
- Tốt lắm - Paul cằn nhằn và khép ô kính lại.
- Cậu biết không, lúc chiều tớ đã gặp Carol-Ann đấy - Arthur thì thào.
Paul nhìn bạn, lần này với vẻ ái ngại:
- Không sao đâu, thư giãn đi, cậu hơi mê sảng một tí nên cậu tưởng gặp lại tất cả các cô bồ cũ của cậu, nhưng rồi chuyện này sẽ qua thôi.
Mười phút sau, xe cấp cứu đến nơi đã định. Khi những người khiêng cáng bước vào đại sảnh vắng ngắt của bệnh viện Mission San Pedro, Paul lập tức hiểu rằng mình đã làm điều ngu ngốc khi để họ đến đây. Nữ y tá Cybile rời cuốn sách và quầy trực để dẫn các nhân viên cấp cứu vào một phòng khám. Họ đặt Arthur lên gi.ường rồi rút lui.
Trong lúc đó, Paul điền vào tờ trình về tai nạn ở quầy đón tiếp. Đã hơn nửa đêm khi Cybile trở lại chỗ anh; chị đã nhắn tin cho bác sĩ trực và thề rằng ông ta sắp đến. Bác sĩ Brisson đang kết thúc vùng đi thăm bệnh nhân trên tầng. Trong phòng khám, Arthur không còn đau nữa anh chìm dần vào trạng thái mơ màng của một giấc ngủ sâu. Cơn đau đầu cuối cùng đã ngừng lại như có phép màu. Và từ khi cảm giác đau đớn biến mất, Arthur sung sướng lại nhìn thấy được...
Vườn hồng đẹp lộng lẫy nở rộ những bông hồng hàng ngàn sắc màu. Một bông Cardinale màu trắng, có kích thước mà anh chưa từng thấy bao giờ, nở ra trước mặt anh. Bà Morrison đi đến, miệng khe khẽ hát. Bà cẩn thận cắt một bông hoa, lựa vào đoạn phía trên mắt cây, và mang bông hoa vào dưới mái hiên. Bà ung dung ngồi vào ghế xích đu, Pablo ngủ dưới chân bà. Bà tách từng cánh hoa ra và bắt tay vào khâu chúng một cách cực kỳ tinh tế lên chiếc áo vét bằng vải tuýt. Thật là một ý hay khi dùng những cánh hoa để thay vào chỗ túi áo bị mất. Cánh cửa nhà mở ra, mẹ anh bước xuống bậc thềm. Bà mang trên chiếc khay đan bằng cành liễu một tách cà phê và vài chiếc bánh bích quy cho con chó. Bà nghiêng người về phía con chó để cho nó ăn.
- Cái này là cho mày đấy, Kali - bà nói.
Tại sao bà Morrison không nói thật với Lili? Con chó này tên là Pablo, thật lạ lùng khi gọi nó là Kali.
Nhưng Lili cứ nói đi nói lại không ngừng mỗi lúc một to hơn "Kali, Kali, Kali", và bà Morrison vừa đu mỗi lúc một cao hơn vừa cười và lặp lại theo: "Kali, Kali, Kali". Hai người đàn bà quay về phía Arthur và ra hiệu, bằng một ngón tay đầy vẻ độc đoán đặt trên môi, rằng anh phải im lặng. Arthur tức điên lên. Sự thông đồng bất ngờ này làm choa cáu kỉnh tột độ. Anh đứng dậy và gió cũng nổi lên.
Cơn giông từ ngoài hiên ập vào với tốc độ lớn. Những giọt nước to nặng nhảy nhót trên mái nhà. Những đám mây sũng nước bao phủ bầu trời Carmel đã vỡ tung ra không kiểu cách trên vườn hồng. Mưa xói làm thành hàng chục hốc nhỏ trên mặt đất, xung quanh anh. Bà Morrison bỏ lại chiếc áo vét trên ghế xích đu và đi vào trong nhà để trú mưa. Pablo đi theo bà ngay tức khắc, đuôi cụp lại sợ hãi nhưng khi đến ngưỡng cửa con vật bỗng quay ngoắt lại, sủa ầm lên như để báo hiệu về một mối nguy hiểm. Arthur gọi mẹ, anh gọi bằng toàn bộ sức lực để chống chọi với cơn gió đang đẩy lùi những lời nói vào lại cổ họng anh. Lili quay người, bà nhìn con trai, gương mặt bà có vẻ thật đau buồn, rồi bà biến đi, mất hút trong bóng tối của hành lang. Cánh cửa chớp ở cửa sổ phòng làm việc đập thình thịch vào mặt tường, bản lề kêu kèn kẹt. Pablo tiến đến bậc thềm đầu tiên, nó rống lên như bị chọc tiết.
Phía dưới ngôi nhà, biển thịnh nộ nổi sóng. Arthur nghĩ rằng không có cách nào đến được cái hang dưới chân vách đá kia. Thế nhưng đó lại là nơi lý tưởng để trú ẩn. Anh nhìn ra xa, về phía vịnh, một đợt sóng lừng dâng cao gây cho anh cảm giác nôn nao dữ dội.
Cơn buồn nôn quặn lên, anh cúi gập ng­ười về phía trước.
- Tôi không chắc là tôi còn chịu được tình trạng này lâu hơn nữa - Paul nói, cái chậu nhỏ để nôn cầm trong tay.
Nữ y tá Cybile giữ vai Arthur để anh không ngã từ bàn khám xuống khi toàn thân nghiêng ngả vì những cơn co thắt.
- Cái lão bác sĩ đần độn kia đã sắp đến chưa, hay là tôi phải vác cái gậy đánh bóng chày chạy đi tìm lão? - Paul gầm lên.
Ở tầng trên cùng của bệnh viện Mission San Pedro, ngồi trên chiếc ghế trong bóng tối tại căn phòng của một người bệnh, bác sĩ nội trú Brisson đang nói chuyện điện thoại với cô bạn gái của mình. Cô này đã quyết định bỏ anh ta và gọi điện từ nhà anh, liệt kê một danh sách những điều không phù hợp khiến cho họ không còn cách nào khác ngoài chia tay nhau. Anh bác sĩ trẻ tuổi Brisson không muốn nghe nói là anh ta ích kỷ và hãnh tiến, còn Véra Zlicker thì không muốn thú nhận với anh ta rằng anh bồ cũ của cô đang đợi cô dưới nhà, trong một chiếc ôtô, khi cô đang sắp xếp vali. Thêm nữa, cuộc nói chuyện này không thể tiếp tục từ một phòng bệnh được, đến cả cái việc chia tay nhau mà cũng không thể kín đáo riêng tư được một tí, cô ta kết luận. Brisson áp điện thoại di động của mình vào máy đo tim mạch để cho Véra nghe thấy những tiếng bíp bíp yếu ớt và đều đặn từ tim người bệnh của anh ta. Bằng một giọng lạnh lùng, anh ta nói rõ rằng với tình trạng hiện giờ thì người bệnh sẽ không làm phiền gì họ cả.
Tự hỏi rằng không biết cái áo phông mà cô đang gập có đúng là của cô không, Véra im lặng một chút. Cô rất khó tập trung được cùng một lúc vào hai chủ đề. Brisson cứ tưởng là cuối cùng cô đã lưỡng lự, nhưng rồi Véra lại hỏi liệu có thiếu thận trọng không nếu cứ tiếp tục cuộc nói chuyện này, cô vẫn thường nghe nói rằng điện thoại di động làm rối loạn hoạt động của các máy móc y tế. Anh chàng bác sĩ nội trú gào lên rằng vào chính lúc này đây thì anh ta cóc quan tâm đến chuyện đó, và anh ta ra lệnh cho người mà bây giờ đã là bồ cũ của mình rằng ít ra cũng phải giữ phép lịch sự để đợi đến sáng mai, lúc anh ta đi trực về đã. Tức giận, Brisson tắt luôn chiếc máy nhắn tin đang reo lên lần thứ ba trong túi áo anh ta; ở đầu dây bên kia, Véra vừa dập máy.
Tĩnh mạch con nằm phía sau bộ não đã bị tổn hại ở thời điểm xảy ra cú va đập vào quầy kính. Trong ba tiếng đồng hồ đầu tiên sau khi tai nạn xảy ra, chỉ có một lượng máu không đáng kể rỉ ra từ mạch máu bị hư hại, nhưng đến cuối buổi tối, sự xuất huyết đã đủ để gây ra những rối loạn đầu tiên về thăng bằng và thị giác. Một nghìn miligramme asprine ngấm vào qua đường dưới lưỡi đã biến đổi hẳn tình hình. Mười phút là đủ cho những phân tử acide acétysalicylique làm máu tan lỏng ra ở những nơi mà thuốc đã ngấm vào. Qua vết rách, dòng máu trào ra xung quanh bộ não, giống như một con sông tràn bờ. Lúc Arthur đang trên đường đến bệnh viện, lượng máu chảy ra không còn chỗ dưới vòm sọ để tràn vào, nó bắt đầu chèn ép màng não.
Trong ba màng bao bộ lọc não, màng đầu tiên lập tức phản ứng. Tưởng rằng đây là một dạng nhiễm trùng, nó bèn thực hiện vai trò đã được giao cho nó. Vào lúc tám giờ mười phút tối, nó tấy lên để cố kìm giữ kẻ xâm nhập. Trong một vài giờ nữa, khối máu đang hình thành sẽ chèn ép bộ não tới mức đủ để gây ra sự ngừng các chức năng sống. Arthur rơi vào trạng thái bất tỉnh. Paul quay ra tìm nữ y tá; chị yêu cầu anh vui lòng ngồi đợi ở một chiếc ghế bành, bác sĩ trực là người rất nguyên tắc trong việc tuân thủ nội quy. Paul không có quyền đứng ở phía bên này cửa kính.
Brisson cáu kỉnh ấn nút thang máy xuống tầng trệt.
Cách đó không xa, cánh cửa thang máy mở ra ở đại sảnh khoa cấp cứu của một bệnh viện khác. Lauren đi ra quầy đón tiếp và nhận một hồ sơ mới từ tay Betty.
 
Người đàn ông bốn mươi lăm tuổi đến đây với một vết thương sâu ở bụng, kết quả của một cú dao đâm tai hại. Ngay sau khi anh ta nhập viện, độ bão hoà máu đã tụt xuống quá ngưỡng nguy hiểm, báo hiệu một sự xuất huyết quan trọng. Tim anh ta có những dấu hiệu cho thấy sắp xảy ra một cơn rung thất và Lauren quyết định phải can thiệp bằng phẫu thuật trước khi quá muộn. Cô đã rạch một đường thẳng để kẹp lại mạch máu đang tuôn ra ào ạt; nhưng cú dao đâm lúc trước, khi rút ra, còn gây ra những hư hại khác. Huyết áp của người bị thương vừa tăng lên, lập tức có những đường rách khác hình thành ở phía dưới vết thương ban đầu.
Lauren buộc phải thọc tay vào bụng người đàn ông; bằng ngón cái và ngón trỏ, cô kẹp chặt lại hẳn một phần ruột non để ngăn chặn những chỗ chảy máu quan trọng. Thao tác được thực hiện khéo léo và huyết áp lại tăng lên. Betty đã có thể đặt hai tay cầm của máy sốc điện mà lúc trước chị nắm chắc trong tay xuống, tăng thêm lưu lượng dịch truyền. Lauren ở vào một tư thế khá bất tiện, từ lúc này cô không thể rút tay ra được, sức ép mà cô đang duy trì có tầm quan trọng sống còn.
Năm phút sau, khi êkíp phẫu thuật đến, Lauren phải đi theo họ đến tận phòng mổ, tay vẫn để trong bụng bệnh nhân.
Hai mươi phút sau, bác sĩ phẫu thuật chịu trách nhiệm về ca mổ ra hiệu cho cô có thể rút tay ra và để kíp mổ giải quyết nốt, sự xuất huyết đã được cầm lại. Bàn tay cứng đờ, Lauren lại đi xuống đại sảnh khoa cấp cứu, ở đó lượng người bị thương chen chúc còn lâu mới được giải toả hết.
- o O o -
Brisson bước vào phòng khám. Anh ta xem hồ sơ và ghi lại những hằng số sống của Arthur, chúng đều ổn định. Do vậy, chỉ có trạng thái mê man là có thể thể đáng lo. Không tuân theo những chỉ thị của nữ y tá, Paul chất vấn bác sĩ ngay khi anh ta vừa ra khỏi phòng khám.
Bác sĩ trực lập tức yêu cầu Paul ra đợi trong khu vực dành cho người ngoài. Paul đập lại rằng trong cái bện viện vắng ngắt này, những bức tường sẽ không tức giận đâu nếu anh bước quá đi vài mét khỏi cái đường kẻ màu vàng vạch trên cái nền nhà khá là cũ kỹ ấy. Brisson ưỡn ngực và giơ một ngón tay đầy vẻ áp đặt để chỉ rằng nếu cần phải nói chuyện thì cuộc nói chuyện sẽ diễn ra ở bên kia đường kẻ. Lưỡng lự không biết nên bóp cổ gã bác sĩ nội trú ngay lập tức hay là đợi đến khi biết được anh ta chẩn đoán thế nào, Paul đành tuân lệnh. Hài lòng, anh chàng bác sĩ trẻ bảo rằng hiện giờ anh ta không nói trước được điều gì. Anh ta sẽ gửi Arthur đi chụp X-quang ngay khi có thể. Paul nhắc đến máy scanner, nhưng bệnh viện không có máy này. Brisson ra sức trấn an Paul, bảo rằng nếu phim chụp X-quang cho thấy bất cứ vấn đề gì thì anh ta sẽ cho chuyển Arthur đến một trung tâm chẩn đoán hình ảnh ngay ngày mai.
Paul hỏi tại sao không chuyển Arthur ngay bây giờ, nhưng gã bác sĩ trẻ từ chối. Từ lúc Arthur vào bệnh viện Mission San Pedro, anh ta là người duy nhất chịu trách nhiệm về Arthur. Đến lúc này thì Paul bèn nghĩ không biết anh có thể giấu xác gã bác sĩ nội trú này ở đâu sau khi bóp cổ gã.
Brisson quay trở lại và đi lên gác. Anh ta đi kiếm một chiếc máy chụp X-quang xách tay. Anh ta vừa biến đi, Paul đi ngay vào phòng khám và lay Arthur.
- Đừng có ngủ, cậu không được buông xuôi, cậu có nghe tớ nói không?
Arthur mở mắt, ánh mắt lờ đờ, anh sờ soạng tìm tay bạn.
- Paul, cậu có nhớ thời niên thiếu của bọn mình chấm dứt chính xác vào ngày nào không?
- ch.uyện ấy có khó gì lắm đâu, thì vừa mới lúc nãy thôi mà!... Cậu có vẻ khá hơn rồi đấy, bây giờ cậu phải nghỉ ngơi.
- Khi mà bọn mình từ trường nội trú trở về, mọi thứ không còn ở chỗ của nó trước đây, cậu bảo "Sẽ có ngày, nơi mình lớn lên không còn là nhà mình nữa". Tớ cứ muốn đi ngược trở lại, nhưng cậu thì không.
- Giữ sức đi, bọn mình sẽ có thời gian để nói tất cả những chuyện đó sau.
Paul nhìn Arthur, anh lấy một cái khăn và ra vặn vòi nước ở bồn rửa mặt. Anh vắt khăn rồi đặt lên trán bạn. Arthur có vẻ dễ chịu hơn.
- Hôm nay tớ đã nói chuyện với cô ấy. Suốt thời gian vừa qua, có một cái gì đó tự đáy lòng tớ nói với tớ rằng có lẽ mình đã duy trì một ảo ảnh. Rằng cô ấy là một nơi trú ẩn, một cách để tự yên lòng, bởi vì chẳng có gì nguy hiểm khi muốn đạt đến cái không thể với tới được.
- Chính tớ đã nói với cậu như thế cuối tuần vừa rồi, đồ ngốc, giờ thì quên cái mớ triết lý ngu xuẩn của tớ đi, chỉ vì lúc ấy tớ đang bực tức thôi.
- Vì sao cậu bực tức?
- Vì bọn mình không làm sao có thể hạnh phúc cùng một lúc được nữa. Đối với tớ, như thế tức là già đi.
- Già đi là một điều hay cậu ạ, một sự may mắn kỳ lạ đấy. Tớ phải thổ lộ với cậu một bí mật. Khi tớ nhìn những người già, tớ thường ghen với họ.
- Ghen vì tuổi già của họ ấy à?
- Ghen vì họ đã đến được tuổi già, đã sống được đến tận đó!
Paul nhìn huyết áp kế. Huyết áp vẫn hạ xuống thêm, anh nắm chặt tay lại, tin chắc rằng cần phải hành động. Gã lang băm này sắp giết chết thứg quý nhất trên đời của anh, người bạn có ý nghĩa như cả một gia đình đối với anh.
- Ngay cả khi tớ không qua khỏi thì cũng đừng nói gì với Lauren nhé.
- Cậu tiết kiệm lời đi còn hơn là nói những chuyện ngớ ngẩn như vậy.
Arthur lại xỉu đi, đầu ngoẹo sang một bên. Lúc đó là một giờ năm mươi hai phút theo đồng hồ treo tường trong phòng khám, chiếc kim giây không ngớt phát ra những tiếng tích tắc vờ vĩnh. Paul đứng dậy và bắt Arthur phải mở mắt ra.
- Cậu sẽ còn được già đi nhiều, đồ ngốc, việc này tớ sẽ lo, và đến khi cậu toàn thân thấp khớp, không giơ nổi cái gậy chống lên để đập tớ nữa, tớ sẽ nói cho cậu hay rằng vì tớ mà cậu khổ như vậy đấy, rằng vào một trong những buổi tối tồi tệ nhất đời tớ, lẽ ra tớ có thể tránh cho cậu tất cả những chuyện này. Nhưng lẽ ra cậu đừng nên bắt đầu như thế.
- Tớ đã bắt đầu cái gì? - Arthur thì thào.
- Bắt đầu không vui với những niềm vui giống tớ, bắt đầu hạnh phúc theo cái kiểu mà tớ không hiểu nổi, bắt đầu buộc tớ cũng phải già đi nữa.
Brisson bước vào phòng khám, cùng đi là nữ y tá, đẩy theo chiếc xe chở máy chụp X-quang.
- Anh kia, ra ngoài ngay lập tức! - Anh ta quát Paul bằng một giọng tức giận.
Paul nhìn anh ta từ đầu đến chân rồi đưa mắt về phía chiếc máy mà nữ y tá Cybile đang đặt vào vị trí ở đầu gi.ường và quay sang nói với chị bằng một giọng điềm tĩnh:
- Cái máy này nặng cỡ bao nhiêu vậy?
- Nặng đến mức khi phải đẩy cái của đáng ghét ấy đi tôi đau hết cả lưng.
Paul bất thình lình quay người lại và túm lấy cổ áo Brisson. Anh giải thích cặn kẽ một cách khá cương quyết cho gã bác sĩ về những sửa đổi trong nội quy của bệnh viện Misson San Pedro, sẽ có hiệu lực kể từ phút anh thả gã ra.
- Giờ thì anh đã hiểu những điều tôi nói chưa? - Paul nói thêm trước cặp mắt thích thú của nữ y tá Cybile.
Được thả, Brisson rặn ra một trang ho nhưng vội ngừng bặt ngay khi Paul vừa khẽ nhíu mày.
- Tôi thấy không có gì đáng phải lo ngại cả - mười phút sau, bác sĩ nội trú nói, sau khi đã xem những tấm phim gắn trên chiếc bảng được rọi sáng.
- Nhưng liệu một bác sĩ khác có thể thấy điều này đáng lo ngại không? - Paul hỏi.
- Tất cả những chuyện này có thể đợi đến sáng mai - Brisson trả lời khô khan - Ông bạn của anh chỉ bị choáng thôi.
Brisson ra lệnh cho nữ y tá đem cỗ máy trở lại phòng X-quang, nhưng Paul đã can thiệp.
- Bệnh viện chắc chẳng phải nơi cuối cùng còn giữ được tính galăng, nhưng ta cứ thử một cái xem sao nhé! - anh nói.
Che giấu một cách khó khăn cơn tức giận của mình, Brisson thừa hành, lấy lại chiếc xe đẩy từ tay Cybile. Anh ta vừa mất hút trong thang máy, nữ y tá bèn đập tay vào tấm kính ở quầy đón tiếp và ra hiệu cho Paul đến gặp chị.
- Cậu ấy đang ở trong tình trạng nguy hiểm phải không? - Paul hỏi, mỗi lúc một thêm lo lắng.
- Tôi chỉ là y tá thôi, ý kiến của tôi có thực là quan trọng không?
- Quan trọng hơn ý kiến của một số lang băm đấy - Paul nói để nữ y tá yên lòng.
- Thế thì anh nghe kỹ tôi nói đây - Cybile thì thầm - Tôi cần công việc này, nếu có ngày anh kiện cái lão đần độn ấy ra toà thì tôi không thể ra làm chứng được đâu. Bọn họ cũng bao che cho nhau như giới cảnh sát vậy; trong trường hợp có sự cố, người nào nói ra thì sau đó có thể đi kiếm việc làm cả đời. Sẽ không còn bệnh viện nào nhận họ hết. Chỉ có chỗ cho những người bênh vực lẫn nhau khi gặp rắc rối thôi. Cái bọn quan liêu ấy quên rằng ở chỗ chúng tôi, những chuyện rắc rối đều liên quan đến mạng người cả. Tóm lại, hai anh hãy chuồn khỏi đây đi, trước khi Brisson kịp giết chết bạn anh.
- Tôi không biết làm cách nào đây, chị bảo chúng tôi nên đi đâu?
- Tôi rất muốn nói với anh rằng chỉ có kết quả mới là quan trọng, nhưng anh hãy tin theo linh cảm của tôi, trong trường hợp của bạn anh, thời gian cũng quan trọng lắm.
Paul đi đi lại lại cả trăm bước, tức giận với chính mình. Ngay khi họ vừa bước vào bệnh viện này, anh đã biết đó là sai lầm rồi. Anh cố lấy lại bình tĩnh, nỗi sợ đã khiến cho anh không tìm ra được giải pháp.
- Lauren?
Paul vội vã đi đến bên chiếc gi.ường, Arthur đang rên rỉ. Anh mở to mắt và cái nhìn của anh dường như hướng vào một thế giới khác.
- Rất tiếc, đó chỉ là tớ thôi - Paul nói và cầm tay bạn.
Giọng nói của Arthur đứt đoạn.
- Hãy lấy đầu tớ ra... để thề rằng... cậu sẽ không bao giờ nói cho cô ấy biết sự thật.
- Vào lúc này thì tớ thích lấy đầu tớ ra để thề hơn - Paul nói.
- Bởi vì cậu sẽ giữ lời hứa!
Đó là những lời nói cuối cùng của Arthur. Sự xuất huyết giờ đây đã nhấn chìm toàn bộ phần phía sau bộ não của anh. Để bảo vệ những trung khu thần kinh cốt tử còn chưa bị tổn hại, cỗ máy tuyệt vời đã quyết định ngừng hoạt động tất cả các trạm cuối của hệ thần kinh ngoại biên. Các trung khu thần kinh thị giác, lời nói, thính giác và vận động thôi không vận hành nữa. Lúc đó là hai giờ hai mươi phút theo đồng hồ treo tường ở phòng khám. Từ lúc này, Arthur chìm vào hôn mê.
 
Chương 09Paul đi đi lại lại trong đại sảnh. Anh lấy điện thoại di động của mình ở túi quần ra, nhưng ngay lập tức Cybile đã làm cho anh hiểu rằng không được sử dụng điện thoại ở bên trong tòa nhà.
- Có cỗ máy khoa học nào mà bị rối loạn ở đây được, ngoài cái máy tự động bán đồ uống kia? – Anh kêu lên.
Cybile lắc đầu để nhắc lại lệnh cấm và chỉ cho Paul ra ngoài bãi đậu xe của khoa cấp cứu.
- Theo điều 2 của nội quy mới,- Paul nài nỉ - điện thoại của tôi được phép sử dụng trong đại sảnh.
- Cái nội quy ấy của anh chỉ có tác dụng với Brisson thôi, anh ra ngoài mà gọi điện đi. Nếu bảo vệ đi qua đây thì tôi sẽ bị đuổi việc đấy.
Paul càu nhàu rồi bước ra ngoài cánh cửa trượt.
Trong nhiều phút, Paul tiếp tục đi đi lại lại ở bãi đậu xe cấp cứu, nhìn vào danh mục điện thoại đang lần lượt hiện ra trên màn hình máy di động của anh.
- Mẹ kiếp –anh hạ giọng lẩm bẩm- đây là trường hợp bất đắc dĩ!
Anh ấn vào 1 nút và điện thoại lập tức nối đến 1 số máy đã được lưu lại từ trước.
- Bệnh viện Memorial đây, quý vị cần gì? – nhân viên tổng đài hỏi.
Paul đòi được nói chuyện với khoa cấp cứu. Anh chờ đợi vài phút. Betty nhận máy. Có 1 chiếc xe cấp cứu, Paul giải thích cho nữ y tá, lúc chiều tối qua đã đưa đến chỗ các vị 1 người đàn ông trẻ bị mô tô 3 bánh đâm ở Union Square.
Betty lập tức hỏi người đối thoại rằng anh có phải người nhà nạn nhân kô, Paul trả lời rằng anh là anh trai của nạn nhân, anh chẳng nói sai sự thật là bao. Nữ y tá nhớ rất rõ hồ sơ này. Bệnh nhân đã rời bệnh viện bằng phương tiện riêng, vào lúc 9h tối. Tình trạng sức khỏe của anh ta lúc đó tốt.
- Không hẳn thế đâu, - Paul tiếp lời,- chị có thể chuyển cho tôi nói chuyện với bác sĩ đã khám cho cậu ấy kô? Hình như đó là 1 phụ nữ. Đây là việc khẩn cấp.- anh nói thêm.
Betty hiểu rằng có 1 vấn đề, hay đúng hơn là bệnh viện có nguy cơ gặp phải 1 vấn đề. 10% bệnh nhân được tiếp nhận vào khoa cấp cứu phải trở lại bệnh viện trong vòng 24h sau đó, do 1 sai lầm hoặc 1 đánh giá kô đúng mức khi chẩn đoán bệnh. Chắc phải đợi đến lúc việc theo đuổi các vụ kiện gây tốn kém tiền bạc nhiều hơn là số tiền tiết kiệm được do giảm biên chế, ban lãnh đạo mới đành phải thi hành các biện pháp mà tập thể nhân viên y tế vẫn đòi hỏi kô ngừng.Nữ y tá chúi đầu vào đống giấy tờ của mình, tìm bản lưu lại của Arthur.
Betty kô phát hiện ra bất cứ thiếu sót nào trong biên bản khám bệnh của Arthur; yên tâm, chị gõ vào tấm kính, Lauren đang đi trong hành lang. Betty ra hiệu cho cô đến gặp chị, có 1 cú điện thoại gọi cô.
- Nếu đó là mẹ em thì chị nói là em kô có thời giờ nhé. Lẽ ra em đã được về cách đây nửa tiếng rồi, vậy mà em vẫn còn 2 bệnh nhân nữa phải khám.
- Nếu mẹ em mà gọi điện vào lúc 2h rưỡi sáng thế này thì chị sẽ chuyển máy cho em ngay cả khi em đang ở trong phòng mổ. Cầm lấy điện thoại đi, có vẻ quan trọng đấy.
Bối rối, Lauren đưa ống nghe lên tai.
- Tối qua, cô đã khám cho 1 người đàn ông bị mô tô 3 bánh đâm vào, cô có nhớ kô? – giọng trong máy hỏi.
- Vâng, tôi nhớ rất rõ – Lauren trả lời – Anh ở bên cảnh sát à?
- Kô, tôi là bạn thân nhất của cậu ấy. Khi về nhà, bệnh nhân của cô bị choáng, cậu ấy bất tỉnh.
Lauren cảm thấy tim mình đập nhanh hơn trong lồng ngực.
- Anh hãy gọi ngay số máy 911 và đưa anh ấy đến đây cho tôi ngay lập tức, tôi sẽ đợi anh ấy!
- Cậu ấy đã nằm viện rồi. Chúng tôi đang ở bệnh viện Mission San Pedro và tình hình hoàn toàn kô ổn chút nào.
- Tôi kô thể làm gì cho bạn anh cả, nếu như anh ấy đã vào 1 bệnh viện khác.- Lauren trả lời- Các đồng nghiệp của tôi sẽ chăm sóc anh ấy rất tốt, tôi tin chắc là như vậy. Tôi có thể nói chuyện với họ nếu anh muốn, nhưng ngoài việc thông báo về hiện tượng tim đập nhanh dạng nhẹ, tôi kô có gì đặc biệt để nói cho họ cả, mọi thứ đều bình thường khi anh ấy ra khỏi đây.
Paul mô tả hoàn cảnh của Arthur; bác sĩ chịu trách nhiệm khẳng định kô có gì nguy hiểm nếu đợi đến sáng, nhưng Paul hoàn toàn kô đồng ý với ý kiến này, phải là 1 con lừa mới kô thấy rằng người bạn thân của anh đang ở trong tình trạng rất xấu.
- Tôi khó có thể phản bác đồng nghiệp được nếu kô thể làm điều tối thiểu là đích thân xem những tấm phim chụp X-quang. Kết quả chụp bằng máy Scanner thế nào?
- Kô có máy scanner!
- Bác sĩ trực tên là gì?- Lauren hỏi.
- 1 gã bác sĩ Brisson nào đó – Paul nói.
- Patrick Brisson ?
- Trên tấm biển gã ta đeo có ghi chữ “Par”, có lẽ đúng vậy; cô có biết gã kô?
- Tôi biết anh ta hồi học năm thứ tư trường Y, đó quả thật là 1 con lừa.
- Tôi phải làm gì đây?- Paul van vỉ.
- Tôi tuyệt đối kô có quyền can thiệp, nhưng tôi có thể thử nói chuyện đt với anh ta. Nếu Brisson đồng ý, chúng tôi có thể tổ chức chuyển viện cho bạn anh và đưa anh ấy đi scan. Máy chỗ chúng tôi làm việc 24/24h.Tại sao các anh kô đến đây ngay từ đầu?
- Chuyện này dài dòng lắm, mà chúng ta lại có ít thời gian.
Paul nhận thấy gã bác sĩ nội trú đi vào quầy trực của Cybile; anh đề nghị Lauren giữ máy và đi vào đại sảnh. Anh thở hổn hển chạy đến trước mặt Brisson và ấn máy di động của anh vào tai anh ta.
- Có điện thoại gọi cho anh.- Paul nói.
Brisson sửng sốt nhìn Paul và nhận máy.
Việc trao đổi quan điểm giữa 2 bác sĩ diễn ra ngắn gọn. Brisson nghe Lauren và cảm ơn về sự giúp đỡ mà anh ta kô đề nghị. Tình trạng bệnh nhân của anh ta ở trong tầm kiểm soát, khác hẳn tình tạng của người theo bệnh nhân này đến đây; gã đàn ông quấy rầy Lauren 1 cách vô ích ấy là 1 kẻ hơi có xu hướng loạn tâm. Để rảnh nợ với gã này, suýt nữa anh đã phải gọi cảnh sát. Bây giờ Lauren đã yên tâm rồi thì anh ta sẽ dập máy, rất vui vì sau nhiều năm lại được biết tin cô, và hi vọng được gặp lại cô, để cùng đi uông cà phê hay biết đâu lại cùng ăn tối nữa. Anh ta tắt đt và nhét máy vào túi áo của mình.
- Thế nào?- Paul hỏi, chân đã lấn quá đường kẻ vàng.
- Tôi sẽ trả lại điện thoại cho anh khi anh đi khỏi đây! – Brisson nói với vẻ kiêu kì. Việc sử dụng điện thoại di động bên trong tòa nhà bị cấm. Cybile hẳn là đã truyền đạt điều này với anh.
Paul đứng sừng sững trước mặt gã bác sĩ và chặn đường anh ta.
- Thôi, được rồi, tôi trả anh máy, nhưng anh hứa với tôi là sẽ đi ra bãi đậu xe nếu còn định gọi điện thoại nữa chứ? – Brisson nói tiếp 1 cách bớt kiêu ngạo đi nhiều.
- Đồng nghiệp của anh nói gì? – Paul vừa hỏi vừa giật máy di động của mình từ tay gã bác sĩ.
- Nói là cô ấy tin tưởng tôi, điều mà rõ ràng kô phải ai cũng vậy.
Brisson dùng ngón tay chỉ hàng chữ xác định giới hạn của khu vực dành riêng cho nhân viên y tế.
- Nếu anh còn vượt sang phía bên này vạch 1 lần nữa, dù chỉ để đi 10cm vào cái hành lang này thôi, Cybile sẽ gọi cảnh sát và tôi sẽ cho tông cổ anh đi. Tôi hi vọng là tôi đã nói khá rõ rồi đấy.
- o O o -
Lauren vừa cho người bị thương cuối cùng trong cuộc ẩu đả ở quán bar vào nằm viện.
1 nữ y tá thực tập đề nghị cô khám cho 1 bệnh nhân của cô ta. Lauren nổi đóa: chỉ cần nhìn vào bảng giờ là đủ biết rằng ca trực của cô kết thúc vào 2h sáng. Vậy thì vào lúc đã gần 3h; người mà cô y tá trẻ yêu cầu kô thể vẫn còn là Lauren được. Emily Smith nhìn Lauren ; mặt nghệt ra.
- Thôi, được rồi; bệnh nhân của cô ở phòng nào? – Cô hỏi và nhẫn nhịn đi theo cô y tá.
Một chú bé bị sốt cao ; kêu đau tai. Lauren khám và chẩn đoán em bị viêm tai nặng. Cô kê đơn thuốc và yêu cầu Betty giúp cô thực tập trẻ chăm sóc người bệnh theo đúng như cần thiết. Người mệt lử; cuối cùng cô rời khoa cấp cứu; thậm chí kô dành thời gian để cởi áo blouse ra nữa.
Đi ngang qua bãi đậu xe vắng ngắt; Lauren mơ được ngâm mình trong bồn tắm; mơ 1 cái chăn và 1 cái gối to đùng. Cô nhìn đồng hồ; 16 tiếng nữa sẽ bắt đầu ca trực sau của cô; lẽ ra cô phải ngủ gấp đôi để có thể đứng vững được cho đến cuối tuần.
Cô ngồi vào sau tay lái và cài thắt lưng an toàn. Ô tô đi vào đại lộ Potrero và rẽ sang phố 23.
Lauren thích lái xe đi ở San Francisco vào lúc nửa đêm; khi thành phố yên tĩnh phơi bày trước mắt cô. Con đường rải nhựa trải ra dưới bánh xe của cô. Cô bật đài và chuyển sang tốc độ 3. Chiếc Triump lướt đi dưới vòm trời sao mùa hè lộng lẫy.
Các cơ quan duy tu của thành phố đang sửa hệ thống thoát nước ở ngã tư phố MC Allister . Người phụ trách công trường nghiêng người vào cửa chiếc Triump; nói rằng bọn họ chỉ làm vài phút nữa là xong. Phố này đường 1 chiều; Lauren đã nghĩ đến chuyện đo lùi lại; nhưng sự xuất hiện của 1 ô tô cảnh sát đến chắn lại khu vực mà công nhân đang làm việc đã khiến cho Lauren phải từ bỏ ý định này. Bệnh viện Mission San Pedro hiện lên trong gương chiếu hậu của cô; bệnh viện này ở phía sau lưng cô; cách 2 khối nhà.
Người lái chiếc xe tải của thành phố khép lại tấm bạt xe rồi trèo lên buồng lái. Trên 1 phía thành xe có quảng cáo về an toàn giao thông; nhắc nhở các công dân phải cảnh giác đề phòng. “Chỉ cần 1 giây sơ ý…”
Viên cảnh sát ra hiệu cho Lauren là cô có thể đi qua. Cô lái xe len vào giữa những cỗ máy của công trường giờ đã được dẹp khỏi khu vực giữa đường để xếp lại dọc vỉa hè. Nhưng đến ngã tư; cô bèn thay đổi hướng đi. Trong trí nhớ của 1 bác sĩ nội trú; cô chưa từng biết đến 1 sinh viên nào tự yêu mình hơn Brisson.
Dựa vào tấm cửa kính trông ra bãi đậu xe vắng ngắt; Paul suy nghĩ. 1 chiếc xe cấp cứu mang nhãn hiệu của bệnh viện tắt đèn xoay đỗ ở khu vực dành cho xe cấp cứu. Người lái xe bước xuống; khóa cửa xe và đi vào đại sảnh của bệnh viện. Sau khi chào nữ y tá trực; anh ta treo chùm chìa khóa của mình vào 1 đinh nhỏ đóng trên tường ở quầy trực. Cybile trao cho anh ta chìa khóa 1 phòng khám; anh cảm ơn cô và vào ngủ trong 1 phòng trống.
Qua ô cửa kính; Paul ngắm nghía chiếc xe cứu thương. 1 chiếc Triump màu xanh lá cây đến đỗ ngay cạnh đó.
Anh lập tức nhận ra người phụ nữ trẻ đang đi những bước dứt khoát về phía cánh cửa tự động của khoa cấp cứu. Đến giữa bãi đậu xe; cô quay ngược lại; cới áo blouse ra và quận tròn ném vào thùng xe ô tô của cô. 1 lát sau; cô bước vào đại sảnh. Paul ra gặp cô.
- Bác sĩ Kline; phải kô ạ?
- Anh là người đã gọi điện thoại cho tôi à?
- Vâng; sao cô biết?
- Trong cái đại sảnh này chỉ có mỗi mình anh. Thế còn anh; làm sao mà anh nhận ra tôi?
Lúng túng; Paul dán mắt vào mũi giày
- Suốt 2 tiếng đồng hồ rồi; tôi đã cầu khấn tất cả thánh thần trên đời đến giúp tôi; cô là vị chúa cứu thế đầu tiên xuất hiện…tôi đã nhìn thấy cô cởi áo blouse ở bãi đậu xe.
- Brisson có ở quanh đây kô?
- Kô xa lắm; ở trên gác.
- Thế còn anh bạn của anh?
Paul chỉ phòng đầu tiên ; phía sau phòng trực của y tá.
- Đi thôi! – Lauren nói và kéo anh đi.
Nhưng Paul lưỡng lự; anh vừa cãi cọ chút xíu với Brisson và gã này đã cấm anh kô được vượt qua đường kẻ vàng ở lối vào hành lang; nếu kô sẽ gọi cảnh sát đến trục suất anh khỏi đây. Anh tự hỏi nếu anh vi phạm; kô biết Cybile có thực hiện quyết định đó kô. Lauren thở dài; cái cung cách hống hách tiểu nhân này rất phù hợp với gã sinh viên y nội trú mà cô quên biết hồi học năm thứ tư.Cô đề nghị Paul thôi không cần làm tình hình phức tạp thêm nữa; cô sẽ đi tìm 1 mình và sẽ tự giới thiệu là bạn gái của bệnh nhân.
- Họ sẽ cho tôi vào đấy – cô nói để anh yên tâm.
- Cô cứ thử gọi cậu ấy bằng tên riêng thì tốt hơn; gọi là “bệnh nhân” có thể gây nghi ngờ.
Paul sợ rằng Brisson sẽ kô bị lừa bởi trò gian lận này.
- Chúng tôi đã kô gặp nhau từ nhiều năm nay rồi; và cứ nhìn vào việc anh ta bỏ qua bao nhiêu thời gian để tự ngắm mình; tôi ngờ rằng anh ta chẳng nhận ra được mặt mẹ đẻ anh ta ấy chứ.
Lauren ra trình diện ở quầy trực của Cybile. Nữ y tá trực đặt quyển sách xuống và rời cái buồng kính của mình. Khu vực phía sau chị chỉ có nhân viên y tế mới được vào. Nhưng sau 20 năm trong nghề; chị có được sự nhạy bén chắc chắn: cô gái trẻ mà chị dẫn ra phòng khám có là bạn gái của bệnh nhân hay kô cũng kô quan trọng lắm; cô ấy trước hết là bác sĩ. Brisson kô thể mắng mỏ gì chị được.
Lauren bước vào căn phòng mà Arthur đang nằm. Cô xem xét những chuyển động của lồng ngực anh. Nhịp thở chậm và đều; màu da bình thường.. Lấy cớ muốn cầm tay bạn trai của mình; cô bắt mạch của anh. Tim anh có vẻ đập chậm hơn so với lần khám trước; dù rằng mạch đập cũng đã tăng lên dưới ngón tay cô. Nếu cô kéo được anh ra khỏi tình trạng khó khăn này; cô sẽ yêu cầu anh đi kiểm tra điện tâm đồ ; dù muốn hay kô.
Cô đến gần tấm bảng được rọi sáng, trên có treo những tấm phim chụp X- quang sọ não. Cô hỏi Cybile rằng có phải “những tấm ảnh” chụp bộ não của chồng chưa cưới của cô treo ở trên tường đó kô.
Cybile nhìn Lauren hoài nghi rồi ngước mắt nhìn trời.
- Tôi để chị ở lại đây với “chồng chưa cưới” của chị, chị cần được riêng tư.
Lauren nồng nhiệt cảm ơn nữ y tá.
Bước đến cửa, nữ y tá quay lại và nhìn Lauren lần nữa.
- Chị có thể xem xét những tấm phim chụp gần hơn nữa, bác sĩ ạ, điều duy nhất mà tôi khuyên chị là hãy kết thúc việc đánh giá tình trạng chung của bệnh nhân trước khi Brisson xuống đây. Tôi kô muốn gặp phiền phức. Nói vậy, tôi hi vọng chị là 1 bác sĩ giỏi chứ kô như chị làm kịch sĩ.
Lauren nghe tiếng bước chân xa dần trong hành lang. Cô đến gần chiếc bảng để nghiên cứu kĩ lưỡng những tấm phim chụp X- quang. Brisson hóa ra còn bất tài hơn là cô tưởng. 1 sinh viên y khoa nội trú loại khá sẽ nghi ngờ có sự tràn máu ở phía sau sọ não. Người đàn ông nằm trên chiếc gi.ường này phải được phẫu thuật càng sớm càng tốt, cô sợ rằng não của anh ta đã bị tổn hại vì quãng thời gian đã bị bỏ phí. Để khẳng định chẩn đoán của cô; cần phải khẩn cấp đưa anh ta đi chụp bằng máy scanner.
Tay nhét túi áo blouse, Brisson bước vào quầy trực của Cybile.
- Anh ta vẫn còn ở đây à? – Brisson ngạc nhiên chỉ vào Paul đang ngồi trên 1 chiếc ghế ở góc bên kia của đại sảnh.
- Vâng, và bạn anh ta, vẫn ở trong phòng , thưa bác sĩ.
- Anh ta có tỉnh dậy kô?
- Kô, nhưng anh ta thở rất tốt , các hằng số của anh ta ổn định, tôi vừa lấy xong.
- Chị nghĩ có nguy cơ có khối máu bên trong sọ não kô, theo chị? – Brisson hỏi bằng 1 giọng khẽ khàng.
Cybile cúi đầu vào đống giấy tờ để tránh cái nhìn của gã bác sĩ, niềm tin của chị vào con người đang đến sát giới hạn có thể chịu đựng được.
- Tôi chỉ là y tá thôi, anh đã lưu ý tôi về điều này khá nhiều rồi, kể từ khi anh đến bệnh viện này, thưa bác sĩ.
Brisson lập tức chuyển ngay sang thái độ tự tin hơn.
- Chị đừng có hỗn! Nếu tôi muốn tôi có thể làm cho chị chuyển đi nơi khác! Anh chàng kia chỉ bị choáng thôi, anh ta sẽ hồi phục. Đến sáng, để phòng ngừa, chúng tôi sẽ cho anh ta đi chụp bằng máy scanner. Chị điền cho tôi 1 cái phiếu di chuyển bệnh nhân và tìm cho tôi 1 cái máy scanner còn trống chỗ ở 1 bệnh viện quanh đây hay tại 1 trung tâm chụp hình y khoa. Nói rõ là đích thân bác sĩ Brisson muốn việc xét nghiệm này được thực hiện trong buổi sáng.
- Tôi sẽ kô quên đâu. – Cybile lẩm bẩm.
Đi sâu vào hành lang, Brisson nghe nữ y tá kêu to lên rằng chị đã cho phép 1 phụ nữ, người nhà của bệnh nhân, vào thăm bệnh nhân trong phòng khám.
- Vợ anh ta đang ở đây à? – Brisson quay lại hỏi.
- Bạn gái của anh ta!
- Đừng có hét lên thế, Cybile, chúng ta đang ở trong 1 bệnh viện!
- ở đây chỉ có chúng ta thôi, thưa bác sĩ – Cybile nói – Thế mới may chứ - Chị lẩm bẩm khi Brisson đã đi xa.
Nữ y tá quay lại quầy trực. Paul nhìn chị, chị nhún vai. Anh nghe thấy tiếng cửa phòng khám khép lại theo bước chân gã bác sĩ. Do dự vài giây, anh đứng lên và quả quyết bước vượt qua cái đường kẻ vàng đáng ngại ấy.
Brisson đến chào thiếu phụ trẻ đang ngồi trên chiếc ghế đẩu cạnh chồng chưa cưới của mình.
- Chào Lauren . Đã lâu lắm rồi nhỉ
- Cậu kô thay đổi. – Cô trả lời.
- Cô cũng thế.
- Cậu làm trò gì với bệnh nhân này vậy?
- Chuyện này thì có thể ảnh hưởng gì đến cô được? Cô thiếu bệnh nhân ở bên Memorial à?
- Tôi đến đây vì đây là bệnh nhân của tôi lúc chiều tối qua, tôi biết điều đó đối với cậu có thể xem ra khó hiểu, nhưng trong chúng ta có 1 số người làm cái nghề này vì yêu ngành y.
- Ý cô là : có những người sợ gặp rầy rà vì đã đánh giá kô đúng mức bệnh trạng của 1 người bị thương trước khi để anh ta ra viện chứ gì.
Giọng Lauren cao lên 1 bậc và vang lên trong hành lang.
- Cậu nhầm rồi, nhưng rõ ràng đó kô phải là lầm lẫn nghiêm trọng nhất của cậu ngày hôm nay. Tôi đến đây vì anh bạn của người này cầu cứu tôi, và chỉ cần qua điện thoại thôi tôi cũng có thể hiểu rằng cậu vẫn cứ chẩn đoán nhầm.
- Có lẽ cô định xin tôi điều gì hay sao mà lại nhã nhặn thế?
- Xin cậu ấy à, làm gì có chuyện, tôi khuyên cậu đấy! Tôi sẽ gọi điện sang bên Memorial và yêu cầu người ta gửi cho tôi 1 chiếc xe cấp cứu để đưa người này về lại đó, chắc sẽ phải chọc hút nội sọ cho anh ta càng sớm càng tốt. Cậu sẽ để yên cho tôi can thiệp, và đổi lại, tôi sẽ để cho cậu sửa bản báo cáo khám bệnh của cậu. Đích thân cậu sẽ viết yêu cầu chuyển viện cho bệnh nhân và sếp của cậu sẽ khen ngợi cậu. Nghĩ mà xem, 1 bệnh nhân được cứu sống thì ko thể làm hại đến đường công danh sự nghiệp của cậu được.
Brisson bình tĩnh chịu trận, anh ta tiến đến sát Lauren và giật những tấm phim chụp X- quang khỏi tay cô.
- Tôi đã làm điều này rồi nếu như tôi nghĩ rằng đối với tình trạng sức khỏe của anh ta thì những chi phí đó là có cơ sở. Nhưng sự thể kô phải vậy, anh ta kô sao cả, sáng mai anh ta sẽ tỉnh dậy với 1 cơn đau đầu khó chịu thôi. Trong lúc chờ đợi, tôi cho phép cô ra khỏi bệnh viện của tôi và trở về bệnh viện của cô.
- Cái chỗ này kô hơn gì 1 phòng khám làm phúc! – Lauren tiếp lời.
 
Cô giật 1 tấm phim trong tay Brisson và đính lên chiếc bảng được rọi sáng. Tấm phim chụp trực diện. Cô định vị tuyến tùng vôi hóa . Cái tuyến nhỏ này lẽ ra phải nằm sát đường trung tuyến phân cách 2 bán cầu não, thế nhưng trên phim thì nó lại bị lệch đi. Điều đó dẫn đến phỏng đoán rằng có 1 sức ép kô bình thường ở phía sau não.
- Cậu kô có khả năng giải thích hiện tượng bất thường này à? – Cô kêu lên.
- Đó chỉ là 1 tỳ vết trên phim, máy chụp di động có chất lượng kém! – Brisson trả lời với giọng cuả 1 cậu bé bị bắt quả tang đang thò tay vào lọ mứt.
- Tuyến tùng bị lệch khỏi đường trung tuyến, và cách giải thích duy nhất chỉ có thể là sự hình thành của khối máu vách chẩm. Sự ngoan cố của cậu sẽ giết chết người này và tôi thề là tôi sẽ phải làm cho cậu hối tiếc vì điều đó.
Brisson trấn tĩnh lại, mặt vênh lên kiêu ngạo, anh ta bước đến bên Lauren, buộc cô phải lùi qua cửa phòng.
- Trước hết, cô phải biện minh được sự xâm nhập của cô vào nơi này, sự có mặt của cô tại 1 phòng khám bệnh mà cô chẳng có quyền cũng kô được phép vào. Trong vòng 5’ nữa tôi sẽ gọi điện thoại cho cảnh sát đến tống cổ cô đi, trừ khi cô muốn chúng ta cùng đi đâu đó uống cà phê thì hơn? Tối nay rất yên tĩnh, tôi có thể vắng mặt 1 lát được.
Lauren khinh bỉ nhìn gã bác sĩ, môi cô run lên vì tức giận. Dựa người vào tường, cánh tay chểnh mảng đặt cao hơn vai cô, Brisson giơ mặt lại gần cô. Cô đẩy anh ta ra kô nể nang.
- Patrick, từ hồi ở trường cậu đã lộ tính dê và thói ghen ghét rồi. Người mà cậu làm cho phải thất vọng nhất trong đời chính là cậu và cậu đã quyết định bắt người khác phải trả giá vì điều đó. Nếu cậu cứ tiếp tục, người đàn ông này có qua khỏi được thì cũng phải đi xe lăn, trong trường hợp tốt nhất.
Bằng 1 cử chỉ hung hăng, Brisson đuổi cô ra phía cửa.
- Cút ra khỏi đây trước khi tôi gọi người đến bắt cô. Xéo đi, và chuyển lời chào của tôi đến Fernstein nhé; bảo với ông ta bất chấp sự đánh giá khắt khe của ông ta, tôi vẫn xoay xở rất tốt. Còn người này – Brisson nói và chỉ vào Arthur- anh ta ở lại đây, đó là bệnh nhân của tôi!
Mạch máu của Brisson nổi phồng lên vì giận dữ. Lauren đã bình tĩnh trở lại. Cô đặt tay lên vai gã bác sĩ.
- Thề có chúa, tôi thương cho những người thân của cậu; tôi xin cậu, nếu trong cậu có chút ít tình người, hãy cứ sống độc thân!
Paul đột ngột bước vào phòng, ánh mắt như phát cuồng vì xúc động.
- Tôi vừa nghe các vị nói là Arthur sẽ bị liệt, có phải kô?
Anh đang nhìn Brisson với ước muốn kô cưỡng lại được là chẹt cổ gã này thực sự, thì đến lượt nữ y tá Cybile xuất hiện. Chị xin lỗi gã bác sĩ, chị đã làm tất cả những gì có thể để giữ Paul lại, nhưng chị kô có sức mạnh thể chất cần thiết để ngăn anh ta đi vào hành lang.
- Lần này các người đã đi quá xa, cả 2 người, Cybile, gọi cảnh sát ngay, tôi sẽ đâm đơn kiện.
Brisson khoái trá, nữ y tá tiến lại gần,rút tay ra khỏi túi áo và nhét 1 cái gì đó vào tay Lauren. Cô bác sĩ trẻ ngay tức khắc nhận biết được vật này và hiểu ý định của nữ y tá. Cô cảm ơn nữ y tá bằng ánh mắt đồng lõa, và kô chút do dự, cô cắm kim tiêm vào gáy Brisson, và ấn bơm tiêm.
Gã bác sĩ nhìn cô, sững sờ, anh ta lùi lại, định rút mũi tiêm ra khỏi gáy, nhưng đã quá muộn và sàn nhà đã hụt hẫng dưới chân anh ta. Lauren bước tới 1 bước để giữ cho anh ta khỏi ngã.
- Valium và Hypnovel! Anh ta sẽ du hành 1 chuyến rất dài! – Cybile nhũn nhặn thông báo.
Được Paul giúp đỡ, Lauren đặt Brisson nằm xuống đất.
Kô phải là 1 cái đèn nêong mắc trên trần nhà nữa, mà là 1 cái máy bay lắp trong vòng quay. Tại sao bố không muốn mình trèo vào khoang?Ở trong quầy bán vé, người điều khiển vòng quay đã rung chuông, 1 lượt quay sắp bắt đầu. Tất cả trẻ con đều được chơi còn mình thi phải ở lại đây, chơi trên bãi cát. Bởi vì 1 đống cát chẳng mất tý tiền nào. 1 lượt quay giá 30 xu, nhiều tiền đấy, giá tiền phải trả để đi đến tận những ngôi sao là bao nhiêu?
Lauren nhét xuống dưới đầu Brisson 1 cái chăn gập lại mà Cybile đã đưa cho cô.
Cô ta đẹp thật, người đàn bà trước mặt mình, với cái túm tóc đuôi ngựa, hai gò má và cặp mắt long lanh của cô ta. Cô ta chẳng nhìn đến mình mấy. Thèm muốn kô phải là 1 tội ác. Mình muốn cô ta lên máy bay với mình. Mình sẽ để bố mẹ mình ở lại với cái sự tầm thường khiến họ yên lòng ấy. Mình ghét những kẻ xung quanh mình, những kẻ chẳng có chuyện gì cũng cười, động 1 tý là rửng mỡ. Tối quá.
- Anh ta ngủ à? – Paul thì thầm.
- Có vẻ như vậy lắm- Lauren kiểm tra mạch của Brisson, trả lời.
- Chúng ta làm gì bây giờ?
- Anh ta sẽ ngủ khoảng nửa tiếng, tôi muốn phi tang mọi thứ trước khi anh ta tỉnh dậy th.ì hơn. Anh ta sẽ cáu kỉnh lắm đấy. Các vị đi khỏi đây, cả 3 người đi. Tôi sẽ ra lấy ô tô của tôi, chúng ta sẽ đặt bạn anh ở phía sau rồi phóng đến bệnh viện Memorial, kô được để phí chút nào.
Cô ra khỏi phòng. Nữ y tá mở chốt bánh xe chiếc gi.ường mà Arthur đang nằm và Paul giúp cô đẩy gi.ường ra ngoài phòng khám, chú ý kô đè lên những ngón táy của Brisson đang ngủ lơ mơ dưới đất. Bánh xe kêu kèn kẹt trên tấm vải trải sàn ở đại sảnh. Paul đột ngột bỏ ra ngoài.
Lauren đóng cửa thùng xe Triump lại, và bất ngờ nhìn thấy Paul chạy ngang qua bãi đậu xe. Anh vượt lên ngang cô và kêu lên “tôi sẽ quay lại ngay” rồi tiếp tục chạy nước rút. Cô vừa xỏ áo blouse vào vừa bối rối nhìn theo anh đang xa dần.
- Paul, quả thực bây giờ kô phải lúc…
Vài phút sau, 1 chiếc xe cấp cứu dừng lại trước mặt cô. Cánh cửa phía kô có tay lái mở ra và Paul, ngồi ở vị trí người lái, tươi cười chào đón cô.
- Tôi chở cô đi nhé?
- Anh biết lái loại xe này à?- cô vừa trèo lên xe vừa hỏi.
- Tôi là chuyện gia đấy.!
Họ dừng lại dưới mái hiên, Cybile và Paul chuyển Arthur nằm trên cáng lên khoang sau của xe cấp cứu.
- Tôi cũng muốn đi theo các vị lắm- Cybile thở dài, nghiêng người vào cửa xe phía Paul, nói.
- Cảm ơn về tất cả - anh đáp
- Kô có gì, tôi sẽ bị mất việc, nhưng hiếm khi tôi được tiêu khiển đến thế. Nếu các buổi tối của anh đều thú vị như vậy thì gọi điện cho tôi nhé, tôi sẽ có thời gian rỗi.
Paul lấy chùm chìa khóa trong túi áo ra và trao lại cho nữ y tá.
- Tôi đã khóa cửa phòng khám lại, chỉ đề phòng trường hợp anh ta dậy hơi sớm qua thôi mà!
Cybile nhận chùm chìa khóa, nụ cười trên môi. Chị đập khẽ vào cửa xe như người ta thường đập vào mông ngựa để ra lệnh cho nó lên đường.
Còn lại 1 mình giữa bãi đậu xe vắng ngắt, Cybile nhìn thấy chiếc xe cấp cứu rẽ ở góc phố. Chị dừng lại trước cánh cửa tự động. Dưới chân chị là chiếc chắn cống tháo nước mưa. Chị cầm chùm chìa khóa mà Paul đã đưa lại cho chị và để nó rơi khỏi tay mình.
- Đi bằng ô tô của tôi- Lauren nói- chúng ta sẽ được kín đáo hơn.
- Cô đã nói với tôi là chúng ta kô được để phí phút nào cơ mà!- Paul phản đối và bật loạt đèn hiệu của xe cấp cứu lên.
Họ lao vút đi, nếu mọi việc đều ổn thỏa, chỉ khoảng 15’ nữa, họ sẽ có mặt ở bệnh viện Memorial.
- Thật là 1 đêm lạ lùng! – Lauren thốt lên.
- Theo cô, Arthur sau này có nhớ lại được cái gì kô?
- 1 vài mảnh ý thức chắp vá lại với nhau. Tôi kô thể đảm bảo với anh rằng tất cả những cái đó sẽ tạo thành những chuỗi liên kết.
- Có nguy hiểm kô nếu gợi dậy những kỉ niệm của 1 người đã từng bị hôn mê kéo dài.?
- Tại sao lại nguy hiểm?- Lauren hỏi- hôn mê thường đi liền theo các chấn thương sọ não. Có thể bộ não bị tổn hại, có thể kô. Cũng có khi 1 số bệnh nhân bị hôn mê mà người ta kô hiểu vì sao nữa. Y học vẫn chưa am hiểu lắm trong những vấn đề liên quan đến bộ não.
- Cô nói về chuyện đó mà cứ như nói về bộ chế hòa khí của ô tô vậy.
Thú vị, Lauren đang nghĩ tới chiếc xe Triump của cô đang phải để lại ở bãi đậu xe, và cô cầu trời để kô gặp lại Brisson khi đến lấy lại nó. Gã này dám nằm ngủ trong xe của cô để đợi đến khi cô trở lại lắm.
- Vậy nếu ta thử kích thích trí nhớ của 1 người đã từng bị hôn mê, ta sẽ kô gây bất cứ nguy hiểm gì cho họ chứ?
- Đừng lẫn lộn chứng quên lãng với hôn mê, cái đó kô liên quan gì đâu. Thường có hiện tượng là 1 người kô thể nhớ nổi những sự kiện xảy ra trước cứ sốc khiến người đó bị hôn mê. Nhưng nếu việc mất trí nhớ lan sang đến giai đoạn rộng hơn, thì nó thuộc về 1 thương tổn khác mà người ta gọi là chứng quên lãng, và cái này có những nguyên nhân riêng của nó.
Trong lúc Paul suy nghĩ, Lauren quay lại quan sát Arthur.
- Anh bạn của anh chưa bị hôn mê đâu, anh âý mới chỉ bất tỉnh thôi..
- Theo cô, người ta có thể nhớ lại đượ những chuyện xảy ra khi người ta bị hôn mê kô?
- Có lẽ nhớ được 1 vài tiếng động xung quanh mình? Cái đó cũng hơi giống như khi ta ngủ, chỉ khác là ngủ sâu hơn thôi.
Paul suy nghĩ cả ngàn lần trước khi quyết định hỏi cái câu cứ chực bật ra trên môi anh.
- Thế nếu ta mắc chứng mộng du thì sao?
Tò mò, Lauren nhìn anh. Paul là người mê tín và có 1 giọng nói nhỏ nhắc anh rằng anh đã thề giữ 1 bí mật; người bạn thân nhất của anh đang nằm trên cáng, bất tỉnh, vì vậy, anh đành phải chấm dứt những câu hỏi của anh 1 cách miễn cưỡng.
Lauren quay lại lần nữa. Nhịp thở của Arthur sâu và đều đặn. Nếu phim chụp sọ não của anh kô cho thấy 1 dấu hiệu tồi như vậy, có thể tưởng là anh đang ngủ.
- Anh ấy trông có vẻ khá đấy! – Lauren nói và quay trở lại vị trí cũ.
- À, đó là 1 gã rất khá, tuy rằng cũng có khi cậu ta chọc tức tôi từ sáng đến tối!
- Tôi nói về tình trạng sức khỏe của anh ấy cơ mà! Nhìn 2 anh cạnh nhau, trông có vẻ như là 1 đôi đã lâu năm ấy nhỉ.
- Bọn tôi như 2 anh em vậy- Paul lầm bầm
- Anh kô muốn báo tin cho bạn gái của anh ấy à, tức là tôi muốn nói đến cô bạn gái thật ấy.
- Cậu ấy độc thân, và tuyệt đối chớ có hỏi tôi là tại sao nhé!
- Tại sao?
- Cậu ấy có cái khiếu tự đặt mình vào những tình huống phức tạp.
- Chẳng hạn như?
Paul nhìn Lauren hồi lâu, quả thật nét cười ánh lên trong đôi mắt của cô là độc nhất vô nhị.
- Thôi, bỏ qua chuyện đó đi.! – anh nói và lắc đầu.
- Rẽ sang phải nhé, ở chỗ này đang có công trường- Lauren lại nói- tại sao anh cứ hỏi tôi bao nhiêu điều về hôn mê như vậy?
- Tự nhiên thế thôi!
- Anh làm nghề gì?
- Tôi là kiến trúc sư.
- Như anh bạn anh à?
- Làm sao mà cô biết?
- Anh ấy đã nói với tôi như vậy chiều hôm qua.
- Chúng tôi đã cùng nhau lập công ty. Cô có trí nhớ tốt đến mức nhớ được đến cả nghề nghiệp của tất cả các bệnh nhân của mình.
- Kiến trúc sư là 1 nghề đẹp.- Lauren nói khẽ.
- Điều ấy còn tùy thuộc vào khách hàng.
- Đối với chúng tôi thì cũng gần như thế - cô vừa cười vừa nói.
Xe cấp cứu tiến gần đến bệnh viện. Paul để còi cấp cứu hú lên 1 tiếng ngắn và ra trình diện trước lối vào dành cho xe cấp cứu. 1 nhân viên bảo vệ ấn nút nâng thanh chắn.
- Tôi rất thích được đi cửa ưu tiên – anh hớn hở nói.
- Anh hãy dừng lại trước cổng, nghịch còi xe lần nữa đi thì các nhân viên tải thương sẽ ra đưa bạn anh vào.
- Xa xỉ thật.
- Đây chỉ là 1 bệnh viện thôi
Anh dừng xe ở chỗ mà Lauren chỉ. 2 nhân viên tải thương đã ra đón họ.
- Tôi đi với họ,- Lauren nói- anh ra đỗ xe đi, tý nữa tôi sẽ gặp lại anh ở phòng đợi nhé!
- Cảm ơn về tất cả những việc cô làm.- Paul nói.
Cô mở cửa và ra khỏi xe.
- Có ai đó gần gũi với anh đã từng bị hôn mê à?
Paul nhìn thẳng vào mắt cô.
- Đúng là 1 người rất gần đấy!- Paul trả lời
Lauren đi theo cáng vào khoa cấp cứu.
- Dù sao thì 2 anh chị cũng có cái lối giao du với nhau thật kì cục. Anh chị sinh ra để hợp nhau đấy! – anh nói khẽ khi nhìn theo cô đi xa dần vào đại sảnh.
 
Chương 10Những bánh xe lăn của chiếc gi.ường di động quay nhanh đến nỗi phần lõi bánh xe rung lên bần bật trên các trục; Lauren và Betty lách đường đi giữa những hành lang chật vướng của khoa cấp cứu. Họ tránh được một cái tủ thuốc đúng lúc suýt đâm vào nó, và đến một chỗ rẽ thì có một cuộc chạm trán hết sức nguy hiểm với một toán nhân viên tải thương đi ngược chiều. Trên trần nhà, những chiếc đèn nêông kéo dài thành một vệt liên tục màu sữa. Ở đằng xa, tiếng chuông thang máy vang lên. Lauren hét lên bảo mọi người đợi cô. Cô tăng tốc chạy nhanh thêm, Betty cố hết sức để giúp Lauren giữ cho chiếc gi.ường chạy thẳng. Một bác sĩ nội trú chuyên khoa tai-mũi-họng giữ cửa thang máy lại và giúp họ luồn vào giữa hai chiếc gi.ường khác đang được đưa lên phòng mổ.
- Scanner! - Lauren hổn hển nói khi thang máy bắt đầu nâng lên.
Một nữ y tá bấm nút tầng năm. Cuộc chạy lại tiếp tục với tốc độ điên cuồng từ hành lang này sang hành lang khác, những cánh cửa hành lang mở ra mỗi lúc họ đi qua. Cuối cùng, trung tâm chụp hình y khoa đã ở trước mặt. Thở không ra hơi, Lauren và Betty dồn hết sức lực còn lại.
- Tôi là bác sĩ Kline, tôi đã báo trước với nhân viên trực là chúng tôi sẽ đến, tôi cần chụp hình sọ não bằng máy scanner ngay lập tức.
- Chúng tôi đang đợi chị đây, - Lucie trả lời - chị có hồ sơ của bệnh nhân chứ?
Chuyện giấy tờ để sau, Lauren đẩy chiếc gi.ường vào phòng khám. Từ cái khoang biệt lập để điều khiển máy scanner, bác sĩ Bern nghiêng người xuống micro.
- Chúng ta tìm gì đây?
- Trong thuỳ chẩm có thể có xuất huyết, tôi cần một loạt bản chụp trước phẫu thuật để chuẩn bị cho việc chọc hút nội sọ.
- Các vị định phẫu thuật đêm nay à? - ngạc nhiên, Bern hỏi.
- Trong khoảng chưa đầy một tiếng nữa, nếu tôi lập được êkíp mổ.
- Ông Fernstein đã được báo cho biết chưa?
- Chưa - Lauren nói khẽ.
- Nhưng các vị phải có sự đồng ý của ông ấy đối với việc chụp hình khẩn cấp bằng scanner này rồi chứ?
- Tất nhiên - Lauren nói dối.
Được Betty giúp đỡ, Lauren đặt Arthur lên bàn xét nghiệm và cài cố định cho anh ở chỗ tựa đầu. Lauren tiêm dung dịch iốt trong lúc người điều khiển máy khởi động các bước vận hành từ trạm chỉ huy. Trong tiếng rì rầm rất nhẹ, chiếc bàn tiến vào đến tận giữa ống máy. Thân máy quay những vòng đầu tiên, trong lúc chiếc vành chứa bộ phần dò sóng xoay xung quanh đầu Arthur. Những tia X-quang thu nhận được liền được tải đến một bộ dây truyền thông tin để tạo thành hình ảnh bộ não của Arr dưới dạng các lớp.
Những bản chụp đầu tiên đã xuất hiện trên hai màn hình của người điều khiển máy. Chúng khẳng định chẩn đoán của Lauren, bác bỏ chẩn đoán của Brisson. Arthur cần được phẫu thuật ngay tức khắc. Cần phải khâu lại càng nhanh càng tốt vết rách ở tĩnh mạch và thu nhỏ khối máu ở bên trong khoang sọ não.
- Theo anh, khả năng phục hồi ra sao? - Lauren nói vào micro, hỏi đồng nghiệp.
- Cô mới là bác sĩ phẫu thuật thần kinh chứ! Nhưng nếu cô muốn biết dự đoán của tôi thì tôi có thể nói nếu các vị phẫu thuật trong vòng một giờ tới thì mọi thứ vẫn còn có khả năng. Tôi không nhìn thấy thương tổn quan trọng nào, anh ta thở tốt, các trung tâm thần kinh chức năng có vẻ còn nguyên, anh ta có thể qua khỏi mà không bị hậu quả gì.
Bác sĩ soi chụp ra hiệu cho Lauren vào khoang gặp ông. Ông lấy ngón tay chỉ trên màn hình một khu vực của bộ não.
- Tôi muốn cô nhìn kỹ hơn lát cắt này, - ông nói - tôi nghĩ là ở đây chúng ta có một chỗ biến dạng lạ nho nhỏ, tôi sẽ xét nghiệm bổ sung thêm bằng IRM. Tôi sẽ gửi các tấm ảnh qua Dicom, cô nhận chúng trực tiếp ở máy neuronagivator nhé. Cô có thể gần như để cho robot phẫu thuật thay cô được.
- Cảm ơn về tất cả.
- Đêm nay yên tĩnh mà, những cuộc viếng thăm của cô bao giờ cũng làm tôi vui.
Mười lăm phút sau, Lauren rời trung tâm chụp hình y khoa, đưa Arthur lên tầng cao nhất của bệnh viện. Betty chia tay cô trước cửa thang máy, chị phải xuống lại khoa cấp cứu. Ở đó, chị sẽ làm tất cả những gì có thể để tập hợp một êkíp phẫu thuật trong thời hạn ngắn nhất.
Phòng mổ chìm trong bóng tối; trên tường, chiếc đồng hồ dạ quang chỉ ba giờ bốn mươi phút.
Lauren định đặt Arthur lên bàn mổ, nhưng không có người giúp đỡ, công việc xem ra phức tạp. Cô đã chán ngấy cuộc sống như thế này, chán giờ giấc kiểu này, chán việc cứ luôn luôn sẵn sàng với tất cả mọi người, nhưng với mình thì lại chẳng bao giờ có ai. Máy nhắn tin của cô gọi cô trở về với công việc, cô vội vã đi ra máy điện thoại treo tường. Betty nhấc máy ngay lập tức.
- Chị đã tìm được Norma rồi, bà ấy khó khăn lắm mới tin lời chị. Bà ấy sẽ lo việc tìm ông Fernstein.
- Chị nghĩ bà ấy có phải mất nhiều thời gian để làm việc này không?
- Mất một khoảng thời gian cần thiết để đi từ bếp vào phòng ngủ; nếu căn hộ của ông Fernstein rộng như mọi người vẫn nói thì bà ấy sẽ mất chừng năm phút.
- Chị muốn nói là Norma với ông Fernstein...?
- Em bảo chị tìm ông ấy vào lúc nửa đêm, việc đó đã xong rồi! Về phần chị thì chị đã yêu cầu ông ấy gọi lại thẳng cho em, màng nhĩ chị yếu lắm. Thôi nhé, chị đi tìm một bác sĩ gây mê đây.
- Chị nghĩ là ông ấy có đến không?
- Chị nghĩ ông ấy đang trên đường đi rồi, em là học trò cưng của ông ấy mà lại, có thể nói em là người duy nhất không muốn nhận ra điều đó!
Betty ngắt máy và tìm trong sổ tay của mình địa chỉ của một bác sĩ hồi sức ở không xa bệnh viện mà cô sẽ phiền tới buổi đêm nay. Lauren chậm chạp đặt máy xuống. Cô nhìn Arthur đang nằm trên cáng, chìm trong một giấc ngủ giả tạo.
Cô nghe thấy sau lưng có tiếng bước chân. Paul đến bên gi.ường và cầm tay Arthur.
- Theo cô, cậu ấy có qua khỏi được không? - Anh hỏi bằng một giọng lo lắng.
- Tôi sẽ làm hết sức, nhưng một mình tôi thì không thể làm được gì nhiều. Tôi đang đợi mọi người đến góp sức đây và tôi cũng đã mệt rồi.
- Tôi không biết phải cảm ơn cô thế nào - Paul nói khẽ - Cậu ấy là điều duy nhất vượt quá khả năng mà tôi đã cho phép mình được có.
Trước sự im lặng của Lauren, Paul nói thêm rằng anh không thể để cho mình bị mất Arthur được.
Lauren nhìn anh chăm chú.
- Lại đây giúp tôi nào, mỗi phút đều đáng giá!
Cô dẫn Paul ra phòng chuẩn bị, mở chiếc tủ ở giữa, lấy ra hai chiếc áo blouse màu xanh lá cây.
- Anh duỗi tay ra - cô nói.
Cô thắt dây đai áo ở phía sau lưng anh và đặt lên đầu anh một cái mũ chụp. Dẫn anh ra bồn nước, cô chỉ cho anh cách thức rửa tay và giúp anh xỏ một đôi găng tay tiệt trùng vào. Trong lúc Lauren tự mặc đồ, Paul chiêm ngưỡng mình trong chiếc gương. Anh nhận thấy mình rất lịch sự trong trang phục bác sĩ phẫu thuật. Nếu anh không mắc bệnh sợ máu một cách khủng khiếp thì ngành y có lẽ cực kỳ hợp với anh.
- Khi nào anh tự ngắm mình trong gương xong thì giúp tôi một tí được không? - Lauren hỏi, hai tay duỗi ra.
Paul giúp cô chuẩn bị, và khi cả hai đều đã vận trang phục xong, anh theo cô vào trong phòng mổ. Vẫn thường tự hào về những thiết bị công nghệ cao ở công ty kiến trúc của mình, giờ đây anh ngây ngất trước vô số máy móc điện tử. Anh lại gần máy neuronavigator và xoa lên bàn phím.
- Đừng sờ vào đó! - Lauren kêu lên.
- Tôi chỉ nhìn thôi mà.
- Anh nhìn bằng mắt ấy, đừng có nhìn bằng ngón tay! Anh không có quyền vào đây, nếu ông Fernstein mà nhìn thấy tôi ở trong phòng này với anh, tôi sẽ bị...
- ... nghe mắng mỏ trọn hai tiếng đồng hồ - giọng nói của vị giáo sư già phát ra từ một chiếc loa, tiếp nối. - Cô đã quyết định phá hỏng sự nghiệp của cô để gây rắc rối cho việc về hưu của tôi, hay là cô hành động mà không hề có ý thức gì vậy?
Lauren quay lại, ông Fernstein đang nhìn chằm chằm vào cô từ phòng chuẩn bị phía bên kia tấm kính.
- Chính thầy là người đã cho em tuyên thệ lời thề Hippocrate, em tôn trọng những cam kết của em, có vậy thôi! - Lauren trả lời vào máy đàm thoại nội bộ.
Fernstein nghiêng người vào máy, ông ấn nút micro để nói với vị "bác sĩ" mà ông không quen.
- Tôi đã bảo cô ấy tuyên thệ hiến tặng cơ thể cô ấy cho y học, tôi nghĩ rằng đến lúc các thế hệ sau này nghiên cứu bộ não của cô ấy, khoa học sẽ đạt được những tiến bộ lớn trong việc tìm hiểu hiện tượng cứng đầu cứng cổ.
- Anh đừng lo, từ khi ông ấy cứu sống tôi trên bàn mổ, ông ấy coi tôi là sản phẩm do ông ấy sáng tạo ra! - Lauren nói với Paul và lờ hẳn ông Fernstein đi.
Lauren lấy một chiếc dao cạo tiệt trùng trong ngăn kéo và một chiếc kéo, cô rạch áo sơ mi của Arthur ra và vứt những mảnh vải vụn vào một sọt rác. Paul không thể kìm được nụ cười khi nhìn thấy Lauren cạo sạch lông trên mình Arthur.
- Khi tỉnh dậy, cậu ta sẽ hài lòng về cú cạo lông này lắm đây!
Lauren dính những núm điện cực lên cổ tay, mắt cá chân và lên bảy điểm xung quanh tim Arthur. Cô nối dây điện vào máy điện tâm đồ và kiểm tra xem máy hoạt động đã tốt chưa. Một đường vạch từ từ và đều đặn hiện lên trên màn hình dạ quang màu xanh lá cây.
- Tôi đã trở thành một thứ đồ chơi lớn của ông ấy! Tôi bị mắng nếu làm quá nhiều giờ, tôi bị mắng nếu không có mặt đúng nơi đúng lúc, tôi bị mắng nếu chúng tôi không khám chữa được nhiều bệnh nhân ở khoa cấp cứu, tôi bị mắng vì tôi lái xe quá nhanh vào bãi đậu xe, thậm chí tôi còn bị mắng vì tôi có vẻ mặt mệt mỏi nữa! Đến ngày mà tôi nghiên cứu bộ não của ông ấy, y học sẽ đạt được những tiến bộ lớn trong việc tìm hiểu thói macho (19) của các bác sĩ.
Paul húng hắng ho, bối rối. Ông Fernstein yêu cầu Lauren ra gặp ông.
- Em đang ở trong môi trường vô trùng - cô phản đối. - Em biết thầy muốn nói gì với em rồi!
- Cô tưởng tôi dậy vào lúc nửa đêm chỉ vì niềm vui được xạc cho cô một trận hay sao? Tôi muốn trao đổi với cô về cách thức tiến hành ca mổ, cô ra nhanh lên, đây là mệnh lệnh!
Lauren đập hai găng tay vào nhau rồi ra khỏi phòng mổ, để Paul ở lại một mình với Arthur.
- Ai là bác sĩ hồi sức vậy? - Cô hỏi khi cánh cửa phòng được đẩy ra theo rãnh trượt.
- Tôi cứ tưởng đó là ông bác sĩ đứng với cô ở kia chứ?
- Không, không phải đâu ạ - Lauren nhìn vào mũi giày, khẽ nói.
- Norma lo việc đó, vài phút nữa cô ấy sẽ đến đây. Nào, cô đã lập được một êkíp mũi nhọn vào lúc nửa đêm, hãy nói xem, đó không phải là một ca viêm ruột thừa đấy chứ?
Những đường nét trên mặt Lauren giãn ra, cô đặt một tay lên vai vị giáo sư già của mình.
- Chọc hút nội sọ và thu nhỏ khối máu dưới màng cứng ạ.
- Chảy máu bắt đầu từ lúc nào?
- Từ lúc mười chín giờ, và có lẽ tăng mạnh lên vào quãng hai mươi mốt giờ, sau khi bệnh nhân hấp thụ một lượng aspirine liều cao.
Fernstein nhìn đồng hồ, lúc đó là bốn giờ sáng.
- Chẩn đoán của cô về khả năng hồi phục thế nào?
- Bác sĩ làm chẩn đoán bằng scanner thì tỏ ra lạc quan ạ.
- Tôi không hỏi cô ý kiến của ông bác sĩ ấy, mà là ý kiến của cô cơ!
- Nói thực với thầy là em cũng không biết, nhưng em cảm thấy rằng ca này bõ công để đánh thức thầy dậy.
- Vậy nếu chúng ta không cứu được bệnh nhân này, tôi sẽ khiển trách cái cảm giác của cô. Các hình chụp đâu rồi?
- Đã được đưa vào máy neuronavigator rồi ạ, phạm vi vùng mổ đã được xác định, bọn em đã gửi những ảnh đó qua Dicom. Em đã bật máy siêu âm và đã khởi động những thủ tục phẫu thuật.
- Tốt, mười lăm phút nữa chúng ta sẽ phải mổ. Cô chịu đựng được chứ? - Giáo sư vừa hỏi vừa khoác áo blouse vào người.
- Thầy hỏi rõ hơn đi! - Lauren thắt dây lưng cho ông và nói vẻ không quan tâm.
- Tôi nói về sự mệt mỏi của cô ấy.
- Thầy cứ bị ám ảnh về ch.uyện ấy mãi thôi! - Cô càu nhàu và lấy từ trong tủ ra một đôi găng tay tiệt trùng mới.
- Nếu tôi lãnh đạo một hãng hàng không, tôi sẽ phải lo xem các phi công của tôi có tỉnh táo hay không chứ.
- Thầy đừng lo, em đứng vững lắm.
- Thế ông bác sĩ phẫu thuật đang đứng trong phòng mổ là ai vậy? Ông ta đội mũ chụp nên tôi không nhận ra - Fernstein vừa hỏi vừa rửa tay.
- Đó là cả một câu chuyện dài, - cô lúng túng nói - ông ấy sẽ đi khỏi đây, ông ấy đến đây chỉ để giúp em thôi.
- Ông ta chuyên khoa gì? Đêm nay chúng ta không có nhiều người, có thêm ai giúp cũng tốt.
- Chuyên khoa tâm thần ạ!
Fernstein ngây ra sửng sốt. Norma bước vào phòng chuẩn bị. Bà giúp giáo sư xỏ găng tay và sửa sang lại trang phục cho ông. Nữ y tá nhìn vị giáo sư già và tự hào về vẻ trang nhã của ông. Fernstein ghé vào tai cô học trò của mình, thì thầm:
- Cô ấy cho là về già tôi đâm ra giống Sean Connery (20).
Và Lauren nhìn thấy nụ cười nở ra dưới khẩu trang của nhà phẫu thuật.
Bác sĩ Lorenzo Granelli, một chuyên gia gây mê-hồi sức có tiếng tăm, xuất hiện một cách ồn ào. Lập nghiệp từ hai mươi năm nay ở California, giữ một ghế nghiên cứu ở trung tâm bệnh viện-đại học, ông không bao giờ từ bỏ cái ngữ điệu trang nhã và nồng ấm cho thấy rõ gốc gác Venise của ông.
- Thế nào - ông dang rộng hai tay, thốt lên - Cái ca khẩn cấp không thể đợi được này là cái gì vậy?
 
Mọi người trong êkíp bước vào phòng mổ. Trước sự sửng sốt vô cùng của Paul, tất cả đều chào anh và gọi anh là bác sĩ. Bằng ánh mắt, Lauren ra sức ra hiệu cho Paul đi ra ngoài, nhưng trong lúc anh đang bước về phía cửa thì bác sĩ gây mê lại đề nghị anh giúp ông ta đặt túi truyền dịch. Granelli phân vân nhìn những giọt mồ hôi chảy ra dưới mũ chụp đầu của Paul.
- Thôi tôi hiểu rồi, anh bị nóng chứ gì, anh bạn đồng nghiệp thân mến.
Paul trả lời bằng một cái gật đầu và run run treo túi dịch truyền lên cọc. Về phần Lauren, cô trình bày nhanh gọn tình hình cho những người khác trong nhóm. Cô cho hiện lên lần lượt trên màn hình những lớp cắt khác nhau mà máy scanner đã thực hiện.
- Tôi sẽ đề nghị làm siêu âm thêm lần nữa sau khi chúng ta đã giảm nhẹ được áp lực nội sọ.
Fernstein rời mắt khỏi màn hình và đến gần bệnh nhân. Nhìn thấy gương mặt Arthur, ông lùi lại một bước và cảm ơn trời là chiếc khẩu trang phẫu thuật mà ông đeo đã che giấu được nét mặt ông.
- Mọi sự ổn cả chứ? - Cảm thấy sự bối rối của giáo sư, Norma bèn hỏi ông.
Fernstein lùi ra xa bàn mổ.
- Chàng trai trẻ nay đã đến chỗ chúng ta như thế nào?
- Chuyện này thầy sẽ thấy có vẻ tin lắm - Lauren trả lời bằng một giọng phải căng tai mới nghe được.
- Chúng ta có đủ thời gian để nghe câu ch.uyện ấy - giáo sư kiên quyết yêu cầu và ngồi vào sau máy neuronavigator.
Lauren kể lại cuộc hành trình hỗn loạn đưa Arthur đến khoa cấp cứu của bệnh viện Memorial lần thứ hai và đã giải thoát anh khỏi bàn tay tệ hại của Brison.
- Tại sao cô không thực hiện cuộc xét nghiệm thần kinh kỹ hơn khi khám bệnh cho anh ta lần đầu? - Fernstein hỏi trong lúc kiểm tra hoạt động của máy.
- Không có chấn thương sọ não, không có hiện tượng bất tỉnh, kết quả kiểm tra thần kinh vận động tốt. Chúng ta đã có chỉ thị phải hạn chế những xét nghiệm đắt tiền không cần thiết...
- Cô có bao giờ tôn trọng các chỉ thị đâu, đừng có nói với tôi rằng lần này tự dưng cô quyết định phải tuân theo chỉ thị, lần đầu tiên như vậy thì quả là không may!
- Lúc ấy em không có lý do gì để lo ngại cả.
- Thế còn Brison...
- Anh ta vẫn thế - Lauren trả lời.
- Anh ta để cho cô mang bệnh nhân của anh ta đi à?
- Không hẳn là như vậy...
Paul rặn ra một cơn ho khủng khiếp. Tất cả êkíp mổ nhìn anh. Granelli rời khỏi chỗ và đến vỗ vỗ vào lưng anh.
- Anh có chắc là anh khoẻ không, anh bạn đồng nghiệp thân mến?
Paul gật đầu ra hiệu để bác sĩ gây mê yên tâm và lảng ra xa.
- Vậy thì tốt lắm! - Bác sĩ Granelli thốt lên - Bây giờ, hoàn toàn nói riêng với anh thôi, nếu anh có thể tránh không gieo rắc trực khuẩn lao trong căn phòng này, thì tập thể y tế mà tôi là thành viên sẽ vô cùng biết ơn anh. Tôi nói nhân danh ông bệnh nhân quý hoá này, người mà chỉ nghĩ đến việc có anh lại gần là đã phát ốm lên rồi.
Với cảm giác như có cả một đàn kiến bò trên đùi mình, Paul đến bên Lauren và thì thào vào tai cô, van xin:
- Cho tôi ra khỏi đây trước khi bắt đầu, nhìn thấy máu tôi không chịu được!
- Tôi sẽ cố hết sức - nữ bác sĩ trẻ thì thầm.
- Đời tôi khốn khổ khi hai người các vị tụ tập lại với nhau, nếu có lúc nào đó các vị thử gặp gỡ nhau theo các thức hơi giống người đời một tí thì sẽ tốt cho tôi lắm.
- Anh nói cái gì vậy? - Lauren sửng sốt hỏi.
- Tự tôi hiểu tôi! Cô tìm cách cho tôi ra khỏi căn phòng này đi, trước khi tôi lăn ra bất tỉnh.
Lauren bước ra xa Paul.
- Anh sẵn sàng rồi chứ? - cô hỏi Granelli.
- Không thể sẵn sàng hơn được nữa, cô bạn thân mến ạ, tôi đang đợi hiệu lệnh - bác sĩ gây mê trả lời.
- Còn vài phút nữa - Fernstein thông báo.
Norma chụp vải định vị vùng mổ trên đầu Arthur. Khuôn mặt anh mất hút dưới một lớp vải màu xanh lá cây.
Fernstein muốn kiểm tra lại các hình chụp một lần cuối cùng, ông quay về phía tấm bảng được rọi sáng từ phía sau, nhưng trên bảng trống rỗng, không có bức hình nào. Ông nghiêm khắc đưa mắt nhìn Lauren.
- Các bản chụp để ở phía bên kia cửa kính, em xin lỗi.
Lauren ra khỏi phòng để lấy các bản chụp IRM. Khi cánh cửa phòng mổ đóng lại, Norma làm dịu Fernstein bằng một nụ cười thông cảm.
- Tất cả những chuyện này không thể chấp nhận được - ông nói và cầm lấy càng máy neuronavigator - Cô ấy dựng chúng ta dậy vào lúc nửa đêm, không ai được báo trước về cuộc phẫu thuật này cả, chúng ta chẳng có mấy thời gian để chuẩn bị, dù sao thì cũng có một chút thủ tục tối thiểu nào đó phải được tôn trọng ở cái bệnh viện này chứ!
- Nhưng mà, ông bạn đồng nghiệp thân mến của tôi ơi - Granelli thốt lên - tài năng thường được biểu hiện trong tính tự phát của những trường hợp không lường trước đấy.
Tất cả các gương mặt đều quay về phía bác sĩ gây mê. Granelli húng hắng ho.
- Tức là một cái gì đó tương tự như thế! Phải không nào?
Cánh cửa phòng chuẩn bị, nơi Lauren đang lấy những kết quả xét nghiệm cuối cùng, bật mở. Một cảnh sát mặc đồng phục đi trước, viên thanh tra theo sau. Lauren lập tức nhận ra viên bác sĩ mặc áo blouse đang chỉ tay vào cô.
- Cô ta đấy, bắt cô ta ngay đi!
- Làm sao mà các anh lại đến tận đây được? - Lauren sững sờ hỏi viên cảnh sát.
- Sự việc xem ra có vẻ khẩn cấp, chúng tôi đem anh này đi theo để dẫn đường cho chúng tôi - viên thanh tra chỉ vào Brisson, trả lời.
- Tôi đến tham dự vào việc bắt giữ cô vì mưu toan ám sát và giam cầm một bác sĩ đang thực hiện nhiệm vụ, để bắt cóc một bệnh nhân của bác sĩ này và ăn trộm một chiếc xe cấp cứu!
- Xin anh hãy để cho tôi làm công việc của tôi, bác sĩ - thanh tra Erik Brame nói với Brisson.
Viên thanh tra hỏi Lauren có thừa nhận sự việc không. Cô hít một hơi thật sâu và thề rằng cô hành động chỉ vì lợi ích của người bệnh. Đó là một trường hợp phòng vệ chính đáng.
Thanh tra Brame lấy làm tiếc rằng ông không có quyền xét xử chuyện này, và ông không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đeo còng vào tay cô.
- Có thật cần thiết như vậy không? - Lauren nài nỉ.
- Đó là pháp luật! - Brisson hớn hở.
- Tôi còn một cái còng khác; nếu anh còn nói thay tôi một lần nữa, - viên thanh tra nói - tôi sẽ bắt giữ anh vì tội lấn quyền nhân viên thuộc lực lượng an ninh quốc gia.
- Có một tội như vậy à? - gã bác sĩ nội trú hỏi.
- Anh có muốn kiểm tra không? - Brame trả lời bằng một giọng kiên quyết.
Brisson lùi lại một bước, để cho viên cảnh sát tiếp tục hỏi cung.
- Cô đã làm gì đối với chiếc xe cấp cứu.
- Nó ở ngoài bãi đậu xe. Tôi đã định đến sáng sớm sẽ mang trả lại nó.
Chiếc loa bỗng kêu lẹt xẹt, Lauren và viên cảnh sát quay người lại và nhìn thấy ông Fernstein từ trong phòng mổ đang hướng về phía họ.
- Có thể cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra không?
Mặt cô bác sĩ trẻ đỏ bừng lên, cô nghiêng người về phía bàn máy, đôi vai nặng trĩu, và cô ấn nút máy đàm thoại.
- Em xin lỗi, - cô nói khẽ - em rất tiếc.
- Việc cảnh sát đột nhập vào đây có liên quan gì với bệnh nhân đang nằm trên chiếc bàn này không?
- Có thể coi là như vậy - Lauren thú nhận.
Granelli tiến sát đến cửa kính.
- Đây là một tên cướp à? - ông hỏi, gần như phấn chấn.
- Không. - Lauren trả lời - Tất cả là lỗi tại em, em xấu hổ quá.
- Không nên xấu hổ, - bác sĩ gây mê nói - bản thân tôi đây, khi tôi bằng tuổi cô bây giờ, tôi cũng đã làm hai hay ba trò đùa khiến cho tôi được hưởng vài buổi tối với các ông carabinieri (21), mà quân phục của họ thì trông oai hơn hẳn quần áo cảnh phục của các vị nhé.
Bác sĩ gây mê đang cao hứng thì bị viên thanh tra Brame tiến đến micro, ngắt lời.
- Cô ấy đã đánh cắp một chiếc xe cấp cứu và bắt cóc bệnh nhân này ở một bệnh viện khác.
- Một mình à? - Bác sĩ gây mê thốt lên trong trạng thái hưng phấn tột độ - cái cô này cừ quá nhỉ?
- Cô ta có một tòng phạm, - Brisson nhắc - tôi thì chắc là hắn đang ở trong đại sảnh, cần phải bắt cả hắn nữa.
Fernstein và Norma quay về phía ông bác sĩ duy nhất vẫn chưa tự giới thiệu , nhưng trước sự bất ngờ hết sức của họ, ông ta đã biến mất. Ngồi co rúm trong khoang dưới bàn mổ, Paul không hiểu bằng cách nào mà buổi tối của anh lại có thể biến thành một cơn ác mộng như vậy. Trước đó vài giờ, anh là một người đàn ông hạnh phúc và thanh thản, ngồi ăn tối với một phụ nữ xinh đẹp.
Fernstein tiến đến sát tấm kính và hỏi Lauren tại sao cô lại phạm phải một hành động ngu ngốc như vậy. Cô học trò của ông ngẩng đầu lên nhìn ông, mắt tràn ngập nỗi buồn:
- Nếu không thì Brisson sẽ giết chết bệnh nhân ấy.
- Xin chào giáo sư - gã bác sĩ trẻ hân hoan nói - Tôi muốn lấy lại bệnh nhân của tôi ngay lập tức! Tôi cấm ông tiến hành cuộc phẫu thuật này, tôi sẽ mang bệnh nhân đi.
- Tôi hoàn toàn không tin là anh có thể làm được việc này - Fernstein giân dữ phản đối.
- Thưa giáo sư, tôi đề nghị ông để bác sĩ Brisson làm việc - viên thanh tra cảnh sát lúng túng nói.
Granelli nhẹ nhàng lùi lại đến bên bàn mổ. Ông kiểm tra tình trạng của Arthur và tháo một cí điện cực ra khỏi cổ tay anh. Lập tức tín hiệu báo động của máy điện tim vang lên. Granelli giơ hai tay lên trời.
- Thế đấy! Mọi người cứ nói mãi, còn chàng trai này thì mỗi lúc một yếu thêm. Trừ khi cái ông đang quấy rầy chúng tôi tự nhận lấy trách nhiệm về tình trạng xấu đi không tránh khỏi của bệnh nhân này, còn không thì tôi nghĩ là đã đến lúc phải mổ. Đằng nào thì việc gây mê cũng đã bắt đầu rồi và không thể di chuyển bệnh nhân được nữa! - ông kết luận, đắc thắng.
Chiếc khẩu trang phẫu thuật mà Norma đeo không thể che giấu được nụ cười của bà. Brisson tức điên lên, giận dữ chỉ ngón tay về phía Fernstein:
- Tất cả các người sẽ phải trả giá với tôi!
- Tôi nghĩ là chúng ta vẫn chưa thanh toán nợ nần xong đâu, anh bạn trẻ ạ, nhưng bây giờ thì hãy ra khỏi đây và để yên cho chúng tôi làm việc! - Giáo sư ra lệnh và quay đi, không hề nhìn đến Lauren.
Thanh tra Brame cất chiếc còng và nắm cánh tay cô bác sĩ trẻ dẫn đi. Brisson theo chân họ.
- Ít nhất cũng có thể nói rằng đêm nay là một đêm thật độc đáo - Granelli nói và đặt lại điện cực vào cổ tay Arthur.
Tiếng máy chạy rù rù trùm lên sự tĩnh lặng trong phòng mổ. Thuốc gây mê chảy dọc theo ống dẫn và ngấm vào mạch máu của Arthur. Granelli kiểm tra độ bão hoà khí máu và ra hiệu cho Fernstein là cuối cùng thì cuộc phẫu thuật đã có thể bắt đầu.
- o O o -
Lauren ngồi vào chiếc ôtô bình thường, không để dấu hiệu xe cảnh sát của thanh tra Erik Brame, Brisson lên xe của viên cảnh sát mặc đồng phục. Đến ngã tư phố California, hai chiếc xe tách khỏi nhau. Brisson trở lại bệnh viện San Pedro để tiếp tục phiên trực. Sáng ra, anh ta sẽ đến ký đơn kiện.
- Lúc đó bệnh nhân ấy ở trong tình trạng nguy kịch thật à? - viên thanh tra hỏi.
- Bây giờ anh ta vẫn vậy - Lauren trả lời từ hàng ghế sau.
- Thế anh chàng Brisson này có trách nhiệm gì trong chuyện đó không?
- Anh ta không phải là người đã đẩy bệnh nhân đập vào tấm kính, nhưng có thể nói rằng sự kém cỏi của anh ta đã làm cho tình hình trầm trọng thêm.
- Như vậy, cô đã cứu sống bệnh nhân này à?
- Tôi đang chuẩn bị mổ cho anh ta thì anh đến bắt tôi.
- Và cô làm những việc kiểu này đối với tất cả các bệnh nhân của cô?
- Đúng và không đúng, tức là cố gắng cứu họ thì đúng, nhưng bắt cóc họ ở một bệnh viện khác thì không.
- Cô đã chịu liều mình như vậy vì một người không quen biết à? Thế thì cô làm tôi phục đấy.
- Đó không phải là việc mà ngày nào anh cũng làm trong nghề của anh sao: liều mình vì những người không quen biết.
- Có chứ, nhưng tôi là cảnh sát.
- Còn tôi thì là bác sĩ.
Ôtô tiến vào Chinatown, Lauren xin viên sĩ quan cho mở cửa sổ, điều này không hẳn là đúng nguyên tắc, nhưng thanh tra Brame cho phép, đêm nay ông đã ngán các nguyên tắc lắm rồi.
- Cái gã này tôi thấy rất ác cảm, nhưng tôi không được lựa chọn, cô hiểu chứ?
Lauren không trả lời, đầu nghiêng ra cửa sổ, cô hít thở luồng khí biển đang tràn vào các khu phố phía đông của thành phố.
- Tôi thích nơi này nhất đấy - cô nói.
- Trong những hoàn cảnh khác thì tôi đã mời cô đi ăn món vịt quay ngon nhất thế giới rồi.
- Ở chỗ anh em nhà Tang ấy à?
- Cô biết chỗ đó sao?
- Đó là căng-tin của tôi đấy, đúng hơn đó đã từng là căng-tin của tôi, đã hai năm nay rồi tôi không có thời giờ để đặt chân đến đó.
- Cô đang lo lắng phải không?
- Tôi muốn được có mặt với mọi người trong phòng mổ thì hơn, nhưng ông Fernstein là nhà phẫu thuạt thần kinh giỏi nhất ở thành phố này, vì thế, tôi không cần phải lo lắng.
- Cô đã từng trả lời được một câu hỏi chỉ băng một câu đúng hoặc không chưa?
Lauren mỉm cười.
- Cô đã làm vụ đó thật, chỉ một mình thôi, đúng không?
- Đúng!
Ôtô đỗ vào bãi đậu xe của cảnh sát ở quận 7. Thanh tra Brame giúp Lauren xuống xe. Vào đến sở cảnh sát, ông giao ngay cô hành khách của mình cho sĩ quan trực.
Nathalia không thích qua đêm xa người bạn đời của mình, nhưng giờ làm việc từ lúc mười hai giờ đêm đến sáu giờ sáng được tính gấp đôi. Chỉ còn ba tháng nữa thôi, chị cũng sẽ nghỉ hưu. Ông cảnh sát già thô kệch của chị đã hứa sẽ đưa chị đi chơi một chuyến thật xa, chuyến đi mà chị đã bao năm mơ ước. Cuối mùa thu này, họ sẽ bay sang châu Âu. Chị sẽ ôm hôn ông dưới chân tháp Eiffel, họ sẽ đi thăm Paris rồi sẽ đến Venise để kết hôn trước Chúa. Trong tình yêu, sự kiên nhẫn có những ưu điểm của nó. Sẽ không có một nghi lễ nào, hai người sẽ chỉ vào một nhà thờ nhỏ, loại nhà thờ mà trong thành phố có đến hàng chục cái.
Nathalia vào phòng hỏi cung để xác định lai lịch của Lauren Kline, một nữ bác sĩ chuyên khoa phẫu thuật thần kinh, người đã đánh cắp chiếc xe cấp cứu và bắt cóc một bệnh nhân trong một bệnh viện.
 
Chương 11Nathalia đặt cuốn sổ của mình xuống bàn.
- Tôi đã thấy nhiều chuyện quái lại trong nghề của tôi, nhưng đến giờ thì cô đã phá kỉ lục rồi đấy.
Chị nhìn Lauren hồi lâu. Ba mươi năm trong nghề chị đã tham dự vào rất nhiều cuộc hỏi cung và có thể đánh giá sự thành thật của 1can phạm trong khoảng thời gian ngắn hơn thời gian mà kẻ ấy dùng để phạm tội. Nữ bác sĩ trẻ đã quyết định cộng tác; ngoài sự tòng phạm của Paul, cô chẳng cần che giấu gì cả. Cô chịu trách nhiệm về những hành động của mình. Nếu một tình huống tương tự như vậy lại diễn ra, cô sẽ vẫn cư xử như thế.
Nửa tiếng đồng hồ trôi qua, Lauren kể, Nathalia vừa nghỉ vừa chốc chốc lại rót thêm cà phê.
- Chị không ghi lại gì trong lời khai của tôi cả.- Lauren nói.
- Tôi ở đây không phải để làm việc đó, sáng mai một thanh tra sẽ đến đây. Tôi khuyên cô nên đợi có một luật sư rồi mới kể cho bất cứ ai khác câu chuyện mà cô vừa nói với tôi. Bệnh nhân của cô có khả năng qua khỏi được không?
- Phải kết thúc ca mổ thì mới biết được, tại sao chị lại hỏi như vậy?
Nếu quả thật là Lauren đã cứu sống anh ta, Nathalia nghĩ rằng điều đó sẽ khiến cho ban lãnh đạo bệnh viện Mission San Perdo thôi kô đứng ra kiện nữa.
- Có cách nào cho tôi ra ngoài không? Chỉ để tham dự ca mổ thôi? Tôi thề là buổi sáng tôi sẽ trình diện ở đây
- Trước hết , cần có một thẩm phán ấn định khoản tiền bảo lãnh cho cô. Trong trường hợp tốt nhất, cô sẽ gặp thẩm phán vào buổi chiều, trừ khi anh đồng nghiệp của cô rút đơn kiện.
- Đừng tính đến chuyện đó, anh ta đã chẳng làm gì được tôi thời chúng tôi học đại học rồi, chị nghĩ xem, anh ta sẽ phải túm lấy dịp này để trả thù chứ.
- Cô và anh ta trước có quen nhau à?
- Tôi đã phải chịu đựng anh ta khi ngồi cùng bàn hồi học năm thứ tư.
- Và anh ta chiếm chỗ hơi nhiều quá?
- Cái hôm anh ta đặt tay lên đùi tôi, tôi đã đuổi thẳng cánh.
- Lại còn thế nữa cơ à?
- Tôi có thể kể cho chị chuyện này mà kô có mặt luật sư của tôi được kô?- Lauren đáp bằng 1 giọng khá vui vẻ.- Tôi đã tát anh tan gay giữa giờ học môn sinh học phân tử, 1 tiếng bốp vang khắp cả giảng đường.
- Hồi ở học viện cảnh sát, tôi nhớ là tôi đã còng tay 1 viên thanh tra trẻ lại vì anh ta định ôm hôn tôi 1 cách hơi sỗ sàng. Anh ta đã có 1 đêm thật tệ, bị khóa móc vào cửa xe ô tô của mình.
- Thế chị không bao giờ gặp lại anh ta à?
- Chúng tôi sắp cưới!
Nathalia xin lỗi Lauren, nhưng theo quy định thì chị phải giam cô lại. Lauren đưa mắt nhìn cái khoang nhỏ có chấn song sắt ở góc phòng hỏi cung.
- Đêm nay yên ắng thật!- Nathalia lại nói- Tôi sẽ để mở cửa phòng giam. Nếu cô nghe thấy có tiếng bước chân thì tự đóng cửa lại nhé, kô thì tôi sẽ gặp rắc rối đấy. Có cà phê ở trong tủ bên dưới bếp và tách thì trong chiếc tủ tường nhỏ. Đừng làm chuyện gì dại dột đấy.
Lauren cảm ơn chị. Nathalia rời căn phòng này và trở về phòng làm việc của mình. Chị lấy cuốn sổ trực ban buổi đêm ra để ghi lại vào đó lai lịch của người phụ nữ trẻ bị bắt và được đưa đến cảnh sát quận 7 vào lúc 4h 35’.
- Mấy giờ rồi?- Fernstein hỏi
- Anh mệt à? – Norma hỏi.
- Tôi chẳng rõ tại sao tôi lại mệt nhỉ, tôi bị đánh thức dậy vào lúc nửa đêm và mới đứng mổ có hơn 1 tiếng đồng hồ thôi.- ông bác sĩ phẫu thuật già càu nhàu.
- Thầy nào trò nấy, phải kô chị Norma thân mến? – Bác sĩ gây mê tiếp lời.
- Ý anh muốn nói gì, bạn đồng nghiệp thân mến?- Fernstein hỏi.
- Tôi đã tự hỏi kô biết cô học trò của anh lấy đâu ra cái lối nói đặc biệt ấy.
- Như vậy có phải suy ra các sinh viên của anh sẽ hành nghề y với đôi chút ngữ điệu Ý không?
Fernstein luồn 1 ống dẫn lưu qua đường rạch vào trong sọ não của Arthur. Máu tràn luôn vào trong ống. Khối máu dưới màng cứng đã bắt đầu xẹp đi.1 khi những vết rách cực nhỏ đã được hàn lại, việc còn lại phải làm là tìm cách giải quyết chỗ dị tật nhỏ ở mạch.Que dò của máy neuronavigator tiến từng milimet 1. Các mạch máu hiện lên trên máy kiểm soát trông giống như những nhánh sông ngầm. Cuộc du hành kì diệu vào vùng trí tuệ con người cho đến lúc này kô có trở ngại gì. Thế nhưng, ở 2 bên mũi dò, trải ra 1 màu xám mênh mông của chất xám tiểu não, như 1 đám mây có hàng triệu tia chớp xuyên qua. Từng phút 1, que dò vạch 1 đường đi đến cái đích cuối cùng, nhưng cần phải mất nhiều thời gian nữa nó mới đến được các mạch máu não trong.
Nathalia nhận ra những tiếng bước chân đang đi lên cầu thang. Thanh tra Pilguez ló đầu qua khe cửa hé mở. Tóc tai bờm xờm, khuôn mặt hoen hoen màu muối tiêu của bộ râu mới mọc, ông đặt xuống 1 gói nhỏ màu trắng thắt chiếc ruy băng nâu.
- Cái gì vậy?- Nathalia tò mò hỏi.
- Có 1 người không tài nào ngủ nổi khi không có em trên gi.ường ngủ của hắn.
- Anh nhớ em đến thế cơ à?
- Không phải nhớ em mà là nhớ nhịp thở của anh, nó ru anh ngủ.
- Rồi sẽ có ngày anh đi đến chỗ ấy thôi, em tin chắc như vậy.
- Đến chỗ nào nào?
- Đến chỗ nói một cách đơn giản rằng anh không thể sống thiếu em.
Viên thanh tra già ngồi xuống bàn làm việc của Nathalia. Ông rút bao thuốc lá từ trong túi ra và đưa 1 điếu lên môi.
- Vì em còn làm việc vài tháng nữa, anh sẽ dành ngoại lệ là chia sẻ với em thành quả của 1 kinh nghiệm vất vả thu nhận được trên thực địa. Để đi đến 1 kết luận, em phải tập hợp các hiện tượng lại. Trong trường hợp mà em đang quan tâm đây, trước mặt em là 1 gã sáu chục tuổi có thừa, đã rời bỏ New York để sống chung với em; chính cái gã ấy đã ra khỏi gi.ường hắn , cũng là gi.ường của em, vào lúc 4h sáng, hắn ta đi xuyên qua thành phố bằng ô tô, trong khi ban đêm hắn kô nhìn thấy được gì cả, hắn dừng lại để mua bánh rán cho em, trong khi tỷ lệ cholesterol trong người kô cho phép hắn lai vãng quanh vỉa hè các cửa hàng đồ ngọt- trong cái gói này là bánh rán ngọt đấy- và hắn mang bánh rán đến đặt lên bàn làm việc của em. Em có cần thêm 1 lời khai nữa kô?
- Dù sao em vẫn thích anh phải thú nhận hơn.
Nathalia rút điếu thuốc ra khỏi miệng Pilguez và thay vào đó bằng 1 cái hôn.
- Thế này thì hoàn toàn kô tồi tý nào cả, cuộc điều tra của em tiến triển tốt đấy!- viên thanh tả về hưu nói tiếp- Em trả lại điếu thuốc cho anh chứ?
- Anh đang ở trong 1 công sở, hút thuốc là việc bị cấm!
- Ngoài anh và em ra, anh chẳng thấy có mấy người.
- Anh nhầm rồi, có 1 phụ nữ trẻ trong phòng giam số 2.
- Cô ta dị ứng với thuốc lá à?
- Cô ta là bác sĩ!
- Các vị đã tóm 1 bác sĩ à? Cô ta đã làm gì vây?
- 1 chuyện kì quặc. Thế mà em đã tưởng mình đã chứng kiến đủ trong cái nghề này rồi. Cô ta xoáy 1 chiếc xe cấp cứu và bắt cóc 1 bệnh nhân đang hôn mê…
Nathalia chưa kịp nói hết câu, Pilguez đã đứng phắt dậy và sải những bước dứt khoát ra hành lang.
- George! – chị kêu lên- anh đã về hưu rồi cơ mà!
Nhưng viên thanh tra kô quay lại, ông mở cửa phòng hỏi cung.
- Mình thấy 1 cái gì đó như là 1 linh cảm.- ông lẩm bẩm và khép lại cánh cửa sau lưng.
- tôi nghĩ là chúng ta kô còn xa lắm nữa đâu – Fernstein vừa nói vừa xoay càng máy.
Bác sĩ gây mê nghiêng người nhìn vào màn hình của mình, rồi lập tưc tăng lượng ô xy lên.
- Anh có vấn đề gì à?- bác sĩ phẫu thuật hỏi.
- Độ bão hòa hạ, cho tôi vài phút rồi hãy tiếp tục.
Nữ y tá lại gần cây cọc, chị điều chỉnh lại lưu lượng dịch chuyền và kiểm tả những ống dẫn khí vào mũi Arthur.
- tất cả đều đâu vào đấy- chị nói
- có vẻ đã ổn định rồi.- Graneli nói tiếp bằng 1 giọng bình tĩnh hơn.
- Tôi có thể tiếp tục được chứ?- Fernstein hỏi
- Được, nhưng tôi kô yên tâm, tôi kô biết người này có tiền sử tim mạch gì kô?
- Tôi sẽ cho ống dẫn lưu thứ hai vào, khối máu có vẻ hơi phình lên.
Huyết áp của Arthur hạ xuống, các chỉ số hiện lên trên màn hình chưa phải là nguy hiểm, nhưng ở mưc khiến bác sĩ gây mê phải cảnh giác. Thành phần khí máu kô được tốt lắm.
- Chúng ta cho anh ta tỉnh lại sớm đc lúc nào hay lúc ấy; anh ta kô có phản ứng tốt với Diprivan- Graneli lại nói.
Đồ thị trên máy điện tâm đồ ngoặt sang 1 hướng mới. Sóng Q bất bình thường. Norma nín thở nhìn vào chiếc máy nhỏ, nhưng vạch màu xanh lá cây đã trở lại thành đường sóng đều đặn.
- chúng ta chưa đi xa lắm- nữ y tá nói và đặt hai tay cầm của máy sốc điện xuống.
- tôi muốn giá như có thêm được 1 lần siêu âm đối chiếu nữa thì tốt, - đến lượt Fernstein nói – nhưng kô may đêm nay chúng ta lại thiếu mất 1 bác sĩ. Mà cô ta còn làm cái gì nữa hả giời? chẳng lẽ bọn họ lại giữ cô ta cả đêm sao!
Và Fernstein thề sẽ đích thân chăm lo đến cái gã Brisson đần độn ấy.
- o O o -
Lauren đến ngồi trên chiếc ghế băng đặt sâu trong căn buồng giam chấn song sắt. Pilguez mở cửa, mỉm cười khi nhận thấy cửa kô khóa, rồi đi ra chiếc bàn để bát đĩa. Ông lấy ấm cà phê và tự rót cho mình 1 tách.
- Tôi sẽ kô nói gì về chuyện phòng giam cả, và cô đừng nói gì về việc tôi dùng sữa nhé. Tôi có nhiều cholestorol , cô ấy sẽ bực lắm đấy.
- Chị ấy bực là đúng! Tỷ lệ cholesterol của ông thế nào?
- Cô kô nhận thấy những đặc thù bài trí nội thất xung quanh cô à? Tôi có đến đây để khám bệnh đâu.
- Ít nhất thì ông cũng có uống thuốc chứ?
- Những thứ thuốc ấy làm tôi ăn mất ngon, mà tôi thì lại thích ăn.
- Ông hãy yêu cầu đổi thuốc xem.
Pilguez đọc lướt qua phần báo cáo của cảnh sát, phần của Nathalia bỏ trống.
- Hẳn là cô ấy có thiện cảm với cô. Biết làm thế nào được, tính cô ấy như vậy đó, cô ấy cứng đầu lắm.
- Ông nói về ai vậy?
- Vợ tôi, cô ấy là người đã quên ghi lại lời khai của cô đấy, cô ấy cũng quên khóa cửa phòng giam của cô nữa, thật quái lạ, tuổi tác làm cho cô ấy trở thành đãng trí quá. Thế bệnh nhân mà cô đã bắt cóc là ai vậy?
- 1 anh chàng Arthur Ashby nào đó, nếu trí nhớ của tôi tốt.
Pilguez giơ 2 tay lên trời, vẻ choáng váng.
- Cũng chẳng tốt lắm đâu, nếu cô muốn biết ý kiến của tôi!
- Ông có thể nói rõ hơn được kô?- Lauren hỏi
- Cậu ta suýt nữa đã làm hỏng mấy tháng làm việc cuối cùng của tôi rồi, kô phải là cô đã quyết định tiếp nối cậu ta và phá hoại việc nghỉ hưu của tôi chứ?
- Tôi tuyệt nhiên kô hiểu ông đang nói đến chuyện gì.
- Đó chính là điều mà tôi vẫn lo ngại đấy!- viên thanh tra thở dài- Thế cậu ta đang ở đâu?
- ở bệnh viện Memorial, trong phòng mổ của khoa phẫu thuật thần kinh, nơi mà lẽ ra hiện giờ tôi phải có mặt, thay vì mất thời gian trong cái đồn cảnh sát này. Tôi đã đề nghị vợ ông cho tôi quay lại đó, tôi hứa sẽ về lại đây ngay sau khi ca phẫu thuật kết thúc, nhưng chị ấy kô muốn.
Viên thanh tra đứng dậy để đi rót thêm cà phê vào tách. Ông quay lưng về phía Lauren và trút 1 thìa đường vào cà phê.
- Chỉ còn thiếu có chuyện này nữa thôi.! – Ông nói bằng 1 giọng át cả tiếng khua thìa.- Còn 3 tháng nữa là cô ấy nghỉ hưu và chúng tôi đã có vé máy bay đi Paris rồi, tôi biết trò đó đối với cô cậu gần như là 1 thứ thể thao, nhưng các vị cũng đừng có làm hỏng cả chuyện này chứ.
- Tôi kô nhớ là chúng ta đã gặp nhau và tôi kô hiểu gì về những lời ông nói cả, ông có thể giải thích cho tôi được kô?
Pilguez đặt 1 cốc cà phê lên bàn và đẩy ra trước mặt Lauren.
- Cẩn thận nhé, nóng bỏng đấy. Cô uống đi, rồi tôi sẽ đưa cô đi.
- Tôi đã gây ra kô ít rắc rối cho những người xung quanh tôi đêm nay rồi, ông có chắc là…
- Tôi đã về hưu được mấy năm, cô nghĩ người ta có thể làm gì được tôi bây giờ, họ đã lấy mất công việc của tôi rồi còn gì!
- Thế tôi có thể quay lại đó thật à?
- Vừa bướng lại vừa ngễnh ngãng!
- Tại sao ông lại làm điều đó?
- Cô là bác sĩ, nghề của cô là chữa bệnh cho mọi người, còn tôi là cảnh sát, hãy để cho việc hỏi là đặc quyền của tôi. Ta đi thôi, tôi phải đưa cô trở lại đây trước lúc đổi phiên, sau 4 tiếng nữa.
Lauren đi theo viên cảnh sát ra hành lang, Nathalia ngẩng đầu lên nhìn người bạn đời của mình.
- Anh làm cái gì đấy?
- Em để cửa lồng mở nên con chim bay đi cưng ạ!
- Anh muốn đùa à?
- Em cứ phàn nàn là anh kô cười đùa bao giờ cơ mà! Anh sẽ đến đón em vào cuối ca trực, và sẽ nhân thể đưa cô bé này về lại đây.
Pilguez mở cửa x echo Lauren. Ông đi vòng sang phía bên kia và ngồi vò phía sau tay lái của chiếc Mercury Grand Marquis. Mùi da mới phảng phất trong khoang xe.
- Nó có mùi hơi mới 1 tý, nhưng chiếc xe Toronado cũ của tôi đã tạ thế hồi mùa đông mất rồi, nếu kô thì cô đã phải nghe tiếng ồn cỡ như 385 con ngựa phi nước đại, phát ra từ dưới nắp đậy máy xe. Cái xe ấy và tôi đã thực hiện vài cuộc rượt đuổi khá đẹp mắt.
- Ông thích các loại ô tô cũ à?
- Kô, nói cho vui chuyện vậy thôi.
1 làn mưa bụi bắt đầu rơi xuống thành phố, 1 chuỗi những giọt mưa nhỏ đậu lên tấm kính trước xe như lớp voan long lánh.
- Tôi biết rằng tôi kô có quyền đặt câu hỏi cho ông, nhưng vì sao ông lại cho tôi ra khỏi phòng giam.?
- Chính cô đã nói rồi đấy thôi, ở bệnh viện của cô cô sẽ có ích hơn là ngồi uống thứ cà phê chán ngắt trong đồn cảnh sát của tôi.
- Còn ông thì lại có ý thức sâu sắc về lợi ích công cộng.?
- Cô thích tôi đưa cô về lại đồn hơn à?
Những vỉa hè vắng vẻ lấp loáng ánh sáng trong đêm.
- Thế còn cô, - ông nói tiếp- vì sao đêm nay cô lại làm tất cả những chuyện đó: ý thức sâu sắc về nghĩa vụ chăng?
Lauren im lặng và nhìn ra phía cửa xe.
- Tôi chẳng có chút ý niệm nào về ch.uyện ấy cả.
Viên cảnh sát già rút bao thuốc lá ra.
- Cô đừng lo, tôi kô hút thuốc 2 năm nay rồi. Tôi bằng lòng với việc nhai thuốc thôi.
- Thế là tốt, ông kéo dài tuổi thọ của ông.
- Tôi kô biết liệu tôi sẽ sống già hơn nữa hay kô, nhưng dù thế nào đi nữa, với việc về hưu, với chế độ ăn kiêng để giảm chelestorol và cai thuốc lá, thời gian đối với tôi đã có vẻ dài hơn rất nhiều rồi.
Ông ném điếu thuốc qua cửa xe, Lauren bật cần gạt nước.
- Ông có bao giờ cảm thấy dễ chịu khi ở bên 1 người kô quen biết kô?
- 1 hôm, có 1 phụ nữ đến đồn cảnh sát ở Mahattan, hồi tôi là 1 thanh tra trẻ. Cô ấy tự giới thiệu với tôi, bàn làm việc của tôi ngay sát lối ra vào mà. Cô ấy vừa mới được bổ nhiệm vào bộ phận điều phối. Trong suốt những năm tôi rong ruổi trên những đường phố của Midtown, cái giọng nói được phát ra từ chiếc đài trong ô tô là giọng của cô ấy. Tôi đã xoay xở để được làm việc đúng ca trực của cô ấy, tôi mê cô ấy như điếu đổ, vì tôi rất ít khi được gặp cô ấy, tôi đâm ra có xu hướng bắt người hơi bừa bãi với những lí do vớ vẩn, chỉ để được về đồn và trao kẻ bị bắt giữ trước mặt cô ấy. Cô ấy đã phát hiện ra cái trò này của tôi khá nhanh chóng, và cô ấy kịp mời tôi đi uống nước trong khi tôi kịp tóm cổ ông chủ cửa hàng bán thuốc lá ở góc phố vì tội bán diêm ẩm. Chúng tôi ra 1 quán cà phê nhỏ phía sau đồn cảnh sát, ngồi vào 1 chiếc bàn và thế đấy.
- Thế đấy cái gì?- Lauren thú vị hỏi
- Nếu tôi châm 1 điếu cô sẽ kô nói gì chứ?
- Rít 2 hơi thôi rồi ông vứt đi nhé!
- Nhất trí!
 
×
Quay lại
Top Bottom