đền Bạch Mã- Thanh Chương

sống lặng lẽ

Thành viên thân thiết
Thành viên thân thiết
Tham gia
4/1/2014
Bài viết
872
  • Đền Bạch Mã - Thanh Chương Ngệ An
    Vào thời kì giặc Minh đô hộ nước ta, Phan Đà là người có lòng yêu nước căm thù giặc, tự lập được một đội dân binh để bảo vệ xóm làng. Năm 1424, nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đã tiến vào Nghệ An lập đại bản doanh. Phan Đà đã cùng đội quân của mình nhập vào nghĩa quân Lam Sơn và đã lập được nhiều chiến công lớn trong những trận đánh chống quân xâm lược Trung Hoa(giặc Minh).



    Điêu khắc gỗ - Đền Bạch Mã

    Tương truyền lúc ra trận Phan Đà thường cưỡi ngựa trắng. Ông bị giặc Minh giết hại năm 18 tuổi, mộ táng tại Thanh Long.
    Khi kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, bình công ban thưởng vua Lê Thái Tổ đã cấp tiền của và cho người xây dựng đền thờ ông tại bản xã và sắc phong là: Đô thiên đại đế Long vương trợ thuận hựu quốc phù huệ hiển ứng Đại tướng quân






    Sắc phong

    Trải qua các triều đại đền được sắc phong thêm và ban nhiều mỹ tự
    Dưới thời Lê có 28 đạo sắc phong, cụ thể:
    1. Năm Quang Hưng thứ 17 (1594), phong 1 đạo.
    2. Năm Hoằng Định thứ 2 (1602), khi cầu khôi phục đất nước đã được linh ứng, phong 1 đạo.
    3. Năm Hoằng Định thứ 10 (1610), phong 1 đạo, để gia phong phù trợ Soái.
    4. Năm Vĩnh Tộ thứ 2 (1621), phong 1 đạo.
    5. Năm Vĩnh Tộ thứ 5 (1623), phong 1 đạo.
    6. Năm Vĩnh Tộ thứ 6 (1624), phong 1 đạo gia phong linh ứng phù trợ tiêu trừ nghiệt đảng.
    7. Năm Vĩnh Tộ thứ 8 (1626), phong 1 đạo khi quân Mạc đầu hàng.
    8. Năm Đức Long thứ 1(1629), phong 1 đạo để cầu mưa.
    9. Năm Đức Long thứ 4 (1632), phong 1 đạo.
    10. Năm Đức Long thứ 5 (1633), phong 1 đạo để cầu mưa.
    11. Năm Đức Long thứ 6 (1634), phong 1 đạo để cầu mưa.
    12. Năm Dương Hoà thứ 8 (1642), gia phong Đại vương để cầu tru diệt nghiệt đảng, khôi phục cương vực cũ.
    13. Năm Phúc Thái thứ 3 (1645), phong 1 đạo.
    14. Năm Phúc Thái thứ 5 (1647), phong 1 đạo.
    15. Năm Phúc Thái thứ 7 (1649), phong 1 đạo.
    16. Năm Khánh Đức thứ 4 (1652), phong 1 đạo.
    17. Năm Thịnh Đức thứ 4 (1656), phong 1 đạo cầu thu lại xứ Thuận Quảng.
    18. Năm Vĩnh Thọ thứ 3, tháng 11 ngày 29 tiêu trừ được nghịch tặc, gia phong.
    19. Năm Hoằng Định 2 (1602) đền được gia phong trong dịp tôn tạo và khôi phục. Dược vua phê chuẩn cho tăng số sái phu lên 30 người, hàng năm đến tháng 2 vua sai quan trong triều về xã Võ Liệt làm chủ tế. Điển lễ quốc tế[2] bắt đầu từ đó. Năm ấy được phong 1 đạo.
    20. Năm Cảnh Trị thứ 8 (1670), vua Lê Huyền Tông phong 1 đạo, trừ Mạc nghiệt.
    21. Năm Dương Đức thứ 3 (1674), phong 1 đạo.
    22. Năm Chính Hoà thứ 4 (1683), phong 1 đạo.
    23. Năm Chính Hoà thứ 10 (1689) được cấp thêm Tế phẩm "Tam sinh".
    24. Năm Vĩnh Thịnh thứ 6 (1710), phong 1 đạo.
    25. Năm Vĩnh Khánh thứ 2 (1731), phong 1 đạo. Năm ấy các bản tổng có thờ thần Thượng đẳng trong đó có các xã thôn thuộc bản tổng Võ Liệt được vua ban tiền đặt biện lễ vật cúng tế.
    26. Năm Cảnh Hưng nguyên niên (1740) vua Lê Hiến Tông phong 1 đạo.
    27. Năm Cảnh Hưng 28 (1767), gia phong 2 chữ Mỹ tự.
    28. Ngày 2 tháng 6 năm Cảnh Hưng 31(1770), Đại Tư đồ Đoan quận công Bùi Thế Đạt trấn thủ Nghệ An đi thảo tặc ở Trấn Ninh có xin triều đình gia phong tiếp cho Đô thiên đại đế trợ thuận bảo quốc hộ dân đại vương.
    Hàng năm đến tháng 2, phủ huyện hội đồng kính tế, cả tổng Võ Liệt phục dịch. Đến cuối đời vua Cảnh Hưng phê chuẩn cho các xã thôn phụ cận cứ đến tháng 2 hàng năm được lãnh tiền công quỹ để sắm sanh tế phẩm hội tế, bèn đình chỉ việc triều đình cử quan về làm chủ tế.





    Dưới thời Nguyễn
    1. Năm Gia Long thứ 9 (1810), sau khi thống nhất quốc gia, triều đình làm lễ "Đăng trật" phong cho Phan tướng quân các mỹ tự: Khuông thời, Tế thế, Hoằng độ thuợng đẳng tối linh đại vương(hiện khắc lên bảng gỗ treo trên chính điện).
    2. Năm Minh Mạng thứ 5 (1824) phong 1 đạo.
    3. Năm Minh Mệnh 20 Kỷ Hợi(1839), đền được xếp thứ 3 trong 4 đền của Nghệ An được cả nước tế tự Nhất Cờn, nhì Quả, tam Bạch Mã, tứ Chiêu Trưng
    4. Năm Thiệu Trị thứ 3, vua Hiến Tông Chương hoàng đế phong 2 đạo
    5. Năm Tự Đức thứ 3 (1850), phong một đạo
    6. Năm Tự Đức thứ 33 (1880), phong một đạo.
    7. Năm Đồng Khánh thứ 2, phong 1 đạo.
    8. Năm Thành Thái thứ 6, phong 1 đạo.
    9. Năm Duy Tân thứ 3, phong 1 đạo.
    10. Năm Khải Định từ nguyên niên đến năm thứ 9, mỗi năm phong 1 đạo.



    Hoa văn ở đền:



    Tháng giêng năm Ất Hợi 1935, đền Bạch Mã có thêm hai vị chính thần, được dân xã Võ Liệt cùng thờ phụng (Quan Tả,Quan Hữu). Hai vị đều linh ứng:
    1. Hoa Lương Văn Đạo Đại Tướng quân Đại vương, Hùng tài Dũng quyết Địch nghị Dương võ Quang ý Trung đẳng công thần.
    2. Thiết Cương Anh Quả Đại Tướng quân Đại vương, Cảm ứng Uy linh Hộ quốc Hùng đoán Quang ý Trung đẳng công thần.










    Di tích lịch sử

    Ngày 24/3/1994, Bộ Văn hoá-Thông tin đã có quyết định số 226/QĐ-BVH xếp hạng đền Bạch Mã là Di tích Lịch sử văn hoá kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia.

    Đền gồm năm toà với đầy đủ tam quan, nghi môn, tả vu, hữu vu, hạ điện, trung điện và thượng điện, được bố cục hài hoà tạo nét uy nghiêm, tôn kính. Hầu hết các chi tiết gỗ đều được chạm trổ, điêu khắc công phu với cá hoá rồng, phượng ngậm cuốn thư, lưỡng long chầu nguyệt...
    Trong đền còn lưu giữ nhiều hiện vật quý hiếm: nhà vàng, nhà bạc, bộ lục lạc bằng đồng (38 cái), tượng chim Phượng sơn son thiếp vàng...












    Nghe ông cụ từ ở đền bảo thì đặc trưng ở đền Bạch mã là có kho vàng, kho bạc và con chim 2 đầu:
    Kho vàng:


    Kho bạc:


    Con chim hai đầu:



    Ngựa trắng được thờ trong đền:


    Voi chầu ở ngoài cửa đền:
 
×
Quay lại
Top Bottom