- Tham gia
- 4/6/2013
- Bài viết
- 5.075
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khẳng định hôm 1/5 rằng chủng cúm H7N9 mới bùng phát trên người tại Trung Quốc đang đe dọa trực tiếp tới sức khỏe của người dân toàn cầu và ngày càng diễn biến phức tạp, khó lường.
Số ca nhiễm mới và tử vong vì cúm gia cầm H7N9 tăng mạnh chỉ trong một thời gian ngắn tại Trung Quốc.
Theo WHO, chủng cúm gia cầm H7N9 tại Trung Quốc đã cướp đi sinh mạng của 24 người và khiến 125 người mắc bệnh chỉ trong thời gian ngắn. Do đó, H7N9 được đánh giá là "một trong những chủng cúm nguy hiểm nhất".
Trong khi đó, giới chuyên gia lo ngại với tỷ lệ gây tử vong cao và số ca nhiễm bệnh tăng nhanh chỉ trong khoảng thời gian ngắn, khiến nguy cơ virus đột biến lây lan từ người sang người là khó tránh khỏi, hình thành đại dịch H7N9 khắp toàn cầu.
"WHO đánh giá cúm gia cầm H7N9 là mối đe dọa nguy hiểm", John McCauley – Giám đốc Trung tâm Bệnh cúm của WHO tại Viện Nghiên cứu Y tế quốc gia Anh nhận định.
Trong một bài phát biểu vắn tắt tại London, giới chuyên gia nghiên cứu virus khẳng định các kết quả nghiên cứu đã cho thấy virus H7N9 chứa một số đặc tính gây lo ngại bao gồm 2 gene đột biến có khả năng phát triển thành dạng lây bệnh từ người sang người.
"Nếu virus H7N9 không được ngăn chặn kịp thời, khả năng virus đột biến lây lan từ người sang người càng cao", Colin Butte – chuyên gia về virus cúm tại Viện Pirbright, Anh nói.
Kể từ lần đầu tiên công bố các ca nhiễm virus H7N9 trên người hồi cuối tháng 3, Trung Quốc đã ghi nhận hơn 125 bệnh nhân nhiễm bệnh với tỷ lệ tử vong khoảng 20%. Ngoài ra, gần 20% số người mắc bệnh đã phục hồi hoàn toàn và được ra viện trong khi số còn lại vẫn rất ốm yếu. Khi nhiễm phải virus H7N9, cơ thể con người nhanh chóng mắc phải bệnh viêm phổi cấp, nhiễm trùng máu và suy tạng.
"Cúm H7N9 là một căn bệnh vô cùng nguy hiểm. Nếu virus H7N9 lây lan trên diện rộng, nó sẽ là một đại dịch cướp đi sinh mạng của vô số người", Peter Openshaw – Giám đốc Trung tâm Bệnh truyền nhiễm hô hấp tại Cao đẳng Imperial London cho biết.
Sau khi phân tích mẫu phẩm gene được thu thập từ các bệnh nhân nhiễm cúm H7N9, các nhà khoa học đã phát hiện virus này chứa cùng lúc gene của 3 chủng cúm gia cầm tại châu Á.
Những virus gây đại dịch gần đây như H1N1 "cúm lợn" xảy ra vào năm 2009/2010 là sự kết hợp giữa cúm gia cầm và động vật có vú. Song mức độ nguy hiểm đã được giảm bớt do chủng cúm trên động vật có vú thường khiến con người bị ốm nhẹ hơn so với chủng cúm từ gia cầm.
Trong khi đó, những chủng cúm gia cầm như H7N9 và H5N1 – vốn cướp đi sinh mạng của khoảng 371 người trong số 622 người mắc bệnh vào năm 2003, thường được xác định gây tử vong cho con người cao hơn.
Trước khi phát hiện các ca nhiễm virus H7N9 trên người lần đầu tiên tại Trung Quốc hồi tháng 3, virus này chỉ mới xuất hiện trên các loài gia cầm. Theo các nhà khoa học, virus H7N9 đã truyền từ gia cầm mà chủ yếu là gà sang người. Hiện nay, chưa có bằng chứng chứng minh virus H7N9 có khả năng truyền từ người sang người.
Jeremy Farrar – chuyên gia hàng đầu về các bệnh truyền nhiễm kiêm giám đốc đơn vị nghiên cứu của Đại học Oxford tại Việt Nam cho biết độ tuổi nhiễm cúm H7N9 đã mở rộng từ trẻ nhỏ cho tới các cụ già ngoài 80. Đồng nghĩa với việc, H7N9 là một chủng cúm mới đặc biệt nguy hiểm trong cộng đồng dân cư.
Thông tin chi tiết
Cúm A có kháng nguyên bề mặt Hemagglutinin (ký hiệu H) và enzym đặc hiệu Neuraminidase (ký hiệu N), có tới 16 H (từ 1 - 16) và 9 N (từ 1 - 9). Khi chỉ một chủng cúm A cụ thể thường cho con số vào sau chữ N, H.
H7N9 là loại virut có bộ gen pha tạp giữa H7N3 trên vịt, H9N2 trên chim sẻ và H7N9 trên chim hoang dã, bởi vậy trong tương lai do sự pha tạp này mà không loại trừ khả năng sẽ xuất hiên thêm các chủng cúm mang các số hiệu H và N khác nữa. Hiện nay, H7N9 gây bệnh cho người là chuyện hoàn toàn mới nhưng thực ra chủng H7N9 đã được các nhà khoa học biết trước đó vì nó đã từng tìm thấy ở chim.
Chim và người khác biệt về loài nên H7N9 khó xâm nhập vào tế bào người. Tuy nhiên, ở các tế bào đường hô hấp trên của người lại có các thụ thể giống với thụ thể loài chim, nên qua tiếp xúc, H7N9 có thể xâm nhập đường hô hấp gây bệnh cúm cho người.
Theo WHO, trước đây đã từng xuất hiện chủng H7N7 biến thể lây từ người sang người ở Hà Lan nhưng với chủng H7N9 thì chưa phát hiện đường lây từ người sang người. Tuy nhiên, TS Keiji Fukuda, trợ lý Giám đốc WHO vẫn đưa ra cảnh báo: “Hiện chưa thấy H7N9 lây từ người sang người song biến thể của nó thì cũng có thể có đường lây này”. Bởi vậy, chúng ta cần theo dõi đường lây một cách chặt chẽ, cảnh giác với khả năng xấu nhất có thể xảy ra là H7N9 lây từ người sang người.
Trước đây có trường hợp nhiễm virut cúm A mang kháng nguyên H7 ở người, gây triệu chứng giống cúm nhẹ hay viêm kết mạc nhưng chưa bao giờ thấy nhiễm H7N9 trên người. Các trường hợp nhiễm H7N9 trên người ở Trung Quốc hiện nay là phát hiện lần đầu tiên. Vì mới xuất hiện lần đầu nên con người chưa sẵn có kháng thể hình thành tự nhiên, nên nhiễm H7N9 dễ chuyển sang nặng với tỷ lệ tử vong cao. Tính đến ngày 19/4, tổng số người mắc (có xác nhận tìm thấy H7N9) là 82, trong đó có 17 tử vong chiếm 20,70%; từng thời kỳ tỷ lệ bị bệnh nặng là 50 - 58%, nhẹ chỉ chiếm 1,2 - 23,7%.
H7N9 thích ứng nhanh với loài có vú như người, do đó có thể giải thích được vì sao H7N9 có khả năng lây từ chim sang người. Từ đó, việc tìm và diệt chim mang H7N9 là tối cần trong công tác chống dịch.
Điểm đột biến trên gen mã hóa H là làm tăng khả năng kết hợp của H7N9 với các thụ thể trên người giống loài chim là nằm ở các tế bào đường hô hấp trên (mũi, họng). H7N9 từ chim có thể phát tán vào không gian rồi thâm nhập vào đường hô hấp trên ở người, gây bệnh. Đây có thể là lý do làm cho việc xác đinh vật chủ gây nhiễm H7N9 ở Trung Quốc rất khó khăn, vì có hơn 40% người bệnh là không tiếp xúc với chim. Quan trọng hơn, đây là yếu tố làm cho H7N9 có thể chuyển thành đại dịch. Loại chim di trú có thể gây ra đại dịch kiểu này. Điều đáng mừng là vừa qua, Trung Quốc và WHO đã kiểm tra và có kết luận là chưa thấy loài chim di trú nhiễm H7N9.
Thuốc có ý nghĩa như thế nào với H7N9?
Các thuốc kháng cúm có cơ chế ức chế enzym đặc hiệu N như oseltamivir (bd: tamiflu) và zanamivir (bd: relenza) hiện có sẵn, Bộ Y tế cũng có nguồn dự trữ tamiflu dồi dào. Bộ gen H7N9 có khả năng cảm thụ với các thuốc này nên có thể dùng chúng điều trị cho người nhiễm H7N9. Trung Quốc đã dùng các thuốc này có hiệu quả. Như vậy không lo không có thuốc hay thiếu thuốc điều trị H7N9.
Theo kinh nghiệm dùng với cúm H1N1, H5N1 trước đây thì thuốc chỉ có hiệu lực khi dùng sớm trong vòng 48 giờ kể từ khi bị sốt cao (bệnh sẽ bị đẩy lùi sớm, không có cơ hội chuyển sang biến chứng). Thuốc không có tác dụng với cúm biến chứng, bởi vậy nếu dùng muộn khi cúm đã chuyển qua biến chứng là không có hiệu quả. Hiển nhiên khi dùng điều trị H7N9 ta áp dụng kinh nghiệm này nhưng điều đáng lo là nhiễm H7N9 có khi không có triệu chứng rõ ràng.
Do vậy, người tiếp xúc với chim và gia cầm, người đã đến vùng bị cúm H7N9 trở về mà bị sốt cao, người bị cúm mà thấy có các biểu hiện bất thường như sốt cao, tức ngực, khó thở (cúm mùa thông thường chỉ sốt nhẹ, không có các biêu hiện này), thì cần đến ngay các khoa lây của bệnh viện tỉnh để được chẩn đoán, cho dùng thuốc nếu cần, hơn nữa ở đó có trang thiết bị (như máy thở) sẽ cấp cứu tốt hơn khi có biến chứng nặng.
Trong đại dịch cúm trước đây, biến chứng trên nhóm người mang thai cao hơn nhóm người không mang thai, tỷ lệ tử vong ở nhóm người mang thai vẫn cao hơn tỷ lệ tử vong ở các nhóm khác. Trên cúm H5N1 cũng có số liệu tương tự. Theo nghiên cứu của Nhật Bản cũng như nghiên cứu hậu mãi của hãng sản xuất, thì tamiflu không gây sẩy thai hay dị tật thai cao hơn mức bình thường trong dân số. Như vậy, tamiflu có thể sử dụng cho người mang thai. Cần manh dạn dùng cho người mang thai sớm.
Tamiflu được tìm ra từ năm 2000, nhằm chữa cúm H1N1. Nay có cúm H5N1, H7N9 thì đem dùng chứ chúng không phải là thuốc đặc hiệu cho H5N1, H7N9. Cơ chế kháng virut là ức chế enzym N. Muốn kháng virut, tamiflu phải làm thay đổi cấu trúc để thành cơ chất “giả dạng” giống với cơ chất tự nhiên N. Cúm đột biến H1N1 ngăn chặn sự thay đổi cấu trúc này nên kháng lại thuốc. Bởi vậy, nếu dùng thuốc bừa bãi thì cũng sẽ xuất hiện chủng H7N9 kháng thuốc. Để tránh sự kháng thuốc, tuyệt đối không tự ý dùng tamiflu cho cúm thông thường mà chỉ dùng theo chỉ định của thầy thuốc. Cũng không được tự ý uống tamiflu dự phòng khi chưa có cúm. Thực chất việc uống taniflu dự phòng là để cơ thể có sẵn thuốc kháng H7N9 nên chỉ dùng hạn chế cho người trước lúc đi vào vùng dịch làm nhiệm vụ.
H7N9 là chủng cúm nguy hiểm bởi có thể gây nên biến chứng nặng tử vong cao song cũng khó có thể chuyển thành đại địch vì cho đến nay vẫn chưa tìm thấy việc lây từ người sang người và sự có mặt của chúng trong loài chim di trú. WHO khẩn trương hợp tác với Trung Quốc để tìm ra nguyên nhân, giải pháp phòng chống song WHO cũng đưa ra lời khuyên trong mỗi cộng đồng là “đừng hoảng sợ”.
Sưu tầm
Số ca nhiễm mới và tử vong vì cúm gia cầm H7N9 tăng mạnh chỉ trong một thời gian ngắn tại Trung Quốc.
Theo WHO, chủng cúm gia cầm H7N9 tại Trung Quốc đã cướp đi sinh mạng của 24 người và khiến 125 người mắc bệnh chỉ trong thời gian ngắn. Do đó, H7N9 được đánh giá là "một trong những chủng cúm nguy hiểm nhất".
Trong khi đó, giới chuyên gia lo ngại với tỷ lệ gây tử vong cao và số ca nhiễm bệnh tăng nhanh chỉ trong khoảng thời gian ngắn, khiến nguy cơ virus đột biến lây lan từ người sang người là khó tránh khỏi, hình thành đại dịch H7N9 khắp toàn cầu.
"WHO đánh giá cúm gia cầm H7N9 là mối đe dọa nguy hiểm", John McCauley – Giám đốc Trung tâm Bệnh cúm của WHO tại Viện Nghiên cứu Y tế quốc gia Anh nhận định.
Trong một bài phát biểu vắn tắt tại London, giới chuyên gia nghiên cứu virus khẳng định các kết quả nghiên cứu đã cho thấy virus H7N9 chứa một số đặc tính gây lo ngại bao gồm 2 gene đột biến có khả năng phát triển thành dạng lây bệnh từ người sang người.
"Nếu virus H7N9 không được ngăn chặn kịp thời, khả năng virus đột biến lây lan từ người sang người càng cao", Colin Butte – chuyên gia về virus cúm tại Viện Pirbright, Anh nói.
Kể từ lần đầu tiên công bố các ca nhiễm virus H7N9 trên người hồi cuối tháng 3, Trung Quốc đã ghi nhận hơn 125 bệnh nhân nhiễm bệnh với tỷ lệ tử vong khoảng 20%. Ngoài ra, gần 20% số người mắc bệnh đã phục hồi hoàn toàn và được ra viện trong khi số còn lại vẫn rất ốm yếu. Khi nhiễm phải virus H7N9, cơ thể con người nhanh chóng mắc phải bệnh viêm phổi cấp, nhiễm trùng máu và suy tạng.
"Cúm H7N9 là một căn bệnh vô cùng nguy hiểm. Nếu virus H7N9 lây lan trên diện rộng, nó sẽ là một đại dịch cướp đi sinh mạng của vô số người", Peter Openshaw – Giám đốc Trung tâm Bệnh truyền nhiễm hô hấp tại Cao đẳng Imperial London cho biết.
Sau khi phân tích mẫu phẩm gene được thu thập từ các bệnh nhân nhiễm cúm H7N9, các nhà khoa học đã phát hiện virus này chứa cùng lúc gene của 3 chủng cúm gia cầm tại châu Á.
Những virus gây đại dịch gần đây như H1N1 "cúm lợn" xảy ra vào năm 2009/2010 là sự kết hợp giữa cúm gia cầm và động vật có vú. Song mức độ nguy hiểm đã được giảm bớt do chủng cúm trên động vật có vú thường khiến con người bị ốm nhẹ hơn so với chủng cúm từ gia cầm.
Trong khi đó, những chủng cúm gia cầm như H7N9 và H5N1 – vốn cướp đi sinh mạng của khoảng 371 người trong số 622 người mắc bệnh vào năm 2003, thường được xác định gây tử vong cho con người cao hơn.
Trước khi phát hiện các ca nhiễm virus H7N9 trên người lần đầu tiên tại Trung Quốc hồi tháng 3, virus này chỉ mới xuất hiện trên các loài gia cầm. Theo các nhà khoa học, virus H7N9 đã truyền từ gia cầm mà chủ yếu là gà sang người. Hiện nay, chưa có bằng chứng chứng minh virus H7N9 có khả năng truyền từ người sang người.
Jeremy Farrar – chuyên gia hàng đầu về các bệnh truyền nhiễm kiêm giám đốc đơn vị nghiên cứu của Đại học Oxford tại Việt Nam cho biết độ tuổi nhiễm cúm H7N9 đã mở rộng từ trẻ nhỏ cho tới các cụ già ngoài 80. Đồng nghĩa với việc, H7N9 là một chủng cúm mới đặc biệt nguy hiểm trong cộng đồng dân cư.
Thông tin chi tiết
Cúm A có kháng nguyên bề mặt Hemagglutinin (ký hiệu H) và enzym đặc hiệu Neuraminidase (ký hiệu N), có tới 16 H (từ 1 - 16) và 9 N (từ 1 - 9). Khi chỉ một chủng cúm A cụ thể thường cho con số vào sau chữ N, H.
H7N9 là loại virut có bộ gen pha tạp giữa H7N3 trên vịt, H9N2 trên chim sẻ và H7N9 trên chim hoang dã, bởi vậy trong tương lai do sự pha tạp này mà không loại trừ khả năng sẽ xuất hiên thêm các chủng cúm mang các số hiệu H và N khác nữa. Hiện nay, H7N9 gây bệnh cho người là chuyện hoàn toàn mới nhưng thực ra chủng H7N9 đã được các nhà khoa học biết trước đó vì nó đã từng tìm thấy ở chim.
Chim và người khác biệt về loài nên H7N9 khó xâm nhập vào tế bào người. Tuy nhiên, ở các tế bào đường hô hấp trên của người lại có các thụ thể giống với thụ thể loài chim, nên qua tiếp xúc, H7N9 có thể xâm nhập đường hô hấp gây bệnh cúm cho người.
Theo WHO, trước đây đã từng xuất hiện chủng H7N7 biến thể lây từ người sang người ở Hà Lan nhưng với chủng H7N9 thì chưa phát hiện đường lây từ người sang người. Tuy nhiên, TS Keiji Fukuda, trợ lý Giám đốc WHO vẫn đưa ra cảnh báo: “Hiện chưa thấy H7N9 lây từ người sang người song biến thể của nó thì cũng có thể có đường lây này”. Bởi vậy, chúng ta cần theo dõi đường lây một cách chặt chẽ, cảnh giác với khả năng xấu nhất có thể xảy ra là H7N9 lây từ người sang người.
Trước đây có trường hợp nhiễm virut cúm A mang kháng nguyên H7 ở người, gây triệu chứng giống cúm nhẹ hay viêm kết mạc nhưng chưa bao giờ thấy nhiễm H7N9 trên người. Các trường hợp nhiễm H7N9 trên người ở Trung Quốc hiện nay là phát hiện lần đầu tiên. Vì mới xuất hiện lần đầu nên con người chưa sẵn có kháng thể hình thành tự nhiên, nên nhiễm H7N9 dễ chuyển sang nặng với tỷ lệ tử vong cao. Tính đến ngày 19/4, tổng số người mắc (có xác nhận tìm thấy H7N9) là 82, trong đó có 17 tử vong chiếm 20,70%; từng thời kỳ tỷ lệ bị bệnh nặng là 50 - 58%, nhẹ chỉ chiếm 1,2 - 23,7%.
H7N9 thích ứng nhanh với loài có vú như người, do đó có thể giải thích được vì sao H7N9 có khả năng lây từ chim sang người. Từ đó, việc tìm và diệt chim mang H7N9 là tối cần trong công tác chống dịch.
Điểm đột biến trên gen mã hóa H là làm tăng khả năng kết hợp của H7N9 với các thụ thể trên người giống loài chim là nằm ở các tế bào đường hô hấp trên (mũi, họng). H7N9 từ chim có thể phát tán vào không gian rồi thâm nhập vào đường hô hấp trên ở người, gây bệnh. Đây có thể là lý do làm cho việc xác đinh vật chủ gây nhiễm H7N9 ở Trung Quốc rất khó khăn, vì có hơn 40% người bệnh là không tiếp xúc với chim. Quan trọng hơn, đây là yếu tố làm cho H7N9 có thể chuyển thành đại dịch. Loại chim di trú có thể gây ra đại dịch kiểu này. Điều đáng mừng là vừa qua, Trung Quốc và WHO đã kiểm tra và có kết luận là chưa thấy loài chim di trú nhiễm H7N9.
Thuốc có ý nghĩa như thế nào với H7N9?
Các thuốc kháng cúm có cơ chế ức chế enzym đặc hiệu N như oseltamivir (bd: tamiflu) và zanamivir (bd: relenza) hiện có sẵn, Bộ Y tế cũng có nguồn dự trữ tamiflu dồi dào. Bộ gen H7N9 có khả năng cảm thụ với các thuốc này nên có thể dùng chúng điều trị cho người nhiễm H7N9. Trung Quốc đã dùng các thuốc này có hiệu quả. Như vậy không lo không có thuốc hay thiếu thuốc điều trị H7N9.
Theo kinh nghiệm dùng với cúm H1N1, H5N1 trước đây thì thuốc chỉ có hiệu lực khi dùng sớm trong vòng 48 giờ kể từ khi bị sốt cao (bệnh sẽ bị đẩy lùi sớm, không có cơ hội chuyển sang biến chứng). Thuốc không có tác dụng với cúm biến chứng, bởi vậy nếu dùng muộn khi cúm đã chuyển qua biến chứng là không có hiệu quả. Hiển nhiên khi dùng điều trị H7N9 ta áp dụng kinh nghiệm này nhưng điều đáng lo là nhiễm H7N9 có khi không có triệu chứng rõ ràng.
Do vậy, người tiếp xúc với chim và gia cầm, người đã đến vùng bị cúm H7N9 trở về mà bị sốt cao, người bị cúm mà thấy có các biểu hiện bất thường như sốt cao, tức ngực, khó thở (cúm mùa thông thường chỉ sốt nhẹ, không có các biêu hiện này), thì cần đến ngay các khoa lây của bệnh viện tỉnh để được chẩn đoán, cho dùng thuốc nếu cần, hơn nữa ở đó có trang thiết bị (như máy thở) sẽ cấp cứu tốt hơn khi có biến chứng nặng.
Trong đại dịch cúm trước đây, biến chứng trên nhóm người mang thai cao hơn nhóm người không mang thai, tỷ lệ tử vong ở nhóm người mang thai vẫn cao hơn tỷ lệ tử vong ở các nhóm khác. Trên cúm H5N1 cũng có số liệu tương tự. Theo nghiên cứu của Nhật Bản cũng như nghiên cứu hậu mãi của hãng sản xuất, thì tamiflu không gây sẩy thai hay dị tật thai cao hơn mức bình thường trong dân số. Như vậy, tamiflu có thể sử dụng cho người mang thai. Cần manh dạn dùng cho người mang thai sớm.
Tamiflu được tìm ra từ năm 2000, nhằm chữa cúm H1N1. Nay có cúm H5N1, H7N9 thì đem dùng chứ chúng không phải là thuốc đặc hiệu cho H5N1, H7N9. Cơ chế kháng virut là ức chế enzym N. Muốn kháng virut, tamiflu phải làm thay đổi cấu trúc để thành cơ chất “giả dạng” giống với cơ chất tự nhiên N. Cúm đột biến H1N1 ngăn chặn sự thay đổi cấu trúc này nên kháng lại thuốc. Bởi vậy, nếu dùng thuốc bừa bãi thì cũng sẽ xuất hiện chủng H7N9 kháng thuốc. Để tránh sự kháng thuốc, tuyệt đối không tự ý dùng tamiflu cho cúm thông thường mà chỉ dùng theo chỉ định của thầy thuốc. Cũng không được tự ý uống tamiflu dự phòng khi chưa có cúm. Thực chất việc uống taniflu dự phòng là để cơ thể có sẵn thuốc kháng H7N9 nên chỉ dùng hạn chế cho người trước lúc đi vào vùng dịch làm nhiệm vụ.
H7N9 là chủng cúm nguy hiểm bởi có thể gây nên biến chứng nặng tử vong cao song cũng khó có thể chuyển thành đại địch vì cho đến nay vẫn chưa tìm thấy việc lây từ người sang người và sự có mặt của chúng trong loài chim di trú. WHO khẩn trương hợp tác với Trung Quốc để tìm ra nguyên nhân, giải pháp phòng chống song WHO cũng đưa ra lời khuyên trong mỗi cộng đồng là “đừng hoảng sợ”.
Sưu tầm