- Tham gia
- 17/4/2016
- Bài viết
- 162
Tư Mã Tương Như, tự Tràng Khanh, người thời Hán, sống ở Thành Đô, nổi tiếng với tài văn thơ và gảy đàn. Từ nhỏ, Tương Như giao thiệp rộng rãi, được người người ngưỡng mộ, trong đó, không thiếu những bậc giai nhân ngồi trong rèm trướng ngưỡng mộ chàng từ xa. Nhưng bản tính thích cuộc sống tự do tự tại và gia đình rất nghèo khó. Đến đâu, Tương Như cũng dùng bút mực và cây đàn để giao thiệp bằng hữu.
Trác Văn Quân là con gái út gia đình giàu có Trác Vương Tôn thời Hán Vũ Đế, nhà ở huyện Lâm Cùng, từ nhỏ đã được học đủ mọi thứ, sau khi lớn lên, vừa thông minh, vừa xinh đẹp, mà cầm kỳ thi họa đều tinh thông, đặc biệt là đàn cổ, cô rất được Trác Vương Tôn yêu quý. Đáng tiếc là Trác Văn Quân mới lấy chồng chưa lâu, chồng đã chết. Mới 17 tuổi, nàng đã trở thành góa phụ.
Trong một đến đất huyện Lâm Cùng, Tương Như vốn sẵn quen với Vương Cát là quan lệnh ở huyện, nên đến chơi. Cát lại mời Tương Như cùng đi dự tiệc ở nhà Trác Vương Tôn, vốn viên ngoại trong huyện. Nghe tiếng Tương Như đàn hay nên quan huyện cùng Trác Vương Tôn yêu cầu đánh cho một bài.
Biết nàng Văn Quân yêu thích tiếng đàn, Tương Như nảy ý dùng tài hoa của mình để trêu ghẹo người thiếu phụ trẻ cô đơn. Chàng vừa đàn vừa hát khúc "Phượng cầu hoàng" do mình tự sáng tác:
Phượng hề, phượng hề quy cố hương,
Ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng,
Thời vị ngộ hề vô sở tương,
Hà ngộ kim tịch đăng tư đường.
Hữu diệm thục nữ tại khuê phường,
Thất nhĩ nhân hà sầu ngã trường.
Hà duyên giao cảnh vi uyên ương
Tương hiệt cương hề cộng cao tường.
Dịch nghĩa:
Chim phượng, chim phượng về cố hương,
Ngao du bốn bể tìm chim hoàng
Thời chưa gặp chừ, luống lỡ làng.
Hôm nay bước đến chốn thênh thang.
Có cô gái đẹp ở đài trang,
Nhà gần người xa não tâm tràng.
Ước gì giao kết đôi uyên ương,
Bay liệng cùng nhau thỏa mọi đường.
Trác Văn Quân nghe được tiếng đàn, lấy làm say mê. Cũng từ khúc nhạc này, Trác Văn Quân quyết tâm bỏ vành khăn tang thờ người chồng đã chết được nửa năm, vùng thoát khỏi sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến, đi theo tiếng gọi con tim. Cô quyết cãi lời cha, nguyện theo Tư Mã Tương Như đến chân trời góc bể.
Từ ý định trêu hoa ghẹo nguyệt lúc ban đầu, Tư Mã Tương Như đã dần bị tình cảm của Văn Quân chinh phục. Hai người bỏ đi khỏi huyện nhà, tìm đến mảnh đất mới cùng nhau làm uyên ương liền cành dù gia cảnh khá bần hàn.
Đôi trai gái đó mở một quán nấu rượu. Vợ chồng cùng cặm cụi làm ăn.
Những bức thư cứ thưa thớt dần, thậm chí, Tương Như còn có ý định lập thêm thê thiếp. Có lần, Văn Quân nhận được bức thư từ chồng, chỉ vẻn vẹn vài chữ: "Một hai ba bốn năm sáu bảy tám chín mười trăm ngàn vạn". Tư Mã Tương Như có ý chỉ sự xa cách giữa hai người, đồng thời muốn thử thách người vợ tào khang của mình, như muốn xem nàng còn xứng với một tài tử bậc nhất chốn kinh thành hay không.
Lạnh lẽo chốn quê nhà, lòng người cũng buốt giá, khi cầm bức thư đòi phải hồi âm ngay, Trác Văn Quân đã cầm bút thảo một mạch và gửi ngay cho người đem thư tới kinh thành khi thư còn chưa ráo mực:
Sau khi một biệt, lòng gởi hai nơi,
Chỉ hẹn rằng ba bốn tháng,
Nào ngờ lại năm sáu năm,
Bảy dây trống trải đàn cầm,
Tám hàng thư không thể gởi,
Chín mối bội hoàn dang dở,
Mười dặm trường đình mỏi mắt ngóng trông,
Trăm tương tư, ngàn dằn vặt, muôn chung nào nỡ oán chàng.
Vạn lời ngàn tiếng nói sao đang,
Trăm cô liêu tựa mười hiên vắng,
Mùng chín tháng chín lên cao trông lẻ nhạn,
Tháng tám trung thu tròn trăng chẳng thấy người,
Tháng bảy nửa vầng hương cầm đuốc hỏi ông trời,
Tháng sáu phục hiên ai ai lay quạt lạnh lòng ai,
Tháng năm lửa lựu lập loè sầm sập mưa dầm hoa tả tơi,
Tháng tư tỳ bà lạnh vắng người toan soi gương tâm ý loạn,
Chợt hối hả tháng ba hoa đào theo nước trôi,
Tháng hai gió gảy tiếng rã rời.
Ôi chàng, chàng ơi,
Nguyện cho được sau một kiếp,
Chàng thành nhi nữ để thiếp làm phận trai
Sau khi nhận được bức thư hồi đáp, đọc những dòng thư thấm đẫm nỗi lòng người phương xưa, mỗi câu, mỗi vần đều được sử dụng khéo léo từ những từ ngắn ngủi mà mình đã gửi, Tương Như không khỏi xúc động, nghĩ về tình nghĩa phu thê. Ông không khỏi khâm phục người vợ tài sắc của mình và thấu hiểu hơn nỗi lòng người phương xa. Sau đó không lâu, Trác Văn Quân còn gửi đến chồng bài thơ "Bạch đầu ngâm":
Ngai như sơn thượng tuyết,
Kiểu nhược vân gian nguyệt.
Văn quân hữu lưỡng ý,
Cố lai tương quyết tuyệt.
Kim nhật đấu tửu hội,
Minh đán câu thuỷ đầu.
Tiệp điệp ngự câu thượng,
Câu thuỷ đông tây lưu.
Thê thê phục thê thê,
Giá thú bất tu đề.
Nguyện đắc nhất tâm nhân,
Bạch đầu bất tương ly.
Trúc can hà niệu niệu,
Ngư vĩ hà si si.
Nam nhi trọng ý khí,
Hà dụng tiền đao vi.
Dịch nghĩa:
Trắng như tuyết trên núi,
Sáng như trăng ở trong mây.
Nghe lòng chàng có hai ý,
Nên thiếp quyết cắt đứt.
Ngày hôm nay nâng chén sum vầy,
Sớm mai đã đưa tiễn nhau ở bên sông.
Đi lững thững trên dòng nước,
Nước cứ chảy xuôi mãi từ đông về tây (mà không quay về).
Buồn rầu lại cứ buồn rầu,
Lấy nhau rồi những tưởng không nên than vãn.
Mong có được người một lòng không thay đổi,
Đến khi đầu bạc chẳng xa nhau.
Cần câu trúc dáng thon thon khẽ động,
Đuôi cá vẻ cong cong.
Nam nhi coi trọng ý chí,
Sao lại vì tiền bạc (mà thay lòng)!
Đọc những bức thư chứa những vần thơ đó, Tư Mã Tương Như từ quan, quay về đoàn tụ cùng vợ. Hai người chung sống bên nhau đến bạc đầu, và ngày nay. Chuyện tình cũng những vần thơ mà Trác Văn Quân gửi cho chồng, vẫn được người đời sau đọc với tất cả sự ngưỡng mộ và đồng cảm.
Trác Văn Quân là con gái út gia đình giàu có Trác Vương Tôn thời Hán Vũ Đế, nhà ở huyện Lâm Cùng, từ nhỏ đã được học đủ mọi thứ, sau khi lớn lên, vừa thông minh, vừa xinh đẹp, mà cầm kỳ thi họa đều tinh thông, đặc biệt là đàn cổ, cô rất được Trác Vương Tôn yêu quý. Đáng tiếc là Trác Văn Quân mới lấy chồng chưa lâu, chồng đã chết. Mới 17 tuổi, nàng đã trở thành góa phụ.
Biết nàng Văn Quân yêu thích tiếng đàn, Tương Như nảy ý dùng tài hoa của mình để trêu ghẹo người thiếu phụ trẻ cô đơn. Chàng vừa đàn vừa hát khúc "Phượng cầu hoàng" do mình tự sáng tác:
Phượng hề, phượng hề quy cố hương,
Ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng,
Thời vị ngộ hề vô sở tương,
Hà ngộ kim tịch đăng tư đường.
Hữu diệm thục nữ tại khuê phường,
Thất nhĩ nhân hà sầu ngã trường.
Hà duyên giao cảnh vi uyên ương
Tương hiệt cương hề cộng cao tường.
Dịch nghĩa:
Chim phượng, chim phượng về cố hương,
Ngao du bốn bể tìm chim hoàng
Thời chưa gặp chừ, luống lỡ làng.
Hôm nay bước đến chốn thênh thang.
Có cô gái đẹp ở đài trang,
Nhà gần người xa não tâm tràng.
Ước gì giao kết đôi uyên ương,
Bay liệng cùng nhau thỏa mọi đường.
Trác Văn Quân nghe được tiếng đàn, lấy làm say mê. Cũng từ khúc nhạc này, Trác Văn Quân quyết tâm bỏ vành khăn tang thờ người chồng đã chết được nửa năm, vùng thoát khỏi sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến, đi theo tiếng gọi con tim. Cô quyết cãi lời cha, nguyện theo Tư Mã Tương Như đến chân trời góc bể.
Từ ý định trêu hoa ghẹo nguyệt lúc ban đầu, Tư Mã Tương Như đã dần bị tình cảm của Văn Quân chinh phục. Hai người bỏ đi khỏi huyện nhà, tìm đến mảnh đất mới cùng nhau làm uyên ương liền cành dù gia cảnh khá bần hàn.
Đôi trai gái đó mở một quán nấu rượu. Vợ chồng cùng cặm cụi làm ăn.
Không lâu sau đó, Tương Như được Hán Vũ Đế trọng dụng, cho vời vào triều ban chức tước. Thỏa nguyện bút mực bấy lâu, Tương Như rời xa người vợ hiền, tiến vào đất đô thành, ngày ngày bận rộn việc quan dân, tối tối được vây quanh bởi những bậc phong lưu chốn kinh thành, trong đó có không thiếu những giai nhân tuyệt sắc. Cuộc sống phồn hoa khiến Tương Như dần quên thê tử nơi quê nhà, trong khi Văn Quân ngày đêm vò võ ngóng trông.Sau khi một biệt, lòng gởi hai nơi,
Chỉ hẹn rằng ba bốn tháng,
Nào ngờ lại năm sáu năm,
Bảy dây trống trải đàn cầm,
Tám hàng thư không thể gởi,
Chín mối bội hoàn dang dở,
Mười dặm trường đình mỏi mắt ngóng trông,
Trăm tương tư, ngàn dằn vặt, muôn chung nào nỡ oán chàng.
Vạn lời ngàn tiếng nói sao đang,
Trăm cô liêu tựa mười hiên vắng,
Mùng chín tháng chín lên cao trông lẻ nhạn,
Tháng tám trung thu tròn trăng chẳng thấy người,
Tháng bảy nửa vầng hương cầm đuốc hỏi ông trời,
Tháng sáu phục hiên ai ai lay quạt lạnh lòng ai,
Tháng năm lửa lựu lập loè sầm sập mưa dầm hoa tả tơi,
Tháng tư tỳ bà lạnh vắng người toan soi gương tâm ý loạn,
Chợt hối hả tháng ba hoa đào theo nước trôi,
Tháng hai gió gảy tiếng rã rời.
Ôi chàng, chàng ơi,
Nguyện cho được sau một kiếp,
Chàng thành nhi nữ để thiếp làm phận trai
Sau khi nhận được bức thư hồi đáp, đọc những dòng thư thấm đẫm nỗi lòng người phương xưa, mỗi câu, mỗi vần đều được sử dụng khéo léo từ những từ ngắn ngủi mà mình đã gửi, Tương Như không khỏi xúc động, nghĩ về tình nghĩa phu thê. Ông không khỏi khâm phục người vợ tài sắc của mình và thấu hiểu hơn nỗi lòng người phương xa. Sau đó không lâu, Trác Văn Quân còn gửi đến chồng bài thơ "Bạch đầu ngâm":
Ngai như sơn thượng tuyết,
Kiểu nhược vân gian nguyệt.
Văn quân hữu lưỡng ý,
Cố lai tương quyết tuyệt.
Kim nhật đấu tửu hội,
Minh đán câu thuỷ đầu.
Tiệp điệp ngự câu thượng,
Câu thuỷ đông tây lưu.
Thê thê phục thê thê,
Giá thú bất tu đề.
Nguyện đắc nhất tâm nhân,
Bạch đầu bất tương ly.
Trúc can hà niệu niệu,
Ngư vĩ hà si si.
Nam nhi trọng ý khí,
Hà dụng tiền đao vi.
Dịch nghĩa:
Trắng như tuyết trên núi,
Sáng như trăng ở trong mây.
Nghe lòng chàng có hai ý,
Nên thiếp quyết cắt đứt.
Ngày hôm nay nâng chén sum vầy,
Sớm mai đã đưa tiễn nhau ở bên sông.
Đi lững thững trên dòng nước,
Nước cứ chảy xuôi mãi từ đông về tây (mà không quay về).
Buồn rầu lại cứ buồn rầu,
Lấy nhau rồi những tưởng không nên than vãn.
Mong có được người một lòng không thay đổi,
Đến khi đầu bạc chẳng xa nhau.
Cần câu trúc dáng thon thon khẽ động,
Đuôi cá vẻ cong cong.
Nam nhi coi trọng ý chí,
Sao lại vì tiền bạc (mà thay lòng)!
Đọc những bức thư chứa những vần thơ đó, Tư Mã Tương Như từ quan, quay về đoàn tụ cùng vợ. Hai người chung sống bên nhau đến bạc đầu, và ngày nay. Chuyện tình cũng những vần thơ mà Trác Văn Quân gửi cho chồng, vẫn được người đời sau đọc với tất cả sự ngưỡng mộ và đồng cảm.
Sưu tầm, tổng hợp: zing.vn, wikipedia.org, onggiaolang.com, thivien.net