phamtuanktdt
Banned
- Tham gia
- 19/4/2016
- Bài viết
- 0
Bệnh động kinh ko chỉ rất nguy hiểm bởi vì những ảnh hưởng trên thể chất bệnh nhân mà còn vì những tác động tinh thần do bệnh mang lại . Ngày nay, do sự tiến bộ của khoa học, căn bệnh này đã và đang được đánh giá lại với quan điểm chính xác hơn và việc điều trị cũng đã có các bước tiến tích cực .
Nguyen nhan benh dong kinh
- Động kinh vô căn: Chiếm 75 % số bệnh nhân động kinh . Tuổi phát chứng bệnh đa số là 25 tuổi. Trong số đó, 75 % xuất hiện cơn đầu tiên trước tuổi 18. Người bị bệnh có thay đổi điện não, người bệnh có liệt Todd sau cơn, xuất hiện dấu hiệu thần kinh kéo dài, trạng thái động kinh, hoặc bệnh di truyền thường bị cơn tái phát .
- Chấn thương sọ não : đây là nguyên nhân dẫn tới động kinh thường gặp, đặc biệt khi xảy ra trong giai đoạn chu sinh, hoặc chấn thương gây lún sọ cũng như gây nên chảy máu dưới nhện, chảy máu não. Cơn động kinh chủ yếu xảy ra ở trong vòng một tháng đến một năm sau khi bị chấn thương sọ não .
- Đột quỵ não: khoảng 5 - 15 phần trăm bệnh nhân đột quỵ có những cơn co giật. Tương tự như co giật trong chấn thương, những cơn co giật trong tuần thư nhất sau khi đột quỵ ko có ý nghĩa dự báo một bệnh lý động kinh mãn tính về sau này. Các dị thường mạch máu não chưa vỡ cũng có khả năng gây động kinh vì kích thích các tổ chức não bên cạnh .
- Khối phát triển nội sọ: như : u não, áp xe não. 50 % các u não dẫn đến động kinh trên lâm sàng . Đặc điểm động kinh gây ra bởi u não đó là động kinh cục bộ và đa số xảy ra muộn sau tuổi 40. Những u não hay gây động kinh đó là u nguyên bào thần kinh đệm, u tế bào sao cùng u màng não . chủ yếu các u này khu trú trong bán cầu đại não.
- đau viêm màng não, viêm đau não: Động kinh này chủ yếu nằm trong căn bệnh cảnh lâm sàng của viêm đau màng não, đau viêm não. Là do vi khuẩn H. inf;uenza, virus Herpes simplex, lao, nấm, ký sinh trùng cysticercosis
Nhóm những bệnh khác
Chúng ta kể tới ở đây là giảm đường huyết nhất là lúc đường huyết còn mức 20 - 30 mg%; hạ natri huyết nếu như nồng độ chỉ còn dưới 120mE/L hay tại mức cao hơn nhưng giảm xuống đột ngột cũng có khả năng dẫn đến co giật ; căn bệnh thoái hoá gan - não, có thể dẫn tới những cơn cục bộ hoặc là toàn thể; bỏ thuốc, đặc biệt khi cai rượu, các loại thuốc an thần; hạ canxi huyết nếu tầm 4,3 - 9,2 mg% có thể gây ra co giật; nhiều ure huyết cũng có thể dẫn tới co giật .
trong các sản phụ có huyết áp cao, proteine niệu phù thường xảy ra sản giật ở trong thời điểm chưa sinh ; máu não toàn bộ bởi ngừng tim; căn bệnh não tăng huyết áp cũng có thể gây ra cơn toàn thân co cứng, co giật hoặc là cơn cục bộ...
Xem thêm : bệnh về thần kinh
Nguyen nhan benh dong kinh
- Động kinh vô căn: Chiếm 75 % số bệnh nhân động kinh . Tuổi phát chứng bệnh đa số là 25 tuổi. Trong số đó, 75 % xuất hiện cơn đầu tiên trước tuổi 18. Người bị bệnh có thay đổi điện não, người bệnh có liệt Todd sau cơn, xuất hiện dấu hiệu thần kinh kéo dài, trạng thái động kinh, hoặc bệnh di truyền thường bị cơn tái phát .
- Chấn thương sọ não : đây là nguyên nhân dẫn tới động kinh thường gặp, đặc biệt khi xảy ra trong giai đoạn chu sinh, hoặc chấn thương gây lún sọ cũng như gây nên chảy máu dưới nhện, chảy máu não. Cơn động kinh chủ yếu xảy ra ở trong vòng một tháng đến một năm sau khi bị chấn thương sọ não .
- Đột quỵ não: khoảng 5 - 15 phần trăm bệnh nhân đột quỵ có những cơn co giật. Tương tự như co giật trong chấn thương, những cơn co giật trong tuần thư nhất sau khi đột quỵ ko có ý nghĩa dự báo một bệnh lý động kinh mãn tính về sau này. Các dị thường mạch máu não chưa vỡ cũng có khả năng gây động kinh vì kích thích các tổ chức não bên cạnh .
- Khối phát triển nội sọ: như : u não, áp xe não. 50 % các u não dẫn đến động kinh trên lâm sàng . Đặc điểm động kinh gây ra bởi u não đó là động kinh cục bộ và đa số xảy ra muộn sau tuổi 40. Những u não hay gây động kinh đó là u nguyên bào thần kinh đệm, u tế bào sao cùng u màng não . chủ yếu các u này khu trú trong bán cầu đại não.
- đau viêm màng não, viêm đau não: Động kinh này chủ yếu nằm trong căn bệnh cảnh lâm sàng của viêm đau màng não, đau viêm não. Là do vi khuẩn H. inf;uenza, virus Herpes simplex, lao, nấm, ký sinh trùng cysticercosis
Nhóm những bệnh khác
Chúng ta kể tới ở đây là giảm đường huyết nhất là lúc đường huyết còn mức 20 - 30 mg%; hạ natri huyết nếu như nồng độ chỉ còn dưới 120mE/L hay tại mức cao hơn nhưng giảm xuống đột ngột cũng có khả năng dẫn đến co giật ; căn bệnh thoái hoá gan - não, có thể dẫn tới những cơn cục bộ hoặc là toàn thể; bỏ thuốc, đặc biệt khi cai rượu, các loại thuốc an thần; hạ canxi huyết nếu tầm 4,3 - 9,2 mg% có thể gây ra co giật; nhiều ure huyết cũng có thể dẫn tới co giật .
trong các sản phụ có huyết áp cao, proteine niệu phù thường xảy ra sản giật ở trong thời điểm chưa sinh ; máu não toàn bộ bởi ngừng tim; căn bệnh não tăng huyết áp cũng có thể gây ra cơn toàn thân co cứng, co giật hoặc là cơn cục bộ...
Xem thêm : bệnh về thần kinh