Sáng chế là thứ mà tất cả các nhà phát minh, các công ty doanh nghiệp đều quan tâm đến. Tuy nhiên không phải sáng chế nào cũng được pháp luật cho phép đăng ký bảo hộ. Dưới đây chúng tôi xin được trích dẫn những tư vấn của một công ty luật uy tín.
1. Điều kiện bảo hộ của sáng chế như thế nào?
a) Có tính mới
Tính mới của sáng chế được xem xét dựa trên việc liệu sản phẩm, quy trình là đối tượng đăng ký sáng chế đã được bộc lộ, công khai hay chưa. Có thể là các hành vi như bán trên thị trường, quảng cáo trên internet, mô tả trong các nghiên cứu khoa học hay bộc lộ công khai bằng bất cứ hình thức nào khác. Ở một giới hạn nhất định thì pháp luật vẫn cho phép việc bộc lộ công khai sáng chế trước khi đăng ký, cụ thể trong vòng 06 tháng trước ngày nộp đơn, sáng chế không bị coi là mất tính mới nếu:
b) Có tính sáng tạo
Sáng chế có trình độ sáng tạo nếu dựa vào các phát minh đã tồn tại kể cả việc chưa bộc lộ công khai, trong phạm vi quốc gia và quốc tế, trước ngày đăng ký bảo hộ thì sáng chế đó phải là kết quả của sự sáng tạo mà những người không có trình độ kỹ thuật với hiểu biết trung bình trong lĩnh vực kỹ thuật tương ứng không thể tạo ra một cách dễ dàng.
c) Có khả năng áp dụng công nghiệp
Mục đích của việc tạo ra sáng chế là nhằm giải quyết những vấn đề thiết thực trong đời sống vì thế nếu một phát minh được tạo ra nhưng không thể được sử dụng để tiến hành sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp thì sáng chế đó không được coi là có khả năng áp dụng công nghiệp cũng như mất đi đặc tính hữu ích của nó. Nếu bạn quan tâm đến dịch vụ đăng ký nhãn hiệu, hãy liên hệ với chúng tôi để biết thêm chi tiết.
2. Quyền đăng ký sáng chế tại Việt Nam thuộc về cá nhân tổ chức nào?
Cá nhân, tổ chức khi đăng ký sáng chế, cần đáp ứng các điều kiện sau đây:
1. Điều kiện bảo hộ của sáng chế như thế nào?
a) Có tính mới
Tính mới của sáng chế được xem xét dựa trên việc liệu sản phẩm, quy trình là đối tượng đăng ký sáng chế đã được bộc lộ, công khai hay chưa. Có thể là các hành vi như bán trên thị trường, quảng cáo trên internet, mô tả trong các nghiên cứu khoa học hay bộc lộ công khai bằng bất cứ hình thức nào khác. Ở một giới hạn nhất định thì pháp luật vẫn cho phép việc bộc lộ công khai sáng chế trước khi đăng ký, cụ thể trong vòng 06 tháng trước ngày nộp đơn, sáng chế không bị coi là mất tính mới nếu:
- Sáng chế bị người khác công bố nhưng không được phép của người đăng ký
- Được công bố dưới dạng báo cáo khoa học
- Được trình bày tại cuộc triển lãm quốc hoặc tại cuộc triển lãm quốc tế chính thức
b) Có tính sáng tạo
Sáng chế có trình độ sáng tạo nếu dựa vào các phát minh đã tồn tại kể cả việc chưa bộc lộ công khai, trong phạm vi quốc gia và quốc tế, trước ngày đăng ký bảo hộ thì sáng chế đó phải là kết quả của sự sáng tạo mà những người không có trình độ kỹ thuật với hiểu biết trung bình trong lĩnh vực kỹ thuật tương ứng không thể tạo ra một cách dễ dàng.
c) Có khả năng áp dụng công nghiệp
Mục đích của việc tạo ra sáng chế là nhằm giải quyết những vấn đề thiết thực trong đời sống vì thế nếu một phát minh được tạo ra nhưng không thể được sử dụng để tiến hành sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp thì sáng chế đó không được coi là có khả năng áp dụng công nghiệp cũng như mất đi đặc tính hữu ích của nó. Nếu bạn quan tâm đến dịch vụ đăng ký nhãn hiệu, hãy liên hệ với chúng tôi để biết thêm chi tiết.
2. Quyền đăng ký sáng chế tại Việt Nam thuộc về cá nhân tổ chức nào?
Cá nhân, tổ chức khi đăng ký sáng chế, cần đáp ứng các điều kiện sau đây:
- Tác giả, người tạo ra sáng chế bằng cách sử dụng trí tuệ và năng lực tài chính của riêng mình
- Tổ chức, cá nhân thuê hoặc giao cho người khác thực hiện công việc sáng tạo bằng chi phí, phương tiện vật chất của mình
- Cá nhân, tổ chức cùng hợp tác để tạo ra hoặc đầu tư cho công việc sáng tạo có quyền đăng ký sáng chế với điều kiện việc đăng ký phải được sự đồng ý của tất cả các bên.
- Trường hợp, sáng chế được tạo ra do sử dụng toàn bộ cơ sở vật chất – kỹ thuật, kinh phí từ ngân sách nhà nước thì quyền đăng ký sáng chế thuộc về Nhà nước. Và tổ chức, cơ quan giao quyền chủ đầu tư có trách nhiệm đại diện Nhà nước thực hiện quyền đăng ký sáng chế;
- Trường hợp sáng chế được tạo ra trên cơ sở Nhà nước góp vốn thì một phần quyền đăng ký sáng chế tương ứng với tỷ lệ góp vốn thuộc về Nhà nước. Tổ chức, cơ quan nhà nước là chủ vốn đầu tư của Nhà nước có trách nhiệm thực hiện phần quyền đăng ký sáng chế;
- Người đã được chuyển giao, thừa kế quyền đăng ký từ chính người có quyền đăng ký thông qua hợp đồng thể hiện bằng văn bản.