- Tham gia
- 20/12/2011
- Bài viết
- 2.998
Chương 1
Ngày thứ hai đầu tiên của tháng tư năm 1625, thị xã Măng[SUP](1)[/SUP] dường như chìm trong một cuộc cách mạng. Nhiều người thấy đàn bà chạy trốn, trẻ con kêu khóc, liền vội vã khoác chiến bào vào và với một khẩu hỏa mai hoặc ngọn giáo để củng cố lòng dũng cảm, họ hướng về phía lữ quán Chủ cối xay. Trước lữ quán, một nhóm người chen chúc, mỗi lúc một đông thêm, nhốn nháo, ồn ào và đầy vẻ tò mò.
Thời buổi ấy, những cơn hoảng loạn luôn xảy ra. Ít khi không có thành này hay trấn nọ ghi vào sổ của mình một sự kiện nào đó thuộc loại ấy. Các lãnh chúa chinh phạt lẫn nhau; Quốc vương khai chiến với Giáo chủ; Tây Ban Nha khai chiến với Quốc vương. Rồi thì ngoài những cuộc chiến thầm lặng hoặc công khai, bí mật hoặc đường hoàng xảy ra. Lại còn bọn trộm cắp, lũ ăn mày, bọn giáo phái Canvanh, lũ sói, bọn lính hầu khai chiến với tất cả mọi người. Thị dân luôn vũ trang chống lại tất cả những điều đó, đôi khi chống cả nhà Vua. Tuy nhiên họ không bao giờ chống lại Giáo chủ và nước Tây Ban Nha. Vì thế khi nghe thấy tiếng náo động nhưng không thấy màu cờ vàng và đỏ,[SUP](4)[/SUP] cũng chẳng thấy bóng dáng đồng phục gia binh của Quận công Richelieu, đám thị dân liền đâm bổ về phía lữ quán. Đến đó rồi, mọi người nhận ra nguyên nhân sự náo động.
Đó là một chàng trai trẻ có vóc dáng như một Đông Kihôtê[SUP](5)[/SUP] mười tám tuổi bị lột vỏ, không mặc áo giáp, xà cạp mà chỉ mặc áo chẽn ngắn bằng len màu xanh lơ đã chuyển màu. Mặt chàng dài sạm nâu, gò má cao, quai hàm bành rộng, mắt mở to và thông minh với cái mũi khoằm nhưng thanh tú. Chàng có tướng mạo không lẫn được của người Gátxcong ngay cả khi đội mũ nồi gắn lông chim. Một người ít từng trải hẳn đã cho đó là con trai một chủ trại đi du hành nếu không thấy thanh gươm dài treo lơ lửng trên dải đeo da của chàng ta.
Do có một con ngựa và con vật đó rất đặc biệt nên chàng khiến người ta phải chú ý: đó là một con ngựa nhỏ màu vàng tên Bearn khoảng mười hai hoặc mười bốn tuổi. Bearn không có bờm đuôi nhưng có móng ở các vó và khi đi, đầu nó thõng xuống quá dưới gối. Điều đó làm tác dụng của chiếc dây cương trở nên thừa thãi nhưng nó vẫn đi nổi tám dặm một ngày. Không may thay, những phẩm chất của con ngựa lại bị che giấu hết dưới bộ lông kỳ dị và dáng đi khiếm nhã. Trong cái thời mà mọi người đều sành ngựa thì việc một chú ngựa nhỏ con của xứ Măng xuất hiện ở đây đã làm thị dân thiếu thiện cảm đối với nó và lan sang cả chủ của nó.
Cái cảm giác ấy lại còn nặng nề hơn đối với chàng D' artagnan trẻ tuổi. Dù có là một kỵ sĩ cừ khôi đến mấy với con ngựa như thế, chàng đã thở dài thườn thượt khi nhận món quà mà ông D' artagnan bố ban tặng. Chàng biết một con vật như thế ít ra cũng đáng giá hai mươi đồng vàng, còn những lời lẽ kèm theo là vô giá.
- Này con!
Vị quý tộc xứ Gascogne nói.
- Con ngựa này đã sống ở đây từ nhỏ. Bearn sắp tròn mười ba tuổi và con sẽ phải yêu quý nó. Đừng bao giờ bán nó, hãy để nó được chết danh dự và lặng lẽ lúc về già. Nếu đi đường cùng nó, con hãy đối xử với nó như đối với một lão nô bộc.
Tổ tiên đã truyền cho con vinh dự tới triều đình. Hãy bảo vệ danh hiệu quý tộc đó - danh hiệu mà tổ tiên đã giữ gìn hơn năm trăm năm nay - vì bản thân con và vì những người thân của con. Đừng bao giờ ủng hộ ai trừ Giáo chủ và nhà Vua. Con hãy nghe cho rõ: thời buổi bây giờ, một người quý tộc chỉ lập nghiệp bằng lòng dũng cảm, kẻ nào run sợ trong giây phút có thể để tuột mất cơ hội cả đời chỉ tới một lần.
Con phải can trường bởi hai lẽ: thứ nhất, chính vì con là dân Gátxcông và thứ hai, con là con của ta. Đừng sợ những cơ hội và hãy tìm kiếm những cuộc phiêu lưu. Những cuộc quyết đấu càng bị cấm đoán thì càng phải chiến đấu với gấp đôi lòng dũng cảm. Con trai à, ta chỉ có mười lăm đồng vàng, con ngựa của ta và những lời khuyên. Mẹ con sẽ cho con món thuốc của một bà Bôhêmiêng. Thuốc đó có công năng kỳ lạ, có thể chữa khỏi mọi vết thương không phạm vào tim. Con hãy tận dụng mọi thứ, hãy sống thật hạnh phúc và lâu dài. Ta chỉ còn một điều nữa để nói thêm, đó chính là tấm gương ta nêu với con. Tấm gương đó không phải là ta bởi ta chưa từng có mặt ở triều đình, ta chỉ tình nguyện tham gia chiến tranh tôn giáo. Người ta muốn nói tới là ông Treville - người vinh dự được chơi với Vua Louis XIII khi còn bé. Đôi khi trò chơi của họ chuyển thành các trận choảng nhau, và trong những trận chiến ấy nhà Vua không phải lúc nào cũng là kẻ mạnh hơn.
Những miếng đòn nhà Vua nhận được khiến Ngài càng thêm khâm phục và thân thiết nhiều hơn với ông Treville. Trong lần đầu tiên đến Paris, ông Treville đã chiến đấu chống lại những kẻ khác năm lần. Từ cái chết của nhà Vua quá cố đến khi nhà Vua trẻ trưởng thành, không kể các cuộc chiến tranh và các cuộc vây thành, ông đã chiến đấu bảy lần. Từ khi nhà Vua trưởng thành đến nay có lẽ cũng đã trăm lần. Vì vậy, dù những pháp lệnh, những chỉ dụ, những sắc lệnh[SUP](6) [/SUP]được ban ra nhưng ông vẫn cứ là đại úy ngự lâm quân, có nghĩa là chỉ huy binh đội Céda mà nhà Vua phải dựa vào đó, Giáo chủ phải kiêng nể.
Treville kiếm mười nghìn đồng tiền vàng mỗi năm - ngang với một đại lãnh chúa. Ông ta cũng khởi đầu như con. Hãy đến gặp ông cùng với bức thư này và hãy noi gương để được như ông.
Tới đây, ông D' Artagnan bố đeo thanh kiếm của mình cho con trai, trìu mến ôm hôn chàng lên hai bên má và cầu phúc cho chàng.
Rời khỏi phòng cha, chàng trai thấy mẹ mình đang đợi với phương thuốc trứ danh. Cuộc từ biệt ở đây lâu hơn và xúc động hơn cuộc từ biệt vừa rồi. Chẳng phải vì ông D' Artagnan bố không yêu con trai - kẻ nối dõi độc nhất của mình - mà là ông không muốn phó mặc mình cho cảm xúc. Còn như bà D' Artagnan, bà là mẹ. Bà khóc sướt mướt và phải khen chàng D' Artagnan con. D' Artagnan đã cố gắng để tỏ ra cứng rắn như một ngự lâm quân tương lai, nhưng bản năng khiến nước mắt chàng lã chã tuôn rơi, khó khăn lắm mởi giấu đi được một nửa .
Cùng hôm ấy, chàng trai trẻ lên đường và mang theo ba tặng vật của cha gồm mười lăm đồng vàng, con ngựa và bức thư cho ông Treville. Hơn nữa, chàng có cả những lời khuyên.
Với một hành trang như vậy, D' Artagnan thấy mình như một bản sao của nhân vật của Xécvăngtéc cả về tinh thần cũng như thể xác. Đông Kihôtê coi những cối xay gió như những gã khổng lồ và lũ cừu là nhứng đoàn quân, còn D' artagnan lại coi mỗi nụ cười là một sự lăng mạ và mỗi cái nhìn là một sự khiêu khích. Vì vậy, dọc đường từ Tarbes[SUP](7)[/SUP] đến Măng, chàng luôn giữ chặt nắm đấm, đặt tay lên đốc gươm đến mươi lần trong ngày. Tuy nhiên nắm đấm chưa hề chạm vào ai và gươm cũng không hề tuốt ra khỏi vỏ. Không phải vì con ngựa con màu vàng h.ãm tài kia không gây cười trên khuôn mặt khách qua đường mà chính vì bên sườn con ngựa còi ấy còn lạch phạch một thanh gươm dài đáng nể bên trên con mắt long lanh nom có vẻ dữ tợn hơn là kiêu hãnh. Khách qua đường cố nén để không rũ ra cười, hoặc dù không nén nổi cũng phải cố chỉ cười nửa miệng giống như những vai hề cổ. Do đó D' Artagnan vẫn đường đường oai phong nhưng không sao kiềm được cái tính nóng nảy khi đến cái thị trấn Măng khốn khổ này.
Khi chàng vừa xuống ngựa trước cửa lữ quán Chủ cối xay, chẳng người nào từ chủ quán, hầu bàn, người coi ngựa chịu tới giữ bàn đạp ngựa cho chàng leo xuống.
D' artagnan trông thấy một nhà quý tộc với vẻ kiêu kỳ tuy nét mặt hơi cau có, đang nói g ì đó với hai người gia nhân. Theo thói quen, D' Artagnan hoàn toàn tự nhiên tin rằng mình là đối tượng của câu chuyện và lắng nghe. Lần này chàng chỉ nhầm một nửa: vấn đề không phải là chàng mà là con ngựa của chàng. Gã quý tộc như đang liệt kê cho đám người nghe tất cả các thuộc tính của con ngựa và người nghe mỗi lúc lại phá lên cười. Mà chỉ một nửa nụ cười cũng đủ khơi dậy cái tính dễ nổi cáu của chàng trai trẻ. Những chuỗi cười ầm ĩ như thế làm D' Artagnan giận dữ.
Thế nhưng D' artagnan trước hết muốn thấy rõ bộ mặt của kẻ hỗn xược đang nhạo báng mình. Chàng ném cái nhìn kiêu hãnh vào kẻ lạ mặt và nhận ra một người đ àn ông khoảng bốn mươi, bốn lăm tuồi có đôi mắt đen và sắc nhọn với nước da xanh tái, mũi cao, ria mép đen được tỉa xén hoàn hảo. Hắn ta mặc áo chẽn ngắn và quần ống túm màu tím có tua cùng màu, không có bất kỳ trang sức nào ngoài những rãnh xẻ quen thuộc để luồn áo lót qua đó.
D' artagnan tiếp nhận tất cả những đặc điểm đó một cách mau lẹ bởi linh tính mách bảo chàng rằng con người xa lạ kia ắt có một ảnh hưởng lớn đến đời chàng sau này.
Đúng lúc D' Artagnan đang chăm chăm nhìn nhà quý tộc thì hắn ta đưa ra một nhận xét về xứ sở của con ngựa còi, hai thính giả của hắn phá lên cười, còn bản thân hắn thì trái với thói quen thường lệ, cũng để lộ cho mọi người thấy. Một nụ cười nhạt llướt trên bộ mặt hắn. Lần này thì không còn nghi ngờ gì nữa, D' artagnan đã thực sự bị lăng nhục. Tin chắc như vậy, chàng kéo mũ xuống tận mắt và cố bắt chước một số điệu bộ trong chốn triều đình mà chàng thấy ở những bậc vương công du hành qua vùng Gátxcông. Chàng tiến lên, một tay đặt vào chuôi gươm. Khốn nỗi càng tiến lên, cơn giận mỗi lúc càng làm chàng thêm mất bình tĩnh. Đáng lẽ phải có một khẩu khí trang trọng và kiêu hãnh mà chàng đã chuẩn bị để phô diễn sự thách thức của mình, thế mà chàng chỉ còn thấy ngôn từ của một nhân cách thô lỗ kèm theo cách hành xử cuồng dại.
- Này, ông kia! - chàng hét lên - Cái ông nấp sau cánh cửa sổ kia! Phải, chính ông, hãy nói ta nghe xem ông cười cái gì nào, rồi chúng ta sẽ cùng cười.
Nhà quý tộc chậm rãi đưa mắt nhìn từ con ngựa lên chàng kỵ sỹ một hồi lâu rồi đôi lông mày hơi cau lại, hắn ta trả lời D' artagnan bằng một giọng mỉa mai và xấc xược không thể tả được:
- Tôi không nói với cậu.
- Nhưng ta, ta nói với ông!
Chàng trai trẻ giận sôi lên và hét to trước thái độ vừa xấc xược vừa nhã nhặn, vừa lịch thiệp vừa khinh miệt pha lẫn với nhau.
Kẻ xa lạ còn nhìn chàng một lát rồi với nụ cười thoáng qua, hắn bước từ từ ra khỏi lữ quán đi về phía D' Artagnan đứng thẳng đối diện với con ngựa. Thái độ b ình tĩnh và vẻ mặt châm biếm của hắn càng khiến cho bọn người vừa chuyện trò với hắn cười to gấp đôi.
D' Artagnan thấy hắn tiến đến, liền rút gươm nhích ra khỏi vỏ hơn một gang tay.
- Con ngựa này chắc chắn, hay đúng hơn là lúc trẻ từng có màu vàng cúc áo.
Kẻ xa lạ lặp lại những câu soi mói đã nói với bọn người nghe của y, tựa như không th èm để ý đến cơn điên giận sôi lên của D' Artagnan.
- Đó l à một màu rất quen thuộc của thực vật, nhưng đến nay rất hiếm thấy ở loài ngựa.
D' Artagnan giận giữ thét lên:
- Kẻ cười giễu con ngựa là kẻ không dám cười chủ nó!
- Tôi thường không hay cười, cậu trai trẻ. - Kẻ lạ mặt tiếp - Tự cậu cũng có thể thấy thế trên vẻ mặt của tôi, song tôi vẫn cười khi tôi thích.
- Còn ta? Ta không muốn người ta cười khi nó làm ta khó chịu.
- Thật thế ư? - Kẻ lạ mặt tiếp tục với vẻ càng bình tĩnh hơn bao giờ hết - Thế thì, chí lí quá đi rồi?
Rồi quay gót, hắn đang định trở vào lữ quán nhưng D' Artagnan không phải loại dễ bỏ qua như thế với một kẻ đ ã hỗn xược chế nhạo mình.
- Quay lại! Ông hay châm biếm, ta không muốn đánh ông phía sau lưng đâu.
- Đánh tôi, tôi ấy à? - Người kia vừa nói vưa quay gót lại nhìn chàng trai trẻ hết sức ngạc nhiên cũng như khinh bỉ - Chà, thế kia đấy. Chàng trai trẻ, cậu điên rồi.
Rồi hắn hạ giọng như thể nói với chính mình:
- Phiền thật. - y tiếp tục - Thế mà Hoàng Thượng cứ bắt ta phải đi tìm những kẻ can trường ở đâu đâu để tuyển vào ngự lâm quân của ngài!
Người lạ vừa nói dứt, D' Artagnan đã vươn tay xỉa một mũi gươm thịnh nộ đến nỗi nếu không nhanh chân nhảy lùi lại, có lẽ đây sẽ là lần cuối cùng hắn được bông đùa. Người lạ mặt lúc đó thấy sự thể đã vượt qua trò nhạo báng liền rút gươm ra chào địch thủ. Nhưng cũng đúng lúc ấy, hai thính giả của y kèm theo chủ quán nhảy bổ vào D' artagnan và đánh chàng chàng bằng những đòn gậy, xẻng và que gắp than. Điều đó khiến D' artagnan phải quay lại đối mặt với trận mưa đòn, đối thủ của chàng cũng tra gươm vào vỏ. Hắn suýt là một diễn viên thì nay lại trở thành khán giả của một trận chiến - một vai mà hắn rất thạo với vẻ bình thản thường tình của mình, tuy vẫn không ngớt làu bàu:
- Cái giống Gascogne ôn dịch! Bê hắn lên con ngựa vàng cam của hắn và để hắn xéo đi.
(còn tiếp)
Ngày thứ hai đầu tiên của tháng tư năm 1625, thị xã Măng[SUP](1)[/SUP] dường như chìm trong một cuộc cách mạng. Nhiều người thấy đàn bà chạy trốn, trẻ con kêu khóc, liền vội vã khoác chiến bào vào và với một khẩu hỏa mai hoặc ngọn giáo để củng cố lòng dũng cảm, họ hướng về phía lữ quán Chủ cối xay. Trước lữ quán, một nhóm người chen chúc, mỗi lúc một đông thêm, nhốn nháo, ồn ào và đầy vẻ tò mò.
Thời buổi ấy, những cơn hoảng loạn luôn xảy ra. Ít khi không có thành này hay trấn nọ ghi vào sổ của mình một sự kiện nào đó thuộc loại ấy. Các lãnh chúa chinh phạt lẫn nhau; Quốc vương khai chiến với Giáo chủ; Tây Ban Nha khai chiến với Quốc vương. Rồi thì ngoài những cuộc chiến thầm lặng hoặc công khai, bí mật hoặc đường hoàng xảy ra. Lại còn bọn trộm cắp, lũ ăn mày, bọn giáo phái Canvanh, lũ sói, bọn lính hầu khai chiến với tất cả mọi người. Thị dân luôn vũ trang chống lại tất cả những điều đó, đôi khi chống cả nhà Vua. Tuy nhiên họ không bao giờ chống lại Giáo chủ và nước Tây Ban Nha. Vì thế khi nghe thấy tiếng náo động nhưng không thấy màu cờ vàng và đỏ,[SUP](4)[/SUP] cũng chẳng thấy bóng dáng đồng phục gia binh của Quận công Richelieu, đám thị dân liền đâm bổ về phía lữ quán. Đến đó rồi, mọi người nhận ra nguyên nhân sự náo động.
Đó là một chàng trai trẻ có vóc dáng như một Đông Kihôtê[SUP](5)[/SUP] mười tám tuổi bị lột vỏ, không mặc áo giáp, xà cạp mà chỉ mặc áo chẽn ngắn bằng len màu xanh lơ đã chuyển màu. Mặt chàng dài sạm nâu, gò má cao, quai hàm bành rộng, mắt mở to và thông minh với cái mũi khoằm nhưng thanh tú. Chàng có tướng mạo không lẫn được của người Gátxcong ngay cả khi đội mũ nồi gắn lông chim. Một người ít từng trải hẳn đã cho đó là con trai một chủ trại đi du hành nếu không thấy thanh gươm dài treo lơ lửng trên dải đeo da của chàng ta.
Do có một con ngựa và con vật đó rất đặc biệt nên chàng khiến người ta phải chú ý: đó là một con ngựa nhỏ màu vàng tên Bearn khoảng mười hai hoặc mười bốn tuổi. Bearn không có bờm đuôi nhưng có móng ở các vó và khi đi, đầu nó thõng xuống quá dưới gối. Điều đó làm tác dụng của chiếc dây cương trở nên thừa thãi nhưng nó vẫn đi nổi tám dặm một ngày. Không may thay, những phẩm chất của con ngựa lại bị che giấu hết dưới bộ lông kỳ dị và dáng đi khiếm nhã. Trong cái thời mà mọi người đều sành ngựa thì việc một chú ngựa nhỏ con của xứ Măng xuất hiện ở đây đã làm thị dân thiếu thiện cảm đối với nó và lan sang cả chủ của nó.
Cái cảm giác ấy lại còn nặng nề hơn đối với chàng D' artagnan trẻ tuổi. Dù có là một kỵ sĩ cừ khôi đến mấy với con ngựa như thế, chàng đã thở dài thườn thượt khi nhận món quà mà ông D' artagnan bố ban tặng. Chàng biết một con vật như thế ít ra cũng đáng giá hai mươi đồng vàng, còn những lời lẽ kèm theo là vô giá.
- Này con!
Vị quý tộc xứ Gascogne nói.
- Con ngựa này đã sống ở đây từ nhỏ. Bearn sắp tròn mười ba tuổi và con sẽ phải yêu quý nó. Đừng bao giờ bán nó, hãy để nó được chết danh dự và lặng lẽ lúc về già. Nếu đi đường cùng nó, con hãy đối xử với nó như đối với một lão nô bộc.
Tổ tiên đã truyền cho con vinh dự tới triều đình. Hãy bảo vệ danh hiệu quý tộc đó - danh hiệu mà tổ tiên đã giữ gìn hơn năm trăm năm nay - vì bản thân con và vì những người thân của con. Đừng bao giờ ủng hộ ai trừ Giáo chủ và nhà Vua. Con hãy nghe cho rõ: thời buổi bây giờ, một người quý tộc chỉ lập nghiệp bằng lòng dũng cảm, kẻ nào run sợ trong giây phút có thể để tuột mất cơ hội cả đời chỉ tới một lần.
Con phải can trường bởi hai lẽ: thứ nhất, chính vì con là dân Gátxcông và thứ hai, con là con của ta. Đừng sợ những cơ hội và hãy tìm kiếm những cuộc phiêu lưu. Những cuộc quyết đấu càng bị cấm đoán thì càng phải chiến đấu với gấp đôi lòng dũng cảm. Con trai à, ta chỉ có mười lăm đồng vàng, con ngựa của ta và những lời khuyên. Mẹ con sẽ cho con món thuốc của một bà Bôhêmiêng. Thuốc đó có công năng kỳ lạ, có thể chữa khỏi mọi vết thương không phạm vào tim. Con hãy tận dụng mọi thứ, hãy sống thật hạnh phúc và lâu dài. Ta chỉ còn một điều nữa để nói thêm, đó chính là tấm gương ta nêu với con. Tấm gương đó không phải là ta bởi ta chưa từng có mặt ở triều đình, ta chỉ tình nguyện tham gia chiến tranh tôn giáo. Người ta muốn nói tới là ông Treville - người vinh dự được chơi với Vua Louis XIII khi còn bé. Đôi khi trò chơi của họ chuyển thành các trận choảng nhau, và trong những trận chiến ấy nhà Vua không phải lúc nào cũng là kẻ mạnh hơn.
Những miếng đòn nhà Vua nhận được khiến Ngài càng thêm khâm phục và thân thiết nhiều hơn với ông Treville. Trong lần đầu tiên đến Paris, ông Treville đã chiến đấu chống lại những kẻ khác năm lần. Từ cái chết của nhà Vua quá cố đến khi nhà Vua trẻ trưởng thành, không kể các cuộc chiến tranh và các cuộc vây thành, ông đã chiến đấu bảy lần. Từ khi nhà Vua trưởng thành đến nay có lẽ cũng đã trăm lần. Vì vậy, dù những pháp lệnh, những chỉ dụ, những sắc lệnh[SUP](6) [/SUP]được ban ra nhưng ông vẫn cứ là đại úy ngự lâm quân, có nghĩa là chỉ huy binh đội Céda mà nhà Vua phải dựa vào đó, Giáo chủ phải kiêng nể.
Treville kiếm mười nghìn đồng tiền vàng mỗi năm - ngang với một đại lãnh chúa. Ông ta cũng khởi đầu như con. Hãy đến gặp ông cùng với bức thư này và hãy noi gương để được như ông.
Tới đây, ông D' Artagnan bố đeo thanh kiếm của mình cho con trai, trìu mến ôm hôn chàng lên hai bên má và cầu phúc cho chàng.
Rời khỏi phòng cha, chàng trai thấy mẹ mình đang đợi với phương thuốc trứ danh. Cuộc từ biệt ở đây lâu hơn và xúc động hơn cuộc từ biệt vừa rồi. Chẳng phải vì ông D' Artagnan bố không yêu con trai - kẻ nối dõi độc nhất của mình - mà là ông không muốn phó mặc mình cho cảm xúc. Còn như bà D' Artagnan, bà là mẹ. Bà khóc sướt mướt và phải khen chàng D' Artagnan con. D' Artagnan đã cố gắng để tỏ ra cứng rắn như một ngự lâm quân tương lai, nhưng bản năng khiến nước mắt chàng lã chã tuôn rơi, khó khăn lắm mởi giấu đi được một nửa .
Cùng hôm ấy, chàng trai trẻ lên đường và mang theo ba tặng vật của cha gồm mười lăm đồng vàng, con ngựa và bức thư cho ông Treville. Hơn nữa, chàng có cả những lời khuyên.
Với một hành trang như vậy, D' Artagnan thấy mình như một bản sao của nhân vật của Xécvăngtéc cả về tinh thần cũng như thể xác. Đông Kihôtê coi những cối xay gió như những gã khổng lồ và lũ cừu là nhứng đoàn quân, còn D' artagnan lại coi mỗi nụ cười là một sự lăng mạ và mỗi cái nhìn là một sự khiêu khích. Vì vậy, dọc đường từ Tarbes[SUP](7)[/SUP] đến Măng, chàng luôn giữ chặt nắm đấm, đặt tay lên đốc gươm đến mươi lần trong ngày. Tuy nhiên nắm đấm chưa hề chạm vào ai và gươm cũng không hề tuốt ra khỏi vỏ. Không phải vì con ngựa con màu vàng h.ãm tài kia không gây cười trên khuôn mặt khách qua đường mà chính vì bên sườn con ngựa còi ấy còn lạch phạch một thanh gươm dài đáng nể bên trên con mắt long lanh nom có vẻ dữ tợn hơn là kiêu hãnh. Khách qua đường cố nén để không rũ ra cười, hoặc dù không nén nổi cũng phải cố chỉ cười nửa miệng giống như những vai hề cổ. Do đó D' Artagnan vẫn đường đường oai phong nhưng không sao kiềm được cái tính nóng nảy khi đến cái thị trấn Măng khốn khổ này.
Khi chàng vừa xuống ngựa trước cửa lữ quán Chủ cối xay, chẳng người nào từ chủ quán, hầu bàn, người coi ngựa chịu tới giữ bàn đạp ngựa cho chàng leo xuống.
D' artagnan trông thấy một nhà quý tộc với vẻ kiêu kỳ tuy nét mặt hơi cau có, đang nói g ì đó với hai người gia nhân. Theo thói quen, D' Artagnan hoàn toàn tự nhiên tin rằng mình là đối tượng của câu chuyện và lắng nghe. Lần này chàng chỉ nhầm một nửa: vấn đề không phải là chàng mà là con ngựa của chàng. Gã quý tộc như đang liệt kê cho đám người nghe tất cả các thuộc tính của con ngựa và người nghe mỗi lúc lại phá lên cười. Mà chỉ một nửa nụ cười cũng đủ khơi dậy cái tính dễ nổi cáu của chàng trai trẻ. Những chuỗi cười ầm ĩ như thế làm D' Artagnan giận dữ.
Thế nhưng D' artagnan trước hết muốn thấy rõ bộ mặt của kẻ hỗn xược đang nhạo báng mình. Chàng ném cái nhìn kiêu hãnh vào kẻ lạ mặt và nhận ra một người đ àn ông khoảng bốn mươi, bốn lăm tuồi có đôi mắt đen và sắc nhọn với nước da xanh tái, mũi cao, ria mép đen được tỉa xén hoàn hảo. Hắn ta mặc áo chẽn ngắn và quần ống túm màu tím có tua cùng màu, không có bất kỳ trang sức nào ngoài những rãnh xẻ quen thuộc để luồn áo lót qua đó.
D' artagnan tiếp nhận tất cả những đặc điểm đó một cách mau lẹ bởi linh tính mách bảo chàng rằng con người xa lạ kia ắt có một ảnh hưởng lớn đến đời chàng sau này.
Đúng lúc D' Artagnan đang chăm chăm nhìn nhà quý tộc thì hắn ta đưa ra một nhận xét về xứ sở của con ngựa còi, hai thính giả của hắn phá lên cười, còn bản thân hắn thì trái với thói quen thường lệ, cũng để lộ cho mọi người thấy. Một nụ cười nhạt llướt trên bộ mặt hắn. Lần này thì không còn nghi ngờ gì nữa, D' artagnan đã thực sự bị lăng nhục. Tin chắc như vậy, chàng kéo mũ xuống tận mắt và cố bắt chước một số điệu bộ trong chốn triều đình mà chàng thấy ở những bậc vương công du hành qua vùng Gátxcông. Chàng tiến lên, một tay đặt vào chuôi gươm. Khốn nỗi càng tiến lên, cơn giận mỗi lúc càng làm chàng thêm mất bình tĩnh. Đáng lẽ phải có một khẩu khí trang trọng và kiêu hãnh mà chàng đã chuẩn bị để phô diễn sự thách thức của mình, thế mà chàng chỉ còn thấy ngôn từ của một nhân cách thô lỗ kèm theo cách hành xử cuồng dại.
- Này, ông kia! - chàng hét lên - Cái ông nấp sau cánh cửa sổ kia! Phải, chính ông, hãy nói ta nghe xem ông cười cái gì nào, rồi chúng ta sẽ cùng cười.
Nhà quý tộc chậm rãi đưa mắt nhìn từ con ngựa lên chàng kỵ sỹ một hồi lâu rồi đôi lông mày hơi cau lại, hắn ta trả lời D' artagnan bằng một giọng mỉa mai và xấc xược không thể tả được:
- Tôi không nói với cậu.
- Nhưng ta, ta nói với ông!
Chàng trai trẻ giận sôi lên và hét to trước thái độ vừa xấc xược vừa nhã nhặn, vừa lịch thiệp vừa khinh miệt pha lẫn với nhau.
Kẻ xa lạ còn nhìn chàng một lát rồi với nụ cười thoáng qua, hắn bước từ từ ra khỏi lữ quán đi về phía D' Artagnan đứng thẳng đối diện với con ngựa. Thái độ b ình tĩnh và vẻ mặt châm biếm của hắn càng khiến cho bọn người vừa chuyện trò với hắn cười to gấp đôi.
D' Artagnan thấy hắn tiến đến, liền rút gươm nhích ra khỏi vỏ hơn một gang tay.
- Con ngựa này chắc chắn, hay đúng hơn là lúc trẻ từng có màu vàng cúc áo.
Kẻ xa lạ lặp lại những câu soi mói đã nói với bọn người nghe của y, tựa như không th èm để ý đến cơn điên giận sôi lên của D' Artagnan.
- Đó l à một màu rất quen thuộc của thực vật, nhưng đến nay rất hiếm thấy ở loài ngựa.
D' Artagnan giận giữ thét lên:
- Kẻ cười giễu con ngựa là kẻ không dám cười chủ nó!
- Tôi thường không hay cười, cậu trai trẻ. - Kẻ lạ mặt tiếp - Tự cậu cũng có thể thấy thế trên vẻ mặt của tôi, song tôi vẫn cười khi tôi thích.
- Còn ta? Ta không muốn người ta cười khi nó làm ta khó chịu.
- Thật thế ư? - Kẻ lạ mặt tiếp tục với vẻ càng bình tĩnh hơn bao giờ hết - Thế thì, chí lí quá đi rồi?
Rồi quay gót, hắn đang định trở vào lữ quán nhưng D' Artagnan không phải loại dễ bỏ qua như thế với một kẻ đ ã hỗn xược chế nhạo mình.
- Quay lại! Ông hay châm biếm, ta không muốn đánh ông phía sau lưng đâu.
- Đánh tôi, tôi ấy à? - Người kia vừa nói vưa quay gót lại nhìn chàng trai trẻ hết sức ngạc nhiên cũng như khinh bỉ - Chà, thế kia đấy. Chàng trai trẻ, cậu điên rồi.
Rồi hắn hạ giọng như thể nói với chính mình:
- Phiền thật. - y tiếp tục - Thế mà Hoàng Thượng cứ bắt ta phải đi tìm những kẻ can trường ở đâu đâu để tuyển vào ngự lâm quân của ngài!
Người lạ vừa nói dứt, D' Artagnan đã vươn tay xỉa một mũi gươm thịnh nộ đến nỗi nếu không nhanh chân nhảy lùi lại, có lẽ đây sẽ là lần cuối cùng hắn được bông đùa. Người lạ mặt lúc đó thấy sự thể đã vượt qua trò nhạo báng liền rút gươm ra chào địch thủ. Nhưng cũng đúng lúc ấy, hai thính giả của y kèm theo chủ quán nhảy bổ vào D' artagnan và đánh chàng chàng bằng những đòn gậy, xẻng và que gắp than. Điều đó khiến D' artagnan phải quay lại đối mặt với trận mưa đòn, đối thủ của chàng cũng tra gươm vào vỏ. Hắn suýt là một diễn viên thì nay lại trở thành khán giả của một trận chiến - một vai mà hắn rất thạo với vẻ bình thản thường tình của mình, tuy vẫn không ngớt làu bàu:
- Cái giống Gascogne ôn dịch! Bê hắn lên con ngựa vàng cam của hắn và để hắn xéo đi.
(còn tiếp)
Hiệu chỉnh bởi quản lý: