Nếu em không phải một giấc mơ

Xe ôtô chạy nốt những phút cuối cùng của cái đêm dài ấy, đèn pha rọi sáng những vệt màu da cam và trắng xen kẽ nhau giữa từng chỗ ngoặt lượn theo vết lõm cảu vách đá và từng đoạn đường thẳng chạy dọc một đầm lầy hay một bãi biển vắng tanh. Lauren thiu thiu ngủ, Paul lặng lẽ lái xe, tập trung vào đường và chìm trong những suy nghĩ của mình. Arthur lợi dụng khoảnh khắc yên tĩnh này để kín đáo lấy từ túi ra bức thư mà anh đã nhét vào đó khi lấy chùm chìa khóa dài và to trong tủ tài liệu ở nhà anh.
Khi anh bóc thư, một mùi hương đầy kỷ niệm tỏa ra, đó là hỗn hợp của hai thứ tinh dầu mà mẹ anh pha trộn trong chiếc bình con bằng pha lê màu vàng có nút bằng bạc mờ. Hương thơm thoát từ phong bì đem theo ra cả những kỷ niệm về mẹ anh. Arthur rút thư từ phong bì và mở nó ra một cách cẩn thận.
Arthur của mẹ,
Nếu con đọc những dòng này có nghĩa là cuối cùng con đã quyết định lên đường về Carmel. Mẹ rất tò mò muốn biết bây giờ con bao nhiêu tuổi. Con có trong tay những chiếc chìa khóa của ngôi nhà mà ở đó mẹ con mình đã sống cùng nhau những năm thật đẹp. Mẹ biết rằng con không trở về đây ngay lập tức, rằng con sẽ đợi đến lúc cảm thấy mình sẵn sàng đánh thức ngôi nhà này dậy.
Arthur của mẹ, con sắp bước qua cánh cửa mà tiếng động của nó đối với mẹ thân thuộc biết bao. Con sẽ đi khắp từng gian phòng chứa đầy những niềm tiếc nhớ. Con sẽ lần lượt mở từng cánh cửa chớp để cho ùa vào những tia nắng mặt trời mà mẹ sẽ thiếu biết chừng nào. Con hãy trở ra vườn hoa hồng, hãy nhẹ nhàng đến bên những đóa hoa. Trong suốt thời gian này, hẳn là chúng đã biến thành hoa dại.
Con cũng sẽ đi xuống phòng làm việc của mẹ, con sẽ ngồi vào đó. Trong tủ con sẽ tìm thấy một chiếc vali nhỏ màu đen, hãy mở nó ra nếu con muốn, nếu con đủ sức. Nó chứa những cuốn vở đầy những trang mà mẹ đã viết cho con mỗi ngày cảu tuổi thơ con. Cuộc đời con ở phía trước con; con là người chủ duy nhất của nó. Hãy xứng đáng với “tất cả những gì mà ta đã yêu”.
Mẹ yêu con từ trên cao này, mẹ chăm chú dõi theo con.
Mẹ Lili của con.
Khi họ đến vịnh Monterey, bình minh bắt đầu nhú lên. Bầu trời choàng một mảnh lụa màu hồng nhạt, kết những dải ruy băng dài lượn sóng, thỉnh thoảng như lại chạm vào mặt biển ở phía chân trời. Arthur chỉ đường. Nhiều năm đã trôi qua, anh chưa bao giờ đi con đường này mà ngồi ở hàng ghế trước của ôtô cả, thế nhưng mỗi cây số đều có vẻ thân thuộc với anh, mỗi hàng rào, mỗi cái cổng đi qua đều hướng anh về với ký ức tuổi thơ. Anh lấy tay ra hiệu khi phải rời đường cái. Sau chỗ ngoặt sắp tới có thể thấy thấp thoáng khu nhà. Paul đi theo những chỉ dẫn của anh; một đoạn đường đất bị xói mòn bởi những cơn mưa mùa đông và được làm khô lại bởi cái nóng mùa hè. Đến một chỗ ngoặt uốn cong, cánh cửa sắt màu xanh lá cây hiện ra trước mặt họ.
- Chúng ta đã đến nơi - Arthur nói.
- Mày có chìa khóa chứ?
- Tao đi mở cửa đây, mày lái xe đến sát tận nhà và đợi tao, tao xuống đi bộ.
- Cô ta đi với mày hay ở lại trong ôtô?
Arthur thò đầu vào xe và ung dung trả lời :
- Thì mày cứ hỏi thẳng cô ấy!
- Không, tao không thích thế.
- Em để anh đi một mình, em nghĩ lúc này như vậy là hơn - Lauren nói với Arthur.
Arthur mỉm cười và nói với Paul :
- Cô ấy ngồi lại với mày, cái thằng số đỏ!
Ôtô đi xa dần, kéo theo một đám bụi mù ở phía sau. Đứng lại một mình, anh lặng ngắm khung cảnh xung quanh anh. Những dải đất đỏ rộng trên trồng một vài cây thông lọng hay cây thông bạc, những cây cù tùng, những cây lựu và những cây minh quyết, tất cả dường như chạy dài ra tận biển. Nền đất phủ đầy những chiếc gai đã bị mặt trời làm cháy xém. Anh đi theo chiếc cầu thang nhỏ bằng đá bên lể đường. Đi được nửa chừng, anh thấy thấp thoáng phía bên tay phải mình cái còn lại của vườn hồng ngày xưa. Khu vườn bị bỏ hoang, vô số mùi hương quyện lẫn vào nhau gợi lên theo mỗi bước chân một vũ điệu farandole không thể kiểm soát nổi của những kỷ niệm khứu giác.
Khi anh đi qua, lũ ve sầu im bặt đi giây lát rồi lại tiêp tục hát say mê hơn. Những cây to cong xuống trước làn gió nhẹ buổi ban mai. Biển đập một vài con sóng lên các mỏm đá. Trước mặt anh, anh thấy ngôi nhà đang thiêm thiếp ngủ, hệt như anh đã để lại nó trong những giấc mơ của mình. Anh thấy nó có vẻ nhỏ hơn, mặt ngoài bị hư hỏng đôi chút nhưng mái ngói thì vẫn còn nguyên vẹn. Những cánh chớp đóng kín. Paul đỗ xe trước cổng và đang đợi anh bên ngoài ô tô.
- Mày mất khá thời gian để đến đấy!
- Hơn hai mươi năm!
- Ta làm gì đây?
Họ mang cơ thể Lauren vào quòng làm việc ở tầng dưới cùng. Anh đặt chìa khóa vào ổ khóa và vặn không hề do dự. Trí nhớ chứa đựng những mẩu kỷ niệm mà nó biết tung ra bất cứ lúc nào, không để người ta hiều tại sao. Tiếng động trong ổ khóa và vặn không hề do dự, đúng như việc cần làm. Trí nhớ chứa đựng những mẩu kỷ niệm mà nó biết tung ra bất cứ lúc nào, không để người ta hiểu tại sao. Tiếng động trong ổ khóa vang lên đối với anh cũng dường như quá nhanh. Anh bước vào hành lang, mở cửa phòng làm việc ở bên trái lố vào, đi ngang qua căn phòng và mở cửa chớp. Anh cố tình không chú ý tí nào đến mọi thứ xung quanh mình, việc khám phá lại nơi này sẽ để lúc sau, và anh đã quyết định hưởng trọn vẹn những giây phút ấy. Rất nhanh chóng những hòm đồ đạc được tháo dỡ, cơ thể Lauren được đặt nằm trên đi văng, ống truyền được lắp lại.. Arthur khép lại cửa chớp bằng then móc. Rồi anh cầm lấy cái hộp các tông nhỏ màu nâu, và rủ Paul theo anh vào bếp: “Tao sẽ pha cà phê cho bọn mình mày mở hộp ra đi, tao sẽ đun nước nóng”
Anh mở ngăn tủ phía dưới bồn rửa bát, và lôi ra một vật bằng kim loại, hình thù kỳ quặc, gồm hai phần dối xứng và dối lập. Anh bắt đầu tháo nó ra bằng cách quay từng phần một ngược chiều nhau.
- Cái gì thế? - Paul hỏi.
- Bình pha cà phê kiểu Italia đấy!
- Bình pha cà phê kiểu Italia?
Arthur giải thích cho bạn cách vận hành của bình cà phê, lợi ích đầu tiên là không cần dùng giấy lọc và như vậy hương thơm sẽ giữ lại tốt hơn. Phải cho hai đến ba thìa cà phê đầy vào trong cái phiễu nhỏ nằm giữa phần dưới được đổ đầy nước và phần trên. Phải vặn chặt hai khoang lại và đặt tất cả lên bếp đun. Nước sôi sẽ trào lên, thấm qua cà phê đựng trong cái phễu nhỏ và chuyển sang phần trên, được lọc chỉ bằng một cái lưới mỏng bằng kim loại. Bí quyết duy nhất để thành công chỉ là phải kéo bình pha cà phê ra khỏi ngọn lửa đúng lúc, vì đó không phải là nước nữa, mà là cà phê rồi, và “cà phê sôi, cà phê ôi!”. Khi anh giải thích xong, Paul huýt sáo lên một tiếng :
- Này, cần phải là kỹ sư biết hai thứ tiếng mới pha cà phê được trong cái nhà này à?
- Còn cần hơn thế nhiều, ông bạn ơi, phải có tài, đó là cả một nghi lễ đấy!
Paul vừa bĩu môi tỏ ý nghi ngờ để trả lời câu nói của bạn, vừa chìa cho bạn gói cà phê. Athur cúi người xuống để mở bình ga đặt dưới bồn rửa bát. Rồi anh vặn chiếc vòi ở bên trái cái bếp, và cuối cùng là núm bật bếp.
- Mày nghĩ vẫn còn có ga à?
- Antoine không bao giờ để lại ngôi nhà với bình ga rổng trong bếp, và tao cuộc với mày là còn ít nhất hai bình ga đầy nữa ở trong gara.
Một cách máy móc, Paul đứng lên, đi ra phía công tắc ở cạnh cửa và ấn một cái. Một làn ánh sáng màu vàng tỏa khắp căn phòng.
- Mày làm thế nào mà lại có điện trong căn nhà này được?
- Hôm kia tao đã điện thoại đến công ty điện để họ cho lại điện, cả nước cũng thế, nếu như mày lo lắng, nhưng tắt đèn đi, phải lau bụi ở bóng đèn cái đã, nếu không khi bị nóng lên, nó sẽ nổ tung đấy.
- Mày học những cái đó ở đâu, pha cà phê kiểu Italia với lại lau bụi để bóng đèn khỏi nổ?
- Ở đây, ông bạn ạ, trong gian phòng này, và tao còn học vô số điều khác nữa.
- Thế cà phê được chưa?
Arthur đặt hai cái chén lên chiếc bàn gỗ. Anh rót vào chén nước cà phê nóng bỏng.
- Đợi đã rồi hãy uống - Anh nói.
- Tại sao?
- Vì nếu không mày sẽ bị bỏng, với lại trước tiên mày nên hít hương cà phê cái đã. Để cho mùi thơm thấm dần vào mũi mày.
- Mày làm tao phát ngấy với cái món cà phê của mày, ông bạn ạ, chả có cái gì thấm vào mũi tao sất! Đúng là tao đang nằm mơ. Để cho mùi thơm thấm dần vào mũi mày, nhưng mày kiếm đâu ra được cái của ấy chứ?
Paul nâng chén cà phê lên miệng, anh phun vội ra ngay lập tức chút nước nóng bỏng mà anh vừa uống. Lauren đến đứng sau lưng Arthur và vòng tay ôm anh. Cô tựa đầu lên vai anh và nói thầm vào tai anh :
- Em thích nơi này, em cảm thấy dễ chịu ở đây, khung cảnh thật là êm dịu.
- Lúc nãy em ở đâu?
- Em làm một vòng quanh khu nhà trong khi các anh triết lý về cà phê
- Vậy em thấy sao?
- Mày lại đang nói với cô ta đấy à? - Paul ngắt lời bằng một giọng bực tức.
Không hề chú ý đến câu hỏi của Paul, Arthur quay sang Lauren :
- Em thích à?
- Lẽ ra phải tỏ vẻ khó tính - Cô trả lời - nhưng anh phải kể cho em nghe nhiều điều bí mật đấy, ở đây đầy những điều bí mật, em có thể cảm thấy điều đó trong mỗi bức tường, mỗi đồ vật.
- Nếu tao quấy rầy mày thì mày cứ việc coi như tao không có ở đây! - Ông bạn chí thân của Arthur lại nói.
Lauren không muốn tỏ ra bội bạc nhưng cô rỉ tai anh rằng cô rất muốn được một mình với anh. Cô nóng ruột muốn được anh dẫn đi xem các nơi. Cô nói thêm rằng cô rất muốn họ được nói chuyện với nhau. Anh muốn biết là về điều gì, cô trả lời: “Về nơi này, về trước đây”.
Paul chờ đợi để Arthur cuối cùng cũng hạ cố nói với anh nhưng Arthur có vẻ lại tiếp tục trò chuyện với người bạn vô hình của mình. Paul đành quyết định ngắt lời họ.
- Nào, mày có cần đến tao nữa hay không, không thì tao quay về San Fransisco, có nhiều việc ở công ty với lại những cuộc chuyện trò cùa mày với Phantomas làm cho tao khó chịu.
- Đừng có hẹp hòi thế, được không?
- Xin lỗi! Chắc là tao nghe nhầm. Mày vừa mới bảo một thằng đã giúp mày đánh cắp một cơ thể người trong bệnh viện vào một tối chủ nhật, bằng một xe cứu thương lấy trộm, một thằng vừa uống cà phê kiều Italia ở một nơi cách nhà hắn bốn tiếng đồng hồ, đêm không được ngủ và mày bào hắn là đứng có hẹp hòi! Mày thật quá đáng!
- Tao có định nói thế đâu.
Paul không biết Arthur định nói gì nhưng anh muốn trở về trước khi họ cãi lộn “bởi vì điều đó có thể xảy ra, mày thấy đấy, và như vậy thì thật đáng tiếc, vì đã phải bỏ biết bao công sức cho đến tận lúc này”. Arthur lo lắng hỏi xem bạn anh có đủ sức để đi đường không. Paul trấn an bạn, với chén cà phê kiểu Italia (anh nhấn mạnh từ này một cách mỉa mai) mà anh vừa uống, anhc ó thể đi được ít nhất hai mươi tiếng đồng hồ trước khi cái mệt dám làm anh ríu mắt. Arthur không đáp lại lời châm chọc. Về phần Paul, anh cũng lo lắng vì để bạn lại không có ôtô trong ngôi nhà bỏ hoang này.
- Có cái xe Ford trong gara.
- Cái xe Ford của mày chạy lần cuối cùng khi nào?
- Lâu rồi!
- Liệu nó có nổ máy được không, cái xe Ford ấy.
- Nhất định rồi, tao sẽ thay acquy, nó sẽ nổ thôi.
- Nhất định rồi! Với lại, xét cho cùng thì nếu mày có bị mắc kẹt ở đây, mày cứ tự xoay xở lấy. Tao giúp mày đêm nay thế là đủ lắm rồi.
Arthur tiễn Paul ra tận ôtô.
- Đừng lo cho tao, mày đã giúp tao nhiều rồi.
- Nhưng tất nhiên là tao phải lo cho mày chứ. Bình thường ra thì tao sẽ bỏ mặc mày một mình trong ngôi nhà này và tao sẽ khiếp sợ với ý nghĩ về các hồn ma, nhưng mà mày, đã thế mày lại còn mang thêm hồn ma của mày đến nữa!
- Biến đi!
Paul cho xe nổ máy, anh hạ cửa kính xuống trước khi đi.
- Mày có chắc là sẽ ổn cả không?
- Chắc chắn.
- Vậy thì tao đi đây.
- Paul!
- Gì?
- Cảm ơn về tất cả những cái mày làm.
- Có gì đâu.
- Có chứ, nhiều lắm chứ, mày đã phải chịu bao nhiêu mạo hiểm vì tao, trong khi chưa hiểu rõ hẳn mọi việc, chỉ vì sự trung thành và tình bạn mà thôi, như vậy là rất nhiều, và tao biết điều đó.
- Tao biết là mày biết. Thôi, tao đi đây, nếu không bọn mình lại khóc tong tong mất. Nhớ giữ gìn sức khỏe và báo tin đến cơ quan cho tao nhé.
Những lời hứa hẹn tuôn ra, và chiếc Saab nhanh chóng mất hút sau quả đồi. Lauren bước ra bậc thềm.
- Nào - Cô nói - ta đi một vòng quanh khu nhà chứ?
- Bên trong hay bên ngoài trước
- Trước hết chúng ta đang ở đâu?
- Em đang ở trong ngôi nhà của Lili.
- Lili là ai?
- Lili là mẹ anh, chính ở đây anh đã lớn lên một nửa thời thơ ấu của mình.
- Mẹ anh mất lâu rồi à?
- Lâu lắm rồi.
- Và chưa bao giờ anh trở lại đây cả?
- Chưa bao giờ.
- Tại sao?
- Vào nhà đi! Ta sẽ nói chuyện đó sau, khi nào xem nhà xong đã.
- Tại sao? - Cô hỏi vặn.
- Anh quên mất rằng em cứng đầu cứng cổ như một con la. Tại thế đấy!
- Có phải em đã khiến anh trở lại nơi này không?
- Em không phải là hồn ma duy nhất của đời anh - Anh nói bằng một giọng dịu dàng.
- Anh phải trả giá đắt khi trở lại đây.
- Nói như vậy là không chính xác, có thể coi là điều đó quan trọng đối với anh.
- Và anh đã làm như vậy vì em?
- Anh làm điều đó vì đã đến lúc cần phải thử.
- Thử làm gì?
- Mở chiếc vali nhỏ màu đen.
- Anh vui lòng giải thích cho em về cái vali nhỏ màu đen chứ?
- Đó là những kỷ niệm.
- Anh có nhiều kỷ niệm ở đây?
- Gần như là tất cả. Đây là nhà anh mà.
- Thế sau khi ở đây thì sao?
- Sau đó anh đã cố làm sao cho mọi thứ trôi qua thật nhanh, sau đó anh đã tự lớn lên rất nhiều
- Mẹ anh chết đột ngột à?
- Không, mẹ anh chết vì bệnh ung thư, mẹ anh biết điều đó, chỉ có đối với anh là chuyện đó xảy ra quá nhanh thôi. Đi theo anh, anh sẽ dẫn em ra thăm khu vườn. Hai người đi ra bậc thềm, và arthur dẫn Lauren đến tận chỗ bờ biển tiếp giáp với khu vườn. họ ngồi xuống mép đá.
- Nếu em biết được anh đã ngồi ở đây bao nhiêu giờ với mẹ anh, anh đếm những ngọn sóng và đánh cuộc với mẹ. Hai mẹ con thường đến xem mặt trời lặn. Nhiều người ở đây ra bãi biển buổi tối, chừng nửa giờ, để xem cảnh này. Mỗi ngày cảnh tượng lại có một vẻ khác. Do nhiệt độ của biển, của không khí, do đủ mọi thứ mà màu sắc của bầu trời không bao giờ giống nhau. Cũng như ở thành phố, mọi người về nhà xem chương trình thời sự trên ti vi vào những giờ cố định, ở đây thì dân chúng đi ra xem mặt trời lặn, đó đã thành một tục lệ rồi.
- Anh sống ở đây lâu không?
- Hồi ấy anh là một chú nhóc con, anh được mười tuổi thì mẹ anh mất.
- Tối nay anh chỉ cho em xem mặt trời lặn nhé!
- Đó là một nghĩa vụ ở đây - Anh mỉm cười nói.
Sau lưng họ, ngôi nhà bắt đầu rực lên trong ánh sáng ban mai. Lớp sơn ở mặt ngoài phía trông ra biển đã bị hư hại, nhưng nhìn chung ngôi nhà đã kháng cự tốt với tháng năm. Từ ngoài nhìn vào, không ai có thể tin được rằng nó đã ngủ một giấc dài như vậy.
- Nó đã chống chọi tài đấy chứ? - Lauren nói.
- Antoine đã chăm chút ngôi nhà như một kẻ ương gàn. Làm vườn, sửa chữa đồ đạc, câu cá, trông trẻ, gác nhà, đó là một nhà văn không thành đạt mà mẹ anh đã đón về. Trước khi bố anh bị tai nạn máy bay, đó là một người bạn của bố mẹ anh. Anh cho rằng bác ấy luôn luôn yêu mẹ anh, ngay cả khi bố anh còn đó. Anh ngờ rằng cuối cùng họ đã trở thành tình nhân, nhưng đó là mãi về sau. Bác ấy ở trong tâm tư mẹ anh khi bà còn sống, mẹ anh ở trong tâm tư bác ấy của những năm để tang. Cả hai người đều ít nói, ít ra là những khi anh thức, nhưng họ vô cùng đồng điệu. Họ hiểu nhau từ cái nhìn. Trong sự yên lặng chung của họ, họ chữa lành tất cả những bão táp của đời mình. Giữa hai người ấy có sự bình thản đến kinh ngạc. Cứ như là cả hai đều đã thề không bao giờ biết đến tình cảm tức giận hay nổi loạn nữa.
- Cuối cùng ông ấy thế nào?
- Khép mình lại trong phòng làm việc, nơi đặt cơ thể Lauren bây giờ, ông đã sống thêm được mười năm sau Lili. Antoine đã dùng phần cuối của đời ông vào việc bảo dưỡng ngôi nhà. Lili đã để lại tiền cho ông, đó là phong cách của bà, dự kiến trước mọi điều, ngay cả điều không thể dự kiến được. Về mặt đó, Antoine giống bà. Ông mất ở bệnh viện vào đầu một mùa đông. Một buổi sáng nắng và se lạnh, ông tỉnh dậy trong người mệt mỏi. Khi đang tra dầu vào bản lề ở cổng, một cơn đau âm ỉ len lỏi vào ngực ông. Ông đi lại giữa hàng cây để lấy thêm không khí mà đột nhiên ông cảm thấy thiếu vô cùng. Cây thông già mà dưới bóng nó ông thường ngủ trưa vào mùa xuân và mùa hè đã đón nhận ông dưới những cành của nó, khi ông ngã và không thể gượng lại được. Bị cơn đau quật ngã, ông đã bò đến tận nhà và gọi hàng xóm đến giúp. Được chở đến phòng cấp cứu Monterey, ông đã tắt thở tại đó vào ngày thứ hai sau. Có thể nghĩ rằng ông đã chẩun bị trước cho sự ra đi của mình. Khi ông mất, công chứng viên của gia đình đã liên lạc với Arthur để hỏi xem anh cần phải làm gì với ngôi nhà.
 
Chương 12Thanh tra Pilguez có mặt ở bệnh viện vào lúc mười một một giờ. Bà trưởng ca trực đã gọi điện cho sở cảnh sát ngay khi nhận giao ca hồi sáu giờ sáng. Một bệnh nhân bị hôn mê đã biến mất khỏi bệnh viện, đây là một vụ bắt cóc. Pilguez tìm thấy thông báo trên bàn làm việc của ông khi đến sở, ông nhún vai tự hỏi tại sao những vụ việc kiểu này bao giờ cũng rơi vào đầu mình. Ông nổi đóa lên gắt gỏng với Nathalia, người điều phối những cú điện thoại ở trung tâm.
- Này cô, tôi đã làm gì cô mà cô lại cho tôi những việc như vậy vào một buổi sáng thứ hai?
- Lẽ ra anh còn có thể gặp những cái hết hơi hơn nữa vào đầu tuần cơ - Cô trả lời với nụ cười tươi tắn, vẻ biết lỗi.
- Câu trả lời hay nhỉ, tôi hy vọng là cô thích cái ghế quay của cô, vì tôi cảm thấy là cô còn phải dính vào đó lâu!
- Anh quả là một pho tượng mô tả sự nhã nhặn, George!
- Đúng, chính thế, và chính vì vậy mà tôi có quyền chọn những com chim sẻ ị lên đầu tôi!
Và ông quay gót. Một tuần lễ xấu bắt đầu, tiếp nối một tuần lễ xấu khác vừa kết thúc hai ngày trước đó.
Đối với Pilguez một tuần lễ tốt gồm những ngày mà người ta chỉ gọi cảnh sát đến để giải quyết những chuyện va chạm hàng xóm láng giềng hay vi phạm Luật dân sự. Sự tồn tại của phòng hình sự là một điều vô nghĩa, bởi vì điều đó có nghĩa là trong thành phố này có khá nhiều thằng điên để giết người, hiếp dâm, trộm cướp và bây giờ thì bắt cóc những người đang hôn mê ở trong bệnh viện. Đôi khi, ông tưởng rằng sau ba mươi năm trong nghề ông đã thấy đủ mọi thứ, nhưng mỗi một tuần lại đẩy lùi thêm giới hạn của sự điên rồ của con người.
- Nathalia! - Từ bàn làm việc của mình, ông kêu lên.
- Gì vậy George? - Cô phụ trách điều phối trả lời - Anh vừa có một kỳ nghỉ cuối tuần tệ lắm hay sao?
- Cô có thể chạy xuống dưới kia kiếm cho tôi mấy cái bánh rán được không?
Mắt dán vào quyển sổ biên bản. miệng gặm cây bút, cô lắc đầu từ chối. “Nathalia!” ông lại kêu lên. Cô đang ghi lại mã số của những báo cáo hồi đêm vào trong cột dành cho mục này. Vì những ô kẻ quá hẹp, vị thủ trưởng của “Quân khu bảy”, cấp trên của cô, như cô thường gọi ông một cách mỉa mai, có tính ương gàn, cho nên cô nắn nót viết những chữ nhỏ tí xíu để khỏi vượt ra ngoài cột. Không buồn ngẩng đầu lên, cô trả lời ông: “Vâng, Goerge, cứ thông báo là anh sẽ về hưu tối nay đi”. Ông nhảy phắt dậy và ra đứng trước mặt cô.
- Thế này thì tệ thật!
- Anh có muốn mua một cái gì đó để trút hết bực dọc vào không?
- Không, tôi sẽ trút hết lên đầu cô thì có, cô ăn năm mươi phần trăm tiền lương để làm việc này.
- Tôi sẽ tương những cái bánh rán của anh lên mặt anh cho mà xem, biết chưa hả vịt?
- Chúng ta là gà (tiếng lóng gọi cảnh sát) chứ có phải là vịt đâu!
- Anh thì khác, anh là một con vịt xấu xí thậm chí đếch biết bay, anh bước lạch bạch như vịt ấy. Thôi anh đi làm việc đi và để cho tôi yên.
- Cô đẹp lắm Nathalia ạ.
- Thì đúng vậy, anh cũng vừa đẹp vừa vui tính.
- Nào, mặc cái áo ghilê của bà nội cô vào đi, tôi đưa cô xuống dưới kia uống cà phê.
- Thế còn điều phối, ai làm cho?
- Đợi đấy, đừng nhúc nhích, tôi sẽ cho cô thấy.
Ông quay lưng bước vội về phía anh chàng thực tập trẻ tuổi đang ngồi xếp hồ sơ ở một góc phòng. Ông cầm tay anh ta và kéo anh ta đi qua gian phòng rộng đến chiếc bàn ở cạnh cửa ra vào.
- Này, cậu bạn, cậu sẽ ngồi bắt rễ vào cái ghế xoay có tay vịn này, hai tay vịn bọc vải hẳn hoi nhé, vì cô đây được thăng chức mà lại. Cậu có quyền được quay người trên đó, nhưng không được quay quá hai vòng theo cùng một hướng, cậu nhấc máy điện thoại khi nghe thấy nó kêu, cậu nói: “Xin chào, đây là Sở cảnh sát, phòng hình sự, tôi nghe đây”, câu nghe, cậu ghi lại tất cả vào giấy, và cậu không đi tè trước khi chúng tôi trở lại. Và nếu có ai hỏi Nathali ở đâu, cậu nói là cô ấy bất thình lình có những vấn để của đàn bà con gái nên cô ấy đang chạy ra hiệu thuốc. Cậu thấy liệu có đủ sức làm việc đó không?
- Để không phải đi uống cà phê cùng ông, đến việc lau chùi toalét tôi cũng làm được, thưa ông thanh tra!
George không đáp lại, ông quay sang Nathalia và kéo cô ra cầu thang.
- Cái áo ghi lê này chắc hợp với bà nội cô lắm nhỉ! - Ông vừa nói với cô vừa mỉm cười.
- Khi nào người ta tống anh về hưu, công việc này sẽ làm tôi ngấy đến tận cổ, George ạ!
- Ở góc phố, một biển hiệu với dòng chữ bằng đèn nê-ông đỏ, kiểu những năm năm mươi, đang nhấp nháy. Những chữ cái rực sáng “The Finzy Bar” tỏa một quầng ánh sáng nhợt nhạt xuống tủ kính của quán rượu lâu đời này. Quán Finzy đã có một thời vẻ vang. Từ cái nơi cũ rích này chỉ còn lại những trang trí trên các bức tường và trên trần nhà ố vàng, ở những bậu cửa sổ bằng gỗ đã phai màu vì thời gian, ở những thanh gỗ lát sàn cũ mòn vì hàng nghìn bước chân say rượu và những gót giày nện của những cuộ gặp gỡ tối nào. Từ vỉa hàng đối diện nhìn sang, nơi này trông giống như một bức tranh của Hooper. Họ băng qua đường, ngồi vào cái quầy gỗ cũ và gọi hai cốc cà phê loãng.
- Anh vừa có một ngày chủ nhật tệ thế cơ à, gấu to của tôi?
- Kỳ nghỉ cuối tuần tôi buồn chán lắm cô bé ạ, giá như cô biết được! Tôi cứ loanh quoanh luẩn quẩn một chỗ.
- Ấy là chủ nhật tôi không thể cùng đi ăn với anh được, phải không?
Ông gật đầu công nhận.
- Sao anh không đi thăm viện bảo tàng, đi ra ngoài một chút chứ.
- Nếu tôi đi thăm viện bảo tàng, chỉ trong hai giây tôi sẽ phát hiện ra ngay mấy cái thằng móc túi, và tôi lại có mặt ở sở ngay lập tức.
- Đi xem phim vậy.
- Trong bóng tối tôi sẽ ngủ gật thôi.
- Thế thì đi dạo.
- Ừ, ý hay đấy, tôi sẽ đi dạo, như vậy tôi sẽ không có vẻ là một thằng ngốc lang thang trên hè phố. Anh làm gì vậy? Chả làm gì hết, tôi dạo chơi! Thế mà cô gọi là kỳ nghỉ cuối tuần à? Mọi việc trôi chảy với anh chàng bồ mới của cô chứ?
- Không có gì đặc sắc cả, nhưng cũng có việc mà làm.
- Cô có biết cái gì là nhược điểm của đàn ông không?
- Không, những gì vậy?
- Với một cô gái như cô, bọn đàn ông lẽ ra phải không biết thế nào là buồn chán; giá tôi trẻ đi mười lăm tuổi, tôi sẽ ghi tên vào danh sách bạn nhảy của cô!
- Nhưng anh trẻ hơn mười lăm tuổi so với cái mà anh tưởng đấy, George!
- Tôi có thể coi đó là một lời tán tỉnh được không?
- Anh cứ coi là một lời khen, thế đã không phải là xoàng rồi. Thôi, tôi đi làm việc đây và anh thì đi đến bệnh viện đi, họ có vẻ hốt hoảng đấy.
George gặp nữ y tá trưởng Jarkowiski. Bà chăm chú nhìn người đàn ông râu không cạo kỹ, người tròn trịa nhưng lịch lãm.
- Thật là khủng khiếp - Bà nói - chưa bao giờ từng xảy ra một việc như vậy cả.
Vẫn bằng giọng như vậy, bà nói thêm là chủ tịch hội đồng đang hết sức xúc động, và muốn gặp ông chiều nay. Ông ấy cần phải trình bày vấn đề với các cấp quản lý vào buổi tối. “Ông sẽ tìm được cô ấy cho chúng tôi chứ, ông thanh tra?”
- Nếu bà bắt đầu bằng việc kể cho tôi nghe tất cả từ đầu thì có thể được.
Jarkowski kể rằng vụ bắt cóc chắc chắn là xảy ra vào lúc giao ca. Còn chưa liên hệ được với cô y tá trực buổi tối, nhưng cô trực ca đêm thì khẳng định rằng gi.ường bệnh đã trống khi cô đi một vòng kiểm tra vào lúc quãng 2 giờ. Cô tưởng rằng bệnh nhân đã chết và gi.ường thì chưa được dành cho bệnh nhân khác, theo tục lệ là phải để trống gi.ường hai mươi tư giờ sau khi một bệnh nhân qua đời. Chính là trong khi đi kiểm tra vòng đầu tiên mà Jarkowski nhận ra ngay lập tức tai họa và lên tiếng báo động.
- Có thể cô ấy tỉnh dậy khỏi cơn hôn mê và cô ấy đã chán ngấy cái khách sạn này, cô ấy bèn đi dạo chơi, điều đó cũng chính đáng thôi nếu như cô ấy đã phải nằm lâu quá rồi.
- Tôi rất thích sự khôi hài của ông, ông nên để cho bà mẹ cô ấy cùng hưởng với, bà ấy đang trong phòng làm việc của một người lãnh đạo khoa chúng tôi, vài phút nữa bà ấy sẽ đến đây thôi.
- Vâng, tất nhiên rồi - Pilguez vừa nói vừa nhìn xuống đôi giày của mình - Nếu đó là một vụ bắt cóc thì nhằm lợi ích gì?
- Biết chuyện đó thì được gì cơ chứ? - Y tá trưởng trả lời bằng một giọng bực bội, như thể là họ đang làm mất thời gian.
- Bà biết đấy - Ông vừa nói vừa tiếp tục nhìn xuống - dù điều đó kỳ lạ đến thế nào chăng nữa, thì chín mươi chín phần trăm các vụ phạm tội là có động cơ. Điều đó có nghĩa là, về nguyên tắc,người ta không đến xoáy một bệnh nhân đang hôn mê một tối chủ nhật mà cốt chỉ để đùa cho vui thôi. À mà bà có chắc là cô ấy không được chuyển sang một khoa khác không?
- Tôi biết chắc, có những phiếu chuyển viện thường trực, cô ấy được chở đi bằng xe cứu thương.
- Công ty nào vậy? - Ông vừa hỏi vừa rút bút chì ra.
- Chẳng phải công ty nào cả.
Sáng nay khi bà đến, bà hoàn toàn không nghĩ tới chuyện có vụ bắt cóc. Được báo là phòng 505 đã trống, bà liền đi ra thường trực ngay, “tôi cho là không thề chấp nhận được việc người ta chuyển viện mà không báo cho tôi biết, nhưng ông biết đấy, thời buổi bây giờ thì sự tôn trọng cấp trên còn có được coi ra gì nữa đâu”. Cô thường trực trao cho bà các giấy tờ, và bà “thấy ngay lập tức” là có cái gì đó không ổn. Thiếu mất một loại giấy, và tờ xanh chưa điền hết. “Tôi tự hỏi là làm sao mà cái con ngu ấy lại để cho bị lợi dụng...” Pilguez muốn biết “con ngu” là ai.
Cô ta tên là Emmanuelle và trực hôm qua ở cửa ra vào. “Chính cô ta đã để xảy ra chuyện đó”.
George đã phát ngấy những lời lẽ của y tá trưởng, và do bà ta vắng mặt khi xảy ra sự việc, ông ghi lại địa chỉ của toàn bộ nhân viên trực hôm đó rồi chào bà ta.
Từ trong ôtô của mình, ông gọi điện thoại cho Nathalia và yêu cầu cô mời tất cả những người này ghé qua sở cảnh sát trước khi đi làm việc.
Đến cuối ngày, ông đã nghe tất cả mọi người và được biết rằng, đêm chủ nhật sang ngày thứ hai, một bác sĩ giả mặc áo blu đánh cắp của một bác sĩ thật, ông này hơn thế nữa lại rất khó tính, bác sĩ giả đã xuất hiện cùng một nhân viên tải thương, đem theo những giấy tờ chuyển viện giả. Hai tên này đã mang đi không chút khó khăn cơ thể của cô Lauren Kline, một bệnh nhân bị hôn mê kéo dài. Những lời khai muộn màng của một sinh viên ngoại trú đã làm ông phải sửa lại những báo cáo của mình: bác sĩ giả này có thể là một bác sĩ thật, anh ta đã bị anh sinh viên nói trên gọi đến giúp, và đã giúp rất hiệu quả. Theo lời của cô y tá có tham dự vào cái cảnh không lường trước này, thì việc người ấy đặt đường truyền ở tĩnh mạch trung tâm một cách rất chính xác khiến cho cô nghĩ rằng anh ta phải là bác sĩ phẫu thuật hay chí ít cũng phải làm việc trong một khoa cấp cứu. Pilguez hỏi rằng một y tá bình thường có thể làm việc này được không, câu trả lời mà ông nghe thấy là y tá có được đào tạo để làm việc này, nhưng dù sao đi nữa thì cách lựa chọn giải pháp, những chỉ dẫn cho anh sinh viên và những động tác điêu luyện cho thấy người này thuộc về giới bác sĩ thì đúng hơn.
- Thế anh đã tìm được cái gì về vụ này rồi? - Nathalia hỏi khi đang chuẩn bị ra về.
- Có cái gì đó không bình thường. Một bác sĩ đi đánh cắp một phụ nữ hôn mê trong bệnh viện. Một công việc chuyên nghiệp, xe cứu thương vờ, giấy tờ hành chính giả mạo.
- Anh nghĩ đến cái gì?
- Có thể là vụ buôn bán các bộ phận cơ thể người. Bọn chúng ăn cắp cơ thể, chuyển vào một phòng thí nghiệm bí mật, mổ xẻ, lấy ra những bộ phận mà chúng cần, gan,thận, tim, phổi, và tất cả sẽ được đem bán lại với giá đắt cho những bệnh viện ít thận trọng, nhưng cần tiền.
Ông yêu cầu cô tìm cách kiếm cho ông danh sách tất cả các bệnh viện tư có một phòng phẫu thuật xứng đáng với cái tên này và có những khó khăn tài chính.
- Hai mươi mốt giờ rồi, ông bạn quý ơi, tôi muốn đi về, chuyện đó để đến mai cũng được, những bệnh viện của anh họ không nộp báo cáo tổng kết ban đêm chứ?
- Cô có thấy là cô hay thay đổi ý kiến đến thế nào không, sáng nay cô vừa ghi tên tôi vào danh sách bạn nhảy của cô và đến giờ thì cô lại từ chối ở lại cùng tôi một buổi tối tuyệt vời. Tôi cần cô, Nathalia, giúp tôi một tay nào, cô vui lòng chứ?
- Anh là một người mưu mô, George ạ, sáng nay anh có nói bằng cái giọng như thế này đâu.
- Ừ, nhưng bây giờ là tối cơ mà, cô giúp tôi chứ? Cởi cái áo ghilê của bà nội cô ra thôi và lại đây giúp tôi.
- Anh thấy đấy, yêu cầu một cách dễ thương như vậy thì thật khó mà từ chối. Chúc anh một buổi tối tốt lành nhé.
- Nathalia!
- Vâng, George!
- Cô tuyệt lắm!
- George, tim tôi không phải dành để được chinh phục đâu.
- Tôi có định nhằm cao đến thế đâu, cô bạn thân mến ạ!
- Câu đó anh tự nghĩ ra đấy à?
- Không!
- Tôi cũng đã nghĩ là như vậy.
- Thôi, cô đi về nhà đi, tôi sẽ tự xoay xở.
Nathalia tiến về phía cửa, quay người lại :
- Anh có chắc là mọi việc sẽ ổn không?
- Có chứ, đi về mà chăm sóc con mèo của cô đi!
- Tôi dụ ứng với mèo.
- Thế thì ở lại giúp tôi.
- Chúc anh một đêm tốt lành. George.
Cô chạy nhanh xuống cầu thang, bàn tay lướt trên lan can.
Đội trực đêm đóng ở tầng dưới cùng. Còn lại một mình trên gác, Pilguez bật màn hình máy vi tính và nối vào bộ phận lưu trữ dữ liệu trung tâm. Ông gõ từ “bệnh viện tư” lên bàn phím và châm một điếu thuốc lá trong khi đợi máy chủ thực hiện việc tìm kiếm. Vài phút sau máy in bắt đầu nhả ra chừng sáu mươi trang giấy in. Người đàn ông dáng dấp thô kệch bèn đi gom lại xấp giấy rồi đem về bàn làm việc của mình. “A, chỉ cần có thế thôi! Và để xác định những bệnh viện có thể đang gặp khó khăn, chỉ cần phải liên hệ với khoảng một trăm nhà băng trong vùng để hỏi xem danh sách những cơ sở tư nhân đã xin vay tiền trong vòng mười tháng qua”. Ông nói to thành tiếng, và ở lối ra vào dưới ánh đèn mờ ảo, ông nghe thấy tiếng Nathalia hỏi :
- Tại sao lại mười tháng vừa qua?
- Tại vì bản năng cảnh sát là như thế. Tại sao cô quay lại?
- Tại vì bản năng phụ nữ là như thế.
- Cô thật tốt bụng.
- Tất cả phụ thuộc vào việc sau đó anh sẽ đưa tôi đi ăn tối ở đâu. Anh nghĩ là anh đã có một hướng rồi à?
Ông cảm thấy hướng hiện tại có vẻ quá đơn giản. Ông muốn Nathalia gọi điện cho phòng điều phối xe tuần tra của thành phố và hỏi xem trong hồ sơ của họ có lưu trữ dấu vết gì từ một báo cáo đêm chủ nhật về một chiếc xe cứu thương không. “Bao giờ cũng có thể gặp may được”, ông nói. Nathalia nhấc máy điện thoại. Ở đầu bên kia dây nói viên cảnh sát trực thử tìm trên máy vi tính, nhưng không thấy một báo cáo nào cả. Nathalia yêu cầu anh ta mở rộng phạm vi tìm kiếm ra cả vùng, nhưng màn hình máy vi tính vẫn im bặt như cũ. Viên cảnh sát trực lấy làm áy náy, nhưng không có một chiếc xe cứu thương nào là đối tượng của một vụ vi phạm pháp luật hay bị kiểm tra vào đêm chủ nhật sang ngày thứ hai cả. Cô yêu cầu anh ta báo cho biết mọi thông tin mới liên quan đến chuyện này rồi dập máy.
- Tôi rất tiếc, họ chẳng có gì cả.
- Thế thì tôi sẽ đưa cô đi ăn tối, vì các nhà băng sẽ chẳng cho ta biết gì tối nay đâu
Họ đên quán Perry và ngồi vào gian phòng có cửa mở ra ngoài phối.
George nghe Nathalia một cách lơ đãng, thả cái nhìn bồng bềnh xuyên ra ngoài cửa kính.
- Chúng ta quen nhau bao lâu rồi nhỉ,George nhỉ?
- Đó là loại câu hỏi không bao giờ nên đặt ra,cô bé ạ.
- Tại sao vậy?
- Khi người ta yêu, người ta không tính.
- Bao lâu rồi?
- Đủ để cho cô dung thứ được tôi,chưa đủ để cho cô không chịu nổi tôi!
- Không còn lâu hơn thế nhiều!
- Chuyện các bệnh viện tư có vẻ như không ăn nhập mấy.Tôi vấp phải vấn đề động cơ, có lợi ích gì ở đây?
- Anh đã gặp bà mẹ chưa?
- Chưa, sáng mai mơi gặp.
- Có thể đó là bà ta, bà ta đã chán ngấy đi đến bệnh viện.
- Đừng có nói ngớ ngẩn thế, không thể là người mẹ được, như vậy quá mạo hiểm.
- Tôi muốn nói là có thể bà ấy muốn chấm dứt cho xong. Ngày nào cũng phải đến nhìn con mình trong tình trạng này. Đôi khi người ta phải muốn thôi điều đó đi còn hơn chấp nhận ý nghĩ về cái chết.
- Thế cô có thấy người mẹ nào dựng lên một cú như vậy để giết con gái mình không?
- Không, anh có lý, như vậy thì quá điên rồ.
- Không có động cơ thì ta không thể tìm ra được.
- Vẫn còn hướng các bệnh viện tư của anh đấy.
- Tôi nghĩ đó là ngõ cụt, tôi không cảm thấy gì ở đây cả.
- Tại sao anh nói thế? Lúc trước anh muốn tôi ở lại làm việc cùng anh tối nay cơ mà!
- Tôi muốn cô ăn tối với tôi hôm nay đấy chứ! Tại vì việc này quá rõ ràng. Bọn chúng sẽ không thể tiếp tục được, tất cả các bệnh viện trong vùng sẽ rất cảnh giác, và tôi không nghĩ giá của một cơ thể duy nhất đáng để phải liều, bao nhiêu tiền một quả thận nhỉ?
- Hai thận, một gan, một lá lách, một tim, tất cả có thể được chừng một trăm năm mươi nghìn đôla.
- Thế thì đắt hơn ở hàng thịt đấy chứ!
- Anh thật là kinh tởm
- Cô thấy không, điều đó cũng không hợp lý, đối với một bệnh viện đang gặp khó khăn thì một trăm năm mươi nghìn đôla chẳng thay đổi được gì hết. Đây không phải là chuyện tiền bạc.
- Có thể đó là chuyện cần dùng.
 
Cô trình bày ý của mình: một người có thể sống hay chết tuỳ thuộc vào việc có tìm được một bộ phận cơ thể phù hợp hay không. Có người chết do không thể kiếm được kịp thời một quả thận hay một lá gan mà họ cần. Một người có đủ năng lực tài chính có thể trả tiền thuê bắt cóc một bệnh nhân hôn mê vô vọng để cứu con họ hay cứu chính họ. Pilguez cho rằng hướng này phức tạp nhưng có cơ sở. Nathalia không thấy thuyết của cô phức tạp ở chỗ nào. Nó phức tạp với Pilguez. Một hướng như vậy sẽ mở rộng đáng kể danh sách những kẻ bị tình nghi, họ sẽ không nhất thiết đi tìm một kẻ tội phạm nữa. Để sống được hay để cứu sống con mình, nhiều người có thể bị cám dỗ bởi việc loại bỏ một người đã được công nhận là chết về mặt lâm sàng. Tác giả có thể tự cảm thấy được gột sạch khỏi khái niệm giết người, khi xét đến mục đích cuối cùng của hành động của mình.
- Anh nghĩ là phải đi tất cả các bệnh viện tư để nhận diện một bệnh nhân kinh tế khá giả đang đợi ghép một bộ phận à? - Cô hỏi.
- Tôi không mong thế vì đó là một việc công phu trong một lãnh vực nhạy cảm.
Máy điện thoại di động của Nathalia reo lên, cô xin lỗi và nhấc máy, nghe chăm chú, ghi lại trên khăn trải bàn, và cám ơn nhiều lần người đối thoại của mình.
- Ai thế?
- Anh chàng trực ở phòng điều phối, người mà tôi gọi điện cho lúc nãy ấy.
- Thế có chuyện gì?
Nhân viên điều phối đã nảy ra ý nhắn tin cho các xe tuần tra ban đêm, chỉ cốt kiểm tra xem có đội nào thấy gì đáng nghi ngờ ở một xe cứu thương, nhưng không đáng ghi lại vào biên bản không.
- Thế rồi sao?
- Vậy là anh ta đã có một sáng kiến rất hay, vì có một xe tuần tra đã giữ lại rồi theo dõi một xe cứu thương kiểu từ hồi sau chiến tranh, cái xe này cứ lượn đi lượn lại ở khu vực Green street, Filbert, Union street tối hôm qua.
- Có vẻ hấp dẫn đấy nhỉ, thế đội tuần tra nói gì?
- Nói rằng họ đã đi theo người lái xe cứu thương này, anh ta kể là cái xe đang đi về hưu sau mười năm phục vụ tận tuỵ. Họ nghĩ là người lái xe quyến luyến cái xe của mình nên anh ta lôi nó đi lang thang trước khi đưa nó đến xưởng sửa chữa lần cuối cùng.
- Đó là xe gì vậy?
- Xe Ford 71.
Pilguez nhẩm tính nhanh trong đầu. Nếu chiếc xe Ford được cho về vườn tối qua sau mười năm hoạt động là xe 71 thì điều đó có nghĩa là nó đã nằm trong vỏ bọc mười sáu năm trước khi được đem ra sử dụng. Người lái xe đã cho mấy cảnh sát ăn quả lừa rồi. Ông đã có một hướng.
- Tôi còn có cái hay hơn nữa cơ - Nữ đồng nghiệp của ông nói thêm.
- Gì vậy?
- Họ đã đi theo anh ta đến tận xưởng mà anh ta để xe vào. Và họ có địa chỉ xưởng này.
- Cô biết không, Nathalia, thật may mà chúng ta không sống cùng nhau, cô và tôi.
- Tại sao bây giờ anh lại nói thế?
- Tại vì nếu không thì bây giờ tôi sẽ có một bằng chứng là tôi bị mọc sừng.
- Anh biết không, George? Anh là một thằng ngu chính cống. Anh muốn đi đến đó ngay bây giờ à?
- Không, sáng mai, xưởng sửa chữa chắc phải đóng cửa rồi và không có lệnh thì tôi chẳng làm gì được cả. Với lại tôi thích đến đó mà không gây chú ý hơn. Tôi không định tóm cái xe mà là tóm những kẻ đã sử dụng nó. Đến đó tham quan thì tốt hơn là làm cho lũ thỏ rừng chạy trốn vào hang.
Pilguez trả tiền ăn và cả hai đi ra ngoài hè phố. Nơi mà chiếc xe cứu thương bị kiểm tra nằm cách chỗ họ vừa ăn một ngã tư đường, và George nhìn góc phố như đang tìm kiếm một hình ảnh.
- Anh biết điều gì có thể làm cho tôi vui lòng không?
- Không, nhưng cô sẽ cho tôi biết.
- Đó là anh đến ngủ ở nhà tôi, tôi không muốn ngủ một mình tối nay
- Cô có một cái bàn chải đánh răng chứ?
- Tôi có cái của anh!
- Tôi rất thích chọc ghẹo cô, chỉ có với cô là tôi vui đùa được. Lại đây, ta đi thôi, tôi cũng vậy, tôi muốn ở lại với cô tối nay. Đã lâu rồi đấy nhỉ.
- Từ thứ năm trước
- Tôi cũng bảo thế.
Khi họ tắt đèn, một tiếng rưỡi sau đó, George đã tin chắc rằng ông sẽ giải quyết được điều bí ẩn này, và những niềm tin của ông thường là cứ hai lần là có một lần đúng sự thực. Thứ ba là một ngày làm việc hiệu quả. Sau khi gặp bà Kline, ông loại bỏ mọi nghi ngờ đối với người đàn bà ấy, ông được biết rằng chính các bác sĩ cũng đề nghị chấm dứt ca bệnh này. Từ hai năm nay luật pháp nhắm mắt trong những trường hợp tương tự. Người mẹ đã có thái độ hợp tác, trông bà rõ ràng là rất xáo động, và Pilguez biết phân biệt những người thành thực với những kẻ cố tạo ra đau đớn tinh thần. Bà hoàn toàn không phù hợp với một kẻ có khả năng tổ chức một phi vụ như vậy. Ở xưởng sữa chữa, ông đã xác định chiếc xe mà bọn tội phạm sử dụng. Khi đi vào xưởng, ông đã bị bất ngờ: ở đây chuyên sửa chữa các loại xe cứu viện; xưởng thùng xe này chỉ có toàn những xe cứu thương phải tu sửa thôi. Bốn mươi thợ cơ khí và quãng một chục nhân viên hành chính làm việc ở đây. Tổng cộng lại, có gần năm mươi con người có thể bị tình nghi. Ông chủ xưởng, vẻ hoài nghi, nghe câu chuyện của viên thanh tra xong và thắc mắc là điều gì có thể thúc đẩy tác giả của vụ tội phạm ngoan ngoãn mang xe về trả mà không phi tang nó đi. Pilguez trả lời rằng việc xe bị mất trộm sẽ báo động cảnh sát và cảnh sát có thể tìm ra môi liên hệ. Một người làm việc trong xưởng có thể tham gia vào âm mưu này và đã hy vọng rằng việc “mượn tạm” sẽ không bị phát hiện.
Chỉ cần xem ai đã dính vào đây. Theo ông giám đốc thì không có ai cả, ổ khóa không có dấu vết bị bẻ và không ai có chìa khóa xưởng để đi vào đó ban đêm. Ông hỏi chủ xưởng xem điều gì đã có thể khiến cho những kẻ đi “mượn” chọn cái xe kiểu cũ ấy, ông này giải thích rằng đó là cái xe duy nhất mà cách lái xe giống một ôtô bình thường. Pilguez thấy đó là một dáu hiệu thêm nữa chứng tỏ rằng một nhân viên của xưởng là tòng phạm trong “vụ án của ông”. Trả lời câu hỏi liệu có khả năng là một người thó chìa khóa và đánh lại một chìa khác trong ngày được không, chủ xưởng trả lời là được: “Có thể là thế được, vào buổi trưa, khi chúng tôi đóng cửa chính”. Như vậy tất cả đều là đối tượng tình nghi. Pilguez yêu cầu đem cho ông hồ sơ nhân sự, và ông xếp lớp trên cùng hồ sơ của những nhân viên đã rời xưởng trong vòng hai năm qua. Ông trở về sở cảnh sát vào quãng mười bốn giờ. Nathalia đi nghỉ ăn trưa vẫn chưa quay lại, ông đắm mình vào việc phân tích kỹ càng năm mươi bảy túi hồ sơ màu nâu mà ông đặt trên bàn. Cô đến quãng mười lăm giờ, trang điểm bằng một kiểu tóc mới và sẵn sàng lãnh chịu những lời châm chọc của ông bạn đồng nghiệp của mình.
- Im miệng nhé, George, anh lại sắp nói một nhảm nhí đấy - Cô nói khi vừa mới bước vào, thậm chí chưa kịp đặt túi của mình xuống nữa.
Ông rời mắt khỏi chồng giấy của mình, nhìn cô chăm chú và nở một nụ cười. Trước khi ông kịp nói bất cứ điều gì, cố đến gần ông và đặt ngón tay trỏ của mình lên miệng ông để ông không thốt được một lời: “Có một cái sẽ làm anh quan tâm hơn kiểu tóc của tôi nhiều, và tôi chỉ nói cho anh biết nếu anh miễn cho mọi lời bình luận, đồng ý chứ?” Ông làm ra vẻ bị bịt miệng và phát ra một tiếng làu nhàu đồng nghĩa với sự chấp thuận của những điều kiện giao kèo.
- Bà mẹ của cô gái gọi điện đến, bà ấy nhớ ra một chi tiết quan trọng cho việc điều tra của anh và bà ấy muốn anh gọi điện lại cho bà ấy. Bà ấy ở nhà và đợi cú điện thoại của anh.
- Nhưng tôi mê kiểu tóc của cô lắm, nó rất hợp với cô
Nathalia mỉm cười và trở về bàn làm việc của mình ở máy điện thoại, bà Kline báo cho Pilguez biết về cuộc nói chuyện kỳ lạ của bà với một người đàn ông trẻ tuổi tình cờ gặp ở khu Marina, người này đã thuyết giáo rất sôi nổi cho bà về euthanasie.
Bà kể cho ông từng chi tiết về cuộc gặp gỡ với một kiến trúc sư mà có thể Lauren đã quen ở khoa cấp cứu vì một vết thương do dao rọc giấy. Anh ta bảo rằng thường ăn trưa với con gái bà. Mặc dù con chó có vẻ nhận ra anh ta, nhưng bà thấy không chắc một khi con gái bà không bao giờ nói về anh ta cả, nhất là nếu đúng như anh ta nói thì họ đã gặp nhau từ hai năm trước đây. Chi tiết này hẳn là sẽ làm cho cuộc điều tra trở nên dễ dàng hơn. “Xem nào”, viên cảnh sát tức khắc lầm bầm. “Đại thể là - Ông kết luận - bà yêu cầu tôi đi tìm một kiến trúc sư bị một vết thương cách đây hai năm, được con gái bà chữa trị, và chúng ta cần phải nghi ngờ, vì trong cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên với bà, anh ta đã tỏ ra phản đối euthanasie?”
- Ông không thấy đó là một hướng đáng chú ý à? - Bà hỏi.
- Không, không thật đáng chú ý lắm - Và ông dập máy.
- Thế nào, có chuyện gì vậy? - Nathalia hỏi.
- Dù sao thì kiểu tóc lửng của cô trông cũng được lắm.
- Đồng ý, vậy là mừng hụt.
Ông lại lao vào đống hồ sơ của mình, nhưng không một hồ sơ nào có điều gì nghi vấn. Bực mình, ông vớ lấy ống điện thoại, kẹp giữa tai và cằm, rồi bấm số máy tổng đài của bệnh viện. Cô trực tổng đài trả lời sau hồi chuông thứ chín.
- Này, tốt nhất là không nên chết với cô!
- Không, để chết thì ông cứ gọi thẳng đến nhà xác - Cô trực tổng đài đối lại chan chát.
Ông tự giới thiệu, và hỏi cô gái xem liệu hệ thống máy tính ở chỗ cô có cho phép tìm kiếm về những ca được nhận vào khao cấp cứu theo nghề nghiệp và loại thương tích không. “Chuyện đó phụ thuộc vào khoảng thời gian mà ông tìm kiếm”, cô trả lời. Rồi cô nói thêm là dù sao thì luật bí mật y tế cũng ngăn cô tiết lộ thông tin, nhất là qua điện thoại. Ông dập phắt máy điện thoại, lấy áo khoác và đi ra cửa. Chạy nhanh xuống cầu thang, ông đi ra chỗ đậu xe, và hối hả bước về phía xe ôtô của mình. Ông phóng xe qua thành phố, miệng không ngớt chửi rủa, đèn xoay sáng lên trên mái và còi ôtô rú lên ầm ĩ. Chưa đầy mười phút sau ông đã đến bệnh viện Memorial và đứng trước quầy đón tiếp.
- Các vị yêu cầu tôi tìm một cô gái bị hôn mê mà người ta nẫng đi của các vị đêm chủ nhật này; hoặc là ở đây các vị giúp đỡ tôi, và đừng làm tôi bực mình với cái bí mật thầy lang nhảm nhí của các vị, hoặc là tôi đi làm việc khác.
- Tôi có thể làm gì được cho ông? - Bà Jarkowski vừa xuất hiện ở cửa bèn hỏi.
- Cho tôi biết là liệu máy vi tính của các ông bà có thể tìm một kiến trúc sư mà có vẻ là đã từng bị thương và từng được người hiện đang mất tích của các ông bà nhận chữa được không?
- Lúc nào?
- Cứ cho là trong vòng hai năm trở lại đây?
Bà nghiêng người xuống máy vi tính và gõ vào mấy phím trên bàn phím.
- Ta sẽ xem những ca nhập viện, và tìm một kiến trúc sư - Bà nói - việc này sẽ mất vài phút.
- Tôi đợi.
Màn hình trả lời sau sáu phút. Không có một kiến trúc sư nào được chữa về loại vết thương này trong vòng hai năm qua.
- Bà có chắc không?
Bà khẳng định dứt khoát, mục “nghề nghiệp” là bắt buộc phải khai, do việc bảo hiểm và để làm thống kê về những tai nạn nghề nghiệp. Pilguez cảm ơn bà và quay ngay về sở cảnh sát. Trên đường về, câu chuyện này bắt đầu làm ông day dứt không yên. Kiểu day dứt mà chỉ trong chốc lát đã huy động toàn bộ sự tập trung của ông và làm ông quên đi tất cả những hướng có thể khác, ngay khi ông cảm thấy có được một mắt xích thực sự trong chuỗi điều tra của mình. Ông lấy điện thoại di động và bấm số máy của Nathalia.
- Tìm cho tôi xem có kiến trúc sư nào sống ở trong khu vực mà chiếc xe cứu thương bị phát hiện không. Tôi đợi ở máy.
- Đó là Union, Filbert và Green phải không?
- Và Webster nữa, nhưng mở rộng tìm kiếm thêm ra cả hai phố bên cạnh.
- Tôi sẽ gọi lại cho anh, cô nói rồi dập máy.
Ba văn phòng kiến trúc sư và nhà ở của một kiến trúc sư phù hợp với yêu cầu, chỉ có nhà của kiến trúc sư là nằm trong phạm vi nghiên cứu đầu tiên. Một văn phòng thì nằm ở phố sát bên cạnh, hai văn phòng khác thì cách đó hai phố. Về đến phòng làm việc ông bèn liên hệ với ba văn phòng này để tính số người làm việc tại đó. Hai mươi bảy người cả thảy. Tóm lại, đến lúc mười tám giờ ba mươi phút ông đã có gần tám chục đối tượng tình nghi, một người trong số đó có thể đang đợi được ghép một bộ phận cơ thể hoặc có người thân đang trong tình trạng đó. Ông suy nghĩ giây lát rồi nói với Nathalia.
- Dịp này ta đang có thừa một thực tập sinh phải không?
- Ta chả bao giờ có thừa người cả! Nếu không tôi đã có thể về nhà sớm sủa được, và tôi sẽ không phải sống như một cô gái già.
- Cô cứ tự làm khổ mình, cô bạn thân mến ạ, cô cử cho tôi một người đi cắm chốt trước cửa cái nhà gã sống trong khu vực ấy, và bảo thử chụp cho tôi một bức ảnh của gã khi nào gã đi về nhà.
Sáng hôm sau Pilguez được biết rằng cậu thực tập sinh đã tốn công vô ích, người kiến trúc sư ấy đã không về nhà ban đêm.
- Ra vậy - Ông nói với chàng thực tập sinh trẻ - tối nay cậu phải cho tôi tất cả thông tin về gã này, gã bao nhiêu tuổi. xem gã có phải là pêđê không, có xì ke ma tuý hay không, gã làm việc ở đâu, gã có nuôi chó mèo hay nuôi vẹt, hiện giờ gã đang ở đâu, việc học hành của gã thế nào, gã có từng vào quân đội hay không, tất cả những thói tật của gã. Cậu gọi điện cho bên quân đội, cho FBI, gì cũng được, tôi mặc kệ, nhưng tôi muốn biết tất cả.
- Tôi chính là pêđê đấy, thưa ông thanh tra! - Cậu thực tập trả lời với đôi chút hãnh diện - Nhưng điều đó không ngăn cản công việc mà ông yêu cầu tôi.
Viên thanh tra, vẻ mặt cau có, cả phần còn lại của ngày dùng vào việc lập ra một bảng tổng hợp những hướng mà ông đã có, nhưng không có gì cho phép ông lạc quan được cả. Nếu như chiếc xe cứu thương đã được nhận diện nhờ một sự may mắn bất chợt, thì không có một hồ sơ nhân sự nào của xưởng sửa chữa chỉ ra được một đối tượng nghi vấn giả định, điều đó dẫn đến việc phải dự kiến một số lượng lớn các cuộc thẩm vấn ở địa bàn đã được phát hiện. Hơn sáu chục kiến trúc sư sẽ bị hỏi vì đã làm việc ở những vùng phụ cận hay sống chính trong khu vực nơi chiếc xe cứu thương lượn đi lượn lại buổi tối xảy ra vụ bắt cóc.
Một người trong số họ có thể bị nghi ngờ vì đã vuốt ve con chó của bà mẹ nạn nhân, và đã tỏ rõ sự phản đối của euthanasie, điều mà, Pilguez tự thú nhận với chính mình, không thể xác định được là động cơ của vụ bắt cóc. Đúng là “một cuộc điều tra chết tiệt”, nói chính xác theo cách của ông thì là như vậy.
Buổi sáng thứ tư ấy, mặt trời nhô lên ở phía làng Carmel đang bị phủ một làn sương mỏng. Lauren thức dậy sớm. Cô ra đi khỏi phòng để khỏi làm Arthur thức giấc, và bực bội vì không thể chuẩn bị được cho anh dù chỉ một bữa sáng đơn giản. Sau cùng, nếu phải lựa chọn, cô tự thú nhận rằng cô biết ơn vì trong cái tình trạng bất bình thường như thế này mà anh vẫn có thể chạm vào cô, cảm thấy cô, và yêu cô như một phụ nữ hoàn toàn cuộc sống của mình. Có cả một loạt hiện tượng mà cô sẽ không bao giờ hiểu và cũng chẳng tìm cách hiểu làm gì nữa. Cô nhớ lại điều mà một hôm cha cô nói với cô :
“Không có gì là không thể, duy chỉ có những giới hạn trí tuệ chúng ta là xác định một số thứ như là không thể tưởng tượng được mà thôi. Phải thường xuyên giải quyết nhiều phương trình để chấp nhận một lập luận mới. Đó là một vấn đề của thời gian và của những giới hạn trong bộ óc của chúng ta. Ghép tim, làm cho một chiếc máy bay nặng ba trăm năm mươi tấn bay được, đi trên mặt trăng, những cái đó đòi hỏi rất nhiều công lao, nhưng nhất là phải có trí tưởng tượng. Vì thế khi các nhà thông thái của chúng ta tuyên bố rằng không thể ghép não, bay với tốc độ ánh sáng, nhân bản một con người, bố nghĩ rằng rốt cục họ không biết gì hết về những hạn chế của chính họ, hạn chế trong việc dự kiến rằng tất cả đều có thể và đó chỉ là vấn đề thời gian, thời gian để hiểu làm sao mà có thể được”.
Tất cả những gì mà cô đang nếm trải và thử nghiệm đều phi logic, không thể giải thích được, trái với mọi nền tảng tri thức khoa học của cô, nhưng nó đã xảy ra. Và từ hai ngày nay, cô làm tình với một người đàn ông và có những cảm xúc và cảm giác mà cô chưa từng biết đến, ngay cả khi cô sống bình thường, khi linh hồn và thể xác chỉ là một. Cái quan trọng nhất đối với cô, khi cô ngắm nhìn quả cầu lửa đang nhô lên phía chân trời kia, đó là điều này kéo dài.
Anh dậy sau cô một lát, tìm cô trong gi.ường, khoác vào người chiếc áo choàng mặc nhà và đi ra thềm. Những sợi tóc của Arthur rối tung chả ra nề nếp gì cả, anh bèn lấy tay vuốt lên để thiết lập lại trật tự. Anh ra gặp cô bên bờ vách đá và ôm ghì lấy cô khi cô còn chưa kịp trông thấy anh.
- Thật là một cảnh gây ấn tượng, anh nói.
- Anh biết không, em nghĩ là nếu như không thể dự kiến được tương lai, ta có thể khép lại chiếc vali và sống với hiện tại. Anh có muốn uống một tách cà phê không?
- Anh nghĩ đó là điều nhất thiết phải làm. Sau đó thì dẫn em đi xem những con sư tử biển bơi ở phía mũi đá.
- Sư tử biển thật à?
- Cả chó biển nữa, và chim bồ nông, và... trước kia em chưa bao giờ đến đây à?
- Em đã thử một lần nhưng điều đó chẳng đem lại gì cho em cả.
- Cái ấy cũng tương đối thôi, còn phụ thuộc vào chuyện em nhìn sự việc dưới góc độ nào nữa. Với lại, anh tưởng rằng chúng ta phải khép lại những chiếc vali và sống với hiện tại chứ?
Cũng buổi sáng thứ tư ấy, anh thực tập sinh đặt, không một tiếng động, tập hồ sơ dày mà anh ta đã tập hợp lên trên bàn làm việc của Pilguez.
- Kết quả thế nào? - Pilguez hỏi trước khi đọc lướt qua.
- Ông sẽ thất vọng và đồng thời sẽ vui mừng.
Để biểu lộ sự sốt ruột của mình đã đến sát ranh giới của sự bực tức, Pilguez vỗ vỗ vào nút cavát của ông: “Một hai, một hai, tốt rồi anh bạn ạ, micro của tôi dùng được rồi, tôi nghe cậu!” Anh thực tập đọc những gì đã ghi chép của mình: gã kiến trúc sư của ông chẳng có gì đáng ngờ cả. Đó là một người mọi thứ đều bình thường, anh ta không xì ke ma tuý, anh ta có quan hệ tốt với hàng xóm láng giềng, tất nhiên là không có tiền án. Anh ta đã học ở California, đã sống một thời gian ở Châu âu trước khi trở về lập nghiệp ở thành phố quê hương mình. Anh ta không thuộc về một đảng phái chính trị nào, không phải là thành viên của một giáo phái nào, không tham gia ủng hộ một hoạt động nào. Anh ta trả thuế, trả tiền phạt đầy đủ, và thậm chưa hề bị phạt trong tình trạng say rượu hay lái xe quá tốc độ. “Tóm lại đó là một gã nhạt nhẽo”.
- Thế tại sao tôi sẽ vui mừng?
- Anh ta thậm chí không phải là pêđê nữa!
- Nhưng tôi có phản đối pêđê đâu chứ, thổ tả, thôi cái trò ấy đi! Còn có cái gì nữa trong báo cáo của cậu?
Địa chỉ cũ của anh ta, ảnh anh ta, hơi cũ một chút, tôi lấy được ở phòng đăng ký xe, ảnh này cách đây bốn năm, anh ta cần phải đổi bằng lái xe mới vào cuối năm nay; môt bài báo mà anh ta đăng trong Architectural Digest, bản sao bằng cấp của anh ta, và danh sách các tài sản nhà băng cùng các giấy chứng thực quyền sở hữu của anh ta.
- Làm thế nào cậu có được những cái đó?
- Tôi có thằng bạn làm việc ở Sở thuế. Gã kiến trúc sư của ông mồ côi cha mẹ, và anh ta được thừa kế một ngôi nhà ở vịnh Monterey.
- Cậu nghĩ là anh ta đang đi nghỉ ở đó à?
- Anh ta đang ở đó, và cái duy nhất sẽ làm ông bị kích động, đó chính là cái lều này.
- Tại sao?
- Tại vì ở đó anh ta không có điện thoại, điều mà tôi cảm thấy kì lạ đối với một ngôi nhà biệt lập, điện thoại bị cắt từ hơn mười năm nay và chưa bao giờ được nối lại cả. Ngược lại, anh ta đã yêu cầu cho lại điện hôm thứ sáu tuần trước, cả nước cũng thế. Anh ta trở lại ngôi nhà này lần đầu tiên kể từ rất lâu rồi vào cuối tuần vừa qua. Nhưng đó không phải là một tội ác.
- Này, cậu thấy đấy, chính cái thông tin cuối cùng này làm cho tôi vui mình!
- Thì chính thế!
- Cậu đã làm việc cừ đấy, nhất định cậu sẽ thành một cảnh sát tốt một khi đầu óc cậu gàn dở như vậy.
- Từ miệng ông phát ra, tôi chắc rằng tôi cần phải coi đó là một lời khen.
- Cậu có thể coi như thế được! - Nathalia nói.
- Cậu mang bức ảnh đến gặp bà Kline đi, và hỏi xem đó có phải là người không thích euthanasie ở khu Marian không, nếu bà ấy nhận diện đúng anh ta thì ta sẽ có một đầu mối quan trọng đấy.
Anh thực tập rời sở cảnh sát và Goerge pilguez vùi đầu vào tập hồ sơ của Arthur. Sáng ngày thứ năm có rất nhiều kết quả. Vào những giờ đầu tiên, anh thực tập báo cáo với ông rằng bà Kline đã nhận diện dứt khoát người trong ảnh. Nhưng cái tin mới thực sự thì xuất hiện với ông đúng trước khi ông đưa Nathalia đi ăn trưa. Chi tiết này ở dưới mắt ông từ lâu nhưng trước đây ông không nhìn thấy mối liên hệ. Địa chỉ của cô gái trẻ bị bắt cóc chính là địa chỉ của người kiến trúc sư trẻ. Điều đó làm nên quá nhiều dấu hiệu để anh ta không xa lạ với vụ này.
- Anh cần phải vui mừng chứ, cuộc điều tra của anh có vẻ tiến triển cơ mà. Tại sao anh lại cau có thế? - Nathalia vừa hỏi vừa nhấm nháp Coca.
- Tại vì tôi không thấy lợi ích của anh ta ở đâu. Anh chàng này không có vẻ là một kẻ loạn óc. Người ta không đi xoáy một cơ thể hôn mê trong bệnh viện một cách vô cớ để chọc cười bạn bè. Cần phải có một lý do thực sự. Thêm nữa theo lời của những người ở bệnh viện thì cần phải có một kinh nghiệm nhất định để đặt cái cầu trung tâm này.
- Đó là đường truyền trung tâm, không phải là cầu. Anh ta có phải là bồ của cô gái không?
Bà Kline đã đảm bảo điều trái lại, và bà ấy hết sức khẳng định về điểm này. Bà gần như chắc chắn rằng họ không quen nhau.
- Có mối quan hệ gì với căn hộ không?
- Cũng không có nốt, viên thanh tra nói tiếp, anh ta là người thuê nhà và theo như hãng bất động sản thì hoàn toàn tình cờ anh ta dọn vào chỗ ấy. Anh ta đang định ký một hợp đồng thuê cái nhà khác ở Filbert cơ, và chính một nhân viên sốt sắng của hãng đã nhất quyết muốn chỉ cho anh ta xem cái nhà này “mà vừa vào lô của họ” ..đúng trước lúc anh ta ký. Cô biết đấy, loại người khác đời, hơi tỏ vẻ, muốn lấy lòng tin của khách hàng bằng cách thực sự tận tâm.
- Như vậy là không hề có chủ ý trước đối với chuyện địa chỉ.
- Không, đó thực sự là trùng hợp thôi.
- Thế thì liệu có phải là anh ta được không?
“Không, không thể nói là phải được”, ông trả lời ngắn gọn, không một yếu tố nào riêng biệt chứng tỏ rằng anh ta có dính líu. Nhưng sự chồng chéo của các mảnh làm thành bức tranh ghép thì thật đáng bàng hoàng. Điều đó có nghĩa là không tìm được động cơ thì Pilguez không thể làm gì được cả. “Không thể buộc tội một người vì vài tháng nay anh ta thuê căn hộ của một phụ nữ bị bắt cóc đầu tuần này”. Rút cục tôi sẽ khó lòng tìm được một vị kiểm sát trưởng chịu nghe lời tôi. Cô gợi ý ông thẩm vấn anh ta và làm anh ta không chịu được nữa phải phun ra “dưới ánh đèn”. Viên cảnh sát già cười khẩy.
- Tôi hình dung ra phần đầu cuộc thẩm vấn của tôi: Thưa ông, ông thuê căn hộ của một phụ nữ trẻ đang bị hôn mê, người này đã bị bắt cóc đêm ngày chủ nhật rạng sáng ngày thứ hai. Ông đã cho nối lại điện và nước ngôi nhà ở làng của ông ngày thứ sáu trước khi xảy ra vụ tội phạm. Tại sao thế? Thế là anh ta giương mắt lên mà nhìn tôi rồi bảo rằng anh ta không hoàn toàn tin là đã hiểu ý nghĩa câu hỏi của tôi. Tôi chỉ còn nước là nói toẹt ra với anh ta rằng anh ta là đầu mối duy nhất của tôi và sẽ rất tiện cho tôi nếu anh ta đã làm cái vụ ấy.
- Dành hai ngày để theo dõi anh ta xem!
- Không có ý kiến của kiểm sát trưởng, tất cả những gì tôi mang về đều vô hiệu và coi như không có.
- Không phải vậy nếu anh mang được cơ thề về và cô ta hãy còn sống!
- Cô tin đó là anh ta à?
- Tôi tin vào sự nhạy bén của anh, tôi tin vào các dấu hiệu, và tôi tin rằng khi anh có vẻ mặt như vậy tức là anh biết rằng anh đã có thủ phạm nhưng anh còn chưa biết làm sao tóm được hắn. George, điều quan trọng nhất là tìm được cô gái, dù đang bị hôn mê thì đó cũng là một con tin, anh thanh toán tiền rồi đến làng ấy đi.
Pilguez đứng dậy, hôn lên trán Nathalia, đặt tiền lên bàn và đi ra phố một cách vội vã.
Trong ba tiếng rưỡi đồng hồ đưa ông đến Carmel, ông không ngừng tìm kiếm một động cơ tội phạm, rồi ông nghĩ về cách tiếp cận con mồi của mình mà không làm cho hắn sợ hãi, không khêu gợi sự chú ý của hắn.
 
Chương 13Ngôi nhà hồi sinh dần dần. Giống như những bức tranh mà khi tô màu lũ trẻ cố gắng để khỏi tô vượt ra ngoài đường viền, Arthur và Lauren bước vào từng căn phòng một, mở những cánh cửa sổ, gỡ bỏ vải bọc khỏi đồ đạc, lau bụi, đánh bóng, và mở hết cái tủ này đến cái tủ khác. Và dần dần những kỷ niệm của ngôi nhà biến đổi thành những khoảnh khắc hiện tại. Cuộc sống lấy lại những quyền lực của nó. Ngày thứ năm ấy bầu trời u ám và đại dương dường như muốn đập vỡ những mỏm đá chắng đườmg nó ở phía dưới khu vườn. Vào cuối ngày, Lauren đến ngồi dứơi mái hiên và chiêm ngưỡng cảnh tượng. Nước biến thành màu xám, cuốn đo nhữ đám rong rêu quện lẫn những búi gai. Bầu trời chuyể thành màu tím rồi đen hẳn. Lauren vui sướng, cô thích lúc thiên nhiên quyết định nổi cơn thịnh nộ. Arthur vừa dọn dẹp xong phòng khách nhỏ, thư viện và phòng làm việc của mẹ anh. Ngày mai, họ sẽ tấn công đến tầng trên và ba phòng ngủ ở đó.
Anh ngồi lên trên những chiếc đệm đặt trên bệ cửa kính và nhìn Lauren.
- Em biết không, từ lúc ăn trưa đến giờ em đã thay đổi trang phục đến chín lần rồi đấy.
- Em biết, đó là quyển tạp chí mà anh mua, em không quyết định nổi nữa, em thấy cái nào cũng hết ý.
- Cái cách mua hàng của em có thể lam tất cả phụ nữ trên trái đất đều mơ ước.
- Khoan đã anh còn chưa xem tờ phụ ở giữa!
- Tờ phụ ở giữa nói gì?
- Chẳng nói gì hết, Đó là trang đặc biệt về đồ lót phụ nữ.
Arthur được dự một cuộc trình diễn mốt khiêu gợi nhất một người đàn ông có thể được hưởng. Lát sau, trong sự âu yếm của tình yêu viên mãn, cơ thể và tâm hồn dịu lại, họ nằm trong bóng tối nhìn ra biển. Cuối cùng họ ngủ thiếp đi trong tiếng ru của những đợt sóng vỗ bờ.
Pilguez đến nơi khi đêm xuống. Ông vào khách sạn Carmel Valley Inn. Cô nhân viên đón tiếp trao cho ông chìa khóa một căn phòng rộng đối diện biển. Căn phòng nằm trong một ngôi nhà gỗ, trên phần cao của một công viên nhô lên trên vịnh và ông lại phải lấy xe ôtô để đi ra đó. Ông vừa mới đang dỡ đồ đạc trong túi ra thì những tia chớp đầu tiên xé toạt bầu trời; Ông nhận ra rằng mình sống cánh đây có ba tiếng rưỡi đi đường mà chưa bao giờ bỏ thời gian ra để ngắm cảnh ấy. Đúng lúc này ông bỗng muốn gọi điện cho Nathalia, để chia sẽ khoảnh khắc đó, để không nếm trải một mình. Ông nhấc máy điện thoại, ông hít một hơi rồi nhẹ nhàng đặt ống nghe xuống mà chưa hề bấm số.
Ông gọi một khay đồ ăn, ngồi xem một bộ phim và bị một cơn buồn ngủ cuốn đi, khá lâu trước hai mươi giờ.
Vào những giờ đầu tiên của buổi sáng, mặt trời vừa thức dậy đã đũ rực rỡ để làm cho tất cả những đám mây phải hoảng sợ mà lặng lẽ rút lui. Một bình minh ẩm ướt bừng lên quanh ngôi nhà. Arthur tỉnh dậy dưới máy hiên. Lauren đang ngủ say sưa. Ngủ là điều mới với cô. Hàng tháng trời cô không ngủ, điều đó làm cho những ngày của cô dài khủng khiếp. Phía bên trên khu vườn, nấp sau bờ đất viền quanh cổng, George đang theo dõi, trang bị bằng cặp ống nhòm ống kính dài mà ông được tặng nhân dịp hai mươi năm làm việc. Vào khoảng quãng mười một giờ, ông nhìn thấy Athur đi lên công viên về phía ông. Đối tượng tình nghi của ông rẽ về phía bên phải của vườn hoa hồng rồi mở cửa gara.
Khi anh bước vào đó, Athur thấy trước mặt mình là một cái bao che bụi. Anh nhấc cái bao lên, để lộ ra hình thù một chiếc xe Ford 1961 cũ kỹ. Dưới lớp vải bạt, trông nó có vẻ giống một chiếc xe sưu tập. Athur mỉm cười nghĩ đến tính gàn dở của Antoine. Anh đi vòng quanh chiếc xe và mở cửa sau phía bên trái. Mùi da cũ xộc vào mũi anh. Anh ngồi vào ghế, khép cửa xe, rồi nhắm mắt lại, anh nhớ đến một tối mùa đông, trước cửa hàng Macy’s ở Union Square. Anh thấy một người đàn ông mặc áo mưa, người mà anh suýt nữa thì bắn trúng bằng một phát súng vượt thiên hà và đã được cứu thoát vào phút chót nhờ sự ngây thơ dễ thương của mẹ anh: bà đã chen vào giữa hướng bắn của anh. Cái vũ khí phá hủy nguyên tử hình bật lửa hẳn vẫn còn nạp đủ điện. Anh nghĩ đến ông già Noel nam7 1965 bị kẹt cùng với cái tàu hỏa chạy pin của anh trong ống dẫn lò sưởi.
Anh dường như nghe thấy tiếng động cơ kêu rù rù, anh mở cửa xe thò đầu ra ngoài và cảm thấy tóc mình bị thổi bạt về phía sau bởi những ngọn gió đang lùa trong những kỷ niệm của anh, anh thò bàn tay ra ngoài, cánh tay hơi duỗi ra, và anh nghịch với bàn tay, bởi vì nó đã biến thành một chiếc máy bay,anh nghiêng bàn tay để thay đổi sức cản của không khí, cảm thấy bàn tay khi thì bay lên phía mái gara, khi thì đâm bổ xuống.
Khi mở mắt ra, anh nhìn thấy một mẩu giầ đính vào tay lái.
Athur, nếu cháu muốn nó nổ máy, cháu sẽ tìm thấy một máy nạp ắc quy trên chiếc giá bên phả. Đạp hai cái vào bàn đạp tăng tốc trước khi bật máy để cho xăng cháy vào. Đừng ngạc nhiên nếu thấy nó chạy ngay lập tức, đây là một chiếc xe Ford 1961, điều đó là bình thường. Để bơm bánh xe, có cái máy nén đặt trong hộp, dưới máy nạp ắc quy. Bác hôn cháu. Antoine.
Anh ra khỏi ôtô, đóng cửa xe lại và đi về phía cái giá; ở đó, trong một góc gara, anh nhìn thấy chiếc thuyền. Anh đế gần, lấy tay vuốt lên thuyền. Dưới chiếc băng bằng gỗ anh tìm thấy một chiếc cần câu, cái của anh, sợi dây xanh cuốn quanh một mảnh lie và kết thúc bằng một cái lưỡi câu han gỉ. Nỗi xúc động choán lấy người anh khiến anh phải ngồi thụp xuống. Anh đứng lên lại, lấy máy nạp ăc quy, mở nắp chiếc xe Ford cũ kỹ, nối dây điện và cho nạp ăc quy. Khi rời gara, anh mở to cánh cửa cửa trượt.
George mở sổ ra và ghi chép. Ông không rời mắt khỏi đối tượng tình nghi của mình. Ông thấy anh ta dọn bànăn dưới giàn cây, ngồi vào bàn, ăn trưa, rồ dọn bát đĩa đi. Ông đi nghỉ một chút để ăn xăng duých khi Athur thiu thiu ngủ trên mấy cái gối dựa dưới mái hiên. Ông đi theo anh khi anh lại gara, ông nghe thấy tiếng động của máy nén và rõ hơn là tiếng động của chiếc xe loại V6 bắt đầ nổ máy sau hai tiếng ho húng hắng. Ông đưa mắt cháo chiếc xe khi nó đi đến gần cổng, ông quyết định ngừng theo dõi và đi vào làng nhặt nhạnh vài thông tin về con người kì quặc này. Quãng hai mươi giờ ông về phòng mình và gọi điện cho Nathalia.
- Thế nào, - Cô nói - việc của anh đến đâu rồi?
- Chả đến đâu cả. Không có gì bất bình thường. Tức là gầ như vậy. Anh ta có một mình, anh ta làm một lô việc suốt cả ngày, anh ta đánh bóng đồ đạc, anh ta sửa chữa lặt vặt, anh ta nghỉ ăn trưa và ăn tối. Tôi đã hỏi những người bán hàng. Ngôi nhà là của mẹ anh ta, bà ấy chết đã nhiều năm rồi. Người làm vườn sống ở đó cho đến tận lúc ông ta chết. Cô thấy đấy, điều đó không làm tôi tiến triển được cho lắm. Anh ta có quyền mở lại ngôi nhà của mẹ mình khi nào anh ta thích chứ.
- Thế thì tại sao lại gần như?
- Tại vì anh ta có những cung cách kỳ quặc, anh ta nói một mình, anh ta cư xử ở bàn ăn như là có hai người, thỉng thoảng anh ta ngắm biển với cái tay giơ ngang trong không khí đến mười phút. Tối qua anh ta ôm ghi người mình dưới mái hiên.
- Sao cơ?
- Cứ như thể anh ta đang ôm hôn say đắm một cô ả, có điều là anh ta chỉ có một mình!
- Có thể anh ta sống lại những kỷ niệm của mình theo cách của anh ta?
- Có nhiều cái có thể của anh chàng của tôi!
- Anh vẫn tin vào hướng này à?
- Tôi không biết, cô bé ạ, nhưng dù sao cũng có cái gì đó kỳ lạ trong cung cách của anh ta.
- Cái gì?
- Anh ta bình thản đến khó tin đối với một kẻ phạm tội.
- Như vậy, anh vẫn tin ở hướng này.
- Tôi tự cho mình hai ngày nữa rồi tôi về. Ngày mai tôi sẽ đọt nhập vào thực địa.
- Cẩn thận nhé!
Ông dập máy, vẻ nghĩ ngợi.
Athur vuốt những phím đàn của chiếc piano dài bằng đầu ngón tay. Mặc dù cây đàn không còn giữ được âm điệu chuẩn của nó ngày xưa nữa, nhưng nó vẫn vang lên được bản ánh trăng của Werther, tránh đi những nố đã trở nên quá lạc điệu. Đó là khúc nhạc yêu thích cùa Lili. Vừa chơi đàn anh vừa nói với Lauren, cô đang ngồi trên bệ cửa sổ với kiểu ngồi yêu thích của mình: một chân duỗi dài trên bệ, chân kia gập lại, dựa lưng vào tường.
- Ngày mai anh sẽ vào thành phố mua đồ, trước khi đi anh sẽ đóng cửa nhà lại. Chúng mình gần như cha con gì nữa.
- Tại sao anh lại cho em cái tốt nhất trong khi anh nhận được ít như vậy từ em?
- Bởi vì thật nhanh chóng và đột ngột em có mặt ở đây, em tồn tại, bởi vì khoảng khắc của em đã là rất mênh mông. Hôm qua là quá khứ, ngày mai còn chưa tồn tại, ngày hôm nay mớii là đáng kể, đó là hiện tại.
Anh nói thêm rằng anh không còn cách nào khác ngoài việc làm tất cả để cô không bỏ mặc cô chết...
Nhưng chính là như vậy, Lauren sợ cái “còn chưa tồn tại”. Để cô yên tâm, Athur nói với cô rằng hôm sau sẽ ở trong hình ảnh của cái mà cô mong muốn. Cô sẽ sống tuỳ theo những cái mà cô cho từ cô và tất cả những cái mà cô đồng ý đón nhận. “Ngày mai là một điều bí ẩn đối với tất cả mọi người, và điều bí ẩn này cần phải gợi lên tiếng cười và sự ao ước, chứ không phải nỗi sợ và sự chối từ”. Anh hôn lên mi mắt cô, cầm tay cô trong tay mình,áp người vào lưng cô. Đêm đen bao trùm lên họ.
Đang thu dọn thùng xe của chiếc Ford cũ kỹ thì anh nhìn thấy một vệt bụi bốc lên ở phần trên cao của công viên. Pilguez theo con đường xộc thẳng xuống không ngần ngại, ông dừng xe trước cổng. athur đón ông với hai tay đều đang bận.
- Chào ông, tôi có thể làm gì cho ông? - Athur hỏi.
- Tôi từ Monterey tới, hãng bất động sản bảo tôi là ngôi nhà này không có người ở, tôi đang tìm mua nhà ở khu này, vì thế tôi đến xem, nhưng hẳn là ngôi nhà đã được bán rồi, tôi đến chậm quá.
 
Athur đáp rằng ngôi nhà này không phải đã được mua mà cũng chẳng để bán, đó là nhà của mẹ anh, anh vừa mới mở lại cửa ngôi nhà. Ngốt cả người vì nóng, anh bèn mời viên cảnh sát già một cốc nước chanh nhưng ông khước từ, ông không muốn làm
anh mất thời gian. Athur cố nài mời ông ngồ dưới mái hiên, anh sẽ quay lại sau năm phút. Athur đóng cửa xe, đi vào nhà và quay ra với một chiếc khay, hai cái cốc và một chai nước chanh to.
- Đây là ngôi nhà đẹp, - Pilguez bắt chuyện - chắc không có nhiều nhà như thế này trong vùng?
- Tôi không biết, tôi đã không về đây nhiều năm rồi.
- Điều gì đã khiến anh bỗng nhiên trở lại đây?
- Đã đến lúc, tôi cho là thế, tôi đã lớn lên ở đây, và từ khi mẹ tôi mất, tôi không bao giờ có đủ sức để trở về, thế rồi bỗng nhiên chuyện đó trở thành cần thiết.
- Tự nhiên, không có lý do đặc biệt nào à?
Athur cảm thấy khó chịu, người đàn ông không quen biết này hỏi anh những câu quá riêng tư, cứ như là ông ta biết điều gì đó mà không muốn để lộ ra. Anh cảm thấy mình đang bị điều khiển. Anh không thấy mối liên hệ vớii Lauren, và nghĩ rằng đúng hơn là mình gặp phải một trong những người buôn bán nhà đang cố tạo quan hệ với nạn nhân tương lai của họ.
- Dù sao - Anh nói tiếp - tôi cũng chẳng bao giờ chia tay với ngôi nhà này đâu.
- Anh rất có lý, ngôi nhà của gia đình không phải để đem bán, thậm chí tôi còn cho rằng việc đó là phạm thượng.
Athur hơi nghi ngờ, và Pilguez cảm thấy đã đến lúc cần lùi lại. Ông sẽ để anh đi mua đồ, với lại chính ông cũng phải vào làng “để tìm một ngôi nhà khác”. Ông nồng nhiệt cảm ơn anh vì đã đón tiếp và mời ông uống nước. Cả hai người cùng đứng dậy. Pilguez lên xe của ông, nổ máy, giơ tay chào và mất hút.
- Ông ta muốn gì? - Lauren hỏi, cô vừa mới xuất hiện ở cổng.
- Mua ngôi nhà này, theo lời ông ta.
- Em không thích chuyện này.
- Anh cũng vậy, nhưng anh không biết tại sao.
- Anh cho rằng đó là một cảnh sát à?
- Không, anh cho rằng chúng ta bị bệnh hoang tưởng, anh không thấy làm sao mà họ tìm được dấu vếtcủa chúng ta. Anh nghĩ đó chỉ là một người buôn nhà hay một nhân viên hãng bất động sản đang thăm dò tình hình. Đừng lo, em ở nhà hay là đi?
- Em đi! - Cô nói.
Hai mươi phút sau khi họ đi, Pilguez đi bộ quay trở lại khu vườn.
Trở lại trước ngôi nhà, ông kiểm tra thấy cửa ra vào đã khoá, ông bèn đi một vòng quanh tầng dưới. Không có cửa sổ nào mở cửa kính cả, nhưng chỉ có một cái là đóng cả cửa chớp. Một căn phòng duy nhất đóng kín, điều đó đủ để viên cảnh sát già rút ra những kết luận. Ông không kề cà lâu thêm ở đây nữa, mà nhanh chóng trở lại xe ôtô của mình. Ông lấy điện thoại di động và bấm số của Nathalia. Cuộc nói chuyện rất rôm rả, Pilguez giải thích cho cô rằng ông vẫn không có cả bằng chứng lẫn dấu hiệu gì, nhưng một cách bản năng ông biết Arthur là thủ phạm. Nathalia không nghi ngờ sự sáng suốt của ông, chỉ có điều là ông sẽ không lấy được lệnh cho phép ông quấy rấy một người mà không có một động cơ đáng tin. Ông tin chắc rằng lời giải câu đố của ông nằm trong nguyên cớ. Và với nguyên cớ này phải là quan trọng để một người bề ngoài thì cân bằng, không cần tiền một cách đặc biệt, dám mạo hiểm đến như vậy. Nhưng Pilguez không tìm thấy con đường đi đến giải pháp. Tất cả các nguyên cớ cổ điển đều đã được dự kiến, không một cái nào đứng vững được. Ông liền nảy ra ý định thử chơi trò bịp: tung ra thông tin giả để moi thông tin thật, tấn công đối tượng tình nghi của mình thật nhanh và cố chộp lấy một phản ứng, một thái độ khẳng định hay bác bỏ những nghi ngờ của mình. Ông nổ máy xe, lái xe vào khu vực nhà Arthur và đậu xe trước cổng.
Athur và Lauren trở về một tiếng đồng hồ sau đó. Khi anh ra khỏi chiếc xe Ford, anh nhìn thẳng vào mắt Pilguez, ông đi lại phía anh.
- Có hai điều - Arthur nói - thứ nhất, ngôi nhà này không và sẽ không đem bán, thứ hai, đây là sở hữu tư nhân!
- Tôi biết, và tôi chả quan tâm gì đến chuyện nhà có bán hay không, tôi đến đây để tự giới thiệu.
Vừa nói, ông vừa giơ thẻ của mình ra. Ông tiến sát lại Arthur, gí sát mặt mình vào mặt anh và nói tiếp :
- Tôi tưởng rằng đó chính là điều mà ông đang làm!
- Lâu đấy.
- Tôi có thời gian!
- Ta có thể vào nhà được không?
- Không, nếu không có lệnh!
- Anh chơi kiểu này là sai lầm rồi!
- Ông đã sai lầm khi nói dối tôi, tôi đã đón tiếp ông và mời ông uống.
- Ít nhất ta có thể ngồi dưới cổng được không?
- Được, ông đi lên trước đi!
Cả hai ngồi xuống chiếc xích đu. Đứng trước bậc thềm, Lauren khiếp sợ. Anh đưa mắt ra hiệu với cô để trấn an cô, để cô hiểu rằng anh làm chủ tình thế và không nên lo lắng.
- Tôi có thể làm gì cho ông?
- Giải thích cho tôi nguyên cớ của anh, chính ở chỗ này mà tôi bị tắc.
- Nguyên cớ gì của tôi?
- Tôi sẽ thẳng thắn với anh, tôi biết rằng đó chính là anh.
- Tuy có thể làm ông thấy hơi đơn giản, nhưng đúng thế, đó là tôi, tôi là tôi từ khi
ra đời, tôi chưa bao giờ mắc chứng tâm thần phân lập cả. Ông nói về chuyện gì vậy?
Ông muốn nói với anh về cơ thể của Lauren Kline mà anh bị kết tội là đã đánh cắp ở bệnh viện Memorial đêm chủ nhật sang ngày thứ hai, với sự giúp đỡ của một tòng phạm và một xe cứu thương cũ. Ông cho anh biết là chiếc xe đã được tìm thấy ở một xưởng thùng xe. Tiếp tục chiến thuật của mình, ông khẳng định rằng ông tin chắc cơ thể đó đang ở đây, trong ngôi nhà này, chính xác hơn là cái phòng duy nhất đóng cửa chớp. “Điều mà tôi không hiểu, đó là vì sao, và chuyện này làm tôi phải suy nghĩ.” Ông sắp về hưu rồi và ông cho rằng không đáng phải kết thúc hoạt động nghề nghiệp của mình ở một điều bí ẩn. Ông muốn khám phá đầu đuôi sự việc của vụ án này. Điều duy nhất khiến ông quan tâm, đó là hiểu cái gì đã thúc đẩy Arthur. “Tôi cần quái gì cái việc đưa anh ra tòa. Suốt đời tôi đã làm chuyện tống cổ thiên hạ vào nhà đá, để mấy năm sau họ lại chui ra và tái phạm. Với một tội danh như thế này anh sẽ lĩnh nhiều nhất là năm năm thôi, tôi cóc cần cái ấy, nhưng mà tôi muốn tìm hiểu”. Arthur làm ra vẻ không nắm được một câu nào trong những điều mà viên cảnh sát vừa nói.
- Câu chuyện cơ thể với xe cứu thương là gì vậy?
- Tôi sẽ cố làm anh mất càng ít thời gian càng tốt, nếu không có lệnh khám nhà thì anh có chấp thuận cho tôi xem căn phòng đóng cửa chớp không?
- Không!
- Tại sao vậy, nếu như anh không có gì phải che giấu cả?
- Tại vì căn phòng này, như cách nói của ông, vốn là phòng ngủ và phòng làm việc của mẹ tôi, và từ khi mẹ tôi mất nó được khóa lại. Đó là nơi duy nhất mà tôi không có đủ sức mở ra lại, chính vì thế mà các cửa chớp ở đó đóng kín. Đã hơn hai mươi năm nay nơi này đóng cửa, và tôi sẽ chỉ bước qua ngưỡng cửa này một mình và khi tôi cảm thấy đã sẵn sàng, dù để tránh cho ông tưởng tượng ra một giải pháp đối với câu chuyện kỳ cục của ông. Tôi hy vọng là tôi đã nói rõ ràng rồi.
- Nghe được đấy, tôi chỉ còn cách tạm biệt anh.
- Chính thế, ông đi đi, tôi phải dỡ đồ trong thùng xe ra.
Pilguez đứng dậy và đi về phía ôtô của mình. Khi mở cửa xe ông quay lại nhìn chòng chọc vào mắt Arthur, ông lưỡng lự giây lát rồi quyết định bịp đến cùng.
- Nếu anh muốn thăm nơi này một cách hoàn toàn riêng tư, điều mà tôi hiểu, thì hãy làm việc đó tối nay. Bởi vì tôi cứng cổ lắm, ngày mai tôi sẽ trở lại vào cuối ngày với lệnh khám nhà, và anh sẽ không thể một mình được nữa. Tất nhiên anh có thể quyết định di chuyển cơ thể vào ban đêm, nhưng choi trò mèo đuổi chuột thì tôi sẽ mạnh hơn anh, tôi có ba mươi năm trong nghề rồi, và cuộc sống của anh sẽ trở thành một cơn ác mộng. Tôi đặt danh thiếp của tôi trên thành lan can, có số máy điện thoại di động của tôi, cốt để phòng trường hợp anh có điều gì muốn nói với tôi.
- Ông sẽ không có lệnh khám nhà!
- Người nào nghề ấy, chúc một buổi tối tốt lành.
Và ông phóng vọt đi. Arthur đứng lại như vậy vài phút, tay chống ngang hông, tim đập loạn xạ. Lauren không chậm trễ đến ngắt luồng suy nghĩ của anh.
 
Chương 14Phải thú nhận với ông ta sự thật và thương lượng với ông ta!
- Phải nhanh chóng giấu cơ thể em ở nơi khác!
- Không, em không muốn, thế là đủ rồi! Ông ta hẳn là đang nấp đâu đó, ông ta sẽ bắt quả tang anh trong lúc phạm tội. Thôi đi, Arthur, đó là cuộc đời anh; anh đã nghe ông ta nói rồi đấy, anh có thể bị năm năm tù!
Anh cảm thấy là viên cảnh sát bịp, ông ta chả có gì hết, ông ta sẽ không bao giờ có lệnh khám nhà. Arthur giải thích kế hoạch cứu nguy của anh: khi đêm xuống, họ sẽ đi qua mặt trước của ngôi nhà, và đặt cơ thể vào trong chiếc thuyền. Chúng ta sẽ bơi thuyền dọc theo bờ biển và giấu em trong một cái hang, hai hoặc ba ngày. Nếu viên cảnh sát khám nhà, ông ta sẽ chả được cóc khô gì, sẽ xin lỗi và đành phải bỏ cuộc.
- Ông ta sẽ theo dõi anh, bởi vì đó là một cảnh sát, và ông ta lại cứng đầu - Cô đáp lại - Anh còn có một cơ hội thoát khỏi câu chuyện này nếu anh làm ông ta tuết kiệm được thời gian điề tra, nếu anh thương lượng đổi lời giải câu đó cho ông ta để lấy một sự giàn xếp. Làm điều đó ngay bây giờ đi, để đến sau sẽ quá muộn.
- Chính cuộc sống của em đang gặp nguy hiểm, vậy ta sẽ chuyển cơ thể em đêm nay.
- Athur, anh nên biết điều điều, đó là một cuộc trốn chạy về phía trước, và điều đó quá nguy hiểm.
Athur quay lưng về phía cô và lập lại: “Tối nay chúng ta ra biển.” Rồi anh tháo dỡ đồ trong thùng xe ra. Phần còn lại của ngày trôi qua nặng nề. Họ nói chuyện ít, họa hoằn mới trao đổi vài cái nhìn. Đến cuối buổi chiều, cô lại trước mặt anh và vòng tay ôm anh. Anh hôn cô thật dịu dàng: “Anh không thể để cho họ mang em đi được, em có hiểu không?” Cô hiểu nhưng không thể để mặc anh làm nguy hại đến đời anh.
Anh đợi đêm xuống để đi qua lối cửa nhỏ về phía dưới của khu vườn. Anh đi đến tận những mỏm đá, và nhận thấy rằng biển đã chống lại dự kiến của anh. Những đợt sóng to vỗ ồ ạt vào bờ, làm cho kế hoạch của anh không thể nào thực hiện được. Con thuyền sẽ bi vỡ ngay ở đợt sóng đầu tiên. Biển trở nên hung dữ, gió nổi lên, khuếch đại vũ điệu của những con sóng. Anh ngồi sụp xuống và lấy hai tay ôm đầu.
Cô lại gần anh không một tiếng động, cô đặt tay lên vai anh và cũng ngồi xuống.
- Chúng ta quay về thôi - Cô nói với anh - anh sẽ bị lạnh mất.
- Anh...
- Đừng nói gì cả, anh hãy coi cái này như một điềm báo, chúng ta sẽ qua đêm nay mà không tự dằn vặt mình, ngày mai anh sẽ tìm một cách nào đó, và rồi có thể đến bình minh thời tiết sẽ dịu lại.
Nhung Athur biết rằng gió biển báo hiệu sự bắt đầu của một cơn bão kéo dài ít nhất ba ngày. Biển nổi giận không bao giờ dịu đi trong đêm. Họ ăn tối trong bếp và nhóm lửa trong lò sưởi ở phòng khách. Họ nói chuyện ít. Athur suy nghĩ, không một ý tưởng nào xuất hiện trong đầu anh. Bên ngoài gió đã mạnh gấp đôi, uốn cong những thân cây đén gãy hẳn, mưa kêu choang choang ở những ô cửa sổ và đại dương lao vào cuộc tấn công không thương xót chống lại bức thành đá.
- Trước đây anh rất thích khi thiên nhiên trở nên dữ dội như thế này, tối nay thì có thể nói là một đoạn phim quảng cáo cho Twister
- Tối nay có thể nói là anh rất buồn rầu, Athur của em, nhưng anh không nên như vậy. Có phải chúng ta đang chia tay nhau đâu. Anh luôn nói với em rằng đừng nghĩ đến ngày mai, phải tận hưởng cái khoảnh khắc vẫn đang thuộc về ta này.
- Nhưng giờ thì anh không thể làm được như thế, anh không còn biết sống một khoảnh khắc mà không nghĩ đến khoảnh khắc sau nữa rồi. Em làm cách nào vậy?
- Em nghĩ đến những giây phút hiện tại này, nó là vĩnh cửu.
Đến lượt mình, cô quyết định kể cho anh nghe một câu chuyện, một trò chơi để anh khuây khoả, cô nói. Cô yêu cầu anh tưởng tưởng rằng anh vừa thắng một cuộc thi mà giải thưởng là như sau: mỗi buổi sáng một nhà băng sẽ mở cho anh một tài khoản và chuyển vào đó 86400 đô la. Nhưng tất cả các trò chơi đều có luật của nó, trò chơi này có hai luật như sau :
- Luật thứ nhất là tất cả số tiền mà anh không chi tiêu trong ngày thì đến tối sẽ bị lấy đi, anh không thể gian lận, không thể gửi số tiền ấy sang một tài khoản khác, anh chỉ có cách là chi tiêu thôi, nhưng sáng hôm sau khi thức dậy nhà băng lại mở cho anh một tài khoản mới, với 86400 đô la mới, để dùng trong ngày. Luật thứ hai: nhà băng có thể chấm dứt trò chơi này mà không cần báo trước; vào bất cứ lúc nào họ cũng có thể nói với anh rằng thế là chấm dứt, rằng họ đóng tài khoản lại và sẽ không có tài khoản khác nữa đâu. Vậy thì anh sẽ làm gì?
Anh không hiểu rõ lắm.
- Nhưng đơn giản đấy chứ, đó là một trò chơi, mỗi sáng khi thức dậy người ta cho anh 86400 đô la, với điều bắt buộc duy nhất là phải chi tiêu trong ngày, số tiền không dùng đến sẽ bị lấy đi khi anh đi ngủ, nhưng món quà trời cho hay là trò chơi này có thể ngừng lại bất cứ lúc nào, anh hiểu chứ. Vậy thì câu hỏi là: anh sẽ làm gì nếu một món quà như vậy đến với anh?
Anh trả lời một cách tự nhiên rằng anh sẽ tiêu từng đô la một để làm những cái gì mà mình thích, và sẽ tặng nhiều quà cho những người mà mình yêu mến. Anh sẽ tìm cách sử dụng từng đồng xu một mà cái “nhà băng kỳ diệu” này tặng để đem lại hạnh phúc cho đời anh và những người xung quanh anh, “ngay cả những người mà anh không quen biết nữa, vì anh không tin rằng anh có thể chi tiêu cho mình và cho những người thân của mình hết được 86400 đô la một ngày, nhưng em muốn dẫn đến cái gì thế?” Cô trả lời: “Nhà băng kỳ diệu này tất cả chúng ta đều có, đó là thời gian! Chiếc sừng màu nhiệm chứa đầy những giây đồng hồ điểm từng tiếng một!”
Mỗi buổi sáng khi tỉnh dậy, chúng ta được cho 86400 giây để sống trong ngày, và tối đến khi ta đi ngủ không được chuyển gì cho ngày hôm khác, tất cả những gì không được sống đã mất, ngày hôm qua vừa mới trôi đi. Mỗi buổi sáng phép màu này lại bắt đầu, chúng ta lại được 86400 giây để sống, và chúng ta chơi với cái luật không thể lẩn tránh được này: nhà băng có thể đóng tài khoản của chúng ta bất cứ lúc nào, và không thể báo trước: vào tất cả mọi lúc, cuộc sống đều có thể dừng lại. Vậy thì ta sẽ làm gì với 86400 giây mà ta có hằng ngày? “Điều đó chẳng phải quan trọng hơn những đồng đô la hay sao, những giây được sống?”
Từ khi cô bị tai nạn, mỗi ngày cô mới hiểu rằng thật ít người nhận thức được thời gian đáng coi trọng và quý giá biết bao. Cô giải thích cho anh những kết luận từ câu chuyện của cô “Anh muốn hiểu một năm sống là gì: hãy đặt câu hỏi cho một sinh viên vừa thi trượt kỳ thi cuối năm. Một tháng sống: hãy hỏi một người mẹ vừa cho ra đời đứa con đẻ non và đang đợi nó được ra khỏi lồng kính để bà được ôm con trong vòng tay mình, bình yên vô sự. Một tuần: hỏi một người làm việc ở nhà máy hay dưới hầm mỏ để nuôi gia đình mình. Một ngày: hỏi hai người đang yêu mê mệt và đang đợi để gặp lại nhau. Một giờ: hỏi một người mắc chứng sợ bóng tối, đang bị kẹt trong cái thang máy hỏng. Một giây: nhìn vẻ mặt người vừa thoát khỏi tai nạn ôtô, và một phần nghìn giây: hỏi một vận động viên vừa đoạt huy chương bạc ở thế vận hội, chứ không đoạt huy chương vàng mà vì nó anh ta đã luyện tập suốt đời mình. Cuộc sống thật kỳ diệu, Arthur, và em nói với anh điều này với ý thức đầy đủ về sự việc, bởi vì từ khi em bị tai nạn, em thưởng thức giá trị của từng khoảnh khắc. Vì vậy em xin anh, chúng ta hãy tận hưởng tất cả những giây phút mà chúng ta còn lại này”.
Arthur ôm cô trong vòng tay mình và thì thầm vào tai cô: “Mỗi giây bên em đáng giá hơn tất cả những giây khác”. Họ đã trải qua phần còn lại của đêm như vậy, ôm ghì lấy nhau trước lò sưởi. Cơn buồn ngủ ập đến với họ lúc gần sáng, cơn bão không dịu di mà còn trái lại. Tiếng chuông điện thoại di động của anh đánh thức họ vào quãng mười giờ, đó là Pilguez, ông đề nghị Arthur tiếp ông, ông có chuyện muốn nói với anh và ông xin lỗi về cách cư xử của mình hôm qua. Arthur do dự, không biết người này định điều khiển anh hay ông ta chân thành. Anh nghĩ đến cơn mưa như trút nước sẽ không cho phép họ ở phía ngoài, và dự kiến rằng Pilguez sẽ lợi dụng cớ này để thâm nhập vào nhà. Không suy nghĩ thêm, anh mời ông ta đến ăn trưa trong bếp của anh. Có thể là để mạnh hơn ông ta, để làm lạc hướng. Lauren không bình luận một lời, cô phác một nụ cười buồn mà Arthur không nhận thấy.
 
Viên thanh tra cảnh sát xuất hiện hai giờ sau. Khi Arthur mở cửa cho ông, một cơn gió lốc dữ dội ập vào hành lang và Pilguez thậm chí phải giúp anh đóng lại cánh cửa.
- Đúng là bão rồi! - Ông thốt lên.
- Tôi tin chắc rằng ông không đến để nói về khí tượng.
Lauren theo họ vào bếp. Pilguez quẳng chiếc áo mưa của ông lên ghế và ngồi vào bàn. Hai bộ đồ ăn được bày ra, có món salad Ceasar trộn thịt gà nướng, tiếp theo là món trứng ốplết với nấm, đó là bữa ăn trưa của họ. Tất cả được kèm rượu cabernet mác Nappa Valley.
- Anh tiếp tôi như vậy thật tử tế quá, tôi không muốn làm cho anh phải mệt như vậy.
- Cái làm cho tôi mệt, ông thanh tra ạ, đó là việc ông cứ ra sức làm cho tôi bực mình với những câu chuyện kỳ quặc của ông.
- Nếu nó kỳ quặc đúng như anh nói, tôi sẽ không làm anh bực mình lâu đâu. Vậy anh là kiến trúc sư phải không?
- Ông đã biết rồi!
- Loại kiến trúc gì?
- Tôi rất ham thích việc phục chế các di sản.
- Có nghĩa là gì?
- Lấy lại cuộc sống cho những tòa nhà cổ, bảo quản tường đá nhưng cấu trúc lại để nó thích ứng với cuộc sống hiện nay.
Pilguez đã gãi đúng chỗ ngứa, ông đã kéo Arthur vào một lĩnh vực lôi cuốn anh, nhưng cái mà Pilguez phát hiện ra lại là anh là người rất hấp dẫn, và viên cảnh sát già rơi vào chính cái bẫy của mình; ông muốn tạo nên một sự quan tâm của Arthur, một con đường để giao tiếp, ông đã bị cuốn hút vào câu chuyện của đối tượng nghi ngờ mình.
Arthur đã cho ông một bài giảng thật sự về đá, từ kiến trúc cổ đại đến truyền thống, điểm qua kiến trúc hiện đại và đương đại. Viên cảnh sát già bị mê hoặc, ông hỏi hết câu này đến câu khác và Arthur đưa ra những câu trả lời. Cuộc trò chuyện kéo dài như vậy khoảng hai tiếng mà họ không cảm thấy lâu. Pilguez biết được thành phố của ông đã được xây dựng lại như thế nào sau trận động đất lớn, lịch sử những tòa nhà lớn mà ông thấy hàng ngày, một loạt những câu chuyện kể về việc các thành phố và các đường phố mà ta đang sống.
Những tách cà phê nối tiếp nhau, và Lauren sững sờ tham dự không biểu lộ cảm xúc gì trước mối đồng cảm kỳ lạ đang hình thành giữa Arthur và viên thanh tra.
Khi câu chuyện về việc cầu Golden Gate đã được tưởng tượng nên như thế nào bắt đầu chuyển hướng, Pilguez ngắt lời anh; đặt tay mình lên tay anh, ông thay đổi chủ đề một cách đột ngột. Ông muốn nói chuyện với anh như hai con người với nhau, chứ không có tính cách như một cảnh sát già mà bản năng chưa từng nhầm lẫn bao giờ. Ông cảm thấy và ông biết rằng cơ thể người phụ nữ ấy được giấu trong căn phòng đóng kín ở đầu hành lang. Tuy thế ông không hiểu đông cơ của sự bắt cóc này. Đối với ông, Arthur là kiểu người mà một người cha muốn con trai của mình được như thế, ông thấy anh lành mạnh, có học thức, lôi cuốn, thế thì tại sao anh lại mạo hiểm tung hê tất cả với việc đi đánh cắp cơ thể của một phụ nữ đang hôn mê.
- Thật đáng tiếc, tôi cứ tưởng là chúng ta hợp nhau thực sự - Arthur vừa nói vừa đứng dậy.
- Nhưng đúng là như vậy, điều đó không có liên quan gì đến đây cả, hay trái lại, tức là chính vì thế đấy. Tôi tin chắc rằng anh có những lý do chính đáng và tôi đề nghị được giúp anh.
Ông sẽ hết sức thẳng thắn với anh và bắt đầu bằng việc thổ lộ với anh rằng ông sẽ không lấy được lệnh khám nhà tối nay, ông không có đủ bằng chứng cần thiết. Ông phải đi gặp ông thẩm phán ở San Fransico, phải thương lượng và thuyết phục ông ta, nhưng ông sẽ làm được. Việc đó phải mất ba hay bốn ngày, đủ cho Arthur di chuyển cơ thể, nhưng ông đảm bảo với anh rằng làm như vậy là sai lầm. Ông không biết những lý do của anh, nhưng anh sẽ làm hỏng đời mình mất thôi. Ông vẫn có thể giúp đỡ anh và xin được giúp anh, nếu Arthur chịu nói chuyện với ông và giải thích cho ông chìa khóa của điều bí ẩn này. lời đáp lại của Athur nhuốm đôi chút màu sắc mỉa mai. Anh cảm động trước cách cư xử rộng lượng của viên thanh tra và lòng nhân từ của ông, tuy có bất ngờ rằng đã trở nên thân thiết như thế với ông sau hai tiếng đồng hồ trò chuyện. Nhưng anh cũng bày tỏ là không hiểu vị khách của mình. Ông đến nhà anh bần thần, Athur đã đón tiếp ông, mời ông ăn, còn ông lại cứ ngoan cố buộc cho anh một tội phi lý mà không có cả bằng chứng lẫn động cơ.
- Không, chính anh mới là người ngoan cố - Pilguez đáp lại.
- Vậy thì ông có lý do gì để giúp tôi, nếu như tôi là kẻ thủ phạm của ông, ngoài việc giải thêm một câu đố nữa?
Viên cảnh sát già tỏ ra chân thành trong câu trả lời: với nghề nghiệp của mình, ông đã giải quyết không ít vụ án, với hàng trăm động cơ vô lý, tội ác nhơ nhớp, nhưng bao giờ cũng có những điểm chung giữa các thủ phạm, đó là việc chúng là những kẻ tội phạm, điên rồ, bệnh hoạn, độc hại, nhưng Athur thì có vẻ không giống thế. Vì vậy sau khi trải qua cả cuộc đời vào việc đưa những thằng điên ra toà, nếu ông có thể tránh cho một người tốt khỏi rơi vào chỗ đó, vì người này bị kéo vào một tình huống không thể làm khác được, thì “ít nhất tôi sẽ có được cảm giác là đã một lần đứng ở phía mặt tốt của sự việc”, ông kết luận.
- Ông thật tử tế, tôi mới nghĩ vậy thật lòng, tôi đánh giá cao bữa ăn trưa với ông hôm nay, nhưng tôi không bị kéo vào tình huống mà ông mô tả. Tôi không đuổi ông đâu nhưng tôi có việc bận; có lẽ chúng ta còn có dịp gặp lại nhau.
Pilguez lắc đầu tỏ ý lấy làm tiếc và đứng dậy với lấy áo mưa của mình. Lauren trong suốt cuộc nói chuyện giữa hai người đàn ông ngồi trên tủ buýp phê, bèn nhảy phóc xuống và đi theo họ khi họ biến vào hàng lang dẫn đến cửa ra vào.
Đến trước cửa phòng làm việc, Pilguez đứng sững lại, nhìn vào nắm đấm cửa.
- Thế anh đã mở cái hộp kỷ niệm của anh ra chưa?
- Chưa, tôi còn chưa mở - Athur trả lời.
- Đôi khi sống lại với quá khứ cũng khó đấy nhỉ, cần phải có nhiều sức lực, nhiều dũng cảm.
- Vâng, tôi biết, đó chính là cái mà tôi đang cố gắng.
- Tôi biết là tôi không nhầm đâu anh bạn trẻ, bản năng của tôi không bao giờ lừa tôi.
Khi Arthur mời ông đi tiếp ra, nắm tay đấm cửa căn phòng bỗng nhiên quay, cứ như có ai đó vặn từ bên trong, và cánh cửa bật mở. Athur quay lại sững sờ. anh thấy Lauren đứng trong khung cửa, cô mỉm cười buồn bã với anh.
- Tại sao em làm vậy? - Anh thì thầm, hơi đứt đoạn.
- Tại vì em yêu anh.
Từ chỗ đang đứng, Pilguez nhìn thấy ngay lập tức cơ thể nằm trên gi.ường, với ống truyền. “Cám ơn Chúa, cô ấy còn sống.”
Ông bước vào phòng, để Arthur đứng lại ở cửa, ông lại gần và quỳ xuống cạnh cơ thể. Lauren vòng tay ôm Arthur. Cô hôn lên má anh,dịu dàng.
- Anh sẽ không thể làm được, mà em thì không muốn anh làm hỏng phần đòi còn lại của mình vì em, em muốn anh được sống tự do, em muốn anh hạnh phúc.
- Nhưng em chính là hạnh phúc của anh.
Cô đặt một ngón tay lên môi anh.
- Không, không phải như thế này, không hải trong hoàn cảnh này.
- Anh nói với ai thế? - Viên cảnh sát già hỏi bằng một giọng rất thân thiện.
- Với cô ấy.
- Anh cần phải giải thích cho tôi ngay bây giờ, nếu anh muốn tôi giúp anh.
Arthur nhìn Lauren, mắt đầy tuyệt vọng.
- Anh phải kể cho ông ta tất cả sự thật, ông ấy tin anh hay không thì mặc, nhưng hãy cứ nói sự thật thôi.
- Ông lại đây - Anh quay sang nói với Pilguez - chúng ta vào phòng khách, tôi sẽ giải thích tất cả cho ông.
Hai người đàn ông ngồi xuống chiếc đi văng to và Athur kể lại tấ cả câu chuyện, từ buổi đầu tiên khi trong phòng căn hộ của anh có một phhụ nữ không quen biết trốn trong tủ quần áo ở buồng tắm va nói với anh.
“Điều mà tôi sắp nói với anh đây sẽ không dễ nghe và thật khó chấp nhận, nhưng nếu anh vui lòng nghe câu chuyện của tôi, nếu anh vui lòng dành cho tôi sự tin cậy thì cuối cùng anh sẽ tin tôi và điều đó rất quan trọng, bởi vì dù anh không hề ngờ tới, anh là người duy nhất trên đời mà tôi có thể chia sẻ bí mật này”
Va Pilguez nghe anh, không hề ngắt lời. Rất lâu sau, vào buổi tối, khi Athur đã kể xong, ông đứng dậy và nhìn người nói chuyện với mình chăm chú.
- Ông thấy chưa một câu chuyện như vậy, thế là thêm một thằng điên nữa trong bộ sưu tập của ông, ông thanh tra.
- Cô ấy ở đây, bên cạnh chúng ta à? - Pilguez hỏi.
- Cô ấy đang ngồi trên chiếc ghế bành đối diện ông, và cô ấy đang nhìn ông.
Pilguez vừa cọ vào bộ râu ngắn của ông vừa gật đầu.
- Tất nhiên - Ông nói - tất nhiên rồi.
- Ông sẽ làm gì bây giờ? - Arthur hỏi.
Ông sẽ tin anh! Và nếu Athur tự hỏi tại sao, thì điều đó đơn giản thôi. Tại vì để bịa ra một câu chuyện như vậy và đi đến mức là nhận lấy những mạo hiểm như anh đã làm, thì không cần chỉ là điên, mà cần phải hoàn toàn rồ dại. Và người mà bên bàn ăn đã nói cho ông nghe về lịch sử của thành phố mà ông đã phục vụ từ hơn ba mươi năm nay thì không có vẻ gì là rồ dại cả. “Câu chuyện của anh phải hoàn toàn có thật thì anh mới làm tất cả những chuyện đó được. Tôi không tin lắm vào Thượng đế, nhưng tôi tin vào linh hồn con người, thêm nữa tôi cũng sắp về hưu rồi và nhất là muốn tôi tin anh”.
- Vậy thì ông sẽ làm gì?
- Tôi có thể đưa cô ấy trở lại bệnh viện bằng xe ôtô của tôi mà không nguy hiểm cho cô ấy không?
- Vâng, ông có thể - Arthur nói, giọng đầy lo lắng.
Vậy thì, vì ông đã hứa với anh, ông sẽ giữ đúng sự cam kết của mình. Ông sẽ đưa anh ra khỏi tình huống khó khăn này.
- Nhưng tôi không muốn chia ly với cô ấy, tôi không muốn cô ấy bị người ta làm euthanasie.
ch.uyện ấy thì lại là một trận đấu khác rồi, “tôi không thể làm tất cả, anh bạn ạ!” Ông đã nhận lấy mạo hiểm đưa cơ thể này về và chỉ có một đêm và ba tiếng đi đường để tìm một lý do xác đáng cho chuyện tìm được nạn nhân mà không xác định được kẻ bắt cóc. Vì cô ấy còn sống và không phải chịu đựng một hành động hung bạo nào, ông nghĩ là có thể làm được cho hồ sơ chui vào ngăn kéo đựng những vụ án không giải quyết nữa. Đối với phần còn lại, ông không thể làm gì hơn nữa, “nhưng thế đã là nhiều, phải không?”
- Tôi biết - Arthur cảm ơn.
- Tôi sẽ để các bạn hai người ở lại với nhau đêm nay, sáng mai khoảng tám giờ tôi sẽ ghé qua, anh làm sao cho tất cả phải sẵn sàng để lên đường.
- Tại sao ông lại làm như vậy?
- Tôi đã nói với anh rồi, tại vì tôi có thiện cảm với anh, tôi rất quý mến anh. Tôi sẽ không bao giờ biết được câu chuyện của anh là có thật hay anh đã mơ như vậy. Nhưng dù sao đi nữa, theo logic suy luận của anh, anh đã hành động vì lợi ích của cô ấy, người ta gần như có thể bị thuyết phục rằng đó là tự vệ hợp pháp, những người khác có thể nói đó là cứu người gặp nạn, đối với tôi thì nói sao cũng được. Lòng dũng cảm thuộc về những người hành động vì điều tốt hay vì một cái tốt hơn, và lúc cần hành động thì không tính toán đến những hậu quả mà mình có thể gặp phải. Thôi, ba hoa vậy đủ rồi, hãy tận hưởng thời gian còn lại cho các bạn.
Viên cảnh sát đứng dậy, Arthur và Lauren theo ông. Một cơn gió xoáy dữ dội đón họ khi họ mở cửa nhà.
- Hẹn đến ngày mai - Ông nói.
- Hẹn đến ngày mai - Arthur trả lời, tay để trong túi quần.
Pilguez biến mất trong cơn bão.
Arthur không ngủ, và khi trời tảng sáng anh vào phòng làm việc. Anh chuẩn bị cho cơ thể của Lauren, rồi anh lên phòng ngủ của mình soạn vali, đóng các cửa chớp trong nhà, cắt ga và điện. Cả hai người cần phải trở về căn hộ ở San Fransisco. Lauren không thể ở xa cơ thể của mình lâu mà không quá mệt. Ban đêm họ đã bàn bạc và đã đồng ý rằng nên như vậy. Khi nào Pilguez mang cơ thể đi, họ cũng sẽ lên đường trở về.
Viên thanh tra xuất hiện vào giờ đã hẹn. Trong quãng mười lăm phút, Lauren được quấn kín chăn và đặt vào ghế băng phía sau xe ôtô của viên cảnh sát. Vào chín giờ, căn nhà được đóng lại, không còn ai ở nữa, và cả hai toán trở về thành phố. Pilguez đến bệnh viện vào quãng giữa trưa, Arthur và Lauren trở lại căn hộ gần như vào cùng giờ ấy.
 
Chương 15Pilguez giữ lời hứa của mình. Ông đưa cô hành khách bất động của mình đến khoa cấp cứu. Trong vòng chưa đầy một tiếng đồng hồ, cơ thể của Lauren đã được đem trả lại vào căn phòng nơi cô đã bị bắt cóc. Viên thanh tra về sở cảnh sát và đi thẳng vào phòng làm việc của giám đốc sở. Không bao giờ có ai biết được nội dung cuộc nói chuyện giữa hai người, nó kéo dài những hai tiếng đồng hồ, nhưng khi viên thanh tra rời căn phòng, ông đi về phía Nathalia, một tập hồ sơ dày kẹp dưới cánh tay. Ông để tập hồ sơ xuống bàn làm việc của mình và vừa nhìn thẳng vào mắt cô vừa yêu cầu cô xếp những giấy tờ này vào ngăn kéo đựng giấy tờ xếp xó, ngay lập tức.
Arthur và Lauren về trong căn hộ tại Greenstreet, chiều chiều họ ra khu marina, đi dạo dọc bờ biển. Một hy vọng loé lên do không có gì cho thấy việc làm euthanasie sẽ được tiến hành. Sau tất cả những sự kiện này, có thể mẹ Lauren thay đổi ý định. Họ thường ăn tối ở nhà hàng Perry và trở về vào quãng hai mươi giờ để xem ti vi.
Cuộc sống trở lại dòng chảy của nó một cách bình thường êm đẹp đến nỗi là mỗi một ngày qua, họ lại có nhiều thêm những lúc trong ngày quên bẳng hẳn đi cái hoàn cảnh đang làm cho họ lo nghĩ đến thế.
Thỉnh thoảng Arthur có ghé đến cơ quan, ló mặt ra đó đôi chút để ký các giấy tờ. Phần còn lại của ngày họ ở bên nhau, đi xem phim, dạo bộ hàng tiếng đồng hồ ở những lối đi trong công viên Golden Gate. Có lần họ đi nghỉ cuối tuần ở Tiburon, trong ngôi nhà mà một người bạn cho Arthur mượn khi người này có việc đi Châu Á. Mấy ngày đầu của một tuần khác thì họ lại dùng để chơi thuyền buồm trong vịnh, lái thuyền từ vũng này sang vũng khác.
Họ đi xem các buổi diễn trong thành phố, hết buổi này sang buổi khác, ca múa nhạc, ba lê, hòa nhạc và kịch. Thời gian giống như trong một kỳ nghỉ dài lười biếng mà chẳng cần phải từ chối điều gì. Sống trong khoảnh khắc hiện tại, ít nhất một lần không dự kiến, không nghĩ đến ngày mai. Không nghĩ đến điều gì khác ngoài cái đang diễn ra. Đó là thuyết giây phút, theo cách nói của họ. Những người gặp họ tưởng Arthur là điên, khi thấy anh nói một mình hoặc dạo chơi với cánh tay lơ lửng trong không khí. Trong những hiệu ăn mà họ thường đến, những người bồi bàn đã quen với người đàn ông ngồi một mình ở bàn bỗng nhiên nghiêng người, làm cử chỉ như cầm một bàn tay vô hình lên hôn, nói một mình bằng một giọng dịu dàng hay làm ra vẻ lùi lại bên ngưỡng cửa để nhường cho một người không tồn tại đi qua. Một số người nghĩ rằng anh mất trí, những người khác tưởng tượng rằng anh góa vợ, sống với bóng của người vợ đã mất. Arthur không chú ý đến chuyện đó nữa, anh tận hưởng mỗi một khoảnh khắc đang dệt nên những mắt lưới tình yêu của họ. Trong một vài tuần, họ trở thành đồng điệu, thành người tình và bạn đời của nhau. Paul không lo lắng nữa, anh chấp nhận cuộc khủng hoảng bạn mình đang trải qua. Yên tâm rằng cuộc bắt cóc không để lại hậu quả gì, anh đảm nhiệm việc quản lý công ty, tin rằng người bạn hợp doanh với mình có ngày tỉnh trí lại, và mọi việc sẽ trở lại như thường. Anh không vội. Điều quan trọng là người mà anh coi như anh em ruột của mình sẽ khỏe lên, hay là sẽ khỏe mạnh thôi, không cần thêm gì nữa, còn thì anh ấy sống trong thế giới nào cũng mặc.
Ba tháng trôi qua như vậy mà không có chuyện gì xảy ra làm khuấy động tổ ấm của họ. Chuyện đó đã xảy ra vào một tối thứ ba. Cả hai nằm ngủ sau một buổi tối yên ả ở nhà. Sau những cái ôm đằm thắm, họ chia sẻ với nhau những dòng cuối cùng của một cuốn tiểu thuyết mà họ cùng đọc, bởi vì cần có anh lật trang cho cô. Đến đêm khuya thì họ ngủ thiếp đi, người này trong vòng tay người khác.
Quãng sáu giờ sáng Lauren nhỏm phắt dậy trong gi.ường và kêu to tên Arthur. Anh giật mình tỉnh dậy và mở to mắt. Cô ngồi xếp bằng tròn, gương mặt nhợt nhạt và trong suốt.
- Có chuyện gì thế? - Anh hỏi bằng một giọng đầy lo âu.
- Ôm em vào lòng anh nhanh lên, em van anh.
Anh thực hiện ngay tức khắc, và không để anh hỏi lại, cô đặt tay mình lên má anh, nơi có vệt sẫm của mảng râu mới mọc, cô vuốt ve, trượt tay xuống phía cằm anh, vòng ra sau gáy anh với một vẻ dịu dàng vô bờ. Mắt cô mọng lên vì nước mắt và cô nói với anh.
- Đã đến lúc rồi, anh yêu của em, họ mang em đi, em đang dần dần biến mất.
- Không - Anh vừa nói vừa ôm xiết chặt cô hơn.
- Lạy Chúa, em không muốn rời xa anh, em những muốn là cuộc sống này với anh không dừng lại bao giờ, ngay cả khi nó chưa kịp bắt đầu.
- Em không thể ra đi, không được vậy, hãy kháng cự lại họ, anh van em!
- Đừng nói gì hết, nghe em đây, em cảm thấy là em có ít thời gian. Anh đã cho em cái mà em không ngờ đến; trước khi sống cùng anh, em không tưởng tượng được rằng tình yêu có thể đem lại những điều giản dị đến thế này. Không có cái gì mà em từng nếm trải trước anh có giá trị được bằng một giây chúng ta sống cùng nhau. Em muốn anh mãi mãi biết rằng em yêu anh biết bao, em không biết em sẽ đi về bờ bến nào, nhưng nếu có tồn tại một thế giới bên kia, thì ở đó em cũng sẽ tiếp tục yêu anh với tất cả sức lực và tất cả niềm vui mà anh đã đem lại tràn đầy trong đời em.
- Anh không muốn em đi!
- Suỵt, đừng nói gì, hãy nghe em.
Trong khi cô nói, bề ngoài của cô biến thành trong suốt. Da cô trở nên giống như màu nước. Trong vòng tay anh, cái ôm của anh xiết lại vào một khoảng trống hình thành từng tí một. Anh thấy cô đang tan dần.
- Em mang màu sắc của những nụ cười của anh trong mắt em - Cô nói tiếp - Cám ơn anh vì tất cả những tiếng cười ấy, tất cả sự âu yếm ấy. Em muốn rằng anh sống, anh trở lại nhịp sống của mình khi em không còn ở đây nữa.
- Thiếu em, anh không thể sống được nữa.
- Không, cái mà anh có trong anh, đừng giữ cho mình, anh phải đem cho một cô gái khác, nếu không sẽ quá lãng phí.
- Đừng bỏ đi, anh van em, hãy kháng cự.
- Em không thể, cái đó mạnh hơn em. Em không đau đâu, anh biết đấy, em chỉ có cảm giác là anh xa dần, em nghe không rõ tiếng anh nói, em bắt đầu nhìn thấy anh lờ mờ. Em rất sợ, Arthur. Em rất sợ thiếu anh. Anh giữ em lại thêm chút xíu nữa đi.
- Anh đang xiết chặt em, em không cảm thấy anh nữa sao?
- Không cảm thấy anh thật rõ nữa, Arthur của em.
Cả hai người đều khóc, lặng lẽ, âm thầm; họ hiểu rõ hơn ý nghĩa của một giây sống, giá trị của một khoảnh khắc, tầm quan trọng của một từ. Họ ôm ghì lấy nhau. Trong vài phút của một nụ hôn dang dở, cô biến mất hẳn. Hai cánh tay của Arthur lồng lại vào nhau; anh co rúm người lại vì đau đớn và khóc rống lên.
Toàn thân anh run rẩy. Đầu anh lắc lư qua lại trong một cử động không thể kiềm chế được. Những ngón tay anh quắp lại chặt đến nỗi lòng bàn tay bị móng cứa bật máu ra.
Tiếng “Không” mà anh kêu lên như tiếng rên của loài thú vang dội trong căn phòng đến mức làm các cánh cửa kính rung lên. Anh định đứng dậy nhưng chệnh choạng và ngã xuống sàn, tay anh vẫn cứ ôm ghì lấy nửa trên người mình. Anh bất tỉnh trong nhiều giờ. Rất lâu sau anh mới tỉnh lại. Nước da anh nhợt nhạt. Anh cảm thấy không còn sức lực. Anh lê ra bệ cửa sổ, nơi cô vẫn thường thích ngồi, và ngã vật ra ở đó, đôi mắt trống rỗng.
Arthur chìm vào thế giới của sự xao lãng, với cái vị kỳ quặc của nó khi nó dội lên trong óc. Nó thấm dần vào những mạch máu của anh, xuyên thấu vào tim anh, trái tim mỗi ngày lại đập theo những nhịp điệu khác nhau.
Những ngày đầu tiên nó gây trong anh nỗi tức giận, sự nghi ngờ, lòng ghen tuông; không phải ghen với những người khác mà là với những khoảnh khắc bị đánh cắp, với thời gian đã trôi qua. Sự trống vắng tai quái, khi xuyên thấu vào, nó làm biến đổi các cảm xúc, kích thích chúng, mài giũa chúng, làm cho chúng trở nên sắc nhọn hơn. Lúc đầu có thể tưởng như nó sinh ra để làm tổn thương anh, nhưng hoàn toàn không phải vậy, cảm xúc hiện ra dưới góc độ tinh tế nhất để biện luận tốt hơn trong anh. Anh cảm thấy sự thiếu vắng, sự thiếu vắng của người ấy, của tình yêu đến tận trong d.a thịt, của hammuốn thể xác, của cái mũi đang tìm kiếm một mùi hương, của bàn tay đang tìm kiếm cái bụng để ve vuốt, của con mắt mà qua hàng lệ chỉ còn nhìn thấy toàn kỷ niệm, của làn da đang tìm kiếm một làn da, của bàn tay kia đang vòng vào khoảng trống, của từng đốt ngón tay co rúm lại theo nhịp điệu mà nó áp đặt, của cái chân rơi xuống và đong đưa vào khoảng trống. Annh lả đi như vậy trong nhà những ngày dài dằng dặc và cả những đêm dài dằng dặc nữa. Anh đi từ bàn vẽ, nơi anh ngồi viết những bức thư cho một hồn ma, đến gi.ường, nơi anh đăm đắm nhìn trần nhà mà chẳng hề thấy nó. Máy điện thoại của anh bị nhấc lên, rơi sang bên cạnh đã từ lâu mà anh không để ý. Đối với anh điều đó chẳng can hệ gì hết, từ nay anh chẳng còn đợi một cú điện thoại nào. Chẳng có gì quan trọng nữa cả.
Anh ra khỏi nhà vào cuối một ngày ngột ngạt, để hít thở khí trời. Tối hôm ấy trời mưa, anh mặc vào người cái áo mưa và chỉ có đủ sức vượt qua đường để đến đứng ở vỉa hè đối diện.
 
Dãy phố nhỏ trông như trong phim đen trắng, Arthur ngồi xuống một bức tường thấp bao quanh, ở cuối con phố hẹp trông như một cái hành lang này là ngôi nhà xây kiểu thời Victoria nằm trên khu vườn nhỏ của nó. Chỉ còn một khung cửa số có hắt ra tia sáng trong cái đêm không trăng này, đó là cửa sổ phòng khách của anh. Mưa đã ngừng rơi, nhưng người anh thì chưa khô. Sau ô cửa kính, anh tưởng như còn thấy Lauren, những cử chỉ mềm mại của cô. Cô nhón chân biến đi một cách nhẹ nhàng. Trong bóng tối của vỉa hè anh tưởng như còn nhìn thấy những đường nét uốn lượn thanh tú của cơ thể cô biến mất sau góc phố. Như thường lệ, vào những khoảnh khắc này anh cảm thấy mình yếu đuối, anh xọc tay vào túi áo mưa, cúi người xuống và bước đi. Dọc theo những bức tường màu xám và màu trắng, anh ướm lên những bước chân của Lauren, khá chậm để không bao giờ được gặp cô cả. Đến đầu phố anh do dự, rồi bị thúc đẩy bởi làn mưa bụi nhỏ, và bị tê cóng vì buốt lạnh, anh tiến đến gần. Ngồi xuống một lan can, anh sống lại từng phút của cái cuộc đời đã chấm dứt một cách quá tàn nhẫn ấy. “Arthur, sự nghi ngờ và sự lựa chọn là hai nguồn sức lực làm rung lên những sợi dây cảm xúc của chúng ta. Con hãy nhớ rằng chỉ có sự hài hòa của sự rung cảm này là quan trọng”. Giọng nói và những kỷ niệm của mẹ anh trỗi dậy từ sâu thẳm trong anh. Arthur lấy hết sức để đứng dậy, anh ném một cái nhìn cuối cùng và quay đi với mặc cảm có tội vì đã thất bại.
Bầu trời trắng nhợt báo hiệu bắt đầu một ngày không màu sắc. Tất cả các buổi ban mai đều tĩnh lặng, nhưng chỉ có một số sự tĩnh lặng là đồng nghĩa với sự trống vắng, những sự tĩnh lặng khác đôi khi tràn đầy đồng điệu. Chính những sự tĩnh lặng ấy là điều Arthur nghĩ đến khi trở về nhà. Anh đang nằm dài trên tấm thảm ở phòng khách, dường như nói chuyện với lũ chim thì tiếng đập thình thình dữ dội ở cửa nhà. Anh không đứng dậy.
- Arthur, mày có ở đó không? tao biết là mày ở trong nhà. Mở cửa cho tao, mẹ kiếp. Mở ra! - Paul rống lên - Mở ra không thì tao phá cửa!
Khung cửa rung lên ngay từ cú húc đầu tiên.
- Chó thật, tao bị đau rồi, tao bị trật khớp xương, mày mở cửa ra!
Arthur đứng dậy và đi ra cửa, anh vặn khóa rồi không chờ đợi, quay vào luôn nằm lăn ra đi văng. Khi Paul đi vào phòng khách, anh sững sờ vì sự lộn xộn ngự trị ở đây. Hàng chục tờ giấy phủ đầy sàn nhà, tất cả đều là những bản viết tay của bạn anh. Trong bếp, những vỏ đồ hộp rải rác chỗ này chỗ kia trên bàn bếp. Bồn rửa đầy những bát đĩa bẩn.
- Sao, có chiến tranh ở đây, và mày thua cuộc hả?
Arthur không trả lời.
- Đồng ý, chúng nó tra tấn mày, chúng nó cắt dây thanh quản của mày. Ê, nói đi chứ, mày có điếc không, tao đây, người hợp doanh của mày! Mày mắc chứng bệnh catalepsie (bất động) hay là mày nốc nhiều đến nỗi vẫn chưa hết say?
Paul thấy Arthur òa lên nức nở. Anh ngồi xuống cạnh bạn và quàng vai bạn.
- Arthur, có chuyện gì vậy?
- Cô ấy chết rồi, cách đây mười hôm. Cô ấy tự nhiên bỏ đi, một buổi sáng. Người ta đã giết cô ấy. tao không thể nào chịu nổi, Paul, tao không thể!
- Tao thấy rồi.
Anh xiết chặt tay bạn mình.
- Khóc đi, ông bạn, chừng nào mày còn khóc được thì cứ khóc. Hình như cái đó làm dịu bớt buồn đau.
- Thì tao chỉ làm có thế thôi, khóc!
- Vậy thì cứ tiếp tục đi, mày hãy còn nước mắt tồn kho đấy, chưa phải đã hết đâu.
Paul nhìn máy điện thoại và đứng lên để đặt lại.
- Tao đã bấm số máy của mày tới hai trăm lần, đặt lại cái điện thoại mày thấy phiền toái lắm hay sao!
- Tao không chú ý.
- Mày không nhận một cú điện thoại nào trong mười ngày qua và mày không chú ý à?
- Tao cóc cần điện thoại, Paul!
- Mày phải thôi cái trò này đi, ông bạn ơi. Tất cả chuyện này đã vượt quá tầm tao, nhưng bây giờ thì chính mày là quá đáng. Mày đã mơ, Arthur, mày đã đi vào vòng xoáy ốc của một câu chuyện điên rồ. Mày phải trở lại với thực tế đi thôi, mày đang phá hỏng đời mày đó. Mày không làm việc nữa, mày trông giống một thằng vô gia cư, mày gầy như một cái đinh, mày có vẻ mặt như trong phim tài liệu trước chiến tranh. Mấy tuần nay chả thấy mày đi làm, mọi người tự hỏi không biết mày còn tồn tại hay không. Mày phải lòng một cô gái đang hôn mê, mày tự bịa ra một câu chuyện hoang tưởng, mày đánh cắp cơ thể người ta và bây giờ thì mày đang để tang một hồn ma. Nhưng mày có nhận thức được rằng trong thành phố này có một bác sĩ trị bệnh tâm thần sẽ thành ra triệu phú mà ông ta hãy còn chưa biết hay không! Mày cần phải được chữa trị, ông bạn ạ. Mày không có cách nào khác, tao không thể để mày trong tình trạng này. Tất cả chuyện này chỉ là một giấc mơ biến thành cơn ác mộng.
Anh bị ngắt lời bởi một hồi chuông điện thoại, và anh đi ra nhấc ống nghe lên. Anh đưa ống nghe lên cho Arthur.
- Đó là một cảnh sát, ông ta đang cáu lắm. Ông ta cũng đã tìm cách gọi điện cho mày từ mười ngày nay, ông ta muốn nói chuyện với mày ngay lập tức.
- Tao chả có gì để nói với ông ta cả.
Paul đặt tay lên ống nói: “Mày nói chuyện với ông ta hay là tao tống cái máy vào mồm mày”. Anh áp ống nghe vào tai bạn. Arthur nghe và nhảy dựng dậy. Anh cám ơn người nói chuyện với mình và cuống quýt đi tìm chìa khóa trong đống đồ đạc ngổn ngang.
- Tao có thể biết là có chuyện gì không?
- Không có thời gian, tao phải tìm cho được chìa khóa.
- Người ta đến bắt mày à?
- Không đâu! Mày giúp tao còn hơn là nói những câu ngớ ngẩn thế.
- Nó khá hơn rồi, nó bắt đầu gây gổ với tôi.
Arthur tìm thấy chùm chìa khóa của anh, anh xin lỗi Paul, nói rằng anh không có thời gian giải thích cho bạn, rằng bây giờ đang vội nhưng anh sẽ gọi điện lại cho bạn tối nay. Paul đứng trố mắt ra.
- Tao không biết mày đi đâu, nhưng nếu đó là nơi công cộng thì tao tha thiết khuyên mày thay quần áo và lau qua cái mặt một chút.
Arthur do dự rồi liếc mắt nhìn vào mình trong cái gương ở phòng khách. Anh chạy vào buồng tắm, tránh nhìn chiếc tủ, có những nơi làm ký ức sống lại một cách đau đớn. Trong vài phút anh đã lau rửa, cạo râu và thay quần áo xong, anh lao vọt ra và quên cả chào bạn, chạy vội xuống cầu thang cho đến tận gara.
Chiếc ôtô lao đi vun vút trong thành phố đến tận lúc anh đỗ xe ở bãi đỗ xe của bệnh viện Memorial. Anh không thèm khóa xe lại mà chạy ngay vào phòng đón tiếp. Khi anh thở hổn hển chạy đến nơi thì Pilguez đã chờ anh ở đó, ông ngồi trong chiếc ghế bành ở phòng đợi. Viên thanh tra đứng dậy và nắm vai anh, bảo anh bình tĩnh lại. Mẹ của Lauren đang có mặt ở bệnh viện. Trước tình hình này, Pilguez đã giải thích cho bà tất cả, tức là gần như tất cả. Bà đang đợi anh trên tầng năm, trong hành lang.
 
Chương 16 (END)Mẹ của Lauren ngồi trên một chiếc ghế ở lối vào phòng hồi sức. Khi thấy anh, bà đứng dậy và đi về phía anh. Bà ôm anh và hôn lên má anh.
- Tôi không quen anh, chúng ta chỉ gặp nhau có một lần, anh nhớ chứ, ở khu Marina ấy. Con chó thì lại nhận ra anh! Tôi không biết tại sao, tôi không hiểu hết mọi điều, nhưng tôi ơn anh đến nỗi tôi không biết cảm ơn thế nào cho đủ.
Rồi bà giải thích cho anh tình hình. Lauren ra khỏi cơn hôn mê từ mười ngày nay, vì lý do gì thì không ai biết cả. Một buổi sáng sớm, điện não đồ của cô, từ bao tháng nay vẫn phẳng lì, bỗng dao động, biểu hiện một hoạt động mãnh liệt. Một cô y tá trực đã nhận thấy tín hiệu. Cô đã báo động ngay tức khắc cho bác sĩ trực, và trong vài giờ căn phòng đã đông nghịt các bác sĩ thay nhau đến để cho ý kiến hoặc chỉ để xem cô bệnh nhân vừa ra khỏi một cơn hôn mê dài. Những ngày đầu tiên cô vẫn vô thức. Rồi dần dần, cô bắt đầu cử động các ngón tay và bàn tay. Từ hôm qua cô đã mở mắt trong nhiều giờ, chăm chú nhìn tất cả những gì diễn ra xung quanh mình nhưng hãy còn chưa thể nói hoặc phát ra bất cứ âm thanh nào. Một số giáo sư nghĩ rằng có lẽ phải dạy lại cô cách nói, những người khác tin rằng rồi việc đó, cũng như tất cả những việc còn lại, đến lúc thì đâu sẽ vào đó! Hôm qua, cô đã trả lời một câu hỏi bằng cách chớp mắt. Cô rất yếu, và việc cánh tay lên dường như phải đòi hỏi cô phải cố gắng rất nhiều. Các bác sĩ giải thích đó là vì các cơ bị teo đi do vị trí nằm và sự bất động lâu như vậy. Cả điều này nữa, với thời gian và với việc đêìu trị phục hồi chức năng, sẽ được khôi phục. Cuối cùng, những chẩn đoán IRM - chụp ảnh cộng hưởng từ và việc chụp quét não cho kết quả lạc quan, thời gian sẽ khẳng định sự lạ quan này.
Arthur không nghe hết câu chuyện và đi vào phòng. Máy điện tim phát ra những tiếng đều đặn và đáng yên tâm. Lauren đang ngủ, mi mắt khép lại. Nước da cô nhợt nhạt, nhưng sắc đẹp của cô vẫn còn nguyên vẹn. Nhìn thấy cô, cảm xúc choáng ngợp người anh. Anh ngồi xuống thành gi.ường cô và cầm tay cô trong tay mình, đặt một chiếc hôn vào lòng bàn tay cô. Rồi anh ngồi vào một chiếc ghế và cứ ngồi lâu như thế hàng giờ ngắm nhìn cô.
Sẩm tối cô mở mắt, chăm chú nhìn anh, và mỉm cười với anh.
- Mọi việc đều ổn cả, anh ở đây - Anh nói khẽ - Em đừng làm mệt sức, ít nữa em sẽ nói được thôi.
Cô nhướng lông mày, do dự, và lại mỉm cười với anh, rồi cô ngủ thiếp đi.
Arthur đến bệnh viện hàng ngày. Anh ngồi đối diện với cô và đợi cô tỉnh dậy. Mỗi lần anh nói với cô, anh đều kể cho cô nghe những chuyện dễin ra bên ngoài. Cô không thể nói, nhưng cô luôn nhìn anh chăm chú khi anh nói với cô rồi lại ngủ thiếp đi.
Mười ngày nữa trôi qua như vậy. Mẹ của Lauren và anh thay phiên nhau trực. Hai tuần sau. lúc anh đến hành lang thì bà thông báo cho anh biết rằng từ tối hôm qua, Lauren đã nói lại được. Cô đã phát ra một vài từ bằng một giọng khàn khàn và ngọng nghịu. Arthur bước vào phòng và ngồi xuống cạnh cô. Cô đang ngủ, anh luồn tay vào tóc cô và dịu dàng vuốt trán cô.
- Anh nhớ giọng nói của em biết chừng nào - Anh nói với cô.
Cô mở mắt, cầm tay anh trong tay cô, nhìn anh một cách lưỡng lự rồi hỏi :
- Nhưng anh là ai? Tại sao ngày nào anh cũng đến đây?
Arthur hiểu ngay lập tức. Tim anh nhói lên, anh mỉm cười thật dịu dàng và đầy yêu thương rồi trả lời cô :
- Điều mà tôi sắp nói với cô đây sẽ không dễ nghe và thật khó chấp nhận, nhưng nếu cô vui lòng nghe câu chuyện của tôi, nếu cô vui lòng dành cho tôi sự tin cậy thì có thể cuối cùng cô sẽ tin tôi, bởi vì dù cô không hề ngờ tới, cô là người duy nhất trên đời mà tôi có thể chia sẻ bí mật này.
HẾT
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
×
Quay lại
Top