Charlie Bone

heokool

Cà rốt, trứng hay hạt cà phê?
Thành viên thân thiết
Tham gia
22/9/2011
Bài viết
14.934
TẬP I - Lúc Nửa Đêm - - 1 --Tác giả: Jenny Nimmo
Về tác già Jenny Nimmo: Sinh ở Windsor, Anh. Đi học nội trú từ năm lên 6, và rất ghét ngôi trường này.

Mọi việc chỉ tốt lên khi bước vào trung học, và Jenny được mọi người khuyến khích trở thành diễn viên.


Ở trường, Jenny là một học trò rất nghịch, xem bale rất nhiều, nhảy xa rất cừ, đọc hết sách trong thư viện trường, và hay kể cho các bạn nghe những câu chuyện rùng rợn mỗi khi phòng ngủ chung trong nội trú đã tắt đèn.


Hiện bà sống ở một vùng xa xôi của xứ Wales với chồng, con, mấy chú gà, một ít thỏ, và vài con mèo.



Chuyện mở đầu bằng


Ngày xửa ngày xưa, có một ông vua đến phương Bắc sống. Người ta gọi ông là Vua Đỏ vì ông mặc một cái áo choàng màu đỏ tươi, và trên chiếc khiên của ông có vẽ một mặt trời đỏ rực. Người ta đồn rằng ông chui từ châu Phi ra. Ông lại còn là một phù thủy phi thường. Mười đứa con ông, đứa nào cũng được thừa hưởng một phần nhỏ quyền năng. Nhưng khi vợ nhà vua qua đời, có năm đứa trở nên độc ác, và năm đứa còn lại, vì phải tìm cách thoát khỏi sự thối nát đang bủa vây các anh chị em quỷ quái của mình, đã từ bỏ lâu đài của người cha, mãi mãi.



Lòng tan nát, ông Vua Đỏ biến mất vô những cánh rừng che phủ các vướng quốc phương Bắc. Tuy vậy, ông không đi một mình, bởi vì có ba con mèo (chính xác là ba con báo) theo ông. Chúng ta sẽ không bao giờ được quên mất con mèo này!



Quyền năng lạ lùng và đa dạng của Vua Đỏ được truyền cho các hậu duệ của ông, thường là bất thình lình xuất hiện ở một kẻ, mà kẻ đó cũng không hiểu những thứ này từ đâu ra. Đó chính là việc đã xảy ra với Charlie Bone, và với vài đứa trẻ mà cậu ta gặp phía sau những bức tường xám, dữ tợn của Học viện Bloor.
Vào chiều thứ Năm, ngay sau bữa trà, Charlie Bone thấy khói. Nó vô tình nhìn ra ngoài cửa sổ, đúng lúc một đám mây u ám nhô lên khỏi những tán cây mùa thu. Gió thổi đám mây về hướng nam, và đám may bay ngang trời, trông như một con cá voi khổng lồ đang trôi lềnh bềnh.
Đâu đó, ở đầu kia thành phố, có một đám cháy. Charlie nghe được tiếng xe cứu hỏa đang lao tới. Nó không hề biết rằng, bằng những cách bí ẩn và không ngờ nổi, nó có liên hệ tới đám cháy ấy, và chẳng bao lâu nữa sẽ bị lôi đến nơi mà dám cháy bắt đầu.


Charlie ngủ ngon lành, tỉnh dậy sáng hôm sau, và tới trường. Sau buổi học, Charlie và bạn nó, Benjamin Brown, như thường lệ, cùng nhau đi bộ về nhà. Đám mây khói đã bay đi mất, nhưng bầu trời vần vũ, u ám. Một cơn gió hung tợn quăng những chiếc lá đỏ, là vàng bay thốc tháo trên đường Filbert.


Benjamin băng qua đường, tới căn nhà số 12, trong khi Charlie dừng ở căn số 9. Hầu hết những người sống trong căn số 9 đều than phiền về cây dẻ lớn đứng trước nhà – nào là nó làm các phòng tối hù; nào là nó ẩm thấp, cọt cà cọt kẹt, và một ngày kia nó có thể đổ ụp lên mái, giết hết cả đám khi đang ngủ. Khỏi nói cũng biết, không ai trong nhà số 9 làm gì với cây dẻ ấy. Họ chỉ ca thán với nhau là hết cỡ. Họ là một gia đìn kiểu đấy đấy. Hay đúng hơn, có những gia đình kiểu đấy đấy.


Lúc Charlie leo hết mấy bậc cấp tới cửa ra vào, cái cây thở dài và rụng như mưa xuống một nắm quả dẻ ngay trên đầu nó. May làm sao, mớ tóc dày và dai của Charlie làm cho những cú đập nhẹ bớt. Tóc dày cũng có ích lợi, dù không nhiều. Charlie lúc nào cũng bị nhắc nhở phải tươm tất lên, đúng là một việc “bất khả thi” đối với một kẻ có tóc mọc như bờ rào.
“Chào hai bà!” Charlie kêu to khi bước vô trong hành lang.


Có hai bà trong nhà số 9: bà ngoại Jones (mẹ của mẹ Charlie), bà nội Bone (mẹ của ba Charlie). Ngoại Jones tròn quay, vui vẻ và hách dịch, trong khi nội Bone mở miệng ra là than vãn. Nội Bone hiếm khi mỉm cười, và không cái gì làm bà cười ha ha nổi. Tóc bà dày và trắng. Bà mặc những cái đầm dài, cứng quèo, hết màu đen tới màu xám rồi màu nâu (không bao giờ màu hồng, là màu ưa thích của Maisie). Ngoại Jones thích được gọi là Maisie, nhưng Charlie không bao giờ dam gọi nội Bone bằng tên con gái là Grizelda. Bà muốn nhắc nhở mọi người rằng, trước khi cưới ông Bone, bà đã từng là một Yewbeam. Yewbeam là một dòng họ cổ xưa, với một gia phả có ghi tên những người có máu nghệ sĩ, cũng những người có một số biệt tài, thí dụ như thôi miên, đọc ý nghĩ và ếm bùa.


Charlie biết rằng mình đã làm nội Bone thất vọng vì chỉ là một đứa bình thường. Tệ hơn, trong mắt bà, nó hoàn toàn hạnh phúc vì được làm người bình thường.


Mỗi khi Charlie đi học về, luôn luôn là ngoại Maisie hôn nó một cái hôn ướp nhẹp trên má, rồi ấn một món gì đó chén được vô miệng nó. Hôm nay ngoại Maisie có một cục u bự trên trán.
“Cây dẻ ngu si ấy,” bà méc Charlie.


Nội Bone luôn luôn ngồi trong cái ghế bập bênh cạnh lò sưởi, phê bình việc nấu nướng của ngoại Maisie hoặc tình trạng đầu tóc Charlie. Hôm nay cái ghế bỏ trống. Đó là điều bất thường đầu tiên.


Ngày mai, thứ Bảy, là sinh nhật thứ 10 của Benjamin, và Charlie quyết định tự làm một tấm thiệp sinh nhật, thay vì đi mua. Nó đã chụp hình con chó của Benjamin – con Hạt Đậu – đang cười (đúng hơn là đang nhe mấy cái răng dài và vàng quá sức tưởng tượng).


Charlie đã nhở mẹ nó đem hình đến phóng ở tiệm hình Kwik trên đường mẹ đi làm về. Nó tính sẽ vẽ một trái bong bóng bay, trên có ghi CHÚC MỪNG SINH NHẬT, BENJAMIN! Ngay trên đầu con Hạt Đậu.
Điều bất thường thứ nhì sắp xảy ra.


Vào lúc 4 giờ 5 phút, mẹ Charlie bước vô với một hộp toàn táo với đại hoàng chín nẫu.
“Sẽ làm được một cái bánh hoa quả ngon tuyệt nhé!”


Cô vừa nói vừa đặt cái hộp bên cạnh dĩa ăn của Charlie và hôn lên cái đầu bờm xờm của nó. Cô Amy Bone làm việc bán thời gian trong một cửa hàng rau quả, cho nên luôn luôn có đầy những quả với rau trong nhà số 9.


Charlie né người khỏi đống quả thối. Nó nói:
“Mẹ đã lấy hình cho con chưa?”
Cô Amy Bone thò tay vô túi đi chợ, lấy ra một cái phong bì màu cam to. Cô đặt phong bì bên cạnh dĩa ăn của Charlie.


Charlie mở phong bì ra và phát hiện: không phải Hạt Đậu. Chẳng có cái gì giống Hạt Đậu cả.


Đúng lúc này nội Bone hiện ra. Bà lẩn quẩn ở cửa ra vào, hết sờ lên cổ, vuốt đám tóc bạc trắng, lại kéo vạt váy đen cứng queo. Trông như bà sắp hoàn tất số mệnh đến nơi. Và mặc dù ở tuổi 65, nhưng cái cách của bà khiến cho người ta có thể được tha thứ, nếu có lỡ nghĩ rằng ch.uyện ấy mà xảy ra thì cũng là có hơi trễ một chút.


Tấm hình Charlie cầm trên tay có một người đàn ông ẵm một đứa bé. Ông ngồi trên một cái ghế đẩu. Tóc ông xám, mọc lưa thưa, và mặt ông dài, nhìn sầu não. Ông mặc một bộ đồ nhàu nhỉ màu đen, và câp kính thạch anh dày cộp làm cho đôi mắt xám nhợt của ông trợn trừng thất thần như hai hòn bi.


Thay vì đẩy trở lại vô phong bì, Charlie tiếp tục nhìn chằm chằm vô tấm hình. Đúng ra là nó không cách nào giằng được mắt ra khỏi đó. Nó bắt đầu thấy choáng váng, và trong tai bỗng nổi lên những âm thanh bí hiểm, nghe rè rè, sột soạt như khi dò ra-đi-ô mà chưa đến đúng tần số.
“Ồ… Ừm… Cái gì đây…?” Giọng Charlie nghe xa xăm, như khuất sau một làn sương.
“Gì vậy? Charlie!” Mẹ nó hỏi.
“Có chuyện gì hả?” Nọi Bone lao tới. “Eustacia gọi cho ta, bảo có một điềm báo. Rốt cuộc thì con là một Yewbeam chính cống đấy chứ?”
Ngoại Maisie giận dữ nhìn nội Bone trong khi Charlie kéo kéo lỗ tai và lắc lắc đầu. Giá như cái âm thanh vo vo như nghẹt mũi kinh khủng này ngừng lại được! Nó phải hét lên mới nghe được giọng mình:
“Cửa hàng họ lầm rồi! Con Hạt Đậu đâu?”
“Không việc gì phải hét lên thế, Charlie!”
“Úi Trời! Rõ không phải là con chó rồi!”
“Ôi!” Charlie rên rầm.
Bỗng nhiên, từ mớ âm thanh vo vo, có những tiếng nói lầm bầm thoát ra, nghe càng lúc càng rõ.
Đầu tiên là giọng một phụ nữ, mềm mại, xa lạ: Phải như chú đã không làm thế này, Mostyn.
Mẹ con bé chết rồi. Tôi không còn cách nào. Lần này là giọng đàn ông.
Dĩ nhiên là chú có cách chứ.
Vậy chị nuôi nó nhé? Giọng người đàn ông.
Chú biết là tôi không nuôi được mà. Người phụ nữ trả lời.
Charlie nhìn mẹ. “Ai nói vậy?”
Trông mẹ nó hoang mang. “Ai nói? Nói cái gì, Charlie?”
“Có ông nào trong này hả mẹ?” Charlie hỏi.
Ngoại Maisie khúc khích “Có mình con thôi, Charlie.”
Bỗng Charlie cảm giác như có những móng tay nhọn hoắt ấn ngập xuống vai nó. Nội Bone cúi xuống, ra lệnh”
“Nghe thấy gì? Nói ta nghe nào!”
Charlie thưa, “Có những giọng nói. Con biết nói ra nội sẽ bảo là ngớ ngẩn, nhưng đúng là mấy giọng nói đó phát ra từ tấm hình này.”
Nội Bone gật đầu.
“Thế họ nói gì?”
“Lạy Chúa, bà Bone ơi, đừng có kỳ cục như vậy chứ!” Ngoại Maisie nói.
Nội Bone khinh miệt nhìn ngoại Maisie. “Tôi không kỳ cục đâu.”
Charlie nhận thấy mẹ nó đã lẳng lặng rút lui. Cô kéo một cái ghế ra và ngồi xuống, mặt tái đi, lo âu.
Ngoại Maisie bắt đầu nện mấy cái chảo, miệng lầm bầm:
“Đáng ra bà không nên khuyến khích nó. Toàn thứ rác rưởi. Tôi sẽ không để…”
“Suỵt!” Charlie ra hiệu. Nó nghe tiếng đứa trẻ khóc.
Người phụ nữ lạ lại cất tiếng. Chú làm con bé sợ. Nhìn vô máy chụp hình này, Mostyn. Làm ơn ráng cười lên. Trông chú thiểu não quá.
Chứ chị muốn gì hơn nào? Người đàn ông gắt.
Máy ảnh bấm một cái “tách”.
Rồi. chụp tấm nữa nhé?
Muốn làm gì thì làm.
Một ngày nào đó chú sẽ phải cám ơn tôi. Tiếng người phụ nữ sau ống kính. Nếu chú định làm chuyện này thật, thì đó là thứ duy nhất để chú còn nhớ được về con bé.
Ừmm.
Charlie để ý thấy trong tấm hình có một con mèo thò đầu ra từ phía sau chiếc ghế người đàn ông ngồi. Con mèo có màu hết sức lạ kỳ: đồng đỏ, rực lên như một ngọn lửa.
Từ xa xăm, Charlie nghe tiếng mẹ nó nói: “Mẹ lấy tấm hình lại nhé, Charlie?”
“Không, chưa đâu…” Charlie thì thầm.
Nhưng có vẻ như tấm hình không còn gì để nói thêm nữa. Đứa bé khóc hự hự một lúc rồi cũng im bặt. Người đàn ông ảm đạm kia yên lặng nhìn chằm chằm vô chiếc máy chụp hình, và con mèo…? Hình như nó gừ gừ? Vì ngoại Maisie khua nồi niêu ồn quá nên khó mà nghe được tiếng gì khác.
“im ngay!” nội Bone ra lệnh. “Charlie nó không nghe được.”
“Đúng là toàn chuyện nhảm nhí,” ngoại Maisie làu bàu. “Tôi không hiểu sao cô có thể ngồi ì ra đó vậy, Amy, bảo bà mẹ chồng dở hơi của cô thôi ngay đi. Charlie tội nghiệp. Nó còn bé tí. Nó chẳng có dính dáng quái gì tới lái lũ Yewbeam ngớ ngẩn ấy cả.
“Nó là máu mủ của họ mà.” Mẹ Charlie lặng lẽ nói. “Mẹ không thể bỏ qua điều đó đâu.”
Ngoại Maisie đúng là không thể bỏ qua chuyện đó. Ngoại khép miệng lại thành một đường kẻ mỏng dính.
Charlie hết sức bối rồi. Buổi sáng nó vẫn còn là một thằng bé bình thường. Nó không hề bị cây đũa phép nào chạm vô người hay gõ lên đầu. Nó cũng không bị điện giật hay té xe buýt, hay theo như nó nhớ rõ ràng là nó cũng không ăn phải trái táo tẩm độc nào. Vậy mà bây giờ, nó lại nghe được những giọng nói phát ra từ một tấm hình.
Để trấn an mẹ, Charlie bảo:
“Con nghĩ chẳng có gì đâu. Tại con tưởng tượng ra thôi.”
Nội Bone cúi xuống gần hơn, thở phì phò vô tai nó:
“Nghe lại đêm nay. Mọi thứ sẽ rõ hơn sau nửa đêm.”
“Lúc đó nó ngủ rồi, nói cho bà biết!” Ngoại Maisie – người có lỗ tai thính như tai thỏ - kêu lên. “Toàn chuyện rác rưởi.”
“Hà! Đợi rồi biết!” Nội Bone vặn lại. Rồi bà bước đi, để lại mùi long não và bạc hà khắp trong nhà bếp.
“Lúc nãy con chẳng nghe thấy gì đâu.” Charlie nói khi bà nội đã đi hẳn.
“Chắc không?” Mẹ nó bồn chồn, hỏi.
“Thật. Con làm vậy chỉ để chọc nội Bone thôi mà.” Charlie cố tự thuyết phục mình lẫn mẹ.
“Clm cháu hư thật đấy!” ngoại Maisie sung sướng kêu lên, chém phập con dao phay vô cục xương đầy thịt.
Mẹ Charlie thở phào nhẹ nhõm, mở tờ báo buổi chiều ra đọc. Charlie cất tấm hình vô phong bì. Nó cảm thấy kiệt sức. Có lẽ xem tivi một chút sẽ giúp nó thư giãn. Nhưng nó chưa kịp đứng lên thì chuông cửa đã réo vang và tiếng nội Bone hỏi:
“Benjamin Brown đó hả? Charlie ở trong bếp. Nhớ để con Nám Đậu ghẻ lở ở ngoài đó.”
“Hạt Đậu chứ không phải Nám Đậu ạ” Benjamin đính chính, “Cháu không để nó ngoài này được đâu. Trời đang mưa.”
“Chó khoái mưa.” Nội Bone nói.
Benjamin và con chó của nó xộc vô bếp. Benjamin là một thằng bé ốm nhách, gương mặt xanh xao, tóc màu rơm ướt. Hạt Đậu là một con chó to, mõm dài, lông cũng màu rơm ướt. Vì một lý do nào đó mà Benjamin luôn bị tụi con trai khác trêu chọc. Người ta hay chôm chỉ đồ của nó, xô đẩy nó và cười nhạo nó. Charlie cố giúp bạn nhưng đôi khi đành bó tay. Thật ra, có lúc Charlie nghĩ rằng Benjamin thậm chí cũng không nhận thấy mình là nạn nhân. Cu cậu sống trong thế giới riêng của mình.
Con Hạt Đậu, nghe mùi xương là chạy thẳng đến ngoại Maisie, liếm liếm hai mắt cá chân bà.
“Tránh ra!” Ngoại vừa hét váng lên, vừa búng lỗ mũi con chó.
Benjamin hỏi Charlie, “Bồ sẽ tới dự tiệc sinh nhật mình chớ?”
“Dĩ nhiên,” Charlie đáp, đột nhiên cảm thấy có lỗi về vụ tấm thiệp.
“Tốt, vì mình vừa có một trò chơi cần có hai người mới chơi được.”
Charlie nhận ra không còn ai khác có mặt trong bữa tiệc của Benjamin. Điều này càng khiến nó cảm thấy có lỗi hơn nữa. Con Hạt Đậu bắt đầu ư ử, như thể nó đã đoán ra rằng mình sẽ không thể xuất hiện trên tấm thiệp sinh nhật của Benjamin.
“Mình sẽ tới.” Charlie hớn hở nói.
Nó chưa mua quà. Có lẽ nó sẽ phải chạy ù ra cửa hàng trước khi bắt đầu cuộc săn lùng của mình. Nhưng săn lùng là săn lùng gì? Có cái gì đó đang choán giữ tâm trí của Charlie.
Benjamin phấn khởi rủ:
“Đi dạo với Hạt Đậu không?”
“Ừ.”
Khi Charlie và Benjamin bước ra khỏi nhà, ngoại Maisie hét theo câu gì đó, đại loại về chuyện ăn tối, nhưng gió mạnh thổi ù ù trên đầu hai đứa, lại thêm một tiếng sấm nổ đùng, nhấm chìm lời nói của bà. Con Hạt Đậu “ẳng” lên một tiếng vì bị cây dẻ quật vô mũi một phát. Và Charlie cuối cùng cũng mỉm cười được.


Hai thằng bé và con chó chạy lốc thốc trog gió, lá bay cả vô mặt chúng, rồi mắc lại trên áo người và lông chó. Ở ngoài trời thế này Charlie thấy dễ chịu hơn. Có lẽ chuyện lúc nãy là nó tưởng tưỡng thật. Có lẽ đúng là nó đã không nghe thấy giọng nói gì cả. Tất cả chỉ là chuyện ngớ ngẩn nào đó mà nó tự làm cho mình tin, rồi nội Bone lại khuyến khích nó, làm ngoại Maisie khó chịu và mẹ nó lo lắng.
“Đúng. Toàn là rác rưởi.” Nó khoái chí thét lên.
“Lá nữa,” Benjamin thêm vô. Nó nghĩ Charlie đang nói về đám rác đang bị gió thổi trên đường.
“Ừ, lá nữa” Charlie ngâm nga. Nó thấy một tờ báo bay về phía mình liền giơ chân ra chặn lại. Nhưng tờ báo bất ngờ bay vổng lên theo cơn gió mạnh rồi tự quấn quanh bụng Charlie. Khi Charlie lôi tờ báo ra thì một tấm hình trên trang nhất đập ngay vô mắt nó.
Một anh chàng trông vẻ tiểu nhân đứng trên mấy bậc cấp của một tòa nhà màu xám. Gương mặt anh ta dài, nhọn, với một tí ria lún phún mọc phía trên cái môi mỏng dính. Tóc đen, chẻ ngôi giữa, cột túm ra sau thánh cái đuôi ngựa.
“Gì thế?” Benjamin hỏi.
“Một anh chàng thôi,” Charlie đáp, nhưng nó ngờ rằng đây không phải là một anh chàng bất kỳ nào.
Benjamin cúi đầu, tì vô cánh tay Charlie, đọc: “Manfred Bloor, 17 tuổi, được cứu sống trong vụ hỏa hoạn tại Học viện Bloor ngày hôm qua. Manfred nói rằng cậu thật may mắn còn sống sót”.
“Không, không phải.” Charlie hổn hển.
“Bồ bảo không phải, nghĩa là sao?” Benjamin hỏi lại.
“Không phải anh ta nói thế,” Charlie thì thầm.
Và đột nhiên nó ngồi bệt ra đất, dựa lưng vô tường. Tờ báo trải dài trên cánh tay, Charlie thất kinh vì những lời lần lượt bò ra từ bức hình.
Ai đó sẽ phải trả giá cho chuyện này.
“Sao bồ có thể…” Benjamin mở miệng định nói.
Charlie kêu lên, “Im coi, Ben. Mình đang lắng nghe.”
“Nghe cái gì?”
“Suỵt!”
Khi Charlie nhìn chằm chằm vô Manfred Bloor, nó nghe thấy có rất nhiều tiếng la to, và rồi giọng mọt phụ nữ nổi bật lên khỏi những tiếng nói khác:


Cậu đang buộc tội ai đó, phải không Manfred?
Đúng vậy! Một giọng nói khàn khàn đáp lại.
Sao cậu lại nghĩ đây không phải là một tai nạn.
Lại giọng nói khàn khàn. Tôi không phải là đồ ngu. Đó là lý do.
Một người đàn ông nói: Đội cứu hỏa cho chúng ta biết có một cây nến bị cháy bùng lên. Các ông bà không tin sao?


ĐỦ RỒI! Người nói câu này có giọng nói rít sâu đến rợn xương.
Charlie đánh rớt tờ báo. Tờ báo cuộn bay ra xa rồi rớt tõm vô trong máng xối.


“Charlie, chuyện gì vậy? Benjamin nôn nóng hỏi.
Charlie thở dài thượt. Nó bảo, “Mình nghe thấy những giọng nói.”
“Ồ, thôi đi. Giọng nói kiểu gì?”
Benjamin tới ngồi sát bên Charlie. Con Hạt Đậu nép mình bên Benjamin.
Benjamin không bao giờ và chưa bào giờ nói, “đó là chuyện rác rưởi, vớ vẩn”. Nó coi mọi thứ trên đời là nghiêm túc hết, điều này không phải lúc nào cũng dở.


Charlie kể cho Benjamin nghe về bức hình con Hạt Đậu bị nhằm thành hình một ông ẵm đứa bé.


Charlie rầu rầu, “Đáng lẽ đã có một tấm thiệp sinh nhật bất ngờ cho bồ. Giờ thì không còn nữa. Mình xin lỗi.”
“Không sao, không sao. Kể tiếp chuyện tấm hình đi.” Benjamin háo hức.
Charlie giải thích rằng nó đã nghe thấy những tiếng nói khi nhìn vô người đàn ông và đứa bé; thậm chí còn nghe đứa bé khóc và tiếng con mèo kêu rừ rừ.
“Kỳ quái.” Benjamin thì thầm.
“Mình đã cố tự nhủ là do mình tưởng tượng ra thôi.” Charlie nói, “Nhưng khi thấy tờ báo thì chuyện đó lại xảy ra. Mình nghe được các phóng viên phỏng vấn cái anh có hình trên trang nhất. Mình cũng nghe được cả giọng nói của anh ta nữa. Nghe có vẻ bần tiện và quỷ quyệt lắm. Rồi lại có ai đó nói, “Đủ rồi!”, đó là giọng nói gớm nhất mình nghe trong đời.”


Benjamin run rẩy. Con Hạt Đậu tru lên ra điều đồng cảm.
Hai đứa ngồi đó, vai kề vai, trên vỉa hè ướt át, không biết phải làm gì. Gió thổi lá cây tấp vô chúng. Sấm nổ ầm ì xa xa.


Trời bắt đầu đổ mưa. Con Hạt Đậu huých khuỷu tay Benjamin, rên ư ử. Nó ghét bị ướt. Và rồi, cùng lúc với một tiếng sấm đinh tai, một người đàn ông hiện ra sừng sững ngay trước mặt bọn nhóc. Ông ta mặc áo mưa, mái tóc ướt dính bết vô tràn thành một mảnh đen rậm.
“Trời mưa,” người đàn ông thông báo. “Hai đứa bây không để ý thấy sao?”
Charlie nhìn lên và kêu to kinh ngạc:
“Ông cậu Paton!”


Ông cậu Paton là em trai của nội Bone, ông nhỏ hơn bà hai mươi tuổi và họ hoàn toàn không hợp nhau. Ông cậu Paton sống một cuội đời bí hiểm, thậm chí ăn cũng không ăn chung với mọi người. Ông không bao giờ ra ngoài vào ban ngày.


“Ở nhà mọi người đang truy lùng mày,” Ông cậu Paton bảo Charlie.
Charlie và Benjamin đứng dậy, lắc lắc đôi cẳng tê nhừ. Đây là điều bất thường thứ ba xảy ra trong ngày hôm nay. Trời chưa đủ tối mà ông cậu Paton dám liều ra ngoài.


Charlie tự hỏi có chuyện gì xảy ra mà gây nên hành động quyết liệt đến như vậy.
 
Thật khó mà chạy theo kịp ông cậu Paton. Ông lướt gió xé mưa mà đi, như thể trên hông cũng có một cặp bốt vậy.
“Mình chưa bao giờ thấy ông cậu ra ngoài ban ngày cả,” Benjamin thở hổn hển. “Ông ấy hơi kỳ dị hả?”
“Hơi hơi,” Charlie đồng tình, nhưng vẫn hơi sờ sợ người ông kỳ dị của mình. Nó hối cả lên vì ông cậu Paton đã chạm tới những bậc cấp nhà số 9.


Benjamin rớt lại đằng sau. Nó nhón gọi Charlie, “Có chuyện gì trong gia đình bồ rồi. Hy vọng ngày mai bồ vẩn đến dự sinh nhật mình.”
“Không gì ngăn được mình đâu,” Charlie vừa nói vừa chạy tới chỗ ông cậu.
“Không cho chó vô,” Ông cậu Paton nói, ngay lúc Benjamin và con Hạt Đậu bám kịp họ.
“Ối, làm ơn mà ông?” Benjamin nài nỉ.
“Hôm nay không được,” ông cậu Paton cương quyết. “Đây là chuyện gia đình. Về nhà đi.”
“Thôi được, chào nhe Charlie.” Benjamin lê bước đi khỏi, theo sau là con Hạt Đậu với tai cụp, đuôi cụp lủng lẳng thả giữa hai cẳng. Trông đứng là chó cụp đuôi.


Ông cậu Paton dẫn Charlie vô nhà bếp rồi biến mất lên lầu.


Charlie thấy mẹ và hai bà nội bà ngoại ngồi bên bàn ăn. Ngoại Maisie trông có vẻ phiền lòng, nhưng một nụ cười bí hiểm lại đậu trên đôi môi mỏng của nội Bone. Mẹ Charlie bồn chồn khuấy tách cà phê. Charlie không thể hiểu nổi sao mẹ lại khuấy như thế, mẹ nó vốn không uống đường mà.
“Ngồi xuống, Charlie,” nội Bone ra lệnh cứ như sắp sửa trình bày một việc hoàn toàn vì lợi ích của nó.
“Đừng để nhà Yewbeam dắt mũi cháu nghe chưa!” ngoại Maisie thì thầm, cầm tay Charlie, vỗ vỗ.
Charlie hỏi, “Có chuyện gì vậy ạ?”
“Các bà cô nhà Yewbeam sắp đến,” mẹ nó đáp.
“Sao thế?” Charlie thắc mắc.


Các bà cô Yewbeam tức là ba người em chưa chồng của nội Bone. Charlie chỉ gặp họ vào Giáng sinh, và nó đã hình thành một ấn tượng rằng họ thất vọng về nó sâu sắc. Họ cứ để lại những món quà kỳ quặc, đại loại như hộp bút vẻ, nhạc cụ, mặt nạ, áo choàng, thậm chí cả một lô những hóa chất. Nó thấy chẳng có món nào trong số đó có ích tí ti gì. Vấn đề là nó thích bóng đá và tivi.


Nội Bone nhoài người qua bàn. Mắt quắc lên đầy bí mật.
“Mấy cô em của ta sắp đến đây để kiểm tra con đấy, Charlie. Nếu thấy rằng con xứng đáng – có nghĩa là con có phép thuật, như ta vẫn ngờ ấy – thì họ sẽ cung cấp tiền của cần thiết để gởi con đến Học viện Bloor.
“Con? Đến Bloor?” Charlie thất kinh. “Chỗ đó dành cho bọn thiên tài mà!”
“Đừng lo, cưng. Cháu sẽ thi rớt cho coi,” ngoại Maisie nói chắc nịch. Bà đứng lên, lẩm bẩm. “Dĩ nhiên lại cái thân già Maisie này phải lo chuẩn bị để đón tiếp mấy Mụ Hâm chứ gì? Không biết tại sao tôi lại phải lo lắng thế chứ.”
“Sẽ có một bữa tối dọn lên đại các bà cô”, mẹ Charlie giải thích. Những dao nĩa bạc đẹp nhất, những đồ pha lê tinh xảo nhất, những đồ sứ quý giá sẽ được mang từ hầm chứa lên, đặt trong cái phòng ăn giá lạnh – một căn phòng chỉ dùng vào những dịp các bà cô nhà Yewbeam đến. Ngoại Maisie đang rã đông gà và cá và mấy món khác có trời mà biết, cố thật lẹ hết sức.


Vì tin chắc mình sẽ không thể nào qua được cuộc kiểm tra của các bà cô, nên Charlie không thấy lo lắng gì. Nó nhớ lại mình đã từng cố gắng thế nào để vẽ một bức tranh tặng họ nhưng thất bại thê thảm. Rồi nó đã vô vọng đến mức nào trong việc chơi vĩ cầm, thổi sáo, gãy đàn hạc hay đánh piano. Nó cũng từng đeo đống mặt nạ họ cung cấp: mặt nạ thú, mặt nạ hề, cướp biển, cao bồi, người ngoài hành tinh, nhưng loay hoay thế nào cũng chỉ ra được đúng thằng Charlie Bone. Cuối cùng nó đánh thừa nhận rằng mình không có tài phép.


Cho nên khi chờ các bà cô Yewbeam đến, Charlie không thấy sợ như đáng ra nó phải sợ.


Benjamin trái lại, hết sức lo sợ. Charlie là bạn thân nhất của nó, bạn duy nhất của nó. Bất cứ việc gì xảy ra với Charlie đều sẽ gián tiếp xảy ra với nó. Có những biến cố mang điềm gở đang tiến đến gần thằng bạn thân của nó. Benjamin ngồi bên cửa sổ phòng ngủ nhà mình, theo dõi căn nhà của Charlie. Khi bóng đêm đổ xuống, đèn đường bừng lên, thì trong ngôi nhà phía sau cây dẻ, ánh sáng nhấp nha nhấp nhảy: dưới tầng hầm, trên gác mái và trong tất cả những phòng ngủ. Chuyện gì đang xảy ra vậy?


Gió thổi mạnh lên. Sấm ùng oàng, chớp loa lóa. Có nghĩa là bão đang ở ngay trên đầu. Benjamin bám lấy con Hạt Đậu, và con chó to giấu mặt vô ống tay áo của Benjamin.


Đường phố lúc này vắng tanh, ngoại trừ ba bóng người mờ ảo. Khi ba cái bóng tiến đến gần, một hàng dù đen che sùm sụp hết, chỉ chừa lại những cái lai của ba chiếc áo khoác đen và sáu chiếc ủng: bốn chiếc màu đen và hai chiếc màu đỏ. Mặc cho gió giật, họ vẫn chuyển động theo một nhịp điệu lạ lùng, như thể đang có khiêu vũ bên dưới những tán dù rộng. Đúng như Benjamin đã lo sợ, ba bóng người dừng lại bên cây dẻ. Rồi họ leo lên những bậc tam cấp vô nhà Charlie.


Lần đầu tiên trong đời, Benjamin vui mừng rằng mình không phải là Charlie Bone.


Trong nhà số 9, bàn ghế đã dọn xong, những khúc củi ấm cháy âm ỉ trong lò sưởi. Khi chuông cửa reng, Charlie được phái ra mở cửa. Ba bà cô nhà Yewbeam lướt vô. Họ dậm dậm chân xuống sàn nhà lát gạch bông, lắc lắc những chiếc dù ướt, quăng những áo choàng vút qua hành lang, đậu lên người Charlie, như thể nó là một cái mắc áo vậy.


“Nhặt lên chứ, thằng kia!” Bà cô Lucretia ra lệnh trong khi Charlie vùng vẩy bên dưới mớ vải vóc ướt sũng. “Đấy là lông chuột chũi quý chớ có phải giẻ rách đâu!”
“Nào, đừng cộc cằn thế chứ, Lucretia!” Bà cô Eustacia nhỏ nhẹ. “Charlie có một bí mật sắp kể cho chúng ta nghe, đúng không con?”
“Dạ,” Charlie lầm bầm.
“Đừng mắc cỡ nữa.” Bà cô Venetia, trẻ nhất, ưỡn ẹo đi lại gần nó. “Chúng ta muốn biết mọi chuyện.”
“Nhà Yewbeam, vô đây, vô đây!” Nội Bone gọi với ra từ phòng ăn.


Ba bà cô oai vệ bước qua ngưỡng cửa: Lucretia, lớn tuổi nhất, đi đầu, Venetia trẻ nhất đi cuối. Giật lấy những ly rượu xe-ri từ tay nội Bone, họ ngồi tụm quanh cái lò sưởi leo lét, giũ giũ những chiếc váy ướt, vỗ vỗ những mớ tóc dày. Tóc Lucretia trắng như tuyết, tóc Eustacia màu muối tiêu, tóc Venetia vẫn còn đen nhánh, quấn quanh đầu như đôi cánh quạ.


Charlie lùi lại, chạy tọt ra nhà bếp, nơi mẹ nó và ngoại Maisie đang bận rộn nấu nướng.


Mẹ nó dịu dàng:
“Con mang xúp vô được chứ, Charlie?”
Charlie không muốn ngồi ngoài đó một mình với các bà cô nhà Yewbeam, nhưng trông mẹ nó có vẻ nóng nực và mệt lử, nên mẹ bào gì nó làm nấy.


Liễn xúp nặng chịch. Charlie cảm giác những tia mắt sáng quắc của các bà cô nhà Yewbeam bám theo sau nó dọc quanh cái bàn ăn dài. Nó đặt liễn xúp lên một tấm lót dĩa rồi chạy đi lấy tô, trước khi nội Bone kịp kêu ca về mấy giọt xúp sóng ra ngoài.


Khi tất cả mọi thứ đã sẵn sàng, nội Bone rung lên một hồi chuông mà Charlie cho là hết sức ngớ ngẩn. Mọi người ai mà chẳng thấy thức ăn đã dọn cả lên bàn rồi. Nó hỏi:
“Sao nhà ta lại cần chuông vậy?”
“Truyền thồng,” nội Bone cáu kỉnh. “Với lại mũi Paton không ngửi được.”
“Nhưng ông cậu Paton có bao giờ ăn chung với chúng ta đâu!”
“Hôm nay,” nội Bone nhấn mạnh,”ông ấy sẽ ăn.”
“Và vụ đó sẽ chấm hết.” Ngoại Maisie nói, cười toe toét, nhưng cái cười héo úa ngay khi bốn bà kia quay sang nhìn ngoại chòng chọc.
Ông cậu Paton bước vô, trông có vẻ bực bội, và bữa ăn bắt đầu. Ngoại Maisie đúng là đã cố hết sức, nhưng mười phút là hơi ngắn để chế biến một bữa ăn có cái gì đó cho độc đáo. Xúp mặn chát, thịt gà bị khô, bánh nướng nhân thịt trông ảm đạm, nhão nhoét. Nhưng không ai phàn nàn gì. Mọi người ăn nhanh chóng và thật tình.


Ngoại Maisie và mẹ Charlie dọn bàn. Ông cậu Paton và Charlie phụ một tay. Đã đến giờ làm bài sát hạch. Charlie phát hiện ra mẹ nó không được có mặt. Nó nói”
“Con sẽ không vô đó đâu nếu không có mẹ! Con không vô đâu!”
Mẹ nó bảo:
“Charlie, con phải vô. Nhà Yewbeam có nhiều tiền. Mẹ không có gì cả.”
Ngoại Maisie thở dài:
“Tôi thất vọng quá vì đến cô cũng muốn Charlie đi học cái trường lố bịch đó.”
“Vì cha nó,” mẹ Charlie đáp.
Ngoại Maisie liếm môi, không nói gì nữa.
Ba Charlie mất rồi, vậy sao việc này lại quan trọng đến vậy? Mẹ nó ló lẽ sẽ chẳng nói gì cho nó biết, chỉ đẩy nhẹ nó về phía phòng ăn, và nó đi vô.
“Cháu muốn mẹ cháu ở đây, nêu không cháu sẽ không làm đâu,” Charlie nói.
Bà cô Venetia liền trêu nó ngày, “Ối chao, ối chao, có thằng bé đòi mẹ kìa!”


Bà cô Lucretia lạnh lùng, “Con nít mới đòi mẹ kiểu ấy. Lớn rồi nha Charlie. Đây là việc nhà Yewbeam. Chúng ta không muốn bị rối trí.”
Lúc này ông cậu Paton tính lên đi, nhưng bà chị cả gọi giật ông lại:
“Paton, cậu cần ở đây. Làm bổn phận của mình một lần đi xem nào!”
Charlie bị ấn ngồi vô một bên bàn, đối diện với bốn bà. Ông cậu Paton ngồi ở cuối bàn. Charlie tự hỏi không biết họ sẽ sát hạch nó bằng cách nào đây. Coi bộ không có nhạc cụ, cũng không có mặt na hay cọ vẽ ở trên bàn. Nó chờ đợi còn mọi người thì dòm nó.
Bà cô Lucretia đột nhiên thắc mắc:
“Thằng bé moi đâu ra cái thứ tóc này nhỉ?”
“Bên nhà mẹ nó,” nội Bone giải thích. “Đúng là một thằng mọi xứ Wales.” Bà nói, tựa hồ như không có mặt Charlie ở đó vậy.
“A…,” cả ba bà cô cũng thở dài, chán chường.
Bà cô Lucretia lục lọi trong một cái túi da to xụ. Cuối cùng bà lôi ra một gói giấy màu nâu thắt dây đen. Bà tháo sợi dây và cái gói mở bung ra, để lộ một xấp hình trông như đồ cổ.
Nội Bone đẩy cái gói qua phía Charlie, nhưng tấm hình trải rộng ra khắp bàn.
“Cháu phải làm gì với mấy cái này?” Charlie hỏi mà biết thừa họ muốn nó làm gì.


Các bà cô mỉm cười động viên.


Charlie cầu nguyện cho đừng có gì xảy ra, cầu sao cho nó có thể liếc bộ sưu tập bụi bặm này một cái rồi ngoảnh đi ngay, trước khi nghe thấy những giọng nói. Nhưng, nhìn thoáng qua một cái, nó đã bi những người trong hình đang gây ra bao nhiêu là tiếng ồn: Họ chơi đàn – hồ cầm, dương cầm, vĩ cầm. Họ khiêu vũ, hát, cười đùa. Charlie giả bộ như không nghe. Nó thử đẩy xấp hình về phía bà cô Lucretia. Bà đẩy trở lại nó.
“Con nghe thấy gì, Charlie?” Nội Bone hỏi.
“Không thấy gì ạ,” Charlie đáp.
“Coi nào, Charlie, cố lên,” bà cô Venetia giục.
“Và đừng có nói dối đấy,” bà cô Eustacia nhắc nhở.
“Không thì chúng tao sẽ làm mày khóc thét lên bây giờ,” bà cô Lucretia gầm gừ.
Câu nói đó khiến Charlie tức giận. Nó sẽ không khóc thét lên vì bất cứ ai. Nó đẩy mấy tấm hình ra xa và nói:
“Cháu không nghe gì.”
Bà cô Lucretia đẩy lại:
“Không nghe thấy gì chứ. Mày phải nói “không nghe thấy gì” , chứ không phải không nghe gì . Ngữ pháp để đâu hả, thằng kia. Không ai dạy mày à?”
“Rõ ràng nó cần phải vô Học viện,” bà cô Eustacia nhận xét.
“Chỉ cần nhìn vô mấy tấm hình thôi mà, Charlie cưng!” Bà cô Venetia ngọt ngào. “Nhìn một phút thôi, bà nếu không có gì xảy ra thì chúng ta sẽ để con yên, xong rồi chúng ta…” (bà vẩy những ngón tay trắng dài) “… tan biến luôn.”
“Thôi được,” Charlie hậm hực đồng ý.
Nó nghĩ nó có thể thoát khỏi vụ này – chỉ cần nhìn vô mấy bức hình và bỏ ngoài tai những âm thanh. Nhưng đâu được. Tiếng hồ cầm, dương cầm, giọng nữ cao hát ô-pê-ra chen lẫn những tiếng cười rú lên ùa vô tai nó, tràn ngập cả căn phòng. Các bà cô đang nói gì đó với nó mà nó chỉ thấy môi họ mấp máy, chứ không thể nghe được lời nào giữa bề huyên náo dễ sợ của mấy tấm hình.


Cuối cùng Charlie chụp lấy xấp hình và quẳng mạnh đi, gục mặt xuống bàn. Không gian im lặng đột ngột quá là sự xoa dịu tuyệt vời. Các bà cô nhìn nó chằm chằm, lặng lẽ nhưng đắc thắng.


Bà cô Venetia là người đầu tiên cất tiếng:
“Thấy chưa, đầu đến nỗi phải không Charlie?”
Charlie nhận ra nó đã mắc bẫy. Trong tương lai, nó cần phải dè chừng bà cô Venetia. Rõ ràng là bà ta quỷ quái hơn mấy bà chị của mình. Charlie đau khổ nói:
“Tất cả những người đó là ai vậy?”
“Tổ tiên của cháu đấy, Charlie,” bà cô Lucretia đáp. “Dòng máu Yewbeam chạy trong huyết quản họ và cả trong huyết quản cháu, thằng cu thông minh à.” Thái độ của bà đã thay đổi hoàn toàn. Nhưng bà Lucretia khi dễ thương thì cũng đáng sợ không thua gì khi bà Lucretia hiểm độc.
“Giờ con đi được rồi đó, Charlie” nội Bone nói. “Chúng ta cần bàn luận đôi chuyện. Thu xếp chuyện tương lai cho con.”
Charlie nghe thấy được đi thì mừng quá. Nó nhổm dậy, bước ngay ra cửa. Trên đường đi, nó bắt gặp gương mặt của ông cậu Paton, trông có vẻ ủ ể và xa vắng, khiến nó tự hỏi tại sao ông đã không nói lấy một lời nào suốt thời gian có mặt trong phòng. Ông cậu Paton cười nhẹ với nó một cái rồi nhìn đi chỗ khác.


Charlie vội vã ra nhà bếp, nơi ngoại Maisie và mẹ nó đang nôn nóng chờ kết quả cuộc sát hạch. Nó rầu rĩ loan báo:
“Con nghĩ con đậu rồi.”
Ngoại Maisie thừ người ra, nói:
“Ừm, ngoại cũng nghĩ vậy. Lúc nãy ngoại tưởng con thoát được vụ đó chớ, Charlie. Lại mấy cái âm thanh đó hả?”
Charlie gật đầu, trông thê thảm. Ngoại Maisie lắc đầu:
“Bọn Yewbeam điên rồ.”
Tuy nhiên, mẹ Charlie không đến nỗi quá buồn. Cô bảo:
“Học viện sẽ tốt cho con.”
Charlie giãy nảy:
“Không. Con không muốn đi đâu. Chỗ cũ kỹ chán phèo đó cho bọn thiên tài nó ở. Con không hợp. Ở tuốt đầu kia thành phố, con đâu quen ai ở đó. Nếu con không chịu đi thì sao, mẹ?”
Mẹ nó nói, khoát tay trỏ khắp nhà bếp:
“Nếu con không chịu đi… tất cả những thứ này sẽ biến mất.”
Charlie sững sờ. Vậy các bà cô của nó là phù thủy sao? Làm cho nhà cửa biến mất chỉ bằng một cái vẫy đũa phép, hay vẩy cái dù? Nó hỏi lại:
“Ý mẹ nói là cái nhà có thể biến luôn?”
“Không hẳn vậy.” mẹ nó nói. “Nhưng cuộc sống của chúng ta sẽ thay đổi. Ngoại Maisie và mẹ không có gì cả. Không cả một hạt đậu. Khi ba Lyell của con qua đời, chúng ta sống nhờ vào lòng thương của bà Yewbeam. Họ cung cấp tất cả mọi thứ. Họ mua nhà, thanh toán các hóa đơn. Mẹ xin lỗi, Charlie, nhưng con phải đi học ở trướng Bloor nếu như họ muốn thế.”
Charlie cảm thấy hết sức mệt mỏi.
“Thôi được, giờ con đi ngủ đây.”
Nó đã quên khuấy cái phong bì màu cam, nhưng khi vô gi.ường, nó thấy cái phong bì đã nằm trên gối. Hẳn mẹ nó đã phải giải cứu cái phong bì khỏi đống đồ ăn và chén dĩa trên bàn. Charlie quyết định sẽ không dành thêm giây nào nửa để nhìn người đàn ông ẵm đứa bé. Ngày mai nó sẽ mang thẳng ra tiệm hình Kwik đổi lấy hình con Hạt Đậu.
Khi mẹ đến chúc ngủ ngon, Charlie níu mẹ ngồi lại trên gi.ường để trả lởi mấy câu hỏi của nó. Cảm thấy mình xứng đáng được biết thêm về bản thân trước khi đặt chân vô trường Bloor, nó hỏi:
“Trước tiên, con muốn biết thật sự điều gì đã xảy ra với ba con. Mẹ kể lại cho con nghe đi.”
“Mẹ đã kể cho con bao nhiêu lần rồi còn gì, Charlie. Trời đầy sương mù. Ba con mệt mỏi lái xe chệch khỏi đường và lao xuống hầm đá sâu một trăm mét.”
“Tại sao mình không có hình của ba? Không có lấy một tấm nào.”
Một thoáng tối sầm lướt qua gương mặt mẹ.
“Có chứ. Nhưng một hôm, khi mẹ đi vắng, thì tất cả hình biến mất. Ngay cả bức nhỏ xíu mẹ lồng trong mặt đá hình trái tim cũng biến luôn.”
Charlie chưa bao giờ nghe chuyện này.
“Sao lại thế?” Nó hỏi.
Cuối cùng em đành kể cho nó nghe sự thật về nhà Yewbeam – họ đã thảng thốt ra sao khi Lyell yêu Amy Jones, một cô gái bình thường, chẳng có tài năng gì xuất chúng. Tóm lại là không có phép thuật.
Nhà Yewbeam cấm hai người lấy nhau. Luật lệ hà Yewbeam cổ xưa và nghiệm ngặt. Phụ nữ có thể cưới người mà họ chọn, nhưng đàn ông nhà Yewbeam chỉ được một cô gái có phép lạ nào đó. Lyell đã phá luật. Anh và Amy Jones chạy trốn qua Mexico cưới nhau.
Mẹ Charlie thở dài, nói tiếp:
“Ba mẹ đã có một kỳ trăng mật tuyệt vời. Nhưng khi về đến nhà, mẹ biết rằng ba con rất lo lắng. Rốt cuộc ba không thể thoát khỏi họ. Ba luôn phải ngoái nhìn lại sau lưng, trốn chạy những cái bóng theo đuổi. Rồi một đêm mù sương, khi con được hai tuổi, ba con nhận được một cú điện thoại. Một trát triệu hồi, đúng vậy. Nội Bone bệnh, ba con phải về ngay. Cho nên ba lái xe hơi đi và… lao xuống hầm đá.”
Mẹ Charlie nhìn trân trân vô khoảng không mất một lúc, lẩm bẩm:
“hôm đó ba con lạ lắm, không phải là ba nữa. Có một cái gì đó đã xảy ra. Cứ như ba bị ểm bùa vậy.”
Rồi cô quệt một giọt nước mắt:
“Mẹ không nghĩ trong nội Bone có lấy một gờ-ram tình yêu nào. Đối với những người trong nhà Yewbeam, việc Lyell chết chỉ là kết thúc một giai đoạn xui xẻo. Nhưng họ lại quan tâm đến con, Charlie. Biết đâu con lại có phép thì sao? Họ nhận ra phải chăm sóc con cho đến khi biết con có phép không. Cho nên họ cho mẹ một căn nhà, cho ngoại Maisie sống chung. Sau đó nội Bone đến. Để canh chừng chúng ta mà. Rồi tới ông cậu Paton, bởi vì… à… mẹ nghĩ chắc tại ông ấy không có chỗ nào khác để ở. Mẹ biết ơn tất cả mọi thư, cho đến khi tất cả đám hình biến mất. Đó là điều mẹ không thể hiểu nổi. Dĩ nhiên nội Bone nói là nội không hề động đến chúng.”
Charlie lắng nghe câu chuyện của mẹ rồi lắp ráp các sự kiện lại với nhau. Nó lầm bầm:
“Con biết vì sao tất cả hình của ba lại biến mất rồi. Nội Bone không muốn con nghe thấy điều ba con cần phải nói.”
“Nhưng Charlie, lúc đó con mới có hai tuổi. Lúc ấy nội không hề biết con có cái tài kỳ cục là nghe được tiếng nói!”
“Nhưng nội đoán được,” Charlie nói. “Trong dòng họ thể nào cũng có người như vậy rồi.”
Vẻ mặt nghiêm trọng của nó khiến mẹ nó phì cười. Cô hôn nó và bảo nó đừng lo lắng về gia đình nhà Yewbeam nữa.
“Và cũng đừng lo lắng gì vụ Học viện Bloor. Dù gì thì ngày xưa ba con cũng học ở đó ra mà.”
“Ba có tài phép chứ mẹ?”
“Ồ, có chứ,” mẹ nó nói khi đã ra đến cửa. “Nhưng không phải như kiểu của con, Charlie à. Ba không có phép. Ba là một nhạc công.”
Khi mẹ đi rồi, Charlie trằn trọc không sao ngủ được. Có quá nhiều thứ ngổn ngang trong đầu nó. Quả là không yên ổn nổi khi nghĩ mình lại là con cháu của một dòng họ kỳ quái như vậy. Nó muốn biết nhiều hơn. Nhiều hơn nữa. Nhưng bắt đầu từ đâu bây giờ? Có lẽ ông cậu Paton sẽ cung cấp vài câu trả lời. Xem ra ông không lạnh lùng băng giá như những bà chị của mình.
Bão đã ngừng. Mưa cũng thôi rơi. Gió dừng lại và đồng hồ nhà thờ lớn gõ chuông nửa đêm. Đến hồi cuông thứ mười hai, bất thình lình, Charlie cảm thấy ngạt thở. Có cái gì đó xảy ra trong nó. Cứ như là nó đang đi qua một khoảng khắc giữa sự sống và cái chết. Nó nghĩ đến Lyell, người cha mà nó không sao nhớ ra nổi.
Cái khoảnh khắc đó trôi qua, và Charlie thấy mình tỉnh như sáo, nhưng bồn chồn. Vài phút sau, nó nghe tiếng ông cậu Paton cót két đi xuống cầu thang, vô nhà bếp lục đồ ăn. Từ bé tới lớn, Charlie vốn đã quen với sự ngao du đêm hôm của ông cậu Paton. Việc đó đêm nào cũng làm nó thức giấc, nhưng thường nó chỉ trở mình một cái rồi ngủ lại ngay. Đêm nay nó nhảy ra khỏi gi.ường, mặc quần áo vô.
Khi ông cậu rời khỏi nhà, Charlie rón rén đi xuống lầu, bám theo. Trước giờ nó vẫn muốn làm điều này nhưng không bao giờ có gan làm. Tối nay thì khác, nó cảm thấy tự tin và dứt khoát. Ông cậu Paton đi el5 quá. Lúc Charlie vừa khép cửa trước, ráng thật nhẹ nhàng, thì ông cậu Paton đã quẹo khuất góc phố. Ép sát mình vô những ngôi nhà, Charlie chạy tới cuối đường.
Ông cậu Paton dừng lại nhìn ra sau. Charlie vội thu mình vô một góc tối. Con đường mà họ mới quẹo vô được thắp sáng bằng những bóng đèn nhỏ hình quả chuông, tỏa ánh sáng dịu lên mặt đường rải sỏi ướt. Ở đây, cây cối mọc sát nhau hơn, những bức tường cũng cao hơn. Đúng là một nơi im ắng, huyền bí.
Ông cậu Paton đi tiếp, nhưng những sải chân của ông, lúc trước gấp gáp đầy chủ đích, giờ đã như dạo bộ thảnh thơi. Nhảy cóc từ thân cây này tới gốc cây kia, chẳng mấy chốc Charlie đã chỉ còn cách ông cậu có vài bước.
Một cơn gió rùng mình rít qua tai Charlie và nó bỗng tự hỏi liệu cuộc bám gót nửa đêm này của mình sẽ đưa đến đâu. Rốt cuộc ông cậu Paton vẫn chưa hóa thành ma cà rồng hay biến thành người sói. Có thể ông chỉ thấy sung sướng khi được ở trong bóng đêm mà thôi. Charlie đang định quay lại, tìm đường về nhà thì bỗng nhiên ông cậu Paton dừng phắt lại. Ông đứng cách một cột đèn chừng một mét, và từ ông phát ra một tiếng vo vo kiểu gì đó rất lạ. Chính xác thì không phải là tiếng vo vo, vì Charlie không thể nghe ro được. Đúng hơn là một cảm giác vo vo, như thể không khí quanh ông ngập tràn một thứ âm nhạc không tiếng động.


Ánh sáng từ bóng đèn bỗng rực sáng hơn, sáng lóa đến nỗi Charlie gần như không nhìn thẳng vô nó được. Thế rồi một tiếng “crắc” bé xíu, bóng đèn vỡ tan, những mảnh thủy tinh sáng lóa rơi lả tả xuống đất.


Charlie há hốc miệng kinh ngạc. Nó dụi mắt. Không chừng đó chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên: có thể đúng lúc. Ông cậu nó đứng đó thì bóng đèn nóng quá, thủy tinh không chịu được mà vỡ ra mà thôi.


Ông cậu Paton bước tiếp và Charlie đi theo, vẫn núp sau những thân cây. Khi tới một cột đèn nữa, ông cậu sáng lóa dữ dội, ông vẫn bước ngang qua trước khi cái bóng thủy tinh vỡ tan. Rồi sau đó, không hề quay đầu lại, ông hỏi”
“Tại sao lại bám theo ta?”
 
Charlie tê cứng người. Nó không ngờ đã bị ông cậu trông thấy. Nhưng rồi câu hỏi kia lại vang lên, “Charlie, tại sao mày lại bám theo ta?”
Từ sau một thân cây, Charlie bước ra.
“Sao ông cậu biết?” Nó lí nhí.
Ông cậu Paton quay lại nhìn nó.
“Nếu đúng như mày đang nghĩ, thì ta trả lời luôn: ta không có mắt sau gáy.”
“Không, con không nghĩ thế,” Charlie nói. “Nhưng làm sao ông cậu biết?”
“Nhóc, ta thấy mày ngay lúc quẹo ở góc đường. Thật ra ta cũng có đoán trước. Ta nghĩ mày cũng khó mà ngủ được sau buổi tối hãi hùng vừa rồi.” Ông cậu Paton cười nhếch mép.
“Tài phép của ông cậu đó hả?” Charlie hỏi. “Kích sáng bóng đèn ấy?”
“Đáng khinh quá phải không? Ta hỏi mày chứ cái trò đó được tích sự gì? Giá mày đừng thấy thì hơn.”
Ông cậu Paton ngắm nghía mấy ngón tay chắc khỏe của mình:
“Nào, đưa mày về thôi. Tối nay ta làm đủ rồi.”
Ông nắm tay Charlie và cả hai cùng đi về nhà.
Charlie đã nhìn thấy một khía cạnh mới của ông cậu. Nào có mấy người chỉ cần đứng đó không thôi mà kích được bóng đèn. Đúng ra, theo như nó biết, thì trước nay chưa có ai làm được điều này. Đèn điện hết sức cần cho cuộc sống về đêm của một thành phố. Ông cậu Paton hẳn đã có lúc tung hoành dưới phố - nơi mà ánh đèn lấp lánh và rực rỡ tứ bề.
“Đã bao giờ ông cậu… ừm… Ông cậu làm như vừa nãy với nhiều bóng đèn cùng lúc chưa?” Charlie hỏi. “Tỉ như ở nhà hát, rạp chiếu bóng hay là quán rượu ấy?”
Mất một lúc, Charlie nghĩ là Ông cậu Paton sẽ không trả lời, và lẽ ra nó không nên hỏi, thì ông bỗng lầm bầm:
“Có, cách đây lâu rồi. Ta đã làm điều đó vì một cô gái.”
“Ui! Chắc cô ấy ngạc nhiên lắm?”
“Cô ấy chạy mất,” Ông cậu Paton buồn rười rượi, “và không bao giờ nói chuyện với ta nữa.”
“Con hiểu rồi. Vậy ông cậu ra đường ban ngày không an toàn hơn sao? Ý con là, ban ngày thì không có nhiều đèn sáng.”
“Hừ! Mày giỡn chắc,” Ông cậu nói. “Mặt tiền của tiệm nào mà chả có đèn trưng hàng. Đâu đâu cũng có đèn. Vả lại ban ngày người ta sẽ trông thấy ta. Ngoài ra, cũng thành thói quen mất rồi. Chẳng qua ta không thích ánh sáng ban ngày nên không muốn phơi ra thôi.”
Họ về đến cửa nhà số 9, và Charlie vội vã trèo lại lên gi.ường trước khi có ai đó trong nhà thức giấc. Nó thiếp đi ngay tức thì và mơ thấy Ông cậu Paton kích đèn trên mọi vì sao, cho đến khi tất cả nổ tung, hệt như pháo bông.
Sáng ra, Charlie tỉnh giấc với cảm giác bứt rứt khó chịu. Dù thích hay không, chẳng bao lâu nữa nó sẽ phải vô Học viện Bloor. Chỉ nghĩ thế thôi đã khiến nó phát bệnh. Cố lắm cả bữa sáng nó cũng chỉ nuốt được một lát bánh mì nướng. Nó cũng không hề đụng tới món trứng và thịt xông khói mà ngoại Maisie đã đặt trước mặt.
“Thằng nhỏ lo đấy. Đúng không, con?” Ngoại Maisie chặc lưỡi. “Cái nhà Yewbeam khốn khổ ấy. Sao con lại phải đến cái trường to đùng xấu xí đó chớ? Tụi ta sẽ ra tiệm kẹo mua một ít sô-cô-la cho con vui lên vậy.”
Nội Bone không có mặt. Bà luôn dùng điểm tâm trong phòng riêng. Còn Ông cậu Paton thì chỉ ăn vào đêm khuya, như Charlie trước giờ vẫn thấy thế.
Nó liếc mẹ nó, trông cô như đang ở trong một giấc mơ màng, cách xa đâu đó hàng hàng dặm.
“Con có phải mặc đồng phục đặc biệt gì không, mẹ?” Nó hỏi.
Mẹ nó giật mình ngước lên. “Áo chùng xanh,” cô đáp. “Các nhạc công mặc màu xanh. Xanh ngọc bích, một màu tuyệt đẹp.”
“Nhưng con không phải là nhạc công,” Charlie phản đối.
“Biết vậy,” mẹ nó đồng ý. “Nhưng họ không có khoa nào hợp với tài phép của con, Charlie à. Con sẽ được xếp vô khoa nhạc, giống như ba con. Có những lớp học sáo. Mẹ chắc sẽ như vậy.”
“Thế nữa?” Charlie nghi ngờ. Nó chưa bao giờ giỏi nhạc và nó chỉ thổi sao khi nào bị bắt phải thổi. “Khi nào thì con phải bắt đầu?”
“Nội trong vòng một tháng,” mẹ nó đáp.
“Lẹ vậy sao?” Charlie hốt hoảng. “Ngay giữa học kỳ?”
“Mẹ xin lỗi, Charlie,” mẹ nó nói, vẻ ân hận. “Nhà Yewbeam nghĩ như thế là tốt nhất. Họ bảo không được để phí một ngày nào, bởi vì con… à không… bởi vì họ đã dứt khoát.”
“Tội nghiệp thằng bé,” ngoại Maisie lẩm bẩm.
Trời lại đổ mưa, ngoại Maisie lôi ra một cái áo mưa màu hồng tươi. Mẹ Charlie rút từ tủ âm tường ra một cây dù. Cô không thích mặc áo mưa.
“Ngoại với mẹ ra cửa hàng không lâu đâu,” cô bảo Charlie. “Con có muốn mẹ lấy tấm hình về lại không?”
Charlie hầu như đã quên phéng tấm hình thiệp sinh nhật của Benjamin. Không rõ vì sao lúc này nó hơi do dự, thấy mất tấm hình luôn cũng được.
“Thôi,” nó đáp. “Nhưng mẹ mua cho Benjamin một tấm thiệp sinh nhật được không? Chắc con không dùng hình con Hạt Đậu nữa đâu.”
Ngoại Maisie và mẹ vừa đi khỏi. Charlie tót lên lầu, vớ lấy chiếc phong bì màu cam. Nó mới mở phong bì, rút tấm hình ra thì nghe có tiếng chuông cửa. Chẳng ai ra mở. Chắc chắn nội Bone đã ra phố, còn Ông cậu Paton thì ban ngày đến chuông điện thoại còn không trả lời nữa là chuông cửa.
Vẫn cầm tấm hình trên tay, Charlie lao xuống mở cửa.
Một người đàn ông lạ hoắt, đứng ngay bậc thềm. Lạ hơn nữa, có ba con mèo quẩn quanh chân ông.
“Onimous và Những Con Mèo Lửa,” người đàn ông tự giới thiệu. “Đội diệt chuột.” Ông moi từ trong chiếc áo khoác giả lông ra một tấm danh thiếp.
“Onimous?” Charlie hỏi.
“Phải,” người đàn ông nói. “Onimous. Có hơi khác một tí. Orvil. Orvil Onimous.” Ông cười với Charlie một nụ cười thật rộng, phô cả hàm răng sắc bóng. “Tôi tin là nhà ta đang có vấn đề. Chuột hả?”
Đoạn ông thực hiện một cú nhảy thật tức cười, rồi đáp xuống ngay cạnh Charlie.
“Cháu không biết,” Charlie đáp. Nó vẫn được dặn là không để cho người lạ vô nhà. Nhưng cái ông này đã lọt vô nhà mất rồi. Nó hỏi: “Có người gọi ông đến hả?”
“Có một cái gì đó gọi tôi đến. Ngay lúc này thì tôi không thể nói được đó là thứ gì. Có thể cậu sẽ không tin tôi.”
“Thật thế á?” Charlie nổi cơn tò mò.
Lũ mèo nãy giờ vẫn theo bén gót ông Onimous, giơ đi đi lại lại vơ vẩn dọc hành lang ở cửa ra vô. Chúng là những con mèo lạ lùng nhất. Con đầu tiên màu đồng rực, con thứ hai màu cam tươi và con thứ ba màu vàng chói. Con màu đồng có vẻ như biết Charlie. Nó đứng lên trên hai chân sau và lắc nắm cửa nhà bếp cành cạch.
“Bình tĩnh nào, Dương Cưu,” ông Onimous nhắc. “Mi sẽ không bao giờ học được sao?”
Con Dương Cưu đã xoay được nắm đấm cửa. Cửa nhà bếp bật mở và con mèo phóng vô trong, theo sau là hai con kia.
“Xin lỗi về chuyện này,” ông Onimous nói. “Nó là một con nóng nảy, con Dương Cưu ấy. Con Sư Tử cũng hơi có tí huênh hoang, nhưng con Nhân Mã lại rất có phong cách. Xin lỗi, tốt hơn là tôi phải dòm chừng chúng.”
Trước khi Charlie kịp quay lại, ông Onimous đã sượt qua mặt nó và phóng vô nhà bếp, gọi “Bọn Mèo Lửa, đừng có làm ta mất mặt đấy. Làm ăn tử tế coi nào.”
Giờ thì cả ba con mèo đang đi đi lại lại trước cái kho chứa thực phẩm. Charlie nhớ ra mớ trái cây nẫu, và trước khi đám mèo tự mở bung một cánh cửa nữa, Charlie mở cánh cửa đó ra cho chúng vô.
Thế là bắt đầu những cú vồ, cú phóng cùng những tiếng gầm gừ. Rõ ràng là trong kho đầy chuột. Loáng một cái, bọn mèo đã tóm gọn lũ chuột, hết con này đến con kia, rồi xếp những cái xác chuột thành hàng ngay ngắn dọc theo bờ tường.
Charlie lùi ra xa. Trước giờ nó không hề biết là trong kho thực phẩm có chuột. Sao ngoại Maisie và mẹ nó cũng không nhận ra nhỉ? Có lẽ lũ chuột mới kéo đến hồi sáng này, do mùi trái cây thối đưa đẩy. Charlie khá là thích chuột, cho nên nó ước gì không phải chứng kiến cảnh hàng thây xám ngoét đang ngày càng dài thêm.
Khi hàng xác đã dài được mười lăm con, lũ mèo tỏ vẻ đã hoàn tất công việc. Chúng ngồi xuống và liếm cật lực bộ lông tinh tươm của mình.
“Một tách cà phê có được không nhỉ?” Ông Onimous hỏi. “Tôi mệt lả rồi.”
Charlie thấy rõ nãy giờ ông Onimous không hề nhấc một ngón tay, chẳng làm tí gì để gọi là cực nhọc cả. Bọn mèo quán xuyến hết. Nhưng ông Onimous đã ngồi vô bàn ăn, nhìn hau háu vô ấm nước. Charlie không nỡ lòng nào làm ông thất vọng. Tay nó vẩn cầm tấm hình, cho nên nó đặt tấm hình xuống và đi rót nước vô ấm.
“A,” ông Onimous kêu lên. “Đây rồi. Cái này sẽ giải đáp được mọi chuyện.”
“Cái gì giải đáp ạ?” Charlie nhìn vô tấm hình, mà lúc này ông Onimous đang giơ ra trước ánh sáng.
Ông Onimous chỉ con mèo ở cuối tấm hình. “Con Dương Cưu đấy,” ông giải thích. “Cách mấy năm rồi, nhưng nó vẫn không quên. Nó biết là cậu đã phát hiện ra nó. Chính vì thế mà nó dẫn tôi tới đây.”
“Sao cơ?”
Charlie cảm thấy xây xẩm. Nó ngồi phịch xuống.
“Có phải ông nói đó là con Dương Cưu?” Nó chỉ vô con mèo màu đồng, “Con Dương Cưu biết cháu đã xem hình nó?”
“Không hẳn thể,” ông Onimous gãi đầu trông như lông thú của mình. Charlie nhận thấy móng tay ông cần phải được cắt tỉa đến nơi đến chốn. Ngoại Maisie không bao giờ để sống một ai có mớ móng tay dài ngần ấy.
Ấm nước sôi e e và Charlie pha cà phê cho ông Onimous. “Ông uống cà phê như thế nào?” Nó hỏi, đặt cái tách trước mặt vị khách.
“Vui lòng cho ba cục đường.” ông Onimous đáp.
Charlie nóng lòng thảy ba cục đường vô tách cà phê.
Ông Onimous hớn hở hẳn lên. Ông nhấp một ngụm, mặt lại sáng lên lần nữa, và rồi, chồm gần tới Charlie, ông nói, “Nó biết cậu đã được nối kết, con Dương Cưu ấy. Và đúng vậy; cậu có tấm hình. Những con mèo này không phải là mèo bình thường; chúng hiểu chuyện. Chúng chọn tôi vì tôi có phong thái đặc biệt đối với thú vật. Chúng dẫn tôi đi đây đi đó, cố dẹp trừ bọn gian tà. Tôi chỉ đi theo và giúp đỡ khi có thể. Trường hợp này,” ngón tay ông chạm vô người đàn ông ẵm đứa nhỏ, “là tệ hại nhất. Con Dương Cưu lúc nào cũng điên tiết lên về ch.uyện ấy. Biết bao lần nó cố lập lại trật tự, nhưng chúng tôi cần cậu, Charlie”
“Cần cahu1?” Charlie hỏi.
“Cậu là một trong những người có phép thuật, đúng không nào?” Ông Onimous hạ giọng, như thể đó là một bí mật, không biết nói to lên.
“Họ nói thế,” Charlie đáp. Nó không thể không nhìn vô tấm hình, theo ngón tay ông Onimous chỉ mà như buộc tội lên mặt người đàn ông. Ngay khi vừa nhìn vô, Charlie nghe tiếng đứa bé khóc.
Con Dương Cưu xồ tới, bám những cái vuốt lên dùi Charlie, gào lên một tiếng xé màng nhỉ. Tiếng gào của nó lập tức được con Sư Tử cam và con Nhân Mã vàng hưởng ứng. Tiếng ồn thật khủng khiếp, Charlie phải dúm người lại, áp tay bịt chặt vô lai lỗ tai.
“Im” Ông Onimous ra lệnh. “Cậu nhỏ đang suy nghĩ.”
Đợi tiếng gào của lũ mèo tắt hẳn, ông Onimous nói:
“Cậu thấy đấy, cậu đúng là có liên hệ với tấm hình. Giờ hãy kể cho tôi nghe tất cả về việc này đi.”
Mặc dầu rõ ràng là lập dị, nhưng trông ông Onimous rất tử tế, đáng tin cậy, và Charlie thì đang hết sức cần có sự trợ giúp. Nó kể cho ông Onimous nghe về cuộc náo loạn với những tấm hình, những giọng nói, những bà cô khủng khiếp nhà Yewbeam và quyết định của họ gởi nó đến Học viện Bloor. “Và thực lòng cháu chẳng muốn tới đó.” Charlie kết luận. “Cháu nghĩ cháu thà chết còn hơn.”
“Nhưng, Charlie à, đó là nơi cô bé đang ở,” ông Onimous giảng giải, “đứa bé mất tích ấy. Ít nhất thì đó cũng là suy luận của con mèo. Và chúng không bao giờ sai.”
Ông đứng lên, “Nào nào, lũ mèo, chúng ta phải đi thôi.”
“Ông bảo đứa bé trong hình bị mất tích sao?” Charlie hỏi. “Làm thế nào mà người ta có thể đánh mất một đứa bé?”
“Tôi không nói được,” ông Onimous bảo. “Cậu hãy mang tấm hình trả lại đúng chỗ của nó, và có lẽ người ta sẽ nói cho cậu biết.”
“Nhưng cháu không biết nó là của ai,” Charlie nói, bắt đầu phát hoảng. Ông Onimous sắp sửa biến đi mà chẳng giúp được nó cái gì.
“Dùng cái đầu của cậu đi, Charlie. Đó là tấm ảnh phóng to chứ gì? Hãy tìm bản gốc, cậu sẽ thấy trên đó ghi một cái tên và địa chỉ.”
“Thật à?”
“Chắc chắn,” ông Onimous vuốt vuốt mặt nhung mịn màng của tấm áo choàng, bẻ cổ áo lên và hướng ra cửa.
Charlie đứng đực ra, bối rối, những câu hỏi nổ bong bong trong đầu. Khi chạy ra được tới cánh cửa vẫn còn để mở, thỉ tất cả những gì của vị khách mà nó có thể thấy được chỉ còn là một cái bóng đang bé lại, biến mất dần, theo sau là môt dải màu nóng, giống như cái đuôi rực rỡ của một ngôi sao chổi.
Charlie đóng cửa lại rồi vọt lên lầu. Chụp vội chiếc phong bì màu cam, nó lắc lấy lắc để và từ đó rơi ra một tấm hình nhỏ - bản gốc của tấm hình phóng to dưới nhà. Nó lật mặt sau ra, quả đúng vậy, có một cái tên và một địa chỉ được viết theo lối chữ in đậm, bay bướm:
Cô Julia Ingledew
Nhà số 3 phố Nhà Thờ
Phố Nhà Thờ ở đâu, và lám cách nào mà tới được đó? Bắt buộc nó phải rời nhà trước khi ngoại Maisie và mẹ về. Họ sẽ không đời nào đồng ý cho nó lang thang một mình, tới một nơi mà nó không biết. Và nếu nó không hành động ngay bây giờ, không chừng sẽ không kịp về dự sinh nhật Benjamin. Nhưng nó phải để lại tin nhắn kẻo mẹ lại lo sốt vó.
Theo như Charlie nhớ thì nó chưa từng bao giờ vô phòng Ông cậu Paton. Tấm biển XIN ĐỪNG QUẤY RẦY treo thường trực trên cánh cửa. Dạo này Charlie bắt đầu thắc mắc ông cậu làm cái gì suốt ngày trong đấy. Thỉnh thoảng có tiếng thình thịch nho nhỏ vọng ra. Còn thường thì im lặng.
Hôm nay Charlie sẽ phải làm ngơ tấm biển.
Nó gõ cửa, ban đầu ngập ngừng, sau mạnh dần lên.
“Gì đó?” Giọng Ông cậu Paton cáu kỉnh.
“Ông cậu Paton, cho con vô nghe?” Charlie hỏi.
“Chi vậy?” Ông cậu Paton hỏi.
“Vì con phải đến chỗ kia, và con muốn ông cậu giải thích cho mẹ con.”
Một tiếng thở dài thượt. Charlie không dám mở cửa cho đến khi tiếng ông cậu lạnh lùng:
“Vô đi, nếu mày thấy cần phải vô.”
Charlie vặn nắm đấm cửa và lách vô. Nó bật ngửa trước những gì trông thấy. Phòng ông cậu ngập ngụa những giấy là giấy. Giấy treo tòn teng trên kệ, giấy rơi lả tả trên bậu cửa sổ, giấy phủ hết mặt bàn giấy, giấy quấn dập dềnh như thủy triều quanh mắt cá chân ông. Cái gi.ường kê ở đâu nhỉ? Có lẽ là dưới một đống mền bằng sách, Charlie đoán vậy. Sách xếp đầy hết những bức tường, nghễu nghện từ sàn tới trần nhà, thậm chí sách còn leo lên quanh bàn thành từng chồng cao xiêu vẹo.
“Sao?” Ông cậu Paton hỏi, ngước mắt lên từ sau một ụ giấy.
“Ông cậu làm ơn cho con biết phố Nhà Thờ ở đâu được không?” Charlie hồi hộp hỏi.
“Chứ mày nghĩ nó ở đâu? Dĩ nhiên là cạnh nhà thờ rồi.”
Vào ban ngày, Ông cậu Paton là một người khác hẳn - lạnh nhạt và đầy hăm dọa.
“Ô,” Charlie kêu lên, thấy mình đúng là thằng khùng. “Vâng, con sẽ tới đó ngay bây giờ. Nhưng ông cậu nói với mẹ con được không? Mẹ con sẽ muốn biết con đi đâu và…”
“Ừ, ừ,” Ông cậu Paton lầm bầm, kèm theo cái phát tay nhẹ hều, ra hiệu cho Charlie biến đi.
“Cảm ơn, ông cậu,” Charlie líu ríu, ráng đóng cửa lại khẽ khàng hết sức.
Nó trở về phòng riêng, hối hả khoác lên cái áo gió, nhét vội tấm hình vô chiếc phong bì màu cam, bỏ vô túi. Rồi nó ra khỏi nhà.
Từ cửa sổ phòng mình, Benjamin thấy Charlie đi ngang qua, vẻ kiên quyết.
Nó mở cửa sổ ra và hỏi với theo:
“Bồ đi đâu đấy?”
Charlie ngẩng lên.
“Tới phố Nhà Thờ.”
“Mình với con Hạt Đậu đi theo được không?” Benjamin hỏi.
“Không,” Charlie gạt phắt. “Mình đi mua quà cho bồ. Bồ sẽ phải ngạc nhiên cho coi.”
Benjamin đóng cửa sổ lại. Nó tự hỏi liệu Charlie sẽ kiếm được thứ quà quỷ quái gì trong nhà thờ? Một cây viết khắc tên cái nhà thờ ấy à? Nhưng nó có khối viết rồi.
“Hừ, tao chả quan tâm,” Benjamin thì thầm với con Hạt Đậu. “Miễn là nó đến dự sinh nhật tao.”
Con Hạt Đậu quật đuôi đùm đụp xuống cái gối của Benjamin. Nó đang nằm ở nơi mà nó không được phép nằm: trên gi.ường. May là không ai ngoài Benjamin biết chuyện này.
Nhà thờ nằm trong khu phố cổ. Những con phố rải sỏi hẹp ti tí. Những cửa hàng còn bé hơn; và trong những ô kính được thắp sáng dìu dịu, quần áo cùng đồ trang sức đắt tiền được trưng trên những súc lụa và nhung. Trông dãy phố như thể là nhà riêng của ai đó giàu có, đến nỗi Charlie có cảm tưởng rằng mình đang xâm phạm bất hợp pháp chốn này.
Khi ngôi nhà thờ cổ kính lù lù hiện ra phía trên đầu, thì cũng là lúc những cửa hàng nhường chỗ cho một dãy nhà cũ kỹ. Thế nhưng, nhà số 3 phố Nhà Thờ lại là một hiệu sách. Trên cửa gắn một tấm biển đề: TIỆM SÁCH INGLEDEW – theo kiểu chữ cổ. Sách nằm trong những ô kính bày hàng trông xưa cũ và bụi bặm. Có vài cuốn được bọc da, với gáy sách mạ vàng.
Charlie hít một hơi thật sâu rồi bước vô. Một tiếng chuông khẽ ngân lên ngay lúc nó đặt chân vô tiệm, và một phụ nữ xuất hiện nơi tấm rèm quây phía sau quầy thu ngân. Cô ấy không già như Charlie nghĩ, nhưng chừng cỡ tuổi mẹ nó. Mái tóc dày màu hạt dẻ chải dựng trên đầu và đôi mắt màu nâu nâu.
“Chào cháu, cháu cần gì nào?” Người phụ nữ hỏi.
“Có ạ. Cô là Julia Ingledew phải không ạ?”
“Phải.” Người phụ nữ gật đầu.
“Cháu đến về chuyện tấm hình của cô,” Charlie nói.
Người phụ nữ vội đưa tay lên bụm miệng.
“Trời!” Cô nói. “Cháu tìm thấy nó à?”
“Vâng ạ,” Charlie nói, đoạn đưa ra chiếc phong bì màu cam.
Người phụ nữ mở phong bì và hai tấm hình rơi xuống mặt bàn.
“Ôi, cám ơn,” cô kêu lên. “Cô không biết nói với cháu làm sao, nhưng có lại được mấy tấm hình này cô mừng quá.”
“Vậy cô có cầm tấm hình của cháu không?” Charlie hỏi. “Tên cháu là Charlie Bone.”
“Vô đây,” cô Ingledew nói, ngoắc cho nó theo cô đi qua tấm rèm.
Charlie cẩn thận bước vòng qua quầy thu ngân, chui khỏi tấm rèm che bức tường sách. Nó thấy mình lọt vô một căn phòng chả giống hiệu sách tí nào. Cũng lại là sách, nhưng được cột chặt trên kệ hoặc xếp thành đống ngổn ngang. Đó là một căn phòng ấm cúng, đại loại vậy; đậm đặc hương của những từ hoa mỹ và những ý tưởng thâm sâu. Một ngọn lửa cháy lép bép trong cái lò sưởi nhỏ xíu, và những chiếc đèn bàn hắt ánh sáng qua những cái chụp đèn màu da thuộc.
“Đây rồi,” cô Julia Ingledew ồ lên và cô lôi ra từ ngăn kéo một chiếc phong bì màu cam.
Charlie cầm lấy cái phong bì và hấp tấp mở ra. “Vâng, đúng là con Hạt Đậu,” nó nói, “Con chó của bạn cháu. Cháu tính làm một tấm thiệp sinh nhật từ hình này.”
“Ý hay đó,” cô Ingledew trầm trồ. “Riêng tư hơn. Cô luôn thích những gì riêng tư. Nó chứng tỏ mình biết quan tâm, đúng không?”
“Dạ,” Charlie nói mà không chắc lắm.
“Thế đấy… Cô rất biết ơn cháu, Charlie Bone,” cô nói. “Cô thấy cháu xứng đáng được thưởng một thứ gì đó. Cô không có nhiều tiền, nhưng cô nghĩ…”
“Không có gì mà cô,” Charlie xua đi, hơi lúng túng, mặc dù nó có thể dùng món tiền nhỏ đó để mua quà cho Ben.
“Không, không, thật mà. Cô nghĩ cháu đúng là người cần phải nhận món quà đó. Cô cảm thấy hình như chúng đang chờ đợi cháu.”
Cô chỉ về góc phòng, và Charlie thấy ngay rằng ấn tượng đầu tiên của mình về căn phòng này đã sai bét. Căn phòng không phải chứa toàn là sách. Một chiếc bàn trong góc chất đống các loại hộp: hộp gỗ, hộp kim loại, và cả những thùng các-tông to bự.
“Có gì trong những cái thùng và hộp đó vậy cô?” Charlie hỏi.
“Của em rể cô đấy,” cô Ingledew trả lời. “Đó là tất cả những gì chú ấy để lại. Chú ấy mới mất tuần rồi.”
Charlie cảm thấy một cục nghẹn chạy tọt lên cổ họng. Nó lúng túng, “Ưm…”
“Ô không, đó không phải hộp đựng cốt của chú ấy đâu, Charlie” Cô Ingledew vội nói. “Mà là… cô phải gọi chúng là gì nhỉ… phát minh của chú ấy. Mới được gởi đến hôm qua. Chú ấy đã gởi bưu điện một ngày trước khi chết. Có Chúa mới biết tại sao chú ấy lại để những thứ ấy lại cho cô.”
Cô cầm lấy một cái hộp, mở nắp lấy ra một con chó bằng kim loại, trông như chó máy.
“Cô chẳng dùng làm gì cả,” cô bảo. “Cháu có muốn lấy không?”
Charlie nghĩ đến con Hạt Đậu, rồi đến Benjamin.
“Nó có làm được gì không ạ?” Charlie hỏi. Những món phát minh thường vẫn hay làm được cái gì đó.
“Dĩ nhiên rồi. Để cô coi nào.”
Cô giật đuôi con chó. Nó sủa lên hai tiếng, và một giọng nói cất lên:
“Tôi là số 2. Quý vị vừa giật đuôi tôi, như vậy quý vị biết cách kích hoạt tôi. Để tua tới: ấn tai trái tôi. Để tua lùi: ấn tai phải tôi. Để thu băng: ấn mũi tôi. Để dừng lại: nhấc chân phải tôi. Để thay băng: mở bụng tôi.”
Giọng chỉ dẫn này Charlie nghe quen quen.
“Có dùng được gì không?” Cô Ingledew hỏi. “Hay cháu thích món khác?”
“Tuyệt lắm,” Charlie nói. “Tuyệt. Nhưng giọng nói… Em rể cô… Có phải…?”
“Đúng. Em rể cô, tiến sĩ Tolly. Thiết bị này là một trong những phát minh đầu tiên của chú ấy, nhưng chú ấy chẳng bao giờ bận tâm tới việc đem đi bán nó cả. Lần nào phát minh ra cái gì mới cũng vậy. Chú ấy lười lắm, Charlie à. Thông minh, nhưng lười chảy thây.”
“Cái ông trong hình chính là chú ấy, phải không?” Charlie không để lộ là nó nhận ra giọng nói. Làm sao nó có thể để lộ được!
“Phải, đó là tiến sĩ Tolly. Có lần chú ấy đã chế ra một thứ kinh khủng.” Miệng cô Ingledew mím chặt lại như sợi chỉ.
“Vậy tại sao cô muốn tấm hình của chú ấy?” Charlie hỏi.
Người bán sách quắc mắt thoắt một cái, như thể muốn nhảy xổ vô vồ lấy nó. “Đứa bé mới là thứ cô muốn. Tấm hình là tất cả để cô nhớ được về nó.”
Rồi đột nhiên cô Ingledew kể cho Charlie nghe về cái ngày thê lương khi em gái của cô, Nancy, qua đời: ngay trước ngày sinh nhật thứ hai của con gái, và một vài ngày sau, chồng của Nancy, tiến sĩ Tolly, đã đem đứa con gái đi cho như thế nào.
“Cháu không nghĩ là người ta lại có thể đem con đi cho,” Charlie buột miệng, dựng tóc gáy.
“Ừ,” cô Ingledew nhất trí. “Cô bị ép phải giữ bí mật. Lẽ ra cô phải nhận con bé, cháu biết đấy. Nhưng cô đã ích kỷ và vô trách nhiệm. Lúc đó cô nghĩ là mình không nuôi nổi. Kể từ đó, không một ngày nào trôi qua mà cô không hối hận về quyết định của mình. Cô cố tìm kiếm xem nó được đem cho ai, nhưng tiến sĩ Tolly không bao giờ hé răng với cô. Con bé đã biệt dạng trong cái hệ thống lọc lừa, giả dối và mánh khóe. Giờ nó đã mười tuổi rồi và cô sẵn sàng đổi bất cứ thứ gì để chuộc được nó về.”
Charlie nhấp nha nhấp nhổm. Nó lại rơi vô một tình huống chẳng thích thú gì. Phải chi nó đừng nghe thấy những giọng nói trong tấm hình. Làm sao nó có thê nói với cô Ingledew rằng ba con mèo nghĩ đứa bé mất tích đang ở trong Học viện Bloor. Cô ấy sẽ không đời nào tin nó.
Trong một góc tối tăm, chiếc đồng hồ đứng to cộ đánh mười hai tiếng, Charlie nói:
“Cháu phải về nhà không mẹ cháu lo.”
“Phải đấy. Nhưng cầm con chó này, Charlie, và…”
Cô Ingledew thình lình phóng tới chỗ cái bàn, moi từ cuối chống hộp với thùng lên một cái thùng dài màu bạc.
“lấy cả cái này nhé?”
Không đợi trả lời, cô cứ ấn tọt vô một cái bao in dòng chữ TIỆM SÁCH INGLEDEW. Đưa cái baocho Charlie, cô nói:
“Cháu bỏ con chó vô luôn đi, có đủ chỗ mà.”
Cái bao nặng không thể tưởng tượng nổi. Charlie thận trọng đặt cái hộp đựng con chó lên trên cái thùng kim loại. Xong, nó lảo đảo đi ra cửa, tự hỏi làm thế quái nào nó có thể tha nổi cái bao này về tới nhà.
Cô Julia Ingledew giúp nó len ngược trở lại mấy bậc cầu thang, mở cửa ra, lại một tiếng chuông thánh thót cất lên.
“Cháu hy vọng cô không bực nếu cháu hỏi,” Charlie rụt rè, “nhưng có gì trong thùng này thế ạ?”
Câu trả lời khá bất ngờ:
“Cô không biết,” cô Ingledew đáp. “Và cô cũng không muốn biết, Tiến sĩ Tolly đã đổi đứa bé lấy cái thùng này. Dù cái thùng này là cái gì đi chăng nữa thì cũng chẳng thể nào đáng giá bằng con bé, đúng không?”
“Đúng… đúng ạ,” Charlie nói. Nó đặt cái bao xuống đất.
“Làm ơn mang đi đi, Charlie. Có lẽ cháu là người thích hợp để giữ nó. Cô cần phải tống khứ nó ra khỏi nhà, cháu biết đấy.” Cô hạ thấp giọng và đảo mắt một vòng khắp phố. “Và cô có thể yêu cầu cháu giữ bí mật được không?”
“Hơi khó,” Charlie nói, càng lưỡng lự hơn khi nghĩ đến chuyện phải nhận cái thùng. “Cháu không thể kể với bạn thân nhất của cháu à?”
“Không được nói với người mà cháu không tin bằng cả mạng sống mình,” cô Ingledew đáp.
 
Trước khi Charlie kịp nghĩ ra điều gì để nói, thì người bán sách đã vẫy tay chào nó thật lẹ và đóng sập cửa lại. Nó đứng chơ vơ trên con phố tối om, trên tay là một thứ đã từng dùng để đổi lấy một đứa bé.


Tại sao cho đến giờ cô Ingledew vẫn chưa mở cái thùng này ra? Ở trong đó có cái gì nhỉ? Charlie bắt đầu độc thoại khi ì ạch lê bước trên sỏi, và mấy người lại qua nhìn nó đầy nghi ngờ. Có lẽ họ nghĩ nó vừa mới chôm được cái bao này. Nó quẹo gắt vô con phố và xém nữa đụng phải một con chó xù bự tổ.
“Coi chừng!” Charlie hét lên, làm rớt cái bao. “Ủa, Hạt Đậu, mày hả!”
Con Hạt Đậu nhảy phóc lên cái bao và liếm mặt Charlie.
“Xuống, xuống!” Charlie la to. “Đồ quý đó.”
Benjamin hớt hơ hớt hải chạy đến.
“Xin lỗi,” nó thở phì phà phì phỏ. “Mình không ngăn nó nổi.”
“Bồ đi theo mình hả?” Charlie hỏi, nó mừng húm khi gặp Benjamin.
“Không hẳn vậy. Mình chỉ đưa con Hạt Đậu đi dạo. Mình nghĩ chắc là nó ngửi thấy mùi của bồ.”
Rồi Benjamin nhìn trên trối vô cái bao đen thùi lùi:
“Trong đó có cái gì vậy?”
“Quà sinh nhật của bồ,” Charlie nói, “nhưng bồ sẽ phải phụ mình khiêng cái bao này. Nó nặng tới cả tấn.”
“Chà. Cái gì đây? Không, đúng ra mình không nên hỏi,” Benjamin nói, vẻ bẽn lẽn.


Charlie đành phải thú nhận rằng có một món bí hiểm khác trong bao, nhưng sau khi liếc vụt qua một cái, Benjamin bảo ngay rằng nó sẽ chẳng bận lòng tí nào nếu hồi nữa chỉ nhận được cái hộp giấy nhỏ, thay vì cái thùng kim loại to.
“Mua quà chỗ đó thì ngộ thật,” Benjamin vừa nhận xét vừa quay lại liếc cái nhà thờ lừng lững.
“Mình không nghĩ là sẽ kiếm mua quà ở đó,” Charlie nói. “Mình tới đó chỉ để kiếm tấm hình con Hạt Đậu.”


Nó kể cho Benjamin nghe về người phụ nữ bán sách và cái thùng bì mật mà nhà phát minh lười đã gởi cho cô ấy.


Mỗi đứa xách một quai, hai thằng bắt đầu tha cái bao đem về nhà. Chúng không nhận ra là mình đang bị theo dõi. Nếu chúng mà nhìn ra sau lưng, chắc hẳn sẽ thấy một thằng bé tóc đỏ lẹ như chồn, cải trang vụng về thành một ông già, đang núp sau những bậu cửa và trườn theo chúng.


Con Hạt Đậu gừ gừ trong họng và huých mõm vô cái bao, cố giục hai thằng đi lẹ lên. Tình thế thật khó xử cho con chó. Có cái gì đó đằng sau nó và cái gì đó trong bao coi bộ đều rất không minh bạch.


Khi Charlie và Benjamin quẹo vô đường Filbert, con Hạt Đậu quay ngoắt lại và chạy xổ về phía kẻ lén lút theo đuôi, sủa giận dữ. Thằng tóc đỏ vội né con chó rồi lủi nhanh khỏi con đường.


“Gì đó?” Benjamin hỏi khi con chó hậm hực quay lại.
Con Hạt Đậu không thể giải thích.


Lúc chúng về tới nhà Benjamin, Charlie hỏi Benjamin xem nó có thể mang cái bao vô nhà luôn không. Nó không muốn ngoại Maisie hay nội Bone nhúng mũi vô chuyện này.
Benjamin lừng khừng. “Mình không biết. Để nó ở đâu bây giờ?”
“Dưới gầm gi.ường hay đâu đó. Làm ơn đi, Benjamin. Hai bà của mình lúc nào cũng xông vô phòng mình, còn bồ thì chẳng bị ai quấy rầy cả.”
“Thôi được,” Benjamin đồng ý.


“Đừng mở món quà ra cho tới khi mình quay lại nha,” Charlie dặn Benjamin. “Giờ mình về đây, không thì lôi thôi to.”
Charlie toan quay đi thì chợt nghe một tiếng thịch từ trong cái bao vọng ra. Benjamin nhìn lên, hơi sợ sợ, nhưng Charlie giả đò như không nghe thấy và chạy xuống các bậc cấp.


Về đến nhà, nó lò dò vô bếp, nơi hai bà nó đang đấu khẩu kịch liệt. Khi Charlie xuất hiện, họ dừng lại dòm nó lom lom.
“Charlie Bone!” Ngoại Maisie quát. “Làm sao mày dám thế hả? Hư hết biết. Như thế này là thế nào?” Bà trỏ vô hàng chuột chết. Charlie hoàn toàn quên mất lũ chuột.


Nó bèn giải thích việc ông Onimous và lũ mèo đã xông vô nhà như thế nào trước khi nó kịp ngăn họ lại:
“Sauo đó con phải vội ra ngoài để đổi lại tấm hình,” nó hươ hươ chiếc phong bì màu cam. “Con xin lỗi. Con quên mất đống chuột này.”
“Mèo vàng, mèo cam?” Nội Bone hỏi, giọng cạnh khóe. Charlie dám thề là bà đang lo sợ.
“À, thế thì tôi nghĩ họ làm việc xuất sắc đấy chứ,” ngoại Maisie bắt đầu tha thứ cho Charlie. “Tốt hơn là để tôi dọn chỗ này đi.”
Nội Bone không có được tâm trạng tha thứ.


“Ta biết ngay mà,” bà phẫn nộ lầm bầm. “Mày rước chúng tới đây, cái thằng lưu manh. Mày như một cục nam châm vậy. Dòng máu xấu đúng là chẳng bao giờ h òa nổi với dòng máu phép thuật. Ta không thể yên nổi cho đến khi mày bị nhốt vô trường Bloor.”
“Nhốt? Ý bà nói là con sẽ không được ra ngoài?”
“Khốn nạn ở chỗ là cứ cuối tuần thì mày lại được ra,” nội Bone đớp lại.
Rồi bà lướt ra ngoài, đôi ủng đen nện xuống sàn nhà như hai cái dùi trống.
“Con không biết là người ta sẽ nhốt con lại,” Charlie gào thảm thiết.
“Ngoại cũng không biết, con à,” ngoại Maisie thở phì phò, đang bận tổng vệ sinh sàn nhà. “Ngoại thì biết gì về mấy cái trường lạ lùng đó nào? Lẽ ra mẹ con không nên lôi về nhà quá nhiều sản vật thế này. Ngoại thắc mắc làm sao mà đội diệt chuột lại biết được điều đó. Ngoại chưa bao giờ nói với họ cả.”
“Mấy con mèo,” Charlie nói. “Chúng nó biết nhà mình có chuột.”
“Con sắp nói là mấy con mèo đó biết bay chứ gì,” ngoại Maisie lẩm bẩm.


Charlie nghĩ bụng, không chừng mấy con mèo đó biết bay thật. Dương Cưu, Sư Tử, Nhân Mã không phải là những con mèo bình thường, điều đó là chắc chắn. Và Charlie nghi ngờ rằng nội Bone cũng biết điều này. Nhưng cớ sao bà lại sợ chúng?


Charlie chui vô phòng nó để làm tấm thiệp sinh nhật cho Benjamin. Nhưng nó thấy thật khó mà tập trung nổi. Tấm thiệp bị méo xẹo, nó viết thiếu mất chữ “h” trong từ “nhật”; rồi sau đó lại vẽ quả bóng bay lấn vô tai con Hạt Đậu. Charlie liệng mạnh cái kéo xuống. Kể từ khi nó khám phá ra mình có thể nghe tiếng nói trong những tấm hình, thế giới của nó bị lộn tùng phèo. Giá như nó có thể giữ kín vụ những giọng nói thì đã không phải đến học ở cái trường quỷ quái kia, nơi nó bị cầm tù từng tuần một với rất nhiều đứa trẻ kỳ dị biết làm những điều kỳ quái.
Nó nghe tiếng mẹ nó bước vô nhà và gọi ngoại Maisie. Giá như mẹ có thể đứng về phía nó mà đấu tranh với nhà Yewbeam. Nhưng xem ra mẹ sợ họ. Có lẽ Charlie sẽ phải tự mình đấu tranh với họ thôi.


Ngoại Maisie đã nấu xong món mì rau cho bữa trưa. Charlie vẫn thắc mắc về lũ chuột trong kho chứa thực phẩm, nhưng nó giữ những ý nghĩ đó lại, không nói ra. Mẹ nó vừa mới mua cho nó một cái áo chùng màu xanh ngọc bích. Cô ép nó phải thử áo ngay khi ăn xong món mì. Cái áo thòng xuống, gần chấm đầu gối nó. Có đường xẻ ở hai bên để cánh tay có thể thọc qua, và một chiếc nón mềm lật phật sau lưng.
“Con sẽ không mặc áo chùng ra đường đâu,” Charlie nói. “Dứt khoát đấy. Người ta sẽ cười con.”
“Nhưng mà Charlie này, sẽ có nhiều đứa trẻ khác mặc áo chùng mà,” mẹ nó dỗ dành. “Có đứa còn mặc màu tím và màu xanh lá cây nữa đấy.”
“Nhưng không phải ở khu phố này,” Charlie vùng vằng, lột cái áo ra. “Tất cả bọn chúng đều ở Khu Nhà Lầu.”
Khu Nhà Lầu, tức là Khu Đồi Cao, nằm trải dài trên một sườn đồi cây cối rậm rạp, nhìn xuống thành phố. Nhà cửa ở đó cao và rộng, và những người sống trong đó chẳng thiếu thứ gì. Những khu vườn mênh mông trồng đầy hoa là hoa, hình như nở rộ quanh năm.
“Mẹ biết rõ là không phải đứa trẻ nào cũng xuất thân từ Khu Nhà Lầu,” mẹ Charlie nói. “Có một cô bé ở cách nhà mình hai dãy phố, tên là Olivia Vertigo, đã được lên báo. Cô bé ấy sẽ học khoa kịch, nên con sẽ gặp nó mặc áo chùng màu tím.”


“Hự!” Charlie phụng phịu. “Nếu mẹ nói nó ở đường Con Rồng thì cũng sang trọng như Khu Nhà Lầu vậy?” Nó quyết định sẽ tém cái áo chùng này dưới áo khoác cho đến khi đến cửa Học viện.
Ngay cả ngoại Maisie cũng bắt đầu nhượng bộ.
“Đẹp quá chùng,” bà nói về cái áo chùng màu xanh. “Màu ngọt quá.”
Charlie đùng đùng mang cái áo lên phòng nó và nhét một nùi vô ngăn kéo. (Sau đó mẹ nó lên và cẩn thận treo cái áo vô tủ âm tường). Xong, nó đút tấm thiệp sinh nhật của Benjamin vô chiếc phong bì màu cam và chạy xuống lầu.
“Con đi dự sinh nhật Benjamin đây,” nó thông báo cho mẹ nó.
Đến nơi, con Hạt Đậu chào nó bằng một tiếng sủa lớn. Chú ta thậm chí còn không để cho Charlie đi qua cửa trước.
“Có chuyện gì với con Hạt Đậu vậy?” Nó hét lên khi Benjamin sầm sập lao xuống lầu.
“Tại cái thùng mà bồ để lại đó,” Benjamin nói. “Nó ghét cái thùng ấy. Mình đã đẩy cái thùng vô gầm gi.ường như bồ dặn, nhưng con Hạt Đậu cứ gầm gừ rồi sủa hoài, xong lại lôi cái thùng trở ra. Nó nhai rách cái bao, xong lấy móng cào nắp thùng.”


Charlie ráng lách qua cửa trong khi Benjamin đầy con Hạt Đậu ra xa. Cuối cùng con chó hộc lên một tiếng, vút qua hành lang rồi xuyên qua lỗ cửa dành cho chó, phóng ra sua vườn.


Giờ thì Charlie đã đến, nên Benjamin muốn mở gói quà của mình. Nó chạy lên lầu lấy xuống.


Tuyệt đối không có dấu hiệu nào cho thấy sắp diễn ra một bữa tiệc. Cha mẹ Charlie Benjamin đi làm suốt tuần, kể cả thứ Bảy. Charlie tiếc hùi hụi, phải cho nó nhờ ngoại Maisie làm cho thằng bạn mình một chiếc bánh, nhưng tại lúc này đầu óc nó chứa quá nhiều chuyện rồi.
“Hết sẩy đây,” Benjamin nói, lắc lắc hộp quà. “Nào nào, vô phòng khách đi.”
Ở đây cũng chẳng có dấu hiệu gì của tiệc tùng.
Benjamin ngồi bệt xuống sàn, mở hộp ra.
“Chà! Một con chó!” Nó reo lên.


Charlie giật đuôi con chó và giọng của tiến sĩ Tolly cà giật tuôn ra lời chỉ dẫn.
Benjamin mê mẫn đến độ không thốt nên lời. Cuối cùng nó mới lắp bắp:
“Cảm ơn, Charlie… Cảm ơn… chà… Cảm ơn!”
“Đúng ra mình phải thay cho bồ một cuộn băng mới,” Charlie nói. “Sau đó bồ…”
Nhưng con Hạt Đậu đã ngắt ngang lời nó, lao vút vô phòng, sủa nhặng xị. Hạt Đậu hì hụp quanh con chó máy, nhìn chằm chặp vô đấy rồi lại rít lên.
“Nó ghen tị đó,” Benjamin bảo. “Thôi mà,” Nó vòng tay ôm quanh người con Hạt Đậu, vỗ về, “Tao yêu mày, Hạt Đậu. Mày biết điều đó mà. Tao không thể sống nếu thiếu mày.”


Con chó to liếm mặt Benjamin. Nó là tất cả đối với Benjamin: mẹ, cha, anh, chị, em, ông, bà. Luôn luôn là nó kè kè bên Benjamin mỗi khi cha mẹ Benjamin đi vắng. Và thằng bé có thể đi bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, ngày hay đêm. Miễn là có Hạt Đậu đi cùng là nó được an toàn.
Charlie trao cho Benjamin tấm thiệp sinh nhật.
“Cuối cùng mình cũng làm được,” nó nói.


Benjamin không hề nhận ra bất cứ lỗi kỹ thuật nào của Charlie. Chiêm ngưỡng tấm hình, nó tấm tắc với Charlie rằng đó là tấm thiệp đẹp nhất nó từng nhận được trong đời. Bỗng, con Hạt Đậu ngước nhìn trần nhà và tru lên.
Thịch! Thịch! Thịch! Âm thanh nhẹ nhưng rõ rệt. Phòng của Benjamin ở ngay trên đầu chúng.
“Cái thùng sắt đó,” Benjamin thì thào. “Giá mà bồ mang nó đi. Không chùng có bom ở trong, hoặc thứ gì đó.”
“Trông cô Ingledew chẳng giống một tên khủng bố tí nào,” Charlie nói. “Tiến sĩ Tolly cũng thế.”
“Sao bồ biết?” Benjamin vặc lại. “Bọn khủng bố thường cải trang rất khéo… Lên lầu xem sao nào?”
Con Hạt Đậu gầm gừ nho nhỏ, bám theo hai thằng lên lầu. Lần này nó thậm chí không dám bước vô phòng ngủ.
Charlie kéo cái bao ra khỏi gầm gi.ường, và hai thằng cùng lôi cái thùng ra. Tiếng thịch thịch đã im bặt. Charlie tháo những móc gài ở hai tay nắm thùng, nhưng cái thùng vẫn không mở ra. Cái thùng đã bị khóa, và chìa khóa đã mất.
“Bà đó không nói cho bồ biết trong thùng có gì sao?” Benjamin hỏi.
Charlie lắc đầu. “Cô ấy bảo cô cũng không muốn biết. Là cái gì đi chăng nữa thì người ta đã mang nó đổi lấy một đứa bé. Đấy là đứa cháu gái độc nhất của cô ấy.”
“Một đứa bé?” Miệng Benjamin há to. “Thật kinh khủng.”
Charlie bắt đầu cảm thấy có lỗi.
“Tụi mình đem bỏ nó vô cái tủ âm tường dưới lầu đi,” nó nói. “Để đó bồ sẽ không nghe thấy gì nữa. Rồi mình sẽ quay lại chỗ cô Ingledew và hỏi cô ấy chìa khóa.”
Chúng kéo lê cái bao xuống lầu, và đem giấu nó sau đống quần áo cũ mà mẹ Benjamin đã quẳng trong cái tủ âm tường. Khi cửa tủ đã đóng lại, con Hạt Đậu đứng bên cầu thang tru lên thật thê lương, Benjamin chỉ có thể ngăn không cho nó tru tiếp bằng cách hét tướng lên:
“Mày muốn ra ngoài hả?”
Trời tối dần mà vẫn không thấy bóng dáng cha mẹ Benjamin đâu. Benjamin coi bộ cam chịu hơn là bực bội.
“Mình sẽ tự làm một cái bánh nướng cho mình vậy,” nó nói.
Và nó làm thật. Đó là một chiếc bánh sô-cô-la, và rồi nó cắm mười cây đèn cầy lên trên. Sau đó nó cùng Charlie hát bài “Chúc mừng sinh nhật”. Chiếc bánh hơi bị bể một chút, nhưng rất ngon.
Charlie nhìn đồng hồ đeo tay thì thấy đã bảy giờ rưỡi. Nó biết mình phải về nhà, nhưng nó không muốn bỏ Benjamin lại một mình, nhất là trong ngày sinh nhật như thế này. Cho nên nó nán lại thêm một tiếng nữa, chúng cùng chơi trò trốn tìm với con Hạt Đậu, kẻ vốn là cao thủ trong trò này.
Tám giờ rưỡi, cha mẹ Benjamin vẫn chưa về. Thế là Charlie quyết định rủ bạn sang nhà nó để dùng một bữa ăn nóng hổi của ngoại Maisie. Chỉ còn có mỗi một quả trứng và một hộp sữa nhỏ trong tủ lạnh của vm.
“Bữa tiệc thế nào?” Ngoại Maisie hỏi khi hai thằng bé và một con chó đi vô.
“Tuyệt,” Charlie đáp, “nhưng tụi con vẫn còn đói bụng.”
“Có một thằng nhỏ nom kỳ dị lắm, tới nhà mình cách đây khoảng hai tiếng,” ngoại Maisie nói. “Nó đóng giả làm ông già nhưng ai mà chẳng thấy nó là một thằng nhóc. Nó bảo con cầm cái thùng gì đó của nó bị bỏ nhầm trong một cái bao, bây giờ nó muốn xin lại. Ừm… Ngoại có lên phòng con tìm nhưng chỉ thấy có túi đựng giầy. Thằng nhỏ coi bộ rất cáu. Nó không tin ngoại. Cái thằng mất dạy. Giờ hai đứa ra tạm ngoài kia cho ta dọn đồ ăn lên bàn coi.”
Ra đến ngoài cửa nhà bếp, Charlie thì thầm:
“Đứng nói với ai về cái bao nhé, đặc biệt là không được nói về cái thùng.”
“Sao vậy?” Benjamin hỏi.
“Vì người ta giao nó cho mình và mình cảm thấy phải có trách nhiệm với nó,” Charlie nói. “Mình nghĩ tụi mình nên cất cái bao thiệt kỹ cho đến khi biết rõ thêm về nó.”
Và Charlie quyết định bây giờ chưa nói cho Benjamin nghe vội về ông Onimous và những con mèo của ông ấy.
Đúng lúc đó nội Bone lừ lừ hiện ra ở bậc thang trên cùng.
“Con chó đó làm gì ở đây?” Bà hỏi, trừng mắt nhìn con Hạt Đậu.
“Hôm nay là sinh nhật của Benjamin,” Charlie n ói.
“Vậy sao?” Bà hỏi lạnh lùng.
Hạt Đậu ngóng lên sủa nội Bone và trước khi bà kịp xỉ vả thêm, Charlie kéo Benjamin trở lại nhà bếp.
“Nội Bone đang cái,” Charlie nói với ngoại Maisie.
“Bà ấy lúc nào chả thế,” ngoại Maisie chép miệng. “Rồi sẽ xẹp xuống khi nào con vô trường Bloor.”
Charlie chưa muốn thông báo tin này cho Benjamin trong ngày sinh nhật của nó, nhưng giờ thì lộ rồi, Charlie có cảm giác mình là kẻ phản bội.
Benjamin trố mắt nhìn Charlie đầy vẻ kết tội.
“Bloor là cái gì? Nó hỏi.
“Đó là một ngôi trường lớn ở gần Khu Nhà Lầu,” Charlie giải thích. “Mình không muốn đến đó, Benjamin à.”
“Thế thì đừng đi.”
“Nó phải đi, con ơi. Mẹ nó đã mua đồng phục rồi,” ngoại Maisie nói. Ngoại đặt hai dĩa đậu nướng và xúc xích lên bàn nhà bếp.
“Ăn đi. Sinh nhật của con mà coi bộ con sắp chết đói rồi kìa, Benjamin Brown.”
Benjamin ngồi xuống nhưng nó đã không còn cảm giác ngon miệng, nó lén gạt một miếng xúc xích cho con Hạt Đậu khi ngoại Maisie quay đi.
“Mình sẽ không đi cho đến hết học kỳ này,” Charlie nói với bạn.
“Ờ,” Benjamin nhìn đăm đăm vô cái dĩa của nó, không cười.
Xui xẻo làm sao, mẹ Charlie lựa đúng khoảnh khắc đó mà bước vô cùng với bộ đồ ngủ của Charlie.
“Không có bộ cũ nào khác cho con, Charlie à” cô nói. “Nhà Yewbeam sẽ cung cấp toàn bộ quần áo mới cho con vô Học viện.”
“Đồ ngủ?” Benjamin ngước lên. “Bồ sẽ ngủ ở đó sao?”
“Mình sẽ về vào mỗi cuối tuần,” Charlie trấn an.
“Ờ,” Benjamin lùa vài hạt đậu vô miệng rồi đứng lên. “Mình về đây. Chắc là ba mẹ mình về rồi.”
“Để mình đưa…?” Charlie đề nghị.
“Khỏi. Được mà. Mình có con Hạt Đậu.”
Charlie chưa kịp nói thêm lời nào thì Benjamin và Hạt Đậu đã bước đi khỏi. Đuôi và tai con chó cụp rũ xuống thê thảm, luôn là dấu hiệu rằng chủ nó đang xuống tinh thần ghê gớm.
“Cái thằng tức cười,” ngoại Maisie bình luận.
“Con nghĩ con phải chạy sang coi nó có sao không,” Charlie nói. “Dù gì cũng là sinh nhật nó.”
Nhưng khi vừa mở cửa trước, nó trông thấy Ông cậu Paton bước ra khỏi nhà . Điều này làm nó nảy ra một ý.
“Ông cậu Paton, cho con đi cùng với?” Charlie gọi, cắm cổ chạy theo Ông cậu mình.
“Chi vậy?” Ông cậu Paton đã dừng lại để đút một bó thư dày cộp vô hộp thư.
“Tại… tại…” Charlie đuổi kịp Ông cậu. ”À, con muốn rủ Ông cậu đi với con đến chỗ kia kìa.”
“Chỗ nào?”
“Một tiệm sách. Ở gần nhà thờ, và con không muốn đến đó một mình… Ghê lắm!”
“Tiệm sách?” Ông cậu Paton thích thú, đúng như Charlie hy vọng. “Nhưng, Charlie này, vào giờ khuya khoắt này thì ngay cả tiệm sách cũng đóng cửa rồi.”
“Dạ, nhưng con nghĩ sẽ có người trong tiệm, ngay dù nó có đóng cửa,” Charlie đáp và sau đó không kìm được, nó kể tuồn tuột cho Ông cậu Paton nghe về cô Ingledew và cái thùng bị khóa. Rốt cuộc nó cần phải tin ai đó, và bản năng mách bảo nó rằng Ông cậu Paton đứng về phía nó, dẫu ông là một Yewbeam.
Một tia sáng bí hiểm lóe lên trong đôi mắt đen của Ông cậu Paton:
“Vậy là mày muốn người phụ nữ bán sách đưa chìa khóa cho mày? Nói cho ta biết đi, Charlie, cái thùng đó đang ở đâu?”
Charlie ngần ngừ.
“Con không muốn bất cứ ai biết,” nó nói. “Có người đang săn lùng nó. Nhưng nếu Ông cậu thật sự…”
Ông cậu Paton cầm tay nó.
“Mày biết giữ bí mật là khôn ngoan đấy, Charlie. Chừng nào cảm thấy đến lúc thì nói cho ta hay. Giờ thì, tới tiệm sách nào!”
Họ rong ruổi qua những con đường nhỏ, nơi mà tài kích bể bóng đèn của Ông cậu Paton sẽ không bị ai để ý. Họ đi vô những con phố vắng tanh gần nhà thờ, bước đến đâu là những bóng đèn nhá lên nhịp nhàng đến đó, sáng rồi tắt, sáng rồi tắt, hệt như trong một tiết mục ảo thuật.
Một tấm bảng “ĐÓNG CỬA” treo phía sau một ô kính trên cửa tiệm sách cô Ingledew, nhưng có một ngọn đèn nhỏ thắp bên khung kính bày hàng, chiếu sáng những cuốn sách cổ bọc da. Ông cậu Paton dí sát mắt nhìn thấy cuốn sách đầy thèm muốn.
“Lẽ ra ta nên ra ngoài thường xuyên hơn,” ông lẩm bẩm.
Charlie nhấn chuông.
Một giọng nói xa xăm cất lên. “Đóng cửa rồi. Đi đi.”
“Cháu mà, cháu Charlie Bone mà,” Charlie nói. “Cho cháu gặp cô một chút được không, cô Ingledew?”
“Charlie hả?” Cô Ingledew có vẻ ngạc nhiên, nhưng không giận dữ. “Khuya rồi mà…”
“Gấp lắm, cô Ingledew… về cái thùng.”
“Ồ?” Gương mặt cô hiện ra nơi ô kính nhỏ trên cửa ra vô. “Chờ một phút nhé, Charlie.”
Đèn trong cửa hàng bật lên. Tiếng dây xích kêu lách cách, tiếng chốt cửa trượt và cánh cửa mở ra cùng với một tiếng chuông “kính cong” quen thuộc.
Charlie bước vô cửa hàng, theo sát là Ông cậu.
“Ối!” Cô Ingledew hết hồn, lùi phắt lại. “Ai đây?”
“Ông cậu Paton của cháu,” Charlie nói và nhìn Ông cậu, hiểu vì sao cô Ingledew lại có vẻ hãi hùng như thế. Ông cậu Paton là một khối đen cao lớn, và trong tấm ao khoác dài sù sụ, trông ông khá nham hiểm.
“Tôi hết sức hy vọng không làm cô hoảng sợ,” Ông cậu Paton nói, chìa bàn tay ra đầy kiểu cách. “Paton Yewbeam, rất hân hạnh.”
Cô Ingledew nắm lấy bàn tay Ông cậu, run run giới thiệu, “Julia Ingledew.”
“Julia,” Ông cậu Paton lặp lại. “Tên đẹp quá. Thằng cháu yêu cầu tôi cùng đi với nó.”
Charlie không thể chắc được là Ông cậu đang kênh kiệu hay rụt rè. Có lẽ là cả hai.
“Cháu tới để xin chiếc chìa khóa, cô Ingledew,” nó nói. “Chìa khóa mở cái thùng mà cô đưa cho cháu ấy.”
“Chìa khóa? Chìa khóa?” Cô Ingledew có vẻ hoang mang. “Ồ, cô tưởng chúng đi cùng với cái… ờ… để cô xem xem. Làm ơn vô… ờ… phòng tôi… ờ… kẻo người ta nghĩ tôi lại mở cửa hàng bán tiếp.” Cô bật cười luống cuống và biến mất qua tấm rèm sau quầy thu ngân.
Charlie và Ông cậu đi theo. Căn phòng nhỏ xíu sau tiệm sách lung linh những ánh màu êm dịu, và đôi mắt Ông cậu Paton hăm hở quét khắp lượt những dãy sách. Rõ ràng lúc họ tới thì cô Ingledew đang đọc sách, vì có một cuốn sách to đang để mở trên bàn cô.
“Người Inca,” Ông cậu Paton quan sát, đọc tựa đề chương sách. “Đề tài hấp dẫn đấy.”
“Vâng,” cô Ingledew tiếp chuyện, vẫn còn bối rối.
Cô đã tìm thấy một hộp thiếc nhỏ đựng chìa khóa mà cô đã cất đi khi dọn dẹp bàn. Hầu hết các chìa đều có nhãn đính kèm, nhưng có vài chiếc không đính nhãn.
“Làm sao mà biết được chìa nào đây?” Cô nói. “Nhiều chìa quá, Charlie, cô nghĩ tốt hơn hết cháu nên đem tất cả mớ chìa khóa không đính nhãn này về đi, xem chìa nào vừa. Cô thật chẳng biết làm gì hơn được.”
“Chúng tôi cũng chỉ mong có thế thôi mà,” Ông cậu Paton nói.
Cô Ingledew nhíu mày nhìn ông, bỏ đống chìa khóa vô một bịch New York-lông và đưa cho Charlie.
“Đây. Cháu mang về thử hết đi.” Cô bảo.
“Cám ơn cô Ingledew.”
Charlie cầm bịch chìa khóa, và xem ra không còn gì để nói hay làm nữa, nó lần đường quay trở lại phía tấm rèm.
Cô Ingledew theo sau họ để đóng và chốt cửa. Nhưng khi đã ra tới đường, Ông cậu Paton thốt nhiên quay lại hỏi:
“Cô Ingledew, tôi có thể gọi điện lại cho cô không?”
“Dĩ nhiên rồi,” cô Ingledew nói, vẻ ngạc nhiên. “Đây là tiệm sách mà, làm sao tôi có thể ngăn anh được?”
“Đúng,” Ông cậu Paton mỉm cười. “Nhưng sau khi trời tối có được chứ?”
Cô Ingledew trông có vẻ sợ sệt:
“Thứ Sáu tôi mở cửa đến 8 giờ,” cô nói và đóng cửa lại.
Trong một thoáng, Ông cậu Paton nhìn chằm chằm vô cánh cửa như thể bị ếm bùa,, rồi ông quay ra, thình lình tuyên bố:
“Một phụ nữ mới duyên dáng làm sao!”


Câu đó được Ông cậu thốt ra mãnh liệt đến nỗi cái bóng đèn gần nhất cháy bùng lên, rồi một cơn mưa bụi thủy tinh nhẹ rơi xuống con đường rải sỏi, cùng với một tiếng lanh canh thoảng như tiếng nhạc.
 
“Ông cậu Paton à, Ông cậu đúng là kẻ phá hoại của công!” Charlie nói. Một tiếng cười khàn đục vang dội khắp con phố hẹp. Từ trước tới giờ, Charlie gần như chưa từng nghe Ông cậu mình cười. “Sẽ có ai đó bị kết tội vụ làm bể bóng đèn này,” nó nói nghiêm trang, “và con dám chắc người đó không phải là Ông cậu.” “Tất nhiên,” Ông cậu Paton đáp. “Lẹ lên nào, nhóc. Mình nên quay về trước khi bà mẹ đáng thương của mày lo quýnh lên.” Khi hai người bước phăm phăm qua thành phố, chốc chốc Charlie lại phải chạy mới kịp được với những sải chân dài của Ông cậu Paton. “Đi càng lẹ càng đốt nhiều năng lượng,” Ông cậu Paton giải thích, “như thế sẽ bớt gây ra… tai nạn.” “Con hỏi Ông cậu một việc được không?” “mày có thể hỏi, nhưng ta có thể không trả lời,” Ông cậu Paton đáp. “Chuyện đó bắt đầu xảy ra hồi nào vậy? Ý con là Ông cậu có nhớ lần đầu tiên phát hiện ra mình có khả năng làm nổ bóng đèn là khi nào không? Ông cậu Paton đăm chiêu: “Chuyện đó xảy ra vào sinh nhật thứ bảy của ta. Ta quá phấn khích đến nỗi phóng bể sạch bóng đèn… Miểng thủy tinh vương vãi khắp nơi… Bọn con nít vừa kêu là thất kinh vừa gỡ thủy tinh bể vụn ra khỏi tóc. Tất cả bọn chúng đều bỏ về sớm, để mặc ta hoang mang và buồn hết sức. Ta không hề biết mình đã gây ra cớ sự cho đến khi các chị ta nói với ta. Họ rú lên, ‘Tạ ơn đấng tối cao, thằng này bình thường,’ cứ như làm bể được thủy tinh là bình thường, còn nếu không làm bể được thủy tinh thì là không bình thường vậy. Cha mẹ ta cũng vui mừng khôn xiết. Ta không có tài cán gì khác, mày thấy đó. Hôm đó họ để ta chén hết chỗ kem của mọi người, sau đó ta lăn ra bệnh.” “Ông cậu có buồn vì mình là một Yewbeam không? Nhất là nếu biết rằng như thế là khác người?” Charlie hỏi. Chỉ còn cách nhà số 9 vài căn, Ông cậu Paton dừng phắt lại. “Này, Charlie,” ông nghiêm nghị nói. “Mày sẽ thấy rằng đó chỉ là vấn đề điều khiển đám đồ vật thôi. Nếu mày giữ kín được tài cán của mày, thì mọi thứ sẽ ổn. Như người ta hay nói ấy, giữ trong nhà dùng thôi. Và đừng bao giờ dùng nó vì những lý do ngông cuồng và ngớ ngẩn.” “Benjamin có biết chuyện con nghe được những giọng nói,” Charlie thú nhận. “Nhưng nó sẽ không nói cho ai đâu.” “Ta cũng tin nó sẽ không nói với ai,” Ông cậu Paton nói và bước tiếp. “Thằng đó là một đứa bé hơi lạ. Với tất cả những gì chúng ta biết được, thì rất có thể, nó là một người con của Vua Đỏ.” “Vua Đỏ?” Charlie sững sờ. Ông cậu Paton phóng lên mấy bậc tam cấp nhà số 9. “Để lần khác ta sẽ kể cho mày nghe về Vua Đỏ,” ông nói. “Mà này, nếu ta là mày, ta sẽ không hé một lời nào về người bán sách với nội Bone đâu.” Nhưng trước khi Charlie kịp hỏi tại sao thì Ông cậu đã mở được cửa. Phía sau cánh cửa, nội Bone đứng sẵn, nét mặt như nổi sấm. “Hai người vừa ở đâu vậy?” Nội hỏi gặng. “Không phải chuyện của chị, Grizelda,” Ông cậu Paton vừa nói vừa sải chân vụt qua mặc bà. “Còn mày sẽ nói cho tao biết chứ?” Bà hỏi Charlie. “Để thằng bé yên,” Ông cậu vừa nói vừa đùng đùng lên cầu thang. Chỉ tích tắc sau đó, cửa phòng Ông cậu đóng lại đánh sầm. Charlie lách lẹ vô bếp trước khi nội Bone có thể hỏi nó lần nữa. Mẹ nó đang ngồi một mình, đọc báo. “Con đi với Ông cậu Paton,” Charlie nói với mẹ, “đi dạo thôi.” “Ồ,” trông mẹ Charlie có vẻ lo âu. “Mẹ nghĩ là con biết… biết việc Ông cậu làm?” “Dạ. Cũng hay mà, mẹ. Con thấy chuyện đó không có gì để lo hết. Thực tình, biết được trong nhà có người khác cũng làm được… ừm… mấy việc kỳ quái thì cũng nhẹ cả người.” Charlie không kìm nổi con ngáp. Hôm nay, nó đã đi bộ một đoạn đường xa nhất từ trước tới nay, mà lại đi lẹ nữa chớ. “Con đi ngủ đây,” nó uể oải nói. Nó sắp sửa ngủ thiếp đi thì sực nhớ đến mớ chìa khóa trong túi áo khoác. Nên giấu chúng thật kỹ đi thì hơn. Ngày mai nội Bone chắc chắn sẽ lục soát phòng nó. Bà đã nghi ngờ rồi. Tại sao bà cứ phải biết tất tật mọi thứ thế nhỉ? Thật không công bằng chút nào. Nó nhét sâu bịch chìa khóa vô trong một chiếc giày đá banh. Hy vọng bà sẽ không muốn nhìn vô một nơi bốc mùi như vậy. Sáng hôm sau, ăn sáng xong, Charlie lấy bịch chìa khóa ra khỏi giày và cất trở lại bên trong túi áo khoác. Xui xẻo thay, một tiếng lóc xóc bật lên khi nó xuống còn ba bậc thang cuối cùng. Việc xảy ra đúng lúc nội Bone từ trong bếp đi ra. “Tiếng gì vậy hả?” Bà hỏi. “Tiền trong túi con,” Charlie nói. “Không, không phải. Đưa tao coi mày giấu cái gì trong áo đó.” “Sao con phải giấu chớ?” Charlie kêu lên thật to. Nó hy vọng ai đó sẽ đến giải cứu. “Mày đã mua báo cho ta chưa, Charlie?” Ông cậu Paton hỏi, ngó mắt qua những tay vịn cầu thang. “Dạ chưa,” Charlie đáp, lòng đầy biết ơn. “Nó không được đi đâu hết, cho đến khi nó đưa ta xem nó đang giấu cái gì,” nội Bone uy quyền. Ông cậu Paton thở hắt ra, vẻ cáu tiết: “Tôi mới đưa nó một nắm tiền xu để mua báo đấy. Chị Grizelde, đừng có vớ vẩn như thế.” “Cậu gan thật đấy!” Trong một khoảnh khắc, nội Bone trông như sắp nổ tung vì phẫn uất. Charlie chộp lấy thời cơ. Nó vọt lẹ qua cái hình hài đang nổi đóa và phóng ra ngoài cửa trước. Ngay trước khi cánh cửa đóng sập lại sau lưng, nó còn kịp nghe nội Bone hăm he, “Cậu sẽ phải hối tiếc về điều này, Paton!” Charlie băng ào qua đường đến nhà Benjamin. Nó phải rung chuông nhiều lần cửa mới mở. “Bồ cần gì?” Benjamin vẫn mặc đồ ngủ. “Có chìa khóa mở cái thùng rồi,” Charlie nói. “Mình vô được không?” “Ba mẹ mình đang ngủ,” Benjamin rầu rầu nói. “Mình sẽ không làm ồn. Mình hứa.” “Thôi được,” Benjamin miễn cưỡng để Charlie vô nhà. Rồi, đi chân không, nó nhón bước tới cái tủ âm tường dưới gầm cầu thang. ‘Bồ làm đi,” nó vừa nói vừa mở cửa tủ ra. “Chú bồ không muốn xem có cái gì trong thùng sao?” Charlie hỏi. “Không.” “Đừng vậy chứ, Benjamin.” Charlie nài nỉ. “Mình đâu có lỗi gì nếu phải đi học ở cái trường kinh khủng đó. Bồ cũng biết là mình đâu có muốn thế, đúng không? Nhưng mình không thể làm khác được, nếu không thì mẹ mình và ngoại Maisie sẽ bị đuổi ra ngoài đường.” “Vậy á?” Mắt Benjamin tròn xoe. “Nội Bone là chủ căn nhà. Hôm kia, mấy bà cô biết tin mình nghe được những tiếng nói trong hình, thế là họ đến để kiểm tra mình. Nếu mình không làm điều họ muốn, họ sẽ tống cổ tụi này ra khỏi nhà. Mẹ mình và ngoại Maisie không có lấy một xu.” Benjamin thở gấp. “Hóa ra đó là điều mấy bà khách kinh dị bữa đó đã làm sao?” Charlie gật đầu. “Họ nói mình phải đến Học viện vì mình có phép thuật… tức là, nghe được tấm hình nói. Mình đã cố giả bộ như không có phép, nhưng bị họ gài bẫy. Mấy bà đưa cho mình mấy tấm hình ồn khiếp đảm, đến nỗi tiếng của mình mà mình còn không nghe được.” “Thật tồi hết sức,” Benjamin nói với vẻ hối hận. “Mình xin lỗi, Charlie. Mình cứ nghĩ là bồ tính giữ bí mật với mình.” “Không đời nào. Chỉ vì mình không muốn báo tin đó vào sinh nhật của bồ thôi,” Charlie nói. Có tiếng sủa nho nhỏ phía trên, hai đứa ngước lên thì thấy con Hạt Đậu đang ngồi giữa cầu thang. Trông nó có vẻ lưỡng lự không muốn leo lên tiếp nữa. “Thôi nào, Hạt Đậu. Đến coi trong thùng có gì nào?” Benjamin dỗ ngọt. Con Hạt Đậu không thể để bị dỗ ngọt được. Nó rên ư ử nhưng vẫn không chịu nhúc nhích. “Thôi kệ mày,” Benjamin nói. Nó mở cánh cửa tủ âm tường và bước vô. Charlie vừa định bước vô theo thì nghe tiếng Benjamin la lên: “Biến mất rồi!” “Chắc không đó?” Charlie không thích chút nào khi nghe thấy như vậy. “Mình giấu nó sau giỏ quần áo rồi mà. Cái giỏ biến mất, cái thùng cũng biến mất luôn.” Benjamin lục tung đồ đạc trong tủ, nhấc mấy cây chổi lên, hạ mấy cái hộp xuống, nâng đống sách, đá đám ủng. “Không có ở đây, Charlie ơi.” Benjamin bước ra khỏi tủ âm tường. “Thiệt tình, mình xin lỗi…” “Hỏi coi má bồ để nó ở đâu,” Charlie nói. “Không được. Má sẽ nổi tam bành nếu đánh thức má vào sáng chủ nhật.” Benjamin bắt đầu cắn cắn môi. May thay, trước khi Benjamin trở nên quá bấn loạn, thì con Hạt Đậu làm nó bớt tập trung bằng cách ào xuống cầu thang và lao về phía cửa sau. Hạt Đậu đứng trên hai chân sau, bấu chặt móng vô tấm kính cửa sổ, sủa như điên như dại. Hai thằng bé cũng lao ra cửa, đến nơi chỉ vừa kịp trông thấy một luồng sáng vụt biến sau một thân cây. “Những con Mèo Lửa,” Charlie thở gấp. “Mèo Lửa? Mèo Lửa nào?” Benjamin hỏi. Charlie kể cho bạn nghe về ông Onimous và mấy con mèo. “Ối, mèo,” Benjamin nói. “Hèn gì con Hạt Đậu mới nổi điên lên vậy.” Sau này Charlie hẳn vẩn luôn luôn thắc mắc: phải chăng những gì xảy ra tiếp theo đó là có liên quan đến ba con Mèo Lửa của ông Onimous? Chính mấy con mèo đã khiến chúng phải chạy ra cửa sau. Và nếu chúng không ra đó, thì sẽ chẳng bao giờ nghe được tiếng động nhỏ phát ra sau một cánh cửa khác, ở ngay cạnh chúng. “Có cái gì trong đó?” Charlie hỏi. “Cửa tầng hầm,” Benjamin trả lời. “Nguy hiểm lắm. Bậc thang mục hết rồi. Nhà mình không bao giờ xuống đó.” “Có ai đó đã vô đây.” Charlie mở cửa. Dưới chân nó là một khoảnh sàn nhỏ xíu, và một khoảng không đen ngòm. Charlie thận trọng bước qua cửa hầm và nhìn xuống. Nó chỉ thấy có một cái thang gấp trong rệu rã dẫn tuột vô bóng tối. Một tiếng “thịch” yếu ớt phát ra từ chân thang rồi ngưng bặt. “Có đèn đấy,” Benjamin nói, nhấn công tắc bên trong cánh cửa. Một bóng đèn treo trên tầng hầm soi sáng căn phòng bụi bặm trông như đã bỏ không. Giờ thì Charlie có thể thấy mấy bậc thang nguy hiểm đến chừng nào. Cái thì nứt toác, cái thì đã gãy hẳn. “Ba cứ nói là sẽ sửa lại, nhưng chả ao giờ ba có thời gian,” Benjamin nói. “Mình xuống đây,” Charlie cương quyết. Nó đã thấy cái thùng màu bạc nằm cạnh bậc thang cuối cùng. “Đừng,” Benjamin ngăn lại. “Bồ sẽ bị tai nạn khủng khiếp và đó là lỗi của mình.” “Không đâu,” Charlie bắt đầu leo xuống. “Mình sẽ mở cái thùng đó ra.” “Sao phải mở?” Benjamin hét lên. Hạt Đậu tru theo phụ hoa. “Mình muốn biết trong đó có gì trước khi vô Học viện. Ốốii!” Charlie trượt chân. Nhưng nó xoay được người, đu vô một bậc thang chắc chắn hớn, quyết đi nột quãng đường còn lại, cố bấu chật hai bên chiếc thang, trong khi bàn chân dò dẫm tìm những bậc có thể chịu nổi sức nặng. Bằng cách ấy, sau vài cú hụt và trượt, nó cũng mò xuống được đáy hầm. “Mang cái thùng lên đây đi,” Benjamin, lấy hết can đảm để quỳ sát bên miệng hầm, nói vọng xuống. Charlie đã tra cái chìa đầu tiên vô lỗ khóa. “Mình sẽ mở cái thùng dưới này luôn,” nó nói. “Ai mà biết được nhỡ đâu trong này có cái gì.” Chìa khóa đầu tra không khớp, chiếc thứ hai cũng thế. Không có âm thanh gì nữa phát ra từ cái thùng, và Charlie bắt đầu tự hỏi không biết tiếng thịch lạ lùng kia là tiếng ống nước chảy, hay tiếng chuột chạy dưới ván lót sàn. Nó thử chiếc chìa khóa thứ ba nhưng cũng không khá gì hơn. Cô Ingledew đã đưa cho Charlie mười chiếc chìa khóa cả thảy, khi thử đến cái thứ năm, nó có cảm giác là sẽ không có chìa nào hợp với cái thùng bạc. Có vài cái lớn đến nỗi không thể lọt được vô lỗ khóa. Thở dài, Charlie lấy ra cái chìa thứ sau. “Không được hả?” Benjamin hỏi. “Chả có cái nào vừa,” Charlie ủ ê. “Duới này lạnh kinh khủng. Mình sẽ…” Một tiếng gõ thật to phía cửa ra vô ngắt lời nó. Con Hạt Đậu sủa vang và Benjamin nhổm phắt dậy. “Mình phải làm sao bây giờ?” Benjamin hốt hoảng. “Tốt nhất ra coi đó là ai trước khi ba mẹ bồ thức dậy,” Charlie nói. “Nhớ đóng cửa hầm lại, nhỡ khi người đó vô nhà.” Charlie không đã động gì đến cái bóng đèn, nhưng trong lúc lo lắng, Benjamin đã vô ý tắt phụt đèn trước khi đóng cửa hầm lại. “Ê!” Charlie thì thầm to hết cỡ một tiếng thì thầm. Benjamin đi rồi. Charlie còn lại một mình trong bóng tối. Nó không thấy được cái thùng lẫn mớ chìa khóa. Tuy vậy, nó vẫn có thể cảm nhận được bằng xúc giác; và khi đưa tay sờ soạng mặt thùng gồ ghề, nó nhận ra có một mảng lõm nhỏ bên hông thùng. Chầm chậm, ngón tay nó lần theo các từ: MƯỜI HAI TIẾNG CHUÔNG CỦA TOLLY. Phần Benjamin, đầu óc nó quay cuồng lúc chạy ra mở cửa. Nó cố tưởng tượng xem ai mà lại ở ngoài bậc cửa vào sáng Chủ nhật bảnh mắt thế này. Có nên cho người đó vô không; và nếu cho vô rồi thì liệu nó có thể quay lại với Charlie không? Bây giờ nó mới nhớ ra mình đã bỏ Charlie lại trong bóng tối. Benjamin mở hi hí cửa, và dòm quanh. Một người phụ nữ đứng trên bậc thềm. Bà ta có mái tóc đen, mặc một cái áo khoác sẫm trông mượt mà. Mặc dầu đã được một cây dù che kín đến phân nửa người, nhưng ngay lúc trông thấy bà, Benjamin đã biết chắc đó là ai. Nó nhận ra đôi ủng đỏ. Đó là một trong những bà cô Yewbeam của Charlie. Nó hỏi, “Chi đó ạ?” nhưng không mở cửa rộng thêm chút nào. “Xin chào cháu!” Người phụ nữ có giọng nói nhừa nhựa, ngọt lịm. “Cháu là Benjamin đúng không?” “Dạ,” Benjamin đáp. “Thằng cháu của bác có ở đây không? Thằng Charlie ấy? Bác biết nó là bạn cháu.” Bà ta mỉm cười ngọt ngào. Ngay lập tức, con Hạt Đậu cất tiếng gầm gừ trong họng, thế là Benjamin thoát được rắc rồi, khỏi phải trả lời. Bà ta cười khẩy, nói: “Ồ. Nó không thích ta sao, con chó ấy?” Benjamin đi đến kết luận rằng, dù với bất kỳ lý do gì, nó cũng tuyệt đối không được nói Charlie đang ở đâu với nhân vật Yewbeam này. “Bạn ấy không có ở đây,” nó nói. “Cháu không gặp bạn ấy từ hôm qua.” “Thế à?” Người phụ nữ nhướn một bên chân mày đen dài lên. Bà ta không còn cười nữa. “Kỳ thật. Nó nói nó đến gặp cháu kia mà.” “Không, bạn ấy không đến,” Benjamin chối. “Ồ, sao mày biết là nó không đến?” Bà ta chẳng còn gờ-ram ngọt ngào nào nữa. “Vì nếu bạn ấy đến thì nãy giờ bạn ấy đã đứng đây.” Benjamin trả lời, không một chút ngắt ngứ. Lúc này con Hạt Đậu bắt đầu sủa hung tợn và Benjamin đã có thể đóng sập cửa lại trước mũi bà ta. Khóa cửa và cài chốt xong, nó hé nhìn qua khe nhòm và thấy bà ta đang nhìn nó trừng trừng, mặt trắng bệch ra vì tức giận. Benjamin lùi khỏi cửa và nhón chân quay lại tầng hầm. “Charlie,” nó thầm thì, mở cửa hầm ra. “Một trong mấy bà cô của bồ tới.” “Ôi, không,” tiếng thì thào đặc nghẹt của Charlie vang lên trong bóng tối. “Bật đèn lên, Benjamin.” “Xin lỗi, xin lỗi,” Benjamin bấm công tắc đèn và xuống, thấy Charlie đang quỳ cạnh cái thùng. “Bà cô nào vậy?” Charlie hỏi. “Bà tóc đen, áo dài đen, ủng đỏ và mặt trắng bệch ấy,” Benjamin nói nhỏ nhẹ. “Venetia,” Charlie thở ra. “Bà ấy gian xảo lắm.” “Coi bộ bà ấy sẽ không đi khỏi bậc cấp trước nhà đâu. Bồ nên ra bằng lối cửa sau.” Nhưng Charlie còn bốn chiếc chìa khóa cần thử trước khi chào thua trong nhục nhã. Chẳng có cái nào vừa cả. “Mình phải tìm cho ra,” nó hét lên. “Suỵt! Bà ta nghe thấy bây giờ,” Benjamin nhắc. “Mình lên đây.” Charlie bắt đầu leo lên. Lần này khó khăn hơn. Vài bậc thang đã gãy rụm trên đường nó leo xuống, và có vài bậc bây giờ nó phải đu lên bằng hai tay. “Úi!” Nó xuýt xoa khi bị một mảnh dằm đâm vô ngón tay cái. “Suỵt!” Benjamin nhắc nữa. Cuối cùng Charlie tới được bậc thang trên cùng, và hai đứa cùng nhau rón rén đi ra cửa trước. Benjamin dán mắt vô khe nhòm. “Bà ta đi rồi,” nó nói. “Không biết như thế thì xấu hơn hay tốt hơn,” Charlie nói. “Bà ta có thể rình rập ở đâu đó rồi bất thình lình xông ra.” “Bồ có thể đi ngang vườn sau nhà rồi dòm qua tường coi bà ta có ở đó hay không,” Benjamin gợi ý, “may ra có thể thoát bằng cách đó.” “Ý hay,” Charlie nhất trí. Chúng ra cửa sau, với Hạt Đậu đi theo, sủa ông ổng khoái chí, mong một cuốc đi dạo. “Ầm ĩ vậy mà ba mẽ bồ vẫn có thể ngủ được nhỉ,” Charlie nhận xét. “Ba mẹ mình mệt,” Benjamin nói, rồi nó hõi, “Chuyện mở cái thùng sao quan trọng vậy? Mình cứ để nó khóa luôn không được sao? Vứt nó vô sọt rác hay gì gì đó.” “Đâu được,” Charlie phản đối. “Món đồ ở bên trong thùng đã được dùng để đổi đứa bé. Giờ cô Ingledew có thể dùng nó để chuộc đứa bé về. Tụi mình phải giữ cho cái thùng được an toàn.” “Lỡ nó là một thứ khủng khiếp mà không ai muốn giữ thì sao?” Charlie đã nghĩ tới điều này, nhưng rồi nó quả quyết rằng đây là thứ mà có người rất cần. Tại sao mấy bà cô lại quan tâm đến thế? Tại sao lại có một thằng bé tóc đỏ đến hỏi về cái thùng? “Chắc chắn là có người rất cần món đồ đó,” Charlie nói, “nhưng họ sẽ không có được nó cho đến khi nào mình tìm được đứa bé, và theo ông Onimous nói, thì đứa bé đó đang ở Học viện Bloor.” Charlie mở cửa sau, nhảy xuống các bật tam cấp và phóng vọt qua khu vườn. Benjamin nhìn thằng bạn cứ thế lao vù qua cổng mà không chịu để ý hai phía. “Nó sẽ bị bà cô kinh khủng kia tóm mất thôi.” Benjamin thở dài. Đôi khi Charlie chẳng nghĩ ngợi cẩn thận xem mình đang làm gì. Con Hạt Đậu lộ vẻ thật vọng vì không được đi dạo đến nỗi Benjamin quyết định làm cho nó một bữa sáng thật xôm tụ. Nghĩ tới món xúc xích nướng thì đến Benjamin cũng cảm thấy đói bụng. Ngay giữa bàn bếp có một tấm danh thiếp ghi dòng chữ Orvil Onimous và Những Con Mèo Lửa, bằng chữ in nhũ vàng. Tấm danh thiếp nằm đây từ lúc nào? Làm sao nó chui được vô đây? Và tại sao nó lại chui đây? Charlie đã chạy hết con hẻm sau nhà Benjamin. Giờ thì nó đang ở khúc đường mà hôm nọ, lần đầu tiên, nó bắt gặp Ông cậu kích bể bóng đèn. Nó liếc thật lẹ qua trái, rồi qua phải, để biết chắc là bà cô không có trên đường. “Mình lừa được bà ấy rồi,” Charlie hí hửng. Nó chạy tới đường Filbert, quẹo cua và… “Tóm được rồi!” Một giọng nói vang lên. Bà cô Venetia cắm những móng tay dài ngập vai Charlie. “Đi theo ta nào, thằng kia,” bà Venetia rù rì đầy đe dọa. “Chúng ta có điều muốn hỏi mi. Và nếu chúng ta không nhận được câu trả lời thỏa đáng thì đáng tiếc cho mi đấy. Rất đáng tiếc.”
 
Bà cô Venetia lôi Charlie về nhà, móng tay bà bấu chặt cổ nó. Charlie hết thụp xuống lại vùng vẫy suốt dọc đường, nhưng không sao thoát khỏi những móng vuốt cứng như thép đó.


Nội Bone đang đứng đợi họ ở hành lang, mặt bà nặng như đeo đá.
“Tốt lắm, Venetia. Cần phải có đôi chân trẻ khỏe để bắt một tên tội phạm.”
“Cháu mà là tội phạm?” Charlie phản đối.


Nó liếc đôi ủng đỏ của bà cô Venetia. Đôi chân của bà ấy không lấy gì làm trẻ khỏe cho lắm. Bà ấy chỉ gian manh, thế thôi.


Nội Bone thúc nó vô bếp; nó ngồi xuống, xoa bóp cái cổ của mình.
Mẹ Charlie ngước lên khỏi trang báo:
“Có chuyện gì vậy?”
“Chúng ta có một thằng hư đốn,” nội Bone xối xả. “Phải vậy không, Charlie? Và một thằng dối trá.”
“Không phải,” Charlie lầm bầm.
“Ôi! Tao nói ‘phải’ đấy.” Nội Bone ngồi đối diện và ngó lăm lăm vô mặt Charlie. “Nó có một cái thùng không phải là của nó, nhưng nó không thể mở cái thùng ra được.”


Charlie chưa kịp ngăn cho nội Bone ngừng nói, thì bà cô Venetia đã thọc tay vô túi áo nó và rút ra bịch chìa khóa.
“Cái gì đây?” Bà vừa hỏi, vừa rung mớ chìa khóa lạch cạch trên đầu nó.
“Charlie, chìa khóa đó của ai?” Mẹ nó hỏi.
“Không của ai cả. Đó là… một người bạn cho con. Chơi thôi mà.”
“Đồ nói láo,” nội Bone gầm lên.
“Đừng gọi nó như vậy chớ,” mẹ Charlie giận dữ. “Sao mẹ biết được chuyện đó là không có thật”
“Amy thân yêu, tôi biết rõ con trai cô hơn cô đấy,” nội Bone lạnh lùng. “Một kẻ đúng lý ra phải biết rành hơn về cái thùng đã cho thằng bé cái thùng. Một kẻ nào đó không có quyền giữ cái thùng đó, và cái thằng ngu này lại đem giấu nó đi, chắc chắn là ở trong nhà thằng Benjamin.”
“Con không hiểu nội đang nói gì,” Charlie cãi. Nó nhất định không trả lời thêm một câu hỏi nào nữa, và cuối cùng nội Bone đành bỏ cuộc.
Với nụ cười hiểm độc, bà cô Venetia thảy mớ chìa khóa xuống bàn.
“Tốt hơn con nên trả chúng về nơi của chúng,” bà nói, khá ngọt ngào.
Charlie chộp lấy đống chìa khóa.
“Việc này chưa xong đâu,” nội Bone đe nẹt.
“Để thằng bé yên đi,” mẹ Charlie bảo.
“Giờ bọn ta sẽ để mặc nó.” Nội Bone nhìn bà cô Venetia đầy ngụ ý. “Chúng ta vẫn còn con cá khác để tóm.”
Charlie nhẹ cả người khi hai bà đội nón, đeo găng tay và lướt nhẹ ra đường, chắc lại sắp quấy nhiễu ai đó. Nếu Benjamin là nạn nhân họ nhắm tới thì họ sẽ không đời nào vượt qua được con Hạt Đậu.
“Charlie, chuyện gì vậy con?” Mẹ nó hỏi khi chỉ còn hai mẹ con.
“Không có gì đâu, mẹ. Nội Bone muốn biết mọi thứ, nhưng con có quyền giữ bí mật của mình chứ, phải không mẹ?”
“Ờ. Nhưng coi bộ đây là loại bí mật khá nghiệm trọng. Con không thể nói với mẹ đó là gì sao?”


Trông mẹ lo lắng quá, Charlie ghét nhất là phải nói dối mẹ. Nó quyết định ít ra cũng nên hé cho mẹ biết một phần nhỏ của vấn đề.
“Vụ này là về một đứa bé,” nó bắt đầu.
Mẹ nó há hốc miệng kinh ngạc, “Một đứa bé!”
Charlie mong sao mẹ nó đừng có hoảng sợ như vậy.
“Yên tâm đi mẹ, con không đánh cắp ai hay cái gì cả. Bây giờ nó không còn bé nữa, con bé ấy… nó là con gái… cỡ bằng tuổi con. Khi nó còn nhỏ xíu, mẹ nó mất và ba nó đã đem đổi nó lấy một thứ khác…”
“Cái gì?” Mẹ nó vội đưa tay bụm miệng lại.
“Kinh khủng quá mẹ nhỉ? Nhưng mà, ba con bé ấy mới mất. Người bà con duy nhất còn sống của nó muốn gặp lại nó, nhưng bà này không tìm ta cháu mình được. Vì thế con định sẽ đi tìm con bé.”
“Con ấy hả, Charlie? Con không thể đi khắp nơi tìm trẻ lạc được. Ai mà biết được con bé đó đang ở đâu.”
“Mẹ đồng ý,” mẹ Charlie nói, vẻ khổ tâm.
“Con sẽ tìm con bé đó, mẹ ạ,” Charlie cương quyết. “Tức cười thật, nhưng tự nhiên con thấy đó là việc con phải làm.”
Trước sự xúc động cực độ của Charlie, mắt mẹ nó bắt đầu long lanh, nhòa lệ.
“Con giống ba con quá,” mẹ nó dịu dàng. “Mẹ sẽ giữ bí mật cho con, Charlie. Nhưng phải cẩn thận. Bọn họ rất mạnh, con biết đó, những người mà con đối đầu ấy.”


Ánh mắt mẹ nó liếc nhanh lên cửa sổ nói cho Charlie biết chính xác mẹ muốn ám chỉ ai.


Chuông cửa reng. Nghĩ đó là ngoại Maisie lại quên chìa khóa, mẹ Charlie bảo nó ra mở cửa.


Thay vì thấy ngoại Maisie ngoài ngưỡng cửa, nó thấy một thằng bé có nét mặt rạng rỡ. Thằng bé con hao Charlie một chút, tóc sáng, màu nâu nhạt, hơi giống với màu mắt.
“Anh là Fidelio Gunn,” thằng bé nói. “Người ta yêu cầu anh giúp em học nhạc. Anh sẽ là gia sư của em. Em là người may mắn lắm đấy nhé.”


Charlie á khẩu.
“Hôm nay là chủ nhật mà,” cuối cùng nó nói.
Thằng bé toét miệng cười đến mang tai:
“Cả tuần anh bận lắm, không đi được. Anh vô được không?” Nó xách theo một hộp đựng đàn vĩ cầm.
Charlie đã bình tĩnh lại. “Ai gởi anh đến đây thế?”
“Dĩ nhiên là Học viện Bloor,” thằng bé nói một cách nồng nhiệt. “Họ bảo với anh là phần âm nhạc của em cần phải làm việc lại.” Nụ cười của nó thậm chí còn ngoác rộng hơn nữa.
“Âm nhạc của em làm gì có,” Charlie nói, nhe răng cười lại.


Thằng bé lạ mặt bước vô hành lang, không đợi mời. “Đàn piano ở đâu?” Nó hỏi.


Charlie dẫn nó vô căn phòng chỉ dùng cho những dịp viếng thăm của người nhà Yewbeam. Ở cuối phòng, một cây đàn piano kê sát tường. Theo trí nhớ của Charlie thì chưa ai từng đụng đến cây đàn.
“Bùm”, Fidelio mở nắp đàn. Nó lướt những ngón tay khắp các phím ngà. Một giai điệu đích thực nổi lên, một giai điệu khá đẹp.
“Cẩn phải điều chỉnh,” Fidelio nói, “nhưng cũng không cần lắm. Có ai chơi cây đàn này không?”
Charlie chợt nhanh nhẩunoi1, “Hình như ba em có chơi. Em không biết. Ba em mất rồi.”
“Ồ.” Lần đầu tiên kể từ lúc đến, Fidelio trông có vẻ nghiêm túc.
“Chuyện xảy ra lâu lắm rồi,” Charlie hấp tấp nói.
Nụ cười của Fidelio xuất hiện trở lại. Nó kéo ghế đàn ra, ngồi xuống và chơi đàn thật vang, thật hân hoan.
:Các con đang làm gì đó?” mẹ Charlie đứng ở ngưỡng cửa, mặt bà trắng bệch như bị ma thuật.
“Chào cô!” Fidelio nói. “Cháu là Fidelio Gunn. Cháu đến để dạy nhạc cho Charlie.”
“Sao lại thế?” Mẹ Charlie hỏi.
“Vì em ấy là một trong những người có phép thuật và cho dù em ấy không bao giờ là nhạc sĩ, thì em ấy cũng không thể đến Học viện mà mù tịt được, phải không ạ?” Fidelio nở một nụ cười ấm áp với mẹ Charlie.
“Cô cũng nghĩ thế,” mẹ Charlie nói một cách yếu ớt. “Không ai chơi cây đàn piano đó từ… từ rất lâu rồi.” Cô hắng giọng, cổ họng bà khản đặc, “Ừm… các con tiếp tục đi,” cô nói rồi đi xa, đóng cửa phòng lại.
Charlie không thích người ta biết nó có phép thuật.
“Làm thế nào mà anh biết em… có…?” Nó hỏi Fidelio.
“Nếu em sắp vô học khoa nhạc, mà lại không biết đàn lấy một cay xúc xích, thì bảo đảm em phải là một kẻ trong đám đó rồi,” Fidelio nói. “Số còn lại bọn anh đều chỉ có tài thôi.”
Charlie tò mò, “Còn bọn như tụi em nhiều không?”
“Không nhiều,” Fidelio nói. “Anh không biết hết mấy đứa như em. Một số đứa trong số đó thực sự có tài, lại vừa có phép thuật. À mà, em có phép gì?”
Charlie cảm thấy không muốn kể ra lúc này vụ nó nghe được những tiếng nói.
“Em sẽ nói cho anh nghe vào lúc khác,” nó bảo.
Fidelio nhún vai. “Cũng được. Giờ thì tiếp tục học nhạc nào.”
Chúng bắt đầu bằng “mổ cò”, và Charlie vô cùng ngạc nhiên là chỉ sau vài lỗi kinh khủng thì nó cũng xoay sở để đánh được một số nót nhạc cơ bản bằng cả hai tay, trong khi Fidelio chọn lựa giai điệu.
Chừng sau một tiếng đồng hồ, Charlie có thể chơi các thang âm trên nhiều phím khác nhau, và cả một hợp âm rải. Fidelio là một giáo viên vô cùng ồn ào. Nó nhảy lộp cộp quanh Charlie, nhịp chân, gõ lên đàn, xướng âm. Cuối cùng, nó lấy cây vĩ cầm ra và bắt đầu đệm cho Charlie. Chúng tạo nên âm thanh thật tuyệt.
“Giờ anh phải về đây,” Fidelio ngân nga, vung vẩy cái cây vĩ cầm. “Chủ nhật tới anh sẽ lại đến.”
Nó rút từ trong hộp đựng bản nhạc ra một tập giấy và đưa cho Charlie.
“Coi kỹ những cái này và học thuộc các nốt nhạc đi. Được không?”
“Được ạ.” Đầu Charlie vẫn còn văng vẳng tiếng nhạc khi nhìn Fidelio đi ra.
Chiều hôm đó, Charlie mang mấy bản nhạc Fidelio đã để lại cho nó ra xem. Nó nhanh chóng nhận ra là nếu ngồi bên đàn piano thì sẽ dễ học thuộc các nốt nhạc hơn. Nhưng nó chỉ mới ấn được vài phím thì nội Bone bất ngờ xông vô, yêu cầu được biết vì sao nó lại làm ồn ào lên như vậy.
“Con phải học nếu sắp tới vô khoa nhạc, đúng không ạ?” Charlie nói.
Nội Bone khịt mũi và sau đó đặt một cuốn tập to cộ lên cái bàn phòng ăn.
“Học nhạc xong thì bắt tay vô cái này, nghe chưa,” bà bảo.
Charlie không thích cái tập giấy dày cộp, đen thui đó. Ngoài bìa là dòng chữ được in nhũ vàng: HỌC VIỆN BLOOR.
“Đó là cái gì vậy?” Nó hỏi.
“Bài tập,” nội Bone đáp. “Những câu hỏi. Con phải trả lời mọi câu hỏi trong đó. Ta sẽ kiểm tra bài làm của con vào cuối mỗi ngày. Nếu sai thì phải làm lại. Ta nghĩ cần ít nhất một tuần để trả lời hết.”
“Như thế là không công bằng,” Charlie líu lưỡi. “Tiêu hết cả kỳ nghĩ của con rồi còn gì.”
“Không đâu,” nội Bone mỉm cười. “Con có máy vi tính, đúng không? Cứ nghĩ xem, trong vòng một tuần con sẽ biết được bao nhiêu là thứ. Rồi con sẽ gần như một nhà thông thái, phải không Charlie?”
“Con không muốn thông thái,” Charlie làu bàu.
“Nếu mày trả lời không xong mấy câu hỏi này thì tao dám chắc là mày sẽ khốn khổ khốn nạn ở Học viện Bloor đấy.” Nội Bone nổi cáu. “Chứ mày muốn ngay từ đầu đã không ra gì hay sao thế?” Rồi, vẫn mang một nụ cười gằn bực bội, bà rời khỏi phòng.
Charlie không thể tin nổi sao mà mình đen đủi tới vậy. Nó mở cuốn tập ra và đảo qua danh sách câu hỏi. Có năm trăm lẻ hai câu! Và, với cái liếc sơ, nó biết mình không thể trả lời bất kỳ câu nào. Tất cả đều hỏi về lịch sử xa xưa, về những địa danh, về những con người nó chưa từng nghe nói đến. Gay nhất là những câu hỏi về toán và khoa học. Dù với máy vi tính thì nó cũng phải mất nhiều thế kỷ mới trả lời hết phân nửa.
Charlie rên rỉ. Nó đành phải từ bỏ âm nhạc mà xách cuốn tập bìa đen lên lầu. Khi đi ngang qua cửa phòng Ông cậu Paton, chợt nảy ra một ý, nó bèn gõ cửa, hơi ngần ngại.
“Gì đó?” Giọng nói cáu kỉnh quen thuộc vọng ra.
“Con đây mà, Ông cậu Paton,” Charlie nói. “Con xin lỗi đã quấy rầy Ông cậu, nhưng con có chuyện này hết sức rắc rối cần được giúp đỡ.”
“Vậy thì vô đi,” Ông cậu Paton nói trong tiếng thở dài.
Charlie bước vô. Phòng Ông cậu trong còn hỗn độn hơn lần trước. Vài mẩu giấy còn mắc cả vô tay áo ông.
“Chuyện gì?” Ông cậu Paton hỏi.
Charlie đặt cuốn tập lên bàn ông.
“Nội Bone kêu con phải trả lời toàn bộ những câu hỏi này trong một tuần. Hơn năm trăm câu.”
Ông cậu huýt gió, và nói “Một yêu cầu quá sức đấy, Charlie.”
“Làm sao con làm được, Ông cậu Paton?”
“Mày sẽ cần rất nhiều giấy.”
“Thôi mà. Nghiêm túc đi mà,” Charlie đau khổ nói.
“Ta coi là mày đang xin giúp đỡ đi,” Ông cậu Paton đò đưa. “Nếu vậy thì ta cũng không thể bỏ công việc của ta sẽ làm những gì có thể làm được cho mày. Kiến thức bách khoa của ta cũng đáng kể đấy. Chúng ta sẽ giải quyết đống này gọn gàng thôi, ta chắc đó.” Ông cậu vỗ vỗ lên tập giấy đen. “Bây giờ thì đem cái thứ xấu xa này đi đi, và để cho ta yên.”
“Con cám ơn, Ông cậu Paton. Cám ơn, cám ơn Ông cậu!”
Lòng tràn trề biết ơn, Charlie nhảy vụt ra cửa, nhưng lần này, trước khi ra khỏi, nó không thể kìm được, hỏi:
“Chính xác thì công việc của Ông cậu là gì vậy?”
“Ta đang viết một cuốn sách,” Ông cậu trả lời mả không nhìn lên. “Lâu nay ta vẫn viết, và chắc chắn sẽ viết mãi.”
“Sách về cài gì ạ?”
“Lịch sử, Charlie.” Ông cậu Paton giờ đang viết lia lịa một cách giận dữ vô một cuốn sổ. “Lịch sử dòng họ Yewbeam và ông tổ của họ là Vua Đỏ.”
Lại là Vua Đỏ.
“Ông ta là ai vậy?” Charlie hỏi.
“Ông ta là ai à?” Ông cậu Paton nhìn Charlie chằm chằm, như thể không trông thấy nó, như thể ý nghĩ của ông đang ở tận đẩu tận đâu. “Một ngày nào đó, ta sẽ kể cho mày nghe nhiều hơn. Còn bây giờ, tất cả những gì ta có thể nói là, ông ấy là một vị vua… đã biến mất.”
“Ô,” Charlie quyết định tốt nhất là nó nên biến đi, trong khi Ông cậu vẫn còn đang vui vẻ. Nó đóng cửa lại, thật sẽ sàng sau lưng.
Ông cậu Paton đã giữ lời. Hàng ngày ông cho Charlie vô phòng, rồi hai người cùng ngau giải từ đầu đến cuối vái danh sách câu hỏi dài thượt ấy. Ông cậu Paton thực đã không ngoa về kiến thức tổng quát của mình. Quả là đáng nể.
Charlie giải đáp một trăm câu mỗi ngày; như thế, theo Ông cậu đã tính toán, nó sẽ hoàn thành vào tối thứ sáu và sẽ có một ngày nghỉ cuối tuần trước khi vô Học viện.
Vào các buổi tối, nội Bone cho phép Charlie mở đàn piano ra và tập mấy nốt nhạc mà Fidelio đã đưa cho nó để học thuộc. Nhưng có một hôm, nó quên. Nó đói quá nên phải vô bếp kiếm bánh mì bơ ăn. Mới cắn được vài miếng thì nó gục đầu xuống bàn và thiếp đi. Nó choàng dậy th.ì thấy nội Bone đang nắm tóc kéo đầu nó lên.
“Học nhạc, Charlie!” Bà gào lên với nó. “Không học cho xong thì đừng có mà ăn tối.”
Charlie lê bước đến bên cây đàn piano. Nội Bone dõi theo nó như một con diều hâu, cho đến lúc nó kéo cái ghế đàn ra và ngồi xuống. Nó mệt đến nỗi không nhấc nổi ngón tay; thế nên nó không cố nữa. Ngả người ra sau, khoanh tay trước ngực, nó lầm bầm:
“Phải chi có ba ở đây, ba sẽ dạy mình. Mình nghĩ chỉ có ba mới thích hợp với cây đàn này.”
Nội Bone đã dợm bỏ đi, nhưng ngay lập tức, bà buột miệng:
“Ba con có một cây piano lớn, dựng giữa một căn phòng rộng, sáng trưng. Căn phòng đó chỉ có hai thứ thôi: đó là cây đàn piano và ba Lyell của con. Nhìn qua dãy cửa sổ dài là thấy một hồ nước, nhưng ba con không bao giờ nhìn ra đó, ba con chỉ dán mắt vô bản nhạc trong khi mười ngón tay bấm phím đàn. Thế rồi, Lyell bẽ vỡ lời nguyện.”
“Sau đó chuyện gì xảy ra?” Charlie dũng cảm hỏi.
Nó gần như nghe thấy một tiếng “crắc” trong người nội Bone, khi bà vụt thoát khỏi cơn mơ màng.
“Ba mày đã phá luật, Charlie. Việc xảy ra là vậy. Cẩn thận đừng để việc đó lặp lại với mày đó.”
Trong tích tắc, bà biến mất, và Charlie nhận thấy mình đã tỉnh như sáo. Nửa giờ sau, nó đã thuộc nhiều nốt nhạc đến nỗi có thể đọc được một giai điệu đơn giản, và thậm chí còn đàn được cả giai điệu ấy.
Kể từ khi bị lừa đến nỗi tự phản bội chính mình, Charlie tránh không xem báo hay tập chí nữa. Nó không muốn nghe những tiếng nói. Nó không muốn nghe trộm chuyện riêng tư hay lắng nghe chuyện bí mật của người khác nữa. Mỗi lần mẹ nó mở báo ra đọc, nó lại ngoảnh đầu đi. Nhưng ngoại Maisie bảo phép thuật bẩm sinh của nó nên được sử dụng, để cho vui thôi vậy mà. Cuối cùng ngoại cũng thuyết phục được Charlie lắng nghe hình hai ngôi sao màn bạc mà bà ngưỡng mộ: Gregory Morton và Lydia Smiley.
Bức hình chụp bên hồ bơi. Ban đầu Charlie chỉ nghe được một tiếng tóe nước nhỏ xíu. Nó định đẩy tờ tạp chí ra chỗ khác, đang hy vọng thế là đã mất hẳn cái biệt tài không mong đợi đó, thì một giọng nói vang lên, Phải giảm cân đi thôi em gái. Người em nứt ra khỏi cái bikini kìa.
Đó chắc chắn là giọng của tay phó nháy, bởi vì liền ngay theo sau là giọng Gregory Morton văng tục khủng khiếp, Mày có để người yêu của tao yên không, mày là đồ ****!!! Tao thích mũm mĩm, trông…
Lydia Smiley văng tục thậm chí còn nhiều hơn Gregory, cô ta nói, Đủ rồi. Tao chịu hết tụi bay rồi. Cả hai thằng ****!!!
Charlie lặp lại những gì nó đã nghe được cho ngoại Maisie và mẹ. Họ phá ra cười lăn cười bò, cười chảy cả nước mắt. Charlie thấy chuyện đó đâu có mắc cười lắm, nhưng tiếng cười của ngoại Maisie dễ lây nên cuối cùng nó cũng bật cười theo hích hích.
“Ôi, Charlie,nghe thêm nữa đi,” ngoại Maisie nài nỉ. “Để coi, tấm này được không?”
Ngoại lại đẩy tờ tạp chí về phía Charlie, chỉ vô hình ngài thủ tướng và gia đình.
Charlie chưa kịp liếc nhìn tấm hình thì cửa mở tung, và nội Bone hiên ngang đi vô. Ngay lập tức bà đoán được chuyện gì đang xảy ra, bèn phăm phăm đến bên bàn, giật lấy tờ tạp chí và kẹp vô nách.
“Sao các người dám làm chuyện này?” Bà hét lên, lườm ngoại Maisie trước tiên rồi lườm mẹ Charlie. “Thằng bé này được ban phép thuật,” bà thò một ngón tay dài dí mạnh vô đầu Charlie, “và các người đang khuyến khích nó lạm dụng phép thuật.”
“Con chỉ…” Charlie cất tiếng.
“Tao thừa biết mày đã làm gì,” nội Bone lạnh lùng. “Ngồi trong bếp mà cười sằng sặc thì đâu có gì đàng hoàng. Mày không xứng đáng với tài phép của mày, thằng ngu. Bây giờ mày biết mày có phép thuật rồi thì phải có trách nhiệm trau dồi nó chớ. Phải trau dồi, phải tôn kính, phải nuôi dưỡng của thừa kế đó chớ… chớ đâu phải lãng phí vô những trò rác rưởi, lố bịch như vầy. Liệu mà dùng nó vô những việc quan trọng.”
Charlie tính cãi là thủ tướng cũng quan trọng vậy, nhưng nó lại suy nghĩ xa hơn. Nó còn hai ngày và hai trăm câu hỏi cần trả lời, nó không muốn phá cơ hội có một ngày cuối tuần rãnh rỗi.
“Tôi chẳng hiểu tại sao lại không để thằng Charlie thỉnh thoảng được vui vẻ một tí,” ngoại Maisie phẫn nộ. “Nó cũng là cháu tôi vậy.”
“Đó là điều không may cho nó,” nội Bone táp lại. “Charlie, về phòng học bài.”
Charlie vội vã chuồn lên lầu, vô phòng mình, để mặc ngoại Maisie và nội Bone ở lại mắng mỏ nhau.
Nó vừa tính ngồi vô bàn thì trông thấy Benjamin băng qua đường. Charlie vẫy tay và mở cửa sổ ra.
“Có chuyện gì vậy?” Benjamin gọi. “Sao mấy ngày nay không thấy bồ? Mình có nhấn chuông nhà bồ hoài nhưng không ai cho mình vô.”
Charlie giơ cuốn tập đen lên.
“Mình có năm trăm câu hỏi phải trả lời,” nó nói với Benjamin. “Giờ chỉ còn hai trăm câu thôi. Mình sẽ rảnh vào cuối tuần. Còn cái-đó-đó sao rồi?”
“Tệ lắm,” Benjamin nói. “Nó vẫn phát ra tiếng động. Có một bà cô đáng sợ của bồ đến. Bà ấy giả bộ đi quyên góp từ thiện, nhưng mình biết mặt bà mà. Bà này cũng giống như bà kia thôi, có điều già hơn.”
“Bồ không để bà ấy vô nhà chư?” Charlie lo lắng hỏi.
“Không. Con Hạt Đậu tung ra cú sủa chết người là bà ấy chạy mất.”
“Thằng Hạt Đậu khá lắm. Bây giờ mình phải đi làm bài thôi, Benjamin.” Charlie thở dài não nề. “Hẹn gặp bồ vào thứ sáu khi mình đã làm xong các câu hỏi.”
“Ờ.” Benjamin phẩy tay một cái. “Kỳ nghỉ điên thật! Mình chẳng gặp được ai cả. Mình sẽ dẫn con Hạt Đậu đi coi phim.”
“Ngoài rạp có chiếu Trái Tim Chó đó,” Charlie nói. “Con Hạt Đậu sẽ thích cho coi.”


Nó đóng cửa sổ lại và quay về với những câu hỏi. Nhưng nó không sao tập trung được. Đầu óc nó cứ nghĩ đến cái thùng màu bạc. Trong đó có gì? Và tại sao những người nhà Yewbeam lại nôn nóng muốn đoạt cho được cái thùng đó đến vậy?
 
Vào tối thứ Sáu, nội Bone chấm điểm một trăm câu hỏi cuối cùng của Charlie. Nó đã kiểm tra kỹ với Ông cậu Paton, và nó chắc chắn tất cả những câu trả lởi đều đúng. Nhưng nội Bone lại đeo một bộ mặt đanh sắt khi đọc những dòng chữ ngoằn ngoèo của Charlie, làm tim nó bắt đầu thót lại.


Trong phòng nội Bone nóng hầm hập, đã thế Charlie lại phải đứng kế lò sưởi trong khi bà nó thò ngồi bên chiếc bàn nhỏ trước mặt. Đôi cẳng gầy guộc của bà xoãi dài ra dưới gầm bàn, hướng về phía lò sưởi, và Charlie không thể không nhận thấy hai ngón chân cái xương xẩu lòi ra khỏi chỗ đầu vớ lủng. Nó cãm thấy thật gớm guốc.


Rốt cuộc thì nội Bone cũng phết một dấu kiểm bé xíu bên cạnh hàng cuối cùng của trang cuối cùng. Bà ngước nhìn lên, “Chữ viết của mày thật ô nhục.”
“Nhưng con trả lời đúng đấy chứ?”
“Ừ,” bà khịt khịt và hỉ mũi. “Mày có gian lận không?”
“Gian lận?” Charlie hơi run. “Kh… không.”
“Coi bộ mày không chắc lắm.”
“Con chắc chứ,” Charlie cãi lại. “Ý con là, có đúng là nội cho con được phép tra cứu hoặc dùng máy vi tính, đúng không? Và con làm y vậy.”
“Đây là mười câu hỏi nữa.” Bà đưa cho nó một tờ giấy. “Mày phải ngồi tại cái bàn này và trả lời ngay tại chỗ. Ngồi đây tao mới canh chùng mày được. Dễ lắm, cho nên mày không cần phải tra cứu đâu.”
“Nhưng lúc trước thỏa thuận đâu có vụ này đâu,” Charlie rú lên. “Thật không công bằng.”
“Cuộc đời vốn không công bằng,” nội Bone nói. Bà lảo đảo lê bước tới cái gi.ường lồi lõm, rộng rinh của mình, và lăn kềnh xuống đống gối. “Làm đi… càng sớm bắt đầu càng mau kết thúc.”
Charlie lặng lẽ nghiến chặt răng. Tất cả đều là bài tập toán. Nó rên rẩm và bắt đầu. Hai bài đầu ngốn mất của nó cả thế kỷ, và nó vừa chuẩn bị giải bài thứ ba thì chợt nghe có tiếng ngáy đằng sau.
Nội Bone đã ngủ tự hồi nào. Miệng bà há hốc và một âm thanh đùng đục, ụt ịt đang phát ra từ đó. Charlie kiễng chân đi ra cửa, mở thật khẽ khàng, và lỉnh ra hành lang. một tiếng kẹt nhỏ vang lên khi nó đóng cửa lại, nhưng nội Bone vẫn không thức giấc.
Chẳng buồn khoác thêm áo khoác, Charlie lẻn ra đường và chạy tọt sang nhà Benjamin. Lúc nhảy lên mấy bậc cấp, nó nghe tiếng con Hạt Đậu sủa, tiếp liền là ba tiếng ré đinh tai. Charlie nhấn chuông.
Nó nhận thấy có một con mắt hiện ra ở đầu bên kia của lỗ nhòm, và rồi cửa mở ra.
Charlie kinh ngạc khi thấy đứng sừng sững trước mặt nó, không phải Benjamin, mà là ông Onimous.
“Chính là cậu,” ông Onimous nói, cùng với một cú nhảy lò cò. “Chúng tôi đang chờ cậu. Vô đi, vô đi.”
Khi Charlie bước vô nhà, lại có thêm một tiếng sủa điên tiết nữa.
“Thôi nào, Đậu Ván,” ông Onimous gọi. “Lịch lãm tí nào. Lũ mèo lửa của ta không ưa bọn chó thô lỗ đâu.”
Rồi ông nhảy chân sáo qua hành lang cho tới khi chạm đến cửa tầng hầm. Đằng sau cánh cửa là Benjamin đang đứng, một tay túm chặt vòng cổ con Hạt Đậu. Hạt Đậu ta vẫn cứ thò mõm xuống những bậc thang ọp ẹp; tiếng gừ của nó đã biến thành một tràng rống giận dữ.
Charlie đã thấy lý do ngay lập tực: dưới chân cầu thang, ba con mèo của ông Onimous đang lượn lờ vòng quanh cái thùng kim loại. con Dương Cưu đột ngột gừ lên một tiếng kỳ quái và nhảy phóc lên cái thùng. Con Sư Tử, đuôi quật đen đét, giơ vuốt ra tấn công ổ khóa, trong khi con Nhân Mã ngoạm một cái móc dài.
“Cố lên, lũ mèo lửa của ta,” ông Onimous khích lệ. “Bọn bay có thể làm tốt hơn thế mà. Hãy cho chúng ta thấy bãn lĩnh của tụi bay coi!”
Lũ mèo ngóng lên nhìn ông Onimous, những cặp mắt lạ lùng sáng lấp láy, và ngay sau đó, chúng làm một việc hết sức lạ lùng. Chúng bắt đầu chạy vòng quanh cái thùng. Mũi con này chạm đuôi con kia, chúng nối nhau tạo thành một vòng tròn, và khi chúng chạy, vòng tròn ấy sáng dần, sáng dần, cho đến khi biến thành một quầng sáng chói lóa. Những sinh vật đang bốc cháy ấy chạy càng lúc càng lẹ, và thoáng chốc, không còn thấy con mèo nào nữa, chỉ thấy lửa cháy rừng rực quanh cái thùng kim loại. Lửa liếm, lửa đốt, lửa cháy sém cái thùng. Mùi khét lẹt giăng kín căn hầm. Charlie và Benjamin bật ho sặc sụa. Con Hạt Đậu cong đuôi biến mất, rú lên thảm hại.
Nhưng cũng chẳng được gì. Khi ngọn lửa tắt đi, lũ mèo lại hoàn mèo, cái thùng vẫn còn khóa, trơ trơ.
“Cậu phải đi tìm cho ra đúng chìa khóa, Charlie,” ông Onimous nói. “Tiến sĩ Tolly biết mình làm gì khi niêm phong cái thùng này. Có lẽ ông ta cố ý để nó bị khóa lại vĩnh viễn.”
Đám mèo thoăn thoắt leo lên những gióng thang mỏng mảnh. Charlie cảm nhận hơi nóng vẫn còn cháy lèo xèo trên lông chúng khi chúng quệt nhẹ vô đùi nó.
“Chúng là nguồn an ủi to lớn trong những đêm lạnh lẽo,” ông Onimous nói. “Liệu có được một tách cà phê không đây?”
Trong khi nhấm nhpa1 tách cà phê đậm nghét do Benjamin pha, ông ngoại Maisie nói với Charlie rằng trước đó chính ông đã đem cái thùng xuống cất dưới tầng hầm.
“Tôi đã vô nhà khi Benjamin trả tuổi này đang ở bên nhà cậu,” ông Onimous nói. “Hôm ấy là ngày sinh nhật của anh chàng, tôi đoán thế. Không còn dư miếng bánh sinh nhật nào nhỉ.”
“Làm sao ông vô nhà được?” Charlie hỏi, vẻ nghi hoặc.
“Bà mẹ tốt bụng của Benjamin đã mở cửa cho tôi vô,” ông Onimous nói. “Lúc đó bà ấy vừa về tới nhà. Ừm, trước đó tụi tôi, tức là tôi và mấy con mèo lửa, đã thấy cái bà mặc áo đen đi ủng đỏ ấy đang đi thu thập quần áo cũ. Tụi tôi đã biết trước là thể nào bà ấy cũng sẽ tới cửa nhà số 12, hỏi xin quần áo cũ. Mẹ của Benjamin sẽ mở cái tủ âm tường kia, và bà mang ủng đỏ thể nào cũng sẽ trông thấy cái thùng; và mẹ của Benjamin, úi Trời, thể nào cũng sẽ nói, ‘Bà cứ lấy luôn đi. Đồ bỏ ấy mà’. Và một khi bà ủng đỏ kia có được cái thùng rồi thì chấm hết, đúng không nào?... Nhưng cuối cùng, chính tôi với mấy con mèo lửa lại là những kẻ mà mẹ của cậu Benjamin kia cho vô thăm cái tủ âm tường, để tìm diệt chuột mà, cậu hiểu chưa, và trong khi bà ấy pha cho tôi một tách cà phê ngon tuyệt, thì lũ mèo lửa để nghị tôi nên chuyển cái thùng xuống tầng hầm. Cậu rõ chưa?”
“Làm thế nào mà mèo có thể đề nghị chuyện này chuyện kia? Benjamin hỏi.
“Bằng mắt, Benjamin à,” ông Onimous nói, “bằng tiếng meo meo, bằng đuôi quất vun vút, bằng mớ móng vuốt khéo léo.”
Ông đứng lên, vuốt bàn tay nhỏ đầy lông lên tấm áo khoác, và nói:
“Charlie, tôi muốn chúc cậu may mắn. Không dễ gì khi phải đổi trường đâu, ngay cả những lúc thuận lợi nhất. Và Học viện Bloor không phải là một nơi dễ sống. Những gì cậu cần phải làm sẽ rất khó khăn và nguy hiểm, nhưng hãy nhớ, cậu được chọn làm người giải cứu một cuộc đời bị đánh cắp. Chà, một khởi đầu nghề nghiệp mới hoành tráng làm sao!”
Ông chìa bàn tay móng dài như vuốt ra.
Charlie bắt tay ông.
Benjamin hỏi, “Ai đã chọn cậu ấy?”
Ông Onimous chưa kịp trả lời, Charlie hỏi tiếp, “Việc này có liên quan gì tới một ông vua đỏ không ạ?”
“Liên quan tất,” ông Onimous đáp.
Ông không nói thêm lời nào nữa, nhún nhún đi ra cửa và biến xuống đường. Hai thằng bé nhìn theo cái bóng nhỏ thó của ông lướt đi và biến mất chỗ khúc quẹo, theo sau là những cái đuôi của bọn mèo lửa, sáng rực lên.
“Tụi mình quên không hỏi vì sao ông ấy biết chỗ mình giấu cái thùng…” Benjamin tiếc rẻ.
“Còn rất nhiều thứ mình cũng quên không hỏi ông Onimous,” Charlie nói. “Ông ấy là người lẹ mắt lẹ tay nhất mình từng gặp trên đời.”
Cái thùng của tiến sĩ Tolly lúc này đang được an toàn, nhưng nhà Yewbeam sẽ phải mất bao lâu nữa để đoạt được nó? Nó cần phải được chuyển đến một nơi chắc chắn hơn, nơi mà họ không bao giờ nghĩ là sẽ tìm thấy nó.
Charlie nảy ra một ý.
“Fidelio Gunn!” Nó thốt lên.
“Đó là cái gì?” Benjamin hỏi.
“Một anh kia,” Charlie nói. “Thầy dạy nhạc của mình. Chủ nhật này đến đi, bồ sẽ gặp anh ấy. Fidelio có thể giúp tụi mình. Mình biết thể nào anh ấy cũng giúp.”
Benjamin coi bộ còn nghi ngờ. “Tụi mình phải kiếm ra chìa khóa trước đã.”
Charlie đồng ý. “Ngày mai tụi mình sẽ đi kiếm ngay.”
Khi Charlie về tới nơi thì nội Bone đã ra khỏi nhà, đi thăm mấy bà em. Mãi đến khuya bà mới về, cho nên Charlie tránh được mọi sự không hài lòng của bà vì đám câu hỏi chưa được trả lời.
Sáng hôm sau, ngoại Maisie là người duy nhất đã thức giấc khi Charlie bò xuống lầu.
“Con đi vui vẻ nhá, Charlie,” ngoại nói, dúi một trái chuối vô túi áo nó. “Vui được bao nhiêu thì cứ vui cho đã, trước khi quá trễ.”
Charlie không nghĩ “vui” là từ thích hợp để mô tả việc nó sắp làm. Nó cảm thấy việc này quá quan trọng, không thể dùng từ “vui” được. Nhưng nó không nói cho ngoại Maisie biết.
Benjamin đang chờ bên ngoài căn nhà số 12. Nó đã để con Hạt Đậu ở nhà canh giữ cái thùng. Tiếng chó tru lên đau khổ lẵng nhẵng theo chúng tới tận đầu đường.
“Tụi mình đi không lâu đâu nhỉ?” Benjamin nói trong cảm giác có lỗi.
Charlie không chắc. Lại một ngày u ám, lạnh lẽo nữa. Thỉnh thoảng những loạt mưa đá và mưa tuyết quất vô mặt hai đứa, và chúng phải cúi rạp người xuống mà bước để tránh bị những hòn nước đá táp vô, đau nhói.
Người qua lại thưa thớt và con đường dẫn đến Nhà Thờ gần như hoang vắng. Nhưng khi hai thằng đến gần tới tiệm của cô Ingledew, thì bỗng có hai bóng người xông ra khỏi bức màn mưa tuyết, hai thằng bé cỡ mười sáu hay mười bảy gì đó. Chúng dừng lại khi thấy Charlie và Benjamin, rồi hơi tách nhau ra, choán hết cả cái vỉa hè hẹp veo. Khi Charlie bước xuống lòng đường để né chúng, thì một trong hai thằng bé cất tiếng, “Charlie Bone phải không?”
Charlie giật bắn mình. Trước kia nó đã từng nghe giọng nói này rồi. Nó nhìn lên và nhận ra anh chàng đã nhìn nó trừng trừng từ một tờ báo: Manfred Bloor.
“Đi đâu đấy, Charlie Bone?” Manfred hỏi.
“Không phải việc của anh?” Thằng thứ hai vừa cười cừa cất tiếng the thé.
“Đó là việc của anh,” Manfred nói. “Nhưng anh biết rồi. Mày tới tiệm sách được gọi là Ingledew để van xin cái bà Ingledew ấy kiếm chìa khóa cho mày, để mở một cái thùng không phải của mày, cũng chẳng phải của bà ấy.”
Charlie chẳng nói gì. Nó khom người luồn quanh Manfred và định nhảy xuống lòng đường, nhưng bàn tay Manfred đã vươn ra giật mạnh cánh tay Charlie lại. Thằng kia, cái thằng tóc đỏ, lẹ như chồn, chộp lấy Benjamin.
“Anh có tin không vui cho mày đây,” Manfred nói bằng giọng khào khào, lạnh tanh. “Mày sẽ chẳng tới được bất cứ tiệm sách nào cả. Và mày cũng đừng hòng có cái chìa nào! Không ai mở được cái thùng đó cho đến khi nó được giao lại cho anh.”
“Em không hiểu anh đang nói cái gì cả,” Charlie đôi co, ráng vặn vẹo thoát khỏi giọng kềm của Manfred.
“Tụi em chỉ muốn mua một cuốn sách thôi,” Benjamin thêm vô.
“Chúng mày sẽ chả tìm thấy cuốn sách con nít nào trong tiệm mụ Ingledew đâu,” thằng tóc đỏ nói.
“Buông tôi ra,” Charlie thét lên. “Tôi muốn đi đâu thì đi chớ! Các anh không có quyền chặn tôi.” Nó vung bàn tay còn tự do và đấm cho Manfred một cú vô tai, nhưng thằng cao hơn liền chụp luôn cả hai tay Charlie, xiết càng lúc càng chặt lại, và vặn nó lăn ra đất.
“Nhìn tao đây!” Manfred ra lệnh.
Charlie nhìn. Nó không thể cưỡng lại được.
“Nhìn sâu vô mắt tao,” tiếng thầm thì ghê rợn thốt ra.
Đôi mắt Manfred giống như hai cục than đá, đen xì và sâu hoăm hoắm. Charlie dòm chằm chằm vô chúng, vừa cố kháng cự lại, vừa bị cuốn hút vô. Nó cảm thấy mình chìm dần, chìm dần. Và giờ, nó sắp chết đuối, vì nó không thể thở được nữa. Thế giới bên ngoài hai con mắt đen như than của Manfred dần biến mất, và Charlie thấy mình rơi vô một thế giới khác chính xác là bên trong một chiếc xe hơi.
Chiếc xe đang lao đi với tốc độ kinh hoàng, xuyên qua một khu rừng, và hóa ra Charlie lại đang cầm lái. Hai con mắt đen thui giờ ở bên cạnh nó, và cái giọng rít rịt nhắc lại:
“Hãy nhìn vô mắt tao!”
Đột nhiên, một cú nảy xóc kinh người, và Charlie bị quăng khỏi xe. Nó quỳ mọp trên miệng một cái hố trong khi chiếc xe – một chiếc xe màu xanh da trời – lộn nhào khỏi bờ rìa. Sự thinh lặng của khu rừng bị phá vỡ bởi tiếng gào thét cùa bọn chim chóc tán loạn, và rồi, xa xa bên dưới, một tiếng ầm dội lên.
“Charlie! Charlie!”
Charlie mở mắt ra và thấy mình đang ngồi bệt dưới đất, lưng tựa vô một cột đèn. Mặt Benjamin đang dí sát vô mặt nó.
“Chuyện gì xảy ra với bồ vậy?” Benjamin hỏi với giọng khiếp đảm.
“Mình không biết,” Charlie đáp.
“Trông như là bồ ngủ thiếp đi vậy,” Benjamin bảo. “Mình lay bồ nãy giờ cả thế kỷ luôn.”
“Sao mình lại ngủ?” Charlie hỏi, cảm thấy u tối, mù mịt.
“Lúc ấy bồ nhìn vô mặt cái thằng đó,” Benjamin nói. “Mình nghĩ chắc là nó đã thôi miên bồ.”
“Ai? Lúc nào?” Charlie không thể nhớ nổi điều gì. “Mình đang làm gì ở đây?”
“Ôi, Charlie!” Benjamin vặn vẹo hai tay. “Bồ đã quên sạch sành sanh rồi. tụi mình đang trên đường tới tiệm của cô Ingledew để hỏi xin cái chìa khóa, sau đó có hai thằng chặn tụi mình lại, và một trong hai thằng, cái thằng cột tóc đuôi ngựa ấy, bắt bồ phải nhìn vô mắt nó, và tự nhiên trông bồ rất kỳ cục, ngủ mê luôn.”
“Ồ!” Charlie bắt đầu nhớ ra. Nó run bần bật. Không khí xung quanh lạnh cóng, nhưng ký ức về đôi mắt của Manfred còn thấu xương hơn.
“Giờ tụi mình có đến tiệm cô Ingledew nữa không?” Benjamin hỏi.
“Mình thấy không khỏe,” Charlie lẩm bẩm, cố nhấc đôi chân. Benjamin lo lắng quá, nó chưa nghe thằng bạn mình nói như thế bao giờ. Charlie vẫn luôn khỏe mạnh mà.
Khi hai đứa quay về nhà, qua những con đường lổn nhổn hạt mưa đá. Charlie bắt đầu lảm nhảm về việc lái xe qua một khu rừng, và một chiếc xa xanh da trời lộn nhào xuống hầm đá. Benjamin nghĩ là Charlie đang bị mộng du hoặc phát rồ. Nó vẫn không hiểu được gì trong những lời Charlie nói, cho đến khi bất ngờ Charlie dừng lại và, chộp lấy cánh tay nó. Charlie nói. “Đó là điều đã xảy ra với ba mình, Benjamin à. Ba mình đã lái xe lao xuống một hầm đá.”
“Thật không?” Benjamin ngạc nhiên. “Mình cứ thắc mắc hoài. Thật ra có lúc mình nghĩ là ba của bồ bỏ đi.”
“Không phải,” Charlie quả quyết. “Ba mình đã bị giết.”
Benjamin không biết phải nói gì trước điều này. Cuộc sống của Charlie dạo này bỗng nhiên trở nên không chỉ rối rắm, mà con nguy hiểm nữa. Đến đây thì chúng về tới nhà Charlie, và Benjamin quyết định tốt nhất nên để thằng bạn mình nghỉ ngơi. Vả lại, nó đã nghe tiếng con Hạt Đậu sủa inh ỏi. Nó hy vọng con chó không sủa suốt từ lúc nó đi tới giờ.
“Thôi để chuyện cái thùng mai hẵng tính,” Benjamin nói. “Mình sẽ đến vào giờ học nhạc của bồ.”
“Giờ học nhạc nào?” Charlie coi bộ không hiểu.
“Fidelio Gunn ấy mà,” Benjamin ân cần nhắc.
“Ừm.” Gương mặt nhợt nhạt của Charlie đang dần hồng trở lại. “Được rồi. Hẹn mai gặp lại, Benjamin.”
Charlie khó nhọc lết lên những bậc cấp nhà số 9. Trong nhà im ắng. Mùi đồ ăn ngoại Maisie nấu phảng phất trong hành lang, nhưng thay vì khiến cho Charlie cảm thấy đói thì lại khiến bụng nó quặn lên.
Nó lên lầu và nằm vật ra gi.ường. Chắc là mấy người sau khi bị mổ xong, cũng cảm thấy như thế này đây, Charlie nghĩ, như thể họ không còn kết nối hoàn toàn với thế giới thực nữa.
Manfred Bloor hắn đã biết Charlie là ai. Nhưng bằng cách nào mà biết được? Charlie nhớ ra tấm hình. Lần trước, khi nhìn vô hình, nó nghe những tiếng nói, con mèo Dương Cưu cũng đã nhìn ra và trông thấy nó. Bằng cách nào đó, vậy là đã hình thành một sự liên kết, cho dù đã tám năm trôi qua. Không lẽ khi nó nhìn hình Manfred trên báo, Manfred cũng nhìn thấy nó, và biết nó là ai?
Charlie quyết định làm một thí nghiệm. Nó có cất đâu đó một tấm hình Benjamin, được chụp cùng ngày với bức hình con Hạt Đậu nhe răng cười. Charlie lục lọi trong ngăn kéo và lôi ra gương mặt thất thần của Benjamin. Ánh đèn chớp của máy chụp hình đã làm Benjamin giật mình, sửng sốt.
Charlie dòm lom lom vô gương mặt thằng bạn. Trong một thoáng, Benjamin cũng dòm lại nó, và rồi một giọng nói vang lên, Charlie, mình không thích bị chụp lén.
Tiếng nền là một con chó đang sủa, và rồi giọng của chính Charlie, Cười lên nào Benjamin. Cười nào. Đẹp lắm. Rồi, xong!
Thế thôi. Không có thêm giọng nói nào nữa. Chỉ có tiếng con chó thở hồng hộc, và rồi một tiếng cho ngáp dài.
Trong căn nhà số 12, Benjamin vừa mở một hũ ya-ua dâu lớn ra. Nó vừa tính thọc muỗng vô, thì bất chợt, gương mặt của Charlie hiện ra, trôi lềnh bềnh trong đám dâu. Benjamin thấy bụng dạ lộn nhào. Nó bèn để cái hũ dâu trở lại trong tù lạnh.
“Dâu bị hư rồi,” Benjamin nói với Hạt Đậu. “Tụi mình ăn phô mai thay vậy.”
Con Hạt Đậu mừng rơn khi nghe thế. Nó khoái trá ve vẩy cái đuôi.
Mẹ Charlie đánh thức nó dậy ăn trưa, nhưng ngay sau đó nó lại ngủ li bì. Vào bữa trà, ngoại Maisie hỏi xem nó có bị bệnh không, bởi vì trông nó thật quái lạ và chẳng hề đụng tới bánh mì kẹp.
“Con không bị bệnh gì hết,” Charlie nói. “Con nghĩ con đã bị thôi miên.”
Ngoại Maisie và mẹ nó cười ồ lên.
“Nội Bone đang muốn gây sự,” ngoại Maisie nói. “Bà ấy muốn gặp con nói chuyện phải quấy về vụ mấy câu hỏi, nhưng có điện thoại gọi, thế là bà ấy đi thăm mấy bà Yewbeam rồi.”


Sau bữa trà, Charlie lại ngủ tiếp. Mãi cho đến khi vào nửa đêm, nghe thấy tiếng Ông cậu cọt kẹt xuống lầu, thì nó mới tỉnh giấc.


Charlie nhẹ nhàng đi xuống nhà bếp. Đầu óc đã tỉnh táo hơn và nó đang đói ngấu. Nó bắt gặp Ông cậu đang ngồi bên bàn bếp, xơi thịt gà nguội ngắt với đậu xanh và xà lách. Có một rổ bánh bột cuốn trên bàn và một chai rượu. Ly rượu to của Ông cậu Paton vơi còn một nửa.


Ánh sáng duy nhất trong phòng hắt ra từ một ngọn nến cắm trên chiếc chân đèn bằng bạc, chạm trổ cầu kỳ, đặt ở giữa bàn.


Ông cậu Paton nheo mắt nhìn xuyên qua đốm lửa đèn cầy. Cuối cùng ông nhận ra Charlie đang đứng xớ rớ trong bóng tối cạnh cửa.
“Vô đi, mày,” Ông cậu Paton nói. “Thích gà không?”
“Thích không ấy ạ?” Charlie kéo ghế. “Giờ thì cái gì con cũng ăn hết.”
Ông cậu Paton đưa cho nó một cái dùi gà trên dĩa và hỏi. “Hôm nay thế nào?”
“Kinh khủng,” Charlie kể cho Ông cậu Paton nghe về những chiếc chìa khóa của cô Ingledew, về Manfred Bloor, và về vụ bị thôi miên quái đản.


Ông cậu Paton buông rơi cái nĩa. “Ý mày định nói với ta là mấy thằng ranh kia cố ngăn không cho mày tới tiệm sách?”
“Dạ, đúng vậy,” Charlie nói. “Manfred rắp tâm lấy chìa khóa từ tay cô Ingledew trước con, và sau đó hắn sẽ đi tìm cái thùng. Hình như tất cả mọi người đều đang lùng kiếm cái thùng.”


“Cần phải bảo vệ người phụ nữ duyên dáng đó,” Ông cậu Paton lầm bầm. “Nói cho ta biết đi, Charlie, tại sao mày lại nhất quyết giữ cái thùng phiền toái đó?”
“Dù bên trong nó chứa cái gì, thì cái đó cũng đã từng đem đổi lấy một đứa bé. Con muốn đổi đứa bé lại một lần nữa, để giúp cô Ingledew gặp lại được đứa cháu gái. Thật không công bằng tí nào nếu người ba con duy nhất của đứa bé lại không tìm ra nó, đúng không Ông cậu?”
“Ta tự hỏi tại sao người phụ nữ dễ thương ấy lại không đem cái thùng đi chuộc đứa bé về?” Ông cậu Paton trầm ngăm.
“Cô ấy mới nhận được cái thùng thôi mà,” Charlie giải thích. “Trước đó thì người ta lừa cô ấy, nói dối cô ấy, làm cô ấy tẩu hỏa. Lúc có được cái thùng thì, cô ấy đã bỏ vụ tìm kiếm từ lâu rồi.”
“Xem ra mày biết nhiều đấy,” Ông cậu Paton nói. Ông mang cái dĩa không để ra bồn rửa chén.
“Charlie, tuần sau mày sẽ không cục cựa gì được, cho nên để ta mang trả chìa khóa cho cô Ingledew. Nếu cô ấy tìm được đúng chìa thìa ta sẽ đưa nó cho mày khi mày về nhà vào cuối tuần, nhưng ta nghĩ, mày nên chỉ cho ta xem cái thùng. Ta muốn có mặt khi mày mở nó ra. Cẩn thận vậy mà.”
“Cẩn thận cái gì ạ?” Charlie hỏi lại.
“Ai mà biết trong đó chứa cái khỉ gì?” Ông cậu Paton nói. “Phải có mặt người lớn ở đó. Mày không đồng ý hả?”
“Con nghĩ,” Charlie lại bắt đầu thấy đau nhói ở bụng. Lần này là vì iop nhắc tới chuyện nó phải xa nhà suốt cả tuần – bị giam trong Học viện Bloor.
“Ông cậu Paton à, tại sao lại bắt con phải đi học ở Bloor chỉ vì con có phép thuật?” Charlie hỏi.
“À, để họ có thể trông nom, ngó chừng mày. Họ không dám để mày đi bất cứ nơi nào khác, phòng ngừa việc mày dùng phép thuật mà họ không biết. Họ thích kiểm soát mà.”
“Con nghĩ là Ông cậu ngày xưa cũng có học ở Bloor?”
“Dĩ nhiên,” Ông cậu Paton đáp.
“Thế Ông cậu có thích không?”
“Thích không phải là từ ta ưa dùng. Nói đúng ra, ta đã luồn lách cho xong chuyện. Ta đã chịu cúi đầu, và ít nhiều gì họ cũng đã để cho ta yên.” Ông cậu Paton thở dài. “Ta cho rằng đó luôn luôn là cái không hay ở ta. Ta cứ cúi đầu hoài, trong khi thỉnh thoảng đáng ra ta phải ngẩng đầu lên. Hừ, có lẽ giờ cũng chưa đến nỗi quá trễ.”


Có tiếng kẹt cửa bên ngoài – cái cửa tung cùng với một tiếng sầm và ánh sáng ùa vô. Nội Bone đứng sựng ngay ngưỡng cửa. Bà trợn mắt nhìn Charlie, hỏi. “Cái gì thế này? Tiệc tùng lúc nửa đêm à? Lên gi.ường mau, Charlie Bone! Sáng mai phải làm cho xong mấy bài toán đấy. Thứ hai đi học rồi. Làm sao mà theo nổi nếu không ngủ hả?”
“Chúc nội ngủ ngon! Chúc Ông cậu ngủ ngon, Ông cậu Paton!”
Charlie ba chân bốn cẳng vù qua bà nó. Khi leo lên cầu thang, nó nghe tiếng nội Bone quát Ông cậu Paton:
“Chuyện gì đây, hả Paton? Tôi không thể tin tưởng ở cậu nữa. Cậu đứng về phe nào, hả? Trả lời tôi coi!”
 
Benjamin và Fidelio đến trước thềm nhà Charlie cùng một lúc. Benjamin biết ngay tức khắc rằng cậu trai trông vui vẻ này là thầy giáo dạy nhạc của Charlie. Bởi lẽ, cậu ta một tay xách hộp nhạc, tay kia xách hộp đàn vĩ cầm. Với lại, trông cậu ta mang dáng dấp nghệ sĩ. Chúng tự giới thiệu với nhau và Fidelio nhấn chuông cửa.


Nội Bone ra mở.
“Về đi,” bà nói với Benjamin. “Charlie sắp sửa học nhạc. Mày đến chỉ vướng víu thôi.”
“Không đâu,” Fidelio nói. “Chúng cháu sẽ chơi một bản tam tấu. Cần có Benjamin.”
“Tam tấu?” Nội Bone nhướn một bên chân mày xám, rậm rì lên. “Ta không tin.”


Benjamin toan quay đi thì Fidelio níu cánh tay nó lại. “Chúng cháu cần bạn ấy, thưa bà Bone,” Fidelio khăng khăng. “Giáo sư Saitweather, trưởng khoa nhạc, bảo chúng cháu phải lập một nhóm nhạc để Charlie quen dần với việc tham gia lớp học.”
“Hừmm . Bọn con nít chỉ nói dóc. Khỏi tin đi.” Nhưng có lẽ vì cũng không chắc đó là lời nói dối hay thật, cho nên bà để cho Benjamin vô.
Lúc Fidelio và Benjamin bước vô thì Charlie đang luyện thang âm.
“Có tiến bộ đấy,” Fidelio khen. “Hôm nay chúng ta sẽ làm ồn dữ đay, bởi vì ba đứa sẽ cùng hòa tấu.” Nó mở hộp nhạc, lôi ra một ống sáo và đưa cho Benjamin.
“Em không biết cách chơi…” Benjamin mở miệng.
“Rồi sẽ biết ngay,” Fidelio nói.


Đúng vậy, không đầy mười phút sau, Benjamin đã thổi được sáo. Ba thằng gây ồn ào khủng khiếp. Charlie nơm nớp lo nội Bone có thể hiện ra trút mưa bão xuống đầu chúng vào bất cứ lúc nào. Nhưng không! Thật là một cảm giác tuyệt vời khi có thể gõ đàn cật lực, cười nói hết cỡ và hát váng cả đầu, lấy cớ là cho học tập. Nó chờ đến khi Fidelio cho nghỉ mới bàn tới chuyện cái thùng.


Cuối cùng, khi Fidelio đặt cây vĩ cầm xuống, Charlie nói lẹ:
“Tụi em có một việc, anh Fidelio à. Và tụi em muốn hỏi liệu anh có thể giúp được không?”
“Được chứ,” Fidelio nhiệt thành. “Nói tiếp đi.”


Charlie kể cho Fidelio nghe về cái thùng bị khóa và đám chìa khóa. Nó bỏ qua không nói về đứa bé. Nó không biết Fidelio có đủ tốt để nó nói ra được điều đó hay chưa.
“Cho nên hai em muốn anh giấu giùm cái hộp chứ gì,” Fidelio nói. “Dễ ợt. Nhà anh đầy thùng đựng nhạc cụ. Anh có thể giấu đi cái thùng của tụi em dưới những cái hộp khác.”
“Vấn đề là, tụi em đang bị theo dõi,” Charlie nói. “Các bà cô của em đã biết cái thùng đang được giấu ở nhà Benjamin. Cho nên chúng ta phải tìm một cái gì đó to to để đút cái thùng vô và khiêng đi.”
“Để anh mang cái thùng mộc cầm của ba anh tới,” Fidelio sốt sắng. “Nó to khổng lồ luôn. Mắc cười là chính các em cũng thấy mình đang bị theo dõi. Tại anh dám thề là hôm nay anh có thấy thằng Asa Pike ở bên kia đường. Nó cải trang, như mọi khi vẫn thế. Nó học kịch nhưng không diễn xuất được. Hôm nay nó khoác áo trùm dài, đội nón quái chiêu, đeo ria mép giả. Nhưng bất cứ khi nào trông thấy Asa là anh cũng nhận ra nó liền… Nó có đôi mắt vàng khè, hung tợn như mắt sói.”
“Và tóc đỏ phải không?” Charlie hỏi. Thằng bạn của Manfred có cặp mắt vàng.
“Chính nó đấy. Nó là thằng hầu của Manfred Bloor. Nó có thể làm bất cứ điều gì cho thằng kia. Kể cả bán đứng mẹ nó, nó cũng dám làm.”
Charlie kể cho Fidelio nghe về vụ thôi miên.
“Anh có nghe nhiều lời đồn đại về Manfred,” Fidelio nói rành rọt. “Họ nói nếu ai không đứng về phe nó, thì có thể bị… tàn hại mãi mãi. Anh khuyên tụi em nên tránh xa nó ra.”
Cửa bật mở và nội Bone thò đầu vô.
“Ta đoán chừng là mấy đứa đã học xong,” bà nói.
“Bà đoán rất đúng, thưa bà Bone,” Fidelio nói. Nó bắt đầu thu dọn nhạc cụ và tập nhạc.
Charlie và Benjamin nhìn theo Fidelio ra cửa, nhưng trước khi đi hẳn, Fidelio nói:
“Hẹn gặp lại ngày mai, Charlie. Và hẹn sớm gặp lại em, Benjamin!”
Charlie nhìn quanh quất khắp con đường trước khi đóng cửa lại. Không hề thấy bóng dáng Asa Pike, hay bất cứ ai mặc áo dài và đeo ria giả. Quay qua Benjamin, nó thì thào:
“Hôm qua bồ có trông thấy cái mặt mình không, khoảng lúc bữa trà ấy?”


Benjamin ngạc nhiên quá đỗi:
“Mình thấy mặt bồ trong hũ ya-ua. Làm mình muốn bịnh luôn,” nó nói.
“Xin lỗi bồ nha, đó chỉ là một thí nghiệm thôi.”
Benjamin cố đoán xem đó là loại thí nghiệm gì, nhưng rồi lại quyết định là nó không muốn biết nữa.


Nội Bone cho phép Benjamin ở lại dùng bữa trà, nhưng nó bị tống cổ về ngay sau đó, để Charlie còn đóng gói hành lý và chuẩn bị cho ngày đầu tiên tới Học viện Bloor.
“Con không cần phải mang theo nhiều đâu,” mẹ Charlie nói khi bày ra bộ đồ ngủ mới. “Thứ Sáu con sẽ lại về nhà mà.”
Charlie ước gì mẹ nó đừng đưa bộ đồ ngủ in hình gấu Teddy, nhưng vì không muốn bị coi là vô ơn, nên nó yên lặng. Nó sắp bỏ vô túi một chiếc áo sơ-mi sạch, đồ vệ sinh cá nhân, vớ, đồ lót để thay đổi… và cái áo chùng màu xanh da trời.
“Mẹ nghĩ con phải mặc cái này, Charlie.” Mẹ nó nói, lôi chiếc áo chùng ra. “Mẹ đã thêu tên viết tất của con ở phía sau bằng chỉ xanh lá cây, coi đây này. Tại mẹ không còn chỉ màu nào khác.”
Charlie đẩy cái áo chùng trở lại:
“Tới đó con mới lấy ra mặc.”
Ngày mai, vì là ngày đầu tiên, nên mẹ nó sẽ đưa nó tới cổng Học viện. Mọi thủ tục giấy tờ đăng ký nội Bone đã lo liệu xong cả. Thứ Sáu nó sẽ về nhà bằng xe buýt Filbert.
“À, còn một thứ này nữa có thể con sẽ muốn mang thêm,” mẹ nó lẩm bẩm.


Cô rời phòng và, một loáng sau khi quay lại, cô cầm một gói giấy mềm màu trắng.
“Họ bảo con sẽ đeo cà vạt màu xanh da trời,” cô nói. “Và nội Bone đã mua cho con một chiếc, nhưng mà…”
Cô bẻ oặt gói giấy mềm và rút ra một chiếc cà vạt xanh da trời. Ở một đầu cà vạt có thêu một chữ “Y” màu vàng trang trí bằng lụa bóng.
“Cái này là của ba con,” cô bảo Charlie. “Chữ “Y” tức là Yewbeam, mặc dù họ của ba con là Bone, nhưng ba mang dòng máu Yewbeam, và do đó phải mang trọng trách đi học ở Bloor. Nhà Yewbeam rõ ràng là có quan hệ với nhà Bloor.”
“Quan hệ là sao? Ý mẹ là anh em họ?” Charlie tự hỏi tại sao trước đây mẹ nó lại không đề cập đến khía cạnh quan trọng như thế này.
“Anh em họ xa.”
“Có liên quan gì đến một ông vua đỏ không mẹ?” Charlie hỏi.
“Ba của con hay nhắc đến ông ấy.”
“Sao nội Bone lại đưa con chiếc cà vạt không có thêu chữ “Y”?”
“Có lẽ để chờ con phải tự khẳng định mình trước đã, Charlie. Có thể họ nghĩ con sẽ lạc đường lạc lối… giống như ba Lyell của con vậy.”
Cô đút chiếc cà vạt vô giỏ xách của Charlie.
“Với lại, con không bao giờ biết đâu, có thể con sẽ cần tới nó.”
Khi mẹ đi khỏi, Charlie lấy chiếc cà vạt ra xem xét. Chất liệu mềm và bóng, có lẽ bằng lụa hay bằng xa-tanh. Nó áp cà vạt lên mặt và hít hít. Có mùi giông giống như mùi của mẹ nó, khi mẹ còn quần áo đẹp đẽ để mặc. Tất cả những bộ đồ đẹp nhất của mẹ đều đã sờn cũ. Bất giác, Charlie chợt nhận ra, bây giờ mẹ nó trông có hơi rách rưới.
Sáng hôm sau, ngoại Maisie dọn cho Charlie một dĩa điểm tâm đầy tú hụ. Ráng lắm nó cũng chỉ trệu trạo nhai được một chút thịt lợn xông khói, không hơn. Bụng nó lại đang nhộn nhạo cả lên.
Nhà bếp hình như toàn những người cũng đang hồi hộp. Ngay cả Ông cậu Paton cũng có mặt.
“Đáng ra ta lái xe tới đó, nhóc con,” ông bảo Charlie. “Nhưng quanh đó một dặm không có chỗ đậu xe. Giáo viên ở đó chỉ khư khư giữ chỗ đậy xe cho họ thôi.”
Tất cả mọi người đều lộ vẻ không thoải mái, biết rằng dù gì thì Ông cậu Paton cũng không thể ra ngoài vào ban ngày, sau đó nội Bone bảo:
“Đã kêu taxi rồi. Tới bây giờ.”
“Con không muốn đi taxi,” Charlie kêu lên. “Trông con như thằng khùng vậy.”
Trong nước mắt và những nụ hôn của ngoại Maisie, trong một cái vẫy tay của Ông cậu Paton, và trong một nụ cười trang nghiêm của nội Bone, Charlie và mẹ nó bị tống đại vô chiếc taxi. Họ được thả xuống bên lề một con đường dẫn tới Học viện, và đi bộ qua một quảng trường thời Trung cổ, có sỏi và đá, hính đàn thiên nga. Thẳng tới là một tòa nhà xám, cao vọi, nguy nga và mang vẻ cổ xưa. Những bức tường cặp sát quảng trường cao cỡ một tòa nhà năm tầng, với những cửa sổ hình chữ nhật bằng kính phản chiếu sẫm màu.
Ở mỗi bên cổng ra vô hình vòng cung, đồ sộ có hai tòa tháp cao ngất, mái hình chóp, và khi họ đi tới những bậc cấp rộng thênh thang dẫn lên cổng ra vô, mẹ Charlie đột nhiên dừng lại, nhìn trân trân vô cửa sổ của một trong hai tòa tháp. Mặt cô tái mét, và trong một thoáng, Charlie nghĩ là mẹ nó sắp xỉu đến nơi.
“Có chuyện gì vậy, mẹ?” Nó hoảng hốt.
“Mẹ nghĩ là có ai đó đang nhìn mẹ,” cô lẩm bẩm. “Charlie, mẹ phải đi ngay đây.”
Cô hôn nó thật lẹ rồi quày quả băng qua quãng trường.
Charlie lúc này mới nhận ra những đứa trẻ khác đến bằng những xe buýt, đậu ở cuối quảng trường. Trong chớp mắt, nó bị bao kín bởi những đứa trẻ nhảy nhót, chạy, đi bộ, và la hét, tất cả đều bận áo chùng xanh da trời, hoặc xanh lá cây hoặc màu tím.
“Charlie, mặc áo chùng vô!” Một giọng nói vang lên. “Nếu không sẽ bị rắc rối đấy.”
Fidelio len lỏi từ đám đông chộn rộn, chui ra.
“Em có mang áo chùng không vậy? Anh quên mất không dặn em.|
“Có.” Charlie lôi tấm áo chùng từ giỏ xách ra và mặc vô.
“Tốt, giờ thì đi với anh,” Fidelio nói. “Đi sát vô. Sáng thứ Hai thường náo nhiệt lắm.”
Giờ thì chúng đã vô trong một khoảng sân lát gạch. Khi Charlie theo sau Fidelio, mắt nó chợt chạm phải một trong những ô cửa sổ nhìn xuống sân. Mãng tường xám bên dưới ô cửa sổ loang lổ những vết nám đen kịt.
“Đó là nơi Manfred suýt bị thiêu chết,” Fidelio thì thầm, giọng rin rít.
“Trong đám cháy?” Charlie hỏi.
Chúng đã tới một lối vô, có hai cánh cửa mở toang, được trang trí bằng những bức phù điêu bằng đồng. Charlie sợ hãi nhìn chòng chọc vô những bức phù điêu. Nó thấy mình bước vô một hành lang dài, nền đá, và thình lình, tất cả những tiếng cười, tiếng la hét tắt lịm. Chỉ còn nghe tiếng bước chân nên lộp cộp lên nền đá.
Ráng không để Fidelio lọt khỏi tầm mắt, Charlie chen lấn vượt qua đám trẻ đang đi lại như mắc cửi trong hành lang và biến mất vô những cánh cửa ở cả hai bên. Fidelio có vẻ như đang hướng tới cánh cửa bên trên có treo hai cây kèn trumpet bắt chéo nhau.
Chúng sắp đến nơi thì, bỗng nhiên, một tiếng thét kinh hãi thét lên, rồi ai đó giật mạnh áo chùng của Charlie. Nó quay lại thì thấy một nữ sinh tóc nhuộm tím ngã sóng xoài trên nền đá. Trông con nhỏ thật quái đản: ngoài mái tóc tím và áo chùng tím, nó còn dán một miếng hình màu tím trên trán và mang giày màu tím, gót giày nhọn hoắt, cao nhỏng khiến cho mấy ngón chân như gặp đôi lại. Chiếc ba lô của nó rơi xuống, xổ ra, sách bút văng tung tóe.
“Xin lỗi,” con nhỏ nói, xong, bật cười khúc khích. “Giày là lý do làm tôi xiêu vẹo hoặc xiêu lòng.” Rồi nó bò ra cười ngặt nghẽo.
Charlie định giúp cô nàng đứng dậy th.ì một giọng ra lệnh:
“Để đó, Bone!”
Asa Pike, cũng màu tím rịm, đứng nhìn trợn trừng xuống con nhỏ.
“Olivia Vertigo, luật lệ đâu? Nhắc lại coi!”
Lồm cồm bò dậy, cô nữ sinh ngâm nga:
Im lặng trong hành lang
Không được nói lan man
Im lặng khi bị ngã
Không được khóc hay la.
Lá! La! La! Lá! La!
Asa chộp cánh tay con nhỏ.
“Láo xược là chuyện không đùa được,” nó sủa. “Đi theo tao.”
Rồi nó bắt đầu lôi xềnh xệch con bé đi khỏi.
“Sách của tôi,” Olivia rền rĩ.
Charlie hốt vội đống sách với bút văng tứ tán, trong khi Fidelio, đặt một ngón tay lên môi, đi tìm ba lô của Olivia và giúp Charlie cho tập, sách vô.
Ngay khi chúng đi qua cánh cửa bên dưới hai cây kèn trumpet bắt chéo, Fidelio bảo”
“Giờ thì tụi mình nói được rồi.”
Chúng vô một căn phòng để áo khoác lát gạch bông, với những dãy tủ ngăn chạy suốt hai bức tường, và những hàng mắc áo dựng sát hai bức tường còn lại. Một dãy bồn rửa xếp đều giữa phòng.
“Rồi nhỏ đó sẽ gặp chuyện gì?” Charlie hỏi.
“Nó chắc chắn sẽ bị cấm túc – tức là, phải nghe một bài rao giảng nổi da gà của Manfred, và sau đó không được phép về nhà cho đến Chủ nhật. Nó cũng mới vô đây thôi, nhưng đã bị cấm túc những hai lần rồi. Đáng lý ra nó đã bị đuổi học rồi nếu như không có tài đóng kịch xuất sắc. Có một lần anh được phái đến lớp của nó để tìm thầy Irving, đúng ngay lúc nó đang diễn một màn độc thoại… Mẹ hồn luôn.”
Fidelio chỉ cho Charlie tủ đựng đồ của nó, rồi dẫn Charlie tới hội trường, có sàn được lót ván gỗ sồi. Một nhóm nhạc công đang đứng ở trên sân khấu, say sưa tấu nhạc cụ.
“Trước tiên tụi mình sẽ hát bài Học viện Ca, sau đó mới đăng ký lớp học,” Fidelio nói.
Charlie theo chân Fidelio tới những băng ghế dài ở hàng phía trước. Từ từ, thính phòng đông dần những nam sinh, nữ sinh trong áo chùng xanh. Chắc phải đến hàng trăm đứa trẻ từ mười một đến mười tám tuổi. Charlie nghĩ có lẻ nó là nhỏ nhất, cho đến khi một thằng bé loắt choắt xà tới ngồi bên cạnh nó.
“Chào anh,” thằng bé con cất tiếng. “Em là Billy Raven.”
“Anh là Charlie Bone!” Charlie nói.
Thằng nhỏ toét miệng cười. Tóc nó trắng phau và mắt màu đỏ sậm, rất lạ.
“Em bị bạch tạng,” nó giải thích. “Em nhìn không rõ, nhưng em nghe rất thình.”
“Coi bộ em hơi nhỏ so với trường Bloor hả?” Charlie nói.
“Năm nay em bảy tuổi,” Billy đáp. “Em là con mồ côi nên người ta đưa em vô đây. Ngoài ra, em còn có phép thuật.”
“Anh cũng vậy,” Charlie lúng túng.
Billy nhìn Charlie, hớn hở:
“Em rất vui,” nó thì thào. “Giờ thì tụi mình có ba người.”
Charlie không có thời gian hỏi xem ai là nhân vật thứ ba có phép thuật, bởi vì một người đàn ông cao lêu khuê, tóc trắng đã bước ra sân khấu.
“Giáo sư Saltweather đấy,” Fidelio nói thầm. Nó ngồi cạnh Charlie, phía bên kia.
Có năm giáo viên dạy nhạc khác đang ở trên sân khấu: hai phụ nữ trẻ, một ông già đeo mắt kiếng, một ông trông vẻ vui nhộn, tóc quăn tít, và một người nữa. Charlie thấy mình cứ nhìn chăm chăm vô ông này – chưa bao giờ nó trông thấy một bộ mặt vô hồn như thế. Ông ta cao, quắc thước, tóc đen, rõ ràng đã quên chải đầu. Nét mặt của ông không hề biểu lộ sự thay đổi nào, dù chì một lần, ngay cả khi dàn nhạc dạo lên và tất cả mọi người cất tiếng hát.
Khi bài hát tập họp chấm dứt, Fidelio dẫn Charlie tới cánh cửa bên hông sân khấu. Một tấm biển treo ở cửa đề: THẦY PALTRY – KÈN SÁO.
“Gặp lại em giờ giải lao nha,” Fidelio nói. “Anh tới lớp đàn dây của cô Chrystal đây.”
“Những giáo viên trên sân khấu kia là ai vậy?” Charlie hỏi.
“Ừm, em sẽ học lớp thầy Paltry già… Không ai tị với em chuyện đó đâu… rồi đến thầy O’connor, dạy ghi-ta và mấy thứ đại loại vậy. Hai cô giáo kia dạy đàn dây. Giáo sự Saltweather dạy kèn đồng và hợp xướng.”
“Còn thầy đứng phía đầu – cái ông cao cao ấy?”
“À, thầy Pilgrim.” Fidelio nhăn mặt. “Thầy dạy piano, nhưng hầu như không ai học lớp thầy cả. Thầy rất lập dị.”
“Lập dị là sao?”
“Thầy không bao giờ nói gì cả. Mình sẽ không thể biết được mình học tốt hay dở. Ba anh dạy anh chơi piano. Ba anh dạy ở trường thường. Anh phải đi đây. Trễ mất.”
Vậy là, ba của Fidelio dạy trong một trường bình thường. Vậy thì phải như thế nào mới được là giáo viên của Bloor? Thú vị thật, Charlie nghĩ. Nó nhìn người bạn mới bay vèo qua hành lang tới một cánh cửa khác, rồi đi vô lớp thầy Paltry-Kèn-Sáo.
Thầy Paltry không thích những đứa trẻ có phép thuật. Ông tỏ rõ thái độ này cho Charlie thấy. Bọn trẻ có phép thuật làm ông mất thì giờ. Chúng có những biệt tài cùa riêng chúng, nhưng những biệt tài đó chằng có ích lợi gì cho ai cả, theo như thầy Paltry thấy thế.
Vào cuối buổi học kém thoải mái và vô tích sự đó, Charlie được bảo là phải đem cất áo chùng trong phòng mắc áo để ra vườn chạy.
“Thưa, vườn ở đâu ạ?” Charlie hỏi.
Nó nghĩ đây là một câu hỏi chính đáng, nhưng thấy Paltry lại xem như thế là làm phiền.
“Chứ trò nghĩ nó ở đâu?” Ông nạt nộ.
May thay, Charlie gặp Fidelio trong phòng mắc áo.
“Tất cả mọi người đều phải ra vườn chạy sau tiết học đầu tiên,” nó bảo Charlie. “Đi theo anh.”
Khu vườn chẳng hề giống như cái mà Charlie vẫn thường gọi là vườn. Nhìn ngút tầm mắt mà vẫn không thấy đầu kia đâu. Cũng chẳng có tường hay hàng rao. Sau lưng Học viện nhìn ra một sân chơi rộng bát ngát, nơi bọn trẻ đi bộ hay chạy thành từng đám hai, ba đứa, và thỉnh thoảng có đứa chạy một mình. Một khu rừng rậm rạp bao quanh sân chơi, và phía xa xa, thấp thoáng một bức tường xám, đo đỏ, mất hút vô trong rừng cây. Fidelio bảo Charlie rằng đó là khu bỏ hoang.
“Hàng trăm năm trước, nó là một lâu đài nguy nga,” Fidelio kể. “Nhưng giờ chỉ còn là một đống hoang tàn đổ nát. Mái sụp gần hết, nhưng vẫn còn vài lối đi rợn cả người, mấy bức tường rất quái đản, cầu thang thì mục nát. Cây mọc đầy xung quanh lâu đài, mọc cả ở bên trong, làm lâu đài trông càng giống như có ma vậy.”
“Anh đã ở trong đó lần nào chưa?” Charlie hất hàm về phía bức tường trông ghê sợ.
“Anh ấy hả?” Fidelio ngoác miệng cười. “Cứ đến mùa động, vào cuối tháng 11, là tụi này lại phải chơi trò hủy diệt ở đó. Tất cả mọi người đều phải vô đấy, cho dù có muốn hay không. Hai năm trước, có một con bé đi vô và không bao giờ đi ra nữa!”
Fidelio bắt đầu chạy quanh sân, và Charlie chạy bên cạnh.
“Sau đó họ có tìm thấy con bé ấy không?” Nó hỏi.
“Không bao giờ,” Fidelio nói. Nó hạ thấp giọng. “Người ta nói trước đây cũng đã từng xảy ra chuyện như vậy rồi. Chỉ tìm thấy áo chùng, nhưng không bao giờ thấy… ờ… ờ…”
“Xác?” Charlie gợi ý.
Fidelio gật đầu.
“Tự dưng biến mất thôi.”
Sau 15 phút chạy, một tiếng còi đi săn rúc lên, vang vọng khắp sân, và bọn trẻ líu ríu, lũ lượt quay trở vô tòa nhà.
“Tiết học lúc nãy của em là tệ lậu nhất đấy,” Fidelio bảo Charlie. “Không gì ngán ngẩm hơn thầy Paltry. Tiếp theo sẽ là tiết tiếng Anh, tụi mình cùng học chung, nhưng trước tiên phải lấy áo chùng đã. Tụi mình chỉ được cởi ra để chạy hay để chơi trò chơi thôi.”
Khi Charlie vô phòng để áo khoác, áo chùng của nó đã biến mất. Trên mắc chỉ còn treo một cái áo rách te tua, với những vết xé lởm chởm ở một goc.1
“Mặc vô đi, Charlie,” Fidelio khuyên. “Thế còn hơn không. Chắc có đứa nào lấy lộn áo của em rồi.”
Charlie không mặc cái áo rách tươm bươm đó.
“Không phải áo của em. Nhỡ đâu có ai vô kiếm lại thì sao,” nó nói.
Fidelio có vẻ bồn chồn, thấp thỏm:
“Thôi nào, Charlie. Làm ơn mặc vô đi, không thì phiền phức lắm.”
Nhưng Charlie nhất định không mặc. Nó đã không biết phiền phức mà Fidelio nhắc tới là phiền phức gì. Nếu biết, chắc chắn nó đã làm theo lời bạn.
Giáo viên môn tiếng Anh, thấy Carp, là một người vạm vỡ, mặt đỏ gay. Ngay khi Charlie bước vô, không áo chùng, đôi mắt hí rị của thầy Carp liền gắn tịt vô nó. Cái thằng Charlie này, thấy muốn biết, nó đang nghĩ gì đây? “Trang phục thiết yếu” đâu rồi?
“Nếu thầy định nói tới ao chùng, thì thưa thầy, em không tìm thấy nó đâu cả.” Charlie nói một cách vô tư.
Thầy Carp cầm một cây ba-toong. Thầy vụt đánh đét xuống mặt bàn.
“Đi ra!” Thầy rít lên.
“Nhưng, thưa thầy,” Fidelio nói. “Đó không phải là lỗi của trò ấy.”
“Im, Gunn!” Thầy Carp quát. Thầy to con nhưng giọng nói lại hơi the thé.
“Trò,” thầy chỉ cây gậy vô Charlie. “Ra ngay!”
Không muốn gây ra thêm rắc rối nữa, Charlie vội vã rời khỏi phòng học, lẹ hết sức. Nhưng khi đã ra đến ngoài rồi, nó lại không biết phải đi đâu. Nó cứ đứng ngây như phỗng bên cạnh bức tượng và nhìn trân trân xuống tiền sảnh dài, vô cánh cổng đôi cao lớn dẫn ra thế giới bên ngoài. Tiền sảnh đá lạnh toát, và ý nghĩ phải ngủ đêm tại Học viện Bloor càng lúc càng đáng ngán ngẩm.
Ngay khi Charlie nghĩ tiết tiếng Anh có thể đã hết và Fidelio có thể đến giúp nó tìm chiếc áo chùng bị mất, thì có người ló ra khỏi cánh cửa tít đằng kia hành lang. Đó là Asa Pike.
Thằng tóc đỏ nhếch cho Charlie một nụ cười hiểm và bước lại gần.
“Ố ồ, phải Charlie Bone đây không,” Asa cười hềnh hệch. “Tao thấy mày đã phạm luật ngay ngày đầu tiên.”
“Phạm cái gì?” Charlie nói.
“Tao có kêu mày mở mồm không vậy?” Asa ngưng cười. “Áo chùng của mày đâu?”
“Tôi không biết.”
“Đi gặp huynh trưởng ngay.” Asa thộp tay sau gáy Charlie và đẩy nó dọc theo hành lang. Charlie thấy chúng đang tiến về phía cánh cửa đề: HUYNH TRƯỞNG.
Asa mở cửa và đẩy Charlie vô trong.
Có một đám con trai lớn hơn ở trong phòng, nằm ngồi ngả ngớn trên những ghế bành và ghế tựa. Vài đứa liếc mắt nhìn Charlie rồi lại đọc sách hoặc tán dóc tiếp.
Bên dưới một cửa sổ ở tít cuối phòng có một cái bàn dài, và đằng sau bàn là Manfred Bloor ngồi, khoác áo chùng tím. Đối diện Manfred, có hai chiếc ghế. Trên một trong hai chiếc ghế là con bé tóc tím đang ngồi, đu đưa bàn chân. Asa ấn Charlie ngồi vô chiếc ghế còn lại. Olivia nhe răng cười với nó.
“Không áo chùng,” Asa mách.
Charlie vội quay đi khỏi ánh mắt chằm chặp của Manfred. Nó không muốn bị thôi miên lần nữa.
Manfred khệnh khạng hỏi:
“Không ai nói cho mày biết nội quy sao, Charlie Bone?”
“Không,” Charlie nhìn sượt qua đầu Manfred.
“Người ta gửi nội quy cho học sinh trước khi nhập học mà. Mày không nhận được sao?”
“Không,” Charlie nhìn chong chong ra cửa sổ đằng sau Manfred. “Chắc là người ta gởi cho bà nội em và bà quên đưa cho em.”
Xem ra rất có khả năng nội Bone đã chủ tâm giấu tờ nội quy đi, Charlie nghĩ, để gài cho nó rơi vô rắc rối.
Manfred mở một cái hộp đựng hồ sơ màu đỏ, rút ra một tờ giấy và đưa cho Charlie:
“Nội quy đấy. Xem và học đi, Bone.”
Rồi, hướng sang Olivia, nó nói:
“Còn mày, Olivia Vertigo, coi bộ mày không thể học nổi nội quy. Anh sẽ phạt cấm túc cả hai đứa bay vào đêm thứ Sáu. Cha mẹ tụi bay sẽ được thông báo về vụ này. Họ sẽ đến đón tụi bay vào thứ bảy.”
“Anh không được làm thế,” Charlie nhổm dậy, phản đối. “Đây là tuần đầu tiên của em. Mẹ em sẽ…”
“Mẹ?” Manfred nói, vẻ khinh khỉnh.
“Mẹ?” Asa lặp lại. “Trong cái trường này chúng tao không nói tới mẹ.”
“Những bà mẹ không tồn tại ở đây!” Manfred thêm vô, giọng hắc ám.
 
Olivia và Charlie bị điệu ra cửa rồi bị tống ra ngoài hành lang.
“Sao bây giờ?” Charlie rầu rĩ hỏi.
“Đến phòng để áo khoác đi, ở đó nói chuyện được,” Olivia thì thầm.


Charlie đi theo Olivia xuống tiền sảnh, qua một cánh cửa bên dưới hình hai chiếc mặt nạ màu vàng, một mặt cười một mặc khóc. Phòng để áo khoác tím thú vị hơn phòng để áo khoác xanh da trời nhiều. Ở đây chứa đầy nhóc các loại trang phục lạ lùng: nón cắm lông, nón kỵ sĩ, nón chóp nhọn… Trên các bức tường treo đầy hoa và mặt nạ; sàn nhà la liệt những ủng với giầy, đủ mọi kích cỡ và kiểu dáng.
Olivia hất văng đôi giày tím đang mang ra, xỏ chân vô một đôi giày mềm, gót thấp, trông mộc mạc.
“Thấy cái này được không?” Nó hõi Charlie. Charlie nhún vai.
“Đừng có lằm mặt rầu rĩ vậy chớ. Chuyện đâu đến nỗi tệ lắm đâu. Tớ bị phạt cấm túc hoài. Tớ đi thám hiểm. Tớ đã biết được bao nhiêu chuyện hay ho về chỗ này.”
“Nhưng rủi không kiếm lại được áo chùng thì sao? Mình sẽ lại bị cấm túc nữa.”
“Tớ nghĩ tớ biết kiếm nó ở đâu,” Olivia bảo Charlie. “Lúc giải lao tớ có vô phòng giữ áo khoác của đằng ấy để tìm ba lô của tớ… mà đằng ấy đã tử tế nhặt lại giùm đấy. Còn một người duy nhất ở đó là cái anh chàng mặt dài, tóc rũ rượi. Lúc tớ bước vô là nó chạy vọt ra, coi bộ lắm la lấm lét bí mật gì đó. Nó cầm một cái áo chùng xanh ngọc bích.”
“Bồ có biết tên người đó không?” Charlie hỏi.
“Gabriel gì-gì-đó,” Olivia trả lời. “Nếu nó đã đổi áo của đằng ấy rồi thì tốt nhất là đằng ấy cứ mặc áo của nó đã, cho tới khi đằng ấy chứng minh được cái áo kia là của đằng ấy.”
“Cảm ơn, Olivia!” Charlie bắt đầu cảm thấy lạc quan hơn. “Mình sẽ mặc áo vô ngay đây.”
“Hẹn gặp đằng ấy vào bữa tối,” Olivia chào khi Charlie phóng vù qua tiền sảnh, vô phòng để áo khoác xanh da trời.
Khi Fidelio ra khỏi lớp học tiếng Anh, nó thấy Charlie đang mặc chiếc áo chùng rách tơi tả.
“Mừng là em đã hiểu ra,” Fidelio nói khẽ. “Theo anh tới căn-tin xanh da trời nào.”


Charlie đi theo. Căn-tin xanh da trời nằm ở chót cuối sau khi băng qua mấy cái hành lang dài, và Charlie cố nhớ đường đi bằng cách nghiên cứu những hình vẽ trên các bức tường. Quan trọng nhất là phải biết xem có thể tìm ra thức ăn ở đâu. Hầu hết các bức vẽ đều là chân dung của những người đàn ông, đàn bà nom nghiêm nghị. Cứ như họ vượt thời gian quay trở lãi vậy, nhìn trang phục là biết ngay họ thuộc thế kỷ nào. Nó bắt đầu nhận ra những cái họ: Raven, Silk, Yewbeam, Pike và Bloor. Charlie vốn không giỏi môn Lịch sử, nhưng nó chắc chắn những chân dung này đang dẫn dắt nó trở lại cái thời mà người ta vẽ lên tường.


Cuối cùng, chúng đi vô một căn phòng rộng rinh, ẩm thấp, bốc mùi bắp cải luộc. Trong khi xếp hàng lĩnh phần ăn của mình, Charlie kể cho Fidelio nghe về chuyến viếng thăm phòng để áo khoác xanh da trời của Olivia.
“Có một thằng trông lấm lét cầm một cái áo chùng,” Charlie nói. “Olivia nói tên nó là Gabriel gì-gì-đó.”
“Gabriel Silk,” Fidelio chỉnh. “Nó học dương cầm. Anh nghĩ thằng này có phép thuật. Nó chắc chắn là loại quái dấm.”
“Quái dấm?” Charlie hỏi.
Fidelio hất đầu về phía hàng học trò đã lĩnh phần ăn xong.
“Nó là cái thằng ở cuối hàng.”


Charlie thấy một thằng con trai cao nhỏng, gương mặt dài, tóc tai rũ rượi, màu lông chuột. Tất cả mọi thứ ở nó đều có vẻ hờ hững và lóng ngóng, kể cả hai bàn tay.
“Trông nó hình như vui vẻ hơn thường ngày,” Fidelio nói. “Úi! Nhưng giờ thì hết vui nỗi rồi.”


Gabriel Silk vừa đánh rớt chồng sách mà nó cố kẹp dưới nách, giờ lại đang chật vật giữ thăng bằng dĩa đồ ăn trong khi lượm lại mấy cuốn sách rơi.
“Em thắc mắc không biết phải đó là áo chùng của em không.” Charlie nói. “Mẹ em thêu tên tắt của em đằng sau áo. Mẹ em dùng chỉ xanh lá cây vì không tìm ra sợi chỉ trắng nào.”
“Tối nay tụi mình sẽ coi thử,” Fidelio nói. “Chắc chắn tới lúc đó nó mới cởi áo ra.”


Một cái dĩa đựng thứ gì nâu nâu và xanh lá cây được dúi vô tay Charlie, và nó đi theo Fidelio tới một cái bàn trống. Sau vài miếng, Charlie nhận ra Fidelio hình như đang thưởng thức món bắp cải trông phát ói và bỏ lại đống màu nâu.
“Anh ăn chay,” Fidelio giải thích. “Họ không bao giờ cho mình xơi cái gì mà mình có thể xơi được. Anh hy vọng em thích món thịt băm của anh.”
“Vậy ra đó là thịt băm à? Em ăn được… Anh ăn phần bắp cải của em đi.”
Hai đứa đang đổi thịt băm với bắp cải, đúng lúc đó Chrytal – giáo viên dạy đàn – đi ngang qua bàn chúng.
“Các trò biết như thế là không được phép mà,” cô nói kèm theo nụ cười.


Charlie có ấn tượng rằng cô Chrytal không phải là người nghiêm khắc. Mùi bắp cải đôi lúc bị mùi nước hoa thơm phức của cô đè bẹp.
“Xin lỗi, cô Chrytal,” Fidelio nói, cười ngoác đến mang tai. “Đây là Charlie Bone, trò ấy mới đến hôm nay.”
“Chào, Charlie,” cô Chrytal nói. “Nếu cô có thể giúp gì được cho em thì Fidelio sẽ biết kiếm cô ở đâu.”


Rồi cô lại hào phóng ban một nụ cười rạng rỡ cho Fidelio và đi khỏi. Thật dễ chịu khi biết ít nhất có một giáo viên thân thiện trong Học viện này.


Phần thời gian còn lại trong ngày trôi qua mà không có biến cố nào khó chịu. Charlie đi theo Fidelio từ phòng này tới phòng kia, ra căn-tin dùng bữa trà, rồi lại ra sân chạy cuốc cuối cùng trước khi trời tối. Nhưng khi đèn bắt đầu bật sáng tòa nhà xám, cao lớn, và bầu trời đêm phủ trùm các cửa sổ, nó mới thấy nhớ nhà. Và khi đi qua những hành lang trên đường đi ăn tối, nó hình dung ra căn bếp ấm cúng ở nhà số 9 và một dĩa mì Ý đặc biệt mà ngoại Maisie vẫn làm cho nó. Nó ngoái đầu nhìn cánh cổng đôi nặng nề, cao vợi ngăn cách với thế giới bên ngoài.
“Vậy không hay đâu, Charlie,” Fidelio thì thầm. “Họ sẽ không mở cửa cho đến thứ Sáu. Anh đã thử rồi.”
“Lúc mới đến anh có nhớ nhà không?” Charlie hỏi.
“Có. Nhưng không lâu. Thứ Sáu tới mau thôi mà.”
"Em sẽ không được về nhà vào thứ Sáu. Em bị cấm túc rồi,” Charlie nói ủ rũ. “Manfred phạt em.”
“Thật không tin nổi!” Fidelio rõ ràng bị sốc. “Mới ngày đầu tiên mà. Manfred chắc chắn là cố ý gán tội cho em rồi.”
Nhưng khi nhìn vẻ mặt bi thương của Charlie, nó vội thêm:
“Sắp có một sự ngạc nhiên cho em đây. Chúng ta sẽ gặp toàn trường. Và nhà ăn lớn là một nơi anh không biết làm sao diễn tả hết cho em được.”


Fidelio nói đúng. Chúng cùng nhau bước xuống những hành lang dội âm, đi về phía căn-tin xanh da trời, sau đó đi thêm nữa. Giờ, chúng đang đổ dốc, từ từ, vô một cái hang khổng lồ dưới lòng đất, và Charlie thấy những đứa trẻ khoác áo chùng xanh lá cây và áo chùng màu tím nhập bọn với chúng. Cái đám con nít đông đúc đó quành vô một cầu thang rộng, rồi lại đi xuống, xuống một hành lang dài khác, cái này lại dẫn tới một sảnh đường rộng mênh mông.
“Chúng ta đang ở bên dưới thành phố,” Fidelio nói. “Đây là nơi cổ nhất của tòa nhà. Nơi mà người ta cho rằng các hậu duệ của Vua Đỏ đã giam giữ tù nhân của họ.”


Lại Vua Đỏ.
“Vua Đỏ là ai vậy?” Charlie hỏi.
Fidelio nhún vai.
“Ông xây tòa lâu đài bỏ hoang, anh chỉ biết có thế thôi. Anh nghĩ ông ấy thì OK, nhưng người ta nói có mấy đứa con của ông là một bọn thật sự hắc ám. Đi lẹ lên nào, không tụi mình trễ bây giờ.”


Ở cả hai phía của ba chiếc bàn cực kỳ dài là những băng ghế đang lấp đầy dần những trẻ con là trẻ con. Áo chùng xanh da trời ngồi bên trái, áo chùng tím ở chính giữa và áo chùng xanh lá cây bên phải. Ở đầu mỗi bàn có một huynh trưởng đang múc xúp ra từ một cái liễn thép to tướng. Những đứa trẻ khác đang phân phát từng khúc bánh mì.


Phía cuối sảnh đường, trên một cái bục cao, đội ngũ giáo viên của Học viện ngồi kín cái bàn thứ tư. Bàn Danh Dự, đó là Fidelio nói cho Charlie biết. Cuối cùng, lần đầu tiên, Charlie cũng đã thoáng thấy được giáo sư Bloor. Ông ta mặc áo chùng đen như những giáo viên dạy các môn học khác ngoài ba môn nghệ thuật, nhưng không thể lẫn ông ta vào đâu được. Ông ngồi ngay chính tâm chiếc Bàn Danh Dự và đưa mắt nhìn khắp đám con nít đang líu lo, lách chách. Đó là một người đàn ông lực lưỡng, uy quyền, tóc xám và thẳng, ria mép được tỉa khéo léo.


Dưới đôi lông mày chổi xể, đôi mắt đen nhỏ của giáo sư Bloor quét khắp ba chiếc bàn dài; và Charlie ngây người ra dòm theo anh nhìn của người đàn ông to lớn, cuối cùng mắt họ giao nhau.


Giáo sư Bloor đứng lên. Ông bước khỏi cái bục cao và bắt đầu đi xuống lối đi giữa các dãy bàn xanh da trời và bàn tím. Ông tịnh không rời mắt khỏi Charlie.
“Sao vậy?” Fidelio hích khuỷu tay Charlie. “Em không thích xúp à?”
Charlie không thể trả lời. Giáo sư Bloor đã đến chỗ nó.
“Charlie Bone!”
Đó chính là cái giọng nói nghe rợn cả xương từng thoát ra từ trang báo.
“Hân hạnh có trò ở đây.”


Charlie thều thào rằng nó vui mừng được học ở Bloor, nhưng nó gần như không nhận ra mình đang nói cái gì. Theo bản năng, nó ngó chăm chăm gương mặt to đang đổ bóng xuống, và nó sững sờ, phát hiện ra rằng không những mình nghe được giọng nói từ những tấm hình, mà khi sợ hãi thì nó con có thêm một khả năng khác: nó đọc được nét mặt. Charlie thấy rằng nó đã biết, không cần hỏi ai là người đã bắt đứa con của tiến sĩ Tolly.


Ngoại Maisie luôn nói rằng gương mặt có thể nói cho ta biết rất nhiều điều vw62 một con người. Gương mặt này bắt đầu nói cho Charlie biết nhiều hơn những gì nó muốn biết. Nó vội đóng chặt tâm trí mình lại trước gương mặt đó, một cách nhanh chóng và cương quyết.
“Có sao không vậy?” Fidelio hỏi Charlie. “Trông em như vừa nhìn thấy một con ma thế.”


Charlie nhìn cái lưng rộng của giáo sư Bloor đi xa dần. Ông ta dừng lại một lần nữa, và nói chuyện với một nữ sinh áo chùng xanh lá cây. Con bé có mái tóc dài nhợt nhạt, và khi ngước lên, nó cau mày. Charlie nhận thấy đôi mắt to màu xanh da trời của con bé có vẻ hoảng hốt và sợ sệt.
“Charlie!” Fidelio huých nó. “Cái gì thế?”
“Nhỏ kia là ai vậy?” Charlie hỏi. “Nhỏ đang nói chuyện với giáo sư Bloor ấy.”
“Emilia Moon,” Fidelio nói. “Nó học hội họa. Môn ấy nó khá đấy. Trứng với khoai tây chiên ra rồi kìa, tốt nhất em ăn cho hết xúp đi, không thì sẽ không được nhận thêm gì đâu. Luật thế đấy.”


Charlie lùa vội muỗng xúp cuối cùng vô miệng, ngay khi một dĩa trừng và khoai tây chiên được chuyền tới chỗ nó. Nó chuyền cái tô trống không theo hàng về tận cuối bàn, nơi Billy Raven đang xếp thành từng chồng.


Emilia không đụng tới món xúp. Con bé nhăn nhó với tô xúp như thể không hiểu tại sao từ đâu lại chui ra cái món xúp này. Charlie cảm thấy mình nên báo cho Emilia biết là đã có món trứng và khoai tây chiên, nhưng con bé ở quá xa.
“Tụi mình có bánh pút-đinh tráng miệng không?” Nó hỏi Fidelio một cách hy vọng.
“Em giỡn chắc. May lắm thì có được một trái táo,” Fidelio nói. “Hoặc một trái lê.”


Và chúng đã may mắn. Một trái lê trôi tới trước mặt Charlie, ngay sau món trứng và khoai tay chiên.


Khi bữa tối chấm dứt và những chiếc dĩa cuối cúng đã được xếp ngay ngắn, giáo sư Bloor tiến lên cái bục cao và vỗ vỗ tay. Im lặng bao trùm tức khắc.
“Tôi có một thông báo,” giáo sư nói nghiêm trang. “Một cậu trai mới tới để nhập vô hàng ngũ những người được ban phép thuật. Charlie Bone, đứng lên.”
Nóng ran cả người, Charlie đứng dậy. Hơn ba trăm cặp mắt quay về phía nó, đầu gối nó bắt đầu va lập cập vô nhau.
“Charlie!”


Giáo sư Bloor đọc tên nó mà nghe như thể cái tên ấy là một sai lầm ghê gớm.
“Sau bữa tối chúng ta có hai giờ bài tập về nhà. Những đứa trẻ có phép thuật sẽ học trong phòng Nhà Vua.”
Ông dừng lại vài giây, nhìn quanh đám trẻ im thin thít và bất động. Và rồi, bằng giọng ầm ầm như sấm khiến Charlie giật thót lên, ông ra lệnh:
“Giải tán!”
“Phòng Nhà Vua ở đâu?” Charlie rối rít hỏi, khi Fidelio đứng lên khỏi băng ghế.
“Đi theo Gabriel ấy,” Fidelio khuyên. “Hoặc Billy Raven cũng được… bám theo nó thì dễ hơn. Anh phải đi đây, Charlie. Ba phút nữa tụi anh phải có mặt trong lớp rồi. Gặp lại tối nay!”


Fidelio lướt đi, hòa vô dòng áo chùng đủ màu sắc đang dồn ứ về phía cuối nhà ăn tối. Charlie nháo nhào tìm cái đầu trắng của Billy Raven. Nhưng thằng bé bạch tạng bé xíu này bị chìm lỉm trong khối trẻ con chen lấn xô đẩy nhau. Cuối cùng Charlie cũng phát hiện ra thằng bé. Nó đang thành thạo rẽ đường luồn lách giữa bọn khác, phải mất một hồi Charlie mới đuổi kịp nó.
“Chào em!” Charlie nói, túm được vạt áo chùng của Billy. “Cho anh đi cùng với nhé? Anh không biết phòng Nhà Vua ở đâu.”
“Ít người biết lắm,” Billy nói, cười toét. “Muốn nhớ được đường tới đó cũng phải mất một lúc kìa. Nhưng em sẽ là hướng dẫn viên cho anh, miễn là anh muốn vậy.”
Charlie chưa kịp lầm thầm một lời cảm ơn thì Billy đã ào đi. Trước tiên tới dãy ngăn tủ để lấy tập và viết, sau đó trở lại tiền sảnh, xuống một lối đi, quẹo một khúc quanh, và leo lên một cầu thang. Cuối cùng chúng tới một cánh cửa đôi cao vời, sơn đen. Billy đẩy một cánh cửa ra và chúng bước vô một căn phòng lạ lùng, hình tròn. Có mười đứa trẻ đang ngồi quây quanh một chiếc bàn tròn.
Manfred và Asa cũng có mặt ở đó. Gabriel Silk ngồi giữa Emilia Moon và một nữ sinh tóc quăn, béo tròn, trông bình thường đến nỗi không thể tin được con bé này lại là một trong những đứa có phép thuật. Một nữ sinh vai u thịt bắp, tương phản với nữ sinh mảnh khảnh, nhỏ nhắn ngồi kế bên. Bên cạnh chúng, một nữ sinh da đen, mũi dài và nhọn hoắt, đang khinh miệt nhìn Charlie, và Charlie cảm thấy lòng mình chùng xuống. Nó sẽ phải trải qua bao nhiêu thời gian với một bọn trông kém thân thiện như thế này? Nó ước gì Fidelio và Olivia có mặt trong nhóm này.
Có hai cậu bé ngồi quay lưng ra cửa, và một đứa ngoái lại nhìn khi Charlie bước vô. Nó mang những nét như chạm trổ của người châu Phi, và nở một nụ cười ấm áp nhất mà đã lâu lắm rồi Charlie chưa được thấy.
“Đây là Charlie” Billy Raven nói.
“Chào, Charlie, anh là Lysander,” cậu bé da đen nói với nụ cười nồng hậu.
Vài đứa trong đám con gái cũng tự giới thiệu. Dorcas phục phịch và vui tươi, Beth bự con, Bindi nhỏ bé và Zelda có mũi dài. Emilia Moon thậm chí không ngẩng đầu lên.
Vẻ nhẹ nhõm của Charlie vì gặp được vài gương mặt thân thiện không kéo dài được lâu.
“Ngồi xuống, Charlie Bone. Và im lặng.”
Manfred hất hàm về phía một cái ghế trống, đối diện với Emilia Moon. Billy ngồi xuống bên cạnh Lysander.
Trong lúc lóng ngóng với đống sách vở và tự hỏi không biết phải bắt đầu từ đâu, Charlie cảm giác đôi mắt đen như than của Manfred đang dán chạt vô nó. Nó muốn quan sát kỹ căn phòng nhưng không dám ngẩng đầu lên, cho đến khi nó chắc chắn ánh nhìn đáng sợ của Manfred đã trở về với quyển sách của hắn. Cuối cùng, khi Charlie liếc nhanh được một vòng xung quanh, nó thấy còn một người nữa đang nhìn nó, đúng ra là đang giương mắt nhìn nó – đó là người duy nhất trong phòng mà nãy giờ nó không thấy mặt.
Đứa con trai này lớn hơn Charlie, có lẽ mười hai hay mười ba. Mắt nó tròn, trông thất thần, tóc vàng dựng đứng, tua tủa như có dòng điện chạy qua.
Charlie cau mày, hy vọng cậu kia sẽ nhìn đi chỗ khác, nhưng không ăn thua. Xem ra phản ứng dữ dội đó của Charlie lại thêm kích thích đối phương. Cuối cùng, chính Charlie là kẻ phải quay đi chỗ khác.
Thay vì bắt đầu làm bài tập, mắt nó lại phóng về phía bức tường đằng sau thằng bé tóc vàng. Và kìa, ở đó, chính là Vua Đỏ. Ông đang nhìn chăm chăm ra từ một bức tranh đóng khung vàng, chắc chắn là rất xưa rồi. Bức tranh đã nứt nẻ, và mờ đếnnỗi những đường nét trên gương mặt dài, sậm màu của ông lờ mờ, ẩn hiện, ngoại trừ đôi mắt – đen và cuốn hút. Áo chùng ông mặc bằng nhung đỏ quý, và vương miện mỏng trên mái tóc đen của ông nháng lên một tia sáng vàng, bí ẩn.
“Charlie Bone!” GIọng nói của Manfred làm Charlie giật nảy mình. “Sao không làm bài?”
“Em đang nhìn Vua Đỏ,” Charlie nói, tránh ánh mắt của Manfred. “Phải đó là Vua Đỏ không?”
“Phải! Trở lại bài ngay!”
Manfred lại dán tịt mắt vô Charlie, cho đến khi Charlie mở sách Ngữ văn ra.
Suốt hai tiếng đồng hồ sau đó, không một ai nói gì. Có những tiếng thở dài, tiếng húng hắng họng, khụt khịt mũi, tiếng hắt xì quanh Charlie, nhưng tuyệt không có tiếng nói nào. Trong một góc tối, chiếc đồng hồ treo tường tích tắc, cứ mỗi một khắc lại ngân lên tiếng. Tiếng lật giấy, tiếng bút rột rẹt, và Charlie đang có nguy cơ ngủ gật.
Cuối cùng đồng hồ diểm tám tiếng và Manfred đứng lên.
“Tui6 bay đi được rồi!” Hắn nói và bước ra khỏi phòng, với Asa lúp cúp theo sau.
Charlie thu dọn tập vở và ra khỏi lớp với Billy Raven.
“Cái anh tóc vàng là ai vậy?” Nó thầm thì.
Cậu tóc vàng mà nó hỏi tới cũng vừa rời phòng, tấm áo chùng xanh lá cây bay phấp phới quanh người, như thể đang bị một cơn gió bí hiểm thổi vô.
“Ồ, đó là Tancred,” Billy đáp. “Anh ấy có thể làm ra bão. Đi thôi. Em sẽ chỉ cho anh phòng ngủ chung.”
Cuộc hành trình này dẫn chúng qua rất nhiều cầu thang, và qua rất nhiều hành lang, Charlie bắt đầu thắc mắc liệu có bao giờ nó tự tìm được đường mà đi ăn sáng hay không. Cuối cùng chúng tới một căn phòng dài lạnh lão, tối tăm; sàn nhà trống trơn, chỉ có đúng một ngọn đèn lù mù.
Có sáu cái gi.ường, đặt cạnh nhau sát rịt thật bất tiện, dọc theo hai bên tường của căn phòng dài. Những chiếc gi.ường hẹp, trải mền len. Ở mỗi đầu gi.ường có một chiếc ghế, và một tủ ngăn kéo nhỏ dựa vô tường. Charlie thở phào khi thấy Fidelio ngồi trên một cái gi.ường ở cuối phòng.
“Lại đây, Charlie!” Fidelio gọi toáng lên. “Em nắm kế anh.” Nó chỉ một cái gi.ường.
Charlie đi tới, đặt phịch cái túi xuống ghế.
“Áo chùng treo trên mắc bên cạnh, đồ đạc còn lại cất trong ngăn kéo.” Fidelio hạ thấp giọng. “Nhìn xem ai ở phía bên kia gi.ường của em kìa. Em có thể kiểm tra áo chùng của nó.”
Charlie thấy Gabriel Silk đang tống đồ đạc vô cái tủ ngăn kéo bên cạnh gi.ường. Tuy nhiên, Gabriel không cởi áo chùng ra, ngay cả khi vô phòng tắm.
“Rất đáng ngờ,” Fidelio nói. “Em có đèn pin không?”
Charlie đã không hề nghĩ đến đèn pin khi đóng gói đồ đạc.
“Đèn pin là vật dụng thiết yếu,” Fidelio bảo nó. “Em có thể đọc sách khi tắt điện và soi đường đi loanh quanh. Ban đêm ở đây tối đến múc em khỏi nhìn thấy gì luôn.”
Nó lôi một cây đèn pin màu xanh da trời thanh mảnh ra khỏi ngăn kéo và đưa cho Charlie.
“Em sẽ cần nó để xem cái ao chúng. Cất dưới gối đi.”
Charlie là đứa cuối cùng trong phòng lên gi.ường đi ngủ. Nó phải mất thời gian dỡ đồ đạc ra, lục tìm tất cả những thứ gì cần thiết cho ban đêm. Nó lại mắc cỡ vì mấy con gấu Teddy in trên bộ đồ ngủ, nhưng khi thấy có đứa mặc đồ có hình đàn sóc, thì nó nghĩ gấu bông không đến nỗi nào.
Nó vừa nhảy lên gi.ường thì đèn phụt tắt.
“Im lặng!” Một giọng nữ ồm ồm vang lên. Rồi một bàn tay thò ra đóng cửa lại, phòng ngủ chung chìm trong bóng tối.
Có cái gì đó quen quen trong giọng nói kia, nhưng Charlie không tài nào nhớ ra.
“Đó là ai vậy?” Nó thì thào hỏi Fidelio.
“Giám thị,” Fidelio nói, “phụ nữ gì mà như con rồng.”
Trong phòng dya962 những tiếng khụt khịt mũi, tiếng trở mình sột soạt, khi bọn con trai cố tìm cho mình một thế năm thoải mái trên cái gi.ường nhỏ hẹp, cứng queo. Charlie chờ cho đến khi những tiếng ồn dứt hẳn. Ở gi.ường bên, Gabriel Silk đang thở sâu. Có vẻ nó đã ngủ rồi.
Charlie móc cây đèn pin ra và thò chân xuống sàn nhà. Khi đã chắc bóng đèn pin chĩa vô tường rồi, nó bât lên. Tấm áo chùng xanh da trời ở ngay trước mắt nó. Nó nhấc áo ra khỏi móc áo của Gabriel và nhìn những chữ viết tắt bên trong cổ áo.
“Áo mình đây mà,” Charlie thì thầm.
Fidelio đang ngồi nhóng trên gi.ường.
“Lấy đi,” nó thì thào. “Lẹ lên.”
Charlie lấy cái áo chùng rách rưới của Gabriel và định treo lên mắc, thế vô chỗ áo chùng của nó, chợt một tiếng thét hãi hùng vang lên.
“Đừng!” Gabriel thét lạc cả giọng, nhảy lên và cấu xé như điên cái áo chùng, “Đừng làm thế. Làm ơn! Làm ơn lấy đi giùm đi!”
Nó quẳng áo chùng rách qua góc gi.ường của Charlie.
Charlie đặt cây đèn pin xuống gối. Cây đèn tỏa một quầng sáng dịu quanh gi.ường.
“Áo chùng đó là của anh mà,” nó nói. “Em không muốn lấy cái áo đó.”
“Cậu không hiểu. Tôi không mặc nó được. Không mậc được. Cái áo đó toàn… kinh dị. Tôi sợ cái áo đó muốn chết luôn.” Gabriel nằm bẹp xuống gi.ường và úp mặt vô hai bàn tay.
“Cậu đang nói về cái gì thế, Gabriel Silk?” Fidelio hỏi với giọng trầm trầm. “Tại sao Charlie phải đưa cho cậu cái áo của nó?”
“Bởi vì tôi không mặc được cái áo kia,” Gabriel hất đầu về phía cái áo chùng cũ. “Người mặc nó trước tôi đã gặp một chuyện gì đó rất hãi hùng. Tôi cảm giác được chuyện đó, cậu hiểu không? Giống như mặc một cơn ác mộng vậy.”
Charlie bắt đầu hiểu ra.
“Đó là phép thuật của anh hả, Gabriel? Anh cảm giác được chuyện gì xảy ra à?”
Gabriel gật đầu:
“Tôi cảm nhận được từ những thứ người ta mặc trên người. Thật kinh khủng. Nếu không có quần áo mới, mà cứ phải mặc đồ cũ, thì tôi sẽ phải cảm thấy tất cả những cảm giác không phải của mình. Những chuyện lo ấu cũa người khác chẳng hạn. Thỉnh thoảng tôi cũng cảm thấy hạnh phúc, nhưng ngay cả như vậy cũng không hay ho gì, vì đó là niềm hạnh phúc không thật, mà lại không kéo dài. Vào đầu học kỳ, tôi có một áo chùng mới, nhưng lũ chuột kiểng của tôi đã cắn rách nó và mẹ phải kiếm cho tôi một cái khác.”
Charlie không ngăn nổi tò mò:
“Anh có bao nhiêu con chuột kiểng?” Nó hỏi.
“Năm mươi ba,” Gabriel nói với vẻ đau khổ. “Chúng ăn gần hết cái áo. Tụi tôi không có nhiều tiền, cho nên mẹ tôi hỏi Học viện xem họ có thể cho tôi một cai áo chùng đã dùng rồi không. Và họ đưa cho tôi cái kia.”
Đến lúc này toàn bộ phòng ngủ chung đã thức giấc. Một trong những cậu bé ở gi.ường cuối nói:
“Tao dám cá cái áo đó là của đứa con gái bị mất tích trong khu bỏ hoang. Chắc lúc đó nó đã sợ hãi kinh khủng.”
“Mình nghĩ chúng ta nên im lặng, nếu không bà giám thị sẽ vô, và tất cả chúng ta sẽ bị cấm túc,” một giọng nói cảnh báo.
Charlie không biết phải làm gì. Làm sao nó có thể để Gabriel mặc cơn ác mộng của ai đó được?
“Tôi sẽ làm cho cậu tất cả mọi thứ, bất cứ việc gì,” Gabriel thì thào. “Nhưng làm ơn đừng bắt tôi mặc cái áo đó.”
Charlie lấy áo chùng mới của nó xuống và đưa cho Gabriel.
“Cảm ơn! Cảm ơn, Charlie!” Gabriel vồ lấy cái áo với lòng biết ơn.
“Có một việc anh có thể làm cho em,” Charlie nói khẽ.
Nó mở ngăn kéo của mình và lấy ra chiếc cà vạt mẹ nó đã đưa cho nó.
“Anh có thể nói cho em biết bất cứ điều gì về người đã đeo cái này không?” Nó đưa chiếc cà vạt cho Gabriel.
Gabriel chẳng nói chẳng rằng, quấn chiếc cà vạt vô cổ và nhắm mắt lại. Nó rẽ những ngón tay dọc theo chiều dài của dải lụa xanh da trời, chạm vô chữ “Y” vàng nhỏ ở đầu chiếc cà vạt. Một khoảng tối phủ bóng trên gương mặt dài của Gabriel.
“Lạ thật,” nó lẩm bẩm. “Dù người đeo chiếc cà vạt này có là ao đi chăng nữa thì người đó cũng đã có thời hạnh phúc. Nhưng hiện ông ấy đang mất tích.”
Nó tháo chiếc cà vạt ra khỏi cổ và lấy ngón tay vuốt vuốt:
“Tôi chưa bao giờ cảm thấy bất kỳ cái gì như thế này. Như thể người này đang không biết mình là ai nữa.”
Rồi trả lại chiếc cà vạt cho Charlie.
Ít nhất thì ba nó đã từng hạnh phúc. Charlie đinh ninh rằng “mất tích” có nghĩa là “chết”. Nó cất chiếc cà vạt vô ngăn kéo. Vẫn chẳng biết được gì nhiều hơn về ba nó.
Nó định tắ đèn pin đi ngủ, thì một hình hai nhỏ thó hiện ra dưới chân gi.ường của Gabriel. Mái tóc trắng hiện lờ mờ trong bóng tối.
A”Nh có thể nói cho em biết về người này không?” Billy thì thào. Nó đặt một chiếc khăn quàng xanh da trời dài lên cái mền của Gabriel.
Gabriel thờ dài nhưng không phản đối. Nó quàng chiếc khăn vô cổ, và một lần nữa, nhắm mắt lại.
“Ừm, người này lúc nào cũng hối hả,” nó nói. “Ở đây, ở đó, ở khắp noi. Ông ấy phải luôn hối hả, không ngừng lại được.”
Nó dừng lại.
“Và giờ thì, tôi nghĩ là, ông ấy chết rồi.” Nó tháo chiếc khăn ra.
“Không còn gì khác sao?” Billy Raven nài nỉ. “Ông ấy không nói gì hết sao?”
“Xin lỗi, chuyện đó tôi lại không làm được,” Gabriel nói, vẻ lấy làm đáng tiếc. “Tôi không nghe được giọng nói. Và khi người ta chết thì những thông điệp sẽ yếu hơn rất nhiều.”
“Ra vậy. Cám ơn anh,” Billy rón rén bước đi, giọng nó buồn bã vọng trong bóng đêm.
Charlie tắt đèn pin, chồm sang nhét dưới gối Fidelio. Fidelio đã ngủ say. Tiếng thở nhè nhẹ của Fidelio khiến Charlie buốn ngáp, nhưng sau đó, bất chợt, nó tỉnh như sáo. Lúc nãy Gabriel nói cái gì đó mà nó chưa hiểu.
“Anh Gabriel,” Charlie gọi thầm. “Ba em đã đeo chiếc cà vạt đó đó. Ba em mất hồi em hai tuổi. Sao anh lại nói là ông bị mất tích?”
“Bởi vì ông ấy đang mất tích,” Gabriel nói, giọng buồn ngủ.
“Ý anh là ba em chết hả?”
“Không, ý tôi là mất tích. Không phải là chết.”


Charlie nhìn chằm chằm vô bóng tối. Nó lắng nghe những tiếng thở nhè nhẹ đang tràn ngập không gian không nhìn thấy được bao quanh mình, biết rằng trong mấy giờ tới, nó sẽ nằm đó, chỉ có lắng nghe thôi.
“Không chết sao?” Nó thì thầm. “Gabriel, anh chắc chứ?”
“Chắc chắn,” Gabriel vừa nói vừa ngáp. “Chúc ngủ ngon, Charlie!”
 
Charlie thức dậy, cổ họng khô khốc, mắt cay xè. Nó chỉ ngủ được có một tiếng. Nó miễn cưỡng mặc vô chiếc áo chùng rách thê thảm của Gabriel. Xét cho cùng thì cái áo đó cũng không gây ác mộng gì cho nó.
Gabriel và Fidelio chờ trong lúc Charlie đánh vật với mái tóc như hàng rao của nó, nhưng sau năm phút cả hai đều nhất trí rằng việc chải đầu của Charlie chẳng có mấy tác dụng..
“Nếu không đi sớm thì sẽ chỉ còn mấy rẻo thịt xông khói cháy thôi đấy,” Fidelio cảnh báo.


Charlie đói cồn cào. Nó vứt toẹt cái lược xuống và tất cả đi ăn sáng với bọn bạn. Nó vui mừng vì có một lũ đồng hành, bởi vì xem ra nó sẽ chẳng bao giờ mò ra được đường xuống tầng trệt nếu không có chúng.
Gabriel vô cùng hạnh phúc được mặc áo chùng của Charlie, trông nó như một người khác hẳn. Nói đúng ra, nó cười suốt, chân bước thoăn thoắt. GIờ thì nó đã vứt bỏ được những cảm giác hãi hùng, chết khiếp kia.


Bữa điểm tâm gồm bột yến mạch, thịt xông khói bị cháy và một ca trà.
“Ngày nào tụi mình cũng ăn uống thế này à?” Charlie hỏi, cố nuốt một bụm yến mạch.
“Ngày nào cũng vậy,” Fidelio xác nhận.


Charlie cố không nghĩ đến những bữa điểm tâm dồi dào của ngoại Maisie.


Ngày thứ hai của nó ở Học viện không đến nỗi tệ như ngày đầu tiên. Với sự giúp đỡ của Fidelio, và đôi khi của Gabriel, Charlie đã có thể tìm ra tất cả các phòng học. Vào ngày thứ ba, thậm chí nó còn một mình mò được đường ra vườn.


Thứ Sáu đã tới. Là cái ngày Charlie sợ chết khiếp. Khi các tiết học chấm dứt, nó ngồi thừ trên gi.ường và nhìn Fidelio thu dọn đồ đạc.
“Sẽ có chuyện gì đây, khi mọi người đã về nhà cả?” Charlie hỏi.
“Coi như em sẽ bị bỏ lại một mình,” Fidelio đáp. “Không việc gì phải lo cả. Dĩ nhiên, với thằng Manfred thì cũng phải lo một chút, nhưng không phải chỉ có mình em. Nên nhớ là Olivia cũng bị cấm túc, còn Billy Raven thì không bao giờ về nhà, vì nó không có nhà. Anh sẽ tới gặp Benjamin để lấy cái thùng mà em nhờ anh giấu. Sau đó vào lúc… để coi nào… 11 giờ rưỡi thứ bảy, anh sẽ tới và vẫy tay làm ám hiệu cho em. Nếu tụi này xoay sở xong vụ chuyển cài thùng, anh sẽ giơ hai ngón cái lên.”


Charlie nôn nao muốn nói cho Fidelio về đứa bé, nhưng bây giờ thì không phải lúc.
“Em sẽ gặp anh bằng cách nào?” Nó rầu rĩ hỏi.
“Cứ đến tháp nhạc. Olivia sẽ chỉ cho em. Anh sẽ vẫy tay lên ô cửa sổ nhìn ra đường trên tầng hai, lúc đó em chỉ còn bốn tiếng nữa là được ra ngoài rồi.”


Charlie thở dài.
“Tươi tỉnh lên nào!” Fidelio vỗ vai Charlie rồi cầm túi xách lên.
Charlie theo Fidelio xuống lầu và nhìn bạn vung vẩy túi xách đi về phía hai cánh cửa cao bằng gỗ sồi. Cổng bây giờ đang để mở, và bọn trẻ ùa ra, hăm hở đón một kỳ nghỉ cuối tuần tự do.


Fidelio quay lại và vẫy chào thật lẹ. Nó gần như là đứa cuối cùng rời trường. Chợt một h.am m.uốn mãnh liệt thôi thúc Charlie liều phòng ra ngoài trước khi cánh cừa đóng lại. Nó tiến lên vài bước, liếc quanh thật lẹ, và tăng tốc.
“Thôi đi, Bone!”


Charlie quay ngoắt lại. Manfred Bloor đang đúng trong một hốc tối ở quãng giữa hành lang.
“Mày tưởng không ai trông thấy mày chắc?”
“Em không tưởng gì hết,” Charlie đáp.
“Đem bài tập của mày vô phòng Nhà Vua và ở đó làm cho đến khi nghe chuông báo bữa tối.”
Trong lúc Manfred nói, hai cánh cửa đồ sộ đóng lại, và giọng của nó dội ông ổng trong cái sảnh trống trơn.
“OK,” Charlie làu bàu.
“Phải nói là ‘Thưa vâng, anh Manfred’ chớ, không có cái kiểu ‘OK’ như vậy.”
“Vâng, anh Manfred.”
Charlie tìm thấy Olivia và Billy đang tán gẫu trong thư viện.
“Tụi mình không cần phải im lặng khi không có Manfred ở đây,” Billy vui vẻ nói.
Charlie tự hỏi tại sao Billy có thể sống nỗi – bị giam h.ãm trong Học viện Bloor hết tuần này đến tuần kia, một thân một mình trong phòng ngủ chung tối tăm khi ai nấy đã về nhà hết.
“Em có bao giờ ra khỏi đây chưa?” Nó hỏi Billy.
“Em có một bà dì sống bên bờ biển, cho nên kỳ nghỉ em hay về đó,” Billy nói. “Em không cô đơn vì có…” nó ngập ngừng, gần như khều khào trong cổ họng, “…luôn có những con vật.”
“Con gì hả?” Olivia hỏi. “Tớ chả thấy có con vật nào cả.”
“Bà bếp trưởng có một con chó,” Billy nói. “Nó già lắm rồi nhưng rất dễ chịu; ngoài ra còn có… chuột… và những con khác nữa.”
“Nhưng không thể nói chuyện với một con chuột được,” Charlie nói.
Billy im lặng. Nó cúi gằm xuống quyển sách và bắt đầu đọc. Hai tròng kính khiến cho con mắt nó trông như hai bóng đèn đỏ, to thô lố.
Đột nhiên, nó thì thào, “Thực ra em nói được.”
“Nói được gì cơ?” Olivia hỏi.
Billy hắng giọng. “Nói được với chuột.”
“Thật không?” Olivia gấp sách lại. “Hay quá! Đó là món của đằng ấy đó hả? À, ý là phép thuật của đằng ấy đó hả?”
Billy gật đầu.
“Tức là em cũng có thể hiểu được chúng?” Charlie hỏi.
Chậm rãi và nghiêm nghị. Billy lại gật đầu.
Charlie huýt gió khe khẽ. Bấy lâu nay Benjamin vẫn hay nói rằng nó ao ước có ngày nghe được con Hạt Đậu nói gì.
“Em có thể tới nói chuyện với con chó của bạn anh được không?” Charlie ướm hỏi Billy.
Billy không đáp, chỉ đăm đăm nhìn Charlie, mặt thộn ra.
“Có lẽ đề nghị này ngớ ngẩn thật,” Charlie nói. “Xin lỗi, lẽ ra anh không nên hỏi.”
“Anh chị làm ơn đừng nói với ai nhé. Không phải con vật nào em cũng nói chuyện được. Động vật có rất nhiều ngôn ngữ. Lắng nghe bọn chúng mệt lắm.”
Charlie và Olivia thề thốt rằng tụi nó sẽ không hé răng với ai về chuyện này. Bon5 chúng lại quay về với đống sách vở, nhưng một lúc sau, Charlie nhận ra là Billy không làm bài tập hay đọc sách gì cả, chỉ chằm chằm nhìn vô khoảng không.
“Em có thể nói với anh chị điều này được không?”
Cả Charlie lẫn Olivia đồng loạt nói:
“Được chứ.”
“Chuyện này xảy ra cách đây một tuần. Em đang trên đường ra vườn sau bữa trà thì nghe tiếng Manfred đang nói chuyện với ai đó. Em không biết đó là ai, nhưng em nghe có tiếng con gái khóc trong phòng huynh trưởng.”
“Không phải tớ đâu đấy,” Olivia nói ngay.
“Đúng là không phải chị,” Billy thừa nhận. “Nhưng mà là con gái, như em nói rồi đấy, và người ấy đang khóc thế nên em mới biết rằng có người đang gặp rắc rối to. Em liền đi chậm lại để nghe ngóng, nhưng Manfred thình lình phóng ra, tống cho em một quả lộn nhào. Anh ta chửi em là đồ đui mù, ngu xuẩn và đủ thứ kinh khủng khác nữa, cho nên em phải tức tốc ra vườn ngay.”
“Rồi đằng ấy có bị làm sao không?” Olivia hỏi dồn.
“Chân em bị đau,” Billy nói. “Vì vậy, em phải đi chậm. Đang khập khiễng đi xuống hành lang thì em nghe có tiếng mèo. Có ba con cả thảy. Bọn nó nói với em, ‘Mở cửa cho chúng tôi vô. Lẹ lên, Billy. Tới cánh cửa trong tòa tháp ấy.’
“Tháp nào?” Charlie hỏi. “Có hai cái tháp.”
“Em đoán đó là cái tháp nhạc. Vì tháp kia không có cửa. Em sợ bị Manfred trông thấy, nhưng em không thể làm lơ tiếng nói của lũ mèo. Em vừa lết vừa chạy cho đến khi tới được ngọn tháp. Em băng qua căn phòng trống ở tầng trệt, và khi tới cửa em chỉ việc mở chốt ra cho lũ mèo vô.”
Charlie biết Billy sẽ nói gì tiếp, nhưng nó không cắt ngang.
“Đó là mấy con mèo rất kỳ lạ.” Đôi đồng tử màu hồng ngọc của Billy vốn đã to giờ còn giản nở to hơn. “Trông chúng nó giống như những ngọn lửa, đỏ, cam và vàng. Chúng cám ơn em, rất lịch sự, rồi bảo với em rằng Vua Đỏ phái chúng tới.”
“Nhưng ông ấy đã chết từ hàng trăm năm rồi mà,” Olivia ngạc nhiên.
“Em cũng hỏi lũ mèo về điều đó, nhưng chúng nó chỉ nhìn em rất tức cười, xong nói ‘Tất nhiên' , rồi chạy thẳng về phía cầu thang. Ngay trước khi biến mất, con mèo đỏ nói ‘Để cửa đó, Billy!’ , và em làm theo. Em vọt ra vườn thiệt lẹ, nhưng em chỉ ở đó được một vài phút thì có chuông báo cháy. Phòng của Manfred bị cháy, và Manfred đang ở trong đó.”
“Thì ra lũ mèo,” Charlie thở gấp gáp.
“Chắc là chúng đã hất đổ một cây nến,” Olivia nói. “Thằng Manfred luôn luôn thắp nến ở trong phòng. Đứng bên ngoài có thể nhìn thấy ánh nến dập dờn trong phòng nó.”
“Họ có tìm ra ai đã cho lũ mèo vô không?” Charlie hỏi.
“Họ nghĩ đó là thầy Pilgrim,” Billy nói, “vì thầy luôn ở trong tháp nhạc.”
“Vậy là ông ấy bị khiển trách rồi!” Olivia nói.
“Giáo viên không bị khiển trách đâu,” Billy lẩm bẩm. “Ok?”
Chưa ai kịp trả lời nó, thì từ ngoài cửa vọng lên một tiếng quát:
“Im lăng trong phòng Nhà Vua.”
Olivia đeo một bộ mặt cộc cằn hướng về phía cánh cửa. Charlie cố nín cười. Billy cau mày lo lắng và quay lại với đống bài tập về nhà của mình.
Cuối cùng, khi chuông báo bữa tối reng lên, bụng Charlie sôi ùng ục. Dường như mấy ngày nay nó luôn luôn cảm thấy đói.
Chúng cùng xuống sảnh đường ăn tối, nhưng ngay trước khi cả bọn bước vô, Olivia cảnh báo Charlie rằng chúng sẽ phải ngồi ăn chúng bàn với Manfred. Tim Charlie chợt thắt lại. Nãy giờ nó mong ngóng cho tới giờ ăn tối, nhưng làm sao có thể tận hưởng bữa tối khi luôn phải cố tránh cái nhìn gườm gườm của Manfred?
“Nó đã khi nào… thôi miên bồ chưa?” Charlie hỏi Olivia.
“Chưa. Nó không quan tâm tới tớ. Ý tớ là tớ chẳng có phép thuật gì hết, nên chẳng có gì đe dọa nó cả. Tớ chỉ làm nó cáu thôi.”
“Nó không thôi miên được em,” Billy nói một cách nghiêm trang với hai đứa kia. “Tại mắt em. Nó không thể nào vượt qua được.” Billy cười đầy mãn nguyện.
Sảnh đường ăn tối rộng mênh mông và dội âm. Những bước chân của bọn trẻ nện vang vào sự thinh lặng bí hiểm, khi chúng đi ngang qua những băng ghế trống trơn để tới chiếc bàn có Manfred đang ngồi, trừng trừng nhìn vô một cây nến. Có hai chỗ bên phải và một chỗ bên trái hắn đã được sắp sẵn. Charlie chui ngay vô cái ghế bên phải, cách xa Manfred nhất.
Hầu hết giáo viên đã về nhà, nhưng giáo sư Bloor, và cả giáo sư Saltweather, vẫn ở lại. Thầy Pilgrim, ngồi hơi tách biệt những người khác một chút; một cái nhíu mày nhẹ thoáng qua trên gương mặt thầy khi lũ trẻ tiến đến gần, còn đâu như thể thầy không trông thấy bọn chúng.
Charlie nghĩ đây là một trong những bữa tối tệ hại nhất mà nó từng ăn. Tệ hơn nữa, ngoài viêc phải cố tránh nhìn vô Manfred, thì cái thằng già này con không cho chúng nói chuyện với nhau.
“Bọn bay đừng có mong đã cấm túc mà lại còn tận hưởng” Manfred nói, giọng cay nghiệt.
Vì thế trong khi chúng ăn, chẳng hề có tiếng trò chuyện để át đi tiếng cắn, tiếng nhai, tiếng uống nước và tiếng nuốt… tiếp nối nhau.
Cuối bữa ăn, khi tất cả dĩa đã được vét sạch và xếp chồng, mấy đưa tranh nhau ra khỏi nhà ăn càng lặng lẽ càng tốt. Nhưng khi cửa vừa sập lại sau lưng, Olivia nói liền:
“Tụi mình có hai tiếng đồng hồ trước khi ngủ. Bắt đầu thám hiểm ở đâu đây?”
Charlie và Billy không có ý kiến gì, thế nên Olivia đề nghị tháp Da Vinci. Charlie muốn biết tện tháp có nguồn gốc từ đâu, nhưng Olivia nhún vai và nói:
“Người ta vẫn gọi nó như vậy. Tớ nghĩ hồi trước khoa hội họa vẫn dùng căn phòng ở tầng thượng, nhưng bây giờ nó bỏ không. Có người nói với tớ là nó không an toàn. Bên trong mục nát rệu rã rồi.”
Charlie tự hỏi mắc gì chúng lại đi khám phá một tòa nhà không an toàn và dễ sụp, nhưng nó không muốn tỏ ra lo lắng. Ngoài ra, Charlie đã quyết định rồi. Con nhỏ chìa cho chúng xem cây đèn pin giấu bên trong túi áo chùng, giải thích là có thể trong tháp sẽ không có đèn.
Chúng phải mất nửa giờ mới tìm ra một lối có khả năng sẽ dẫn đến tháp Da Vinci. Có một cánh cửa nhỏ xíu ở mút một hành lang trên lầu ba.
“Cùng tầng với phòng ngủ chung của tớ,” Olivia bảo cả bọn. “Vì thế nếu bị bắt ở đây thì tụi mình sẽ có cớ để giải thích.”
Cánh cửa đã chốt, nhưng ngạc nhiên thay, không khóa. Olivia đẩy những cái chốt ra, chúng cứng và rỉ sét.
“Nhiều năm rồi không ai ở đây,” Charlie quan sát.
“Chính xác. Càng thêm thú vị chứ sao.” Mắt Olivia sáng long lang. “Lẹ lẹ lên?”
Cánh cửa kêu kin kít khi cô nàng kéo nó ra. Một hành lang tối tăm uốn cong hiện ra và biến mất ở một góc quẹo mạng nhện giăng xám xịt. Không thấy công tắc, cũng chẳng thấy đèn dầu hay bóng đèn điện đâu cả.
Chúng nhẹ nhàng lách qua cửa, và thấy mình bước đi trên những miếng ván lót sàn rộng, đóng bụi dày đặc. Mùi những thứ ẩm ướt, mục nát phả ra từ những ngóc ngách tối tăm.
“Tụi mình nên đóng cửa lại,” Charlie nói, hơi dè dặt.
“Phải đóng sao?” Billy hỏi.
Olivia bật đèn pin cái tách , và một luồng sáng mạnh mẽ tỏa trọn lối đi trước mặt chúng.
“Không sao đâu, Billy.” Con bé vỗ về.
Khi Charlie đóng cửa thì có cái gì đó làm cửa dính lại, nó nhìn xuống xem đó là cái gì thì chợt chú ý đến đôi giày của Olivia. Cô nàng đang “diện” đôi giày đen bằng loại da cứng, bóng lộn, gót cao chót vót. Charlie hy vọng chúng sẽ không gặp quá nhiều cầu thang cũ.
ấy thế mà, ngay khi vượt qua cái góc mạng nhện, thứ đầu tiên chúng gặp phải là một cầu thang cũ mèm. Đó là con đường độc đáo để ra khỏi hành lang này. Chúng chỉ còn cách leo lên một cầu thang xoắn ốc, dốc đứng, hoặc là leo xuống những bậc thang bằng đá hẹp veo.
“Tụi mình leo lên đi,” Billy nài nỉ. “Dưới đó thấy ghê quá.”
“Nhưng coi bộ hấp dẫn,” Olivia thì thào. Nó rọi đèn pin vô cái lỗ tối om phía dưới. Xem ra cái lỗ không có đáy.
“Lên chớ đừng xuống!” Charlie nói, lưu ý đến vẻ lo lắng của Billy. Nó nhớ là Billy không thể nhìn rõ. “Để anh đi trước cho, Billy, em đi ngay sau anh, còn Olivia đi sau cùng. Thế là an toàn nhất.”
Billy trông có vẻ bớt sợ đi, còn Olivia vui vẻ đồng ý.
“Đằng ấy sẽ cần đen pin nếu đằng ấy đi trước,” nó vừa nói vừa đưa cái đèn cho Charlie.
Những bậc thang xoắn ốc hẹp tí rị và gập ghềnh. Thực tình, Charlie phải bò lên. Nó nghe tiếng Billy hồi hộp thở hì hụi sau lưng, và tiếng giày của Olivia thỉnh thoảng cà rột lên nền đá lở.
Bất thình lình, có một tiếng lóc cóc, và tiếng lăn thông thốc, rồi một tiếng rú dội vang, và sau đó là một sự im lặng ghê người. Chuyện xảy ra hẳn đã quá rõ rồi.
“Anh có nghĩ là chị ấy chết rồi không?” Billy thều thào.
Tiếng rên lại nổi lên, nổi lên, như vậy ít nhất thì câu hỏi đã được trả lời. Có điều Olivia bị thương nặng đến cỡ nào?
“Tụi mình sẽ phải xuống thôi, Billy à,” Charlie nói. “Em có xuống được không?”
“Được,” Billy nói, không chắc lắm.
Thật chậm và thật cẩn thận, chúng dò dẫm tìm lại các bậc thang. Tiếng rên rỉ bắt đầu yếu dần và Charlie gọi to:
“Bám chặt vô, Olivia. Tụi này đang xuống đây.”
Chúng đã xuống đến chiếu nghỉ nhỏ, trước khi những bậc thang bằng đá ẩn chìm vô màn đen.
“Để anh đi trước,” Charlie đề nghị. “Em có muốn đợi ở đây không Billy?”
“Không. Một mình thì không.” Billy cuống quít bám theo Charlie.
Cầu thang gồ ghề bắt đầu uốn cong và Charlie rọi đèn pin xuống, thấy Olivia ở dưới sàn, rúm ró dựa vô một cánh cửa kiểu cổ.
“Bồ không sao chớ?”… là câu hỏi đầu tiên của Charlie.
“Dĩ nhiên là không rồi. Hai đầu gối tớ bị thương, đầu tớ bị đập mạnh. Hồi nãy tại tớ không thấy đường đi, phải không?”
Charlie không muốn để cập đến đôi giày cao gót của Olivia.
“Tụi này kéo bồ lên nhe? Bồ có đứng dậy được không?”
“Để tớ ráng coi.”
Olivia chộp nắm cửa phía trên đầu và từ từ đu người đứng lên. Ắt hẳn cô nàng phải tì mạnh lắm vô cánh cửa, bởi vì, một tiếng rắc đột ngột vang lên và cánh cửa cũ kỹ đổ ập vô trong, mang theo Olivia treo bên trên.
“Í í í í iiiii!” Olivia thét lên, kinh hoàng.
Không thể bảo Olivia phải im lặng lúc này được. Charlie vội vàng bò theo sau cô nàng. Khi dẫm lên cánh cửa bị sập, với ánh đèn pin rọi vô căn phòng bên kia. Charlie trông thấy một thứ gì đó rất lạ thường, và trong tích tắc, nó phải lờ phắt Olivia để chĩa đèn pin xa hơn vô căn phòng.
“Chao!” Nó thốt lên. “Thật kỳ lạ.”
“Gì vậy?” Olivia lật mình lại lồm cồm bò dậy. Giờ thì nó cũng đã nhìn thấy vật ấy.
Căn phòng chứa đầy áo giáp, hay đúng hơn, những mảnh áo giáp. Ngoài ra còn có những hình thù bằng kim loại. Chúng vạ vật trên bàn và trên ghế; chúng nằm bừa bãi dưới sàn nhà và treo lủng lẳng trên tường. Những chiếc đầu lâu thép sáng loáng, với những hố mắt lõm sâu và cái miệng nhe ra thật ghê rợn; những ngón tay bằng thép để trong những chiếc thùng; những bàn chân kim loại thò ra khỏi tủ ngăn kéo; những cánh tay, cẳng chân, xương sườn và cùi chỏ bằng kim loại, tất cả chất thành đống hỗn độn dưới sàn nhà. Gớm nhất là những bộ xương treo đong đưa từ trên trần nhà xuống.
“Ái chà!” Olivia nói. “Trông như xưởng của Frankenstein vậy.”


Billy, nãy giờ đứng nép mình giữa hai đứa kia, hỏi:
“Frankenstein là ai vậy?”
“Một bác sĩ làm ra một con quái vật từ một người chết.” Olivia giải thích cho nó.
“Từ những mẩu xác chết chứ,” Charlie đính chính.
Olivia níu lấy cánh tay Billy.
“Đằng ấy có nghe thấy chứ?”
Charlie vừa định hỏi xem Olivia nghe thấy cái gì, thì chợt có tiếng những bước lộp cộp , thấp thoáng đang tiến đến gần. Những bước chân không vọng tới từ cầu thang đá sau lưng chúng, mà từ một cánh cửa ở phía cuối căn phòng.
“Lẹ!”


Olivia đẩy cả hai thằng con trai khỏi cánh cửa sập, vô một cái tủ âm tường đang mở he hé. Ngay khi chúng vừa vô tối bên trong, Olivia liền kéo cửa đóng lại, nhưng chúng cũng đã kịp liếc thấy những thứ trong tủ.


Cả Olivia lẫn Charlie đều đưa tay bụm chặt miệng Billy lại. Dù gì thì nó cũng còn nhỏ hơn chúng nhiều, ma trong tủ lại chứa đầy những bộ xương.


Charlie tắt đèn pin đúng lúc có ai đó bước vô phòng. Đèn bật lên.Ánh đèn chiếu qua những kẽ lá sách của cánh cửa tủ, và thân mình bọn trẻ được ánh sáng tô như ngựa vằn, với những sọc sáng, tối xen kẽ. Olivia ráng nhìn cười. Nheo mắt nhìn qua một khe hỡ, Charlie thấy giáo sư Bloor đang di chuyển giữa đống áo giáp và những hình thù kim loại.


Bây giờ các hình thù đã dễ nhìn hơn, và Charlie nhận ra một số là động vật – chó, mèo và có cả một con thỏ. Chúng là của tiến sĩ Tolly, nó nghĩ thế. Nhưng làm cách nào mà cuối cùng chúng lại tụ về đây, trong một căn phòng bí mật ở Học viện Bloor? Chúng được mua, được cho, hay bị đánh cắp?


Người đàn ông cao lớn đi đi lại lại. Ông ta bắt đầu đi về hướng cái tủ âm tường. Khi đi ngang qua một con chó kim loại, ông ta nhặt nó lên và giật mạnh cái đuôi. Ông ta đập mạnh thân con chó vô cái bàn. Con chó vỡ tan tành và một đống bánh xe; răng cưa, lò xo và đinh vít đổ ào ra. GIáo sư Bloor chăm chú nhìn đống đồ sáng loáng đó, gầm gừ, và rồi vung tay xô chúng xuống khỏi bàn. Rõ ràng ông ta đang lục tìm cái gì đó và nổi giận vì không tìm ra. Ông ta lại nhắm tới cái tủ và quả quyết đi về phía đó.


Ba đứa gần như không dám thở. Olivia, Charlie và Billy bấu chặt vô tay nhau. Những móng tay dài của Olivia cắm sâu vô lòng bàn tay Charlie, và nó sắp sửa thét lên thì cửa bật mở, với một tiếng két thật to, và một giọng nói vang lên:
“Biết ngay là sẽ tìm thấy ba ở đây.”
 
“Cánh cửa cũ đó đổ rồi,” giáo sư Bloor nói.
“Hả? Chắc có đứa nào quậy phá?”
“Ta không nghĩ vậy. Chỉ tại ẩm mục và cũ nát quá thôi.”
“Hừmm. Con nghi lắm,” cái giọng quen quen nói.
“Tất cả cái đống mà Tolly gửi cho chúng ta…” Giáo sư Bloor đá một cánh tay kim loại khiến nó lăn lông lốc về phía tủ âm tường. “Toàn đồ dởm! Còn cái thật đang ở đâu?”
“Con đã nói rồi mà ba! Mụ Ingledew đưa nó cho thằng Charlie Bone rồi.”
“Sao con chắc vậy được!”


Nắm tay Olivia đã nới lỏng ra, và Charlie có thể rút bàn tay khỏi những móng tay làm nó đau đớn nãy giờ. Billy, tạm thời quên béng bộ xương treo sau lưng, giờ đang hé mắt nhìn qua khe lớn nhất trên cánh cửa.
“Manfred đấy,” nó thì thầm.
Charlie cũng đã nhận ra tiếng nói.
“Suỵt!” Nó khe khẽ. “Nghe con.”
“Con chắc mà, ba,” Manfred nhấn mạnh. “Asa vẫn đang theo dõi. Nó thấy Charlie ra khỏi nhà mụ Ingledew với một cái bao lớn màu đen. Mụ không đưa cho nó thì còn đưa ai nữa?”
Giáo sư Bloor ậm ừ rồi thả mình xuống một chiếc ghế trông có vẻ rất cổ. Bụi bốc lên mịt mù chung quanh khi ông ta ngả người xuống miếng đệm da rách toạc.
“Ta không hiểu tại sao thằng nhóc lại biết chỗ mà đến. Làm sao nó lại biết cái đó đang ở nhà mụ Ingledew.”
“Đó là do mấy con mèo, chắc chắn,” Manfred nói. “Ba biết bọn chúng vẫn làm gì mà – hất đổ đồ trên bàn, đánh lạc hướng người ta. Dĩ nhiên là nếu thằng nhóc có được tấm hình, thì sau đó thể nào nó cũng mò đến nhà mụ Ingledew để trả lại. Cho nên con dám cá chắc với ba là một trong mấy con ôn mèo đó đã lẻn vô tiệm hình Kwik khi người ta đang cho hình vô bao. Chỉ cần một giây lơ đãng là… uúp… lộn hình, lộn phong bì.”
“Ta sẽ lột da sống mấy con thú đó nếu tóm được chúng!” giáo sư Bloor đấm thành ghế, và một đám bụi nữa tung lên, xoay tít. “Chỉ cái mùi chúng để lại thôi đã khiến ta muốn bệnh rồi.”
“Mùi lưu huỳnh,” Manfred nói.
“Già khú nữa,” giáo sư Bloor nói. “Chín trăm năm lén lút và chõ mũi vô công việc của người khác.”
“Cả ăn cắp và đốt nhà,” Manfred tiếp lời.
Trong bóng tối rùng rợn của tủ âm tường, ba đứa trẻ há hốc miệng thở, nhìn nhau.
“Chín trăm năm,” Olivia mấp máy.


Billy lắc đầu không tin. Charlie nhíu mày và nhún vai. Tại sao không? Nó nghĩ. Có nhiều chuyện còn kỳ lạ hơn thế đang diễn ra hằng ngày, ở đây.
“Lại nói đến vụ hỏa hoạn,” giáo sư Bloor lẩm bẩm. “Liệu có chắc là do bọn mèo đó hay không?”
“Con đã nói với ba rồi, con thấy tụi nó dưới cửa sổ phòng con lúc con đang cố dập lửa.”
“Và con nghĩ là đứa con gái cũng có liên quan đến việc này à?”
“Tất nhiên. Con đã nện cho nó một trận ra trò.”
“Con không nên làm như thế, Manfred,” giáo sư Bloor nghiêm mặt nói. “Chẳng ích gì đâu.”
“Lúc ấy con mất bình tĩnh. Con phát điên lên khi nó không đáp trả. Nó đang dần tỉnh ra, ba biết không. Con không thể giữ cho nó mẹ lâu hơn nữa.”


Manfred thở dài một cách thiếu kiên nhẫn.
“Làm như con không có đủ việc để làm hay sao ấy, lại còn phải để mắt đến lão Pilgrim.”
“Thế cái vấn đề cỏn con đó ra sao rồi?”
“Con không chắc. Có thể là do con tưởng tượng, nhưng con nghĩ lão ấy đã thay đổi kể từ khi thằng nhóc đó tới đây. Lẽ ra chúng ta không nên mang nó vô trường.”
“Việc chẳng đặng đừng mà, Manfred. Không thể để thằng bé đó ở ngoài một khi chúng ta biết nó có phép thuật.”
“Con hiểu, con hiểu.”
Trong tủ, Olivia nhăn nhó chỉ vô Charlie, thì thào:
“Là đằng ấy đấy.”
Charlie lại nhún vai. Giáo sư Bloor và thằng con trai nham hiểm của lão nói về chuyện gì vậy? Cô bé đang tỉnh ra là ai? Tại sao Manfred lại phải canh chừng thầy Pilgrim? Charlie chăm chú lắng nghe, hầu tìm ra manh mối.
Nhưng Manfred và ba nó hình như sắp đi khỏi. Đang có vẻ như Charlie sẽ không biết được gì thêm về nó hay về con bé sắp tỉnh dậy kia, thì bỗng nhiên, ngay trước khi rời khỏi phòng, Manfred nói:
“Cũng không còn lâu nữa đâu. Asa theo rất sát. Nó tin chắc là cái thằng hay đi với con chó đang giấu cái vật ấy. Chúng ta chỉ việc dụ cho ba má nó tránh ra là sẽ lấy được.”
“Manfred,” giọng giáo sư Bloor giờ đã xa, nhưng vẩn có thể nghe rõ lời. “Phải hủy cái vật ấy trước khi nó đánh thức con bé.”
Ánh đèn trong phòng vụt tắt và cánh cửa khép lại.
Trong vài giây, ba đứa trẻ vẫn im thin thít. Khi chắc chắn chỉ còn có bọn này với nhau. Olivia nói:
“Chà, thú vị quá hả?”
“Chúng mình ra khỏi đây mau,” Charlie nói. “Mình có nhiều thứ để kể cho hai người.”
Billy là đứa đầu tiên chui ra khỏi tủ âm tường. Nó chạy ù qua cánh cửa sập và leo lẹ lên những bậc thang lở, trước cả khi hai đứa kia phủi bụi trên người xong.
Đáng lý ra chúng không cần phải mất công phủi bụi làm gì, bởi vì, đến khi bò ra khỏi tháp Da Vinci, thì cả ba chúng nó một lần nữa lại dính đầy mạng nhện. Olivia bị sưng vù ở mắt cá, đầu gối bầm tím và có vài vết rách, nhưng cô nàng không muốn làm ầm lên. Charlie cảm kích quá, nó bảo:
“Mình nghĩ bồ nên đến gặp bà giám thị. Nhỡ may trong đám bụi ấy có thứ gì gớm ghiếc thì sao, bồ biết đó, một con rệp cổ hay một thứ gì đó chẳng hạn.”
“Giám thị ấy hả? Bà đó hung dữ như con rồng vậy.” Olivia nói. “Chắc chắn bà ấy sẽ tọc mạch hỏi xem tớ đã làm gì. Tớ sẽ giấu đầu gối dưới lớp quần thun bó, để ngày mai về mẹ tớ sẽ lo liệu.”
Billy nhắc Charlie về điều Charlie lúc nãy muốn nói với cả bọn.
“Yên chí, anh nói đây,” Charlie bảo. “Theo toàn bộ những gì mà Manfred và giáo sư Bloor nói với nhau… ờ… thì mọi việc đã xảy ra đều có đầu đuôi cả.”
Olivia đề nghị cả bọn vô phòng ngủ chung của nó, vì cái phòng đó gần hơn phòng của tụi con trai.
“Nó ở hành lang này, chỉ còn cách ba phòng nữa thôi,” Olivia nói. “Tụi mình có thể tắm rửa sạch sẽ trước khi bà giám thị bắt đầu đi tuần như thường lệ.”
Cô nhỏ nói ra điều này quá trễ. Bà giám thị đã bắt đầu những vòng tuần tra rồi. Ngay khi cả bọn vừa tới phòng ngủ chung của Olivia thì cửa bật mở, và bà giám thị xồ ra. Chỉ khi đó, Charlie mới khám phá ra tại sao giọng nói của bà ta lại có vẻ quen thuộc đến thế. Bà giám thị chính là bà cô Lucretia Yewbeam.
Tất nhiên, Billy và Olivia chỉ đơn thuần nhận ra bà ta là giám thị của trường thôi, nhưng Charlie thì sửng sốt đến nỗi nó cảm tưởng như vừa bị tống một trái vô bụng. Nó gấp gáp thở, hớp hớp không khí và nói lắp bắp:
“Bà Lu… Lu… Lucretia!”
“Ta là giám thị!” bà cô Lucretia cáu kỉnh.
“Con… con… con không… không biết ba là giám thị,” Charlie lắp bắp, vẫn còn bị sốc.
“Thời buổi này ai cũng phải đi làm để kiếm sống,” giám thị Yewbeam đáp lời.
Ngỡ ngàng hết sức, Olivia và Billy hết quay nhìn Charlie lại ngó sang bà Lucretia, rồi lại quay nhìn Charlie.
“Bọn bay dơ dáy hết chỗ nói,” bà giám thị nói tiếp. “Chúng bay vừa chui ở đâu ra, hả?”
Olivia đã sẵn sàng cho câu hỏi này. Không một chút chần chừ, nó đáp:
“Dạ, tụi con ra vườn chơi, nhưng khi quay về thì cửa đã khóa, thế nên tụi con phải đi lòng vòng và tìm thấy một cửa sổ, tụi con leo vô một căn phòng trống, bẩn thỉu kinh khùng. À, thực ra thì, tụi con bị té vì cửa sổ khá cao.”
Bà giám thị nhăn mặt. Bà có tin Olivia không? Cũng có thể ai đó đã khóa cửa khu vườn thật. Bà hăm dọa:
“Ta tình sẽ phạt tất cả tụi bay thêm hai mươi bốn giờ cấm túc nữa; nhưng may phước cho tụi bay là ta cũng muốn nghỉ, cho nên lần này ta tha cho tụi bay, chỉ cảnh cáo thôi.”
“Tụi con cám ơn bà,” Olivia vồn vã nói.
“Tuy nhiên!” Giám thị Yewbeam không dễ dàng bị đánh lừa như thế. “Tất cả tụi bay phải đi ngủ, ngay tức khắc.”
“Nhưng tụi con còn được thức một tiếng nữa cơ mà,” Billy nói một cách dũng cảm.
“Một tiếng ấy là để tắm rửa,” bà giám thị lạnh lùng phán. “Hai tụi bay đi ngay đi.”
Rồi ba quay sang Olivia:
“Còn mày thì để tao rửa sạch đầu gối cho nào!”
Bỏ lại Olivia cho sự chăm sóc còn lâu mới dịu dàng của bà giám thị, Charlie và Billy dò tìm đường quay về phòng ngủ chung của chúng.
Rốt cuộc ngôi trường gần như vắng tanh này cũng có cái gì đó đáng nói. Đó là nước trong vòi nóng bỏng. Cho đến bây giờ Charlie chỉ mới tắm nước lạnh có một lần. Nó không phải là đứa thích tắm. Nhưng hôm nay là lần tắm lâu nhất, nóng nhất mà nó nhớ được.
Năm phút sau khi bọn con trai đã leo lên gi.ường thì có tiếng gõ cửa, và Olivia xăng xái ùa vô. Cô nàng bận áo đầm ngủ bằng nhung trắng, điểm những bông hoa tím bự tổ chảng, và mái tóc màu tím đã chuyển sang màu nâu nhạt.
“Bà giám thị bắt tớ gội sạch,” nó thông báo cho bọn con trai biết. “Đó chỉ là thuốc nhộm xịt lên tóc thôi mà.”
Rồi nó nhảy tót lên ngồi phía chân gi.ường của Charlie.
“Nào, bồ có chuyện gì tính kể với tụi này vậy?”
“Chuyện là thế này,” Charlie bắt đầu, rồi nó kể cho hai đứa bạn nghe tất cả mọi việc đã xảy ra với nó, từ lúc nó nhìn thấy tấm hình người đàn ông lạ ẳm đứa bé cho đến khi nó vô Học viện Bloor.
“Mình luôn nghĩ rằng món đồ trong thùng rất có giá trị, một món đồ quý có thể đổi lấy cháu gái của cô Ingledew, bất kể con bé đó là ai. Nhưng hình như giáo sư Bloor chỉ muốn hủy nó đi,” nó nói.
“Trước khi nó đánh thức con bé,” Olivia thêm vô. “Và con bé đó chắc chắn là đứa bé đã bị đánh cắp.”
“Vậy tức là, dù gì đi nữa thì món đồ trong thùng vẫn còn giá trị,” Billy xen vô, “vì tác dụng gì gì đó của nó. Kiểu một loại bùa…”
“Hừm.” Olivia rung đùi. “Mấy người biết tớ nghĩ gì không?”
Rồi không đợi hai đứa con trai hỏi, nó nói luôn:
“Tớ nghĩ rằng Manfred đã thôi miên con bé. Có lẽ con bé đã bị thôi miên suốt từ hồi bị đánh cắp, bị đánh đổi, hay bị sao sao đó. Nhưng trò thôi miên này đang mất dần linh nghiệm, cho nên Manfred cứ phải liên tục thôi miên, để bảo đảm con bé không tỉnh lại và chạy trốn, hoặc nhớ ra mình thực sự là ai.”
“Olivia, bồ thiệt là thông minh,” Charlie reo lên. “Thực tình, có dạo mình nghĩ con bé đó chính là bò.”
“Tớ à? Không đời nào. Ai thôi miên tớ là tớ biết ngay.” Olivia toét miệng cười. “Tuy nhiên tờ dám chắc tớ có thể tìm ra con bé đó là ai.”
“Bằng cách nào?” Charlie hỏi.
“Quan sát thôi. Chuyện này tớ siêu lắm. Nếu đứa bé bị đem đi đổi cách đây tám năm, lúc ấy nó mới gần hai tuổi, thì giờ nó phải cỡ bằng tuổi tụi mình. Chắc chắn con nhỏ đó cũng có phép thuật, thế nên giáo sư Bloor mới muốn bắt nó. Vậy thì, để coi ai có những đặc điểm giống như tớ mô tả nào? Đám phép thuật đằng ấy có mấy người đâu nhỉ?”
“Mười hai,” Billy đáp, “năm người là nữ. Zelda quá lớn, chị ấy mười ba rồi. Beth cũng vậy. Chỉ còn lại Dorcas, Emilia và Bindi.”
“Không thể là Dorcas,” Olivia tuyên bố. “Nhỏ đó hoạt bát, vui vẻ. Tớ chưa bao giờ thấy ai bị thôi miên mà lại thế cả.”
“Emilia,” Charlie la lên. “Tất nhiên rồi. Nghĩ mà coi. Lúc nào trông nó cũng như đang mê man sao đó, và nó có vẻ sợ giáo sư Bloor nữa.”
“Ai mà không sợ lão ấy?” Olivia nói. “Nhưng tớ nghĩ đằng ấy nói đúng. Emilia ở chung phòng với tớ, thế nên để tớ chong mắt canh chừng cho. Tớ phải đi đây. Chúc các đằng ấy ngủ ngon. Sáng mai gặp lại nha.” Olivia nhảy phắt xuống gi.ường và phóng ra cửa.
Olivia vừa mới rời khỏi phòng thì tiếng bà Lucretia Yewbeam quát om:
“Tắt đèn!”
Và một bàn tay trắng thò vô qua cánh cửa mở, tắt đèn đi.
Trong giây lát, hai đứa trẻ im lặng. Có bốn cái gi.ường torng61 ở giữa Charlie và Billy. Phía kia của căn phong tất cả sáu cái gi.ường cũng trống hoác. Điều này khiến Charlie ớn lạnh. Nó tự hỏi, sẽ như thế nào nều nó là Billy, một mình trong căn phòng to lớn và tối tăm này vào mỗi cuối tuần.
“Billy,” nó thì thào. “Cuối tuần sau em về nhà anh nhé? Họ có cho không?”
“Ồ, được chứ,” Billy hồ hởi đáp. “Em đã đến nhà anh Fidelio rồi. Nên em chắc họ sẽ cho em tới nhà anh thôi.”
“Hay quá.|
Rồi có một tiếng cót két, tiếng lê chân nhè nhẹ, và một tia sáng đèn pin yếu ớt chĩa về phía gi.ường Charlie. Charlie chỉ nhận ra dáng người nhỏ bé của Billy trong bộ đồ ngủ màu xanh nhạt.
“Charlie, anh nói là nah có thể nghe người trong hình nói chuyện, phải không?”
“Ờ,” Charlie trả lời một cách không chắc chắn. “Thỉnh thoảng.”
Một tấm hình nhàu nát được đặt lên gối của Charlie.
“Anh làm ơn cho em biết mấy người này đang nói gì đi?” Billy hỏi. “Đây là ba mẹ em.”
Charlie nhìn chằm chằm vô bức hình. Nó thấy một đôi vợ chồng trẻ đang đúng dưới một tán cây. Người phụ nữ mặc áo đầm nhạt màu đền nỗi trông cô giống như một con ma. Mái tóc màu vàng nhạt, gần như trắng. Cả hai đều mỉm cười, nhưng chỉ cười ở miệng. Đôi mắt của người phụ nữ cò vẻ sợ hãi, còn mắt của người đàn ông thì tức giận.
Giọng nói thình lình phụt lên trong tai Charlie, khiến nó giật thót đến mức chúi đầu về phía trước, như thể nó vừa bị đập một cú.
Thôi nào, mỉm cười vì thằng con trai bé nhỏ của cô đi, Raven. Quá khó hay sao? Không thể nhầm lẫn cái giọng nói sắc lạnh đó vào đâu được.
Người đàn ông trẻ nói, Mày sẽ không bao giờ thoát khỏi chuyện này đâu.
Tiếng nói sắc lạnh tiếp tục, Nhìn con trai ta đây, ông Raven. Nó đẹp chứ hả? Thằng Manfred bé bỏng của ta ấy? Thế, thế. Nhìn vô mắt nó đi. Hệt như hai hòn than đá lấp lánh đáng yêu, đúng không?
“Anh có nghe thấy gì không?” Billy hỏi.
Charlie không biết phải nói gì. Làm sao nó có thể để Billy nghe được những lời kinh khủng đó? Nó quyết định nói dối, nhưng trước khi nó kịp nói thì có một điều xảy ra. Điều mà chưa từng xảy ra với nó trước đây. Nó bắt đầu nghe được những ý nghĩ của người đàn ông.
Chúng ta vẫn có thể trốn thoát. Chúng ta sẽ ẵm bé Billy và lái xe trốn đi, đến nơi họ không thể tìm thấy chúng ta. Giá mà thằng bé kia đừng nhìn mình như thế. Mắt nó y như hắc in vậy!
“Sao?” Billy lo lắng hỏi.
“Người phụ nữ…” Những ý nghĩ của Charlie chạy loạn xạ, nó quyết định nói dối. “Người phụ nữ nói ‘Lẹ lên anh, em phải trở lại với Billy bé bỏng’ . Và người đàn ông nói, ‘Đúng rồi, thằng nhóc của chúng ta thật quý giá. Nó sẽ trở thành một ngôi sao!’ ”
Ngay cả trong ánh sáng lờ mờ, Charlie cũng có thể nhìn thấy nụ cười hạnh phúc của Billy.
“Còn gì nữa không?” Billy hỏi.
“Không. Anh rất tiếc.”
“Thế người chụp hình có nói gì không? Em không sao tin ra được đó là ai.”
“Không, anh không nghe thấy gì cả.” Charlie đưa trả lại tấm hình cho Billy.
“Một ngày nào đó có thể em sẽ được nhận làm con nuôi,” Billy nói. “Rồi em sẽ lại có ba mẹ, và em sẽ có nhà như tất cả mọi người.”
Nó bò lên gi.ường, và mấy phút sau đã ngủ say sưa, tấm hình nhàu nát được giấu sâu dưới gối.


Charlie nằm thao thức một lúc lâu, có nghĩ xem điều gì đang diễn ra trong trường Bloor. Trẻ sơ sinh thì bị đánh cắp, con nít thì biến mất, và những ông bố cũng biệt tăm? Người cha mà nó nghĩ là đã chết hóa ra vẫn còn sống, nhưng lại không biết mình là ai.
“Ông cậu Paton,” Charlie lẩm bẩm. “Có thể Ông cậu sẽ tìm ra. Mình cá là Ông cậu biết nhiều hơn những gì Ông cậu thừa nhận.”


Còn một ngày nữa thôi là Charlie đã ở nhà rồi. Và cuối cùng, khi ngủ thiếp được được, thì những câu hỏi dành cho Ông cậu cũng đã hình thành trong óc Charlie.
 
Trong bữa ăn sáng ngày hôm sau, Charlie nhẹ cả người khi thấy Manfred vắng mặt ở bàn ăn.
“Cứ cuối tuần là anh ta ngủ trễ,” Billy nói với nó. “Anh ta thức đến nửa đêm. Đứng từ cửa sổ phòng tụi mình là thấy nến của Manfred thắp trong phòng.”
“Lúc ấy hắn làm gi?” Charlie thì thầm.
“Luyện tập ma thuật,” Olivia đáp lời, đảo tròn mắt.
Charlie nghĩ, rắc rồi là ở chỗ, dám Olivia nói đúng lắm.
“Vậy là hắn sẽ không theo dõi tụi mình nguyên buổi sáng hôm nay, phải không?” Nó hỏi.
“Không đâu,” Billy quả quyết với nó. “Dĩ nhiên là tụi mình vẫn cần phải lên phòng và làm bài. Tất cả sách vở sẽ được sắp sẵn cho tụi mình, với một tờ câu hỏi phải trả lời, nhưng tụi mình có thể trò chuyện, vẽ tranh hay làm bất cứ việc gì tùy thích, miễn là ở đó đến 12 giờ và làm xong các câu hỏi.”


Chúng theo nhau đến phòng Nhà Vua, ở đây, Charlie thấy một tờ câu hỏi cực kỳ lắc léo đang chờ nó. Làm chưa hết một nửa, bỗng nó sực nhớ đến Fidelio.
“Mình đã hứa phải đến tháp nhạc lúc mười một giờ rưỡi,” nó nói với hai đứa kia. “Fidelio sẽ đến để ra hiệu là anh ấy đã chuyển xong cái thùng.”
“Để tụi này ở đây lo cho,” Olivia sốt sắng đề nghị. “Và nếu đằng ấy chưa trả lời xong mấy câu hỏi, thì lúc quay về cứ cóp-pi bài làm của tớ.”
“Cám ơn nha,” Charlie đáp với lòng biết ơn. Nó nhớ ra là nó không biết đường đến tháp nhạc. Sẽ phải mất cả thế kỷ mới lần ra đường tới đó mất. “Fidelio nói bồ sẽ chỉ đường cho mình, nhưng nếu bồ mắc lo cho mình ở đây thì…”
“Để tớ vẽ bản đồ cho đằng ấy.” Olivia nói.


Cô bé nói là làm. Trong khi Charlie nhấp nha nhấp nhổm với đề bài của mình, cứ năm phút lại liếc nhìn đồng hồ, thì ok hí hoáy vẽ sơ đồ đường dẫn đến tháp nhạc. Con bé dúi tờ giấy cho nó.
“Đằng ấy xem là hiểu được chớ?” Nhỏ hỏi.
Charlie nghiên cứu tấm bản đồ. “Ừ, mình sẽ đi qua cánh cửa cuối cùng ở cuối tiền sảnh.”
“Ừ, phải rồi.”
“Gần… rưỡi rồi đó.” Billy nhắc.
Charlie vọt bắn lên.
“Nếu có ai vô đây hỏi, tụi này sẽ phịa là đằng ấy mới vô nhà vệ sinh,” Olivia nói.


Charlie bước ra cửa, mở cửa và nhìn ra ngoài. Không có ai ngoài đó cả. Nó vẫy chào Olivia và Billy thật lẹ, lỉnh lẹ ra hàng lang và khép lại cánh cửa sau lưng.


Theo sơ đồ của Olivia, nó đến tiền sảnh và chạy thục mạng về phía cánh cửa nhỏ hình vòng cung, gần cổng chính. Cánh cổng trông xưa lắc xưa lơ này dường như đã bị khóa. Lòng Charlie chùng xuống. Nó vặn cái vòng sắt bự dùng làm nắm đấm cửa, tới lần thứ ba thì cánh cửa bật ngả về sau. Charlie bước vô một lối đi tối như hũ nút và cẩn thận chốt cửa lại sau lưng.


Charlie nhận ra mình bây giờ đang ở trong phần tòa nhà ngay dưới phòng của Manfred. Nó bắt đầu đi nhón chân.


Hành lang đã tối tăm, cuối cùng dẫn tới một căn phòng trống ở tầng trệt của tháp. Charlie trông thấy cánh cửa mà chắc hẳn Billy đã mở ra cho lũ mèo vô. Cánh cửa giờ đây được chốt chắc chắn. Đối diện cánh cửa này là một dãy cầu thang đá dẫn lên những tầng trên.


Charlie bắt đầu dò dẫm lên những bậc thang xoắn ốc, không có tay vịn hay dù chỉ một sợi dây thừng để bám vô. Cuối cùng, nó bước vô một căn phòng trống khác, có hai cửa sổ nhìn ra quảng trường. Nó chăm chú nhìn ra ngoài. Không thấy bóng dáng Fidelio đâu cả. Có lẽ tại nó leo chưa đủ cao để có được tầm nhìn tốt. Charlie leo thêm dãy cầu thang thứ hai, nó không dừng lại ở tầng kế tiếp mà lẹ làng leo tiếp dãy cầu thang thứ ba. Từ đây nó có thể thấy toàn cảnh thành phố. Sáng hôm đó trời tươi sáng, lành lạnh, và phía xa xa, ngôi nhà thờ đồ sộ nhô hẳn lên khỏi lớp lớp mái nhà chung quanh, tựa như một tạo vật nguy nga, tráng lệ; chóp tháp màu vàng óng của nó lấp lánh dưới ánh mặt trời.


Thình lình, có hai cái bóng chạy băng qua vòi phun nước ở phía dười và tới chân tháp thì dừng lại. Hai cái bóng đó vẫy tay. Vậy là Fidelio có dẫn Benjamin theo cùng.


Charlie vẫy tay đáp lại. Fidelio có giấu được cái thùng trót lọt không? Charlie giơ ngón tay cái bên phải ra ngoài cửa sổ và nhún vai. Rồi nó xòe hai bàn tay ra. Liệu bọn kia có hiểu nó hay không?


Rõ ràng là không. Fidelio và Benjamin bắt đầu hành động một cách rất kỳ dị. Benjamin kéo một sợi dây tưởng tượng, trong khi Fidelio để tay sau mông và lúc lắc tay giống như một cái đuôi. Charlie lắc đầu và nhún vai. Bọn chúng làm gì vậy? Hành song965 đó chẳng có ý nghĩa gì cả.


Cả hai thằng kia rõ ràng là đang rất hào hứng về một điều gì đó, nhưng Charlie muốn biết là cái thùng có an toàn không.


Nó thử dùng hai bàn tay tạo ra đủ loại hình, để minh họa cho câu hỏi: “Có an toàn không? Cái thùng ấy? Đâu rồi?”


Chẳng được cái tích gì. Benjamin và Fidelio hẳn đang có điều gì đó khác trong đầu. Cho dù điều đó là gì thì Charlie cũng phải đợi đến tối nay mới biết được. Nó vẫy tay thêm lần nữa và định chạy xuống cầu thang, thì chợt nghe có tiếng bước chân ở bên dưới. Nếu chạy qua cánh cửa vô hành lang hẹp, thì nó sẽ bị lộ diện ngay bên ngoài phòng Manfred. Cách duy nhất để chạy thoát thân là chạy tiếp lên trên.


Khi Charlie bắt đầu rón rén lên tầng bốn, có tiếng nhạc văng vẳng khắp khu vực cầu thang chật hẹp. Ai đó đang chơi đàn piano. Hay tuyệt. Đó là một giai điệu mê ly, vừa mạnh mẽ lại vừa réo rắt. Người nghệ sĩ này có vẻ như làm chủ tất cả mọi cung bậc trên phím đàn.


Như thể có một sợi chỉ ma thuật kéo Charlie về phía âm thanh ấy. Nó không dừng lại ở tầng bốn, mà cứ vậy leo lên tiếp, bây giờ thì chậm lại và hơi sờ sợ, vì nhận ra mình không thể dừng lại được. Hơn nữa, nó sợ cái mà nó có thể nhìn thấy khi lên đến đỉnh tháp.


Căn phòng mà nó cuối cùng cũng bước vô không trống trải như những phòng kia. Phòng này chất đầy sách nhạc. Những chồng tập nhạc nằm dưới sàn. Các kệ sách đóng trên những bức tường xếp kín những cuốn sách giao hường đóng bìa da – chúng được xếp theo tên của các nhà soạn nhạc kiệt xuất: Mozart, Chopin, Beethoven, Bach, Liszt. Một số cái tên quen thuộc với Charlie, một số khác nó chưa bao giờ nghe nói đến.


Phía bên trong một cánh cửa nhỏ bằng gỗ sồi, một dòng suối nhạc piano trầm bổng vọng ra. Charlie sờ vô nắm đấm cửa. Nó xoay nắm đấm, mở cửa ra và cứ thế đứng ở ngưỡng cửa mà chằm chằm nhìn vô phòng. Trong phòng trống rỗng, ngoại trừ một cây đàn piano đen nhẫy, khổng lồ và người đàn ông ngồi phía sau: thầy Pilgrim. Ông thầy piano xa lạ nhìn thẳng vô Charlie; nhưng hình như ông không nhận ra là cửa mở, mặc dù gió lùa khiến vài tờ báo bay khỏi bậu cửa sổ.


Charlie không biết phải làm gì. Nó cứ đứng ngây ra, như bị thôi miên, và rồi, cuối cùng, nó bước vô phòng và khép cửa lại sau lưng. Thầy Pilgrim vẫn mê mãi dạo đàn, hết nhìn xuống đôi tay mình lại thả hồn ra bầu trời bên ngoài cửa sổ, nét mặt thầy vô định, đôi mắt đen và sâu thăm thẳm.


Xa xa, tháp đồng hồ của ngôi nhà thờ lớn bắt đầu điểm giờ cho toàn thành phố. Một, hai, ba… lúc đó là 12 giờ. Charlie nhớ ra. Nó sẽ trễ mất. Người ta sẽ thắc mắc không biết nó ở đâu. Không chừng chính Manfred sẽ đi tìm nó. Nó toan quay đi, thì bỗng nhiên, thầy Pilgrim ngừng chơi. Hình như thầy đang lắng nghe tiếng chuông đồng hồ. Đến tiếng gõ thứ mười hai thì thầy Pilgrim đứng dậy. Trong thấy Charlie đứng lớ xố bên cánh cửa, thấy nhăn mặt.


“Con… con xin lỗi, thưa thầy, con bị lạc,” Charlie lập bập nói. “Tiếng đàn của thấy rất… à… hay quá… thưa thầy, làm con chỉ muốn lắng nghe.”
“Cái gì?” Thầy Pilgrim hỏi.
“Nhạc của thầy làm con chỉ muốn lắng nghe, thưa thầy.”
“Ờ.”
“Con xin lỗi vì đã tự tiện vô phòng thầy,” Charlie lí nhí. “Thưa, con đi đây.”
“Đợi đã.”
Người thầy xa lạ vòng qua cây đàn piano, bước về phía Charlie.
“Con là ai?”
“Dạ, con là Charlie Bone.”
“Charlie sao?”
“Dạ phải.”
Charlie thấy một thoáng quan tâm nháng lên trong đôi mắt đen của thầy Pilgrim, rồi vụt tan.
“Ra vậy,” thầy lẩm bẩm. “Con nên chạy đi thì hơn.”
“Vâng, thưa thầy.”


Trong chớp mắt, Charlie đã biến khỏi. Nó phóng qua cửa, lao xuống các bậc thang xoắn ốc với thời gian chỉ bằng một nửa lúc nó đi lên. Nó chạy được đến phòng Nhà Vua mà không gặp phải ai, ngoại trừ người gác cửa nhe răng cười và nháy mắt hết cỡ với nó khi nó chạy lẹ qua tiền sảnh.
“Làm gì thế?” Olivia hỏi ngay khi Charlie hộc tốc vô phòng. “Manfred nãy giờ thò mặt vô đây hai lần, hỏi xem đằng ấy ở đâu!”
“Thế bồ nói gì với nó?” Charlie hỏi lại.
“Tớ nói như tụi mình đã mất trí với nhau. Nói bồ ở trong nhà tắm.”
“Những hai lần cơ à?” Charlie lo lắng.
“Lần thứ hai em nói anh bị đau bụng,” Billy nói rành rọt, vẻ nghiêm trang. “Nhưng em không biết anh ấy có tin hay không.”


Vừa lúc đó, thầy Paltry-Kèn-Sáo bước vô, thu lại sách và bảo bọn trẻ chuẩn bị đi ăn trưa.


Bữa trưa hôm ấy có bánh mì sandwich kẹp phó mát và một quả táo cho mỗi phần ăn. Các giáo viên trực trong ngày thứ Bảy ngồi ở dãy bàn cao, nhưng Manfred và giáo sư Bloor lại không xuất hiện.
“Vào cuối tuần họ dùng bữa trưa ở chái phía tây tòa nhà,” Billy giải thích, “cùng với bà Bloor và những người khác trong gia đình.”


Charlie kinh ngạc.
“Vậy ra còn nhiều người nhà Bloor à?”
“Có một ông lão già, già khiếp,” Billy nói. “Em chưa bao giờ thấy ông ấy, nhưng con chó của bà bếp trưởng có nói về ông ấy cho em nghe.”
“Tớ cá là đằng ấy biết rất nhiều thứ từ con chó của bà bếp trưởng,” Olivia nhận xét.
“Đúng thế,” Billy công nhận.


Sau bữa trưa, bọn trẻ được phép ra vườn và Olivia cứ nhất mực rủ cả bọn đến gần khu đổ nát. Billy không hăm hở lắm, nhưng Charlie lại tò mò.
“Thôi nào, Billy,” Olivia động viên. “Tụi mình sẽ không vô trong ấy đâu. Tụi mình chỉ nhìn thôi mà. Tớ chưa bao giờ được chơi trò hùy diệt cả.”
“Mình cũng chưa.” Charlie xen vô.
“Em cũng thế,” Billy càu nhàu, nhưng cũng miễn cưỡng theo chân hai đứa lớn ra chỗ những bức tường rêu phong, xỉn màu. Chúng cao ít nhất phải bốn mét, Charlie nhẩm đoán, và dày chắc. Những viên đá lớn lồ lộ hiện ra khỏi những rặng cây, tựa hồ như ranh giới của một thành phố cổ xưa đã biến mất. Cổng ra vô là một mái rộng hình vòm, và bên trong cổng, mấy đứa có thể thấy một mảnh sân lát gạch, phủ đầy rêu, từ đó có năm lối nhỏ râm mát rẽ ra.
Charlie nghĩ đến cô bé bị biến mất và rùng mình.
“Chuyện gì đang diễn ra ở đó vậy?” Nó lầm bầm.
Olivia đoán được những gì nó nghĩ:
“Tớ chắc chắn là sẽ không bao giờ chui vô đó một mình, dù chỉ một giây. Nó làm tớ sởn cả tóc gáy. Tớ cứ thắc mắc không biết chuyện gì đã xảy ra cho con bé tội nghiệp kia. Người ta nói là áo chùng của nó bị xé thành từng mảnh.”
“Đó là một con sói,” Billy nói.
“Sói?” Charlie và Olivia nhìn nó chằm chằm.
“Con chó của bà bếp trưởng nói với em như vậy,” Billy cho biết. “Nó không bao giờ nói dối đâu. Chó không nói dối bao giờ. Chính xác, nó nói con vật đó là một giống sói. Con sói đó vẫn sống trong trường này, nhưng ban đêm nó chạy ra ngoài khu đổ nát.”
Bất giác cả bọn ngóc cổ ngước nhìn lên bầu trời, những đám mây chiều đang ùn ùn kéo tới.
Olivia thụt lùi lại một bước, rồi quay đầu chạy thục mạng qua bãi cỏ, miệng thét lên thảm thiết:
“Khôôôôôông! Khôôôôông!”
Hai thằng con trai chạy theo sau, bật cười hịch hịch trước đôi chân trắng đang chạy trối chết và tiếng thét thất thanh, nghe thiệt tức cười của cô nàng, tuy Charlie thầm thú nhận là trong tiếng cười của chính nó có pha chút sợ hãi.
Chúng phóng bừa qua cửa vườn và đâm sầm vô Manfred.
“Olivia Vertigo, đi sắp xếp đồ đạc,” hắn lạnh lùng ra lệnh. “Bone, đi theo anh.”
“Tại sao?” Charlie hỏi, cúi gằm mặt xuống sàn nhà.
“Tại vì anh đã nói thế thì mày phải đi,” Manfred trịch thượng.
Charlie rất muốn chạy lên phòng ngủ chung cùng với Olivia. Chẳng còn lâu nữa, mẹ nó cũng sẽ đến cổng đón nó. Rõ ràng là Manfred sẽ không thể ngăn nó về nhà. Nhưng biết đâu, hắn cũng có thể làm việc đó lắm chứ.
Manfred quay đi và bật ngón tay tanh tách. Charlie nhe răng cười một cách căng thẳng với hai đứa bạn rồi đi theo thằng lớn kia.
“Chúc may mắn!” Olivia thì thầm.
Manfred dẫn đường đến phòng huynh trưởng. Hôm nay phòng vắng lặng và Manfred cho phép Charlie ngồi trên một trong mấy cái ghế dựa, trong khi hắn ngồi ở vị trí thường ngày của mình ở sau chiếc bàn giấy lớn.
“Đừng có đờ ra thế, Charlie!” Manfred cố giãn ra một nụ cười, nhưng xem ra nó không được giỏi trong chuyện này cho lắm. “Anh không có ăn thịt mày đâu.|”
Charlie chả tin. Mắt nó vẫn ngó tịt xuống đất.
“Anh chỉ muốn biết mày giấu cái thùng mà bà Ingledew đã đưa cho mày ở đâu. Nó là của bọn anh, mày biết mà.” Giọng Manfred nhẹ nhàng và đầy vẻ dụ dỗ, nhưng Charlie không bị mắc lừa.
“Tôi chả hiểu anh đang nói gì,” nó chối phắt.
“Đương nhiên là mày biết chứ, Charlie. Nó không có gì hay ho cho mày đâu. Thực ra nó chỉ đem phiền phức đến cho mày thôi. Nào, nói đi, nó đâu rồi?”
Charlie không trả lời, Manfred bắt đầu mất kiên nhẫn.
“Nhìn tao đây, thằng kia!” Nó quát lên.
Mắt Charlie vẫn dán chặt xuống đất.
“Mày nghĩ mày tiếp tục được như thế trong bao lâu nữa, hả?” Manfred chế nhạo. “Này, nhìn tao đây. Này, chỉ nhìn một cái thôi mà. Chả có đâu đớn gì đâu.”
Charlie nhận ra ánh mắt mình đang từ từ bị hút về phía khuôn mặt nhợt nhạt của Manfred. Nó không thể cưỡng lại được. Nếu Manfred mà thôi miên được nó, thì mọi thứ sẽ tiêu tan. Nó biết mình sẽ phun ra cho thằng đó tất tần tật. Và sau đó, một ý nghĩ khác bật ra trong đầu nó. Rằng nó có thể chiến đấu với Manfred lắm chứ. Nếu nó đọc được nét mặt và lắng nghe được ý nghĩ của Manfred, thì có thể nó sẽ bẻ gãy được sự kiểm soát của thằng già kia.
Thế là, Charlie nhìn vô khuôn mặt mỏng dính, lạnh lẽo và đôi mắt đen như than đá, rồi cố nghe tiếng nói từ những ý nghĩ của Manfred. Nhưng không có giọng nói nào cả. Thay vô đó là một hình ảnh loang dần trong đầu Charlie, hình ảnh một người đàn ông đang chơi piano.
“Ngừng lại!” Manfred ra lệnh. “Ngừng việc đó lại, Bone!”
Nhưng Charlie cứ bám chặt vô hình ảnh đó, và giờ đây nó có thể nghe được tiếng nhạc, sâu lắng, mượt mà và tuyệt đẹp.
“Ngừng lại!” Manfred rít rống lên.
Một ly nước bay vèo qua đầu Charlie và đập mạnh vô bức tường sau lưng nó, vỡ tan tành. Charlie nhảy khỏi chiếc ghế nó đang ngồi khi đến lượt một cuốn sách bự chảng bay vô nó. Thứ vũ khí tiếp theo Manfred vớ được để ném là cái chặn giấy bằng thủy tinh, nhưng trước khi hắn ném thì cửa bật mở, và giáo sư Bloor ngó vô.
“Chuyện gì thế này?” Ông ta hỏi.
“Nó không đáp ứng,” Manfred rít lên. “Nó cứ ngăn con. Thằng này lại con chơi được trò đấu trí nữa.”
“Thật thú vị,” giáo sư Bloor nói. “Rất thú vị. Con không nên nổi điên như vậy, Manfred à. Ta cảnh báo con đấy. Con phải kiềm chế bản thân chứ.”
Charlie liếc nhanh lên tường. Cái ly vỡ nằm vất lên thành chiếc ghế lúc nãy nó ngồi, và một vệt bẩn lớn, ướt nhèm nhẹp làm loang lổ tấm giấy dán tường màu hoa hồng.
“Charlie, mẹ trò đang chờ đó,” giáo sư Bloor tử tế nói với nó. “Đi sắp xếp đồ đạc ngay đi.”
“Vâng, thưa ngài,” Charlie hăm hở trả lời. Nó ra khỏi phòng lẹ hết mức mà nó dám.
Billy đang chờ nó trong phòng ngủ chung. Thằng bé không ở đó một mình. Bên cạnh gi.ường của nó, một con chó già nhất mà Charlie từng thấy đang nằm dưới sàn nhà. Con chó mập ù, và bộ mặt nâu, dài ngoẵng của nó nhúm nhíu lại, gấp nếp nhiều đến độ khó mà nhận ra mắt với mõm nằm ở đâu. Nó đang thở như kéo bễ - cũng chẳng có gì ngạc nhiên vì chắc hẳn nó đã phải leo lên gần chục cái cầu thang từ nhà bếp tới đây. Cái mùi của nó nhắc Charlie nhớ đến mùi rau cải thối của mẹ.
“Nó được phép vô đây hả?” Charlie lo lắng hỏi.
“Không ai biết đâu,” Billy trấn an. “Em được ở một mình vào những ngày cuối tuần, ngay cả bà giám thị cũng về nhà vào thứ bảy.”
Charlie bắt đầu thảy đồ đạc vô túi.
“Phải chi em có thể về nhà với anh,” nó buồn bã. “Ở đây vào ban đêm chắc chắn là kinh khủng lắm.”
“Em quen rồi,” Billy đáp. “Em đã có con May Phúc để trò chuyện. Hôm nay tụi em có nhiều chuyện phải bàn với nhau.”
“May Phúc?” Charlie nhìn sinh vật nhăn nhúm, béo núc ních dưới chân Billy.
“Cái tên đẹp chứ hả?” Billy hỏi.


Charlie không muốn tranh luận. Nó rất muốn xem Billy giao tiếp với cho như thế nào, nhưng nó không thể đợi được, phải về nhà thôi. Nó chào tạm biệt Billy và phóng như bay qua nhiều hành lang và cầu thang xuống tiền sảnh.
 
Mẹ Charlie đang ngồi trên một chiếc ghế lớn chạm trổ, ngay gần cánh cổng chính. Mới đầu Charlie chưa nhìn thấy mẹ, vì mẹ nó bị thân hình vạm vỡ của giáo sư Bloor che khuất. Ông ta đang nói chuyện với mẹ Charlie một cách nghiêm trang, còn cô Amy trông cứ thấp thỏm như một nữ sinh vừa làm điều gì sai trái. Khi thấy Charlie, cô vẫy nhẹ nó một cái và mỉm cười một cách lo lắng.


Giáo sư Bloor quay người lại.
“A, cậu ấy đây rồi,” ông ta cố tỏ ra hồ hởi. “Ta đang thông báo cho mẹ con biết con đã học tốt như thế nào trong tuần lễ đầu tiên, ngoại trừ… ở… phạm một tội nhẹ trong vụ áo chùng.”
“Thưa ông, đúng thế ạ.”


Charlie không biết sẽ phải giải thích với mẹ như thế nào đây về cái áo chùng bị xé rách. Thôi thì cứ giấu nhẹm đi, nó quyết định như thế.
Mẹ Charlie đứng lên, hôn vội lên má nó một cái và dắt nó đi thật lẹ ra cửa, không để ông Bloor kịp nói thêm tiếng nào nữa.
“Cuối tuần vui vẻ nhé,” giáo sư Bloor nói với theo, giả đò như không biết là hơn phân nửa kỳ cuối tuần của nó thế là đã đi tong.
“Vâng, thưa ông.” Charlie đáp lời, cũng giả đò quên thêm vô tiếng cám ơn.


Mẹ Charlie không đả động gì đến cái tội nhẹ của nó.
“Mẹ hy vọng con không ngán đi bộ chứ, Charlie. Trời chưa đủ tối nên Ông cậu Paton chưa ra ngoài được, mà mẹ thì không kiếm đủ tiền để đi taxi. Và vì con đã lỡ mất chuyến xe buýt của trường, nên…”
“Không sao đâu, mẹ.”
“Họ thật không phải chút nào. Ai lại phạt cấm túc con ngay tuần đầu tiên,” cô bức bối nói. “Mà thôi, quên vụ này đi, đúng không? Ngoại Maisie đã nấu tất cả những món con thích.”


Charlie cảm thấy đói ngấu.


Họ băng qua quảng trường có vòi phun nước, rồi đi vô một con hẻm dẫn ra Phố Lớn. Đúng lúc đi được chừng nửa con phố, thì Charlie nhận ra bên kia đường có một lão già đang bám theo hai mẹ con nó.


Ngay lập tức, Charlie biết đó là ai. Màn cải trang thiệt là vô vọng. Quần áo trông chẳng hợp gì cả, bộ râu quai nón màu trắng trông biết ngay là râu giả, không “ăn” chút nào với mớ tóc đỏ rực lòi ra sau cái nón lưỡi trai cũ sờn.
“Mẹ, mình đi lẹ lẹ hơn được không, mẹ?” Charlie hỏi. “Có người bám theo mẹ con mình.”
“Bám theo?” Cô Amy đứng sựng lại và ngoái ra sau. “Ai đi theo chúng ta?”
“Có một thằng ấy mà,” Charlie nói với mẹ. “Nó ở bên kia đường. Lạ thật, vì nó biết nhà mình rồi mà. Hình như nó bám theo chỉ để hù cho mẹ con mình sợ thôi!”
“Lẹ lên, Charlie!”
Cô Amy túm lấy cánh tay Charlie và kéo tuột nó vô một ngõ hẻm khác.
“Đường này đi sẽ lâu hơn, nhưng mẹ không thể chịu nổi chuyện bị theo dõi.”


Charlie nhớ ra, trước đây việc này đã từng diễn ra với mẹ nó. Ngay sau đám cưới, ba nó đã bắt đầu phài nơm nớp ngoái nhìn lại sau. Mẹ nó kể với nó như thế. Nhưng lúc đó ai đã đi theo họ?


Lúc này, mẹ Charlie đang làm một lộ trình vòng vèo qua những con hẻm nhỏ rí, hoàn toàn lạ lẫm đối với Charlie.
“Lâu lắm rồi mẹ mới đi đường này, nhưng nó không thay đổi nhiều lắm. A, đây rồi!”
Khi cô thốt ra câu này thì hai mẹ con đa đâm ra quãng trường nhỏ trước mặt nhà thờ.
“Ôi!”
Cô sửng sốt, áp tay lên ngực, như thể cảnh tượng tòa nhà khổng lồ đã làm cô nghẹt thở.
“Ba con xưa vẫn hay chơi đàn organ ở đây,” cô thì thầm. “Nhưng mẹ đã không quay trở lại nới này từ khi… từ khi… ba con ngừng chơi.”
Cô Amy rảo bước mau hơn, như không thể chịu đựng thêm được nữa, và tất nhiên, hai mẹ con đều nhận ra mình đang đi ngang qua tiệm sách của cô Ingledew.
“Con biết cái cô sống ở đây,” Charlie dừng lại để dòm qua cửa sổ. “Mình vô nha mẹ?”
“Đóng cửa rồi mà,” mẹ nó nói mau. “Con nhìn tấm bàng này.”
Và sau đó, khi họ vội vàng đi tiếp, cô nói thêm:
“Tối qua Ông cậu Paton đã tới đây. Lúc về Ông cậu đem theo một túi đầy sách. Gần đây không biết có điều gì mà khiến Ông cậu của con thay đổi đột ngột. Chẳng còn giống Ông cậu chút nào hết.”
Phải chăng cuối cùng thì Ông cậu Paton đã ngẩng đầu lên?
Ngoại Maisie đã trông thấy hai mẹ con từ xa, trước khi họ leo lên, những bậc tam cấp của căn nhà số 9. Khi Charlie bước qua cửa nhà bếp thì ấm nước đang sôi, và một bữa tiệc thịnh soạn đã dọn sẵn trên bàn.
“Họ đâu có quyền giữ cháu cách xa chúng ta thêm cả một ngày như vậy,” ngoại Maisie kêu lên, ôm chầm lấy Charlie, ghì nó đến nghẹt thở.
“Tại nó vi phạm nội qui,” một tiếng nói phát ra từ chiếc ghế bập bênh cạnh lò sưởi. “Nó cần phải học mà hiểu nội qui.”
Rồi nội Bone nhăn mặt nhìn Charlie:
“Gớm, coi tóc với tai kìa! Mày không đem lược đến trường à?”
“Dạ, có chứ,” Charlie thanh minh, “nhưng giám thị không nói gì về chuyện tóc tai của tụi con. Nội biết con nói tới giám thị là có ý muốn nhắc tới ai chớ!”
“Tất nhiên là Lucretia,” nội Bone cáu kỉnh.
Đây quả là một bất ngờ lớn cho ngoại Maisie và cô Amy, hai người há hốc miệng ra nhìn nội Bone.
“Sao mẹ không nói cho chúng tôi biết?” Mẹ Charlie la lên.
“Mắc gì ta phải nói,” bà già khụt khịt.
Đoạn bà quay trở lại với quyển sách đang đọc dở, như thể không hề có chuyện gì xảy ra.
“Chà,” ngoại Maisie lên tiếng. “Có người lại khệnh khạng thế đấy!”
Nội Bone giả ngơ luôn lời nhận xét này, cũng như làm ngơ luôn bữa trà thân mật mà các thành viên khác trong nhà (trừ Ông cậu Paton, dĩ nhiên) sắp ngồi xuống dùng.
Charlie nặn óc nghĩ ra cách để hỏi thăm Ông cậu, nhưng nội Bone trông băng giá đến nỗi có quyết định thôi luôn. Nó không muốn làm nổ thêm cuộc tranh cãi nào nữa, mà chỉ muốn ních đầy các món khoái khẩu rồi mau mau đi gặp Benjamin.
“Đi đâu đó, hả?” Nội Bone hỏi sau bữa trà, khi Charlie đi ra cửa trước.
“Dĩ nhiên là nó đi gặp bạn nó,” ngoại Maisie trả lời thay.
“Chi vậy?” Nội Bone chất vấn. “Nó có bổn phận ở nhà với gia đình vào cuối tuần.”
“Đừng ngây ngô như thế chứ, bà Grizelda,” ngoại Maisie sực lại. “Cháu cứ đi đi, Charlie.”
Charlie vọt bắn ra cửa, trước khi nội Bone kịp mở miệng thêm câu nào nữa. Nó chạy băng qua đường, tới nhà số 12 và ở đó, không những nó được gặp Benjamin mà còn cô cả Fidelio. Trông hai đứa có vẻ rất hào hứng. Chúng lập tức lôi ngay Charlie vô bếp, nơi những mẩu pizza, khoai tây chiên, chuối và bánh quy thừa còn vung vãi trên bàn. Con Hạt Đậu đang say mê thưởng thức những miếng đồ ăn rơi xuống sàn, nhưng ngay khi Charlie đi vô, nó liền nhặng xị cả lên: nhảy chồm chồm, thè cái lưỡi cực kỳ nhớp nháp liếm lấy liếm để lên mặt Charlie.
Charlie cố dứt ra khỏi con Hạt Đậu, trong khi Benjamin bắt đầu thuật lại những gì đã xảy ra. Có vẻ như tụi nó đã phát hiện được một điều gì đó vô cùng hệ trọng.
“Chính Fidelio,” Benjamin nói. “Bồ biết không, cái giọng nói trong con chó máy bồ tặng mình đó… ờ… anh Fidelio bảo nếu tụi mình cho cái băng chạy tới thì có lẽ sẽ có thêm gì đó nữa. Và đúng là có thêm thật.”
Charlie gật gù. Trò hề lạ lùng của lũ bãn nó bỗng nhiên đã có ý nghĩa.
“Vậy hóa ra sáng nay hai người muốn diễn tả điều đó cho mình đó hả? Hai người làm điệu bộ như là kéo cái đuôi chó vậy…”
“Thế lúc ấy em không hiểu hả?” Fidelio cười toe toét. “Ngồi xuống đi, Charlie, và nghe câu chuyện giật gân đây!”
Charlie nhận thấy lũ bạn đã tìm cách kéo được cái thùng của tiến sĩ Tolly ra khỏi tầng hầm rồi. Nó kéo ghế ra và ngồi vô bàn. Đứng giữa mặt bàn là con chó kim loại, bao quanh là bìa cứng và vụn bánh.
“Nghe đây,” Fidelio dõng dạc.
Nó giật đuôi con chó, và ngay khi giọng nói quen thuộc của tiến sĩ Tolly bắt đầu đưa ra lời hướng dẫn, Fidelio liền nhấn tai trái con chó cho cuộn băng chạy tới.
“Rồi,” nó cao giọng. “Tới rồi đó.”
Tiến sĩ Tolly nói trở lại, lần này giọng ông nghe khác hẳn, khẩn thiết và sầu thảm hơn. Charlie xích ghế lại.
Julia thương mến, giọng nói bắt đầu, nếu nghe được những lời này thì chị sẽ khám phá ra bí mật về đứa con yêu dấu của tôi; đứa bé trước đây là Emma Tolly, nhưng giờ đây nó đã mang một cái tên khác. Tôi hy vọng chị đã tìm ra một nơi an toàn để giấu cái thùng đề Mười Hai Tiếng Chuông Của Tolly. Tôi không thể gửi chìa khóa hay lời hướng dẫn cách mở nó cho chị được, vì tôi không thể tin tưởng ai, Julia à. Họ nghe trộm ngoài cửa phòng tôi, ăn cắp thư từ của tôi, và đến lúc chị nghe được lời nhắn này thì chúng đã đánh cắp cuộc đời tôi. Tôi biết rõ lắm. Tôi đã yếu sức lắm rồi. Tôi không thể ra khỏi gi.ường. Những kẻ thù của tôi đã đầu độc tôi, Julia, và đây chính là hình phạt cho những gì tôi đã làm với con mình.
Và thế là, giờ đây, tôi sẽ kể cho chị biết sự việc đó đã xảy ra như thế nào, tôi đã rơi vô tình thế trớ trêu này ra sao. Như chị biết đấy, tôi đã quyết định trao bé Emma cho người khác. Chính lòng tham đã thúc giục tôi. Thứ chúng trao cho tôi để đổi lấy con gái của tôi là một thách thức gây hứng thú nhất trong đời tôi. Chúng đưa cho tôi một bản sao rất hoàn hảo tổ tiên của tôi, hiệp sĩ Toledo với thanh gươm sắc bén nhất trên đời. Tôi sẽ phải biến bản sao đó thành người thật – tôi mới ngạo mạn làm sao khi tin rằng mình có thể làm được điều đó. Tôi đã làm việc cật lực trong 5 năm. Không thành công. Tôi chỉ là một nhà khoa học, chứ không phải là một phù thủy. Khi Emma lên 7 tuổi, tôi yêu cầu họ trả con lại. Họ từ chối, với lý do là tôi đã không hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Đúng lúc này, Benjamin bỗng hắt xì một cái, cắt ngang thứ bùa mê mà giọng nói đầy thuyết phục của tiến sĩ Tolly đang truyền qua lũ trẻ.
“Chà chà, thú vị thật,” Charlie tấm tắc. “Nhưng cũng chẳng giúp cho tụi mình biết được gì nhiều.”
“Chi tiết đầu độc thú vị đấy chứ.” Benjamin nói.
“Nghe đi,” Fidelio yêu cầu chúng. Nó tạm ngừng cuộn băng lại. “Phần kế tiếp là phần hay nhất. Tất cả mọi việc đều diễn ra ở đó.”
Benjamin và Charlie im bặt, đầy ý thức trách nhiệm, trong khi Fidelio bật lại cuộn băng. Một lần nữa, giọng nói trầm sâu của tiến sĩ Tolly lại vang lên từ con chó máy.
Julia, chúng hứa là tôi sẽ được gặp và thăm con. Tôi nghĩ đó sẽ là một cuộc sống tốt cho Emma bé nhỏ, được bảo bọc trong một gia đình chan chứa tình yêu thương - có cha mẹ, có anh – thay vì phải sống với tôi, một gã hay gắt gỏng, đãng trí. Họ nói họ sẽ cho con tôi biết sự thật nó là ai, để một ngày kia, con bé có thể chọn trở về với tôi hoặc đến sống với chị, Julia à. Đó là hy vọng của tôi. Đó là trước khi tôi biết những gì Manfred có thể làm…
Charlie ngó Fidelio, đang trợn tròn mắt. Benjamin thì thầm:
“Phải đó là…?”
“Suỵt!” Fidelio ra hiệu.
…Tôi nhớ rõ ngày hôm ấy, tiến sĩ Tolly tiếp. Chị còn nhớ chứ, trước tiên tôi đến tiệm sách của chị, và chị mặc cho Emma một chiếc váy trắng mới và thắt ruy băng lên tóc cho con bé. Nhưng chị không đi tới quảng trường trước nhà thờ cùng với cha con tôi. Giá mà lúc ấy chị cũng đến đó.
Ở đó có bốn người – Bloor, vợ và con trai ông ta, và một lão già. Thằng bé lúc ấy khoảng 8 tuổi. Chúng đặt cái thùng dưới chân tôi và, đúng là trong thùng có một bức tượng; sau đó, tôi nâng con gái bé bỏng của mình lên và lão già chìa tay ra.
Đúng giây phút đó thì sự việc xảy ra, Julia ạ. Đó là khi tất cả mọi thứ bắt đầu đi chệch lối. Khi chiếc đồng hồ to trên đầu chúng tôi bắt đầu điểm giờ, thì một người đàn ông từ trong nhà thờ chạy bổ ra. Tôi nhận ra anh ta ngay lập tức. Đó là người đánh đàn organ trẻ tuổi cho nhà thờ. Trong khi ca đoàn vẫn đang hát, thì anh ta chạy về phía chúng tôi. Anh ta giơ tay lên và la lớn “Ngừng lại! Cac người không được làm thế!”
Khi anh ta xông tới chặn trước mặt tôi, thì lão già liến đấm một đấm vô mặt anh ta. Người nhạc công trẻ đánh trả lại và lão già ngã xuống, đập đầu xuống nền đá. Lão ta thét lên đau đớn. Liền đó, tôi nhận thấy Manfred nhìn trừng trừng người đàn ông kia, đôi mắt nó trông như hai hòn than đen ngòm. Anh nhạc công lập tức đứa tay ôm mặt và quỵ xuống.
Lúc ấy Emma khóc thét lên vì khiếp sợ, nhưng Manfred quay đôi mắt khủng khiếp ấy về phía tôi, và tôi thấy mình đặt đứa con đang gào khóc của mình vô tay nó. Khi đồng hồ nhà thờ gõ mười hai giờ, nó nhìn con bé và con bé nín khóc ngay lập tức. Con bé dường như sợ đến chết trân.
Tôi là một kẻ hèn nhát, Julia ơi. Lúc đó tôi đã làm một việc tồi tệ hết sức. Tôi đã bỏ chạy. Tôi xách cái thùng lên và chạy trốn vô những ngõ hẻm, như thể đang bị ma quỉ của địa ngục đuổi theo sau lưng.
Sau này, tôi mới khám phá ra là chúng đã gửi Emma cho một gia đình khác. Chúng nhất định không nói cho tôi biết là ở đâu. Lão già bị tàn tật suốt đời sau cú ngã kia. Còn anh nhạc công trẻ tuổi kia thì tôi không bao giờ nhìn thấy nữa. Tôi hiểu rằng cả anh ta và bé Emma của tôi đều ở trong tình trạng còn tồi tệ hơn bị thôi miên. Họ sẽ bị yểm bùa suốt đời, nếu tôi không tìm được cách giải bùa cho họ. Và vì thế, tôi lao đi tìm cách. Ít nhất thì tôi cũng tin là mình đang tìm ra. Trong cái thùng ghi Mười Hai Tiếng Chuông Của Tolly có một âm thanh có thể đánh thức bé Emma tỉnh lại. Gia đình Bloor biết được điều tôi đang làm, và tất nhiên, họ muốn phá hủy sáng chế của tôi. Nếu cô ấn lên các mẫu tự, tùng chữ từng chữ một, ấn mạnh và cẩn thận, thì cái thùng sẽ mở ra…
“Vậy đó là cách mở cái thùng,” Charlie nói.
“Khoan!” Fidelio giơ tay lên. “Nghe cái ngày đi đã!”
…Suýt nữa thì tôi quên, giọng tiến sĩ Tolly lại cất lên. Tại sao chúng lại muốn con của tôi? Bọn tôi, giáo sư Bloor và tôi, cùng là sinh viên với nhau. Việc tôi thổ lộ những bí mật riêng tư của mình với người bạn cũ là lẽ tự nhiên. Tất nhiên, tôi không thế nói cho ai khác. Rằng Emma biết bay. Việc chỉ mới xảy ra một lần khi bé được vài tháng tuổi. Nhưng biết đâu đấy…?
Hãy bảo trọng, Julia. Đoạn ghi âm này đã đến. Người bưu tá đang ở ngoài cửa. Vĩnh biệt chị.
“Mấy đứa nghĩ thế nào?” Fidelio hỏi. “Một câu chuyện hay chứ hả? Tưởng tượng coi! Con bé đó, dù nó là ai đi chăng nữa, thì tuyệt nhất là nó biết bay.”
“Em nghĩ đó là Emilia Moon,” Charlie thì thào. “Và người đánh organ…”
“Người đánh organ thì sao?” Fidelio hấp tấp hỏi.
“Không sao cả,” Charlie đáp.
Người đánh organ đó có thể chính là ba nó, nhưng bây giờ làm sao chúng có thể tìm được ông? Ông đang lưu lạc ở đâu, ai mà biết được. Trước tiên, bọn nó phải làm Emma Tolly tỉnh lại đã, và rồi, có lẽ một ngày nào đó sẽ đánh thức tới ba nó.
Fidelio hăng hái vạch kế hoạc hành động càng sớm càng tốt.
“Tụi mình phải đem cái thùng ra khỏi đây vào tối nay,” nó nói. “Bây giờ thì đã biết công dụng của nó rồi.”
“Asa lại theo đuôi mình,” Charlie thông báo. “Thế nào nó cũng theo dõi từng bước đi của tụi mình.”
“Lo gì,” Fidelio trấn an. Nó chỉ cho Charlie xem cái thùng khổng lồ đựng cây mọc cầm mà nó đã xách theo.
“Ba anh nói sẽ lái xe tới đây đón anh. Nếu bây giờ em và Benjamin ra đi bộ loanh quanh khu này thì Asa có thể sẽ theo đuôi hai em. Khoảng 10 phút nữa ba anh sẽ tới, lúc đó thì Asa sẽ không còn lẩn quẩn ở đây mà thấy được anh đem thùng đựng đàn mộc ra xe. Nếu có, thì nó cũng chỉ nghĩ đấy là một loại nhạc cụ.”
Cả bọn nhất trí đây là một kế hoạch tuyệt vời. Bọn chúng nhấc cái thùng của tiến sĩ Tolly, bỏ vô thùng đựng đàn mộc trống không, rồi Charlie và Benjamin lên đường ra công viên. Đến lúc này trời đã xẩm tối, nhưng với con Hạt Đậu nhảy tung tăng bên cạnh, chúng cảm thấy rất an toàn. Chẳng bao lâu, chúng đã nhân ra cái bóng hóa trang cực kỳ kệch cỡm của Asa, ở bên kia đường, đang lén lút nhảy lóc cóc từ gốc cây này qua gốc cây kia, nhưng chúng cố không lộ ra là đã nhìn thấy thằng này.
Sau hai mươi phút đi loanh quanh, Charlie và Benjamin trở lại nhà số 12 đường Filbert. Fidelio và cái thùng to tướng đã biến mất.
“Thế là xong rồi!” Benjamin sung sướng reo lên.
“Tuyệt vời, Fidelio lão luyện của chúng ta,” Charlie mừng rỡ. “Mình phải về nhà đây. Ngày mai gặp lại nha.”
“Tụi mình đem cuốn băng cho cô Ingledew chứ?”
“Ý hay đó,” Charlie tán thành.
Nó băng qua đường,c hạy về nhà, háo hức muốn kể cho Ông cậu Paton những gì đã xảy ra. Ông cậu đang đứng một mình, có vẻ rất nhàn hạ, trong hành lang, nhưng xem ra không ở trong tâm trạng để nghe chuyện bí mật. Ông cậu sắp sửa ra phố. Ông mặc một bộ com lê cực kỳ lịch lãm, và thật kinh ngạc, có thắt thêm một chiếc nơ bướm màu tía. Tóc Ông cậu đã được hớt ngắn, mặt Ông cậu trắng sáng và vừa mới cạo nhẵn. Người Ông cậu tỏa ra mùi thơm nồng, thay cho mùi hỗn hợp của mực và giấy cũ như mọi khi.
“Chao ôi,” Charlie vồn vã. “Ông cậu Paton sắp đi đâu vậy?”
Ông cậu Paton có vẻ bối rối.
“Mày nhờ ta lấy chìa khóa cho mày ở chỗ cô Ingledew mà.”
“Bây giờ không cần nó nữa đâu,” Charlie thì thầm.
Ông cậu Paton không để ý đến điều đó. “Ta… hụ hụ…” Ông cậu tằng hắng. “Ta đến đón cô Ingledew đi ăn tối.”
“Thế à!”
Đây đúng là tin sốt dẻo. Theo Charlie nhớ thì Ông cậu Paton chưa từng đưa ai đi ăn tối bao giờ.
Ông cậu hạ giọng và ghé sát người xuống Charlie:
“Bà Bone sẽ không vui vì chuyện này đâu.”
“Dĩ nhiên,” Charlie nói, miệng cười toét.
Ông cậu Paton vỗ nhẹ lên vai nó, nháy mắt rồi đi khỏi. Đêm ấy trời đen như mực.
Charlie sẽ cảm thấy mừng vô kể cho Ông cậu. Nó thầm chúc ông may mắn và có một buổi tối an bình.
Nội Bone đóng cửa giam mình trong phòng, vì thế bầu không khí trong bếp thật dễ chịu và yên tĩnh. Ngoại Maisie và mẹ Charlie đang đọc tạp chí. Cả hai ngước nhìn khi Charlie đi vô, hăm hở muốn nghe tất cả mọi chuyện của tuần đầu tiên ở trường mới. Charlie kể cho họ nghe những chuyện thú vị, buồn cười. Nó bỏ qua chuyện Gabriel Silk và lời quả quyết kỳ lạ của thằng này rằng ba nó vẫn chưa chết. Nó cũng lược bỏ phần chiếc áo chùng. Sau này chắc chắn nó sẽ phải tìm lời giải thích cho chuyện đó.
Charlie được phép thức khuya hơn thường lệ. Không có nội Bone quanh quẩn một bên, không ai bắt bó phải đi ngủ sớm cả. Hơn nữa, ngày hôm sau là chủ nhật và mẹ nó đã đảm bảo rằng nó có thể nướng trên gi.ường bao lâu tùy thích. Nhưng sau một hồi lâu thì mắt Charlie bắt đầu nhíu lại, nó ngáp trẹo quai hàm và đành phải thú nhận là có nguy cơ ngủ gật. Nó hôn ngoại Maisie và mẹ, chúc hai người ngủ ngon, rồi đi về gi.ường.
Charlie không biết mình đã ngủ được bao lâu thì có một chuyện lạ diễn ra. Có tiếng bước chân chậm chậm ngoài cửa phòng nó. Đi tới đi lui. Đi lui đi tới. Cầu thang rung lên cọt kẹt và có bóng người đi qua hành lang. Dù đang mệt rã rời, Charlie cũng ráng tuột khỏi gi.ường và kiễng chân đi xuống cầu thang.
Ông cậu Paton đang ngồi ở bàn bếp. Trên bàn, một cây đèn cầy cháy chập chờn, leo lét. Ông cậu đã lột áo khoác và cà vạt quăng xuống đất, vùi mặt vô hai cánh tay khoanh tròn lại.
“Ông cậu Paton, có chuyện gì vậy?” Charlie khẽ hỏi. “Chuyện gì vậy ạ?”
Ông cậu không trả lời, chỉ rên rỉ. Charlie kéo ghế ra ngồi đối diện ông, chờ ông bình tĩnh lại, lòng thắc mắc không hiểu Ông cậu gặp chuyện gì ghê gớm vậy.
Cuối cùng, Ông cậu Paton cũng ngẩng đầu lên và than thở:
“Charlie, tiêu hết rồi.”
“Gì cơ ạ?” Charlie gặng hỏi.
“Ta đã không nhịn được,” Ông cậu Paton trầm ngâm. “Sự việc cứ thể xảy ra. Người bạn của ta, cô Ingledew ấy, trông thật quyến rũ. Cô mặc áo đầm đen, tóc búi cao, cổ trắng như cổ thiên nga… Ôi, ta đã bị chinh phục mất rồi.”
“Đương nhiên là thế rồi ạ,” Charlie đồng tình.
“Ta đã cố nhịn cho đến lúc dùng bánh pút-đinh.”
“Đúng thôi, ngon quá mà!”
“Không, không phải vậy,” Ông cậu Paton rên rỉ, “Mặc dù ta có thấy là món nào cô ấy cũng thích.”
“Ông cậu và cô ấy ăn gì vậy?”
“Sò. Rau trộn Caesar. Vịt quay và bánh pút-đinh phủ kem với trái cây.”
“Ngon quá đi mất!” Charlie reo lên. Nó chẳng biết những món đó ra sao, ngoại trừ món vịt.
“Nhưng rượu đã bốc lên đầu ta, và ta quá say, quá sung sướng.” Ông cậu Paton thở dài sườn sượt. “Có một ngọn nén trên bàn của bọn ta, như thế cũng không hề chi, nhưng ở đằng sau Julia, trên vách tường, có một bóng đèn tỏa ánh sáng đỏ dìu dịu… và… bụp… bóng đèn bể. Miểng thủy tinh văng tứ tán. Vương khắp trên tóc, trên chiếc áo đầm đen dễ thương của cô ấy. Ta nhảy lên, thêm một bóng đèn ở bàn kế bên vỡ tan. Thử hình dung đến tình cảnh khốn khổ của ta mà xem.”
“Nhưng người ta không hề biết đó là do Ông cậu,” Charlie an ủi.
“À, đó chính là lúc ta tự biến mình thành một thằng khùng. ‘Xin lỗi, xin lỗi’, ta rối rít kêu lên, và một cái bóng đèn nữa vỡ tan. Rồi thêm cái nữa, ta lao ra ngoài, miệng vẫn lảm nhảm xin lỗi. Ta quá mắc cỡ. Ta không thể ở lại đó được, tất cả bóng đèn trong nhà hàng chắc sẽ nổ tung mất thôi.”
“Ông cậu đừng bận tâm làm gì,” Charlie vỗ về. “Thể nào Ông cậu cũng sẽ nghĩ ra một lời giải thích với cô Ingledew thôi mà.”
“Nhưng, Charlie à, ta chưa thanh toán hóa đơn!” Ông cậu Paton kêu lên. “Thử tưởng tượng coi cô ấy sẽ phẫn nộ như thế nào. Cô ấy sẽ nghĩ ta là kẻ hèn nhát, chỉ vì sợ mấy cái bóng đèn nổ mà bỏ mặc cho cô ấy trả tiền.”
“Ông cậu chỉ cần nói cho cô ấy biết sự thật,” Charlie nói.
“Khôôông!” Ông cậu Paton rền rĩ như sấm một cách tuyệt vọng. “Chúng ta bị đày đọa. Ta và mày. Bị đày đọa trong sự khác người, trong nỗi ám ảnh khủng khiếp của gia đình chúng ta.”
“Không phải vậy đâu,” Charlie phản đối kịch liệt. “Ông cậu bình tĩnh lại nào! Con có điều quan trọng muốn nói với Ông cậu, và con thực sự muốn Ông cậu tập trung.”
Ông cậu Paton lại gục đầu xuống cánh tay đang khoanh lại, và lần này dường như ông không buồn động đậy nữa. Thế nên Charlie bắt đầu kể lại tất cả những gì mà tiến sĩ Tolly đã nói trong cuộn băng. Cuối cùng thì Ông cậu Paton cũng ngẩng đầu lên, và lần này thì hết sức chăm chú.
“Ôi trời, Lyell!” Ông cậu Paton thốt lên khi Charlie kể tới đoạn người chơi đàn organ.
“Đó là ba của con, phải không?”
“Chắc chắn rồi,” Ông cậu Paton khẳng định. “Kể tiếp đi, Charlie.”
Khi Charlie kết thúc câu chuyện kỳ lạ của tiến sị Tolly, thì Ông cậu Paton trở nên hoạt bát hơn.
“Nhóc à, tất cả vụ này thật hết sức, hết sức lạ lùng, không thể diễn đạt thành lời nổi. Và bi đát nữa, bi đát quá đi. Đứa trẻ tội nghiệp đó. Và ba của mày… Trời ơi, giá mà ta có thể ngăn chặn được điều đó. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, ta nghĩ rằng, trong lúc cố cứu đứa bé thì số mệnh của ba mày đã được định đoạt.”
“Nhưng, Ông cậu Paton ơi, ba con vẫn còn sống,” Charlie tiết lộ.
“Cái gì? Không, ta rất tiếc, Charlie à, mày sai rồi.”
Charlie kể với Ông cậu về Gabriel Silk, về cái áo chùng xanh và chiếc cà vạt của ba nó.
“Con thấy anh ấy chẳng có lý do gì để nói dối con cả,” Charlie bảo. “Ông cậu thử tới gặp anh ấy coi, Ông cậu Paton. Anh ấy có khả năng đó mà. Cũng y như con có tài nghe được tiếng nói và Manfred có tài thôi miên… và như… như ông có thể làm nổ bóng đèn vậy.”
“Ta nghĩ là ta phải tin mày, Charlie. Nhưng chính mắt ta đã thấy nơi chiếc xe hơi lao xuống hầm đá. Ba mày không thể thoát ra khỏi đó được, và nếu ông ấy có thoát được thì hiện giờ ông ấy ở đâu cơ chứ?”
Charlie buồn rầu nhún vai. Nó không biết câu trả lời, nhưng nó hết sức bất ngờ khi được biết là sau đó không ai tìm ra xác ba nó.
“Con nghĩ là bà nội đã ngăn không cho họ kết liễu ba, vì đó là con trai bà. Nhưng vì không bắt được ba làm theo những gì bà muốn, nên bà đã để mặc cho tai nạn và tất cả mọi chuyện xảy ra, Tất cả bọn họ, cả gia đình nhà Bloor và nhà Yewbeam, đều cùng một phe, ngoại trừ Ông cậu, Ông cậu Paton ạ. Nếu ai đó ngăn trở hay làm điều gì họ không thích, thì họ sẽ trừ khử người đó, hay giấu người đó đi, hay làm cho người đó quên mất mình là ai.”
“Ôi!” Đột nhiên Ông cậu Paton đấm mạnh xuống bàn. “Ta trách chính bản thân mình. Luôn cúi đầu xuống không phải là điều tốt. Lúc ấy ta đã biết là có điều gì đó đang diễn ra, không thể chối cãi… Dạo ấy mấy bà chị của ta đang âm mưu tính toán điều gì đó; họ cứ xầm xì với nhau, họ có những buổi gặp gỡ bí mật, à… lại có cả những cuộc viếng thăm của giáo sư Bloor và lão già Ezekiel, ông nội cực kỳ kinh khủng của hắn nữa. Vậy mà ta chẳng quan tâm.”
“Ông nội?” Charlie hỏi, hơi ngạc nhiên.
“Ừ, ông nội,” Ông cậu Paton nhắc lại. “Đúng là một lão già tội lỗi. Bây giờ lão ta phải hơn trăm tuổi là ít. Một buổi tối, ta nhận được điện thoại của Lyell. Ba mày đã phát hiện ra điều gì đó và ông ấy cần lời khuyên của ta. Dạo ấy, ba mày sống ở bên kia thành phố cùng với mày và mẹ mày. Ta bảo ta sẽ gặp ông ấy ở bên ngoài nhà thờ.”
Ông cậu Paton ôm lấy mặt.
“Nhưng ta đã không đến, Charlie à,” Ông cậu rên rĩ. “Ta quên khuấy đi mất, ta mải vùi đầu vô cuốn sách của ta, mày biết đó. Nhưng cuốn sách làm sao lại có thể so với mạng người được? Từ ấy ta không bao giờ còn nhìn thấy ba mày nữa.”
Mặc những biến cố khủng khiếp và kỳ bí xung quanh sự biến mất của ba mình, Charlie vẫn cảm thấy rất tự hào. Ba nó đã cố gắng ngăn không cho tội ác xảy ra.
“Ông cậu Paton ơi, ngày mai con sẽ đem cuộn băng của tiền sĩ Tolly cho cô Ingledew. Và trong lúc ở đó, con sẽ cố giải thích về việc nổ bóng đèn và mọi thứ cho Ông cậu.”
“Mày thật tử tế quá,” Ông cậu Paton ủ ê. “Nhưng ta e là viễn cảnh của ta đã an bài mất rồi.”
“Không phải vậy,” Charlie cãi lại.
Thình lình nó nhận ra mình và Ông cậu đang rất ồn ào. Nó ngạc nhiên, nội Bone ở đâu mà sao lại không nên xuống sàn nhà, hay nhảy bổ xuống lầu, lao vô câu chuyện nhỉ.
“Hay nội bị sao rồi?” Nó hỏi.


Trong đêm hôm đó, lần đầu tiên Ông cậu Paton mỉm cười.
“Ta đã cho một thứ vô sữa của bà ấy. Bà ấy sẽ không tỉnh giấc trong nhiều giờ. Có thể là không tỉnh lại cho đến buổi uống trà ngày mai.”
Charlie bật cười khúc khích. Nó không thể nào nhịn nổi. Nó và Ông cậu vừa cười vừa cùng nhau bước lên cầu thang, tạm quên đi những vấn đề rắc rối của mình. Ít nhất là vào lúc này.
 
Khi Billy Raven nói với Charlie rằng nó không phiền gì khi phải ở một mình trong phòng ngủ chung dài hút, thì điều đó chẳng đúng chút nào. Thực ra, Billy rất sợ những đêm thứ Bảy. Nó trằn trọc khó ngủ, biết rằng mình lại phải một mình trải qua trọn một ngày và một đêm nữa.


Đúng ra thì cũng có con May Phúc bầu bạn với Billy, theo cách riêng của chó, nhưng kiến thức về loài người của con chó già này khá là hạn chế. Chuyện của nó toàn là chuyện thú vật, và cảm xúc cũng là cảm xúc của loài vật, và vì bây giờ May Phúc đã già rồi, nên nó cứ ca cẩm về bệnh tật. Tuy Billy rất thông cảm với May Phúc, nhưng nó nghĩ sẽ thích hơn nếu có một thằng bạn, hay một nhỏ bạn, để mà trò chuyện.
Ở Học viện cũng có những trẻ mồ côi khác, Billy biết vậy, nhưng tất cả bọn chúng đều đã được các gia đình dễ chịu, thân thiện nhận làm con nuôi rồi. Billy thường tự hỏi tại sao không ai muốn nhận nuôi nó cả. Và nó qua quyết rằng đó là vì trông nó kỳ dị quá – có lẽ người ta sợ tóc trắng và mắt đỏ.


Ở phía bên kia mảnh sân gạch, những ngọn nến trong phòng Manfred lập lòe như những ngôi sao nhỏ ghê rợn. Billy nhìn nến cháy hồi lâu, rồi không kéo màn lại, nó bước qua con May Phúc, leo lên gi.ường. Nó chưa kịp ngả đầu xuống gối thì con chó già thở phì một cái và ngồi dậy.
“Có người muốn gặp Billy,” May Phúc nói.
“Ai muốn gặp tôi?” Billy hỏi, hơi chột da5.
“Lão già. Bây giờ. Tôi chỉ.”
“Bây giờ á? Nhưng khuya rồi và… và… tại sao ông ấy muốn gặp tôi?”
“May Phúc không biết. Đi ngay.”
Billy xỏ đôi dép lê, với lấy đèn pin trong ngăn kéo, rồi quấn mình trong chiếc áo choàng tắm, đi theo May Phúc ra khỏi phòng ngủ chung.
Pin trong đèn của Billy còn rất yếu, và nó khó mà nhìn thấy được cái đuôi của May Phúc đang ve vẩy ở đằng trước. Mấy hôm rồi Billy cứ định sẽ hỏi xin pin của một anh lớn nào đó, nhưng nó không biết chắc phải hỏi xin ai. Cuối tuần tới có thể nó sẽ về nhà Charlie. Charlie sẽ cho nó một bộ pin mới, nó chắc như vậy.


May Phúc đi lẹ hơn thường lệ rất nhiều, và cứ vài quãng Billy lại phải chạy mới theo kịp con chó già. Tuy nhiên, khi tới một cầu thang, May Phúc bước chậm lại. Chợt nó rướn thân mình lên, thờ phà phà. Trên đầu cầu thang đó, không khi đặc và ấm. Giờ đây, cả hai chúng nó sắp bước vô lãnh địa của gia đình Bloor. Billy rùng mình nghĩ xem điều gì sẽ xảy ra nếu Manfred thấy nó đứng lớ xớ ngoài cửa phòng.
“Mi chắc là không nhầm lẫn gì chứ?” Billy hỏi con chó. “Mi có nghĩ là mi lầm rồi không?”
“May Phúc không bao giờ lầm,” con chó khịt mũi. “Theo tôi.”
Billy đi theo con chó, dọc theo những hành lang nồng nặc mùi nến, và rồi lại lên một cầu thang khác, đi vô một vùng tối âm u, nơi có những luồng khí chốc chốc lại phòi ra khỏi vách tường rồi nổ một cái “phụp”, với mạng nhện giăng phất phơ, thả từ trên trần nhà vỡ nát, tối thui xuống.
“Mùi dễ chịu,” May Phúc khen.
“Dễ chịu?” Billy lấy làm lạ. “Giống mùi trứng thối… và… và mùi con gì chết thì có.”
“Dễ chịu mà,” May Phúc lặp lại.
Nó đã tới một cánh cửa đen có tay nắm bằng đồng, khổng lồ. Trên cánh cửa có một mảng sơn lớn bị trầy do những đường cắt sâu gây ra, và khi May Phúc giơ một chân lên và bắt đầu cào vô cánh cửa, thì Billy nhận ra những đường cắt ấy là gì. Rõ ràng, con chó già này thường xuyên tới đây.
Sau ba lần cào cửa, một giọng nói khô khốc và ngạo mạn vang lên:
“Vô đi!”


Billy vặn nắm đấm và bước vô. Nó nhận ra mình đang ở trong một căn phòng kỳ lạ. Ánh sáng duy nhất là phát ra từ ngọn lửa cháy trong lò sưởi bằng đá khồng lồ ở cuối phòng. Bên cạnh lò sưởi là một lão già ngồi trên xe lăn. Những sợi tóc trắng, mòng te hờ hững lòi ra khỏi cái nón lưỡi trai bằng len đỏ; và bên dưới vành nón, khuôn mặt xương xẩu của lão già nhô ra như một cái đầu lâu, cặp mắt lão đen và sâu hoắm, gò má lõm, đôi môi mỏng đến độ gần như không có, tuy nhiên, cái miệng khủng khiếp của lão mỉm cười khi Billy bước vô.
“Lại gần đây, Billy Raven.” Lão già ngoắc một ngón tay dài và cong vẹo.


Billy nuốt nước miếng và tiến lại gần. Hơi nóng trong phòng thật ngột ngạt, và Billy không thể tưởng tượng nổi tại sao lão già còn choàng một chiếc khăn len quanh vai. Nó tiến vài bước vô giữa phòng và dừng lại. May Phúc lịch bịch đi ngang qua nó và nằm xuống cạnh lò sưởi, thở ầm ĩ.
“Trong này nóng quá, thưa ông,” Billy vừa nói vừa há miệng đớp không khí.
“Rồi con sẽ quen thôi. Con cún của ông mê lò sưởi, phải thế không, Thương Hại?” Lão già cười hềnh hệch, đầy vẻ âu yếm với con chó, mặc dù cái cười của lão y như một tiếng rú.
“Cháu tưởng đây là con chó của bà bếp trưởng chứ, thưa ông.”
“Nó cứ nghĩ nó là con chó của bà bếp, bởi vì ông không dẫn nó đi dạo được nữa. Phải vậy không, Thương Hại?”
“Nó nói với cháu tên nó là May Phúc.” Billy liền tiến thêm một chân vô phòng.
“Tên nó là Percival Pettigrew Pennington Pitt, ta gọi là Thương Hại. Nhưng nó cứ nghĩ tên nó là May Phúc.”
Lão già cười khọc khọc.
“Con muốn uống sữa ca cao không, Billy?”
Billy chưa bao giờ uống sữa ca cao cả. Nó không biết món ấy có mùi vị ra sao.
“Món đó nóng và ngọt và cho con cảm giác tuyệt vời.”
Một lần nữa, ngón tay cong vẹo của lão già lại ngoắc một cái.
“Có một xoong sữa đang hâm nóng trên lửa ấy. Và trên cái bàn con của ông ở đằng kia, con sẽ thấy có hai cái ca màu xanh da trời đựng ca cao và đường, đã được trộn rồi. Con chỉ việc đổ sữa vô đó và khuấy đều, sau đó chúng ta sẽ có một cuộc trò chuyện nho nhỏ thú vị, được chứ, Billy?”
“Vâng,” Billy líu ríu đáp.
Nó thực hiện lời chỉ dẫn của lão già, và chẳng bao lâu sau, nó đã ngồi trên một chiếc ghế to, thoải mái, thích thú thưởng thức tách ca cao đầu tiên trong đời.
Lão già uống xì xụp vài ngụm rồi nói:
“Bây giờ thì, Billy à, ông nghĩ là con đang tự hỏi ông là ai. Ông là Bloor Cụ Kỵ. Ha ha!”
Tiếng cười nhạo đó nghe thật bệnh hoạn.
“Nhưng ông cũng là Ezekiel. Con có thể gọi ông là ngài Ezekiel,” lão nói tiếp.
“Cám ơn ông,” Billy nói.
“Tốt! Tốt! Nào, Billy,con đang có vấn đề, đúng không? Chưa ai nhận nuôi con, hả? Không ai nhận con. Thật đáng tiếc quá nhỉ? Con có muốn được nhận làm con nuôi không, Billy? Con có muốn có ba mẹ dễ thương, tử tế và vui vẻ không?”
Billy nhổm dậy.
“Mún!” Nó hấp tấp.
Dường như có một thoáng chớp nhỏ trong đôi mắt sâu hoắm của lão già.
“Rồi con sẽ được như vậy, Billy à. Ông đã kiếm được cha mẹ cho con rồi. Họ là những người tuyệt vời và rất, rất mong đón con về.”
“Thật chứ?” Billy gần như không tin nổi điều đó. “Nhưng làm sao họ lại biết cháu?”
“Chúng ta đã nói cho họ biết mọi chuyện về con. Họ biết con thông minh như thế nào, con là đứa ngoan ngoãn ra soa, và họ đã xem hình của con lưu ở trường.”
“Vậy là họ đã biết về… “ Billy sờ sờ mái tóc trắng của nó.
Lão Ezekiel thảy một nụ cười nham hiểm.
“Họ biết con là đứa bị bạch tạng, và điều đó chẳng làm họ lo lắng tí nào.”
“Ôi,” Billy cảm thấy ngây ngất vì vui sướng. Nó húp một ngụm dài món sữa ca cao ngọt ngào, béo ngậy để ổn định tinh thần.
Lão Ezekiel bây giờ đang chằm chằm nhìn nó.
“Billy này, nếu bọn ta sắp xếp cho con vụ làm con nuôi, thì mong con sẽ làm gì đó để đền đáo cho bọn ta.”
“Cháu hiểu,” Billy ngập ngừng đáp.
“Con vừa có một đứa bạn mới, phải không? Một thằng nhóc trong phòng ngủ chung của con tên là Charlie Bone ấy?”
Giọng nói của lão rất ân cần và nhẹ nhàng, và Billy được trấn an một lần nữa.
“Dạ,” nó đáp.
“Ông muốn con nói cho ông nghe tất cả những việc nó làm – nó đi đâu, nói chuyện với ai, và quan trọng hơn cả là nó nói những gì. Con nghĩ là con có thể làm được những điều này không?”
Lão già chồm về phía trước, chăm chú nhìn Billy bằng đôi mắt đen sắc lạnh.
“Được ạ,” Billy lí nhí. “Cháu sẽ đến ở nhà anh ấy vào kỳ cuối tuần tới, nếu cháu được phép.”
“Con sẽ được phép, Billy. Sẽ rất tuyệt. Và bây giờ con có thể nói cho ông mọi thứ mà con đã biết về nó cho tới lúc này đi nào.”
Với diễn cảnh được mãi mãi sống với ba mẹ tử tế và tuyệt vời, Billy hăm hở nói với lão già tất cả mọi thứ mà lão muốn biết. Nó không nghĩ làm như thế sẽ gây nguy hiểm cho Charlie, và thậm chí nó còn thú nhận phần của nó trong vụ bí mật theo dõi giáo sư Bloor trong tháp Da Vinci. Lão già nhăn mặt khi nghe tới điều này và lầm bầm chửi trong cổ họng; nhưng lão nhanh chóng lấy lại vẻ ân cần quan tâm, trong lúc Billy tiếp tục kể tỉ mỉ tất cả những chi tiết nó còn nhớ được. Duy có một điều về Charlie mà nó không nói với lão già. Nó không nói với lão rằng Charlie biết ba mình vẫn còn sống, chỉ vì chính nó đã không nghe được cuộc nói chuyện giữa Gabriel với Charlie về chiếc cà vạt xanh da trời.
“Cám ơn nhé, Billy,” lão già nói khi Billy kể xong. “Bây giờ con đi được rồi. Con chó sẽ đưa con về phòng ngủ chung. Thương Hại, dậy đi!”
May Phúc chớp mắt và lảo đảo đứng dậy.
Billy nhẹ nhàng tuột khỏi cái ghế ấm áp, dễ chịu và đặt cái ca không lên bàn. “Khi nào thì con được gặp ba mẹ mới của con hả ông?” Nó hỏi.
“Mọi việc sẽ đâu vô đấy. “ Giọng nói của lão già chẳng còn chút nồng hậu nào. “Con phải làm đúng nhiệm vụ của con trong vụ thỏa thuận đều tiên này đã.”
“Vâng, thưa ông.”
Với May Phúc đang thở khọt khẹt bên cạnh, Billy đi ra cửa, quay lại và nói:
“Chúc ông ngủ ngon. Khi nào thì con…”
“Chừng đó con chó sẽ mang tin đến.”
Lão Ezekiel vội tiễn nó bằng một cái vẫy tay thiếu kiên nhẫn.
Khi chỉ còn một mình, lão già chỉ ngón tay bị biến dạng của mình vô cái xoong. Cái xoong từ từ nhấc lên không trung, lão lại ra hiệu, cái xoong bay nhẹ nhàng về phía cái ca không.
“Rót vô,” lão ra lệnh.


Cái xoong ngả về phía trước và rót sữa ấm vô ca, nhưng lại để nhỏ vào giọt lên cái khăn choàng len của lão.
“Đồ ngu.” Lão Ezekiel la lên. “Mày mãi vẫn không học được sao?”
Căn phòng nóng bức dường như đã làm con May Phúc kiệt sức. Phải mất một lúc lâu con chó mới về đến phòng ngủ chung, và vào lúc cây đèn pin của Billy bị cạn sạch nhiên liệu, nó đành phải đi bên cạnh, một tay để lên đầu con chó già. May Phúc biết đường đi ngay cả trong bóng đêm tối mịt và chỉ dừng lại một lần để nói.
“Tai tôi đau, đừng đụng vô.”
“Xin lỗi,” Billy nói.
“Cần thuốc nhỏ tai.” May Phúc thì thào. “Billy có không?”
Billy không biết làm thế nào mà moi được thuốc nhỏ tai.
“Để coi,” nó trả lời.


Về đến phòng ngủ chung, chúng thấy bà bếp trưởng đang lo lắng đi đi lại lại ở ngoài. Bà thấp tròn, mái tóc xám và đôi má hồng đỏ lên. Đúng hình mẩu của một bà bếp trưởng.
“Nãy giờ ta chạy kiếm con chó ấy khắp nơi,” bà bếp trưởng nói. “Phải xức thuốc cho nó.”
“Nó nói là nó cần thuốc nhỏ tai,” Billy nói với bà.
“Vậy hả?” Bà bếp trưởng biết mối quan hệ của Billy với May Phúc. “Nó thì bộ phận nào mà chẳng cần nhỏ thuốc? Nãy giờ con ở đâu vậy, cu Billy?”
“Con vừa phải đi gặp một ông già.”
“Tội nghiệp,” bà bếp trưởng thở dài một cách tử tế. “Nếu ta là con thì bây giờ ta sẽ đi ngủ ngay.”


Billy chúc bà bếp trưởng và May Phúc ngủ ngon rồi lên gi.ường. Nó nằm thao thức một hồi lâu, cố hình dung xem ba mẹ mới của nó như thế nào.
 
Thật sung sướng khi thức dậy vào sáng chủ nhật mà biết rằng nội Bone vẫn còn say ngủ. Charlie nhảy ra khỏi gi.ường và đi xuống ăn một bữa sáng thỏa thích với ngoại Maisie và mẹ.
“Ngoại tin chắc là dạo gần đây con có vài bữa điểm tâm chẳng ra gì, đúng không?” Ngoại Maisie hỏi.
“Năm bữa ạ,” Charlie đáp. Nó xin phép bà và mẹ là nó sẽ tới nhà Benjamin hơi lâu lâu, và để đền bù cho khoảng thời gian đó, nó sẽ rữa dĩa sau bữa điểm tâm.


Nhưng mẹ không muốn nó làm như vậy.
“Con cứ đi, vui vẻ thoải mái vô,” mẹ nó nói, tươi cười vẫy tay tạm biệt nó.


Benjamin trông có vẻ lo lắng khi ra mở cửa cho Charlie.
“Mình vừa nhận được thư của ba má,” nó bảo.
“Mình tưởng ba má bồ ở nhà chớ,” Charlie ngạc nhiên.
“Mình cũng tưởng vậy. Nhưng có lẽ ba má đã đi hồi sớm nay. Mình nhớ mang máng là má có vô hôn mình khi trời vẫn còn tối. Khi thức dậy, mình thấy bức thư này dưới gối.” Benjamin dẫn Charlie vô bếp, nơi con Hạt Đậu đang xơi nốt món bánh đa rắc bắp.
“Mình đọc thư được không?” Charlie hỏi.


Benjamin đưa bức thư cho Charlie. Rõ ràng là bức thư được viết vội, vì nét chữ xổ ào ào trên trang giấy, với những dòng móc nguệch ngoạc dính vô nhau. Lá thư viết:


Benjamin yêu quí của ba má,
Như con đã biết, ba má là những thám tử tư. Dạo gần đây ba má đang cùng điều tra chung một vụ án. Đó là vụ một người lâu cửa sổ bị mất tích. Vụ này đã ngốn hết thời gian của ba má, làm cho ba má mệt nhoài, và ba má rất tiếc, Benjamin yêu quý, là ba má thường phải để con ở nhà một mình. Ba má sẽ đến bù cho con khi về nhà.


Đây là lý do ba má viết lá thư này. Vụ mất tích kỳ lạ của người lau cửa sổ vừa chuyển sang một bước ngoặt đầy lý thú. Ba má vừa nhận được thông tin là anh ta có thể đang bị mắc kệt trong một cái hang ở Scotland, vì thế ba má sẽ tới đó ngay tức khắc, trước khi anh ta biến mất lần nữa.


Hãy tự chăm sóc mình nhé, Benjamin yêu.
Thương con nhiều.
Ba má


Tái bút: Một phụ nữ dễ mến do dịch vụ xã hội gởi tới sẽ trông nom con cho đến khi ba má trở về.


“Mình không thích cái đoạn nói về người phụ nữ dễ mến,” Charlie nhận xét khi đã đọc xong lá thư. “Từ ‘dễ mến’ có thể hiểu theo nhiều cách của mỗi người.”
“Miễn bà ấy tốt với con Hạt Đậu là được rồi, mình không quan tâm,” Benjamin nói, vẻ thờ ơ.


Hai thằng quyết định đến nhà cô Ingledew ngay tức khắc. Benjamin đã cẩn thận sang thêm một cuộn băng, đề phòng trường hợp Manfred xuất hiện bất ngờ để lục soát chúng, hoặc điều gì đó khủng khiếp tương tự xảy ra. Nó cũng đã đầy một chiếc va-li to xuống tần hầm, và thảy một tấm thảm lên trên, để bất cứ ai lùng sục kiếm cái thùng của tiến sĩ Tolly sẽ bị đánh lức mất một lúc.
“Chắc là bồ phải tất bật lắm nhỉ,” Charlie trầm trồ thán phục.
Với sự dẫn đường của con Hạt Đậu, hai đứa xuất phát, tới hiệu sách. Vì là ngày chủ nhật nên chúng thấy hiệu đóng cửa (tất nhiên rồi), nhưng sau vài tiếng gõ cửa và vài lần gọi thật lớn, cô Ingledew đã ra. Cô mặc một chiếc áo choàng màu xanh lá cây, và trông cô buồn rười rượi.
“Các cháu muốn gì?” Cô hỏi. “Trời đất ơi, hôm nay là sáng chủ nhật mà.”
“Cháu xin lỗi, cô Ingledew,” Charlie nói.


Nó báo cho cô biết về cuộn băng chúng đã tìm thấy trong con chó kim loại.
“Nó rất có ý nghĩa đối với cô đấy,” nó nói. “Vì thế tụi cháu mang nó tới cho cô đây. Nó sẽ nói cho cô biết tất cả mọi điều về cháu gái của cô. Cô bé đang ở trong Học viện, và tụi cháu nghĩ mình có thể đánh thức bạn ấy.”
“Đánh thức bạn ấy? Các cháu đang nói về cái gì vậy? Đi vô đây đã, cả hai đứa.” Cô liếc con Hạt Đậu. “Nó không ăn sách đấy chứ?”
“Không bao giờ,” Benjamin cam đoan.


Chúng theo cô Ingledew đi qua tấm rèm và vô phòng khách ấm cúng, nơi sách xếp thành hàng, con Hạt Đậu chú ý thật cẩn thận để không làm đổ những chồng sách nhỏ nằm rải rác trên sàn.


Cô Ingledew nhét cuộn băng vô một chiếc máy ghi âm đầy bụi bặm và ra hiệu cho hai đứa ngồi xuống. Chúng ấn mình vô chiếc ghế bành duy nhất còn trống (những ghế khác đều chất đầy ắp sách và báo), trong lúc cô Ingledew ngồi ghé vô một bên cạnh bàn. Cô bấm nút cho băng chạy và giọng nói của tiến sĩ Tolly vang vang khắp căn phòng.


Hai đứa quan sát nét mặt cô Ingledew khi cô lắng nghe. Nhiều lần cô lắc đầu và thường xuyên quệt tay ngang mắt. Chốc chốc, cô lại thốt lên “Ồ, không,” và cuối cùng, khi băng đã hết, cô nghẹn ngào:
“Có nhớ rất rõ ngày hôm đó. Có một điều rất lạ lùng đã xảy ra – đúng lý cô phải đoán ra mới phải.”
“Là điều lạ lùng gì ạ?” Charlie hỏi.
“Mấy con mèo,” cô Ingledew đáp.
“Mèo à?” Charlie bật dậy.
“Cô không biết chúng ở đâu tới, nhưng vào cái ngày bé Emma phải đi, thì chúng đột nhiên xuất hiện trong nhà bếp. Chúng làm lửa bùng lên bằng cách hất cho một chiếc khăn lau dĩa rớt vô bếp ga. Phải mất một hồi mới dập được đám cháy đó. Bộ lông của chúng rất rực rỡ - đỏ, cam, vàng – và chúng cứ vây tròn quanh đứa bé, cứ như cố gắng bảo vệ nó vậy. Cuối cùng, khi tiến sĩ Tolly bồng đứa bé đi, chúng cào vô mặt chú ấy một vết kinh khủng.”
“Một trong mấy con mèo đó có trong bức hình,” Charlie nói.
“Cô dám chắc đó chính là nó,” cô Ingledew công nhận. “Lúc trước chúng lảng vảng khắp nơi. Nhưng khi Emma đi rồi thì chúng biến mất luôn.” Cô xoa trán. “Vậy là bé Emma tội nghiệp vẫn còn bị mê ngủ. Điều này thật hết sức không bình thường.”
“Bạn ấy bị thôi miên,” Charlie nói. “Manfred cũng đã làm như thế với cháu. Có điều hắn thôi miên bạn ấy nặng hơn. Nhưng sức thôi miên đang mất dần tác dụng, cô Ingledew ạ. Cháu nghe bọn họ nói chuyện về cháu gái của cô, Manfred nói rằng nó đã chán ngấy vì cứ phải ‘kìm giữ con bé’ . Như vậy sẽ không phải mất nhiều công sức để làm bạn ấy tỉnh lại đâu cô ạ, và tụi cháu nghĩ là tụi cháu có một thứ để làm được điều đó.”
“Nhưng hiện giờ Emma là ai trong trường cháu, Charlie?”
“Tụi cháu nghĩ đó là một nữ sinh tên là Emilia Moon,” Charlie nói. “Bạn ấy có mái tóc vàng hoe, mắt xanh, trông hơi mơ màng. Bạn ấy ít nói nhưng vẽ rất giỏi.”
“Nancy,” cô Ingledew thì thào. “Nghe tả thì con bé vẻ giống chị Nancy của cô quá. Ồ, ước gì cô có thể gặp con bé ấy.”
“Cô cứ để chuyện đó cho tụi cháu, cô Ingledew à,” Charlie nói, nhỗm đứng lên. “Tụi cháu sẽ tìm cách làm bạn ấy tỉnh lại, rồi bạn ấy có thể về sống với cô.”
Cô Ingledew thở gấp gáp.
“Cô nên làm điều đó không? Biết đâu con bé đang hạnh phúc khi sống với gia đình Moon.”
“Trông bạn ấy có vẻ không vui.” Charlie ái ngại. “Chắc chắn bạn ấy còn không biết là bạn ấy biết bay nữa.”
“Đúng thế ạ,” Benjamin xác nhận. “Ước gì cháu cũng biết bay.”
“Cô nghĩ thật khó có chuyện Emma biết bay. Tiến sĩ Tolly trước đây không bao giờ đề cập đến chuyện này.” Cô Ingledew búng mình ra khỏi bàn. “Cô không biết phải cám ơn cháu thế nào cho đủ, Charlie, và cả cháu nữa, Benjamin,” cô xúc động, “Các cháu đã mang hy vọng đến cho cô. Hãy cho cô biết khi nào thì các cháu cần cô giúp nhé.”
“Nhất định rồi,” Charlie nói.
Nó vừa liếc thấy một mảnh thủy tinh nhỏ xíu lấp lánh trên tóc cô Ingledew, và phân vân không biết làm sao để đề cập đến vụ nổ bóng đèn không may kia. Nó phải nói thôi, vì Ông cậu Paton. Nhưng con Hạt Đậu đang sủa ầm ĩ và chúng đã đi qua tấm rèm, hướng ra cửa.
Charlie đột ngột đứng lại, hắng giọng và nói:
“Về Ông cậu của cháu, thưa cô Ingledew…”
Mặt cô Ingledew đỏ ửng lên.
“Cô không muốn nói đến chuyện đó.”
“Nhưng đó là một tai nạn.”
“Tai nạn à? Thật xấu hổ chưa từng thấy.”
“Ý cháu muốn nói tới vụ bóng đèn, cô Ingledew à. Ông cậu của cháu không thể kiểm soát được mình.”
“Bóng đèn?” Cô Ingledew không hiểu. “Ông ấy đột ngột bỏ cô lại, ừm, nói chính xác là bỏ chạy. Ai cũng có thể nghĩ cô là một bà chằn.”
“Không phải đâu ạ. Hoàn toàn ngược lại. Chính vì Ông cậu của cháu nghĩ cô rất đẹp nên mới xảy ra chuyện đó.”
Nhìn vẻ bối rối của cô Ingledew., Charlie sốt sắng đi thẳng vô vấn đề và nói toẹt ra sự thật về thiên khiếu kỳ dị của Ông cậu nó.
Cô Ingledew sững người nhìn Charlie, ban đầu không tin, sau thì kinh hãi. Cuối cùng, một thoáng lo lắng hiện ra trên nét mặt cô.
“Ra là thế,” cô lầm bầm. “Thật kỳ dị.”
“Ông cậu thực lòng rất muốn gặp lại cô,” Charlie nói tiếp, tràn trề hy vọng.
“Hừm,” cô Ingledew ậm ừ. “Bây giờ cô cảm thấy hơi mệt, các cháu à.”
Cô mở cửa và hai đứa ngoan ngoãn bước ra. Cánh cửa đóng chặt lại sau lưng chúng.
“Mình không biết Ông cậu của bổ đã làm những chuyện đại loại như vậy,” Benjamin nói.
“Đừng nói với ai nhé,” Charlie dặn dò. “Đáng ra mình không nói với cô Ingledew đâu, nhưng Ông cậu Paton tha thiết muốn gặp lại cô Ingledew, vì thế mình nghĩ tốt nhất là nói ra sự thật.”
“Mình lại nghĩ điều đó làm cô ấy sợ chết khiếp,” Benjamin nói. “Giờ tụi mình ghé nhà anh Fidelio đi. Lẹ lên. Mình có bản đồ đây.”
Benjamin và con Hạt Đậu chạy đua với nhau ở phía trước, trong khi Charlie đủng đỉnh theo sau, cảm thấy chuyện giữa cô Ingledew và Ông cậu nó thật bi đát. Xem ra nó đã làm cho tình hình thậm chí còn xấu hơn.
Nhà của Fidelio trông thật lạ mắt, hay nói chính xác hơn, thật là lạ tai. Đó là một ngôi nhà cũ, rộng rãi, may mắn thay, nắm biệt lập giữa một quảng trường rải sỏi. Cái gọi là vườn chỉ là những mảng cỏ lưa thưa chung quanh nhà, trồng bên trông một bức tường thấp bằng gạch.
Khi Benjamin và Charlie đến nơi, tiếng ồn từ trong nhà phát ra khủng khiếp đến nỗi chúng nhìn thấy mấy cái xà bằng gỗ sồi đỡ mái hiên rung lên, và hai viên ngói tuột khỏi mái nhà rồi vỡ vụn dưới lối đi lát gạch.
Tiếng ồn hợp thành từ nhiều loại nhạc cụ - nổi bật là tiếng vĩ cầm, tiếng hồ cầm, tiếng sáo, tiếng thụ cầm, và tiếng dương cầm. Một tấm biển đồng gắn trên cửa cho chúng biết nơi này được gọi là Mái Ấm Gia Đình Guun. Khi nghe tiếng trống không ngớt dội ra từ một cửa sổ thấp, hai thằng nghĩ, thật đúng là súng nổ đùng đoàng.
Charlie tự hỏi không biết làm thế nào mà người trong nhà nghe được chuông cửa. Và ngay lập tức, nó vỡ lẽ ra: khi nó nhấn chuông, một giọng nói được thu âm cất lên oang oang “MỞ CỬA! MỞ CỬA! MỞ CỬA!”
Hai đứa giật nảy người ra sau, và con Hạt Đậu tru lên một tràng dài sợ hãi. Mấy giây sau, Fidelio ra mở cửa, Charlie và Benjamin nhận ra mình đang bước vô một vương quốc âm nhạc. Trẻ con rần rần chạy ngược xuôi trên cầu thang, ra vô khắp các phòng, tay đứa nào đứa nấy cầm bãn nhạc hoặc rất nhiều loại nhạc cụ.
“Đây là… ý em là tất cả những người này đều thuộc gia đình anh à?” Charlie ngạc nhiên hỏi.
“Hầu hết,” Fidelio trả lời. “Gia đình anh có mười người, tính cả ba và mẹ. Còn đây là mấy người bạn yêu nhạc của nhà anh ghé chơi. Anh cả Felix của anh đang bắt đầu thành lập một ban nhạc rock.”
“Hầu hết,” Fidelio trả lời. “Gia đình anh có mười người, tính cả ba và mẹ. Còn đây là mấy người bạn yêu nhạc của nhà anh ghé chơi. Anh cả Felix của anh đang bắt đầu thành lập một ban nhạc rock.”
Một người đàn ông to lớn, có râu quai nón băng ngang qua chiếu nghỉ trên đầu cầu thang, và Fidelio gọi với theo:
“Ba ơi, đây là Benjamin, còn đây là Charlie!”
Ông Gunn tươi cười nhìn xuống lũ trẻ và hát to lên:
“Benjamin và Charlie, ăn lúa mì, chào mừng cả hai con, tuy chẳng có chi.”
Ông cười ha ha rồi biến mất vô một căn phòng tràn ngập tiếng vĩ cầm.
“Xin lỗi néh,” Fidelio phân bua. “Ba anh thích chuyển tất cả mọi thứ thành bài hát. Anh đã cất cái thùng vô căn phòng ở trên tầng cao nhất rồi. Đi nào.”
Rồi nó dẫn hai đứa bạn và con Hạt Đậu run lẩy bẩy lên cầu thang, đi ngang qua những cánh cửa rung lên bần bật vì âm thanh. Căn phòng của ban nhạc rock khiến Hạt Đậu rên lên thật thê thảm. Benjamin phải lấy cả hai tay bịt tai nó lại. Bất cứ khi nào đi ngang qua một đứa trẻ tóc sáng và có tàn nhang giống như Fidelio thì cu cậu lại giới thiệu:
“Đây là Benjamin, còn đây là Charlie,”
Và hai thằng bé sẽ được cháo đón bằng nụ cười rạng rỡ cùng với lời “Xin chào” hoặc “Chào”, hoặc “Rất hân hạnh gặp hai em.”
Sau cùng, chúng đã đến một cánh cửa ở nơi chót vót của căn nhà, và Fidelio dẫn hai đứa vô một căn phòng đầy ắp, như muốn nứt ra vì những thùng đựng nhạc cụ đủ mọi kích cỡ.
“Đây là ‘nghĩa trang’ dành cho nhạc cụ,” Fidelio giải thích. “Là nơi nhà anh cất giữ tất cả mọi thứ bị gãy vỡ, để một ngày nào đó sẽ sửa chúng lại.”
Nó kéo cái thùng dài đựng mộc cầm ra ánh sáng, cậy nắp và nhấc cái thùng kim loại của tiến sĩ Tolly ra ngoài.
“Tụi mình mở nó ra nhé?” Fidelio vừa hỏi vừa đặt cái thùng xuống sàn nhà.
Đột nhiên Charlie cảm thấy hoang mang. Nó vừa không thể chờ nổi giây phút mở ra xem trong thùng có cái gì, tuy nhiên, nó lại hơi sờ sợ. Ông cậu Paton chẳng đã đề nghị nó khi mở thùng thì phải để ông có mặt, để giúp đỡ nếu có gì đó không ổn hay sao? Nhưng cái gì có thể không ổn được trong một ngôi nhà thân thiện và ồn ào như thế này cơ chứ? Sẽ không ai nghe được những âm thanh mà tiến sĩ Tolly đã chế ra; và nếu có chăng nữa, thì họ cũng sẽ chẳng nghĩ gì về ch.uyện ấy cả.
“Được rồi,” Charlie nói.
“Bồ mở đi, Charlie,” Benjamin giục.
Charlie bước về phía trước và quỳ xuống cạnh cái thùng. Bây giờ nó có thể nhìn rất rõ các chữ: MƯỜI HAI TIẾNG CHUÔNG CỦA TOLLY. Đầu tiên nó sờ vô mẩu “M”, ấn nhẹ nhưng dứt khoát. Tiếp đến là chữ “U”, đến đây thì Charlie nhận thấy nó không thể dừng lại được nữa. Quá sức là dễ dàng. Nó ấn từng chữ, từng chữ một, và khi nó ấn ký tự cuối cùng, là “Y”, một tiếng vỗ nhẹ phát ra từ bên trong nắp thùng.
Charlie lẹ làng đứng lên và lùi lại vài bước.
Với một tiếng “rắc” thật lớn,nắp thùng bung ra sau, và một bức tượng người bắt đầu nhô lên khỏi cái thùng.
Chắc chắn đây không phải là những gì Charlie mong đợi. Nó đã tưởng tuong75 tổ tiên của tiến sĩ Tolly phải là một cụ già, mặc đồ nhung. Trong khi hình nhân bật ra khỏi cái thùng này là một hiệp sĩ. Những ánh tay và cẳng chân của chàng ta được bọc trong áo giáp sáng lóa, gồm những vòng kim loại xâu chuỗi vô nhau, và trên đầu chàng đội một cái mũ trùm chóp phẳng, cũng bằng những vòng kim loại xâu lại. Có một khoảng giáp hở ở mặt, nhưng cũng chỉ nhìn thấy được có mắt và mũi. Thật là một cảnh tượng kỳ lạ và đầy ma lực – cái hình người oai dũng, thanh cao và sáng lóa này bật dậy như một bông hoa nở nhanh. Đáng sợ nhất là thanh gươm sáng loáng trong tay phải của hiệp sĩ.
Khi bức tượng đã đạt đến hết chiều cao của nó, thì thình lình, chàng hiệp sĩ vung gươm lên, cả ba thằng bé và con chó cùng nhảy vội ra sau, cùng với những tiếng kêu, tiếng hét và tiếng sủa đầy giận dữ. Khi chúng yên lặng rồi, thì ở đâu đó bên trong hiệp sĩ, một hồi chuông bắt đầu ngân lên. Một, hai, ba… tiếp tục… và trong lúc tiếng chuông ngân vang, thì một dàn đồng ca tông trầm cất lên một bài thánh ca nghe có vẻ rất cổ.
“Tiếng La tinh đó,” Fidelio thì thầm. “Anh đã nghe người ta tập hát bài này trong nhà thờ lớn.”
Bất giác, Charlie hiểu ra việc tiến sĩ Tolly đã làm. Ông đã sử dụng những âm thanh từng bao bọc xung quanh bé Emma Tolly vào đúng lúc cô bé bị thôi miên – hoặc bị yểm bùa. Tiến sĩ Tolly tin là những âm thanh này có thể sẽ đánh thức con gái mình dậy, và nếu như cô bé không thể nhớ ra mình là ai, thì chí ít, khi nghe những âm thanh này, cô bé cũng sẽ mang máng nhận ra được rằng đã có điều gì đó xảy ra với mình.
Hồi chuông bên trong người hiệp sĩ sáng chói rung lên lần thứ mười hai. Chàng hiệp sĩ hạ gươm xuống và bắt đầu chìm trở vô cái thùng.
Thật kỳ lạ khi nhìn cái cách chàng hiệp sĩ hạ người và thu nhỏ lại – chàng cúi oặt đầu và gieo mình xuống, cho tới khi nằm gọn gàng trong chiếc gi.ường bọc vải lụa, bây giờ chàng không dài gì hơn chiều dài của thanh gươm sáng loáng.
“Chao!” Benjamin kinh ngạc.
“Tuyệt vời!” Fidelio thốt lên.
“Mình thắc mắc không biết cái thứ này có đúng là sẽ làm Emilia tỉnh lại được hay không,” Charlie lẩm bẩm.
Fidelio vẫn còn lắc đầu không tin.
“Cách nào mà ông ấy làm được như thế nhỉ?” Nó lẩm bẩm. “Vị hiệp sĩ đó làm bằng thứ gì vậy?”
“Gương mặt trông rất thật,” Benjamin nhận xét. “Mắt sáng quắc luôn.”
“Bằng thủy tinh,” Charlie nói. “Phần còn lại là một loại hợp chất nào đó.”
Nó nghĩ đến những mảnh tượng kim loại quái đản trong xướng của giáo sư Bloor.
“Mình cá là tiến sĩ Tolly đã đánh lừa gia đình Bloor trong nhiều năm: gửi cho bọn họ những rô bốt, tượng kim loại, với những bộ xương được tô màu, giả bộ như chúng có chứa bí mật đánh thức Emilia dậy. Để bọn họ đừng quấy nhiễu ông nữa. Nhưng cuối cùng họ cũng bắt được ông.”
“Họ chỉ bắt được ống ấy, chứ không lấy được Mười Hai Tiếng Chuông Của Molly,” Benjamin gật gù.
Charlie đóng nắp thùng lại.
“Anh nghĩ là nó sẽ an toàn ở đây cho đến cuối tuần sau chứ?” Charlie hỏi Fidelio.
“Tất nhiên. Nhưng tụi mình cần một bạn nữ giúp đỡ nếu tính đem Emilia đến đây.”
“Không lo,” Charlie nói chắc nịch. “Olivia Vertigo khoái mấy chuyện như thế này lắm.”
Ba đứa con trai quay trở về vương quốc âm nhạc, lần này chúng gặp bà Gunn, bà cũng có mái tóc sáng và mặt đầy tàn nhang y như những người khác tron gia đình. Bà đang mang một cây đại hồ cầm băng qua hành lang, nhưng liền dừng lại và âu yếm vỗ đầu từng đứa một khi chúng đi ngang.
Rời khỏi Mái Ấm Gia Đình Gunn, Benjamin và Charlie thẳng tiến về nhà số 9, nơi ngoại Maisie đã hứa về một bữa trưa linh đình đang chờ chúng.
Chẳng bao lâu sau, Charlie và vm đã ngồi trước gà quay, khoai tây, củ cải và nhiều loại rau củ đặc biệt khác mà mẹ Charlie mang từ tiệm rau quả về. Có ba món tráng miệng để mà lựa chọn và lũ nhóc chén cả ba: kim, bánh pút-đinh, bánh xoài hấp.
Ông cậu Paton nói vọng xuống là không thấy đói chút nào, thế là con Hạt Đậu lãnh phần của Ông cậu. Ngoại Maisie đắn đo không biết có nên chừa lại một chút thức ăn cho nội Bone hay không. Gần như chưa khi nào bà ấy nằm trên gi.ường lâu như vậy, ngoại Maisie nhận xét.
Charlie cười tủm tỉm.
“Sao ngoại không để Hạt Đậu xơi nốt đồ ăn còn lại cho rồi? Con đảm bảo nó muốn chén luôn phần của nội Bone đấy.”
Ngoại Maisie tán thành, và thế là con Hạt Đậu hăng hái dọn sạch phần ăn trưa thứ hai.
Benjamin ở lại tới bữa trà. Đó là lúc nội Bone thức dậy. Bà loạng choạng bước xuống lầu trong cái áo choàng xám.
“Chuyện gì thế này?” Bà gắt gỏng. “Đã bốn giờ rồi. Sao không ai gọi ta dậy?”
“Bà đang mệt mà, Grizelda,” ngoại Maisie trả lời. “Chúng tôi không muốn đánh thức bà.”
“Mệt? Mệt? Ta chẳng bao giờ thấy mệt cả,” nội Bone nổi cáu.
Benjamin và Charlie liền trốn ra vườn, ở đó chúng chơi tất cả những trò mà Hạt Đậu ưa thích. Sau một lúc thì mọi thứ dường như đều đã trở lại giống y chang những dịp cuối tuần ngày xưa, như thể không có gì thay đổi từ khi chúng gặp nhau lần đầu, lúc cả hai mới lên 5. Kể từ đó, Hạt Đậu đã bự con lên rất nhiều.
Nhưng, tất nhiên là đã có những đổi thay. Ngày mai Charlie phải trở về Học viện Bloor, và tối nay, một người hoàn toàn xa lạ sẽ đến chăm sóc Benjamin.
“Bồ có muốn mình đưa bồ về không?” Charlie hỏi khi bạn nó quyết định nên về nhà.
Benjamin lắc đầu.
“Không sao đâu mà,” nó trả lời. “Mình đã có con Hạt Đậu rồi.”
“Benjamin này, nếu có gì xảy ra trong lúc mình đi vắng… Ý mình là, nếu bồ cần giúp đỡ, thì cứ tới gặp Ông cậu Paton của mình nhé. Ông cậu không giống những người Yewbeam khác đâu. Ông cậu về phe mình.”
“Ừ,” Benjamin đáp.


Khi Charlie nhìn Benjamin và Hạt Đậu băng qua đường, nó chợt có cảm giác nhói lên ở bụng. Có gì đó bất ổn nhưng nó không nói được đó là cái gì.


Benjamin lên lên những bậc thang, tra chìa khóa vô ổ, bước vô căn nhà số 12. Bên này đường Charlie ngó trân trân vô cánh cửa đã khép lại à nghĩ phải chi lúc nãy nó đã cùng đi với bạn. Và rồi nó gạt Benjamin ra khỏi tâm trí, vì nó có điều cần phải nói chuyện với mẹ.


Nó tìm thấy mẹ trong phòng ngủ nhỏ xíu sau nhà. Hẳn là mẹ nó đã lánh ra đó để tránh những lời phàn nàn, bực dọc của nội Bone. Mẹ vỗ vỗ mặt gi.ường và Charlie nhảy lên ngồi giữa đống quần áo mẹ đang vá. Nó đợi cho đến khi mẹ đã yên vị trong chiếc ghế ưa thích – một trong những thứ ít ỏi từ căn nhà cũ mà mẹ nó có thể giữ lại – rồi mới kể với mẹ về lời nhắn nhủ kỳ lạ của tiến sĩ Tolly.


Vẻ kinh ngạc trên gương mặt mẹ Charlie chuyển thành xót thương khi Charlie thuật lại câu chuyện về Emma Tolly. Nó ước gì có thể làm mẹ mỉm cười bằng cách nói với mẹ là ba nó vẫn còn sống, nhưng nó lại chưa có bằng chứng. Đôi khi nó nghĩ rằng lá bùa đã ếm lên ba nó không chừng đã vươn ra, ếm luôn cả mẹ nó. Mẹ nó giờ sao mà im lặng quá, xa cách quá.


Một ngày nào đó, nó sẽ tìm thấy ba Lyell và sẽ cứu ba. Nhưng trước tiên nó phải cứu Emma Tolly cái đã. Và đó là điều Charlie có thể làm được. Tuần tối nó bảo đảm là Manfred sẽ không tìm ra cớ gì để phạt cấm túc nó. Nó sẽ cúi đầu xuống, như Ông cậu Paton, và vào thứ Bảy cả bọn sẽ tìm cách đem Emma Moon đến Mái Ám Gia Đình Gunn.


Khi Charlie nhẹ lướt ra khỏi phòng của mẹ, mẹ nó ngước nhìn và nói:
“Cẩn thận nhé Charlie. Đừng làm bất kỳ điều gì… nguy hiểm đấy.”
Charlie toét miệng cười và lắc đầu. Nhưng nó không hứa gí hết.
 
Nếu Charlie đi cùng Benjamin đến nhà số 12, thì những gì xảy ra đêm hôm đó có lẽ đã được ngăn lại. Nhưng ai có thể nói chắc được? Nói gì đi nữa thì nhà Yewbeam vẫn là một dòng họ đầy uy quyền.


Khi Benjamin và con chó của nó bước lên những bậc cấp dẫn tới cửa trước, con Hạt Đậu bỗng tru lên với vẻ bất an, và Benjamin tự hỏi con người “dễ mến” mà ba mẹ đã thuê đến trông nom nó kia có thể là ai.


Người và chó cùng nhau bước vô hành lang. Một cái túi đen điệu đàng đặt ở trước chân cầu thang, nhưng không có vẻ gì là túi của một bà bảo mẫu cả.
“Xin chào!” Benjamin tần ngần gọi.


Có ai đó từ trong bếp đi ra. Đó là một người cao, trang phục toàn màu đen, tóc xám búi trên đầu và những hạt ngọc trai to tròn đeo lủng lẳng ở tai. Bà ta không mang ủng đỏ, nhưng Benjamin biết ngay đó là ai. Hay đúng hơn, nó biết ngay bà này có liên quan đến bà mang ủng đỏ.
“Bác là…?” Nó không biết phải kết thúc câu hỏi như thế nào.
“Bác là người bảo mẫu của cháu, cháu à,” bà ta nói.
“Chứ bác không phải là…?”
“Phải. Bác là một trong những bà cô của Charlie. Như vậy càng làm cho mọi chuyện được thêm phần thoải mái dễ chịu hơn, đúng không? Cháu có thể gọi bác là Eustacia.”
“Cảm ơn bác,” Benjamin nói, lo lắng. “Có thực là ba mẹ cháu đã yêu cầu bác đến đây không?”
“Tất nhiên rồi,” bà ta đáp, có vẻ hơi bực mình. “Chứ không thì sao mà ta lại ở đây?”
“Tại cháu thấy hơi lạ…” Benjamin nói.


Bà cô Eustacia tỉnh queo trước câu nói đó. “Tốt hơn hết là cháu nên vô ăn tối đi,” bà ta nhỏ nhẹ. “Bác đã nấu một chút xúp nóng rất ngon.”
Benjamin theo bà ta vô bếp và kéo một chiếc ghế ra khỏi bàn. Hạt Đậu gừ một tiếng nhỏ và ngồi xuống bên cạnh Benjamin.
“Chó không được ở trong bếp,” bà cô Eustacia nhắc. Đoạn bà ta đổ một ít chất lòng, dinh dính màu nâu đang bốc hơi vô một cái tô và để trước mặt Benjamin.
“Suỵt!” Bà ta xùy con Hạt Đậu. “Ra ngoài!”
Hật Đậu nhe răng ra, gầm gừ.
Bà Eustacia lùi lại một bước.
“Một con chó mới kinh tởm làm sao!” Bà ta quàu quạu. “Benjamin, đuổi nó ra khỏi bếp ngay lập tức.”
“Cháu không làm thế được,” Benjamin nói. “Nó thích ăn cùng lúc với cháu.”
“Ha!” Bà Eustacia đùng đùng mở các tủ và tìm thấy một hộp thức ăn cho chó, bà ta xúc một ít vô cái tô có ghi chữ “CHÓ” và đặt cái tô ra ngoài hành lang.
“Giờ thì,” bà ta vừa ra lệnh, vừa vẩy một ngón tay vô mặt Hạt Đậu.
“Ăn đi!” Bà ta chỉ cái tô.


Con chó đảo tròn mắt và nép sát vô người Benjamin.


Benjamin quyết định rằng mới gặp thì tốt nhất là tránh cãi vã với bà Eustacia, nên nó cúi xuống con Hạt Đậu và nói, “Hạt Đậu, đi ăn tối đi. Tao không sao đâu.”


Hạt Đậu gầm gừ và lúp cúp đi ra ngoài hành lang, rồi đứng đó ồn ào đánh chén tô thức ăn cho chó. Benjamin ước gì mình có thể ăn thực phẩm của chó. Món do81 chắc chắn phải ngon hơn cái thứ xúp nâu gớm ghiếc này mà bà cô Eustacia mới múc cho nó.


Khi cuối cùng đã xoay xở tống được hết món xúp xuống họng, Benjamin bị hộ tống đến tận chân gi.ường.
“Mai còn đi học,” bà Eustacia bảo. “Tối nay cháu nên ngủ sớm đi.”
“Bác sẽ ngủ ở đây à?” Benjamin hỏi.
“Đương nhiên,” người phụ nữ trông cáu kỉnh trả lời. “Bác là bảo mẫu của cháu mà.”


Benjamin nhớ ra là nó cần phải giả bộ như “Mười Hai Tiếng Chuông Của Tolly” vẫn còn ở trong nhà.
“Tối này mày ngủ lại ở dưới này nhé,” nó bảo Hạt Đậu, rồi lấy cái ổ chó, đem đặt gần cửa tầng hầm.


Con Hạt Đậu có vẻ bối rối, nhưng rồi cũng vâng lời bước vô ổ của mình.
Benjamin chui vô gi.ường, nhưng nó nằm thức thao láo, chờ cho bà Eustacia lên lầu. Cuối cùng, khi đã chắc rằng bà đã lên gi.ường, nó rón rén đi xuống chỗ điện thoại trong hành lang và quay số của Charlie.
“Alô,” tiếng ngoại Maisie vuiv ẻ cất lên.
“Đây là…” Benjamin không dám nói gì thêm vì có một bóng đen đã xuất hiện ở trên đầu cầu thang.
“Cháu nghĩ là cháu đang làm gì vậy, hả?” Bà Eustacia hỏi lớn.
Bên kia đầu dây, giọng ngoại Maisie vẫn dồn dập:
“Alô! Alô! Ai đó?”
“Bỏ điện thoại xuống,” bà Eustacia ra lệnh.
“Cháu chỉ muốn gọi cho bạn cháu thôi mà,” Benjamin giải thích. Đúng lúc này con Hạt Đậu bắt đầu sủa vang.
“Gần nửa đêm rồi,” bà Eustacia quát. “Về gi.ường mau!”
“Dạ,” Benjamin đau khổ trả lời. Nó đặt điện thoại vô chỗ cũ và lê bước lên gi.ường.


Vào sáng thứ hai, Charlie phải rời nhà thật sớm. Chiếc xe buýt màu xanh da trời của Học viện dừng ở đầu đường Filbert, chính xác vào lúc 7 giờ 45 phút, sau đó nó phải mất thêm một tiếng nữa để đón các học sinh khoa nhạc từ khắp nới trong thành phố.


Vậy nên Charlie không gặp được Benjamin trước khi rời nhà, và chỉ nghe láng máng tiếng ngoại Maisie nói với theo, “Đêm qua Benjamin có gọi đến đấy. Bà nghĩ đó là Benjamin vì ba nghe có tiếng chó sủa.”


Phải đến khi ngồi trên xe buýt rồi thì Charlie mới nhớ lại lời ngoại Maisie, và nó tự hỏi không biết Benjamin muốn nói gì với nó đêm qua.
Nó tình cờ gặp Fidelio khi cả bọn đang chen chúc đi vô cổng Học viện. Chúng hẹn gặp nhau vào giờ ra chơi và sẽ nói chuyện với Olivia Vertigo.


Giờ thì Charlie không còn ngỡ ngàng như một nam sinh mới toe nữa. Hôm nay nó biết chính xác sẽ phải đi đâu và làm cách nào tìm ra các vật dụng. Buổi học nhạc với thầy Paltry-Kèn-Sáo không được suôn sẻ cho lắm, nhưng nó cũng đã cố gắng tránh bị phạt cấm túc, và thực ra thì nó cũng đã gắng cư xử cho đúng đắn trong tiết tiếng Anh.


Đến giờ giải lao, trong khu vườn mênh mông đầy sương mù, Charlie và Fidelio bí mật quan sát Olivia đang tán gẫu cùng với một nhóm con gái, trông đứa nào cũng thật kinh dị. Chúng bôi mặt trắng toát, mang ủng cao lênh khênh trông hết sức nguy hiểm, và cả bọn đều để tóc hoặc được tẩy trắng, hoặc nhuộm màu. Hôm nay tóc Olivia có màu chàm.


Charlie ngoắc tay ra hiệu cho Olivia, cô nàng liền băng băng bước qua bãi cỏ trong đôi ủng khổng lồ, đế dày cui và mũi bọc kim loại.
“Mình cá là Manfred sẽ bắt bồ cởi đôi giày đó ra,” Charlie lưu ý Olivia.
“Tớ sẽ cố tránh đường hắn,” Olivia bảo. “Thế, có gì mới không?”
“Đi dạo đi,” Fidelio đề nghị. “Để người ngoài khỏi nghĩ là tụi mình đang bày mưu tính kế.”


Với Olivia khật khưỡng đi ở giữa, hai thằng con trai lần lượt thuật lại những gì đã xảy ra trong dịp cuối tuần qua.
Olivia rất háo hức.
“Mấy người cần tớ mang Emilia đến Mái Ấm Gia Đình Gunn chứ gì?” Cô bé hỏi. “Con ấy sẽ không bao giờ chịu đi với một tên nào trong hai ấy đâu.”
“Đúng vậy!” Charlie nói.


Nó đã để ý thấy Billy Raven lẽo đẽo đi theo chúng ở phía sau, và tự hỏi không biết có nên nói cho thằng bé bạch tạng ấy những gì đang xảy ra hay không. Nhưng nó quyết định không nói. Bởi vì bây giờ, càng ít người biết bí mật của chúng càng tốt. Cuối tuần này Billy sẽ về nhà cùng với nó. Lúc đó cu cậu sẽ hiểu ra thôi.


Olivia đồng ý dành cả cuối tuần còn lại để kết bạn với Emilia, như thế nó có thể đến nhà Emilia vào cuối tuần.
“Sẽ không dễ đâu,” Olivia nói. “Bởi vì Emilia có vẻ hơi xa cách, mọi người biết ý tớ muốn nói gì rồi đấy. Nhưng tớ cho là nếu đã bị thôi miên thì chắc chắn sẽ thành như thế.”


Nói rồi Olivia sải bước đi luôn, chỉ vẫy tay chào một cái, để có thể dánh nốt hai phút cuối giờ giải lao với đám bạn gái “kinh dị” của mình.
Mãi đến khi vô căn-tin Charlie mới gặp Gabriel Silk. Cậu ta phóng ào tới chiếc bàn Charlie đang ngồi cùng Fidelio, làm đổ cả nửa ly nước vô dĩa khoai tây chiên.
“Xin chào!” Cậu ta hớn hở. “Mọi việc ổn cả chứ? Có cần tôi giúp gì không?”
“Bây giờ thì không, cám ơn anh,” Charlie trả lời.


Gabriel trông có vẻ hân hoan khác thường. Rõ ràng là cậu ra đang mặc toàn đồ mới hoặc đồ đem-lại-cảm-giác-hạnh-phúc. Charlie nhận ra Gabriel có thể là một người bạn hữu ích để kéo về phe mình. Nó bắt đầu nghĩ đến việc người nào về phe nó, người nào chống lại nó. Và nó tự hỏi, tại sao lại phải thế nhỉ?


Mãi đến giờ ăn tối nó mới thấy Manfred, nhưng thật vô cùng nhẹ nhõm cho nó, thằng già này chẳng đếm xỉa gì đến nó cả. Tuy nhiên, Asa vẫn phóng những cái nhìn ranh ma qua chiếc bàn dài. Bữa tối này giống ý hệt như bữa tối của thứ hai tuần trước: xúp, trứng, khoai tây chiên, và một trái lê.
“Lúc nào cũng y vậy,” Fidelio ngao ngán. “Ngày mai sẽ là xúp, xúc xích với khoai tây, bắp cải và một trái táo.”


Charlie ước gì nó có thể đổi tài nghe thấy tiếng nói của mình thành tài biến thức ăn dở thành thức ăn ngon. Nó nhắm mắt lại và giả bộ như có thể làm được. Nó nhận ra món trứng tráng mỏng nguội lạnh đúng là có ngon hơn.


Vì bây giờ đã biết đường đến phòng Nhà Vua nên nó nhận ra mình là người đầu tiên có mặt trong phòng. Hay gần như là vậy. Zelda và Beth đang chơi trò gì đó. Chúng không để ý đến Charlie. Zelda có nước da đen và trông cộc cằn; Beth to con và lực lưỡng với mái tóc xoăn nhạt màu. Chúng đang nhìn nhau trừng trừng ở hai đầu bàn. Ở giữa bàn, một cái hộp gỗ đựng bút chì đang di chuyển, lúc thì về hướng này, sau lại về hướng kia.


Charlie ngồi xen vô khoảng trống rộng rãi giữa hai đứa kia và ném tập vở cái “phịch” xuống bàn.
“Shhh!” Zelda suỵt.
Hộp bút chì vọt về phía con bé.
“Xin lỗi,” Charlie nói.
Hộp bút chì bay lơ lửng và rồi di chuyển về phía Beth. Con nhỏ gầm gừ, chằm chằm nhìn cái hộp, khiến nó quay về phía Zelda. Charlie nhận ra cả hai đều được có phép thuật giống hệt nhua: điều khiển đồ vật bằng ý nghĩ.


Bọn trẻ khác bắt đầu lục đục bước vô phòng, phá vỡ sự tập trung của hai đứa con gái. Tancred và Lysander cùng vô một lúc. Hôm nay Tancred cười tươi roi rói với Charlie. Tóc anh ra trông như càng bị nhiễm điện tợn, và Charlie nhận thấy mái tóc Tancred kêu răn rắc khi Tancred cố vuốt nó xuống.
“Khỏe không, Charlie Bone?” Lysander hỏi nó với nụ cười xởi lởi.
“Em khỏe, cám ơn,” Charlie mỉm cười đáp lễ.
“Câm mồm!” Zelda nổi cáu khi hộp bút chì nhay tót sang một bên, phóng vèo lên không trung rồi lộn phập xuống sàn nhà.
“Cái trò điên rồ,” Lysander nhận xét.
“Đó không phải là trò chơi.” Zelda quặc lại, trong khi nhặt hộp bút chì lên.


Charlie đã xoay được một chỗ ngồi cùng bên bàn với Manfred, cho nên nó sẽ không phải lo lắng gì nữa về cái nhìn chóng chọc khủng khiếp của Manfred. Ngồi từ đây, nó có thể quan sát Vua Đỏ tốt hơn nhiều, và trong giờ học nó nhận ra mình nhiều lần cứ ngó cham cham vô khuôn mặt tối, bí hiểm ấy. Việc này có một tác dụng lạ kỳ: làm lòng nó dịu xuống, và bài tập về nhà dường như trở nên dễ hơn nhiều so với bình thường. Và đúng vậy, nó đã làm xong đống bài tập trước khi chuông reng.


Fidelio và Charlie đã nhất trí với nhau là không được nói, dù chỉ thỉ thầm, bất cứ điều gì về Mười Hai Tiếng Chuông Của Tolly trong phòng ngủ chung. Billy cứ nhìn theo Charlie một cách lộ liễu, và ngay trước khi đèn tắt, nó đến đứng ở cuối gi.ường của Charlie.
“Cuối tuần này em đến nhà anh vẫn được chứ?” Billy hỏi.
“Tất nhiên,” Charlie bảo. “Mẹ anh nói được mà.”
“Và… và anh sẽ làm gì đó với Emilia Moon phải không?” Giọng Billy nghe có vẻ hơi run run.
Charlie đáp: “Anh chưa biết.” Nó thấy có gì đó không ổn ở Billy.


Billy lần vội về gi.ường khi tiếng “Tắt đèn” gầm lên. Một bàn tay hộ pháp vòng qua cánh cửa và nhấn công tắc đèn. Charlie tưởng tượng bà cô Lucretia đang rình rập dọc theo các hành lang, nghe ngóng ngoài các cánh cửa.


Cuối cùng, trước khi chìm vô giấc ngủ, nó bỗng nhớ đến lời nói của ngoại Maisie. “Đêm qua Benjamin có gọi đến đấy. Bà nghĩ đó là Benjamin vì bà nghe có tiếng chó sủa.”


Tại sao Benjamin lại gọi vào giờ trễ như vậy, và tại sao nó không nói gì hết? Và tại sao con Hạt Đậu lại sủa? Charlie ngủ thiếp đi trước khi có thể suy đoán ra mọi chuyện.


Benjamin chẳng hề ngủ được. Nó sẽ có một ngày cực kỳ không thoải mái đây. Trời lạnh và gió lồng lộng. Trong khi đi bộ từ trước về nhà, nó hình dung ra tất cả những món khoái khẩu, nóng sốt mà nó có thể nấu cho nó và Hạt Đậu: xúc xích, khoai tây chiên, phô mai hơ nóng, thịt gà viên, và chuối nướng vỉ. “Tuyệt! Tuyệt!” Benjamin tự nói với mình. Nó tạm quên bà Eustacia Yewbeam đi.


Nhưng bà ta kia kìa, đang đập xoong chảo rầm rầm trong nhà bếp của Benjamin, như thể đang chuẩn bị một bữa đại tiệc, chứ không phải là một chén xúp không ra gì. Khi Benjamin đòi ăn xúc xích, bà ta liếc nó một cái thật sắc và nói:
“Để làm gì nào? Bây giờ không phải là Giáng sinh.”
Hật Đậu phóng ra khỏi ổ, sủa mừng rỡ và liếm khắp người Benjamin: mặt, hai bàn tay, tai và cổ.


“Cả ngày nay con chó không cục cựa gì cả,” bà Eustacia càu nhàu. “Muốn cất cây chổi vô cái tủ âm tường cũng không được.”
“Nó là một con chó bảo vệ tuyệt vời mà,” Benjamin kiêu hãnh nói. Sau đó, nó phải cay đắng mà hối tiếc về những lời này.
Tối đó, nó nghe tiếng chân bà Yewbeam đi rảo khắp các phòng. Bà ta đang làm gì nhỉ? Bà ta đã có nguyên một ngày để lục lọi rồi kia mà. Nó có cảm giác mơ hồ là có một người nữa đang ở trong nhà. Cuối cùng, Benjamin nhắm mắt lại và chìm trong giấc ngủ khó nhọc.
Mỗi hỗn hợp âm thanh kinh khủng, với những tiếng tru, tiếng rú, và rên rỉ dựng Benjamin dậy. Nó nhảy ra khỏi gi.ường và chạy tới đầu cầu thang.
“Hạt Đậu?” Nó gọi. “Phải mày không?”
Một tiếng gừ khẽ, rồi một hồi tru, sau đó là tiếng sủa inh tai đáp lời nó. Có cái gì đó đang tấn công con Hạt Đậu. Benjamin lao xuống lầu.
“Hạt Đậu! Hạt Đậu! Tao tới liền đây,” nó thét lên.
Có tiếng rú lên kinh hoàng, và cánh cửa mở toang một cái đánh “sầm”.
Benjamin chạy qua hành lang về phía cửa mở. Nó suýt đổ ập lên thân hình bất động của Hạt Đậu.
“Hạt Đậu!” Benjamin thét lên, quỳ xuống cạnh cái đầu bờm xờm của con chó.
Hạt Đậu rên lên một tiếng yếu ớt, buồn thảm, và Benjamin vuốt lên bộ lông thô ráp, nhận ra bộ lông phủ đầy một thứ gì đó nhơm nhớp.
Đèn ngoài hành lang bật sáng và bà Eustacia phăm phăm đi xuống cầu thang.
“Có chuyện gì đó?” Bà ta hỏi.
“Con chó của cháu bị tấn công,” Benjamin la lên. “Người nó dính toàn máu.”
“Ta… ta… ghê quá!” Bà Yewbeam tuyên bố. “Chúng ta sẽ gọi bác sĩ thú y vào sáng mai.”
“Cháu không thể để nó như thế này được,” Benjamin cãi lại.
Nó chạy vô bếp và xông ra lại với một chén nước và một ít mảnh vải cũ. Bà Eustacia đứng nhìn trong khi Benjamin rửa sạch vết máu và bôi thuốc sát trùng cho Hạt Đậu. Vết thương của con chó giống như những vết cắn to. Nhưng loài vật nào có thể đột nhập vô nhà? Và tại sao nó lại đột nhập vô đây?


Bà Eustacia giục Benjamin đi ngủ. Nhưng nó không chịu.
“Cháu sẽ ngủ ở dưới này với con Hạt Đậu,” nó nói. Nó lấy ra một cái mền và một cái gối nằm suốt đêm bên cạnh con chó bị thương.
Trong ánh sang lạnh lẽo của sáng thứ ba, Hạt Đậu trông rất yếu. Benjamin nhất quyết không đến trường nữa.
“Hạt Đậu có thể sẽ chết lúc cháu vắng nhà,” nó khóc.
“Vớ vẩn,” bà Yewbeam cố sức kéo Benjamin lên phòng nó.
“Không! Không! Không!” Nó gào lên.
Bà ta mang quần áo của nó xuống lầu và cố bắt nó thay quần áo. Nó chống cự và vùng vẫy. Bà ta tát tai, xổ đẩy và kéo giật nó.
“Cứu tôi với!” Benjamin hét lên, cho dù nó không biết mình đang cầu cứu ai.


Và rồi nhớ lại những lời Charlie đã dặn, nó vọt ra cửa trước, nhảy xuống mấy bậc thang, vẫn mặc nguyên đồ ngủ, phóng qua đường đến nhà số 9, đấm vô cửa thình thình.


Cửa mở tung, Benjamin ngã dúi vô hành lang. Nó ngẩng lên thì nhận ra trước mắt là gương mặt quày quạu của nội Bone.
“Mày đang làm trò gì thế hả, Benjamin Brown?” Nội Bone hỏi.
“Con muốn gặp Ông cậu Paton,” Benjamin vừa đáp vừa ráng gượng dậy. “Ông Paton Yewbeam ạ.”
“Ông ấy không rảnh cho mày gặp đâu,” Nội Bone nói.
“Ông rảnh mà,” Benjamin nói rồi gọi toáng lên. “Ông cậu Paton! Ông cậu Paton ơi!”
“Suỵt!” Nội Bone ra lệnh.
Mấy cánh cửa trên lầu đồng loạt mở ra, ngoại Maisie và mẹ Charlie từ trên đầu cầu thang nhìn xuống.
“Benjamin, chuyện gì đó con?” Mẹ Charlie hỏi.
“Con chó của con bị tấn công. Con cần Ông cậu Paton của Charlie,” Benjamin hét lên.
Khi hai người phụ nữ bắt đầu chạy xuống chỗ Benjamin, thì Ông cậu Paton xuất hiện ở bậc thang trên cùng, khoác áo choàng nhung đỏ.
“Ai cần ta vậy?” Ông hỏi.
“Con! Con ạ, ông Yewbeam ơi!” Benjamin rối rít. “Con chó của con bị thương. Nó chết mất. Ông làm ơn giúp con với được không?”
Ông cậu Paton lao ào xuống và phóng ra cửa trước.
“Paton, cậu chưa thay quần áo chỉnh tề,” nội Bone nhắc với theo.
“Vớ vẩn!” Ông cậu Paton nói.
“Mặt trời lên rồi,” ngoại Maisie lầm bầm.
“Đừng lo lắng về mặt trời,” Ông cậu Paton nói. “Lẹ lên, Benjamin.”
Ông mở cửa trước và chạy xuống các bậc cấp, với Benjamin chạy bên cạnh.
Xe cộ đã bắt đầu nhộn nhịp như thường lệ trên đường Filbert, hối hả lao về hướng trung tâm thành phố, nhưng Ông cậu Paton không hề chú ý. Chẳng thèm nhìn trái hay nhìn phải, ông băng thẳng qua nhà số 12. Những chiếc xe hơi rít lên rồi dừng phắt lại, các bác tài bóp còi inh ỏi, và thằng bé mặc pyjama sọc xanh
Vừa bước vô căn nhà số 12 thì ông Paton chạm mặt ngay với bà chị của mình.
“A, ra là bà, Eustacia.” Ông cậu Paton nói. “Lẽ ra tôi phải biết điều này.”
“Cậu nói vậy là có ý gì?” Bà Eustacia lạnh lùng hỏi.
“Benjamin, ba mẹ mày đâu rồi?” Ông cậu Paton hỏi.
“Con nghĩ ba mẹ con đang ở Scotland tìm kiếm một người lau cửa sổ bị mất tích,” Benjamin đáp.
“Lát nữa chúng ta sẽ nói tới việc đó,” Ông cậu Paton nói. “Bây giờ, con chó đâu?”
Benjamin dẫn Ông cậu Paton qua hành lang tới cái ổ của Hạt Đậu. Con chó to nằm một đống trông thật thương tâm, cái mũi toạc của nó tì lên hai bàn chân trước. Mắt nó nhắm nghiền và gần như không thở nữa.
“Trời ơi,” Ông cậu Paton thốt lên và cúi xuống con chó. “Một con vật to lớn man rợ đã tấn công con chó của mày, Benjamin à. Một con gì đó có hàm răng và móng vuốt khác thường.”
“Đó là lỗi của con,” Benjamin nức nở. “Con nói là nó bảo vệ tầng hầm. Nhưng con thật là ngu, thật ra đâu có gì ở trong ấy đâu.”
Nó ngừng lại, sực nhớ ra là bà Eustacia Yewbeam đang lảng vảng ở cửa trước, nhưng đã quá trễ.
“Làm thế nào mà con vật hoang đó vô đây được?” Nó hỏi Ông cậu Paton. “Ban đêm cửa khóa hết mà.”
“Có ai đó đã mở cửa cho nó vô,” Ông cậu Paton vừa nói vừa liếc nhìn ba chị của mình.
“Chúng ta phải đem con Hạt Đậu đến bác sĩ thú y,” ông nói với Benjamin. “Và phải thật lẹ lên. Ta thấy thời gian cho con cho đáng thương này có vẻ sắp hết rồi.”
Benjamin chợt nảy ra một ý. Nó nhớ ông Onimous đã nói ông có một phương cách đặc biệt đối với thú vật ra sao.
“Con biết một người sẽ tới đây,” nó nói. “Ông Onimous, người diệt chuột. Con có danh thiếp của ông ấy. Ông có những con mèo rất kỳ lạ, giống như những ngọn lửa vậy.”
Rồi Benjamin đứng lên và chạy vô bếp.
“Ta đi đây,” bà Eustacia nói, đoạn bà ta vội dấn bước ra cửa trước, lẹ đến nỗi hai ông cháu hầu như không thấy bà ta lỉnh đi.
“Chuyện gì xảy ra vậy, Ông cậu Paton?” Benjamin hỏi. “Sao ai đó lại đối xử với con Hạt Đậu như vậy? Mà tại sao mấy bà chị của ông lại xấu xa và giận dữ vậy?”


“Chiến tranh bùng nổ rồi, Benjamin,” Ông cậu Paton nói. “Có một việc đã âm ỉ từ lâu lắm rồi. Tính cho đến bây giờ thì họ đã được mặc sức làm những gì họ muốn, nhưng họ đã đi quá xa, và một số người trong chúng ta sẽ không chịu đựng được điều đó nữa.”
 
“Olivia đang tác động được đến Emilia,” Fidelio thông báo cho Charlie.
Thứ Sáu tới rồi, và chúng đang rảo bước quanh khu vưởn sương giá. Ở ngay phía trước mặt, chúng thấy Olivia và Emilia đang mải mê trò chuyện, hay đúng hơn, Olivia đang nói và Emilia xem ra đang lắng nghe.
Vài tiếng nữa tất cả bọn chúng ai sẽ về nhà nấy. Ngay cả Olivia cũng đã tránh xa được rắc rồi suốt cả tuần. Vừa nhìn thấy hai đứa, cô bé lao lại, hay đúng hơn là bước đi huỳnh huỵch trong đôi ủng khổng lồ.
“Tốt rồi,” nó thì thào. “Chiều mai tớ sẽ đến nhà Emilia. Vậy, chờ tụi này vào khoảng giờ uống trà nha.”
“Bồ định đưa Emilia rời gia đình Moon bằng cách nào?” Charlie hỏi.
“Để tớ nghĩ sau,” Olivia rầm rập đi mất.
Chuông reo và bọn chúng bắt đầu thơ thẩn trở về Học viện. Billy Raven vù qua khi chúng vừa tới cửa.
“Gặp lại em sau nhé, Billy,” Charlie nói. “Nhớ là em sẽ về nhà với anh đó.”
“Chỉ một đêm thôi,” Billy nói. “Thứ Bảy em phải quay về.”
Charlie ngỡ ngàng. “Anh tưởng em muốn ở lại hết cuối tuần chứ,” nó nói.
“Em phải về. Bà giám thị bảo thế.” Billy liếc nó, lúng túng một cách lạ lùng rồi biến biệt tăm.
“Cả tuần nay nó hành xử rất kỳ khôi,” Fidelio nhận xét. “Tối qua nó rời khỏi phòng ngủ chung mấy tiếng liền. Cái mùi khủng khiếp của con chó đó, cái con May Phúc ấy, hay cái tên gì đại loại vậy, làm anh thức dậy. Sau đó anh không sao ngủ lại được.”
“Chắc nó bị mộng du,” Charlie nói. “Coi bộ nó có vẻ mệt mỏi.”
Cả hai không nghĩ đến Billy nữa. Vào lúc 3 giờ rưỡi, chúng thu dọn đồ đạc, và đúng 4 giờ thì lên đường về nhà bằng một trong những chiếc xe buýt của Học viện: xe xanh da trời cho khoa nhạc, xe màu tím cho khoa kịch và xe màu xanh lá cây cho khoa hội họa. Charlie để ý thấy Olivia đã xoay xở leo lên được chiếc xe xanh là cây cùng với Emilia. Olivia đội một cái món to tướng màu xanh lá cây và mặc lộn trái chiếc áo chùng màu tím ra ngoài – lớp vải nỉ lót bên trong có màu xanh lá cáu bẩn.
“Cứ tin Olivia đi!” Charlie toét miệng cười một mình.
“Chị ấy làm gì vậy?” Billy hỏi. Nó đang ngồi cạnh Charlie.
“Ồ, không có gì. Chị ấy giỡn ấy mà.”
“Ô,” Billy chưng hửng.
Ngoại Maisie quan tâm hết mức tới Billy. Bà đã nướng riêng cho nó một ổ bánh sôcôla đặc biệt, và đã dọn sẵn cho nó một chiếc gi.ường ấm êm trong phòng Charlie.
“Thằng bé tội nghiệp quá,” bà cứ lẩm bẩm khi dạo quanh bàn, hết rót nước cam vắt, cắt bánh, lại cố vỗ về cho Billy ăn bánh quy phủ kem lòng trắng trứng và bánh nướng nhân mứt. Billy tận hưởng niềm vui sướng tột độ. Nó chưa bao giờ thấy cùng lúc có nhiều món mê ly ở trên cùng một cái bàn như vậy.
“Tuần này ở nhà có khá nhiều biến cố,” mẹ Charlie nói trong khi rót trà. “Con chó của Benjamin bị tấn công và Ông cậu Paton của con đã ra tay. Chúng ta chưa bao giờ thấy cậu linh động đến vậy. Cậu ra ngoài giữa ban ngày ban mặt.”
“Trong chiếc áo ngủ,” ngoại Maisie thêm vô.
“Hạt Đậu bị tấn công?” Charlie lo lắng hỏi. “Bây giờ Ông cậu Paton đang ở đâu? Còn nội Bone đâu rồi?”
“Đang giam mình trong phòng,” ngoại Maisie nói. “Đêm nào cũng có chiến trận kịch liệt. La lối, giậm chân, dộng cửa ầm ầm. Ngoại không biết chúng ta đã mất bao nhiêu bóng đèn rồi.”
Ngay khi uống trà xong, Charlie dẫn Billy qua đường tới nhà Benjamin. Một phụ nữ tóc ngắn, vàng hoe, đeo kính ra mở cửa. Cô mặc bộ com-lê xám và, dẫu có vẻ khô khan, cô có một nụ cười ấm áp và thân thiện.
“Chào con, Charlie,” cô nói. “Con không nhận ra cô à? Cô là cô Brown, má của Benjamin.”
Charlie sửng sốt. Nó đã không gặp cô Brown trong một thời gian dài. Nó chắc chắn trước đây tóc cô dài và đen.
“Đây là Billy ạ,” nó nói.
“Vô đi! Vô đi!” Cô Brown nói. “Con Hạt Đậu đang được chữa trị.”
“Chữa trị?” Charlie nói khi bước vô hành lang.
Có những va li trên cầu thang, ủng cao su trên sàn, áo khoác và áo mưa vắt lùng nhùng trên ghế và trên thành cầu thang. Cái quái gì thế này?
“Benjamin ở trong phòng khách đó, Charlie,” cô Brown nói. “Gặp con nó sẽ vui lắm.”
Charlie dẫn Billy tới một căn phòng phía sau nhà. Nó ít khi vô đó. Benjamin vẫn thích ở trong nhà bếp hơn.
Khi cửa mở, nó được đón bằng một tiếng suỵt lớn và một tiếng ngoao dài, cảnh báo. Nó gần như không tin vô mắt mình. Dương Cưu, con mèo màu đồng đỏ, đứng trên lưng một chiếc ghế bành; con Nhân Mã đứng trên lưng một chiếc ghế khác, còn con Sư Tử ngồi lắt lẻo trên tay ghế trường kỷ. Chúng dữ tợn nhìn xoáy vô Charlie, sau đó thì dịu lại. Dương Cưu thậm chí còn thích thú gừ gừ nho nhỏ.


Benjamin đang ngồi trên ghế trường kỷ cạnh con Sư Tử.
“Vô đây, Charlie,” nó thì thầm. “Ông Onimous đang chữa cho Hạt Đậu.”
Hạt Đậu đang nằm trên sàn, với ông Onimous quỳ bên cạnh. Một tay ông cầm lọ nước gì màu xanh lá cây và tay kia ông cầm một cục bông gòn. Hạt Đậu bị băng ở mũi và bị khâu một bên tai. Trên người đó, ở chỗ bị mất một mảng lông, có những vết rách lam nham.
“Nó đỡ hơn rồi,” Benjamin nói khẽ.
Charlie lướt vô phòng, ngồi xuống cạnh Benjamin, nhưng ngay khi Billy bước vô, ba con mèo cũng gừ gừ lên đầy vẻ đe dọa.
Ông Onimous ngước lên.
“Chuyện gì vậy?” Ông hỏi. “Tôi cần yên lặng.”
Billy đứng tựa lưng vô tường. Trông nó thật hốt hoảng.
“Ai đây?” Benjamin hỏi.
“Billy Raven,” Charlie thì thào. “Trong Học viện. Billy không có nhà nên sẽ ở với mình vào cuối tuần.”
“Chào em, Billy” Benjamin nhỏ nhẹ nói. “Ngồi đi!”
Ông Onimous bây giờ đang thay băng mũi cho Hạt Đậu. Con chó rên rỉ yếu ớt. Lúc đó Billy tiến tới một bước, và cả ba con mèo cùng nhảy xuống sàn, gầm gừ rồi hú lên.
“Chúng nó không thích em,” Billy the thé.
Ông Onimous nhăn mặt nhìn nó.
“Sao lại không thích?” Ông hỏi. “Ta nghĩ tất cả các cậu nên ra khỏi phòng ngay. Kẻo Hạt Đậu già nua ở đây sẽ bị kích động.”
Charlie, Benjamin và Billy cùng đi vô căn bếp cực kỳ ngăn nắp.
“Sao, chuyện là thế nào?” Charlie hỏi.
“Nhiều chuyện lắm,” Benjamin đáp.


Đầu tiên, nó kể về việc xuất hiện khủng khiếp của bà cô Eustacia trong nhà. Tiếp theo, nó mô tả vụ tấn công bí hiểm và con Hạt Đậu; rồi việc nó chạy qua nhờ Ông cậu của Charlie giúp đỡ ra sao; và từ lúc ấy, cuộc sống của nó đã thay đổi như thế nào – bởi vì Ông cậu Paton không biết làm cách nào mà đã kiếm ra ba má nó và nhất quyết giục họ phải về nhà ngay.


“Mình nghĩ Ông cậu Paton đã nhờ cảnh sát kiếm ba má mình,” Benjamin nói. “Má vẫn hay mặc cái áo mưa màu vàng này nên rất dễ nhận ra. Dù sao thì ba má củng đã về nhà. Ông cậu Paton nói ba má đã bị người ta lừa và bị cuốn vô một vụ tìm kiếm vịt trời. Khi ba má về nhà, Ông cậu Paton kêu họ ra nói chuyện riêng rất lâu, và từ hôm đó, má bảo từ nay má sẽ chỉ đi làm lúc nào mình tới trường thôi, sẽ không bao giờ đi làm thêm và không bao giờ đi làm vào ngày nghỉ nữa.”


Charlie hầu như không tin vô điều đó. Ông cậu Paton cuối cùng đã ngẩng đầu lên. Rõ ràng là Ông cậu muốn làm việc gì là việc đó phải xong.


Ông Onimous thình lình thò đầu vô bếp.
“Giờ tụi này đi đây, các cậu bé,” ông hồ hởi. “Tóm lại là Hạt Đậu đang bình phục tốt. Thứ Hai tôi sẽ quay lại.”
Rồi như mọi khi, ông biến mất trong một luồng sáng, cùng với ba con mèo bay vèo theo sau như những chòm pháo bông màu lửa.


“Ông này tức cười thật,” Billy lầm bầm. “Ông ấy hơi giống con chuột.”
Bọn kia đều công nhận, mặc dù Benjamin nhấn mạnh là ông Onimous có những năng lực phi thường.


“Mình đã nghĩ là con Hạt Đậu chết chắc,” nó nói, “nhưng ông Onimous chỉ cần đặt hai bàn tay ngồ ngộ của ông lên người Hạt Đậu là nó khỏe lại liền. Xong mấy con mèo cứ đi vòng quanh Hạt Đậu để giữ ấm cho nó, dù bọn chúng không thích chó.”
“Bọn chúng cũng không thích em,” Billy lẳng lặng nói. “Thú vật luôn thích em, nhưng bọn chúng thì không.”


Charlie chợt nhớ ra.
“Billy có thể hiểu được loài vật,” nó nói với Benjamin. “Bồ có muốn Billy trò chuyện với Hạt Đậu không? Nó có thể nói cho tụi mình biết thực sự chuyện gì đã xảy ra.”


Benjamin nghi nghi hoặc hoặc. Nó nhìn Billy một cách lạ lẫm.
“Billy cũng là người có phép thuật giống như bồ phải không?” Nó hỏi Charlie.
“Ừ,” Charlie đáp. “Em làm được, phải không Billy?”
Thằng bé gật đầu.
“Được rồi.” Benjamin nói.


Nó dẫn hai đứa kia quay lại phòng khách. Ở đó, Hạt Đậu đang liếm những móng vuốt bị thương của nó. Nó có vẻ như hơi sợ Billy, nhưng khi thằng bé bạch tạng bắt đầu phát ra những tiếng ngâm nga, ầm ừ nghe rất buồn cười thì con chó trở nên thư giãn hẳn. Nó vểnh tai lên và lắng nghe.


Khi Billy ngừng ậm ừ thì con Hạt Đậu bắt đầu nói, hay đúng hơn, nó rừ rừ, sau đó nó buông một tiếng rên mệt mỏi và nằm oạch xuống.
“Sao?” Charlie hấp tấp. “Nó nói gì vậy?”
“Nó nói nó bị một con sói tấn công,” Billy đáp.
“Cái gì?” Benjamin kêu lên.
“Đó không phải là một con sói bình thường,” Billy tiếp. “Đó vừa là một thằng bé vừa là một con sói. Em nghĩ ý Hạt Đậu muốn nói đó là một thằng bé biến thành sói.”
 
“Trời!” Benjamin rớt phịch xuống ghế. “Một con sói!”
“Phải là một đứa trong đám có phép thuật,” Charlie quả quyết. “Chắc chắn. Một nam sinh nào đó có tài biến thành sói – một loại ma sói. Và bà Eustacia đã mở cửa cho nó vô để nó tống con Hạt Đậu khỏi cửa tầng hầm. Bà ấy nghĩ cái thùng của tiến sĩ Tolly vẫn còn ở dưới hầm.”
“Chứ nó không còn ở đó sao?” Billy buột miệng.
Hai đứa quay qua nhìn Billy. Liệu chúng có thể tin tưởng Billy không? Chúng phải tin nó thôi, Charlie nhận thấy như vậy, bởi vì ngày mai cả bọn sẽ cùng nhau đến Mái Ấm Gia Đình Gunn. Chúng không thể để Billy lại.
“Cái thùng của tiến sĩ Tolly để ở chỗ khác rồi,” Charlie đáp. “Về nhà anh sẽ kể chuyện cái thùng cho em nghe sau.”
Lúc chia tay, Benjamin trông rất phấn khởi, đứng ở bậc thềm vẫy tay chào cả đám. Mẹ nó bước ra, cũng vẫy tay, rồi khoác vai Benjamin, hai mẹ con cùng nhau quay vô nhà.
“Ông cậu Paton của anh quả là tài,” Charlie tự hào nói với Billy. “Mãi mấy ngày cuối tuần rồi Benjamin mới được gặp lại ba má. Tới anh cũng còn không nhớ mẹ của Ben trông thế nào nữa.”
“Em sắp có ba mẹ mới rồi đó,” Billy khoe.
“Thật không? Tuyệt! Em kiếm được hồi nào vậy?” Charlie hỏi.
“Ờ, mới hôm kia thôi,” Billy đáp. “Chỉ cần em… ngoan.”
“Thế thì anh sẽ giúp em không rơi vô mấy chuyện rắc rối trong trường mình,” Charlie hứa.
Tối hôm đó trước khi đi ngủ, Charlie bàn với Billy những việc mà nó hy vọng sẽ xảy ra vào ngày hôm sau.
“Nhưng Emilia sẽ làm gì một khi chị ấy tỉnh lại rồi?” Billy hỏi.
“Bọn anh không biết,” Charlie thú nhận. “Bọn anh thậm chí còn không biết nó đó có đúng là Emilia Tolly không, hoặc nó chịu đến Mái Ấm Gia Đình Gunn không. Bây giờ chỉ biết trông cậy ở Olivia thôi.”
Ba mẹ Olivia rất chiều con. Khi cô nàng nói rằng phải đi gặp một bạn gái tên là Emilia Moon, sống ở đường Washford, cách xa nhiều dặm, thì mẹ Olivia liền chở nó đến nhà Emilia, và đồng ý sẽ đón cả hai đứa ở Mái Ấm Gia Đình Gunn lúc 5 giờ chiều.
“Có cần mẹ vô nhà Emilia với con không?” Từ trong xe, mẹ Olivia nói vọng ra.
Olivia đứng bên cổng một ngôi nhà có tên là Ánh Trăng. Nó vẫy tay:
“Không cần đâu mẹ ơi. Con vô được mà.”
Nhưng vô Vertigo cũng chờ cho đến khi nhìn thấy Olivia nhấn chuông. Một phụ nữ tóc hoa râm ra mở cửa, khi đó cô Vertigo mới chào lớn, “Tam5mmm… biệttt!” và lái xe đi.
“Cần gì?” Người phụ nữ tóc xám hỏi Olivia.
“Cháu đến gặp Emilia,” Olivia đáp. “Bạn ấy có mời cháu.”
“Emilia không bao giờ mời ai cả.” Người phụ nữ gầy còm, vẻ mặt cau có không thèm mời Olivia vô nhà.
“À, chắc là bạn ấy quên rồi,” Olivia lẹ miệng. “Bác không thể để cháu ra về bây giờ đâu vì mẹ cháu vừa đi xong, mà nhà cháu ở cách đây nhiều dặm.”
“Xì!” Bà ta nghiến hai hàm răng vô nhau. “Emilia!” Bà ta hét. “Ra đây!”
Emilia xuất hiện. Trông con bé hết sức ủ rũ.
“Mày đã mời con bé này đến đây hả?” Bà ta chất vấn.
Olivia vẫy tay rối rít và mỉm cười với Emilia cho đến khi cô bé này đáp, “Dạ.”
“Mày không có quyền,” bà ta bực dọc. “Thôi thì chúng mày vô đi,” bà ta nói một cách gượng ép.
Olivia bước vô một ngôi nhà lạnh lẽo, và gọn gàng một cách khác thường. Emilia mỉm cười ỉu xìu với nó rồi đi trước, dẫn đường lên lầu, vô phòng riêng. Đó là một căn phòng khá buồn tẻ. Không có tranh ảnh gì trên tường hết, và tất cả mọi đồ đạc của Emilia đều bị tống hết vô những ngăn kéo to tướng hay những tủ âm tường. Trên gi.ường trải một tấm mền trắng, sạch sẽ, và ngồi chồm chỗm trên gối là một chú vịt nhồi bông trông cũng tươm tất nốt.
“Dễ thương quá hả,” Olivia nói chỉ để cho có chuyện mà nói.
Emilia mỉm cười.
“Tụi mình ra ngoài đi?” Olivia đề nghị. “Ngoài vườn chắc có nhiều thứ hay hơn.”
Emilia đồng ý.
Khu vườn gồm một bãi cỏ ngăn nắp, có những bụi cây lớn rậm rạp bao quanh. Đằng sau một chiếc ghế xích đu ở cuối vườn, Olivia phát hiện ra một bức tường trông đầy hứa hẹn.
“Bên kia bức tường là gi vậy?” Nó hỏi Emilia.
“Chỉ là một con hẻm,” Emilia đáp. “Nó dẫn ra đường cái.”
“Tụi mình leo qua đó đi.”
“Chi vậy?”
“Vì tớ un cho đằng ấy xem một thứ,” Olivia nói. “Rất đặc biệt. Tớ không thể nói cho bồ biết đấy là cái gì, nhưng nó đang ở trong nhà Fidelio Gunn.”
“Có lừa gạ không đấy?” Emilia lộ vẻ lo lắng.
“Emilia, tin tớ đi,” Olivia trấn an. “Tớ là bạn của đằng ấy mà.”
Giọng nói du dương của Olivia có sức thuyết phục đến độ, một loáng sau Emilia đã leo qua tường.
“Tụi mình sẽ quay về trước khi mẹ đằng ấy phát hiện ra,” Olivia hứa.
Trong lúc đó, trên gác mái ở Mái Ấm Gia Đình Gunn, Fidelio, Charlie, Benjamin và Billy đang tóp tép nhai dĩa bánh mì kẹp thứ hai. Chúng ngồi trên đống hộp và thùng đựng nhạc cụ, giữa tiếng nhạc dội tưng bưng từ dưới nhà.
Charlie quyết định ăn chỉ để cho khỏi lo nghĩ. Liệu việc nó đang làm có đúng đắn không? Olivia có tìm ra nhà Fidelio không? Emilia có tỉnh lại không? Và ngộ nhỡ nhỏ đó lại kêu thét, phản ứng dữ dội, hay ngất xỉu… hay… biến thành một cái gì đó thì sao?
Nghĩ tới đó, Charlie nhón một miếng bánh khác.
“Mẹ anh là ca sĩ mà làm bánh mì kẹp ngon tuyệt,” nó vừa bảo Fidelio vừa nhấm nháp một miếng chuối chấm bơ động phộng.
“Fidelio!” Ông Gunn hát vang từ dưới hành lang. “Có hai cô nương muốn gặp con đó!”
“Bảo hai bạn ấy vô đi ba!” Fidelio nói to.
“Lên đi hai con, tầng trên cùng, phía bên phải, coi chừng đụng đầu, và đừng nhảy lò cò!” Ông Gunn hát.
Olivia bật cười hì hì, nhưng Emilia im lặng. Mà Charlie cũng không chắc có phải là Emilia im lặng không, vì có quá nhiều tiếng ồn trong vương quốc âm nhạc này.
“Bọn tớ đây!” Olivia vừa nói vừa sầm sập đi vô phòng.
Emilia theo sau. Trông con bé có vẻ bối rối, nhưng không có vẻ gì sợ hãi.
“Olivia dã giải thích rồi chứ?” Charlie hỏi Emilia.
“Bạn có một thứ gì đó để chỉ cho tôi xem,” Emilia chậm chạp nói.
“Đúng vậy. Nó là một thứ do ba bồ chế ra,” Charlie nói.
Emilia nhíu mày.
“Ba tôi là một nhân viên kế toán. Ông ấy không chế đồ vật gì hết.”
“À, thực ra thì, ba của em là một nhà phát minh sáng chế đấy,” Fidelio nói. “Nhưng ông đã mất và để lại cho em cái thùng này.” Nó chỉ vô cái thùng bằng kim loại nằm giữa phòng.
“Làm sao anh biết?” Emilia hỏi, nếp nhíu mày của con bé hằn sâu hơn.
Fidelio nhìn Charlie, và Charlie tiếp lời:
“Mọi việc xảy ra từ khi mình gặp cô của bồ.”
“Tôi có một người cô? Tôi không bao giờ biết là mình có một người cô cả.”
“Cô ấy là một người rất tốt. Suốt mấy năm qua cô ấy chỉ mong gặp lại bồ.” Charlie nói với Emilia. “Cô ấy đưa cho mình cái thùng này, sau đó tụi mình khám phá ra trong đó có cái thứ làm… um… làm bồ tỉnh lại.”
Emilia trông càng hoang mang tợn. Olivia ngồi xuống một chiếc rương lớn và kéo Emilia ngồi xuống kế mình.
“Chuyện đâu sẽ có đó. Tụi này không để điều gì tệ lậu xảy ra cho bồ đâu,” nó nói.
“Hóa ra là tôi không tỉnh táo mà tôi không biết,” Emilia lẩm bẩm.
“Anh nghĩ chúng ta nên làm ngay đi thôi,” Fidelio thúc giục. “Hết giờ rồi. Lẹ lên, Charlie.”
Charlie bước về phía trước. Nó rẽ những ngón tay, thật mạnh nhưng thật cẩn thận, lên các mẫu tự bên hông cái thùng MƯỜI HAI TIẾNG CHUÔNG CỦA TOLLY. Khi ấn chữ cuối cùng, nó nhìn quanh phòng. Tất cả mọi người đang nhìn chằm chằm vô ngón tay nó. Nó nhận thấy cặp mắt của Billy Raven mở to và tối sầm, lắp đầy hết cả hai gọng kính tròn, khiến thằng bé trông như bị mất hồn.
Charlie nhấn đến ký tự cuối cùng, nắp thùng bật mở, nó đứng qua một bên và quan sát nét mặt Emilia, nhưng chính Olivia lại là đứa la lên thảng thốt. Mặt Emilia vẫn chỉ mang vẻ đăm chiêu.
Khi chàng hiệp sĩ vung gươm lên, tất cả bọn đều nhảy nhổm lên, bật lùi ra sau, kể cả Emilia. Và rồi chuông bắt đầu rung, cùng tiếng dàn đồng ca vang khắp căn phòng.
Trong một thoáng, Emilia như phải chịu một cơn đau quằn quại. Nó cong vai lại, một tay ụp lên miệng. Rồi nó nhắm nghiền mắt, ngồi phịch lên một cái hộp đàn, nước mắt bắt đầu tuôn lã chã xuống hai má.
Những đứa kia trố mắt nhìn, hoảng sợ. Nước mắt Emilia chảy thành dòng và nó bắt đầu thút thít không sao kìm lại được. Thân mình nó ngật ngưỡng đảo tới đảo lui. Nó cứ rên rỉ và thở dài cho đến khi chàng hiệp sĩ hạ gươm xuống và ngã vô thùng. Khi bài thánh ca kết thúc và tiếng chuông ngân lên lần cuối thì Emilia im lặng. Giờ, cả hai tay nó ôm lấy mặt và toàn thân bất động.
Không đứa nào có mặt trong phòng dám nói gì. Charlie đóng cái thùng lại, tự hỏi phải làm gì tiếp đây.
Cuối cùng Emilia nói, tựa như hụt hơi:
“Mình không biết là hóa ra mình lại bất hạnh đến thế. Suốt cuộc đời mình phải sống với những người không thương yêu mình.”
Olivia vòng tay ôm quanh người bạn và nói:
“Sẽ đâu vô đó thôi, Emilia à. Bây giờ đằng ấy sẽ hạnh phúc. Rồi đằng ấy sẽ thấy, Charlie, nói cho Emilia nghe đi.”
Thế là Charlie kể cho Emilia nghe về người mẹ tội nghiệp đã mất của con bé, về ba con bé, tiến sĩ Tolly, nhà phát minh sáng chế. Rồi Charlie kể tới cô Julia Ingledew, người sống trong một tiệm sách và luôn mong gặp Emilia, mong được chăm sóc con bé mãi mãi. Cuối cùng, Charlie tiết lộ cho Emilia về điều kỳ lạ nhất.
“Ba bồ nói là bồ biết bay đó, Emilia. Đó là lý do tại sao người ta muốn bồ ở trong Học viện Bloor.”
“Mình?” Emilia kinh ngạc. “Mình đâu có biết bay.”
“À, nhưng bồ đã bay một lần rồi,” Charlie nói. “Có lẽ việc đó chỉ xảy ra khi nào bồ thật cần mà thôi.”
“Thí dụ như lúc đằng ấy hoảng sợ,” Olivia cắt nghĩa thêm.
“Ngày mai mình sẽ dẫn bồ đến gặp cô của bồ,” Charlie nói với Emilia.
“Nhưng bằng cách nào?” Con bé lo lắng.
“Mình sẽ kiếm cách,” Charlie tự tin nói. “Bồ phải biết là bồ có thể ra khỏi gia đình Moon bất cứ lúc nào bồ muốn, vì giờ bồ đã biết mình là ai.”
Bất thình lình, một tiếng gọi với lên, xuyên qua tiếng hát, tiếng sao, tiếng trống, tiếng vĩ cầm và tiếng dương cầm…
“Cô Vertigo tới!”
“Mẹ tớ tới thật đúng lúc,” Olivia reo lên. “Lẹ lên Emilia.”
Emilia đi theo Olivia xuống lầu, nơi cô Vertigo đang say sưa chuyện trò với bà Gunn. Trước sự nằng nặc của Olivia, mẹ nó đành bỏ dở câu chuyện thú vị của mình về buồng phổi để lái xe chở hai con bé về lại ngõ hẽm phía sau đường Washford.
Cô Vertigo rất ngạc nhiên khi thấy Olivia và Emilia leo qua tường, nhưng cô cũng làm theo yêu cầu là cứ lái xe vòng ra trước nhà và chờ Olivia đi ra từ cửa trước. Mọi việc chỉ mất chừng hai phút.
“Mẹ đúng là một ngôi sao, mẹ ơi,” Olivia vừa nói vừa leo vô xe. “Mọi thứ đều hoàn hảo.”
“Con sống một cuộc sống sôi động quá đấy, Olivia,” cô Vertigo nói.
Trong thực tế, bà đúng là một ngôi sao. Một ngôi sao điện ảnh.
Mất một lúc sau khi hai cô bé đi khỏi, bốn đứa con trai vẫn ngồi im lặng, không biết nói gì. Charlie nhẹ cả người khi thấy kế hoạch của chúng đã hoàn thành. Bây giờ đến phần việc của nó là tìm ra một ngôi nhà thực sự cho Emilia.
“Tụi mình làm gì với cái thùng bây giờ?” Fidelio hỏi.
“Anh tiếp tục giữ nó ở đây được không?” Charlie hỏi. “Em nghĩ tụi mình sẽ còn cần đến nó.”
“Để chỗ anh thì nó sẽ an toàn,” Fidelio khẳng định.
Billy Raven đứng lên.
“Bây giờ em phải quay về đây,” nó nói. “Học viện sẽ cho xe đến rước em.”
Giọng Billy hơi run run và nó cúi gằm xuống sàn khi nói.
Charlie tự hỏi không biết có phải thằng nhỏ bị bệnh hay không. Nó đồng ý dẫn Billy về nhà ngay lập tức. Đã đến giờ Fidelio phải tập đàn vĩ cầm, và khi ba thằng bé vừa bước ra khỏi Mái Ấm Gia Đình Gunn, chúng đã nghe thấy bạn mình góp phần làm tiếng ồn đã ồn càng ồn thêm.
Trong lúc rảo bộ trở lại đường Filbert, Charlie và Billy mỗi đứa chìm trong những suy nghĩ của riêng mình, nhưng Benjamin thì vừa nhảy chân sáo, vừa huýt gió, vừa tía lia chuyện trò, hăm hở được trở về nhà với ba má nó và con chó quý giá của nó.
Một chiếc xe hơi đen đậu bên ngoài căn nhà số 9. Bọn nhóc bước lại, vừa hé mắt nhìn qua cửa kính xe màu khói ám thì cửa xe bật mở, một cây gậy kiểu cọ điệu đàng vụt ra, khỏ mạnh vô đầu Charlie.
“Ui da!”. Nó nhảy ra sau. “Ai trong đó vậy Billy?”
“Chắc chắn cụ Bloor rồi,” nó đáp.
Có điều gì đó khiến Charlie bỗng lo lắng.
“Billy, em sẽ không nói với ai về Emilia chứ?” Nó hỏi. “Sẽ không để ai biết vụ này cho tới khi nào tụi này xong việc nha.”
Billy lắc đầu.
Charlie dẫn Billy vô nhà lấy giỏ xách. Sau lời cám ơn qua quít với ngoại Maisie và cô Bone, Billy chạy ra và chui vô chiếc xe hơi đen.
“Thằng bé thiệt kỳ lạ,” ngoại Maisie nhận xét khi chiếc xe màu đen chuyển bánh, rời khỏi vệ đường.
Emilia Moon nằm trên gi.ường trong căn phòng trắng, ngăn nắp của mình.
“Emma Tolly,” nó lẩm bẩm.
Nó lặp lại cái tên và kết luận là thích cái tên đó hơn tên Emilia Moon nhiều.
Điện thoại trong hành lang reo mấy hồi. Thật bất thường. Gia đình Moon không bao giờ có điện thoại gọi đến vào ban đêm cả. Nhưng Emilia chẳng quan tâm tới điều đó. Nó đang quá phấn khích. Trước nay nó chưa bao giờ cảm thấy thực sự phấn khích điều gì. Cuộc sống của nó nhạt nhẽo, lạnh lùng và nề nếp. Không cái gì có thể làm nó ngạc nhiên hay thích thú. Thế rồi bất thình lình, tất cả điều thay đổi.
“Bây giờ mình là Emma,” nó thì thầm.
Cửa phòng bất ngờ xịch mở và bà Moon thò đầu vô.
“Thay quần áo và sắp xếp đồ đạc. Chúng ta phải đi ngay.”
“Đi đâu?” Emma lo lắng hỏi.
“trở về Học viện. Vừa có điện thoại.”
“Tại sao?” Emma hỏi. Phải chăng họ đã phát hiện ra việc nó tới Mái Ấm Gia Đình Gunn?
“Mày đã phạm luật, Emilia,” bà Moon lạnh lùng nói. “Nào, lẹ lên.”
Với đôi tay run rẩy, Emilia mặc quần áo và đi xuống lầu. Bà Moon chộp lấy cánh tay nó và lôi ra xe, ở đó ông Moon, gầy còm, đeo kính, đang ngồi chờ bên tay lái. Emma cùng cái thùng của nó bị tống vô ghế sau và họ lái xe đi thẳng.
Học viện Bloor ở bên ngoài trông rất bề thế và đầy hăm dọa. Duy chỉ có một quầng sáng ở trên đỉnh của tòa nhà cao, còn lại tất cả đều chìm trong tĩnh lặng và hoang vắng.
Emma đi giữa hai ông bà Moon, băng qua cái sân gạch và bước lên những bậc thang rộng. Ông Moon giật sợi dây xích treo bên hông cánh cổng khổng lồ, và một tiếng chuông rung lên ở đâu đó, sâu trong tòa nhà.
Tim Emma thót lại khi Manfred ra mở cửa. Nó cố né khỏi đôi mắt đen như than của Manfred, nghĩ rằng sẽ gặp phải một cái nhìn khủng khiếp, làm cứng cả người. Nhưng Manfred thậm chí còn không muốn ngó tới Emma.
“Cám ơn,” hắn nói với ông bà Moon. “Vô đi, Emilia!”
“Tạm biệt, Emilia,” bà Moon nói. Bà ta đặt cái túi của Emilia xuống sàn, sát chân nó. “Phải ngoan ngoãn đấy.”
Những cánh cổng nặng nề đóng lại và Emma chỉ còn lại một mình với Manfred.
“Tại sao anh lại đem tôi tới đây,” nó hỏi, “vào giữa đem hôm khuya khoắt như thế này?”
“Mày đã phạm luật, đúng chưa, Emilia? Mày phải bị trừng phạt.”
Bỗng nhiên Emma cảm thấy mình dũng cảm hẳn lên. Đó là một cảm giác rất kỳ lạ. Nó cũng nhận thấy mình đang giận dữ.
“Tôi không phải là Emilia,” nó cứng giọng. “Tôi là Emma Tolly.”
Manfred cười to. Đó là thứ âm thanh kinh khủng và quỷ quyệt.
“Chẳng mấy chốc bọn tao sẽ tống lời nói bậy bạ đó ra khỏi người mày, Emma Tolly! Tao chưa bao giờ nghe đến cái thứ rác rưởi đó. Cầm giỏ lên rồi theo tao.”
Một điều gì đó bên trong Emma muốn chống trả, nhưng nó không biết mình có thể chống lại như thế nào. Nó chỉ có một mình với Manfred, theo như nó nhận định. Có thể lát nữa nó sẽ kiểm tra cách mà để thoát.
Manfred dẫn nó qua những hành lang mà nó chưa bao giờ thấy, đi lên những cầu thang xoắn ốc chặt đẹp, nguy hiểm, và ngang qua những căn phòng trống rỗng giăng đầy mạng nhện. Hai tay hắn cầm hai chiếc đèn lồng, nhưng Emma hầu như chẳng thấy được mình đang đi đâu. Rõ ràng không có điện đóm gì trong khu vực này của tòa nhà. Những con dơi kêu chin chít và bay chấp chới qua lại khắp trần nhà mục nát, và gió rền rĩ qua những cửa sổ vỡ. Cuối cùng, chúng đến một căn phòng nhỏ, có một chiếc gi.ường hẹp kê sát vách tường. Trên đó có một chiếc gối và một tấm mền, ngoài ra không có gì khác. Nền nhà trống trơn, vách tường là những phiến đá khổng lồ.
Manfred đặt một chiếc đèn lồng xuống nền nhà.
“Khuya! Khuya rồi!” Hắn nói. “Ngủ ngon, Emilia Moon.”
Hắn ta đóng cách cửa nặng nề lại sau lưng, và Emma nghe thấy một tiếng “tách” lớn khi chìa khóa xoay trong ổ. Khi những bước chân của Manfred xa dần, nó thử mở cửa. Cửa khóa, đúng như nó nghĩ.
Emma ngồi lên gi.ường. Không khóc. Nó đã khóc đủ cho một ngày rồi. Nó cứ ngồi đó và nghĩ miên man về những điều tuyệt vời mà rốt cuộc nó sẽ không bao giờ có lại được nữa: người cô tốt bụng, những người bạn, cuộc phiêu lưu, và cảm giác hạnh phúc tuyệt vời đó.
“Mọi người sẽ nghĩ là mình đã biến mất,” nó lẩm bẩm, “và sẽ không ai tìm thấy mình.”
Nó nhìn quanh gian phòng giam bẩn thỉu và đáng sợ. Lẽ nào mình sẽ bị giam ở đây mãi mãi? Cho đến khi mình già?
“Không,” nó tự nhủ. “Bây giờ mình là Emma Tolly, và Emma sẽ không chịu như thế. Emma là người bền bỉ.”
Với suy nghĩ đó nó nhảy lên và lấy hết sức bình sinh mà kêu gào.
“Cứu! Cứu! Cứu tôi với!”
Nó nghe thấy giọng mình vang dội qua những phòng trống phía bên kia cánh cửa. Nhưng không có tiếng trả lời.
Thế nên Emma lại gào thét lần nữa, và lần này nó đập cửa ầm ầm. Nó rung, gõ và đá túi bụi vô cánh cửa cho đến khi mấy ngón chân bầm tím và khớp đốt ngón tay tấy đỏ, trầy da. Và rồi nó bỏ cuộc, leo lên nằm trên chiếc gi.ường chật hẹp, kiệt sức vì những cố gắng của mình.
Nó vừa định nhắm mắt lại thì có tiếng cọt kẹt nho nhỏ ngoài cửa. Emma ngồi dậy. Chìa khóa tra quay trong ổ, chốt cửa được kéo ra và cánh cửa mở bung.
Emma lao khỏi phòng và nhìn ra. Không thấy ai cả. Nó cầm chiếc đèn lồng lên và rọi đèn ra hành lang phía ngoài. Không có ai – không có gì – nếu không kể lũ dơi đang treo mình trên xà ngang. Dơi không thể mở cửa được, Emma nghĩ.
Giơ đèn lồng lên cao hết mức, nó bắt đầu bước xuống hành lang.
“Ai đó?” Nó thì thầm. “Ai cho tôi ra vậy?” Lần này nó không nói to, sợ Manfred hùng hổ quay lại.
Đến cuối hành lang, Emma đụng phải một cầu thang. Nó bắt đầu thận trọng leo xuống. Dưới chân cầu thang, các hành lang rẽ nhánh qua trái và qua phải. Emma chần chừ rồi rẽ phải. Cái mùi thật kinh tởm. Những luồng khí chập chờn xì ra từ các vách tường, và nó tự hỏi phải chăng đó là nguyên nhân gây ra cái mùi ghê tởm này.
Rồi nó nhìn thấy con quái vật. Hay đó là một con chó? Nó lùn tịt và béo phị, như một cái gối kê trên những cẳng chân ngắn ngủn, và cái mặt nó hình như đã biến mất hết, chỉ còn một cái mũi võng xuống.
Emma thở gấp và co rùm người vô tường. Nhưng con chó không trông thấy nó. Nó toan lẻn đi hướng khác thì một giọng rít lên:
“Đứng lại, con kia! Quay lại!”
Trước khi bỏ chạy, Emma quay lại nhìn thật lẹ. Nó thấy một người đàn ông ngồi trong xe lăn. Lão già đến mức xương mặt chỉ còn như một cái hộp sọ. Lão quàng một chiếc khăn sau trên vai và mái tóc trắng dài thòi xuống như sáp từ chiếc mũ lưỡi trai bằng len.
“Nó chạy rồi!” Lão hù lên. “Con ranh con của thằng phát minh! Manfred, tóm lấy nó!”
Cố nén tiếng hét, Emma bỏ chạy. Nó lao bừa lên cầu thang, chiếc đèn lồng va đập vô tường. Nó chạy dọc theo hàng lang, ào vô một căn phòng trông như xà lim, đóng sập cửa lại sau lưng. Rồi nó chờ đợi, biết rằng chút xíu nữa thôi điều tồi tệ sẽ xảy ra.
Không lâu sau, khuôn mặt tức tối của Manfred nhìn chăm chú qua cửa.
“A, mày đây rồi,” hắn hả hê, “Tốt hơn từ sau đừng có thử như thế nữa nghe chưa.”
Hắn đóng sầm cửa, khóa lại.
“Tao đang giữ chìa khóa, vì thế đừng nghĩ là mày có thể cho nó lọt ra lần nữa đấy. Nếu gây thêm phiền phức nào nữa thì mày sẽ không có mứt trong một tuần.”
Rõ ràng là hắn không nói điều đó với Emma.
Có cái gì đó cứng đập mạnh vô tường và Manfred hét lên, “Dừng lại!”
Một cánh cửa khác đóng sầm, sau đó là thinh lặng.
Emma nhón chân đi ra cửa.
“Ai đó?” Nó hỏi. Không có tiếng trả lời.
“Xin lỗi vì đã làm bạn gặp rắc rối,” Emma nói.
Vẫn không có tiếng trả lời. Nếu có bất cứ ai ở ngoài đó thì người ấy hoặc cũng đã bỏ đi, hoặc món mứt quan trọng đến nỗi người ấy không muốn mạo hiểm để bị tước mất.
“À, dù sao đi nữa thì cũng cám ơn bạn vì đã cố giúp tôi,” Emma nói.
Nó ngồi lại lên gi.ường. Nến trong đèn lồng của nó đã sắp cháy hết, và nó khó mà chịu được ý nghĩ phải ở trong bóng đêm mịt mùng của căn phòng lạnh lẽo, gai người đó. Nó chong chong nhìn lên những bức tường xám xịt, vẻ hằn học, và rồi, trong ánh nến sắp lụi, nó nhận thấy một cửa sổ nhỏ sau chiếc gi.ường. Nếu nó leo lên gối thì có thể với tới, tuy nhiên nó biết các cửa sổ chắc chắn phải ở cao bên trên. Cao lắm, và nó không thể nhảy xuống đất được.
“Charlie nói là mình biết bay,” nó lẩm bẩm.
Khi nói những lời này, những ngón tay của Emma bắt đầu tê tê, và một cảm giác giần giật chuyền qua hai cánh tay nó, khiến chúng như không có trọng lượng.
Ông cậu Paton Yewbeam đang làm chuyến rảo bộ đêm hôm của mình. Ông cố ý sải những bước thật dài, nhưng tâm trí thì rối bời. Một mặt, ông lại cảm thấy lạc quan. Cuối cùng thì ông cũng đã bắt đầu dàn xếp mọi chuyện cho đâu vô đấy, và các bà chị của ông cũng đã biết ra vị trí của ông ở đâu.
Một bóng đèn nổ tung khi Ông cậu đi ngang qua một cột đèn. Vẫn tiếng thủy tinh lanh canh rớt như thường lệ. Nhưng rồi còn có một âm thanh khác: tiếng những bước chân lộp cộp, nhè nhẹ. Ông cậu Paton thở dài, nhưng không quay lại nhìn. Nếu ai đó đang đi theo ông thì cứ để họ theo. Họ cũng chả tìm thêm được bằng chứng gì đâu. Ông thì thầm một mình.
“Giá mà ta đừng nằng nặc mời bữa tối đó. Phải chi hai đứa cứ ở nhà, dùng bữa trong ánh nến thôi… Cô ấy chắc nghĩ ta là thằng khùng. Quên cô ấy đi, Paton à. Cô ấy sẽ không bao giờ tha thứ cho mi đâu.”
Ông cậu Paton chợt nhận ra những bước chân kia đã bắt kịp mình. Một cô bé đi bên cạnh Ông cậu; cô bé có khuôn mặt nhợt nhạt. Nó xinh, mái tóc dài hoe vàng, hơi bù xù.
“Cháu xin lỗi,” cô bé rụt rè. “Ông có thể chỉ cho cháu đường đến tiệm sách Ingledew được không ạ?”
“Ta nghĩ là được,” Ông cậu đáp. “Ta tin là ta đang trên đường tới đó.”
“Ô, tốt quá,” cô bé mừng rỡ. “Tên cháu là Emma Tolly.”
 
Khi Ông cậu Paton bấm chuông tiệm sách cô Ingledew thì đã 12 giờ rưỡi đêm. Tất nhiên là không ai lên tiếng. Nhưng Ông cậu Paton một lần tình cờ biết được là cô Julia Ingledew thường đi ngủ rất trễ. Ông cậu nhấn chuông lần nữa.


Cánh cửa sổ phía trên cao cọt kẹt mở ra, và cô Julia Ingledew ngó ra ngoài.
“Ai đó?” Cô giận dữ hỏi.


Rồi cô nhìn thấy Ông cậu Paton.
“Ô, ra là anh. Chọn giờ đến gọi cửa mới hay làm sao.”
“Julia…à…cô Ingledew, thực ra thì không phải tôi. Ờ, đúng hơn đó là tôi… ờ… nhưng có một người nữa muốn gặp cô.”
Ông cậu Paton bước lùi khỏi cửa, nhẹ nhàng kéo Emma lại gần mình.
“Tên cô bé là Emma Tolly.”
“Cái gì? Tôi không… Tôi không thể…”


Cửa sổ đóng ập lại. Rồi tiếng những bước chân vội khua xuống cầu thang rung kèn kẹt. Cửa lớn mở toang, cùng với một tiếng kính coong.
“Con chào cô!” Emma cất tiếng.
“Nancy? Ôi, con giống Nancy quá,” cô Ingledew khóc nấc lên. “Vô đi, vô đi con, và cả anh nữa, Paton. Ô, không thể tin nổi. Tôi chỉ… ô, trời ơi. Tôi biết nói sao đây.”


Cô Julia kéo Emma vô trong tiệm sách. Cô nhìn nó không rời mắt, cứ sờ tóc, vuốt má rồi ôm chặt lấy nó.
“Là con thật rồi. Ôi chao, Emma, chuyện này là thế nào?”
“Con đã tỉnh rồi,” Emma nói. “Charlie Bone và các bạn của bạn ấy đã giúp con, và cái ông tốt bụng này dẫn con tới đây.”
“Cám ơn anh, Paton,” cô Julia cảm động. “Mọi người lại đây dùng một tách trà hay món gì đó nào. Vụ này phải ăn mừng thôi.”
Cô dẫn họ vô căn phòng ấm cúng sau tiệm sách. Emma chăm chú ngắm các kệ đầy những cuốn sách dày cộp, tựa phủ nhũ vàng, lóng lánh trong ánh sáng mờ dịu. Cô bé hít mùi giấy cũ, mùi da thuộc, mùi mực in, và thở hắt ra một cái rõ dài, xong tuyên bố rằng đây là căn phòng tuyệt vời nhất trên đời.


“Nó sẽ là nhà của con đấy, Emma,” cô Ingledew sung sướng nói. “Nếu mọi chuyện xuôi chèo mát mái. Trừ phi con muốn ở lại với những người đã nhận nuôi con hồi trước…”
“Không, không, không!” Emma hét lên. “Con không bao giờ muốn trông thấy căn nhà khủng khiếp đó nữa.”


“Con phải kể với cô tất cả về căn nhà đó đấy,” cô Ingledew nói. “Cô muốn biết tất cả mọi thứ. Còn anh, Paton, tôi cam đoan anh còn nhiều việc phải làm với vụ này lắm. Mời ngồi, xin mời ngồi.”
Cô cuống quít chạy khắp phòng, thu dọn sách báo trên những cái ghế, vỗ cho gối phồng lên, và phủi bụi các chao đèn.


Một giờ sau, Ông cậu Paton đã trên đường về nhà. Ông huýt gió một điệu nhạc vui tươi, trong khi đèn đường chập chờn và nổ lốp bốp trên đầu. Chưa bao giờ Ông cậu vui như thế này, kể từ năm lên bảy.
Sáng sớm chủ nhật, Charlie thức dậy, thấy Ông cậu đang đứng ở cuối gi.ường.


“Tin nóng hổi đây, Charlie,” Ông cậu Paton nói. “Ta chẳng chợp mắt được chút nào. Emma Tolly đang ở nhà cô của nó, và sắp tới tụi ta sẽ phải đảm bảo là con bé được ở đó.”
Charlie bật ngồi dậy.
“Đầu đuôi ra sao ạ?” Nó nôn nóng.
Ông cậu Paton kể cho nó nghe việc gia đình Moon đã đưa Emma vô Học viện giữa đêm khuya ra sao. Và Manfred đã khóa cửa nhốt con bé như thế nào.
“Nhưng nó thoát ra được,” Charlie tiếp.
“Ờ,” Ông cậu Paton thủng thỉnh nói. “Và hiện thời con bé sẽ không nói nó thoát ra bằng cách nào. Nhưng, Charlie à, có người đã đánh hơi được về cuộc thử nghiệm của mày, có đứa đã phản bội mày, và ta nghĩ mày nên kiếm xem đứa đó là ai.”
Charlie có một cảm giác khủng khiếp là nó biết người này. Đó không thể là Benjamin, Fidelio, hay thậm chí là Olivia được. Nó tin tưởng cả ba đứa đó bằng cả mạng sống của nó. Chỉ còn lại Billy Raven mà thôi.
“Đó là Billy Raven,” nó nói. “Con thấy tội nghiệp nó quá, Ông cậu Paton à. Nó chẳng có gia đình gì cả, theo con thì nó đang sợ hãi một điều gì đó. Ông cậu có thấy chiếc xe hơi đến đây đón nó không? Kính xe màu khói, và có người trong xe thò gậy đánh con.”
“Cái lão già,” Ông cậu Paton lầm bầm.
“Lão già nào ạ? Ý Ông cậu đó là ông cố của Manfred?”
“Ta có vài thứ muốn cho mày xem, Charlie à. Sau bữa sáng tới gặp ta nhé.”
Charlie thay đồ và chạy xuống ăn sáng. Nó ngạc nhiên khi thấy nội Bone ở trong bếp, và ngạc nhiên hơn nữa khi bà lại còn mỉm cười lúc nó cắm cúi ăn xúc xích và trứng chiên. Charlie e dè. Nó cứ nghĩ nó sẽ phải nhận một bài giáo huấn về vụ phạm luật chứ; nhưng hình như bà nội nó chuyện biết chuyện Emma Tolly đã trốn thoát.
Ngay khi bữa ăn chấm dứt, Charlie vù lên lầu và gõ cửa phòng Ông cậu.
“Vô đi, Charlie,” giọng Ông cậu Paton không có vẻ mệt mỏi và giận dữ nữa.
Charlie gần như không mở được cửa. Sách nằm la liệt dưới sàn nhà. Nó phải nhón chân lách vô giữa những khoảng trống, trong khi Ông cậu Paton chỉ đường cho nó.
“Không phải ở đó. Ừ, đúng rồi… Chú ý chỗ đó, Charlie! Ta không muốn mất chỗ ta đang ngồi đâu.”
“Có chuyện gì vậy, Ông cậu Paton?” Charlie hỏi, ngồi xuống một khoảng trống nhỏ, ngay giữa một đống báo chất ngang gi.ường của Ông cậu.
“Có lần mày hỏi ta về Vua Đỏ, phải không Charlie? Và ta vừa khám phá ra… những khám phá quan trọng. Cô Ingledew đã giúp ta kiếm ra vài cuốn sách trong số này.”
Ông cậu chỉ những cuốn sách khổng lồ, trông như đồ cổ ở bên cạnh bàn.
“Chúng là vô giá, là kho báu thực sự. Tuy ta chưa dịch hết, nhưng cũng đã công bố một phần đáng kể rồi. Ta có ghi chú lại đây. Nghe này.”
“Sách viết bằng tiếng nước khác ạ?” Charlie hỏi.
“Nhiều thứ tiếng lắm. Giờ nghe nhé. Vua Đỏ đã đến vùng đảo này, tức đảo Anh Quốc, vào khoảng thế kỷ thứ 13. Người ta nói ông đến từ châu Phi, nhưng từ vùng nào của châu Phi thì ta không chắc. Ông được gọi là “Vua Đỏ”, vì ông mặc chiếc áo chùng đỏ tươi và có một mặt trời đỏ rực trên tấm khiên của ông. Một trong những người đồng hành với ông là một hiệp sĩ đến từ Toledo, thành phố của những thanh gươm báu. Vua Đỏ lấy con gái của hiệp sĩ, nhưng đáng buồn là bà đã qua đời khi đứa con thứ mười của họ chào đời.”
“Vua Đỏ rời lâu đài của mình và đi chu du khắp vùng, để thương khóc vợ. Có nhiều truyền thuyết về những việc làm kỳ lạ của ông trong khoảng thời gian này: những cơn bão do ông gây ra, tài chữa bệnh của ông, tài tiên đoán chính xác những sự kiện tương lại. Ở đây ghi…”
Ông cậu Paton ôm cuốn sách trải lên đùi và đọc,
“… thế này: ‘Vua Đỏ, bằng con mắt đen của mình, có thể tước quyền năng của bất kỳ kẻ thù nào’ . Nói cách khác, ông có thể thôi miên.”
Ông cậu Paton đặt cuốn sách xuống.
“Ta có thể trích dẫn hằng trăm sự kiện về những vụ việc bí ẩn, nhưng tóm lại thì, Vua Đỏ là một phù thủy.”
“Và tất cả những người có phép thuật như chúng ta là do ít nhiều được thừa hưởng từ ông?” Charlie hỏi.
“Đúng. Nhưng chuyện đến đó chưa hết.”
Ông cậu Paton chồm người ra trước, một tay chống cằm và ngó Charlie đăm đăm.
“Vị vua này đã vắng mặt khỏi lâu đài suốt 15 năm. Ông không đoái hoài đến những đứa con. Chúng đã thừa hưởng một số, chứ không phải toàn bộ, những phép thuật của ông, theo nhiều cách khác nhau. Khi Vua Đỏ trở về, ông nhận ra các con mình đang gây chiến.”
“Gây chiến?”
“Gây chiến với những láng giềng. Bọn chúng dùng phép thuật của mình để lừa gạt, lấy cắp, cướp bóc, và giết chóc. Dân chúng gần xa vô cùng khiếp sợ bọn chúng.”
“Tất cả những người con của ông đều xấu hết à?” Charlie thắc mắc.
“Không! Chỉ năm kẻ trong số họ có dã tâm giành quyền lực. Những người còn lại rời khỏi lâu đài – họ biến mất vô các vùng quê. Thậm chí có người còn dong thuyền buồm tới những miền đất lạ, hy vọng thoat khỏi những người anh em khủng khiếp của mình. Chính họ cũng ngần ngại sử dụng phép thuật mà họ đã được ban cho. Nhưng họ không thể chạy trốn khỏi chuyện đó, Charlie à, bởi vì một số con cái của họ bỗng trở nên hung ác; mà ở đời, thường thì con cái của những kẻ ác lại trở thành người tốt. Chính vì như thế mà các gia đình cứ mãi mãi bị buộc chặt vô nhau, không bao giờ rũ bỏ được quá khứ của mình; và điều đó vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay. Ngay khi một gia đình nghĩ là mình đã rửa sạch mọi tội lỗi, thì bất thình lình, họ lại sinh ra một kẻ xấu xa, dùng phép thuật để cướp phá.”
Ông cậu Paton lắc đầu.
“Biết bao cảnh huynh đệ tương tàn, biết bao sự việc đau đầu, và biết bao cảnh khốn cùng.”
“Con thấy mừng vì mình là con một,” Charlie nói.
Ông cậu Paton cười khà khà.
“Nếu chúng ta liên kết lại, thì cuối cùng chúng ta sẽ chiến thắng, Charlie!”
Rồi Ông cậu nhướn người, ngồi lại vô bàn làm việc của mình.
“Chu cha!” Charlie đứng dậy và bắt đầu cuộc hành nhiêu khê băng qua sàng nhà. Ra đến cửa, nó quay lại và nói:
“Chuyện gì đã xảy ra với Vua Đỏ vậy, Ông cậu Paton? Bộ ông ấy không dàn xếp nổi mọi việc sao, vì xem ra ông ấy có tất cả mọi quyền năng mà?”
“Ông ấy đã quá trù trừ,” Ông cậu Paton nghiệm nghị nói. “Đáng lý ra ông ấy phải giết những đứa con ác ôn đi, nhưng ông ấy lại không làm được. Cùng với ba con báo, Vua Đỏ rời khỏi lâu đài và không bao giờ người ta thấy ông ấy nữa. Mặc dù có nhiều truyền thuyết cho thấy ông ấy đang lảng vảng vô hình ở các vùng quê khác nhau.”
“Ông cậu chưa bao giờ nói gì về những con báo cả,” Charlie nói.
“Chưa à? Ồ. Ta quên mất.”
Ông cậu Paton nở một nụ cười bí hiểm với Charlie,
“Chiều nay ta sẽ đến tiệm Ingledew để giúp Julia lo liệu việc giữ bé Emma lại.”
“Ông cậu có nghĩ là được không? Emma có thể ở lại đó mãi mãi không?’
“Chúng ta sẽ làm cho phải được. gia đình Bloor không muốn cả thế giới họ đã và đang làm những điều đồi bại gì. Họ sẽ từ bỏ Emma. Còn với gia đình Moon, họ chẳng có vẻ gì là vui thích vai trò làm cha mẹ cả.”
Ông cậu Paton trông rất tự tin. Đúng ra, trông Ông cậu như một người hoàn toàn mới.
Charlie để Ông cậu ở lại với những cuốn sách và băng qua đường tới nhà Benjamin. Thật ngạc nhiên, không có ai ở nhà số 2, cả con Hạt Đậu cũng không. Dần dần Charlie nhận ra rằng gia đình Brown đã ra ngoài cả một ngày. Tất cả mọi người. Trước đây điều này chưa hề xảy ra. Benjamin luôn luôn ở nhà, bất cứ khi nào Charlie muốn gặp nó.
Charlie đi thơ thẩn ra công viên, không chừng Benjamin dẫn chó đi dạo lần đầu tiên kể từ khi bị tấn công cũng nên, nhưng chẳng thấy bóng dáng người và chó đâu cả.
Khi về nhà, nó thấy ngoại Maisie đang ngồi trên chiếc ghế bập bênh kế bên lò sưởi.
“Ngoại cảm thấy không khỏe, Charlie à,” ngoại Maisie nói. “Trưa nay ngoại sẽ không ăn trưa, mà chỉ ngả lưng một chút thôi.”
Chưa bao giờ nghe ngoại nói như vậy. Ngoại Maisie không bao giờ bệnh cả. Charlie nhìn bà ngoại khó nhọc lê bước khỏi bếp. Chuyện gì xảy ra với bà vậy?
Ăn trưa xong, Charlie và mẹ trò chuyện rất lâu về Emma Tolly.
“Nghe như chuyện thần tiên vậy,” cô Amy thở phàn. “Mẹ hy vọng câu chuyện sẽ có một kết thúc có hậu.”
“Emma không phải là con nhà Moon,” Charlie gay gắt. “Emma ghét họ. Nó là cháu cô Ingledew mà.”
“Nhưng họ có thể chứng minh được điều đó không?” Cô Amy lắc đầu. “Ai mà tin chuyện thôi miên, với lại… hiệp sĩ sáng chói, chuông reo… và lời nhắn của tiến sĩ Tolly cơ chứ.”
“Không cần. Ông cậu Paton bảo gia đình Bloor không muốn người khác biết họ đã làm những gì, vì thế họ sẽ bỏ cuộc, không tranh đấu gì hết.”
“Mẹ không tin đâu,” cô Amy nói. “Sẽ có người phải trả giá vì những việc đã xảy ra. Cẩn thận đấy. Charlie”
“Mẹ đừng lo cho con, mẹ ạ.”
Sau bữa trưa, mẹ Charlie phải đi làm ở tiệm rau quả, để đóng gói hàng như cô đã hứa hẹn với tiệm.
“Mẹ đi không lâu đâu, Charlie,” mẹ nó dịu dàng. “Nếu con cần gì thì đã có ngoại Maisie ở trên lầu.”
Căn nhà thật tĩnh lặng. Ông cậu Paton đã ra ngoài. Ngó vô phòng ngoại Maisie, Charlie thấy ngoại đang ngủ mê mệt. Nó nhẹ lướt ngang qua phòng nội Bone. Tất nhiên nó cũng không muốn làm bà thức dậy. Nó chạy qua nhà số 12 và thấy gia đình Brown vẫn chưa về. Bầu không khí yên ắng và lạnh buốt, và khi Charlie băng qua đường trở về thì những bông tuyết li ti rớt xuống đậu trên đầu nó.
Và rồi nó trông thấy họ: ba bóng người đi rầm rộ trên phố. Các bà cô nhà Yewbeam vai chen vai, nghênh ngang không chịu chừa lối đi, và để tránh họ, người ta phải lách xuống lòng đường. Charlie định chạy ù vô công viên trước khi họ trông thấy nó, nhưng quá trễ, họ đã tăng tốc rồi.
Họ gặp nhau bên ngoài cửa nhà số 9.
“Charlie, tiện quá đi mất,” bà cô Lucretia xởi lởi. “Chúng ta muốn chuyện phiếm đôi chút.”
“Chuyện riêng,” bà cô Eustacia thêm vô.
“Ồ,” Charlie ái ngại. Khi leo lên các bậc thang, nó nghe tiếng mấy bà cô thì thào sau lưng nó.
Ba bà bước vô hành lang và vắt những chiếc áo khoác ẩm lên cánh tay Charlie.
“Tuyết gớm ghiếc,” bà cô Venetia nhận xét khi búng búng những móng tay dài lên tóc Charlie.
“Vô đây,” nội Bone gọi với ra từ phòng sau. “Lẹ lên, Charlie. Bọn ta không có cả ngày đâu.”
“Con biết,” Charlie nói giọng móc máy, “vì bà Lucretia là một giám thị và bà Eustacia là một bảo mẫu mà.”
Hai bà cô thảy cho nó những cái nhìn kinh tởm, nhưng không nói gì. Một ý chợt nảy ra trong đầu Charlie, rằng nó có thể dễ dàng chạy ào lên lầu, và khóa cửa phòng lại, nhưng nó quyết định nên nhận lấy cái “chuyện phiếm” phiền phức này thì hơn. Thế là, nó làm đúng bổn phận, treo những chiếc áo khoác lông chuột chũi lên, và ngồi vô bàn, đối diện với bà cô nhà Yewbeam.
“Ừm, Charlie này,” bà cô Lucretia mở lời. “Gần đây mày bận rộn lắm phải không?”
“Chõ mũi vô những chỗ mày không nên chõ vô,” bà cô Eustacia thêm.
“Ta hy vọng mày sẽ không biến trò đó thành một thói quen,” nội Bone tiếp.
“Em chắc nó sẽ không thể đâu chị,” bà cô Venetia thỏ thẻ với một nụ cười trông hết sức bệnh.
Bà ta khoanh tay lại, tì lên bàn, và thò cần cổ dài về phía Charlie.
“Con chỉ định giúp một người bạn thôi, phải không, Charlie? Chúng ta biết tất cả về Emma Tolly. Và chúng ta biết có thể tìm Mười Hai Tiếng Chuông Của Tolly ở đâu. Cái thùng đó là của giáo sư Bloor, con biết đó.”
“Không phải,” Charlie phản đối. “Nó là của cô Ingledew và các bà sẽ không lấy được nó đâu.”
“Ối trời ơi!” Bà cô Venetia thình lình giơ tay, giả bộ như khiếp sợ. “Một thằng bé dữ tợn. Mười Hai Tiếng Chuông Của Tolly muốn ở đâu thì ở. Chúng ta không quan tâm đến nó nữa, đúng không các bà?”
“Chẳng quan tâm tí nào,” họ đồng thanh.
Charlie không tin họ. Mười Hai Tiếng Chuông Của Tolly có vai trò đánh thức Emma, và gần như không có lý gì để họ giữ cái thùng lại. Nhưng trong thâm tâm, Charlie biết có một lý do. Còn một người nữa cần được đánh thức.
Dột nhiên nó buột miệng:
“Ba con chưa chết, các bà biết mà.”
Mặt nội Bone trắng bệch.
“Mày nói gì vậy?” Bà thét lên. “Tất nhiên ba mày chết rồi.”
“Không phải. Ba con chưa chết. Một ngày nào đó con sẽ tìm thấy ba.”
“Đấy là những gì Ông cậu mày mớm cho mày đó phải không?” Bà cô Lucretia gặng hỏi. “Paton bị điên, mày biết đấy, điên thật sự. Gã chẳng biết mình đang nói gì hết. Mày cấm không được liên hệ với gã nữa.”
“Hứa đi,” bà cô Eustacia gằn giọng.
“Không,” Charlie cương quyết.
Nội Bone giộng nắm tay xuống bàn. Theo sau đó là những giây im lặng chết người. Charlie nghĩ đây là lúc nó nên đi. Nó đẩy ghế ra sau và đứng dậy.
“Chờ đó!” Bà cô Venetia hét lên. “Ta có một món quà cho con, Charlie.”
Bà ta cúi xuống và lôi một thứ gì đó khỏi cái túi to bên hông.
“Đây!”
Một gói giấy màu nâu trượt trên mặt bàn bóng láng. Charlie thao láo nhìn cái gói.
“Cái gì vậy?” Nó hỏi.
“Mở ra đi!” Bà cô Venetia nháy mắt với nó.
Charlie nuốt nước miếng. Chắc là thứ gì đó gớm ghiếc đây. Nó kéo dây và gói giấy bung ra, để lộ một chiếc áo chùng xanh da trời được gấp lại.
“Một chiếc áo chùng,” Charlie nói. “Nhưng con đã có một cái rồi.”
“Nó rách thê thảm,” nội Bone nói. “Giáo sư Bloor nói mày phải có một cái mới, và bà cô Venetia đã tử tế may cho mày đấy.”
“Cô ấy khéo tay lắm,” bà cô Lucretia khen.


Bà cô Venetia cười khoái chí đến nỗi Charlie thấy cả miếng son môi dính trên răng bà.
“Con cám ơn,” nó ngập ngừng.
“Không có chi,” bà cô Venetia ra hiệu cho nó đi. “Bây giờ con đi được rồi đó, Charlie.”
Charlie đi khỏi, tay nắm chặt chiếc áo chùng mới. Nó chạy lên lầu và thấy chiếc áo chùng màu xanh cũ nát của nó đã biến khỏi tủ âm tường. Nó dòm kỹ món quà của bà cô Venetia, nhưng tĩnh không thấy có gì bất ổn hay khác thường cả.


Charlie nói với mẹ về chiếc áo chùng khi mẹ giúp nó thu xếp đồ đạc.
“Bà cô Venetia thật tử tế,” mẹ nó thận trọng nói, “nhưng như thế chẳng giống bà ấy chút nào. Mẹ chưa từng thấy bà ấy tặng quà cho ai bao giờ, kể cả dịp Giáng sinh.”
“Có lẽ họ không muốn xấu hổ vì con,” Charlie nói, “vì bà Lucretia là bảo mẫu trong Học viện mà.”
“Chắc là vậy,” mẹ nó gật gù. “Yewbeam là một dòng họ kiêu hãnh.”
Nhưng Charlie vẫn không thể không thắc mắc.
 
Khi Charlie đến Học viện sáng hôm sau, nó để ý thấy có tiếng huyên nào, đầy hào hứng trong tiền sảnh. Bọn trẻ thật khó mà giữ được im lặng, chúng cứ huých khuỷu tay nhau, và chỉ trỏ cái bàn dài được kê dựa vô một trong những bức tường ốp gỗ. Trên bàn chất đầy những chiếc đèn lồng nhỏ bằng thủy tinh.
“Tối nay có trò hủy diệt trong khu bỏ hoang đó,” Fidelio loan báo với Charlie. Chúng đã vô phòng để áo khoác chật ních lũ trẻ đang đấu láo.
“Có chuyện gì vậy?” Charlie hỏi, nghĩ đến cô nữ sinh không bao giờ trở ra. “Em không biết cách chơi.”
“Đây không hẳn là trò chơi,” Fidelio nói. “Mà giống một cuộc đi săn hơn. Có một chiếc huy chương được giấu ở trung tâm của khu vườn hoang. Người thắng cuộc phải tìm ra chiếc huy chương đó, và phải ra khỏi khu lâu đài hoang trước khi hết một tiếng đồng hồ. Mỗi khoa sẽ tuần tự tìm kiếm. Tối nay là khoa kịch, ngày mai là khoa hội họa và thứ tư là đến tụi mình. Không dễ đâu. Năm ngoái chẳng ai tìm được huy chương, còn năm kia thì có người tìm thấy, nhưng phải mất ba giờ đồng hồ mới ra được, thế nên không tính.”
“Có đáng phải làm vậy không?” Charlie cau mày. “Chỉ là cái huy chương thôi mà.”
“Người thắng cuộc sẽ không bị cấm túc trong một năm – trừ phi họ làm điều gì đó hết sức tệ hại. Họ còn được tặng ngày nghỉ, và được phát miễn phí các học cụ như nhạc cụ mới, hộp màu vẽ, hay quần áo hóa trang. Ngoài ra việc đó sẽ khiến người ta cảm thấy hãnh diện.”
“Ồ,” Charlie có cảm giác chơi vơi. Nó tự nhủ mỉnh thật ngớ ngẩn. Sẽ có một trăm đứa trẻ trong khu đổ nát. Làm sao mà lạc được nào? Tuy nhiên, đã có người biến mất trong đó. Và ai đó có thể biến thành một con thú man rợ và đi vô đó để tìm mồi.
“Đừng có u ám như thế chứ, Charlie,” Fidelio trấn an. “Tối nay tụi mình sẽ theo dõi từ phòng triễn lãm của khoa hội họa. Phòng đó nhìn ra vườn. Em sẽ thích cho coi, anh bảo đảm với em đó.”
Sau bữa ăn nhẹ vào buổi tối, lũ trẻ của khoa kịch xếp hàng vô trong sảnh và đi lấy đèn lồng. Phòng triễn lãm nhìn ra vườn dần dần đầy ắp các khán giả, theo dõi từng đứa, từng đứa một, bọn trẻ áo chúng tím túa ra vườn. Charlie hải lòng khi thấy Olivia đã quyết định mang đôi giày hữu dụng – loại giày có thể chạy nếu ai đó rượt theo.
Một hàng đèn lồng lập lòe trườn qua bãi cỏ như một con rắn dài lấp lánh. Và rời, từ từ, cái đầu rắn bắt đầu biến mất khi lũ trẻ bị các bức tường tối đen của khu đổ nát nuốt chửng.
“Bây giờ thì sao?” Charlie nín thở hỏi.
“Tụi mình đợi thôi,” Fidelio đáp.
Chúng không phải đợi lâu. Từng đám con nít bằt đầu cuống cuống chạy ra khỏi khu vườn hoang, gần như ngay khi mới bước chân vô. Tụi nó sợ bóng tối hoặc sợ bị lạc đường. Đứa nào chạy ra tới tiền sảnh là tên bị gạch khỏi danh sách ngay. Những chiếc đèn lồng được run run hoàn trả lại, và đám trẻ ngây ngô ấy mau chóng về phòng ngủ.
Olivia là một trong những đứa trở ra sau cùng. Fidelio và Charlie đang chờ trên cầu thang dẫn lên phòng ngủ chung của con bé.
“Tớ không thích khung cảnh ở ngoài đó tối nay.” Olivia tía lia liền. “Không biết có cái gì đằng sai mấy bức tường cứ khiến tớ nổi da gà. Tớ cứ nhìn vô cái bóng đen đó – nó cứ thoắt ẩn rồi thoắt hiện.”
“Loại bòng đen gì vậy?” Fidelio hòi.
“Một con thú,” Olivia nói. “Có lẽ là một con chó… em cũng không biết nữa. Em không đến được trung tâm, không ai đến được đó.”
“Mình mừng là bồ đã ra được,” Charlie nói, liếc nhìn đôi giày hữu dụng của Olivia.
“Tớ bám sát Blindi,” Olivia kể tiếp. “Đi kế nó tớ cảm thấy an toàn, vì nó có phép thuật. Manfred đã nhìn tớ một cái thật ghê sợ lúc hắn giao đèn lồng cho mọi người. Tớ nghĩ là hắn đã biết chuyện rồi.”
“Hắn không biết bồ đâu, Olivia.” Charlie nói.
Tối hôm sau, đến lượt khoa hội họa chơi trò hủy diệt. Fidelio và Charlie có thêm Olivia cùng đi vô phòng triễn lãm. Charlie cảm thấy an tâm khi biết Emma Tolly sẽ không có ở trong đám săn lùng huy chương. Nó tự hỏi không biết Emma có được ở cùng với cô Ingledew hay không. Nếu Ông cậu nó mà ra tay trong việc này, thì may ra. Ông cậu Paton là người rất uy lực, theo cách riêng của Ông cậu.
Không có gì kịch tính trong lượt chơi thứ hai này. Không ai tìm thấy huy chương. Và tất cả mọi người đều trở ra an toàn.
Và rồi đến tối thứ tư. Khi lũ trẻ mặc áo chùng xanh da trời xếp hàng lấy đèn lồng, một cơn gió buốt lạnh thổi qua tiền sảnh. Bên ngoài sẽ có gió rối rít đây, và Charlie sung sướng vì chiếc áo chùng ấm áp của nó. Lần này đích thân giáo sư Bloor đứng bên bàn phát đèn lồng. Ông ta gật đầu trang nghiêm với Charlie khi tay hai người chạm vô nhau, và nó đột ngột hiểu ra rằng, không phải giáo sư Bloor là người nó sợ, mà thực ra, chính người đàn ông to lớn kia có vẻ lại sợ nó.
Cửa dẫn ra vườn để mở. Những đứa trẻ đầu tiên bước ra ngoài, lao vô bóng đêm. Không có trăng, cũng chẳng có lấy một vì sao, chúng ngước nhìn lên bầu trời đen kìn kịt. Tuy nhiên, dưới mặt đấy lại có một đốm sáng nhờn nhôt, nhày nhót. Và khi giơ đèn lồng lên, Charlie thấy tuyết rơi xuống đã đóng thành một lớp mỏng. Tuyết kêu lạo xạo dưới chân chúng như thủy tinh vỡ.
“Anh ở ngay sau lưng em đây, Charlie,” Fidelio thì thào, “Cứ đi đi.”
Charlie quay lại, thấy gương mặt rạng rỡ của Fidelio nổi bật trong ánh sáng của đèn lồng.
“Chúc may mắn!” Charlie nói khẽ. “Hy vọng anh sẽ tìm thấy huy chương.”
“Im lặng,” một giọng đanh sắt vang lên. “Nói chuyện hoặc thì thầm sẽ bị phạt.”
Chúng đã đến cổng khu lâu đài đổ nát. Manfred đứng ở một bên, đánh dấu trên trên cuộn giấy dài khi lũ trẻ đi ngang qua hắn. Trên đầu hắn đung đưa một chiếc đèn lồng to, và Charlie thấy Zelda Dobinski đang đứng sau Manfred, giữ cái cây đỡ đèn lồng. Con bé lạnh lùng lườm Charlie khi nó bước vô cổng vòm đá.
Nó nhận ra mình đang ở trong một khoảnh sân lát gạch, xung quanh có những bờ rào cao, dày đặc. Trước mặt nó là năm cửa vòm, phân cách nhau bởi bốn băng ghế đá. Fidelio thúc vô khuỷu tay Charlie và hất đầu về ô cửa vòm ở giữa. Chúng tiến lên. Thoạt đầu, có vẻ như chúng là cặp duy nhất chọn ô cửa vòm chính giữa nhưng từ từ, chúng bắt đầu nhận ra các nhóm nhỏ khác cũng đang vội băng qua mặt chúng, hoặc nhốn nháo đi sát ngay bên cạnh. Thậm chí một vài đứa còn chạy ngược lại.
“Anh có nghĩ là tụi mình đang đi đúng đường không?” Charlie hỏi khẽ.
“Ai mà biết!” Fidelio đáp.
Chúng rẽ vô một góc ngoặt, và men theo một lối đi hẹp đến nỗi các bức tường cọ vô cùi chỏ khi chúng đi qua.
Có lúc chúng đến được một khoảng trống, nơi có vòi phun nước bắn nước tung tóe vô một cái hồ lạnh giá. Charlie thích nhất ở đó là một con cá đá khổng lồ, và Fidelio phải kéo áo chùng để lôi nó đi.
Có lúc, chúng lại húc phải một bức tượng mục, hay một cái bình mốc. Và khi thời gian dần dần trôi, một sự thinh lặng bí hiểm dần bao trùm bọn trẻ. Chúng không còn nghe thấy tiếng lộp cộp của những bước chân vội vã, hay tiếng xì xào của những đứa khác nữa.
“Làm sao tụi mình biết được là đã đến khu trung tâm?” Charlie thì thầm.
“Có một ngôi mộ ở đó,” Fidelio đáp. “Đó là tất cả những gì anh biết.”
“Mộ? Nhưng mộ của ai?”
“Charlie!” Fidelio bỗng kêu to. “Đứng im. CÓ gì đó không ổn với áo chùng của em kìa.”
“Cái gì?”
Charlie quay vòng và ngó trợn trạo chiếc áo chùng của mình. Cái áo đang phát sáng. Những sợi chỉ nhỏ xíu sáng chói chạy khắp mặt vải, khiến cho chiếc ao giống như một đám mây lấp lánh kỳ dị.
“Bà cô của em may nó đó,” Charlie hơi hoảng. “Nhưng sao bà ta lại làm thế này?”
“Có lẽ làm vậy để ai đó có thể đi theo em trong bóng tối đêm,” Fidelio suy đoán, “hoặc săn đuổi em.”
Charlie cởi phăng chiếc áo chùng ra và vứt toẹt xuống đất.
“Được, họ sẽ không bắt được em đâu,” nó tuyên bố. “Em có thể chết cóng chứ nhất định không để tóm.”
“Em có thể dùng chung áo với anh nếu trời quá lạnh,” Fidelio nói.
Lối đi kế tiếp chúng chọn rất giống một đường hầm. Chúng gần như phải gặp đôi người lại, hầu tránh đụng đầu vô xà nhà thấp. Charlie bắt đầu cảm thấy khó thở trong cái không gian tù túng như thế này. Nó chạy lẹ về trước và nhô mình ra một khoảng trống hình tròn. Có ba bức tượng đứng ở giữa, nhưng khó mà đoán ra là tượng gì. Nó nhận ra nến trong đèn của mình đã cháy gần hết.
Cứ nghĩ là bạn mình đã ra khỏi đường hầm ở sau lưng, nó gọi:
“Hây, Fidelio, nhìn nè.”
Không có tiếng trả lời. Charlie săm soi nhìn vô đường hầm. Không có ánh sáng, không có Fidelio.
“Này, lẹ lên. Đừng có loanh quanh nữa.”
Charlie lao trở vô đường hầm. Với bàn tay rảnh rang, nó dò dẫm các bức tường và khoảng không gian đen ngòm trước mặt. Hay là bạn nó đã bị ngã hay bị trượt vô một lối đi khác?
“Fidelio! Fidelio!” Charlie gọi to, không thèm để ý rằng mình có thể bị phạt.
Tiếng gọi của nó chìm vô im lặng. Và rồi ngọn nến tắt phụt.
Charlie chợt nhận ra là nó đã biết, ngay từ đầu, rằng điều này sẽ xảy ra. Nó đã phạm luật, giống như ba nó ngày trước. Nó đã cứu Emma Tolly, và bây giờ nó sẽ bị trừng phạt. Nhưng nó sẽ không đầu hàng. Nó phải đấu tranh. Ném cái đèn lồng vô dụng xuống đất, Charlie bắt đầu sờ soạng tìm đường băng qua đường hầm. Ở một khúc nào đó, chắc hẳn là đường hầm sẽ tỏa ra một lối đi khác, rộng rãi, vì nó đã lại ngửi thấy mùi không khí trong lành, dẫu không chính xác là trong lành, mà đúng hơn, đó tựa như một hỗn hợp của lá mục và đá ẩm.
Quẹo gắt ở một góc, Charlie bắt gặp ánh sáng và, gần như không tin rằng mình có thể gặp may đến thế, nó chạy về hướng đó. Đèn lồng thắp trên một ngôi mộ bằng đá, sừng sửng. Ai đó thình lình xuất hiện từ phía sau, và Charlie thấy cái đầu trắng của Billy Raven. Đôi gọng kính tròn của thằng bé sáng lên như hai vầng trăn nhỏ.
“Em đã tìm ra huy chương,” Billy la lên.
Nó giơ ra một chiếc dĩa bằng vàng, lấp lánh đính vô một sợi dây chuyền.
“Giỏi lắm,” Charlie nói. “Anh bị mất đèn lồng, Billy à. Cho anh đi cùng em với nha?”
“Đèn của em,” Billy nói. Rồi chộp lấy đèn lồng và lủi đi thật lẹ.
“Được rồi. Anh không lấy đèn đâu, Billy.”
Charlie nhìn ánh đèn vụt đi, sau đó biến mất. Nó chịu, không biết Billy đi đường nào. Chẳng thể đoán được. Thậm chí không có lấy một âm thanh để dẫn dắt cho nó.
Đột nhiên, nổi lên một tiếng động, tiếng những bước lập rập, nhẹ ru… của bốn chân. Rồi thêm hơi thở của một con vật đang thở khọc khọc. Charlie phóng vù về phía trước. Chúi nhủi và lảo đảo, nó chạy trốn khỏi tiếng bước chân nhẹ lướt và cái mùi tanh tanh của con thú dữ.
Fidelio đã bỏ cuộc tìm Charlie. Nó nghĩ bạn mình có lẽ đã tìm được đường ra khỏi khu bỏ hoang rồi. Có điều gì đó rất kỳ lạ đã xảy ra trong đường hầm chật hẹp. Fidelio bị đẩy xuyên qua một khe nứt, vô một lối đi khác, nhưng nó không thể thấy được ai đã đẩy nó. Nó hỏi nhiều đứa khác xem có thấy Charlie hay không. Chẳng ai thấy cả.
“Billy Raven đã tìm được huy chương,” ai đó nói.
Hừm , Fidelio nghĩ. Mình tự hỏi làm cách nào mà thằng ấy tìm được chứ?
Có vẻ như Fidelio là người cuối cùng rời khỏi khu đổ nát.
“Charlie Bone đã ra chưa?” Nó hỏi Manfred khi hắn đang đánh dấu tên trên cuộn giấy.
“Ra lâu rồi,” Manfred đáp gọn lỏn.
“Anh có chắc không?”
“Tất nhiên là tao chắc,” Manfred cọc cằn.
Fidelio chạy vô tòa nhà. Nó hỏi mọi người xem có ai gặp Charlie Bone không. Tất cả những ai biết mặt Charlie đều thề là không thấy Charlie đâu cả.
“Chuyện gì vậy?” Olivia hỏi khi thấy vẻ mặt nhớn nhác của Fidelio.
“Charlie vẫn có ở trong khu vườn hoang,” nó nói với cô bé.
“Ôi không! Nhưng đã lâu lắm rồi mà. Họ nói tất cả mọi người đều đã ra hết rồi.”
“Không đúng,” Fidelio tức giận. Nó chạy lên phòng ngủ chung.
Billy Raven đang ngồi trên gi.ường. Năm sáu thằng bé khác đứng vây quanh, trầm trồ ngắm tấm huy chương treo trên sợi dây chuyền đeo quanh cổ nó.
“Có ai thấy Charlie Bone không?” Fidelio hỏi cả bọn.
“Không thấy,” tất cả bọn chúng đáp.
Billy Raven chỉ lắc đầu.
“Chúc mừng nhé,” Fidelio nói. “Anh biết là em đã thắng.” Nó nằm mẹp xuống gi.ường. Không biết phải làm gì.
Nửa giờ sau, một tiếng nói cất lên:
“Năm phút nữa tắt đèn.”
Fidelio chạy bổ ra hành lang.
“Bà giám thị ơi, Charlie Bone chưa vô phòng,” nó la lên.
Người phụ nữ cao lớn trong bộ đồng phục xanh được hồ cứng thậm chí không quay người lại.
“Úi trời,” bà ta nói, rồi bước tiếp.
Fidelio tự vò đầu bứt tai.
“Bà không quan tâm gì hay sao?” Nó gào lên.
Bà ta phớt lờ nó.
“Mày về trễ,” bà ta nói với Gabriel Silk khi anh chàng này chạy vắt giò lên cổ trên hành lang.
“Xin lỗi, Giám thị,” nó làu bàu.
“Cậu coi,” Gabriel cằn nhằn với Fidelio, “sau khi bắt đi vơ vẩn trong khu đỏ nát dơ dáy đó, họ vẫn bắt tôi phải làm cho xong đống bài tập…”
Nó chợt chú ý đến bộ mặt khổ sở của Fidelio.
“Chuyện gì vậy?”
“Charlie vẫn còn ở trong khu vườn hoang,” Fidelio gần như mếu máo.
“Cái gì?” Gabriel Silk thay đổi thái độ tức thì.
Một tia sáng quả quyết lóe lên trong đôi mắt xám của Gabriel, và trông nó như cao hơn, đứng thẳng người hơn.
“Tụi mình phải coi lại vụ này,” nó nói rành rọt và quay đầu đi ngược lại hành lang.
Fidelio bám theo, hoang mang không biết Gabriel định làm gì. Đến đầu cầu thang, Gabriel ngoái lại bảo.
“Fidelio, trở lại phòng ngủ chung đi. Bây giờ cậu không giúp được gì đâu.”
“Em muốn đi với anh,” Fidelio nài nỉ. “Charlie là bạn của em.”
“Không được,” Gabriel nghiêm giọng. “Đây không phải là chỗ của cậu. Nguy hiểm lắm. Cậu phải để việc này cho tụi tôi.”
Gabriel xem ra đã có được một cái nhìn hết sức thuyết phục.
Fidelio lùi lại. “Anh nói ‘tụi tôi’ nghĩa là sao?” Nó hỏi.
“Những hậu duệ của Vua Đỏ,” Gabriel nói rồi phóng xuống cầu thang.
 
×
Quay lại
Top